Trang 4

61- Nai biết trọng chữ tín

Trong một khu rừng thẳm trên núi cao có một bầy nai cùng nhau chung sống, con số lên tới cũng cả trăm. Chúng đi theo những cánh đồng xanh mơn mởn, vừa ăn vừa đùa giỡn, chẳng mấy chốc tiến dần đến chốn thị thành có người ở.

Hôm ấy, nhà vua dẫn đầu một đoàn tùy tùng ra khỏi thành hướng về phía thôn dã săn bắn. Người ngựa khắp nơi, đoàn nai kinh hãi chạy tán loạn. Có một con nai đang mang thai bị bỏ lạc lại phía sau, không cách nào chạy kịp theo các bạn. Vừa đói lại vừa mệt, nó sinh hạ được hai con nai con.

Nai mẹ đem hai con nai con dấu vào một nơi kín đáo rồi vội vàng nghĩ tới chuyện kiếm ăn. Vì trong lòng đang khủng hoảng, nó bất cẩn sa xuống hố. Lo lắng cho hai đứa con, nai mẹ sốt ruột tìm đủ cách thoát ra khỏi hố nhưng không thoát được, nó bèn kêu khóc thảm thiết. Thợ săn nghe tiếng khóc, chạy đến xem thấy một con nai lớn, vui mừng vô cùng tính đem nai ra giết. Nai mẹ quỳ xuống, khấu đầu van xin, dáng điệu như muốn nói :

– Tôi vừa mới sinh được hai con nai con, lâu lắm rồi chưa có gì vào bụng, xin các ông làm phúc thả cho tôi ra một lúc thôi, để tôi về thăm các con và chỉ cho chúng nó chỗ nào có nước có cỏ, cho chúng nó có thể tự kiếm sống một mình, rồi sau đó trở lại chịu chết. Tôi thề không sai lời hẹn ước.

Thợ săn thấy nai mẹ quỳ xuống với dáng điệu van nài như thế, vừa kinh dị vừa quái lạ, bèn nói:

– Làm người trong đời ai cũng tham sống sợ chết, huống chi mi là loài thú vật! Bây giờ mi đã đến tay ta, ta bắt được mi rồi, làm gì có chuyện thả mi ra?

Họ không hề có ý định thả nai mẹ về. Nai mẹ khóc nước mắt ướt cả mặt, liên tục khấu đầu cầu khẩn như muốn nói:

– Mạng sống của tôi hiện thời đang nằm trong tay các ông. Tôi không hề tiếc chút thân tàn này, chỉ thương xót hai đứa con thơ dại. Nếu các ông bằng lòng thả cho tôi về thì hai đứa con của tôi mới còn sống sót được, bằng không chúng nó chỉ còn có nước chết mà thôi!

Thợ săn thấy nai mẹ van nài với những tình cảm không khác gì loài người, họ không thể nào không cảm động nên cuối cùng thả cho nai mẹ ra đi.

Nai mẹ chạy về chỗ dấu mấy đứa con, vừa buồn vừa vui, chỉ cho chúng nói biết ở đâu có nước uống và ở đâu có cỏ ăn, xong rơi lệ mà nói:

– Lúc nãy mẹ ra ngoài, không cẩn thận nên bị rơi vào tay thợ săn, chút xíu nữa thì không về gặp các con được. Vì mẹ lo nghĩ cho các con nên xin họ thả cho ra trong chốc lát để về thăm các con. Các con thật là bất hạnh đáng thương! Từ nay các con sẽ không có mẹ săn sóc nữa. Mẹ hy vọng các con sẽ sống sung sướng sau này.

Nai mẹ nói tới đây, bỏ các con ở lại mà đi. Hai con nai con thấy mẹ đi rồi trở về, mừng rỡ vô cùng, bây giờ lại nghe mẹ nói sẽ đi nữa, bèn theo bén gót, vừa đi vừa kêu khóc. Nai mẹ quay đầu lại nói:

– Các con không thể nào theo mẹ được, nếu không mẹ con chúng ta sẽ bị giết hại cả nhà! Mẹ được về thăm các con một lúc như thế, có chết cũng cam lòng! Chúng ta nghiệp chướng sâu dày nên sinh ra làm súc sinh, nay còn gặp thảm trạng bị bắt bị giết. Mẹ chết đi rồi, mong các con lập nguyện vững chải là không bao giờ tái sinh làm thú vật nữa!

Nhưng nai con nào có nghe lời nai mẹ, nhất định theo mẹ cho đến chỗ có cái hố. Thợ săn thấy nai mẹ về, theo sau có hai chú nai con, trong lòng lại càng thấy bất nhẫn nên thả cho mấy mẹ con nhà nai về hết.

Họ bèn đem chuyện này lên tâu với nhà vuạ Nhà vua cũng thấy loài nai mà biết trọng chữ tín còn hơn loài người, bèn hạ lệnh cấm săn bắn nai, cho nên từ đó bầy nai mới gọi bạn kết lũ mà sống tự do, đi lại chơi đùa tự tại trên những cánh đồng cỏ.

Sinh làm nai mà có chữ tín lại biết thương con như thế, thật không khác gì con người.

Đức Phật nói chúng sinh trong vũ trụ, ai cũng có trí huệ và đức độ của Như Lai, điều đó quả thật không sai!

Chỉ cần có tâm từ bi là ngay trong kiếp này đã được quả báo tốt. Lừa gạt người khác chính là tự lừa gạt lấy mình, giữ chữ tín với người khác tức là tự giúp đỡ lấy mình.

Chuyện con nai mẹ biết trọng chữ tín, thật đáng làm bài học cho loài người biết bao!

62- Năm loại bất tử

Kinh Di Đà có nói tới 16 vị đại đệ tử của Đức Phật, trong số ấy có tôn giả Bạc Câu Lạ Ngài cao lớn tráng kiện, nghi dung trang nghiêm đẹp đẽ, đó là vì trong những đời quá khứ ngài không hề sát hại một sinh linh nào. Nhờ thiện nghiệp ấy nên trong 91 đời ngài không bệnh hoạn, từ nhỏ tới già không ngã bệnh một lần nào. Không những thế, ngài còn có cái phúc đức là không bao giờ chết vì năm loại tai họa, cũng gọi là “năm loại bất tử”. Thế nào là năm loại bất tử?

  1. Không vì thiên nhiên chuyển hóa như núi lở hay đất nẻ mà chết.
  2. Không bị lửa dữ thiêu cháy, không bị nước lớn nhận chìm.
  3. Không gặpđạo tặc hãm hại.
  4. không bị ngăn cấm bởi lệnh vua.
  5. Không bị đao binh, chiến tranh làm thiệt mạng.

Tôn giả Bạc Câu La có thiện nghiệp và phúc báo ấy, ai được thấy ngài hay nghe nói đến ngài cũng phải cung kính và tán thán.

Ngài tu hành tinh tiến, thường thường ngồi kiết già, đoan nghiêm bất động. Khi ngài tọa thiền dưới gốc cây, không bao giờ do vì cảm thấy mệt mỏi mà tựa vào thân cây. Cũng thế trong các phòng thất, ngài cũng không bao giờ ngồi tựa vào các tường, vách.

Trên phương diện chuyên cần tu tập cũng không ai bằng ngài, và khó hơn nữa, ngài có đầy đủ biện tài vô ngại, có thể thuyết giảng cặn kẽ tất cả các diệu pháp.

Thế nhưng ngài không thường thuyết pháp cho đại chúng, luôn luôn giữ thái độ tĩnh mặc, vô ngôn. Điều ấy khiến cho nhiều người lấy làm kỳ dị, đã có tài thuyết pháp thì tại sao lại không thuyết? Vì thế một hôm tôn giả A Nan mới hỏi ngài rằng:

– Tôn giả Bạc Câu La! Tại sao ngài lại không tuyên thuyết diệu pháp cho đại chúng nghe?

Tôn giả Bạc Câu La bèn trang trọng trả lời rằng:

– Nói nhiều chưa chắc đã được người ta tin nghe. Dẫu cho lời nói của mình câu nào cũng đáng giá ngàn vàng, thế nào cũng có người lại thấy rằng lời mình nói ra làm nhiễu động tâm họ. Tôi thường thường đắc được pháp lạc trong cảnh tịnh tĩnh, cho nên tôi muốn mọi người cũng được như thôi, hưởng pháp lạc trong sự tĩnh lặng.

Tôn giả Bạc Câu La không những rất chuyên tâm trong việc an tọa tham thiền, mà trong việc tu trì công đức nhẫn nhục thì lại càng cao quý hơn: bị người đánh đau, ngài không những không trả đũa mà còn không khởi tâm sân hận. Bị người hãm hại, đã không phục thù, ngài cũng không hề oán trách người. Cũng như bị người chửi mắng, ngài cũng có thể nhẫn nhục chịu đựng. Được lợi, bị suy thoái, bị hủy báng, được danh dự, được khen ngợi, bị chế nhạo, được sung sướng hay khổ đau, tám loại “gió” (bát phong) ấy không thể làm cho ngài động tâm hay phiền não. Công phu tu dưỡng của ngài thật xứng đáng cho chúng ta muôn đời kính phục và tôn trọng.

63- Nghĩa khí của con khỉ mặt đỏ

Ngày xưa, trong một ngọn núi thâm u rậm rạp, có một con quạ đen già tên là Câu Kỳ xây tổ ở trên một khóm cây cao to, sinh hạ được vài chú quạ đen xinh xắn dễ thương. Lão rất mực yêu thương mấy chú quạ con của lão.

Ngày dài tháng rộng, lão quạ đen Câu Kỳ thường đi chơi trong rừng sâu núi thẳm, và kết bạn với một con khỉ mặt đỏ. Tình bạn của họ vô cùng thân thiết.

Gần khóm cây của lão có một con rắn độc cũng thường hay tới chơi. Khi nó thấy được mấy chú quạ con xinh xắn trên ngọn cây, nó không ngừng chăm chú nhìn lên, nhưng vì lão quạ đen và con khỉ mặt đỏ thường ở đấy canh chừng nên nó chưa có cơ hội lên làm thịt mấy chú quạ con ấy.

Có một hôm, lão quạ đen phải bay đi nơi khác kiếm thức ăn, con khỉ mặt đỏ cũng lên núi hái hoa quả, con rắn độc bèn chụp lấy cơ hội ngàn vàng này, bò lên tổ quạ ăn tươi nuốt sống mấy chú quạ con rồi bỏ đi.

Lão quạ đen cực khổ lắm mới tìm được thức ăn mang về nhưng khi về tới ổ, lão chỉ thấy lác đác vài chiếc lông tơ bên cạnh mấy ngấn máu đỏ, lão biết ngay là con rắn độc đã ăn mất quạ con của lão rồi. Lão đau khổ vô ngần, kêu thương không ngớt, muốn báo thù cho con nhưng lão thừa biết lão không phải là đối thủ của con rắn độc. Vì thế nên nỗi thương đau của lão lại càng tăng thêm.

Khỉ mặt đỏ vừa về tới, thấy lão quạ đen đang khóc than bi thảm, nó ngạc nhiên hỏi nguyên do. Lão quạ đen mới đem chuyện quạ con bị rắn độc giết ăn thịt ra kể cho khỉ mặt đỏ nghe.

Khỉ mặt đỏ nổi cơn tam bành, chửi rủa om sòm:

– Con rắn độc tâm địa tàn ác, táng tận lương tâm, chuyên môn gây nghiệp sát sinh, lười biếng không biết kiếm sống theo chính nghiệp, thấy ai yếu hơn mình thì nhe răng giương vuốt uy hiếp giết hại, thật đáng buồn cho cảnh ỷ mạnh hiếp yếu này !

Con khỉ mặt đỏ thương tình an ủi quạ đen, rồi nói một cách cương quyết:

– Con rắn độc này quá khốn nạn, tôi sẽ báo thù giùm anh!

Nói xong, nó nhẩy vọt đi. Đi không xa, từ trên cao nhìn xuống, nó thấy con rắn độc đang trườn đi một cách ung dung an nhàn. Nó bèn nghĩ rằng:

– Con rắn độc khốn nạn, mi tàn nhẫn giết hại con của bạn ta mà ăn thịt, hôm nay ta quyết ăn thua đủ với mi, một sống hai chết mới thôi!

Nghĩ như thế xong, nó nhẩy ra trước mặt rắn độc chận đường. Rắn độc nổi giận đùng đùng ngóc thân lên, định quấn lấy khỉ. Nhưng con khỉ mặt đỏ nhanh nhẹn như tên bắn, nhẩy sang một bên rồi lại nhẩy tới phía trước, dùng hết sức lực một tay túm lấy đầu rắn, một tay chụp một hòn đá cứng, rồi đập xuống nghiền nát đầu đối thủ. Rắn bị bể đầu chết tươi.

Khỉ mặt đỏ cầm xác con rắn quăng xuống vực sâu rồi vui vẻ thơ thới quay về. Lão quạ thấy kẻ tử thù đã đền xong nợ máu, cũng thấy có chút phần an ủi.

Nghe được câu chuyện này, Đức Phật nói rằng:

– Con khỉ này chính là một vị Bồ Tát hóa thân, nó vì chính nghĩa mà trừ khử con rắn độc, không cho phép rắn tiếp tục giết hại những sinh mệnh bé nhỏ yếu ớt khác. Nó đã tự hy sinh, chẳng thà tự mình chịu lấy nghiệp sát và bị đọa lạc mà sinh mệnh của chúng sinh được bảo toàn.

Giới luật của tiểu thừa tuyệt đối cấm sát sinh, nhưng theo tinh thần đại thừa, không thể chấp chặt vào pháp một cách cứng nhắc, thà tự mình đọa địa ngục mà làm cho chúng sinh thoát khổ.

Cao cả thay tinh thần Bồ Tát!

64- Nghiệp giết

Ông vua được coi là đức độ tài giỏi nhất của Ấn Độ, từ xưa đến nay, là vua A Dục. Ông có một người con trai tên là Câu Na Lạ Hoàng tử Câu Na La rất khôi ngô tuấn tú, tướng mạo như tranh vẽ, khuôn mặt như trăng rằm, vì thế có rất nhiều cô gái muốn được thân cận với chàng.

Lúc đó, trong cung điện có một nàng vương phi trẻ tuổi tên là Đê Xá La Hy Đạ Cô gặp hoàng tử lần đầu liền đem lòng yêu thương, thường tìm đủ cơ hội để gặp gỡ, gần gũi.

Một hôm, nhân tìm được một cơ hội tốt, vương phi liền đi tìm gặp hoàng tử, đem tâm sự của mình tha thiết bày tỏ với chàng, hy vọng hoàng tử chấp thuận tình cảm của mình. Nhưng hoàng tử Câu Na La xưa nay vốn phụng trì Phật pháp, chàng biết đây là vương phi của phụ hoàng, tuy nàng còn trẻ tuổi nhưng về phương diện thứ bậc thì nàng ở vai mẹ chàng. Chàng là người biết trọng đạo lý, tuyệt đối không bao giờ có thể làm một chuyện vô luân điên đảo như thế nên không hề động lòng. Cho nên khi người vương phi nhan sắc mỹ miều kia đem tình ái ra bày tỏ với chàng, thì không những chàng không chấp thuận mà còn dùng lời lẽ dịu dàng ra khuyên bảo nàng không nên nghĩ đến những chuyện như thế nữa.

Người vương phi quá si tình, không đạt được ý nguyện, vừa buồn vừa xấu hổ nên giận dữ mà sinh tâm oán hận, bất chấp tất cả, mướn người độc ác đến khoét mắt hoàng tử trước khi giết chàng đi.

Khi mọi người nghe tin này, ai nấy đều kinh hoàng. Làm sao một người hiền lành, thân thiết như hoàng tử lại chịu một số phận bất hạnh như thế. Mọi người do đó bèn đi tìm một vị tỳ kheo có thần thông để thỉnh giáo. Tôn giả trả lời:

– Trong những kiếp sâu xa về trước, tại thành Ba La Nại có một người thợ săn săn thú để sinh sống. Có một năm nọ, tiết trời lạnh lẽo, người thợ săn lên núi săn bắn, tới một nơi đó, ông phát giác ra một hang động, có rất nhiều nai trú lạnh trong ấy. Từ đó, mỗi ngày ông đến cửa động săn một con nai đem về nhà, trước hết ông móc mắt nai, sau đem nai đi giết. Cứ như thế trong suốt hơn một năm trời, bầy nai đáng thương kia, từ từ bị giết không còn một con.

Do nhân duyên sát sinh ấy, đời này sang đời khác ông chịu quả báo bị khoét mắt trước khi bị giết. Hoàng tử Câu Na La hôm nay, chính là ông thợ săn thời ấy.

Tôn giả nói xong, mọi người vẫn còn chỗ nghi hoặc, hỏi thêm:

– Bạch tôn giả, đã là một người thợ săn đáng ghét như thế, thì làm sao lại được sinh ra trong một gia đình cao quý làm hoàng tử? Xin thỉnh tôn giả từ bi thuyết giải cho chúng tôi hiểu.

– Ông ta sinh ở hoàng cung là do một nhân duyên khác. Lúc ấy, khi Đại Phật Ca La Ca diệt độ rồi, thì vua của quốc gia ấy mới mời người đến khắc tôn tượng của Như Lai để tỏ lòng tôn kính Tam Bảo, rồi còn xây bảo tháp cúng dường tôn tượng. Nhưng về sau có một hôn quân không tin Tam Bảo, ra lệnh hủy hoại bức tượng Như Lai. Trong nước ấy có một ông thợ nặn tượng, thấy ông vua vô đạo như thế rất buồn khổ, nên phát nguyện đem bức tượng Phật về tu sửa lại trang nghiêm như cũ.

