SỚ BỒ TÁT GIỚI BẢN
Sa-môn, Nghĩa Tịch người Tân-la soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN HẠ

(Phần Đầu)

Trong giải thích giới khinh phần nhiều cũng gồm có ba; một là kết khởi ràng buộc chung; hai là lần lượt giải thích riêng, ba là nói xong tổng kết. Theo phần giải thích riêng, bốn mươi tám giới khinh theo văn đã kết, gồm có năm đoạn, đoạn cuối đều chỉ văn khác, nên có phần nói rộng. Trong năm đoạn này tùy theo văn phân biệt, đều chung cho ba nhóm. Mỗi đoạn đều nói lìa ác nhiếp thiện, lợi ích chúng sinh. Nên theo luận tát-bà-đa thì mười giới trọng ở trước tách ra làm luật nghi, bốn mươi tám giơi sau chia làm hai phần còn lại. Kinh nói giới nhiếp luật nghi gọi là mười Ba-la-di. Giới nhiếp thiện pháp gọi là tám mươi bốn ngàn pháp môn. Giới nhiếp chúng sinh gọi là Từ, Bi, Hỷ, Xả, giáo hóa đến cả chúng sinh, chúng sinh đều được an vui. Lại trong bốn mươi tám giới thì ba mươi giới đầu phần nhiều là giới nhiếp thiện pháp, mười tám giới sau phần nhiều là lợi sinh. Bốn mươi bốn giới khinh trọng Địa Trì thì ba mươi ba giới trước cũng là giới nhiếp thiện pháp, mười một giới sau là lợi sinh. Nên tướng giới kia đây tuy có ẩn hiện, nêu tông phân biệt tướng cũng giống nhau. Lại kinh thì chế giáo bản, luận thì phân biệt nghĩa điều, nên kinh và luận không thể khác nhau. Luận phân biệt giới khoảng chín thứ tượng, tất cả giới thứ hai là phần giới của tại gia và phần giới của xuất gia, ấy gọi là tất cả giới. Lại y theo hai phần tịnh giới này lược nói có ba loại; một là giới luật nghi; hai là giới nhiếp thiện pháp; ba là giới nhiêu ích hữu tình. Giới luật nghi là sở thọ của các Bồtát. Luật nghi biệt giải thoát của bảy chúng chính là giới của Tỳ-kheo. Cho đến giới cận sự nữ, bảy loại như thế, y chỉ hai phần giới của tại gia và xuất gia. Như cần phải biết ấy gọi là giới luật nghi của Bồ-tát.

