BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI
TẬP IV
Hạnh Đoan biên dịch

 

25. VỢ CHỒNG HỌ SỬ

Đây là kinh nghiệm lợị ích mà Sừ cư sĩ trải qua sau khi học Phật. Hi vọng mọi người nhờ đây mà tăng thêm tín tâm học Phật. Chúng ta hãy nghe ông kể:

Đầu mùa đông năm 1998, vợ tôi bất ngờ mang thai ngoài ý muốn. Lúc đó tồi đang bề bộn công việc khảo cứu, còn vợ tôi thỉ công việc vừa mới khai trương, cho nên chúng tôi đã quyết định một điều không nên là: vợ tôi đi bịnh viện nạo thai. Nào ngờ hành vi khinh suất này đã thay đổi nửa đời sau của chúng tôi. Vợ tôi bị chứng bịnh hiểm giày vò nhiều năm, khiến chúng tôi cũng nhờ đây mà thức tỉnh, cùng bước vào con đường học Phật.

Năm 2003 vợ tôi phát hiện bộ phận cận trực tráng của nàng đau không chịu nổi, bác sĩ chẩn đoán là bị “viêm mủ các tuyến quanh hậu môn”, bảo nàng phải nhập viện mổ, nhưng mổ xong vẫn đau như cũ.

Sau đó, được bác sĩ chuyên môn ở “Y viện phụ sản tỉnh” chẩn đoán là chứng bịnh “Dị vị nội mạc tử cung”, tìm đọc các tư liệu liên quan, chúng tôi mới biết bịnh này vô cùng nghiêm trọng.

Bệnh làm viêm thành đường ruột, gây hẹp và tắc nghẽn đường ruột, tạo ra táo bón. Táo bón diễn ra liên tục thường xuyên cũng ảnh hưởng đến chu kì… trong thời kì kinh nguyệt, có thể bị táo bón nặng… Ngoài ra, bịnh nhân thường xuyên xuất hiện nhiều cảm giác khó chịu như muốn đi ngoài, đau khi bài tiết, thậm chí đi ngoài ra máu.

Bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng khác như tắc nghẽn đường ruột hoặc giãn cách. Gây táo bón, trướng bụng, đau bụng, buồn nôn, khó chịu…

Đây là căn bịnh nan y của thế kỷ này, triệu chứng chính là không thể mang thai và rất đau đớn. Bịnh rất khó chữa, vì trị xong vẫn có thể tái phát bất cứ lúc nào, được xếp vào loại “ung bướu bất tử”, chứng này hành bịnh nhân thống khổ bất tận…

Mỗi tháng, vợ tôi đều bị hành đau chí tử, cơn đau cứ đúng hẹn là đến theo chu kỳ, đày đọa nàng suốt 4-5 ngày, gây ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe, công tác và đời sống…

Tôi cũng bị khổ lây theo. Vi mỗi lúc nhìn vợ hầm dài trên giường, mặt trắng bệch, sức lực hầu như cạn kiệt vì cơn đau, thống khổ này trong chớp mắt cũng vây bủa toàn thân tôi. Khiến tim tôi khó thở như bị đá đè, cực kỳ nặng nề khó chịu.

Bác sĩ đề nghị vợ tôi nên trị liệu theo phương cách thụ thai, vì việc mang thai và cho bú có thể giúp bịnh thuyên giảm, nhưng đối với người bị chứng “dị vị nội mạc tử cung” thì chuyện mang thai bỉnh thường bỗng trờ nên quá gian nan. Nỗ lực hơn một năm vẫn không kết quả, chúng tôi đối với việc này hầu như không còn hi vọng gì.

Tháng 3 năm 2005, vợ tôi bị u nang buồng trứng bên trái nên phải nhập viện mỗ, cắt bỏ vùng buồng trứng ung mủ. Đối với chứng bệnh “viêm mủ các tuyến quanh hậu môn”, do quanh đó liên quan nhiều dây thần kinh huyết quản nên nếu mổ thì nguy hiểm rất lớn, vì vậy bác sĩ không dám động đến. Sau khi cắt buồng trứng xong, bác sĩ lại đề nghị trị bằng cách mang thai. Nói rằng thời kỳ hoài thai then chốt là tháng 7-8, nếu qua được hai tháng này thì không lo nữa, có thể giỏ yên sóng lặng”…

Tháng 8 chúng tôl đi Phổ Đà Sơn lễ tượng Quan Thế Âm tại Phổ Tế Tự để cầu con.