Người thợ điêu khắc cũng chính là tiền kiếp của thái tử Câu Đa La, do công đức tu sửa tượng Phật mà kiếp này được sinh vào nhà của vua, nhưng vì cái nghiệp sát sinh trước chưa hết, nên vẫn còn phải chịu quả báo.

Những lời giảng của tôn giả đã làm tăng trưởng lòng tin nhân quả của mỗi người, có nhân như thế thì sẽ thọ quả báo như thế, mình làm thì mình phải chịu, đó là một chân lý, không ai chịu khổ thế cho ai cả!

65- Ngũ thông tiên nhân

Lúc Đức Phật còn ở tại nhân địa, có một thời sinh ra làm một vị tiên nhân chứng được năm thần thông, tu hành trong một quả núi hoang.

Ngài công phu tu hành rất tinh tấn, trong tâm không còn chút quái ngại, đối với tất cả mọi vinh hoa phú quý của thế gian ngài không còn chút ham thích, hằng ngày chỉ hái trái ăn qua bữa trong những năm cuối của cuộc đời.

Chỗ ngài tu có một con rắn độc, mỗi ngày nhìn ngũ thông tiên nhân tu hành, nó cảm động nên xin quy y với ngài.

Con rắn độc quy y rồi thì ở lại phục dịch hầu hạ ngài, mỗi ngày miệng ngậm nước sạch phun xuống đất và lấy rễ cỏ quét bụi, làm những thứ lặt vặt trong nhà cho ngài. Nó cứ luẩn quẩn bên cạnh ngũ thông tiên nhân nghe pháp, không chịu rời xa nửa bước.

Ngày lại rồi ngày qua, mùa hạ, mùa thu qua đi, trời bước sang mùa đông lạnh lẽo, ngũ thông tiên nhân nghĩ rằng hoa quả không còn nữa, nay phải xuống núi tìm thức ăn thôi!

Khi rắn độc thấy ngũ thông tiên nhân sắp bỏ đi, buồn bã nước mắt tuôn ràn rụa. Ngũ thông tiên nhân thấy thế, động lòng an ủi:

– Con là con rắn độc, nếu ta đem con đi với ta, người ta thấy con thì sẽ muốn giết hại con. Thôi con hãy ở đây yên tĩnh tu hành, thế nào ta cũng sẽ trở về, con hãy an tâm đừng đi đâu hết, thầy trò mình sẽ còn gặp nhau!

Tiên nhân nói xong lên đường ngay. Con rắn độc khóc hoài không ngừng, nó bò lên một ngọn cây cao chót vót để có thể nhìn thật xa, ngóng trông tiên nhân trở về. Nhưng chờ hoài không thấy ngài về, nó buồn tủi cho thân phận mình, bỗng nhiên từ trên cây rớt xuống, chưa chạm đất đã rơi xuống một cành cây giữa đường và bị cắt đứt làm hai đoạn chết mất.

Rắn độc vừa chết là sinh lên cung trời Đâu Suất, và vừa tái sinh là đã nhớ ngay đến kiếp trước của mình.

Nhớ ơn kiếp làm rắn, người trời này mới đưa một số thiên nữ tay cầm hoa hương xuống chỗ cũ rắc hoa lên thân rắn, và đem hoa hương đến chỗ của ngũ thông tiên nhân cúng dường để báo đáp ân đức của ngài đối với mình.

Có thiện tâm, chịu học pháp, ngay một con rắn độc mà còn có thể sinh lên cõi trời huống chi là con người.

Người nào cũng thế, đừng thấy cái thiện nhỏ rồi chê mà không làm, vì một niệm tâm thiện là hạt giống của sự thành Phật trong tương lai. Trừ ác, tu thiện chính là phương pháp để thoát khổ vậy.

66- Người dạy voi

Mỗi khi Đức Phật Thích Ca đi tới nơi nào thuyết pháp, thì có rất nhiều các vị đệ tử hay đi theo vây quanh Ngài.

Có một hôm, Đức Phật ở núi Linh Thứu, và những tín đồ của Ngài cũng đến tụ tập tại nơi ấy. Trong số đó có các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni xuất gia, có các vị ưu bà tắc, ưu bà di tại gia và còn có các vị quốc vương, đại thần v.v… cũng đến xung quanh Đức Phật, cung kính cúng dường, nghe Ngài thuyết Pháp giảng Kinh.

Trong pháp hội thù thắng ấy có rất nhiều vị đệ tử trong lòng có điểm thắc mắc, họ muốn biết nhân duyên nào đã thúc đẩy Đức Phật xuất gia học đạo lúc ban đầu. Tuy họ muốn thỉnh xin Đức Phật nói cho họ biết, nhưng không ai dám mở miệng ra hỏi.

Lúc ấy, tôn giả A Nan biết tâm niệm của mọi người nên từ tòa ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, hỏi thăm Đức Phật xong rồi mới thay mặt mọi người mà thưa rằng:

– Thế Tôn, bậc cứu chủ của chúng con! Nay chúng con có một điểm thắc mắc, đó là lúc Thế Tôn chưa xuất gia, hãy còn là một vị thái tử cao quý, sao lại xả bỏ vương vị, xả bỏ những thứ hoa lệ phú quý của hoàng cung, mà đột nhiên vào núi tu hành rồi sau sáu năm khổ hạnh ngồi dưới cây Bồ Đề thành Đẳng Chính Giác, hiển hiện ứng hóa thân độ hóa chúng sinh, làm thầy của Trời Người. Chúng con không biết lúc ban đầu do những nhân duyên gì mà Thế Tôn đã phát đại Bồ Đề tâm như thế, đi thẳng đến địa vị Phật? Chúng con đây đều là đệ tử của Phật, đều phải phát tâm rộng lớn như Phật đã phát, phải hướng theo con đường của Phật đã đi qua mà cất bước tiến lên hầu thừa kế Như Lai. Xin nguyện Thế Tôn từ bi tuyên thuyết để khuyến khích tất cả chúng sinh.

Đức Phật khen ngợi A Nan rằng:

– Hay thay! Hay thay! Điều mà ông hỏi hôm nay cũng là điều mà ta muốn nói đến. Các ông hãy yên tĩnh ngồi nghe.

Khi Đức Phật nói như thế, tất cả Bồ Tát và thánh chúng đều yên tịnh không một tiếng động, chú ý lắng nghe pháp âm của Phật.

Từ miệng Đức Phật phóng ra một đạo hào quang ngũ sắc, ánh sáng chiếu rọi đại thiên thế giới, vỗ về thân tâm của mọi loài chúng sinh, khiến cho họ có cảm giác mát mẻ, giải thoát.

Đức Phật ngồi ngay ngắn trên tòa báu và nói:

– Tại vô lượng kiếp trong quá khứ về trước, trong ta bà thế giới này có một vị Chuyển Luân Thánh Vương, cũng là một vị vua tên gọi là Đại Quang Minh. Vua là người rất phúc đức và trí huệ, nhân từ và rộng rãi đối với người khác, thích cứu giúp kẻ bần cùng, danh tiếng lẫy lừng truyền rộng khắp nơi. Vua của nước láng giềng xưa nay vẫn giữ tình giao hảo với vua Đại Quang Minh, hai người đối xử với nhau không khác gì hai anh em ruột thịt. Khi nước này gặp lúc thiếu hụt lương thực hay vật dụng, vua Đại Quang Minh thường cứu giúp cho họ bớt khổ trong những năm đói kém.

Cũng có lúc vua láng giềng đem sản phẩm của nước mình đến hiến tặng vua Đại Quang Minh để báo đáp ơn cứu giúp. Có một hôm, một số người vào núi săn được một con voi trắng, một con voi rất đẹp đẽ đoan chính, thân nó đẹp không khác gì bạch ngọc, trên thế gian thật là hiếm có. Vị vua nhỏ nọ muốn đem voi trắng cống hiến vua Đại Quang Minh, nên thu thập một ít châu báu trang sức cho voi rồi sai người đem voi qua nước láng giềng. Vua Quang Minh được voi trắng rất hoan hỉ, bèn mời một người dạy voi rất giỏi tên là Tôn Nhược về cung, giao voi trắng cho vị này nuôi nấng và dạy dỗ.

Voi trắng thông minh, đoán biết ý muốn của thầy, thầy chỉ bảo gì cũng đều làm theo được, chẳng bao lâu sau nó đã hoàn toàn thuần thục. Tôn Nhược bèn trang sức cho nó bằng rất nhiều ngọc quý, và dẫn nó đến trước mặt vua Quang Minh thưa rằng:

– Đại vương! Voi đã thuần thục, xin vua hãy thử voi.

Vua nghe thế rất vui lòng, ra lệnh cho thị giả đánh trống vàng, triệu tập các vị đại thần cũng những người có danh tiếng trong thành đến xem voi biểu diễn. Ít lâu sau mọi người đều tụ tập ở ngoài thành, vua Quang Minh cưỡi lưng voi trắng bước từng bước chậm chạp, trông chẳng khác nào mặt trời vừa mới mọc, ánh sáng chói lọi, ai thấy cũng phải vui mừng tán thán.

Đến một bãi săn, vua muốn bắt voi biểu diễn. Nhưng con voi trắng ôn hòa kia lúc ấy bỗng trở nên hung bạo trăm phần như đang bước vào chiến trường, điên cuồng vừa chạy vừa nhảy loạn xạ. Vua ngồi trên lưng voi không có cách nào chế ngự nó được.

Nguyên do chỉ vì con voi trắng mà vua đang cưỡi là một con voi đực, nó nghe tiếng kêu của một con voi cái ở núi bên cạnh nên dục niệm nổi lên, khiến nó điên cuồng muốn chạy theo voi cái.

Tôn Nhược ở phía sau thấy thế kêu to lên:

– Đại Vương! Ngài hãy bám vào một nhánh cây để rời khỏi thân voi rồi nhảy xuống đất, có thế mới an toàn được!

Lúc ấy voi đã chạy về phía rừng sâu, nhà vua bèn cấp tốc bám vào một nhánh cây mà rời khỏi lưng voi. Vua thoát thân rồi, voi trắng chạy như bay không quay đầu trở lại.

Vua Quang Minh từ thân cây trèo xuống ngồi bệt dưới đất, lúng ta lúng túng không biết làm sao, áo mũ rơi rớt rách nát, toàn thân thương tích máu chảy dầm dề, tức giận run cả người.

Không lâu sau Tôn Nhược chạy tới, thấy vua bèn khấu đầu trấn an rằng:

– Xin đại vương đừng phiền não, voi điên ngu si, có lẽ chỉ vì niệm dâm dục phát lên mà nên cơ sự, không có cách nào chế ngự nó được. Chẳng bao lâu niệm dâm của nó lắng xuống, nó sẽ chán cỏ dại nước dơ của núi rừng mà trở về vương cung.

Nhà vua tức giận trả lời:

– Ta không muốn con voi đó nữa, suýt nữa nó đã làm cho ta mất mạng! Nhà ngươi cũng hãy cút đi, từ nay về sau ta không còn muốn thấy ngươi dạy voi nữa!

Cũng ngay tại lúc đó, các vị đại thần và dân chúng cũng vừa đến tới, họ tưởng rằng vua đã bị voi giết chết rồi vì trên đường đi có người thì nhặt được mũ vua, có người thì nhặt được vương bào nên ai cũng kinh hãi khủng khiếp. Tìm mãi mới thấy được vua, người thì mau mau đem y áo tới cho vua mặc, người thì dắt một thớt voi khác thuần thục hơn cho vua ngồi lên an toàn rồi trở về hoàng cung. Người trong thành thấy vị vua hiền đức của họ đã bị voi trắng hãm hại nên họ căm tức Tôn Nhược vô cùng.

Chẳng bao lâu, đúng như Tôn Nhược đã nói, voi trắng không quen sống nơi núi rừng hoang dã, niệm dâm cũng đã lắng xuống, nó bèn trở về hoàng cung. Tôn Nhược thấy voi về bèn báo cho vua biết nhưng vua từ chối không tiếp, cho người ra trả lời rằng:

– Vua không cần voi trắng và cũng không cần đến người dạy voi nữa.

Tôn Nhược ba lần xin gặp, muốn tự mình cưỡi voi trắng và chứng tỏ cho vua thấy voi đã thuần thục đến đâu, cuối cùng vua đành phải chấp thuận. Thế là họ trải chỗ ngồi tại một khoảng đất bằng phẳng, vua và tất cả dân chúng đều đến xem.

Tôn Nhược đem voi trắng tới chỗ biểu diễn, đồng thời kêu thợ làm cho mình bẩy hòn sắt, nếu voi nuốt hết mấy hòn sắt ấy thì chắc chắn chỉ có chết mà thôi.

Sợ vua ân hận về sau, Tôn Nhược thưa trước với vua rằng:

– Đại Vương, chỉ có bậc Chuyển Luân Thánh vương mới có được một thớt voi trắng như thế, hôm nay nó phạm chút lỗi lầm, nhưng không nên vì thế mà lấy mạng sống của nó.

– Con voi trắng này chẳng hề được điều phục, đáng lẽ ông cũng không nên để cho ta cưỡi nó. Nếu thật sự nó đã thuần thục thì tại sao lại ngoan cố như thế được? Do đó, cho dầu cả ông cả nó có bị giết đi nữa ta cũng chẳng ân hận!

– Thưa Đại vương, thần chết cũng chẳng hề gì, nhưng voi trắng này mà chết thì thật là đáng tiếc!

– Thôi đừng có nhiều lời nữa!

Vua nổi giận hét lên.

Tôn Nhược quỳ xuống đất, rơi nước mắt mà nói:

– Vua không có huệ nhãn nên không biết chân tài. Tôi điều phục được thân voi nhưng không điều phục được tâm của nó. Nếu lửa dục vọng cháy lên phừng phực trong tâm voi thì đương nhiên tôi không có cách nào chế ngự được. Bây giờ xin đại vương hãy chứng kiến việc tôi điều phục voi.

Nói xong, ông đến trước chân voi, lấy dáng điệu nghiêm khắc khiến voi không thể không vâng lời, đem những hòn sắt bỏ vào lửa cháy đỏ rồi nói:

– Mi hãy nuốt hết những hòn sắt này, nếu không ta sẽ lấy móc sắt móc não mi ra!

Voi trắng hiểu thầy mình muốn đưa mình vào chỗ chết, nghĩ rằng:

– Chẳng thà ta nuốt những hòn sắt này mà chết chứ không để bị móc não.

Voi nghĩ xong bèn quỳ xuống nhìn về hướng nhà vua chảy nước mắt mà cầu cứu, nhưng lửa giận của vua còn đang hừng hực nên ông quay đầu đi chỗ khác không thèm nhìn lại. Voi trắng nhìn những người bốn phía xung quanh không có ai có thể cứu mình được, bèn lấy những hòn sắt được nung đỏ ấy bỏ vào miệng nuốt xuống ruột, thông qua hậu môn và chết ngay tại chỗ. Thật là không khác gì cảnh chày kim cương đập nát núi pha lê, những hòn sắt rơi xuống đất rồi mà hãy còn cháy đỏ, khiến những người ngồi nhìn, không ai là không thương xót đến rơi nước mắt.

Vua Quang Minh thấy thế, trong tâm chợt nẩy lên một chút ân hận, cho gọi Tôn Nhược đến hỏi:

– Ông đã điều phục được voi thuần thục đến mức này rồi, vậy sao trong rừng không chế ngự được nó?

Tôn Nhược quỳ xuống đáp rằng:

– Đại vương, lúc nãy thần đã nói, thần chỉ điều phục được thân voi chứ không điều phục được tâm voi.

– Trên thế gian này có ai điều phục được cả thân lẫn tâm chăng?

– Có Như Lai Thế Tôn, đã vừa điều được thân lại vừa điều được tâm, nên trong mười thánh hiệu của chư Phật Như Lai có câu “Điều Ngự Trượng Phu”.

Vua Đại Quang Minh nghe được danh hiệu Phật, biết rằng chỉ có Phật Như Lai mới có đầy đủ lực oai thần đó thì hoảng hồn tóc tai dựng đứng, hỏi thêm rằng:

– Vị mà ông gọi là Như Lai đó, có đặc tính gì?

– Phàm là Như Lai Thế Tôn, có hai loại đặc tính: một là trí huệ, hai là đại bi. Đức Phật chăm thực hành lục độ, có nghĩa là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ, còn gọi là lục ba la mật, vì cả phúc đức lẫn trí huệ đều đầy đủ nên được tôn xưng là Phật. Ngài vừa có thể điều phục được chính mình mà còn điều phục được chúng sinh.

Vua Đại Quang Minh nghe thế, vui mừng lập tức nhanh nhẩu trở về cung, dùng nước thơm tắm gội, mặc y phục mới, lên lầu cao hướng về bốn phương lễ bái, khởi đại bi tâm đối với tất cả chúng sinh, nhiễu hương mà thề nguyện rằng:

– Nguyện tôi có bất cứ công đức nào trong quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng đều hồi hướng Phật đạo, thành tựu Phật đạo để điều phục tâm mình và cũng để điều phục tất cả chúng sinh.

Nếu có một chúng sinh nào tạo tội trọng mà phải trải qua một kiếp trong A Tỳ địa ngục, tôi sẽ vào ngay trong địa ngục để làm lợi ích cho chúng sinh ấy, và không hề xả bỏ tâm Bồ Đề.

