thảo đường thiền phái

Phật Quang Đại Từ Điển

(草堂禪派) Cũng gọi Tuyết đậu minh giác phái. Một trong các phái Thiền tông của Phật giáo Việt nam ở thời kì đầu. Theo truyền thuyết, đệ tử của Thiền sư Tuyết đậu Trùng hiển (980-1052) là ngài Thảo đường đem hệ thống Thiền của Thiền sư Tuyết đậu thuộc tông Vân môn Trung Quốc truyền vào Việt nam, được vua Thánh tông triều Lí (ở ngôi 1054-1072), phong làm quốc sư, trụ ở chùa Khai quốc tại Thăng Long (Hà Nội), sáng lập phái Thảo đường, chủ yếu truyền Tuyết đậu bách tắc và đề xướng giáo nghĩa Thiền Tịnh Nhất Trí. Lại có thuyết cho rằng người sáng lập phái này là ngài Thảo đường Thiện thanh (1057- 1142), đệ tử của Thiền sư Hối đường Tổ tâm đời thứ 12 thuộc hệ thống Nam nhạc Hoài nhượng. Chi hệ của phái này chia làm 3 chi: Lí triều Thánh Tông, Bát nhã và Ngô xá (có thuyết cho là Ngộ xá). Chi hệ Thánh tông do vua Thánh tông triều Lí sáng lập, chỉ lưu truyền trong nội bộ triều đình Việt nam, truyền đến vị tổ thứ 3 là ngài Đỗ vũ thì pháp hệ dứt. Chi hệ Bát nhã do Thiền sư Bát nhã sáng lập, truyền được 3 thế hệ: Thế hệ thứ nhất là Thiền sư Bát nhã; thế hệ thứ 2 gồm 2 vị là Thiệu minh và Phạm âm; thế hệ thứ 3 gồm 4 vị là Trương tam tạng, Hải thường, Nguyễn thức và Hoàng đế Cao tông triều Lí. Đến đầu thế kỉ13 thì pháp hệ chấm dứt. Chi hệ Ngô xá do Thiền sư Ngô xá sáng lập, truyền đến Nhị tổ Không lộ và Định giác, vua Anh tông (đệ tử ngài Định giác), đến Tứ tổ Chân huyền và Đỗ thường thì pháp hệ chấm dứt. Phái Thảo đường được các vị Hoàng đế Thánh tông, Anh tông (ở ngôi 1138- 1175) và Cao tông (ở ngôi 1176-1210) triều Lí kính ngưỡng, theo thứ tự là đệ tử đời thứ 1, đời thứ 3 và đời thứ 5 của Thiền sư Thảo đường. Đến năm 1225, nhà Lí bị lật đổ thì phái này cũng dần dần suy vong theo.[X. thiên Nhân vật trong An mam chí lược Q.15].