Kể ra thật mầu nhiệm, ngay từ lúc rờl Phổ Đà Sơn về nhà hơn một tháng, thì vợ tôi có tin vui, chúng tôi mừng đến rơi nước mắt.

Tiếp đến một năm sau, nhờ mang thai và cho con bú, vợ tôi mới được hưởng tháng ngày bình an cùa cuộc sống không đau đớn, nhưng “cảnh vui thường không kéo dài”. Khi con gái tôi vừa cai bú xong, thl tháng kế đỏ, vợ tôi kinh hoàng khi phát hiện cơn đau bấy lâu nằm im bây giờ đột ngột ập tới… Lúc này chúng tôi hầu như lâm vào đường cùng, bó tay hết cách, khổ đến khóc không còn lệ…

Nhưng cũng ngay trong lúc này vận may thần kỳ đã mỉm cười và mở ra con đường mới cho chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu bước vào con đường “quay về cố hương” dưới sự hướng dẫn của chư Phật, Bồ-tát.

Một đêm thu năm 2005, Bồ-tát Quan Thế Âm thần uy diệu lực một lần nữa lại ban ân cho chúng tồi. Hôm đó, Thiệu Hưng Lô Phong Thiền Tự khai quang tượng Bồ-tát Quan Thế Âm đúng vào một giờ khuya. Tôi vì muốn hoàn nguyện Ngài ban cho đứa con, nên cũng lên núi này tham dự.

Khuya hôm đó, đúng giờ đã định, Phật nhạc bắt đầu tấu vang, tượng Bồ-tát tỏa hồng quang bủa khắp. Tôi nghe mọi người xúc động nói:

– Đến rồi! Đến rồi!…

Lúc này đám đông ngoài điện nhốn nháo, xôn xao ngẩng đầu lên nhìn, tôi cũng ngẩng đầu lên… thấy giữa không trung tuy là ban đêm nhưng có luồng hào quang sáng chói, ánh Phật quang hiện rõ, to dần, mỗi giây nhấp nháy một lần, tuy sáng rực rỡ nhưng không hề gây lóa măt, hào quang trên không phát xuất từ hướng tây nam, di chuyển dần đến trên đỉnh điện thờ Quan Thế Âm…

Sau này, tôi hòi tưởng lại, Phật quang đại khải đã chiếu và nhấp nháy hơn 20 lần, khi đó tôi quá kích động, kinh ngạc, đến nỗi đầu óc hóa thành hư vô, trống rỗng…

Hiện trường khi ấy có sáu bảy trăm người cũng đều xúc động ngẩn ngơ…

Tôi có thề khẳng định là đêm đó trời cực kỳ trong và quang đãng, không một phiến mây đen hay điện chớp, hào quang này không phải là đèn điện hay ảnh sáng do con người tạo ra, bởi vì diện tích và mức độ chói sáng gấp trăm lần ánh điện nhân tạo. Hơn nữa, ánh sáng lại xuất phát từ tít trên không và những người chứng kiến lại nhln thấy đủ các hình ảnh không đồng nhau: người thi thấy hoa sen, kẻ thấy hồng quang… thôi thì đủ kiều…

Từ đêm đó, tôi bắt đầu tin rằng Phật Bồ-tát không phải là truyền thuyết hư vô hoang đường, mà thực sự có tồn tạl, có thể nhìn thấy rõ ràng…

Năm 2006, tôi dằn dần tiếp xúc với Phật pháp, quyển sách đầu tiên gây ảnh hưởng cực lớn cho tòl \à cuốn “Báo ứng hiện đời” cùa cư sĩ Quà Khanh, đã giúp tôi hiểu rõ nhân quả đáng sợ, răng-, báo ứng không sai mảy may.