Lúc ông phát thề nguyện lớn như vậy, quả đất rúng động sáu cách, trong không trung hoa trời rơi xuống dầy đặc như mưa, vô lượng người trời tấu nhạc trên không, âm thanh vi diệu ấy chính là để tán thán công đức của vị Bồ Tát mới phát đại tâm.

Đức Phật nói xong về nhân duyên như trên rồi, lại nói tiếp:

– Con voi trắng đã bị lửa dục đốt cháy thân, nuốt bảy hòn sắt, đã thọ nghiệp báo một cách thê thảm trong hiện kiếp của mình khiến cho mọi người kinh hãi và lấy đó răn mình, nên đoạn trừ được ác duyên và mở rộng con đường giác ngộ, phúc đức đạt được cũng không thể nghĩ bàn. Con voi trắng thời ấy chính là A La Hán Nan Đà. Vị thầy dạy voi nay là Đại Trí Xá Lợi Phất, và vua Đại Quang Minh chính là ta vậy. Lúc ấy ta thấy việc điều phục thân voi nên muốn tìm cách điều phục tâm, do đó mới phát đại tâm bồ đề lúc ban sơ, tìm cầu Phật đạo.

Những người trong đại hội nghe Phật thuyết ai cũng đại ngộ, người thì đắc được bốn thánh vị, người thì phát tâm đạo rộng lớn, người thì xuất gia, không ai là không hoan hỉ phụng hành.

67- Người xấu xí được độ

Tại Xá Vệ Thành có người con của ông trưởng giả nọ, sinh ra hình thù cực kỳ xấu xí : miệng thì rộng toang hoác, mũi thì lõm trũng xuống, mắt thì con to con bé, người thì thấp, toàn thân thì đen như mực, giọng nói thì thô lỗ như tiếng heo kêu, càng lớn càng giống như quỷ, bị đặt tên là Xú nhân (người xấu xí). Xú nhân bị cha mẹ ghét bỏ, và cuối cùng bị đuổi ra khỏi nhà.

Ban đầu Xú nhân đi ăn mày kiếm sống, nhưng khi người ta thấy hình dáng như quỷ của ông thì sợ hãi chạy trốn, không ai dám đến gần bố thí cho thức ăn. Vì thế, bất đắc dĩ ông phải chui núp trong núi sâu rừng rậm, hái trái rừng, hứng nước suối qua ngày. Thật đáng thương cho Xú nhân, sống trong rừng sâu núi thẳm lẽ ra có thể ổn định và sung sướng, nhưng ngay cả thú vật trên trời hay dưới đất thấy ông xấu xí quá cũng đâm sợ mà tránh xạ Ông như một người rừng man dã, chỉ còn sống một cuộc sống tối tăm không chút ánh sáng.

Đức Phật với đầy đủ thiên nhãn thông biết được tình cảnh ấy, bèn đưa chư tỳ kheo vào tận trong rừng núi, sửa soạn độ hóa Xú nhân. Nhưng khi ông thấy Đức Phật giáng lâm thì vội vàng chạy trốn thật xa. Đức Phật bèn dùng thần thông làm cho ông không thể chạy nên ông không trốn đi đâu được, đứng sửng sốt giữa rừng cây, không hiểu chuyện gì đã xẩy ra cho mình.

Lúc ấy, các vị tỳ kheo đều ngồi kết già phu thiền định dưới các gốc cây, gió thổi vi vu, lá nhẹ rơi lác đác xung quanh các ngài, thật là một quang cảnh thơ mộng.

Đức Phật lập tức hóa thân thành một người xấu xí, thân thể dơ bẩn, người không ra người quỷ không ra quỷ, xấu xí không thua Xú nhân, tay cầm bình bát đựng đầy thức ăn, từ từ hướng về phía ông. Đang bối rối, bỗng thấy một người xấu xí lại gần, Xú nhân ban đầu rất kinh ngạc nhưng sau trong lòng hoan hỉ, bất giác thốt lên:

– Người này mới đúng là bạn ta!

Nói xong, ông tiến lại gần người xấu xí kia mà nói:

– Chúng ta cả hai đều xấu xí khó coi, đều cô đơn như nhau, chi bằng kết làm bạn tốt với nhau, bạn có đồng ý không?

– Đồng ý, nhưng bạn và tôi phải hợp tác với nhau và coi nhau như anh em. Trước hết, tôi xin tặng bạn thức ăn trong bình bát này.

Xú nhân tìm được bạn tri kỷ mừng rỡ vô hạn, không chút khách khí, cùng chia thức ăn trong bình bát với người bạn mới.

Dùng cơm vừa xong, hóa nhân của Đức Phật bỗng biến thành một người đoan chính tuấn tú, khiến Xú nhân ngạc nhiên hỏi rằng:

– Bạn làm sao mà đột nhiên trở thành trang nghiêm đoan chính như thế?

Hóa nhân từ tốn đáp rằng:

– Điều đó chả có gì lạ lùng cả, khi tôi ăn các thức ăn ban nãy, tôi đã dùng tâm thiện lành, cung kính mà quán nhìn các vị tỳ kheo đang ngồi thiền kia. Nhờ phúc báo của tâm cung kính ấy mà tôi trở nên đoan chính.

– Đó chính là phương pháp hay sao? Làm người xấu xí khổ quá, tôi khao khát được trở nên đoan chính như bạn.

– Thì bạn cứ thử làm như tôi xem!

Như bắt được hạnh phúc vi diệu, Xú nhân liền phát khởi tâm sám hối và tâm hoan hỉ, không chút nghi ngờ, dùng mắt thiện lành mà quán nhìn các và tỳ kheo đang tọa thiền dưới các gốc cây.

Đức Phật bèn hồi phục lại nguyên hình với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, ánh sáng của Ngài chiếu rọi khắp mọi nơi như trăm ngàn ánh mặt trời, khiến Xú nhân tự động quỳ xuống đảnh lễ bái lạy trước mặt Ngài mà thưa rằng:

– Có lẽ trong quá khứ con đã hủy báng cười chê các bậc tỳ kheo tu hành nên mới gặt hái quả báo xấu xí ngày hôm naỵ Con muốn xuất gia học đạo để sám hối lỗi lầm trước.

– Tốt lắm! Đức Phật hoan hỉ nói. Ta chấp thuận cho ông trở thành tỳ kheo, làm đệ tử của ta.

Đức Phật nói xong, râu tóc của Xú nhân tự nhiên rụng hết, áo pháp tự nhiên khoác lên người, hiện thân tỳ kheo, và còn được Đức Phật thuyết đủ loại pháp cho nghe. Ông tu hành tinh tấn, chẳng bao lâu đắc quả thánh A La Hán, không còn bị phiền não bởi hình thù xấu xí nữa.

68- Nhân thiện quả thiện

Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tinh xá Kỳ Viên trong thành Xá Vệ thuyết pháp độ sinh, thì trong ngôi thành lớn ấy có ông trưởng giả nọ sinh được một cậu con trai rất kỳ diệu. Lúc cậu ra đời thì nước cam lồ từ trên trời tuông xuống, và thiên nhạc tuyệt diệu trổi lên khúc hoan cạ Cha mẹ cậu mừng rỡ quá, mời thầy chiêm tinh về bốc cho đứa bé hy hữu ấy một quẻ. Thầy chiêm tinh bốc xong, khen ngợi rằng :

– Đứa bé này ra đời có cam lồ, thiên nhạc chào mừng, đó là vì sau này cậu sẽ là phúc tinh của nhân loại, nếu được xuất gia học đạo, chắc chắn sẽ thành một vị thánh!

Nghe những lời ấy cha mẹ cậu rất đẹp lòng, đặt tên cho cậu là Da Xỉ Mật Đa, tối ngày cưng chìu, cung phụng đủ thứ. Nhưng kỳ lạ thay, đứa bé này không cần bú sữa. Khi đói, giữa những kẽ ngón tay của cậu có một giòng sữa trắng tự nhiên chảy ra, nuôi cho cậu dần dần lớn mập. Lúc còn bé, cậu thông minh dị thường, cung cách siêu phàm.

Có một hôm cậu đến Kỳ Viên tinh xá, thấy Đức Phật với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, thân phóng hào quang sáng rực, Da Xỉ Mật Đa hoan hỉ vô cùng, chạy đến đảnh lễ Đức Phật và xin Ngài thu nhận mình làm đệ tử. Đức Phật từ bi nhận lời, cho phép Da Xỉ Mật Đa được xuống tóc xuất gia. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng cậu tu hành tinh chuyên, chẳng bao lâu chứng quả A La Hán, có đại thần thông, được người, trời kính phục.

Những vị đệ tử khác của Đức Phật lớn tuổi hơn cậu hay xuất gia trước cậu đều không bì kịp, nên mọi người mới lấy làm lạ, thỉnh giáo Đức Phật.

Đức Phật không chút nề hà, thuyết cho mọi người nghe nguyên do như sau:

Lúc Ca Diếp Như Lai còn tại thế, có một vị thân sĩ ở nước Ba La Nại, tuổi đã lớn mới xuất gia học đạo, nhưng lại giải đãi lười biếng, không chịu tinh tiến, thân lại thường hay mang bệnh. Các thầy thuốc thấy ông gầy yếu, bèn khuyên ông nên uống nhiều dầu tô (dầu tô là một loại chất bổ giúp cho thân thể cường tráng). Lão tỳ kheo này nghe lời thầy thuốc, ráng sức uống dầu tô cho nhiều, tới nửa đêm thì chất thuốc phát tác, ông vừa nóng vừa khát, muốn uống chút nước thì trong bát không có lấy nửa giọt cho ông uống. Chạy ra giếng, giếng đã cạn khộ Chạy ra bờ sông, thì gặp lúc hạn hán đã lâu, nên chỉ thấy đáy sông. Ông đi tìm khắp nơi mà không tìm đâu ra nước, khát chịu gần hết nổi. Lúc ấy ông như tỉnh ngộ, biết rằng đây là quả báo từ quá khứ chiêu cảm, nên ông nhẫn chịu khát cho qua đêm ấy. Ngày hôm sau ông tìm tới Ca Diếp Như Lai cầu cứu. Như Lai thấy ông đáng thương, bèn nói với ông rằng:

– Cái khổ của ông hôm nay không khác gì cái khổ của loài ngạ quỷ, nếu biết sám hối thì còn cứu vãn được. Bây giờ ông hãy nước trong bình của ta mà cung kính dâng lên cho chư tăng.

Lão tỳ kheo nghe lời giáo huấn cuả Như Lai, tính lấy bình nước nhưng nghiệp tội đã quá sâu dày, nên tay mới chạm bình, thì nước trong bình đang đầy ắp bỗng không cánh mà baỵ Lão tỳ kheo rất buồn phiền, thấy mình như sắp đọa xuống cõi ngạ quỷ tới nơi rồi! Ông lại đi tìm Như Lai, cầu xin Ngài thương xót chỉ giáo chọ Như Lai dạy:

– Bây giờ ông ở giữa tăng chúng, giữ tâm ý cho thật thành kính, lấy nước thanh tịnh nhất, trong sạch nhất mà cúng dường chư tăng, thì mới thoát được nỗi thống khổ của loài ngạ quỷ này.

Lão tỳ kheo vâng lời và tin tưởng Như Lai, sinh tâm đại hoan hỉ, lại còn nương vào lực của Phật nên ở đâu cũng tìm được nước sạch, nước trong. Từ đó, ngày ngày ông mang nước sạch đến cung cấp cho tăng đoàn, mải cho đến lúc tuổi thật cao mới tạ thế. Nhờ công đức cúng dường nước cho chư tăng như thế nên sinh ra đời này mới tự nhiên có sữa thanh tịnh mà uống, cho đến mới gặp Phật, đắc độ rất mau chóng. Này chư tỳ kheo, lão tỳ kheo bệnh hoạn kia, nay chính là Da Xỉ Mật Đa vậy.

Mọi người muốn tìm cầu hạnh phúc, nên thường cúng dường Phật và tăng, trồng nhân thiện thì tự nhiên sẽ hái được quả thiện.

69- Như thị ngã văn

Năm ứng thân của Đức Phật được 80 tuổi, Ngài đưa A Nan đi hành hóa tới tháp Già Bà La, ở đấy có rất nhiều vị tỳ kheo vân tập. Đức Phật nói với đại chúng rằng:

– Này chư tỳ kheo! Hôm nay ta gặp các ông tại nơi đây là điều rất tốt. Từ khi ta thành đạo và chứng được chính giác, đã thương tưởng bảo hộ các tỳ kheo và đệ tử, giáo hóa đại chúng, ban phúc cho mọi người, đem sự an vui bố thí cho kẻ khác, dùng từ bi mà đối đãi với tất cả chúng sinh. Ta thuyết pháp độ sinh, chưa hề nề hà gian lao hay nghĩ đến sự nghỉ ngơi.

Điều ta muốn nói thì đã nói xong với các ông rồi. Ta không hề nghĩ các ông thuộc về ta, chúng sinh thuộc về ta, cho ta toàn quyền sai khiến. Ta chỉ là một người giữa các ông, thường thường cùng các ông ở chung một chỗ. Điều ta muốn thuyết giảng đã thuyết giảng xong, Như Lai không hề giữ lại điều bí mật nào, không áp bức ai và cũng không muốn ai phải phục tùng.

Ứng thân của ta nay đã già, như một cái xe cũ thì phải hư, cứ sửa sang, bảo trì mãi cũng không phải là một biện pháp lâu dài được. Trong ba tháng nữa, ta sẽ y theo pháp tính mà nhập Niết Bàn ở giữa hai gốc cây Ta La thành Câu Thi Na Ca La, được sự an ổn vô thượng. Nhưng ta sẽ luôn luôn gia hộ cho các ông và cho những chúng sinh vị lai tin tưởng vào giáo pháp của ta.

Tin Đức Phật nhập Niết Bàn vừa mới ban ra, nên đệ tử của Ngài ai cũng kinh hoàng. Trong tâm của họ, trong khoảnh khắc mặt trời và mặt trăng đều tắt phụp, trời đất xoay tròn. Đức Phật lại nói tiếp:

– Các ông không nên đau buồn, vạn vật trong trời đất, hễ có sinh thì tất nhiên phải có tướng vô thường. Định luật này, bất kỳ là ai chăng nữa cũng không trốn thoát được. Ta đã chẳng nói điều này cho các ông nghe rồi sao? Những gì mình yêu thương đều phải có lúc mất mát, có tụ họp thì phải có xa lìa, thân thể của người đời do tâm và vật chất tụ lại mà thành thì tất nhiên là vô thường, thì không thể tự do như người ta thường tưởng. Thân xác thịt không thể vĩnh viễn tồn tại, ta đã không thường xuyên nhắc nhở điều này hay sao?

Muốn ứng thân của Phật ở mãi trên thế gian là đi ngược lại với quy tắc tự nhiên của pháp tính. Ta là người đã thị hiện chân lý của vũ trụ, thì đương nhiên là không thể đi ngược lại với pháp tính.

Nếu các ông muốn ta ở lại mãi trên thế gian là các ông đã không y theo giáo pháp của ta đã giảng dạy mà tu hành, vậy thì cho dầu ta có sống thêm ngàn vạn năm nữa phỏng có ích lợi gì?

Nếu các ông có thể y theo giáo pháp của ta mà tu hành thì chẳng khác nào ta sống vĩnh viễn trong tâm các ông. Pháp thân huệ mệnh của ta biến khắp tất cả mọi nơi, luôn ở cùng một chỗ với các ông và với chúng sinh đời vị lai.

Các ông hãy giữ lòng tin kiên cố, quy y nơi pháp, y pháp mà tu hành, không nên quy y nơi gì khác.

Các ông tu học thánh đạo không biếng trễ, giải thoát phiền não, trụ tâm không loạn, thì các ông đúng là đệ tử chân chính của ta.

Đức Phật nói xong lại đi qua Xà Đầu viên ở thành Ba Bà, ở đấy nhận sự cúng dường của ông thợ vàng tên là Thuần Đà. Ông này cúng dường Chiên Đàn nhung, là một loại nấm rất khó tiêu hóa. Đức Phật dùng xong trong người không khoẻ, nhưng Ngài vẫn từ bi giải đáp cho Thuần Đà biết thế nào là sự khác biệt giữa bốn loại sa môn, khiến ông này vô cùng cảm động.

Đức Phật nói bốn loại sa môn : một là sa môn hành đạo thù thắng, hai là sa môn khéo thuyết nghĩa của đạo, ba là sa môn dựa vào đạo mà sinh sống và bốn là sa môn làm ô uế đạo. Cùng là sa môn mà có chân có ngụy, có thiện có ác, không nên thấy một vị sa môn không hiền không thiện rồi hủy báng toàn thể các vị sa môn.

Giống như trong một thuở ruộng lúa mạ tốt, bên trong có thể xen tạp vài ngọn cỏ dại. Là người cư sĩ tại gia tin Phật, nên thường gần gũi thiện tri thức, nhưng không nên phê bình sa môn. Người cư sĩ tại gia, tốt hơn hết là không nên để ý tới chuyện tốt xấu thiện ác của sa môn.