TÔI biết chứng bịnh khùng khiếp hành vợ tôl \à do nhân quả, nhưng vì mớl nhập Phật mồn, nên tôl chưa hlều được nguyên nhân chính xác và cách glảl quyết việc này ra sao.

Hơn 20 glờ ngày 18 tháng 11 năm 2006, tôl vừa nghe xong thời pháp tại Huyền Trang Tự ờ Nam Kinh, đang ngồi xe vượt 400km đề quay vè nhà.

Lúc đó tôi mởl vừa nghe pháp xong nên nhiệt huyết dâng cao như thủy triều, cứ thầm hỏi:

“Liệu… mình có thể dứt khoát từ bỏ đồ mặn để ăn trường trai hay không?”… Nhưng vừa nghĩ đến đây thỉ tôi bỗng e dè, khi nhớ tới bao thức mặn ngon ỉành suốt mấy mươi năm qua mình từng thường thức: nào ỉà bò, gả, tôm, cá…đủ thứ hấp dẫn, việc phải từ bỏ những món khoái khẩu kia khiến tôi đâm ra lưỡng lự, tự nghĩ: “Mình có nên… ăn mặn thêm mấy năm nữa hay chăng?”…

Đột nhiên di động của tôi reo vang, giọng vợ tôi cuống quýt báo tin: con gál của tồl bị cảm, không thể uống sữa hay ngủ nghê gỉ, nó cứ khóc thét từ sáng tới giờ, tính ra đã mười mấy tiếng rồi, người lớn trong nhà và con bé ai cũng đuối đừ kiệt sức…

Tôi nhận điện thoại xong, lòng nóng như lửa đốt, ước gì mình có cánh để bay liền về nhả. Ngay lúc tôi đang lo lắng rối ren, bỗng tôi sực nghĩ: “Chẳng phải trong Phật môn có câu: hữ LÍ cau tất ứng hay sao?”…

Thế là tôi chắp tay, chí thành khấn nguyện: “Xin chư Phật Bồ-tát gia trì, cho con gái con bú sữa và ngủ được, con nguyện từ nay trở đi sẽ ăn trường trai!”…

Chưa đầy mười phút, vợ tôi đã gọi điện báo tin:

-Anh đừng lo nữa, con đă bú sữa được vả ngủ rồi!

Lập tức tôi bị kích động đến lệ tuôn đầm 3ìa, bởi tôi cảm thấy việc này quả thần kỳ, Phật Bồ-tát quá từ bi! Các ngài biết rõ những ý nghĩ không hay trong đầu tôi nên đã dùng cơ duyên này đề thúc đầy tôi mau chóng bỏ mặn ăn chay, dứt ác theo thiện, bước vào con đường học Phật chân chánh…

Từ hôm đó trở đi, tôi biến thành người theo chù nghĩa ăn chay nghiêm nhặt.

Tháng 4 năm 2007, tôi theo cư sĩ Quả Khanh đến Thiềm Tây, lòng đầy thắc mắc về căn bịnh vợ mình, nên tha thiết hướng ông cầu chỉ giáo, ông hơi định thần một chút, hỏi tôi:

– Có phải bà nhà đã từng phá thai?

Khi tôi xác nhận, ông nói cách quà quyết:

– Đây chính là nguyên nhân!

Và ông ôn tòn căn dặn tôi nên ăn chay, tụng kinh siêu độ cho thai nhi…

Tháng 5, thông qua ông tôi được gặp cư sĩ Quả Hồng, đối với bịnh trạng của vợ tôi, cô khẳng định: “Chắc chắn là do phá thai mà chiêu cảm quả khổ như thế!”…

Cô bào tôi khuyên vợ ăn chay, chân thành sám hối tội lỗi đã tạo và nên tụng “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni Kinh”, đồng thời cô không chút khách khí, thẳng thắn chì ra vô cùng chuẩn xác những lỗi sát, đạo, dâm, vọng… mà tôi đã phạm, khiến nội tâm tôi bị chấn động kịch liệt lẫn hối hận đan xen, xấu hổ vô cùng… Cô đã cho tôi thẩy kiến thức Phật pháp thần kỳ, càng thêm kiên định niềm tin: “nếu hành đúng theo pháp Phật, chủng tôi có thề chữa lành căn bịnh nan y”…

Tháng 5/2007 dưới sự khuyên lơn ôn tồn lẫn đanh thép, ân uy cỏ đủ của tôi, vợ tôi miễn cưỡng thực hiện việc bò mặn ăn chay. Nàng vốn là một tay sành ẩm thực, khoái mỹ vị cao lương… nhưng giờ đây đối diện với căn binh khổ khó kham, nàng đành phải nhượng bộ một bước, nhưng rất không cam tâm tình nguyện, lòng còn bán tín bán nghi…

Quả tình đốl với một kẻ vô thần chưa từng tiếp xúc qua Phật pháp như nàng thì việc bắt nàng tụng kinh còn khó hơn ăn chay rất nhiều, vi vậy, mặc cho tôi yêu cầu đủ cách, nàng nhất quyết không chịu tụng kinh niệm Phật.

Tháng 7, tôi cương quyết từ bỏ công tác sự nghiệp tại Bắc Kinh, quay về bên cạnh vợ tôi. Xem như việc tụng kỉnh… sẽ do tôi đảm nhiệm và hoàn thảnh. Tôi hiểu mình có hai trọng trách:

1. Tôi phải tu theo Phật pháp không hẳn là vì bịnh của vợ, mà vì muốn cứu đứa con đáng thương từng bị phá bỏ.

2. Việc làm này xem như là thể hiện nỗi niềm ăn năn chuộc lỗi, muốn bù đắp cho con, hi vọng sẽ an ủi vong thai và được cháu tha thứ, giúp cháu ly khổ đắc lạc, vãng sinh cõi lành.

Mồng 8 tháng 8 tôi bắt đầu tụng “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni Kinh” và “Kinh Kim Cang”, mỗi ngày một-hai bộ, đương nhiên trước và sau khi tụng kinh, tôi luôn chân thành nói với đứa bé, giải thích rằng việc phá thai ngày ấy khiến chúng tôi rat đau lòng, giờ tôi xin sám hổi tội ngu si tàn độc cùa mình và an ủi, vỗ về tâm tư oán hận tuyệt v<?ng của hài nhi… Có lúc tôl buồn nghẹn ngào 3ên khóc không thành tiếng…

Sự việc kỳ diệu phát sinh, đến cuối tháng, vào những ngày chu kỳ, vợ tôi không còn bị hành đau thống thiết nữa….

Lúc đó chúng tôi cũng cho là có thể nhờ tác dụng cùa châm cứu thuốc men…

Ngày 10 tháng 9 vợ tôi không châm cứu hay dùng thuốc chi nữa, tôi tiếp tục tụng kinh chuyên cần, vợ tôi một lần nữa được bình an vô sự. Nhưng chúng tôi vẫn còn cho rằng: có lẽ nhờ di chứng phẫu thuật một bên buồng trứng (năm 2005), kích thích tố nữ hạ nên thành vậy.

Đến tháng 11, khi vợ tôi tới bịnh viện kiểm tra kích thích tố nữ, kết quả tất cả đều bình thường. Chúng tôi vẫn chưa yên tâm, bèn đi hỏi cư sĩ Quả Hồng. Cô xác nhận:

– Đứa bé thật sự đã đi rồi, hơn nữa còn ra đi với tâm tư rất vui vẻ…

Bấy giờ chúng tôi mới tin phục.

Trong khoảng thời gian này xảy ra một việc thú vị.