Sau đó, Đức Phật thị hiện tướng bệnh ở thôn Trúc Phương, nhưng Ngài vẫn không chịu nghỉ ngơi, vẫn tiếp tục lên đường hành hóa. Một hôm, từ nhan của Ngài bỗng chiếu ra ánh sáng huy hoàng, viên mãn hơn, thanh tịnh hơn, trang nghiêm hơn bình thường, ánh sáng ấy chói lọi như mặt trăng mặt trời, sâu rộng vô biên như biển lớn. A Nan hỏi Đức Phật:

– Thế Tôn, từ trước tới nay con đi theo làm thị giả của Phật, đây là lần thứ nhất con thấy từ nhan của Thế Tôn sáng chói hơn những ngày trước, ánh sáng vô lượng ấy như muốn chiếu thấu cùng khắp cả tam thiên đại thiên thế giới.

Đức Phật đáp:

– Đúng thế! Quang sắc của Phật có hai lần đặc biệt không giống bình thường, lần thứ nhất là lúc mới thành Phật đạo chứng đắc vô thượng chính giác, lần thứ hai là lúc sắp nhập Niết Bàn.

A Nan nghe nói vừa mừng vừa cảm thấy buồn thương. Đức Phật gieo rắc chủng tử của chân lý trên đường đi của Ngài, và có rất nhiều người đi theo sau chân Ngài. Họ đi theo sau một Đức Phật vừa già nua vừa bệnh hoạn, nên dường như ai cũng rơi lệ. Sự thật, nếu trên thế giới này có một người thật sự mạnh khoẻ và huệ mệnh vĩnh viễn không có già bệnh, thì người ấy chính là bậc cứu thế, là bậc đại thánh, là Đức Phật vậy.

Trên đường đi theo Đức Phật, A Nan lo sợ thưa rằng:

– Thế Tôn nhập Niết Bàn rồi, thì nghi thức an táng chúng con phải làm như thế nào?

Đức Phật an nhiên đáp:

– Những người đã quy y sẽ đến giúp ông, ông đừng lo, hãy an tâm mà lo lấy việc của mình. Tuy nhiên ta cũng có thể chỉ bày cho ông một vài nghi thức để cùng ông tham khảo. Mọi người ai cũng mong muốn biết, và cũng để tránh điều tranh luận giữa đám đông người, ta nói cho các ông nghe cũng tốt. Thế thì ta bày cho các ông nghi thức mai táng của Chuyển Luân Thánh Vương vậy!

– Nghi thức mai táng của Chuyển Luân Thánh Vương là thế nào?

A Nan xúc cảm vừa khóc vừa hỏi.

Đức Phật nhẹ nhàng trả lời:

– Trước hết lấy nước thơm rửa người, xong dùng vải mới sạch bao người lại. Bên trên dùng 500 tấm thảm bông bao thêm, đặt vào trong một cỗ áo quan bằng vàng, bên trong áo quan có phết dầu hương. Sau đó mới đem cỗ áo quan đặt vào một chiếc quan tài bằng sắt, xung quanh quan tài rải hương chiên đàn trên một vòng tròn rộng, bên trên thì chất hương thơm, bốn phía đặt hoa tươi…

Đức Phật nói đến đây, trầm ngâm một lúc rồi lại nói:

– Phật có thể tự dùng lửa tam muội mà trà tỳ, các ông thu thập xá lợi và lập tháp ở ngã tư đường để người qua lại biết mà nhớ nghĩ và tin tưởng.

Đức Phật không hề muốn ai xây tháp cho chính mình, mà vì chúng sinh nên mới để lại di ngôn như trên.

Không lâu sau, Đức Phật tiến vào thành Câu Thi Na Ca La, dặn dò A Nan rằng :

– Ông hãy vì ta mà đến giữa hai gốc cây Sa La sắp đặt một chỗ nằm, đầu quay về hướng bắc, mặt nhìn về hướng tây. Những năm sắp tới, giáo pháp của ta có thể hướng về phía bắc mà hoằng truyền, và tương lai sẽ thịnh hành ở phương tây. Đêm nay ta sẽ nhập Niết Bàn.

A Nan và đại chúng nghe thế, ai cũng khóc không sao ngừng được. Sau đó mọi người bàn tính với nhau, nếu chỉ ở đó mà khóc lóc thì chẳng có ích lợi gì, điều cần kíp là phải thỉnh cầu Đức Phật chỉ bày làm cách nào để chính pháp được giữ gìn lâu dài trong thế gian đời vị lai. Bàn tính với nhau xong, họ cử A Nan thỉnh giáo Đức Phật :

– Thế Tôn, chúng con không cách nào mà không buồn thương cho được, nhưng chúng con có bốn vấn đề cuối cùng xin thỉnh Thế Tôn chỉ bày:

Thứ nhất, lúc Thế Tôn còn tại thế, Ngài là thầy cho chúng con nương dựa. Thế Tôn Niết Bàn rồi, chúng con biết nương dựa vào người thầy nào đây?

Thứ hai, lúc Thế Tôn còn tại thế, chúng con an trụ vào Phật. Thế Tôn Niết Bàn rồi, chúng con biết an trụ vào đâu?

Thứ ba, lúc Thế Tôn còn tại thế thì người hung ác đã có Thế Tôn điều phục. Thế Tôn Niết Bàn rồi, làm sao điều phục người hung ác đây?

Thứ tư, lúc Thế Tôn còn tại thế, ngôn giáo của Phật nói ai cũng đễ tin dễ hiểu. Thế Tôn Niết Bàn rồi, kinh điển kết tập làm sao cho người ta tin tưởng?

Đức Phật trả lời một cách từ bi, vui vẻ:

– A Nan, ông được đại chúng đề cử đến hỏi ta bốn vấn đề này, thật là vô cùng quan trọng. Các ông không nên bi lụy như thế, giả như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên mà còn sống, chắc chắn họ sẽ không cư xử như các ông đâu! Đại Ca Diếp hiện giờ còn trên đường về, ông ấy sẽ không về kịp trước giờ ta Niết Bàn. Các ông phải nhận biết pháp tính, nếu Phật dùng ứng thân ở tại thế gian, thì đây là tướng vô thường cuối cùng, phải nhập Niết Bàn. Các ông y theo pháp mà hành thì không khác gì Phật thường còn ở thế gian vậy.

Nay ta sẽ trả lời bốn vấn đề của các ông hỏi, các ông hãy nhớ kỹ lấy:

Thứ nhất, các ông hỏi ta Niết Bàn rồi thì ai là thầy cho các ông nương: hãy nương vào Ba La Đề Mộc Xoa.

Thứ hai, các ông hỏi ta Niết Bàn rồi thì nên an trụ vào đâu: hãy an trụ vào Tứ Niệm Xứ.

Thứ ba, các ông hỏi ta Niết Bàn rồi thì làm sao điều phục người hung ác: nên im lặng tách xa họ ra.

Thứ tư, các ông hỏi ta Niết Bàn rồi thì làm sao cho người ta tin vào kinh điển: phải đặt bốn chữ “Như Thị Ngã Văn” ở ngay đầu tất cả mọi bộ kinh.

A Nan, các ông nên thường xuyên nhớ nghĩ đến chỗ Phật sinh ra, chỗ Phật giác ngộ, chỗ Phật thuyết pháp và chỗ Phật Niết Bàn. Điều cần thiết là thân phải từ, miệng phải từ và ý phải từ, chuyện khác không cần quan tâm đến. Hôm nay không nên bi lụy, hãy mau vì ta mà đến giữa hai gốc cây Sa La mà sắp đặt chỗ nằm.

Đây là nguyên do tại sao mà ở đầu tất cả mọi kinh điển đều có bốn chữ “Như Thị Ngã Văn”.

70- Những cư sĩ đầu tiên

Có một buổi sáng kia, ánh sáng bình minh đầu tiên vừa mới trải dài trên mặt đất, Đức Phật đã một mình đi tản bộ trên bờ sông. Bỗng nhiên từ xa, có một thanh niên chạy đến với dáng vẻ điên cuồng, miệng không ngớt la thất thanh:

– Khổ quá! Tôi khổ quá!

Người thanh niên chạy đến gần chỗ Đức Phật đang đứng, Đức Phật dùng ánh mắt từ bi nhìn anh ta, anh ta cũng ngờ ngợ nhìn lại Đức Phật. Tướng hảo trang nghiêm của Đức Phật nhiếp được cái tâm điên cuồng của anh ta, nên anh ta quỳ xuống trước mặt Ngài :

– Ngài có phải là vị mà người ta thường gọi là Đức Phật đại từ đại bi không? Xin Ngài từ bi cứu con với! Con tên là Già Xá ở thành Ca Thi, con đang sống trong một tình trạng khổ sở và bất an. Hằng ngày, từ khi mặt trời vừa mới mọc con đã bị những chuyện thanh sắc tài lợi quấy nhiễu không ngừng. Hoàng hôn vừa phủ xuống và ánh đèn vừa thắp lên, thì các cô gái đẹp tập họp lại múa hát trong những buổi yến tiệc huy hoàng. Ban đầu con cũng đã từng một thời đắm say mê mẩn, nhưng ngày qua ngày, con thật tình không tìm được chút lạc thú nào trong đó nữa. Hôm qua khi tiệc vừa tan, con kéo lết cái thân mệt mỏi kiệt quệ này về nhà ngủ. Trong cơn hôn trầm mông lung ấy, con bị một cơn ác mộng khủng khiếp đánh thức và không ngủ lại được nữa. Con bèn ngồi dậy bước xuống giường và ra khỏi phòng ngủ, thì thấy cô đào hát tình nhân riêng của con đang giỡn hớt với một anh kép hát. Lúc ấy con không dằn được, lửa giận hừng hực bừng cháy trong lồng ngực, thần kinh con đâm ra hỗn loạn, do đó con phát điên lên nửa đêm bỏ nhà đi. Suốt quãng đường con như một người mù, chạy một cách điên cuồng, dường như có một sức mạnh nào đó thúc đẩy con. Trong ánh bình minh con chạy đến ven bờ sông Phược La Ca này và thấy hình như Ngài chính là người được xưng tán là bậc Đại Giác, là Phật. Xin Ngài cứu vớt con, tâm con đang hết sức phiền não.

Đức Phật từ bi đưa tay vỗ về Già Xá:

– Thiện nam tử! Ta chính là Phật mà ngươi nói đó. Ngươi không còn gì để phiền não bất an nữa, gặp ta rồi thì sẽ được an ổn tự tại. Bây giờ ngươi hãy tĩnh tâm lại suy nghĩ. Thế gian có buổi tiệc nào kéo dài mãi mà không tàn chăng? Người ta có thể nào thân mật ở chung với nhau hoài? Ngươi không nên buồn sầu, thế giới này căn bổn chỉ là hư ngụy. Trên thế giới này tất cả đều là vô thường, ngay thân thể của ta mà ta còn không thể nương tựa vào được, thì làm sao mà ta muốn có một người khác phải thuộc về ta? Cơ hội được độ của ngươi đã đến, ngươi nên xả bỏ hết mọi thứ đi!

Già Xá nghe được pháp âm của Đức Phật, lửa oán giận trong lòng như được nước cam lồ tưới nhuần. Gã nhìn lên tướng hảo hiền từ của Đức Phật, cảm động rơi nước mắt, vội quỳ xuống đất thống thiết cầu xin Đức Phật cho phép mình xuất gia.

Đức Phật lại dùng ánh mắt từ bi lân mẫn chiếu tới Già Xá mà nói rằng:

– Già Xá, bây giờ ngươi nên lập tức trở về nhà, cha mẹ ngươi hiện đang sốt ruột mà lo lắng cho ngươi đó. Không phải cứ hễ bỏ gia đình thì gọi là xuất gia, vì tuy trên thân khoác áo xuất gia nhưng tâm vẫn nhiễm dục tình thế gian. Một người có thể ở trong chốn rừng sâu núi thẳm nhưng vẫn thường nhớ nghĩ đến những chuyện danh lợi, người ấy không thể gọi là xuất gia được. Còn thí dụ một người thân đeo chuỗi anh lạc quý đẹp nhưng tâm thì quang minh thanh tịnh, hàng phục được kẻ thù phiền não, đối với người khác thì không phân biệt kẻ oán người thân, và còn biết lấy chân lý mà giáo hóa họ thì đó gọi là một người xuất gia chân chính. Vậy ngươi muốn làm hạng xuất gia nào?

– Thế Tôn, Ngài khai thị ý nghĩa của việc xuất gia con đã hiểu rõ ràng và có thể tiếp nhận được. Con thỉnh cầu Thế Tôn từ bi cho con xuất gia theo lối đoạn lìa phiền não, làm một kẻ đi gieo rắc chân lý, làm đệ tử của Ngài, của Đức Phật cao cả.

Đức Phật bèn chấp thuận lời thỉnh cầu của Già Xá và chúng đệ tử của Phật ngày một thêm đông đảo.

Phụ thân của Già Xá là trưởng lão Câu Lê Gia, sáng sớm ngày hôm sau thức dậy nghe gia nhân thưa lại nửa đêm Già Xá vô cớ bỏ nhà ra đi, không biết đâu mà tìm. Ông nghe xong kinh hoàng, lập tức ra lệnh cho gia nhân chia nhau đi bốn phương tám hướng mà tìm kiếm, chính ông cũng tự mình lên đường đi dò hỏi khắp nơi, nhờ thế mà ông lần mò ra tới bờ sông Phược La Cạ Trưởng lão Câu Lê Ca băng qua sông và đi đến chỗ Đức Phật. Đức Phật bảo Già Xá lánh mặt, rồi tự thân ra tiếp trưởng lão Câu Lê Cạ Trưởng lão nói:

– Ông có phải là một vị sa môn không? Tôi chưa từng thấy một vị sa môn nào tướng hảo uy nghi như ông. Ông có thấy thằng con trai của tôi tên là Già Xá không

– Xin mời ông ngồi xuống. Chắc chắn là chúng ta sẽ tìm ra được con trai của ông.

– Thật thế sao? Tôi thấy ông là một người cao quý, chắc chắc là không nói dối!

Trưởng lão Câu Lê Ca bèn ngồi xuống đối diện với Đức Phật . Đức Phật bèn nói rõ cho ông nghe những chân lý như : con người cần những lợi lạc của công đức bố thí, trì giới như thế nào, rồi lại nói đến những phiền não đau khổ mà loài người thường phải chịu, và phú quý như bọt bèo trên mặt nước, không thể dựa nhờ được. Trưởng lão Câu Lê Ca nghe đức Phật khai thị như thế, vô cùng cảm động. Đến khi nghe Ngài chính là thái tử Tất Đạt Đa của nước Ca Tỳ La đã xuất gia thành đạo, vừa cảm kích vừa phấn chấn tinh thần, ông bất giác quỳ xuống trước Đức Phật mà đảnh lễ. Lúc ấy Đức Phật mới gọi Già Xá ra gặp mặt cha.

Thật ra trưởng lão vốn nghi rằng Già Xá đã tự sát rồi, nay thấy con mình vẫn còn sống mạnh khoẻ như thường lại còn quy y với Đức Phật nữa, ông mừng rỡ không bút nào tả xiết, và rất tán thành việc Già Xá xuất gia. Chính ông cũng xin quy y, làm một vị đệ tử tại gia của Ngài. Đó là vị đệ tử Ưu Bà Tắc đầu tiên của Đức Phật.

Câu Lê Ca lại khẩn khoản xin cầu Đức Phật đến nhà mình hôm sau để cho mình được cúng dường. Hôm sau, Đức Phật đưa sáu người đệ tử đến thọ cúng xong, mẹ của Già Xá cũng xin quy y dưới tòa Như Lai, làm người tín nữ tại gia, sống một đời sống gia đình thấm nhuần Phật pháp. Đó là vị đệ tử Ưu Bà Di thứ nhất của Đức Phật.

71- Niệm Phật diệt tội

Khi Đức Phật đã chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, thì có rất nhiều người đi theo Ngài xuất gia học đạo. Dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của Thế Tôn, có rất nhiều người đã chứng quả A La Hán, thoát được sự đau khổ của sinh tử. Các vị này có thể tự do tự tại đi lại khắp mọi nơi trong mười phương không một chút chướng ngại.

Trong số các vị đã chứng quả A La Hán ấy có một vị phát nguyện cứu độ tất cả những người đã có nhân duyên với ngài trong những kiếp trước hay trong kiếp này. Dầu cho họ có đầu thai làm người hay làm súc sinh, ngài cũng tìm đủ mọi cách và vận dụng đủ mọi thần thông để cứu họ giải thoát.

Sau một vài tháng như thế, ngài đã độ hóa được vô số, vô số người, tất cả đều quy y Phật và đều trở thành những Phật tử thuần thành.

Duy chỉ có một người hãy còn ở dưới địa ngục là ngài chưa tìm ra cách nào để cứu được, đó chính là mẹ của ngài ở kiếp này. Lúc còn sống, mẹ ngài không kính trọng người lớn tuổi, hủy báng Tam Bảo, nên chết rồi phải đọa xuống địa ngục, chịu những cái khổ khủng khiếp như bơi trong biển lửa, trèo lên núi dao. Nghiệp chướng của bà quá nặng nề nên tuy có con trai đắc quả A La Hán rồi mà cũng không cứu bà ra khỏi địa ngục được.

Thế nhưng người con hiếu thảo vẫn tha thiết muốn cứu mẹ, tự biết lực của chính mình không đủ, bây giờ phải nhờ đến tha lực.

Vị A La Hán thấy vua của một vương quốc bé nhỏ nọ, tuy còn trẻ tuổi nhưng bản tính hung bạo, đã từng tạo tội giết cha để chiếm ngôi. Cái tội giết cha và thí vua nhất định sẽ chiêu cảm quả báo khổ đau cùng cực.