Tính đến đầu xuân năm 2008, vợ tôi lành bịnh đã được 6 tháng nên hầu như nàng cũng quên béng cảm giác đau từng hành hạ mình… Nhất là khi đối diện với những mâm cỗ đại tiệc mừng năm mới, nhìn từng bàn từng bàn ê hề thịt cá, chưng đầy mỹ vị cao lương, càng kích thích bản tính khoái ăn ngon cùa nàng, nàng chép miệng thèm thuồng và mấy lần than thở với tôi một cách ai oán:

– Anh à, ăn chay cả đời như thế này em chịu không nổi đâu! Đến tháng tư nảy xem như ăn chay đã mãn năm, lúc đó em sẽ ăn mặn lại…

Nàng vừa tuyên bố xong thỉ ngay thang giêng đó cơn bịnh khủng đáng sợ bỗng xuất hiện, dường như nó đang ngấm ngầm bộc phát khiến vợ tôi bắt đầu hoảng loạn, sợ hãi…

Thời may, hôm ấy chúng tôi cùng cư sĩ Quả Hồng đi Thượng Hải, Nam Kinh, Hàng Châu và cùng một số cư sĩ đến phóng sinh ờ Tây Hồ (Những liên quan đến chuyến phóng sinh này đều được đài truyền hình Triết Giang trình chiếu và báo Tiền Giang đăng tin vào ngày 25 tháng 12).

Lúc ăn trưa nơi tiệm chay, tôi hỏi Quả Hồng (cùng ngồi chung bàn):

-Vợ tôi lại đau nữa, có phải là do đứa bé quay về chăng?

Quả Hồng đáp:

– Không phải! Là tại vợ anh nói lời lật lọng, BỘI TÍN, PHẢN NGUYỆN!…

Vợ tôi ngồi bên xanh mặt, nàng hoảng sợ tới nỗỉ chẳng còn dám hó hé đá động gỉ tới chuyện “ăn mặn lại”… Đương nhiên tháng kế đó nhờ vợ tôi biết kìm cương trước vực thẳm, (dừng kịp trước hiểm nguy) nên cơn bịnh dữ không còn tál hiện hoành hành. Kề từ đó vợ tôi cũng chừa hẳn, chẳng dám nói hay tơ tưởng gì đến chuyện ăn mặn và nàng được bình an mãi cho đến ngày nay.

Chúng tôi lại một phen được luật nhân quả “dạy” cho một bàl học, đã biết sự vả tin “trẽn đằu ba thước có thần lỉnh”, đã hiểu rằng từng cử chỉ lời nói, mỗi khởi tâm động niệm của chúng tôi… thảy đều nằm trong tầm nhìn cùa thần minh, đều bị luật nhân quả chi phối, vận hành.

Đến nay đã gần hai năm, vợ tôi đã hết bị cơn bịnh khủng hành, chứng táo bốn và các bịnh lởn nhỏ gi cũng dần tiêu tan. Các bằng hữu bác sĩ của tôi nói:

-Thông thường bịnh này phát mỗi lúc càng nặng, vợ anh không do phẫu thuật, không nhờ uổng thuốc mà được lành, thì phải nối đây là đại kỳ tích!

Chúng tôỉ xin cảm tạ Phật pháp, cảm tạ các thiện tri thức đã kiên nhẫn chì dẫn giúp chúng tôi phá mê, bỏ xấu. Cảm tạ đứa con đã thông cảm, tha thứ, chịu xả oán hờn ra đi. Càng cảm tạ cháu đã dùng phương thức này để cứu độ hai đấngg sinh thành ngu si, khiến chúng tôi biết dừng trước vực thẳm, lội ngược giòng, lìa xa chốn mê.

Giải thích thêm: Kỳ tích “sống lại từ chỗ chết” phát sình và bắt nguồn từ tâm tỉnh giác tu sửa. Người không muốn chết thì trước phải biết “chết ngay khi còn đang sống” có nghĩa là phải chết hết mọi thói tật! (phải chết trụi lủi những tính tham, sân, si mạn, nghi, tà kiến… những gì trải đạo không đúng pháp)… Ngoài ra, còn phải biết thành tâm sảm hối, sửa lỗi, bổi đức… y theo giới định huệ, đúng pháp mà tu hành, thì sẽ thay đồi cuộc đời.

Hiểu rõ Phật pháp rồi, thi dù kỳ tích có xảy ra cũng là chuyện rất bình thường!