Vị A La Hán dùng thần thông quán thấy vị hôn quân ngỗ nghịch vô đạo này mệnh sống chỉ còn có 7 ngày, chết rồi sẽ đọa ngay xuống đúng cái địa ngục mà mẹ ngài đang ở để cùng chịu chung cảnh khổ của địa ngục ấy.

Vì muốn cứu mẹ và đồng thời cứu luôn ông vua lẫn tất cả những người đang chịu khổ trong địa ngục, vị A La Hán bèn đến trước mặt vua, hiện thần thông, nửa thân người treo lơ lửng trên hư không.

Ông vua thấy thế hoảng sợ vội rút kiếm ra tính sát hại ngài, nhưng lưỡi kiếm chưa chạm đến thân ngài thì vuột khỏi bàn tay vua rơi xuống đất. Ông vua lấy làm lạ, vừa định mở miệng ra hỏi thì nửa phần thân người đang treo lơ lửng trên hư không bỗng nói trước:

– Có phải cái ngôi báu mà bệ hạ đang ngồi đó, là do bệ hạ chiếm đoạt không? Bệ hạ giết vua cha để soán ngôi, bệ hạ có biết tội ấy nặng như núi không? Nếu bệ hạ không mau mau hối lỗi, trong nội bẩy ngày bệ hạ sẽ chết và đọa xuống địa ngục. Hôm nay tôi đặc biệt đến đây để báo cho bệ hạ biết trước mà sớm sám hối, may ra mới thoát khổ sau này.

Nhà vua nghe thế trong lòng vừa xấu hổ vừa sợ hãi. Nghe rằng cái chết đang kề cận ngay trước mắt, chỉ trong vòng 7 ngày nữa là thọ mệnh chấm dứt rồi sau đó sẽ rơi xuống địa ngục chịu khổ, ông chợt biết những việc ông làm là tội lỗi. Nhà vua khóc lóc thảm thiết, van cầu ngài A La Hán ra tay cứu độ.

Vị A La Hán thương xót sự ngu muội của ông, nói rằng:

– Bây giờ thọ mệnh của bệ hạ chỉ còn có 7 ngày, dẫu có muốn tạo công đức cũng không kịp nữa. Tôi cho bệ hạ biết, nếu trong 7 ngày tới mà bệ hạ có thể xả bỏ tất cả mọi thứ, một lòng thành tâm niệm“Nam Mô A Di Đà Phật” thì có thể nương dựa vào lực đại từ đại bi của Phật A Di Đà mà được độ thoát.

Nghe lời dạy bảo của vị A La Hán, nhà vua nhất tâm nhất ý niệm thánh hiệu Phật A Di Đà.

Quả nhiên 7 ngày sau ông tắt thở, nhưng tâm trí vẫn hết sức tỉnh táo sáng suốt. Ông biết mình đã rơi xuống địa ngục, nhưng nhờ trong ròng rã 7 ngày liền ông đã niệm danh hiệu Phật A Di Đà cho đến mức nhất tâm, nên đến tới cửa địa ngục rồi mà cũng không chút sợ hãi, ông cứ thế tiếp tục niệm danh hiệu Phật.

Khi danh hiệu Phật vừa từ cửa miệng ông xướng lên, thì địa ngục bỗng nhiên mát mẻ, các dụng cụ tra tấn bày hai bên bỗng không cánh mà baỵ Lúc ấy tất cả các tội nhân trong địa ngục đều cùng nhau bắt chước nhà vua niệm Phật. Tâm thành khẩn của mọi người đã giao tiếp được với nguyện lực của Đức A Di Đà, nên nhà vua, mẹ của vị A La Hán cùng hết thẩy mọi tội nhân trong ngục đều được giải thoát và siêu sinh.

72- Niệm Phật được cứu

Thời xưa có một người đàn bà hiền đức và tài giỏi, ở đây tạm gọi là bà Hiền Huệ. Nhờ bà thường lắng nghe Phật Pháp, nên hiểu rõ rằng đời sống con người là tạm bợ và đau khổ. Nếu không tu học Phật đạo, nếu không tự cảnh giác để khỏi phạm tội, thì không kể nam hay nữ, tất cả sẽ vĩnh viễn trôi nổi trầm luân trong sáu nẻo không có ngày chấm dứt. Tuy công việc nhà rất bề bộn, nhưng đi đứng nằm ngồi bà cũng không quên tinh cần niệm Phật. Ngay cả những người hàng xóm hai bên nhà cũng được bà khuyến khích nên cũng chuyên tâm cùng bà tu học, tất cả đều đắm mình trong danh hiệu của Phật nên sống một đời sống an nhiên vui vẻ.

Chỉ có mỗi một điều đáng tiếc là chính người chồng của bà Hiền Huệ thì không thể khuyến hóa được, có lẽ vì cơ duyên chưa chín mùi chăng? Nhưng lỡ như đó là một người dở tệ đến nỗi không có cách nào tiếp nhận được Phật Pháp thì thật là tiêu đời! Bà Hiền Huệ cứ nghĩ đến đây là lo lắng vô cùng, bà suy đi tính lại mãi mà không tìm ra cách nào cải hóa ông chồng.

Một hôm, bà nhìn thấy những đứa bé con hàng xóm đang đùa nghịch với một cái chuông đồng trước mặt nhà bà, bỗng nhiên bà nhanh trí loé ra trong đầu một phương pháp rất hay.

Trời gần tối, chồng về tới nhà, bà nói với chồng rằng:

– Thiếp nghe nói gần đây thường xảy ra nhiều vụ trộm cướp, phu quân đi làm việc, thiếp ở nhà một mình, trước cửa không có ai canh gác, thật là nguy hiểm cho nên thiếp bắt buộc phải đóng chặt cửa lại. Thiếp muốn mua một cái chuông đồng treo trước cửa, phu quân về tới nhà thì lắc chuông vài tiếng, mỗi lần lắc là niệm một câu “Nam mô A Di Đà Phật” làm ám hiệu, thiếp biết là phu quân đã về sẽ ra mở cửa. Làm như thế vừa có thể phòng ngừa bọn trộm cướp, vừa để cho thiếp an tâm làm việc trong bếp.

Người chồng mỉm cười gập đầu:

– Được! Hiền thê nghĩ cách đó rất hay.

Từ đó về sau, người chồng về nhà bắt buộc phải lắc chuông và niệm vài câu niệm Phật, niệm Phật do đó trở thành một thói quen lúc nào ông không hay biết.

Vì người chồng không nghe chính pháp, nên giống như bao nhiêu người khác, không phân biệt rõ thiện ác, mặc cho hoàn cảnh đưa đẩy mà tạo tác các nghiệp. Vì thế nên khi vô thường đến, ông lâm bệnh lìa đời, không đem theo được gì theo mình trừ nghiệp tội là không rời thân. Một con người ở trong vũng lầy ô trọc của tội ác, thì không cần biết tài giỏi đến đâu, lúc ấy cũng không giở trò gì được.

Người chồng bị đẩy xuống địa ngục lớn, trong đó có vạc dầu sôi, núi dao với những hình phạt độc ác ghê rợn nhất. Bọn ngục tốt hung hăng đưa đinh ba trong tay lên nhắm hướng người tội nhân mới đến mà xông tới, muốn dùng đinh ba xóc ông ném vào vạc dầu sôi. Cái đinh ba này bằng sắt, bên trên có treo rất nhiều khoen sắt chạm vào nhau kêu leng keng, làm cho tội nhân càng thêm run sợ.

Âm thanh của những chiếc khoen sắt hay những dụng cụ tra tấn chạm vào nhau giống như tiếng chuông đồng treo trên cửa nhà vợ chồng bà Hiền Huệ, nên người tội nhân mới đến này, tức là chồng bà Hiền Huệ, không thể không buộc miệng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”.

Lạ thay, địa ngục đen ngòm âm u bỗng nhiên sáng rực, ánh sáng không biết từ đâu chiếu đến. Bọn ngục tốt ngừng mọi khí cụ tra tấn trong tay, ngọn lửa phừng phực cũng dập tắt, nguyên cả địa ngục biến thành một nơi thanh tịnh mát mẻ.

Rất nhiều hồn ma đang chịu hình phạt cũng được nghỉ ngơi. Lúc ấy có sứ giả của địa ngục đến ra lệnh với bọn ngục tốt rằng:

– Đem cái người đó lên cõi người, hắn có đầy đủ công đức của việc trì niệm danh hiệu Phật.

Địa ngục trở lại cảnh tượng thê thảm trước, nhưng chồng bà Hiền Huệ thì đã sinh lên cõi người rồi.

Công đức của một câu niệm Phật to lớn như thế, hy vọng những người không niệm Phật sẽ mau mau bắt đầu!

73- Nữ chuyển thành nam

Nghiệp chướng của người nữ so với người nam luôn luôn nặng hơn. Sinh ra làm một người đàn bà, dầu trên bất cứ phương diện nào, cũng không thắng được một người đàn ông. Vì thế, người đàn bà nào trên thế giới này cũng phải sinh tâm tàm quý đã sinh làm thân nữ.

Thời quá khứ, có một cô gái, vì muốn sám hối nghiệp chướng của mình và muốn các đời sau không còn thọ thân nữ nữa, mới đem một bó hoa tươi thắm và thơm ngào ngạt đến chùa dâng cúng Đức Phật. Cô chí thành đảnh lễ tượng Phật và sau đó, ra khỏi chùa đến cửa lớn, thì vừa vặn gặp một vị xuất gia. Cô hỏi:

– Bạch thầy, đem một bó hoa cúng Phật được bao nhiêu phước báo?

– Tôi là người mới xuất gia tu học, chưa rõ lắm về điều cô muốn hỏi. Nhưng tôi có thể đưa cô đến gặp một vị đã chứng quả A La Hán, và cô có thể hỏi ngài.

Vị xuất gia sơ học bèn đưa cô gái đến gặp vị A La Hán, và đem vấn đề cô gái hỏi ra thưa thỉnh ngài. Vị A La Hán trả lời:

– Công đức cô đem một bó hoa cúng Phật, khiến kiếp tới cô sẽ không sinh làm thân nữ nữa, mà được sinh lên cõi trời hưởng phúc suốt cả một vạn kiếp, mà phước báo vẫn chưa dứt hết. Sau đó, còn phước báo nào nữa thì tôi không biết được.

Vị A La Hán không trả lời được cho cô gái một cách hoàn mãn khiến cô vẫn còn bất an. Vị A La Hán bèn nói:

– Cô ở đây chờ một chút, tôi lên cung trời Đâu Suất thỉnh giáo Bồ Tát Di Lặc.

Vị A La Hán nói xong, lập tức đằng không lên cung trời Đâu Suất, hỏi Bồ Tát Di Lặc :

– Có một tín nữ cúng Phật một bó hoa và sám hối nghiệp chướng trong quá khứ. Công đức của cô như thế, nói cho đến cùng tận, thì được bao nhiêu?

Nhưng ngài Di Lặc Bồ Tát cũng không thể biết hết được tường tận vấn đề này, ngài bảo khi nào ngài chứng quả Phật thì mới biết rốt ráo được.

Xem thế mới biết, cúng Phật một bó hoa thôi mà được công đức vô lượng, không thể nghĩ bàn, không thể so sánh. Chỉ cần mọi người chịu phát tâm tu công đức cho nhiều, bố thí cho nhiều, thì không những có thể làm cho nghiệp chướng tiêu trừ, mà phước báo đạt được thì không thể nào hiểu tận cùng được!

74- Ông vua kiểu mẫu

Cách thành Xá Vệ không xa có một khu vườn hoa, tên là vườn Cấp Cô Độc cây Kỳ. Trong vườn cây cối sum sê, cỏ hoa ngào ngạt hương, có phòng ốc, giảng đường đồ sộ. Đây chính là đạo tràng mà trưởng giả Cấp Cô Độc đã hợp sức với thái tử Kỳ Đà dâng lên Đức Phật, và Thế Tôn thường thuyết pháp tại nơi này.

Cũng tại nơi này, không biết bao nhiêu chúng sinh cõi trời, cõi người đã được độ.

Có một hôm, một luồng ánh sáng cát tường huy hoàng bỗng chiếu thẳng tới thiên cung. Thái tử Bích La tại thiên cung biết ngay đây là điềm báo Đức Phật sắp thuyết pháp nên không dám chần chờ, lập tức cưỡi luồng từ quang ấy và trong chớp mắt đã đến vườn Cấp Cô Độc cây Kỳ, lễ bái Đức Phật và yên lặng đứng sang một bên chờ đợi.

Pháp hội đã bắt đầu, thái tử Bích La đứng dậy, cung kính chắp tay thưa với Đức Phật rằng:

– Thế Tôn! Từ quang bi nguyện của Như Lai đã làm lợi lạc cho chúng sinh cùng khắp, công đức vĩ đại ấy con tán thán không bao giờ cùng tận! Hôm nay con có một câu hỏi, thỉnh Thế Tôn giải đáp cho con.

Đức Phật đáp:

– Tốt lắm, ông có điều chi cứ hỏi, ta sẵn sàng trả lời cho ông.

Hoàng tử Bích La mừng rỡ bạch rằng:

– Thế Tôn! Làm người trong khắp cả thiên hạ, ai cũng ôm ấp đầy những mong muốn: muốn mình được khoẻ mạnh không ưu sầu, không bệnh hoạn, muốn con cháu đầy nhà, quyền cao chức trọng, lại muốn ăn ngon mặc đẹp… rồi ngồi đó mà chờ những thứ ấy rơi vào tay mình!

Kỳ thật, làm gì có chuyện không làm gì mà được tất cả, một người không chịu làm việc, vĩnh viễn không thu hoạch được gì hết! Cái mà họ gặt hái được trái lại là khổ nhiều vui ít. Thế Tôn! Trong thế giới tam thiên đại thiên rộng lớn vô biên này, có bao nhiêu người đạt được những vui thú hay sự bình an mà họ mong cầu? Phật là bậc đại giác, thỉnh Ngài cho con biết tại sao cuộc đời lại như thế?

Đức Phật khen ngợi mà trả lời rằng:

– Điều ông muốn nói là muốn cầu phúc báo thì có phương pháp để được phúc báo, song nếu cầu không đúng cách thì dĩ nhiên không đạt được gì hết. Ông nên biết, bất kỳ ở cõi trời hay cõi con người, điều tốt hay xấu mà tự mình đã làm nên thì cũng sẽ do tự mình gánh vác lấy. Chờ khi nghiệp báo tới lúc trổ quả thì trốn không thoát mà ai thay thế cho cũng không được. Một người tạo nghiệp lành thì sẽ được phúc báo, còn giả như một người làm ác bằng đủ mọi cách, thì sẽ gặt hái toàn là tai họa. Đó là nhân quả, không có ai do may mắn mà được quả phúc, cũng không có ai gặp nguy nàn một cách vô cớ. Họa và phúc như cái bóng theo ta bén gót, như âm thanh vừa phát ra thì tai ta liền có phản ứng.

– Thưa vâng, Thế Tôn! Con nghĩ tới một câu chuyện xưa, cũng đúng như vậy, trong đời quá khứ, con nhớ lúc còn làm một vị vua trong loài người, vì rõ biết nhờ đã có hành bố thí nên mới được hưởng phước báo, quốc gia của con mới thịnh vượng, nhân dân mới an lạc như thế. Một hôm, con lại nghĩ, đời người vốn ngắn ngủi, nên lợi dụng lúc còn thì giờ mà hành bố thí và làm chút gì lợi ích cho chúng sinh, hầu trồng trọt hạt giống phúc đức cho tương lai của chính mình.

Vì thế nên vào buổi lâm triều sớm, khi quần thần đã tụ tập đầy đủ, con nói với họ rằng:

– Trẫm muốn bố thí sâu rộng trong quần chúng nên cần có một cái trống lớn, mỗi khi gióng trống lên thì tiếng của nó phải vang xa tới một trăm dặm để cho người ở xa có thể nghe thấy mà mau đến nhận bố thí. Ai tạo cho trẫm được một cái trống như thế, trẫm sẽ trọng thưởng.

Quần thần ai nấy đều im lặng suy nghĩ, vì điều con đòi hỏi không giản dị chút nào. Thật lâu sau, bỗng nhiên có một vị quan đứng dậy tâu:

– Để đáp hồng ân của bệ hạ từ bi cứu tế muôn dân, thần xin nguyện cố gắng hết sức mình để đảm nhiệm việc này.

Đó là một vị đại thần tên là Khuông Thượng, mọi người ai cũng kính phúc lòng trung tín cũng như tài năng của ông, nên họ đồng thanh tiến cử ông lên cho con. Con cũng vui mừng tán thưởng:

– Thế thì hay quá!

– Tuy nhiên, Khuông Thượng tiến lên tâu rằng, có lẽ sẽ phải cần rất nhiều tiền mới làm nên chuyện.

Con ra lệnh cho mở ngân khố quốc gia, và nói:

– Điều đó không thành vấn đề, khanh cần bao nhiêu cứ tự tiện lấy mà chi dùng.

Khuông Thượng bèn lấy trong kho nào tài sản, lương thực, tất cả những gì cần thiết cho đời sống, rồi cho người lấy xe chở hết ra ngoài cung thành, chia ra từng món phẩm vật khác nhau tử tế, xong lại phái người đi khắp nơi truyền rao và dán cáo thị cho dân chúng biết: “Nhờ hồng ân của hoàng thượng, những ai nghèo khó, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, đều có thể đến đây nhận sự trợ giúp.”

Ngoài ra, ông phái sứ giả đức độ tài giỏi đem phẩm vật cần thiết hằng năm cho các vị sa môn và bà la môn, tùy tháng, tùy khu tùy thời mà phân phát.

Từ xa tới gần, một đồn mười, mười đồn trăm, dân chúng trong cả nước ai ai cũng nghe tin ấy, và ai ai cũng không quản lặn lội đường xa nhắm hướng kinh thành mà đi. Cho đến dân chúng trong những nước lân cận cũng nhập theo đoàn người đi nhận vật trợ tế. Những nước nhỏ nghèo đói thì cảm động trước từ bi đức độ của con, nên đua nhau đến xin quy phục.

Mỗi ngày, trước mặt cung thành, khung cảnh náo nhiệt như buổi họp chợ, trẻ già lớn bé dìu dập liên tục tới lãnh của bố thí, họ tay ôm tay xách rất nhiều thứ, không ngừng hướng về vương cung lạy tạ, và cũng không ngừng tán thán nhân đức của nước con:

– Hỡi quốc vương nhân từ! Ngài thương yêu bảo bọc chúng thần như cha mẹ, chúng thần nguyện sẽ mãi mãi ủng hộ ngài, để mãi mãi được che chở dưới chính thể nhân đức của ngài.

Qua một năm, con gặp lại Khuông Thượng, hỏi xem ông ta làm cái trống tới đâu rồi, ông đáp:

– Tuân lệnh của bệ hạ, thần đã làm xong từ lâu rồi!

– Thế sao ta không nghe tiếng trống bao giờ cả?

Con sửng sốt hỏi.

– Kính thỉnh bệ hạ lên xa giá ra ngoài thành khảo sát, chắc chắn ngài sẽ nghe trống pháp của Phật vang xa. Không phải chỉ 100 dặm mà thôi, tới ngàn dặm cũng còn nghe được.

Khuông Thượng cúi mình tâu lên.

Con bèn lên xa giá cùng thị vệ ra khỏi cung điện khảo sát. Thị trấn nào cũng sầm uất tấp nập, nhân dân sống trong sung túc, người nào cũng có vẻ rỡ ràng hạnh phúc, và ai ai cũng cảm tạ ân đức của con. Tự mắt mình chứng kiến điều đó làm cho con rất ngạc nhiên, hỏi Khuông Thượng rằng:

– Nước chúng ta đông dân đến thế ư? Mà tại sao họ lại vui mừng đón tiếp ta một cách nồng hậu như thế?

Khuông Thượng đáp:

– Năm ngoái thần tuân chỉ dụ của hoàng thượng đúc được cái trống to, với mục đích loan truyền rộng rãi trong quần chúng ý muốn từ bi hành đại bố thí của hoàng thượng. Nhưng thần tự nghĩ, làm sao một khúc gỗ khô cùng một tấm da thú có thể nói lên được đức độ của hoàng thượng? Hoàng thượng đã trao cho thần toàn quyền, thì thần tự làm theo ý mình, tức là đem của cải tài sản từ ngân khố quốc gia, tuyển người hiền đức tài năng đúng thời đúng chỗ mà đem phân phát trong tăng đoàn, thay mặt hoàng thượng cúng dường chư tăng không hề gián đoạn để duy trì chính pháp. Muốn cho quốc gia cường thịnh, nhân dân an lạc, thần nghĩ duy chỉ có một cách là làm cho Phật pháp vĩnh viễn lưu truyền trong nhân gian, lấy Phật pháp làm sáng đẹp nhân tâm thì thế gian tự nhiên biến thành tịnh độ. Một mặt lại đem tài vật ra bố thí cho người nghèo khó bần cùng trong nước, từ xa tới gần, cho đến cả những nước nhỏ lân cận nghe tin ấy cũng mau đến xin bố thí, họ cảm động trước nhân đức của hoàng thượng nên đồng đến xin quy phục. Có kẻ từ trăm dăm, từ ngàn dặm, mà cũng có kể đã từ vạn dặm đường xa mà đến. Hoàng thượng nay tự chứng kiến sự mừng vui của dân chúng, đã tự tai nghe họ tán tụng ngài, đó là vì thần đã áp dụng nguyên tắc của “trống pháp” mà đúc trống cho hoàng thượng.

Đức Phật nghe thiên cung thái tử Bích La kể xong, hoan hỉ nói:

– Ông và ta giống nhau, lúc trước trên đường hành đạo, ta gặp ma nạn không ít mà gặp người hộ trì ta cũng nhiều. Ta có ân với người, người cũng có ân với ta, muốn được mọi sự như ý phải thi ân thật nhiều cho người khác!

Thái tử Bích La nghe thế cảm động không cùng, thì ra sinh nơi cõi trời rồi mà vẫn còn phải hành bố thí sâu rộng.

75- Phước đức của hoàng hậu

Đức Phật đã từng nói với chúng ta rằng người hành bố thí là người đang tạo cho mình một gia sản vững chắc. Công đức của bố thí không những thù thắng, mà còn là nơi nương tựa bảo đảm và an toàn nhất. Những người giàu có trên thế gian hiện tại chính là những người đã tạo nhân bố thí trong những kiếp trước, và họ đang hưởng phúc báo của công đức này. Và người hành bố thí thời nay là người đang chuẩn bị hưởng hạnh phúc trong tương lai.

Thời xưa ở Ấn Độ có một bà hoàng hậu, lòng tin Phật pháp rất thâm sâu và thành khẩn. Bà chỉ thích làm hai việc là bố thí và tạo công đức. Vì thế nhân dân trong vương quốc rất thương mến tôn kính bà, và ngay trong cung, bà cũng được tất cả mọi người suy tôn.

Một hôm, bà khoác vào người một bộ y phục lụa là tuyệt đẹp, trên đầu đội vương miện bằng trân châu để đi dạo trong vườn hoa với nhà vuạ Nhà vua ngắm nhan sắc kiều diễm của hoàng hậu và nói:

– Ái khanh của ta! Nàng nghĩ xem, nàng sửa soạn thật là xinh đẹp, phú quý mà nàng đang hưởng mà ít ai có được. Nhờ ta mà nàng mới có một cuộc sống vinh quang như thế, nàng thấy có đúng không? Ta là vua, nàng là hoàng hậu, ta ăn thì ăn ngon, mặc thì mặc đẹp, nhà ở thì lộng lẫy, những niềm phúc lạc ấy nàng đều chia xẻ với ta, thế thì ái khanh ơi, nàng phải thương yêu ta lắm mới phải!

– Đại vương, thiếp phải luôn luôn thương yêu và cảm tạ đại vương. Nhưng phú quý thiếp được hưởng ngày hôm nay, không phải là nhờ đại vương ban cho mà là nhờ phúc báo sẵn có của thiếp. Giữa chúng ta chỉ có quan hệ vợ chồng, còn nói tới phúc báo của người này hay người kia, thì phải nói là nhờ nhân thiện do chính họ gieo trồng chứ không ai ảnh hưởng ai được!

Những câu nói của hoàng hậu không làm cho vua bằng lòng chút nào nhưng ông không trả lời, chỉ hầm hầm quay trở về vương cung. Ông muốn chứng tỏ cho hoàng hậu phải thấy rằng những quan niệm của bà không đứng vững.

Khuya đêm hôm ấy, chờ hoàng hậu ngủ say rồi, ông lén cởi chiếc nhẫn quý giá mà hoàng hậu đang đeo trên tay rồi đem ném xuống sông. Vua làm điều này một cách bí mật, không có một người nào trông thấy. Hôm sau hoàng hậu tỉnh giấc, thấy chiếc nhẫn không cánh mà bay bèn hỏi vua:

– Quân vương! Chàng có thấy chiếc nhẫn của thiếp không?

– Làm sao ta thấy được? Nhẫn nàng đang mang trên tay tại sao lại hỏi ta? Không lẽ một người sẵn có phúc đức như nàng mà cũng bị mất nhẫn ư?

Nhà vua trả lời một cách châm biếm.

– Vâng, nếu thiếp có phúc có phần và nếu chiếc nhẫn ấy thuộc về thiếp thì chắc chắn là nó không mất, ngược lại nếu thiếp không được sở hữu một vật nào đó mà cứ cưỡng ép để mà có thì cũng chỉ vô ích mà thôi.

Thái độ của hoàng hậu rất thản nhiên và tự tại. Tuy đó chỉ là một chiếc nhẫn, nhưng trên chiếc nhẫn có gắn một viên bảo châu vô giá, thế mà chiếc nhẫn mất đi không làm cho hoàng hậu phiền não hay ưu tư chút nào. Nếu chuyện ấy xẩy ra cho nhà vua, chắc là ông đã lo lắng ghê gớm lắm, vì thế ông mới lập ra mưu kế ấy để đánh đổ cái lý luận tự cho mình là phi phàm của hoàng hậu.

Lạ thay, ba ngày sau, cung nữ trong nhà bếp mổ bụng một con cá thì tìm ra chiếc nhẫn mà hoàng hậu đã mất mấy hôm naỵ Vua nghe tin này ngạc nhiên cùng cực, lúc ấy ông mới tin tưởng chắc chắn rằng phúc đức là điều bất khả tư nghì.

Số là sau khi chiếc nhẫn bị vua ném xuống sông rồi, thì liền bị một con cá bơi ngang chỗ ấy đớp vào bụng mất. Mới nuốt xong chiếc nhẫn, nó rơi ngay vào lưới của một người đánh cá và người này đem mẻ cá mới lưới được bán cho triều đình. Mọi sự việc ăn khớp với nhau chặt chẽ, chỉ cái phước vô song của hoàng hậu mới khiến cho chiếc nhẫn đã mất mà tìm lại được.

Từ đó trong cách đối xử với hoàng hậu, vua không dám tỏ ra mình là người thi ân nữa, vì phúc của ai thì người đó hưởng vậy. Tội báo hay phúc báo đều như bóng theo hình.

Phúc báo là do bố thí, do cúng dường mà có. Làm người nên bố thí, nên cúng dường cho nhiều là vì lý do này.

76- Quả báo ác khẩu

Hai bên bờ sông Thắng Huệ của thành Quảng Nghiêm là nơi sinh sống của rất nhiều dân chài lưới. Mỗi ngày họ đều đến sông Thắng Huệ đánh cá, đời sống trôi qua rất đầy đủ và thư thái.

Sông Thắng Huệ giáp ngay biển lớn, và trong lòng biển có đủ loại cá lớn nhỏ, con số vô tận, nhiều không sao tính đếm nổi. Số cá câu hay lưới được từ dòng sông này hầu như nuôi sống được nguyên cả thành Quảng Nghiêm.

Bình thường, trời vừa lờ mờ sáng là cứ hai, ba chục người đánh cá họp nhau thành một đoàn, đem lưới nhỏ lên thuyền ra khơi đánh cá.

Từ khi nhờ con sông này mà sinh sống, cho đến bây giờ, ngày nào họ cũng mang về những mẻ lưới phong phú, chưa lần nào trở về tay không.

Gặp những ngày hội, ngày lễ lớn cần phải cung cấp nhiều cá hơn, ngư dân bèn ôm lưới to và cứ sáu, bảy chục người lập thành đoàn cùng nhau ra khơi quăng lưới, lưới to thì đương nhiên bắt được nhiều cá hơn, thế mà trong những ngày lễ lược tưng bừng ấy số cá mang về đều bị mua sạch không còn một con.

Có một hôm, cũng nhằm lễ lớn tại Quảng Nghiêm thành, người mua cá đặc biệt đông. Trời chưa sáng mà dân xóm chài bên bờ sông Thắng Huệ đã mang lưới to lưới nhỏ ra giữa lòng sông. Lưới nhỏ tương đối dễ giăng, nên chẳng mấy chốc đã vớt được không biết bao nhiêu là cá, rùa, ba ba v.. . đủ loại, đổ lên bờ chồng chất như một hòn núi nhỏ.

Đúng lúc ấy có một con cá Ma Yết khổng lồ đang ngủ trong lòng biển rộng, lúc thủy triều dâng lên nó bị cuốn trôi vào sông Thắng Huệ. Có lẽ mệnh số đã định sẵn, nên chỉ một cơn sóng nước dội tới là nó đã nằm gọn trong lưới, khi giật mình tỉnh giấc, có vẫy vùng dẫy dụa mấy đi nữa cũng không thoát được mạng lưới trói buộc kia.

Con cá này rất to và sức nó rất mạnh, phải có rất nhiều người hợp lực để kéo lưới, thế mà đã không những không lôi được cá lên bờ mà còn bị cá kéo ngược lại ra biển.

Người trên thuyền đánh cá hô hoán lên cầu cứu. Khi ấy, có rất nhiều người đang đứng xung quanh núi cá trên bờ, đột nhiên nghe tiếng cầu cứu họ giật mình kinh hoàng, thấy đồng bạn đang gặp cảnh nguy khốn, không suy nghĩ gì nữa, tất cả đều ùn ùn nhẩy xuống nước giúp kéo lưới một tay.

Phải có cái sức mạnh như trâu như cọp ấy họ mới kéo được con cá khổng lồ kia lên bãi cát. Để được như thế, tuy có rất nhiều người bị thương chảy máu, mạng lưới bị rách nhiều chỗ, nhưng cũng may không có người nào bị tổn hại đến sinh mệnh.

Chưa ai từng thấy hay nghe nói tới một con cá khổng lồ như thế, kể cả những người đánh cá lớn tuổi. Nhưng kỳ quái hơn nữa là trên đầu của con cá này có nhiều cái đầu nhỏ mọc lên, mà những cái đầu nhỏ này lại không giống nhau : có cái giống đầu chó, có cái giống đầu ngựa, đầu bò, đầu mèo, đầu lợn, đầu voi, quái đản lạ lùng khiến những người đứng nhìn đều phải trố mắt kinh ngạc.

Tin có một con cá lạ bị bắt lan truyền ra khắp cả thành Quảng Nghiêm, khiến có thêm vô số người hiếu kỳ chạy tới xem, ai nấy đều thấy đó là một việc chưa từng có.

Tâm từ bi của Đức Phật chỉ nghĩ đến việc lợi ích chúng sinh, không có thời khắc nào là không quan hoài đến sự khổ đau hay sung sướng của tất cả hữu tình. Lúc ấy Ngài cũng đang ngụ trong thành Quảng Nghiêm, biết là con Ma Yết Ngư nọ đang gặp nạn, do vì trong tiền kiếp nó đã từng gieo trồng thiện căn và cũng có nhân duyên với Phật nên Đức Phật cùng A Nan và các tỳ kheo đồng đến bên bờ sông Thắng Huệ.

Dân chúng từ mọi nơi kéo đến xem cá, thấy Đức Phật quang lâm, bèn vội đến đón rước Ngài và dạt ra một bên nhường đường cho Ngài đến gần con cá Ma Yết. Cá đang nằm trên bãi cát, giương hai con mắt vĩ đại lên nhìn Đức Phật, Ngài lân mẫn đưa bàn tay ra vỗ đầu nó và hỏi :

– Ngươi có phải là Kiếp Tỷ La không?

Nghe Đức Phật hỏi như thế, kỳ lạ thay, con Ma Yết Ngư biết trả lời rằng:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Con chính là Kiếp Tỷ La đây!

Đức Phật tiếp tục hỏi:

– Ngươi biết ác nghiệp đã tạo trong quá khứ chăng? Ai là người xui giục ngươi tạo tội để kiếp này phải chịu quả báo vậy?

– Con đã hiểu rằng quả báo khổ ngày hôm nay hoàn toàn do chính con tạo nên trong kiếp trước. Chỉ vì mẹ con không tốt nên đã khiến cho con tạo nghiệp.

Con cá Ma Yết nói một cách đau khổ, hai giọt lệ lớn từ mắt nó lăn xuống.

Những người đứng xem xung quanh thấy như thế, vừa quái lạ vừa cảm động. Sau đó, họ nghe giọng từ bi của Đức Phật:

– Bây giờ mẹ ngươi đã bị đọa xuống địa ngục chịu khổ, còn ngươi thì đầu thai làm cá trong đường súc sinh. Ngươi có biết chết rồi ngươi sẽ sinh về đâu không?

– Thế Tôn từ bi! Xin Ngài cứu con với, vì hết thân cá này rồi con sẽ đọa địa ngục.

Nước mắt nhoè nhoẹt, cá Ma Yết nhìn Đức Phật khẩn khoản cầu cứu, hai con mắt to như hai hạt đậu như mong chờ bàn tay cứu độ của Đức Phật.

– Bây giờ ngươi sinh làm thân cá, không có cách nào cải đổi tình thế được. Ta chỉ còn cách là thuyết cho ngươi nghe ba câu Pháp, ngươi hãy cố ghi nhớ cho thật kỹ thì có thể siêu thăng: tất cả các hành đều vô thường, tất cả các pháp đều vô ngã và Niết Bàn là tịch tĩnh. Đó gọi là Tam Pháp Ấn.

Nghe lời đối thoại giữa Đức Phật và cá Yết Ma như thế mọi người đều lấy làm lạ, làm sao mà con cá này có thể nói tiếng người? Lại còn có thể nhớ lại chuyện kiếp trước nữa?

Đức Phật là bậc đại Thánh nên biết rõ tâm ý của đại chúng, Ngài giảng cho họ nghe nhân duyên quá khứ:

Trong một kiếp xa xưa, thời Ca Diếp Như Lai còn tại thế, có một vị đại Bà La Môn, tên gọi là Kiếp Tỷ La Thiết Nạ Ông này học vấn uyên bác, biện tài siêu việt, mỗi lần ông tham dự đại hội biện luận nào là đều thắng tất cả mọi người, một mình chiếm ngôi thủ tọa.

Mỗi lần như thế các nước khác phái đến rất nhiều luận sư nhưng không ai qua được mặt ông, điều đó khiến nhà vua rất đẹp lòng và thưởng cho ông vô số châu báu.

Về sau, Kiếp Tỷ La Thiết Na lấy vợ sinh con, cũng đặt tên cho con trai là Kiếp Tỷ La. Cậu bé này sinh ra rất xinh xắn, kháu khỉnh. Lớn lên, nhờ cha dạy dỗ nên cậu cũng có học vấn uyên thâm, biện tài cao cường, so với cha có phần tinh nhuệ hơn, thông minh hơn. Vì thế, cha cậu đem 500 vị đồ đệ của mình giao cho cậu dạy dỗ, còn ông thì chu du các nơi, và thân cận với đệ tử của Phật. Cuối cùng, tuổi già lâm bệnh ông bèn quay về nhà, lúc gần tạ thế ông gọi con đến dặn dò:

– Cha đã biết rằng học vấn và biện tài của con có thể thắng tất cả mọi người, nhưng ta muốn nói với con rằng, tuyệt đối không được biện luận với đệ tử của Đức Phật, vì cái học của các vị ấy là chân lý siêu việt thế gian. Nếu con biện luận với họ chắc chắn sẽ nắm phần thất bại trong tay.

Không bao lâu sau, Kiếp Tỷ La Thiết Na qua đời. Khi có một vị luận sư chết đi thì tất cả các nước khác đều chú ý, họ nghĩ rằng nước ấy không còn luận sư giỏi nữa, nên tới tấp kéo nhau đến. Nhà vua cũng lo sợ điều ấy, nên đăng bảng chiêu tài, và kết quả là Kiếp Tỷ La trúng tuyển. Đại hội biện luận ngày hôm ấy, Kiếp Tỷ La ngồi trên đài cao, quốc vương, đại thần cùng với các học sĩ trong nước ai cũng đến xem nghe, khỏi cần nói, Kiếp Tỷ La biện luận thắng mọi người. Với trí thông minh và biện tài của cậu, những người khác làm sao đối lại được! Từ đó danh tiếng của Kiếp Tỷ La lừng lẫy, nhà vua đẹp dạ ban cho cậu chức Luận chủ. Tuy cậu là một vị Luận chủ được tất cả mọi người ngưỡng mộ, song mẹ cậu vẫn chưa thấy thế là đủ, nên một hôm bà bảo con rằng:

– Con à, tuy con là Luận chủ, nhưng con có thật sự thắng hết được tất cả mọi người trên thế giới này không?

– Trừ các vị đệ tử của Phật ra, con quyết chắc có thể biện luận thắng bất cứ luận sư nào.

Mẹ cậu nghe thế không đồng ý, nói rằng:

– Tại sao con không biện luận với mấy ông tỳ kheo? Nếu con luận không thắng họ, thì địa vị luận chủ của con khó có thể vững chắc.

– Không! Lúc cha hấp hối có dặn con rằng tuyệt đối không được biện luận với đệ tử của Phật, bằng không chắc chắn sẽ nắm phần thất bại.

Kiếp Tỷ La nhớ rất rõ lời trăn trối của cha, cậu rất tôn trọng điều cha dặn dò nên chưa hề có ý muốn biện luận với các tỳ kheo, nhưng mẹ cậu giận dỗi nói:

– Đừng nhắc tới cha con, ông ấy đã bị Phật mê hoặc nên mới nói thế, không lẽ con cũng muốn làm nô lệ của Phật nữa sao?

Kiếp Tỷ La vốn là một đứa con có hiếu, không dám làm trái ý mẹ, nên mới đến chỗ cư ngụ của Như Lai muốn thử biện luận với các tỳ kheo chút xem sao, nhưng cậu cũng rất lo sợ vì chẳng biết chút gì về Phật pháp.

Tới vườn Lộc Dã, Kiếp Tỷ La không dám liều lĩnh làm càn, cậu nghĩ trước hết nên thám thính, đợi thu thập chút ít hiểu biết về Phật lý, rồi sau đó hẵn biện luận với các tỳ kheo. Trên đường đi cậu gặp một vị xuất gia, bèn hỏi rằng:

– Kính thưa đại đức, ở đây quý vị có bao nhiêu người hết thảy? Ai là thầy chỉ đạo của quý vị? Đạo lý mà các vị nghiên cứu đó nói về điều gì?

– Ở đây chúng tôi ước chừng có hơn 2 vạn người, thầy chúng tôi là bậc đại giác Ca Diếp Như Lai, và chúng tôi nghiên cứu tam tạng kinh điển là tạng kinh, tạng luật và tạng luận.

Nghe thế Kiếp Tỷ La mừng rỡ, hỏi thêm:

– Mỗi tạng có bao nhiêu bài tụng?

– Mỗi tạng có mười vạn bài tụng.

Vị xuất gia nói tới đây, hỏi ngược lại rằng:

– Tôi thấy ông là người có học vấn, bây giờ tôi có vài câu kệ, xin ông giải thích cho tôi.

Kiếp Tỷ La đồng ý, vị xuất gia bèn đọc kệ rằng:

– Hà chỉ lưu đương chỉ? Hà chỉ đạo ưng hành? Thế gian khổ lạc sự, hà xứ đương cùng tận? (Dòng lưu chuyển cái gì chận lại thì nên ngừng? Con đường đạo, cái gì chận lại nhưng vẫn cứ phải đi? Những chuyện vui buồn trên thế gian, chỗ nào là chỗ chấm dứt?)

Tuy là một vị Luận chủ học vấn uyên bác, nhưng Kiếp Tỷ La không cách nào giải thích những câu kệ trên, cuối cùng chính vị xuất gia phải giải thích cho cậu nghe. Nghe chân lý ấy xong, như bắt được kho tàng, Kiếp Tỷ La từ biệt vị xuất gia và muốn đem chút hiểu biết mới có được đi biện luận với các vị xuất gia khác. Nhưng những hiểu biết của cậu quá nhỏ nhoi, cuối cùng làm sao thắng các vị xuất gia cho được!

Kiếp Tỷ La thẹn quá hóa khùng, chửi rủa lung tung, dùng lời vô lý để thoá mạ các vị tỳ kheo, rồi còn hủy báng cả Đức Phật nữa.

Vì thế nên chết rồi cậu bị đoa. làm thân cá và mang cái hình thù quái đản hôm naỵ Không nên tạo khẩu nghiệp, nếu không quả báo sẽ theo sát bên chân!

77- Quả báo của sự keo kiệt

Ở miền Nam Ấn Độ cách Vương Xá Thành không xa, có một khu rừng trúc u nhã, yên tịnh tên là Ca Lan Đà, trúc trong ấy vừa cao vừa rậm rạp. Trong khu rừng trúc ấy có một tinh xá cao to tráng lệ, do vua Tần Bà Sa La xây cúng dường Đức Phật, đó chính là Trúc Lâm tinh xá. Đây là nơi mà Đức Phật cùng rất đông đệ tử của Ngài cư ngụ, cũng là nơi mà Đức Phật giảng kinh thuyết pháp cho rất nhiều người nghe.

Hai vị đệ tử thượng thủ của Ngài, ngài Xá Lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên, lần nào trước khi dùng cơm cũng vận dụng thần thông “từ bi” (thần thông này do lực từ bi mà có) để quan sát các chúng sinh đang chịu khổ trong ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, xem có cơ duyên nào cứu độ họ được hay không, rồi mới dùng cơm.

Có một lần tôn giả Mục Kiền Liên quan sát thế giới ngạ quỷ, thấy có một ngạ quỷ rất đáng thương. Thân nó giống như cây cột cháy, bụng thì to như gò núi, hễ đưa bất cứ thứ gì lên miệng thì thứ ấy lập tức biến thành những cây kim bằng sắt. Đã thế mà còn thường thường khạc ra lửa khói, tự đốt cháy mặt mày, tóc tai thì cứng như dao kiếm, suốt ngày khóc lóc kêu than, đói khát muốn chết thế mà một giọt nước cũng không nuốt được, vì hễ đem nước lên tới miệng thì nước liền biến thành máu. Thấy tình cảnh ngạ quỷ thống khổ như thế, Mục Kiền Liên mới tiến đến trước mặt nó hỏi:

– Ngươi đã tạo nên nghiệp tội gì mà bây giờ phải chịu khổ như thế này?

– Bạch tôn giả, hễ chỗ nào có mặt trời chiếu thì không cần thắp ngọn đèn dầu leo lét. Trí huệ Đức Phật như kính sáng, có thể chiếu rọi chúng sinh trong mười phương. Bất kỳ người nào tạo nghiệp tội trong quá khứ, hiện tại và vị lai cũng được kính trí huệ của Ngài soi rõ, không thiếu sót mảy may nào. Tôi đã tạo tội ác gì, ngài có thể thỉnh hỏi Đức Phật thì rõ. Bây giờ tôi quá đói khát, không trả lời cho ngài được, xin ngài thứ lỗi.

Ngạ quỷ nói với ngài Mục Kiền Liên như thế xong, lại tiếp tục rên rỉ kêu than. Tôn giả Mục Kiền Liên liền đi tìm Đức Phật bái kiến. Lúc ấy Đức Phật đang thuyết giáo nghĩa cứu cánh cho các tỳ kheo, thấy dáng điệu vội vàng của ngài Mục Kiền Liên liền hỏi:

– Mục Kiền Liên, ông có việc gì mà cuống quýt lên như thế?

– Vâng, bạch Thế Tôn! Con có một điều không giải quyết được, nên phải tới đây thỉnh Thế Tôn khai thị.

Đức Phật từ bi trả lời:

– Có chuyện gì ông cứ nói.

– Vừa rồi con quan sát trong địa ngục có một ngạ quỷ thân thể bị cháy sém, cổ họng như lỗ kim, bụng to như cái thùng, không ăn được bất cứ món gì, không ngừng đi lùng kiếm thức ăn nhưng cứ hễ đưa thức ăn lên miệng thì thức ăn biến thành kim sắt. Ngạ quỷ này đã làm nên tội gì mà phải thọ một quả báo như vậy, cúi xin Thế Tôn thuyết giải cho chúng con rõ.

Trước khi Mục Kiền Liên bắt đầu kể, Đức Phật đã biết rõ chuyện gì đã xẩy ra nên mới thuận theo cơ duyên này mà nói với các đệ tử trong pháp hội:

– Các ông hãy nghe cho kỹ, ta sẽ nói cho các ông rõ.

Cách đây rất lâu trong thành Xá Vệ, có một người rất giàu có, làm nghề ép mía lấy nước ngọt bán, công việc làm ăn thịnh vượng, trong nhà tấp nập công nhân thợ thuyền. Lúc ấy có một vị Bích Chi Phật, vì muốn hóa độ tất cả chúng sinh nên thị hiện chứng bệnh hay khát nước. Có một người khuyên ngài nên uống nước mía ép, vì thế ngài bèn đến nhà ông nhà giàu nọ xin nước mía uống.

Người này thấy có Bích Chi Phật đến, sinh lòng cung kính, hoan hỉ cúng dường nước mía cho ngài. Nhưng ông có việc gấp phải đi ra ngoài, không thể tự tay cúng dường, bèn giao việc này cho bà vợ và căn dặn rằng: “Bà hãy thay tôi đem nước mía lên cúng dường Bích Chi Phật”. Bà vợ trả lời: “Vâng, tôi đem lên liền”. Ông nhà giàu đi rồi, bà vợ bèn nghĩ “Nước mía rất quý, từ trước đến nay nhà ta chưa bao giờ đem cho ai uống không. Nếu hôm nay cho ông này uống, sau này sẽ có nhiều người đến xin nữa”.

Tâm keo kiệt phát khởi, bà lén thi hành độc kế bằng cách lấy một cái bát bằng sắt, đổ nước dơ uế vào rồi mới đổ một chút nước mía lên trên, xong bưng lên đưa cho Bích Chi Phật uống. Vị Bích Chi Phật đón lấy cái bát, biết ngay việc làm tội lỗi của người đàn bà, nên đổ những món bẩn thỉu trong bát xuống đất, lấy nước rửa bát sạch sẽ rồi bỏ đi.

Không lâu sau ấy mệnh sống người của đàn bà keo kiệt chấm dứt, đọa xuống làm ngạ quỷ, thường bị đói khát và bị lửa nghiệp đốt thân. Nghiệp khổ này còn phải kéo dài đến 90 ngàn năm nữa mới hết.

Đức Phật thuyết xong nhân duyên của người đàn bà keo kiệt bị đọa xuống làm ngạ quỷ, khiến tứ chúng trong pháp hội đều bỏ tính keo kiệt tham lam, ghê sợ chuyện sinh tử, ai cũng chứng được quả thánh, hoan hỉ tán thán rồi lui đi.

78- Quỷ mẹ

Lúc Đức Phật thuyết pháp ở nước Đại Đâu thì ở trong nước ấy có một người đàn bà sinh được rất nhiều con, và rất thương yêu con của mình nhưng lại thích bắt cóc con người khác về ăn thịt.

Những người làm cha mẹ ở nước Đại Đâu rất lo sợ, sợ con mình bị bắt cóc mất.

Các vị tỳ kheo đi từ ngoài đường về đem chuyện này kể cho Đức Phật nghe, Ngài biết ngay đây không phải là một người đàn bà tầm thường. Ngài biết trong nước này có một con quỷ rất thích bắt cóc con người ta ăn thịt, và không thể dùng một vài câu nói mà cảm hóa nó được.

Đức Phật bảo một vị tỳ kheo, thừa lúc quỷ mẹ vắng nhà, bắt đứa con út mà nó thương yêu nhất, tên là Tần Già La đưa về tinh xá.

Vì thế, khi quỷ mẹ về tới nhà không thấy đứa con út bé bỏng của mình, đau khổ bỏ ăn bỏ uống khóc lóc không ngừng, chỉ trong mấy ngày thôi mà tưởng chừng như muốn hóa điên lên được.

Một hôm, Đức Phật cố ý tìm cơ hội đến gặp nó, hỏi rằng:

– Ngươi có việc gì mà khóc lóc thảm thương như thế?

Quỷ mẹ nhìn thấy đức Phật, tạm ngừng khóc một lúc, quẹt nước mắt mà trả lời:

– Tại vì lúc con đi vắng nhà, không biết ai lẻn vào bắc cóc mất đứa con dễ thương nhất của con đi rồi!

– Ngươi không ở nhà giữ con, để cho người khác lẻn vào bắc cóc mất, vậy chứ lúc đó ngươi đi đâu? Ngươi đi ra ngoài để làm gì?

Khi Đức Phật đặt câu hỏi như thế, quỷ mẹ giật mình, vì lúc con của nó bị người ta bắt mất cũng chính là lúc nó lẻn vào nhà người khác bắt cóc con người ta, đó là một quả báo đương nhiên phải xẩy ra vậy.

Quỷ mẹ nói điều ấy cho Đức Phật nghe xong, lúc đó nó mới thấy mình tàn nhẫn và sai lầm, trong tâm sinh khởi một niệm hối hận, tức khắc nó liền gieo năm vóc xuống đất đảnh lễ Đức Phật. Đức Phật lại hỏi :

– Ngươi có thương con của ngươi không?

– Tần Già La là đứa nhỏ mà con thương yêu nhất, một khắc cũng không rời nó ra. Con không thể nào sống mà không có nó, không có nó, con chỉ có nước chết mất mà thôi!

Đức Phật bèn nắm lấy cơ hội đó để khai thị cho nó:

– Ngươi thương con của mình ra sao, thì người khác cũng thương con của họ như vậy. Ngươi đau khổ vì mất con, mà lại đi bắt cóc con người ta để ăn thịt, thì người ta cũng đau khổ không khác gì ngươi. Bây giờ ngươi có muốn tìm thấy con của ngươi không?

– Nếu có ai tìm được Tần Già La về cho con, thì bảo con làm gì con cũng làm cả!

Đức Phật biết là quỷ mẹ đã chuyển tâm hối hận rồi mới nói:

– Ta có thể giúp ngươi tìm ra con của ngươi lại, nhưng ngươi có thật sự ăn năn tội ác của ngươi lúc trước, tức là tội đi bắt cóc con của người khác về ăn thịt không

– Con rất ăn năn! Thế Tôn, xin Ngài từ bi chỉ giáo cho con, Ngài dạy con làm chi con sẽ làm y như vậy!

Đức Phật nói:

– Từ nay trở đi, thứ nhất ngươi không được sát sinh, thứ hai không được trộm cắp, thứ ba không được tà dâm, thứ tư không được vọng ngữ, thứ năm không được ăn uống loạn xạ, mà còn phải lấy tình thương trời sinh của một người mẹ hiền mà lo lắng cho con của thiên hạ.

– Không cho con ăn thịt trẻ con thì từ giờ về sau con ăn cái gì được?

Quỷ mẹ hỏi.

– Ta sẽ bảo đệ tử của ta, mỗi lần được người ta cúng dường thì sẽ trích ra một phần thức ăn bố thí cho ngươi dùng trước.

Quỷ mẹ vô cùng vui mừng, nhận lãnh lời giáo huấn của Đức Phật một cách thành khẩn.

Đức Phật đem đứa con Tần Già La trả lại cho nó, nó mừng đến mức không có ngôn ngữ chữ nghĩa nào có thể diễn tả nổi, bèn phát nguyện là từ đây trở đi, sẽ hộ trì cho tất cả các đứa trẻ con của người khác.

Thời nay, khi ăn cơm, người xuất gia hay trích ra trước một phần thức ăn, chính để bố thí cho quỷ mẹ là do sự tích này vậy.

79- Rắn trả ơn

Lúc Đức Phật Thích Ca còn ở Nhân địa tu Bồ Tát đạo, Ngài đã từng sinh ra làm một vị đại phú ông rất giàu có. Cây gỗ trong rừng và mỏ khoáng trong núi thuộc sở hữu của ông dùng suốt đời cũng không hết, còn nói về tiền bạc thì phải đếm lên tới cả ngàn vạn ức kim tiền, tha hồ xử dụng chi tiêu. Ông là người từ bi, hỷ xả, thường thường bỏ ra cả ngàn lượng, cả vạn lượng vàng đem bố thí mà không chút tiếc nuối. Ông cũng hay lảng vảng trong chốn chợ búa, chờ thấy con thú vật đáng thương nào sắp gặp nạn, sắp bị giết làm thịt thì vội vàng chạy tới mua về phóng sinh. Phóng sinh là tâm nguyện duy nhất của ông phú hộ nhân từ này, nên được người đời đặt tên là Thiện nhân.

Có một hôm, vị phú ông nhân từ ấy thấy ngoài chợ có một con rùa rất lớn, đang mở to hai mắt chăm chú nhìn ông. Con rùa có vẻ thống khổ vô hạn, nước mắt trào ra, như thể đang cầu xin ông cứu giúp.

Thấy thế ông rất buồn,vội vàng tiến đến xin mua con rùa. Người bán rùa, dĩ nhiên là muốn bán con rùa đi nhưng khi thấy Thiện nhân đến hỏi giá tiền, thì cố ý làm khó dễ, trả lời là không muốn bán. Thiện nhân từ bi tha thiết muốn cứu mạng con rùa nên nài nỉ xin muạ Người bán rùa nói:

– Nếu ông nhất định muốn mua thì phải trả cho tôi một vạn đồng tôi mới chịu bán, bằng không thì tôi đem nó về giết làm thuốc uống!

Thiện nhân không chút do dự, đưa ra một vạn đồng mua rùa mang về.

Người bán rùa lòng dạ đen tối ấy tuy có một vạn đồng bỏ túi nhưng nhà bị ăn trộm, rồi lâm bệnh nặng, sau đó còn bị cháy nhà khiến cho một vạn đồng tiền bị thiêu rụi, cuối cùng xơ xác lại hoàn xác xơ.

Thiện nhân mang con rùa lớn về nhà, đem những món ăn ngon lành nhất cho ăn, rồi thấy miệng rùa có vết thương, vội lấy thuốc bôi cho nó. Không lâu sau, vết thương trên miệng rùa đã lành, ông cho xe chở rùa ra bờ biển thả xuống nước, trả tự do cho nó về với trời đất.

Cách đó không lâu sau, vị phú ông từ bi đang ngồi tham thiền thì bỗng nhiên có tiếng gõ lạch cạch ở cửa sau. Ông đến mở cửa xem, thì ra đó là con rùa được ông cứu lúc trước. Con rùa mở miệng ra nói với ông rằng:

– Ân nhân, không lâu nữa ngôi thành này sẽ gặp nạn lớn. Dân chúng ở thành này nghiệp tội rất nặng, bây giờ nghiệp đã đến thời phải trả, không thể nào tránh khỏi tai họa. Chỉ có hai nhà là không nằm trong số người phải trả báo, một là nhà của ngài, hai là nhà của vuạ Ngày đó tháng đó, nguyên ngôi thành này sẽ chìm lỉm dưới nước sau một trận lụt vĩ đại. Xin ân nhân cùng vua sớm chuẩn bị mướn người đóng tàu, hẹn nhau khi thấy nước lớn vừa dâng lên thì mau lên tàu, thuận theo dòng nước mà đi, tự nhiên sẽ tìm được nơi nương náu.

Con rùa lớn nói xong quay đầu đi mất. Thiện nhân rất ngạc nhiên, nhưng được một con rùa biết nói báo nguy trước, không thể không tin. Hôm sau ông bí mật báo cho vua biết chuyện đêm qua, họ cấp tốc chuẩn bị mọi sự. Đúng y như rằng, không bao lâu sau, nạn lụt xẩy ra trong thành. Khi một con nước lũ vừa ập đến là con rùa kia cũng xuất hiện, thôi thúc họ lên tàu mà đi. Con rùa bơi đằng trước, bảo họ rằng:

– Xin đi theo tôi, đừng để lạc mất phương hướng!

Khi con tàu đang lướt trên dòng nước lũ, bỗng phía sau có một con rắn lớn bơi đến, ngóc đầu lên nhìn, dáng vẻ như xin được cứu mạng. Thiện nhân từ bi bèn ra lệnh ngừng tàu lại vớt con rắn lên. Con rùa phía trước nói:

– Ân nhân! con rắn này có duyên với ngài, sau này ngài sẽ hiểu.

Cách đó không xa, ông lại cứu một con cáo, và lại được rùa khen ngợi. Rồi đến phiên một người đang vùng vẫy trong dòng nước lớn, la hét kêu cứu, Thiện nhân từ bi cũng muốn cứu y nhưng con rùa ngăn lại nói rằng:

– Đây là một người có tâm địa xấu xa, tốt nhất là đừng cứu y. Nếu hôm nay cứu y, sau này y sẽ hại ân nhân.

Thiện nhân trả lời:

– Bất cứ người nào chúng ta cũng phải cứu. Nếu chúng ta ích kỷ mà không cứu là phản bội lời chư Phật dạy, là phải xem tất cả bình đẳng như nhau. Dầu sau này có xẩy ra chuyện gì đi nữa, ta cũng phải cứu người này.

Rồi không màng tới lời ngăn cản của rùa, ông vớt người nọ ra khỏi nước cứu cho khỏi chết chìm.

Đi một đỗi nữa thì con rùa lớn lại mở miệng ra nói:

– Trời quang mây tạnh rồi, thiên tai đã qua rồi. Tôi xin tạm thời cáo biệt.

Nói xong nó bỏ đi ngaỵ Rắn và cáo cũng từ giã mà đi.

Đoàn người lênh đênh trên mặt nước một thời gian thì khám phá một hòn đảo nhỏ. Họ lên bờ, thấy hòn đảo này có rất nhiều tài nguyên, chỉ tiếc là không có bao nhiêu dân cư trú. Họ quyết định lưu lại trên đảo ở tạm.

Có một hôm, con cáo xuất hiện một cách bất ngờ, nói với thiện nhân rằng:

– Ân nhân! Ngài đã cứu tôi thoát nạn, hôm nay tôi xin báo đáp ơn cứu mạng to lớn ấy. Vừa rồi tôi mới khám phá ra một kho tàng trong một cái huyệt giữa núi. Kho tàng này không nằm trong mộ phần của ai cũng không phải do tôi cướp giật, tức là của trời cho tôi. Nay tôi muốn đem kho tàng này dâng tặng cho ân nhân để báo đáp ơn sâu, xin ân nhân vui lòng nhận.

Thiện nhân nghĩ rằng nếu không nhận và nếu chẳng may kho tàng này rơi vào tay một kẻ bất lương thì không phải là đáng tiếc lắm sao? Chi bằng ta vui lòng nhận, rồi đem bố thí cho người nghèo, và giúp đỡ tất cả những chúng sinh khốn cùng. Nghĩ như thế rồi, ông bằng lòng nhận kho tàng của con cáo dâng tặng.

Khi ông đi lấy kho tàng về, thì cái người được ông cứu khỏi chết chìm lúc trước, không những không nghĩ tới chuyện đền ơn cứu mạng mà còn dùng lời dọa nạt và thủ đọan bắt thiện nhân phải chia cho mình phân nửa kho tàng. Thiện nhân cho hắn mười cân vàng nhưng con người tâm địa đen tối ấy từ chối không nhận, dọa rằng:

– Nếu ông không chia cho tôi phân nửa, tôi sẽ tố cáo ông đã quật mồ cướp của.

Thiện nhân đáp:

– Thiên tai vừa qua chắc chắn đã làm cho rất nhiều người bị tán gia bại sản, tôi muốn đem số vàng này cứu giúp cho họ. Nếu ông lấy đi, hẳn không phải để làm điều tốt, tức là phản bội lương tâm, cho nên tôi không cho ông toại nguyện tà ý đó.

Người kia ôm mối hận, bí mật tố cáo với quan vu khống thiện nhân đã quật mồ cướp của. Vì thế thiện nhân tốt bụng bị bắt, nhưng lòng không chút oán hận kẻ xấu xa đã vu khống mình, chỉ thấy rằng mình đã tạo nghiệp tội trong kiếp trước nên kiếp này mới bị quả báo xấu như thế này.

Ông không hề oán hận, chỉ cầu nguyện sao cho tất cả chúng sinh sớm thoát tai nạn, đừng kết oán với người khác để đừng bị giam trong tù ngục như mình hôm nay.

Vua rắn và vua cáo là những con vật có tánh linh, chúng bèn họp nhau bàn bạc làm cách nào để cứu ân nhân đã bị giam trong ngục tù một cách oan uổng. Vua rắn nói với vua cáo rằng:

– Tôi có một cách này, nhất định cứu được ân nhân thoát nạn.

Nói xong vua rắn bèn cáo biệt vua cáo mà đi. Vua rắn một mình bò lên núi tìm cỏ thuốc, đây là một loại thuốc có một không hai, có thể giải độc và xoa dịu mọi đau đớn trong chớp nhoáng. Vua rắn ngậm cỏ thuốc trong miệng bò vào ngục, nói với thiện nhân rằng:

– Đây là một loại cỏ thuốc có năng lực giải độc. Chốc nữa thái tử sẽ bị bệnh, không có thầy có thuốc nào có thể cứu được, chỉ có loại thuốc này mới có thể cứu thái tử thoát hiểm. Lúc đó ân nhân hãy nói với tên cai ngục là mình có thuốc thần trừ độc, chắc chắn hắn sẽ loan tin ấy ra,và như thế ngày ân nhân ra khỏi tù sẽ không còn lâu nữa!

Vua rắn từ giã thiện nhân rồi, lén bò vào vương cung cắn chân thái tử một cái. Tức thời chất độc lan đi rất nhanh, tất cả thầy thuốc danh y đều bó tay chịu thua, nhìn thái tử chờ chết. Ông vua già chỉ có một đứa con trai duy nhất ấy thôi nên tâm can còn nóng nảy hơn đoàn kiến trong chảo nóng. Ông ra lệnh cho các đại thần dán bảng yết thị khắp nơi, cấp tốc kiếm một vị thần ỵ Nếu có ai cứu được thái tử khỏi bệnh thì sẽ được phong làm thủ tướng, còn nếu ai làm môi giới đưa thần y đến thì sẽ được thưởng một vạn lượng vàng.

Đúng như rắn chúa tiên đoán, tên cai ngục biết tin này bèn báo cho thiện nhân trong tù biết. Thiện nhân nói:

– Tôi có thuốc thần trong người.

Vua nghe tên cai ngục báo tin, vời thiện nhân vào cung bôi thuốc cho thái tử. Thuốc vừa bôi xong, thái tử lập tức hết đau và vết sưng cũng xẹp xuống ngay, nên được bình an thoát hiểm. Vua thấy chân thái tử lành lặn, vui mừng không kể xiết, bèn hỏi nguyên do tại sao thiện nhân bị vào tù. Khi biết thiện nhân bị tù oan, vua tự trách rằng:

– Ta là vua thất đức, và quan quân đại thần cũng thiếu sáng suốt nên để cho kẻ ác lừa bịp và cho người hiền bị phỉ báng!

Vua ra lệnh bắt con người vong ân bội nghĩa kia về chịu khổ hình, phong thiện nhân làm thủ tướng, và đại xá tất cả tội nhân khiến cho mọi ngục tù đều trống không trong khoảnh khắc.

Thiện nhân hiểu biết Phật pháp một cách thâm sâu, nên vua cung kính thỉnh ông khai thị. Thiện nhân bèn tuyên thuyết giáo nghĩa cứu khổ của Đức Phật cho vua nghe khiến vua được tỉnh ngộ, quy y Tam Bảo, tôn kính duy trì giới luật thanh tịnh, phát tâm từ bi rộng lớn, mở các kho vựa của quốc gia cứu giúp người nghèo khổ, chỉnh đốn việc giáo dục, xây cất viện dưỡng lão và viện mồ côi, thương xót tất cả hữu tình. Về sau, đất nước này trở nên hòa bình an lạc, được từ quang của Đức Phật chiếu rạng khắp nơi.

80- Sa di ngộ đạo

Thời Phật Ca Diếp có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, xướng tán rất haỵ Khi cùng ở chung một chỗ với các vị tỳ kheo khác, thầy hay lộ vẻ kiêu ngạo, tự phụ giọng của mình trong và thanh và thấy mình phi thường, nổi bật.

Có một vị tỳ kheo lớn tuổi, giọng lại khàn đục, không giỏi tán xướng, cũng ở chung với đại chúng. Khi vị tỳ kheo trẻ nghe âm thanh tán xướng của vị tỳ kheo già, thầy bèn cười ngạo rằng giọng ấy không khác gì tiếng chó trụ Vị tỳ kheo già vốn là một vị thánh đã chứng quả A La Hán, hỏi vị tỳ kheo trẻ kia rằng:

– Thầy có biết tôi không?

– Tôi biết thầy từ lâu rồi, thầy là vị tỳ kheo thượng thủ của Ca Diếp Như Lai.

Vị tỳ kheo già nói:

– Tuy không biết xướng tán nhưng tôi đã thoát được sự trói triền của sinh tử, và không còn bất cứ khổ não nào của thế gian.

Vị tỳ kheo trẻ nghe thế thì hết sức hoảng sợ, cảm thấy hổ thẹn vô cùng, bèn xin sám hối với vị tỳ kheo già. Nhưng tính tội đã thành lập rồi, nên trong 500 kiếp, thầy đã phải chịu khổ báo sinh ra làm người câm. Tuy nhiên nhờ cái nhân thiện là đã từng xuất gia, về sau lúc Đức Thích Ca Mâu Ni xuất thế thì thầy mới được giải thoát. Nhân duyên thầy được độ diễn ra như sau :

Có 500 nhà buôn muốn đi du lịch xa, bèn kết bạn với nhau để cùng đi. Trong số đó có một người dắt theo một con chó cho nó canh chừng ban đêm. Đi được nửa đường, các nhà buôn ngủ nghỉ trong lữ điếm, con chó thấy chủ nhân ngủ say, bèn lén lấy trộm một miếng thịt ăn. Nhưng nhà buôn ấy thức dậy thấy được, nổi giận lôi đình, thế là chân đá tay đấm, lửa sân ngùn ngụt, ông đánh con chó gẫy cả bốn chân, vứt nó trong một cánh đồng hoang rồi bỏ đi nơi khác.

Lúc ấy Xá Lợi Phất dùng thiên nhãn thông thấy hết, thấy con chó đau đớn không cùng, gần chết đói chết khát, bèn đem cơm mà ngài đã khất thực được bố thí cho nó ăn. Con chó giữ được chút tàn hơi, sung sướng vô ngần. Xá Lợi Phất thuyết diệu pháp cho chó nghe, và con chó nghe pháp xong liền tắt thở, rồi tái sinh trong nhà Bà La Môn ở Xá Vệ Thành.

Một hôm, Xá Lợi Phất đi khất thực một mình, Bà La Môn trông thấy liền hỏi:

– Tôn giả đi có một mình, sao không có sa di đi theo hầu?

Xá Lợi Phất trả lời :

– Tôi không có sa di, nghe ông mới có một đứa con trai, có thể cho nó làm sa di đi theo tôi không ?

Bà La Môn trả lời:

– Con trai tôi tên là Quân Đề, hãy còn nhỏ lắm, chưa biết làm việc. Chờ nó lớn lên một chút, tôi sẽ cho nó đi theo tôn giả.

Xá Lợi Phất đồng ý.

Quân Đề được bảy tuổi, Xá Lợi Phất bèn đến nhà Bà La Môn xin mang chú về. Bà La Môn bèn ra lệnh cho Quân Đề đi theo Xá Lợi Phất xuất gia làm sa di.

Xá Lợi Phất đưa Quân Đề về Kỳ Viên tinh xá, thuyết pháp cho chú nghe, và Quân Đề lãnh hội được hết. Tuy Quân Đề chỉ là một đứa bé bảy tuổi nhưng chú đã có thể thọ nhận thánh pháp một cách mau lẹ. Chú sa di Quân Đề chính là con chó trong kiếp trước, đã được Xá Lợi Phất cho ăn cơm và thuyết pháp cho nghe. Nhờ có thiện căn ấy nên chú đã nguyện làm sa di thị giả của Xá Lợi Phất để báo ơn ngài.

Người ta nói trẻ con mà vào đạo là vì đã có thiện căn rất lớn. Trên con đường tu đạo, tuổi tác không phải là một vấn đề. Sa di hay tỳ kheo cũng không phải là một vấn đề, thậm chí xuất gia hay tại gia cũng không thành vấn đề nữa. Thọ nhận thánh giáo, giác ngộ chứng quả thì ở bất kỳ tuổi nào, già lão hay thơ ấu, sa di hay tỳ kheo cũng đều có thể làm được.

Chuyện chú sa di Quân Đề được khai ngộ lúc tuổi còn thơ là một thí dụ cụ thể.

Pages: 1 2 3 4 5