Giới nhiệp thiện pháp nghĩa là Bồ-tát thọ giới luật nghi, tất cả sở hữu sau này là đại Bồ-đề, vì thân miệng ý chứa nhóm các điều lành, nói chung gọi là giới nhiếp thiện Pháp. Đây gọi là gì? Nghĩa là các Bồ-tát nương theo giới, trụ trong giới, ở trong chỗ nghe, suy nghĩ và tu tập chỉ quán, một mình ở chỗ vắng vẻ, siêng năng tu học, thường luôn như vậy, đối với các bậc tôn trưởng siêng năng tu tập chấp tay đón rước, thăm hỏi lễ bái cung kính, tức là đối với bậc tôn trưởng siêng năng tu tập cung kính vâng thờ. Đối với người bệnh thương xót, hết lòng săn sóc, phục dịch cung cấp. Đối với các diệu thuyết bố thí là sự tốt đẹp! Đối với người có công đức Bổ-đặc-già-la đều chân thành khen ngợi. Đối với tất cả hữu tình, tất cả phước nghiệp trong các cõi nước mười phương, đem ý lạc cao quý khởi lòng tin trong sạch, nói lời tùy hỷ. Ở chỗ khác thực hành tất cả trái phạm tư trạch an nhẫn, dùng thân, ngữ, ý đã thực hành hoặc chưa thực hành tất cả gốc lành đều hồi hướng về Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thường phát khởi các thứ chánh nguyện, cúng dường Phật, Pháp, Tăng tất cả món ăn thượng diệu. Đối với các phẩm lành hằng ngày luôn mạnh mẽ tinh tấn tu tập. Thân, ngữ, ý không buông lung, đối với học xứ chánh niệm, chánh tri, chánh hạnh, thầm giữ gìn căn môn. Khi ăn uống đều biết lượng. Đầu hôm, gần sáng thường tu tập, thức dậy thì gần gũi bậc thiện sĩ, nương tựa bạn lành. Đối với lỗi phạm của mình, hỏi đạo lý biết rõ lỗi lầm, đã biết rõ lỗi lầm rồi thì chuyên ý giữ gìn chỗ chưa phạm, đã phạm rồi thì đối trước Phật, Bồ-tát đồng pháp dốc lòng phát lộ sám hối đúng như pháp, để dứt trừ. Những loại như thế đã có dẫn nhiếp hộ trì tăng trưởng các giới thiện pháp. Ấy gọi là giới nhiếp thiện pháp của Bồ-tát. Thế nào là giới nhiêu ích hữu tình của Bồ-tát? Phải biết đây lược có mười một tướng, mươi một tướng ấy là các Bồ-tát đối với các hữu tình có thể đưa đến nghĩa lợi. Đối với sự nghiệp của người khác cùng làm bạn để giúp đỡ, đối với các hữu tình, tuỳ theo chỗ sinh khởi khổ về bệnh tật v.v… thì đến thăm hỏi, ăn sóc, cho đến làm bạn giúp đỡ. Lại nữa, các Bồ-tát dựa vào các thứ nghĩa lợi của thế gian và xuất thế gian có thể nói pháp quan trọng cho các hữu tình nghe hiểu. Đầu tiên là phương tiện nói và nói đúng như lý, sau đó làm cho bảo vệ được nghĩa lợi của họ. Lại các Bồ-tát đối với các hữu tình có ân trước kia, đã khéo gìn giữ sự biết ơn, theo chỗ ở của họ mà ứng hiện để báo đáp. Laị các Bồ-tát đối với các loài hữu tình bị rơi vào những nơi đầy dẫy sợ hãi như: Sư tử, cọp sói, ma, qủy, nạn vua, nạn giặc, nước, lửa v.v… đều có khả năng cứu giúp khiến họ thoát khỏi những chỗ sợ hãi như thế. Các Bồ-tát đối với các loài hữu tình bị mất của cải, thân thuộc đã khéo khuyên nhủ làm cho họ vơi đi nổi buồn rầu. Lại đối với các loài hữu tình thiếu thốn các dụng cụ trong cuộc sống hằng ngày thì cho họ các dụng cụ trong cuộc sống hằng ngày. Các Bồ-tát thuận theo đạo lý, chính là cho y chỉ chế ngự chúng sinh đúng như pháp. Bồ-tát còn thuận theo thế gian, sự việc, nói năng, kêu gọi, đến đi, bàn bạc, vui mừng tuỳ thời mà đến, từ chỗ khác mà nhận lấy việc ăn uống, v.v… Tóm lại, là xa lìa tất cả, có thể đưa đến vô nghĩa trái ý hiện hành, đối với việc khác tâm đều chuyển theo.

Lại nữa, các Bồ-tát hoặc ẩn hoặc hiện biểu hiện rõ ràng tất cả công đức chân thật, làm cho các hữu tình vui mừng tinh tiến tu học. Lại đối với người có lỗi, trong lòng rất thân mật để làm lợi ích an vui tăng thượng ý lạc, hoặc là điều phục, quở trách, trị phạt, đuổi đi, vì muốn giúp cho họ ra khỏi chỗ bất thiện, mà an lập chỗ yên ổn. Bồ-tát phương tiện dùng năng lực thần thông thị hiện các cõi, các tướng, như Na-lạcca.v.v… khiến cho các hữu tình nhàm chán, xa lìa bất thiện, tìm mọi cách dẫn dắt khiến họ vào Thánh giáo của Phật, vui mừng tin ưa, sinh tâm ít có siêng tu chánh hạnh. Nay xét trong bốn mươi tám giới khinh và chỗ thuyết văn của luận, ẩn hiện xen lẫn khai hợp khác nhau, thứ lớp trước sau cùng khác nhau, kinh chế giáo bản, tuỳ việc mà lập riêng. Luận phân biệt nghĩa điều theo loại mà nói chung, khai hợp, lập nghĩa cần phải suy xét.

1. Giới Kính Thầy Bạn

Nếu Phật tử, lúc sắp lân ngôi Quốc vương, ngôi vua chuyển luân, hay sắp nhận chức quan thì trước nên thọ giới Bồ-tát. Như thế tất cả quỷ thần cứu giúp thân vua và thân các quan, Chư Phật đều vui mừng.

Đã đắc giới rồi, Phật tử nên có tâm hiếu thuận và cung kính. Nếu thấy có bậc Thượng toạ, Hòa-thượng, A-xà-lê, nhưng bậc Đại đức, đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy đón rước, lạy chào, hỏi thăm. Mỗi việc đều phải đúng như pháp mà cúng dường, hoặc tự bán thân, cho đến quốc thành, con cái cùng bảy báu trăm vật để cung cấp các bậc ấy. Nếu Phật tử lại sinh tâm kiêu mạn, tức giận, ngu si không chịu tiếp rước lạy chào, thăm hỏi, cho đến không chịu y theo pháp mà cúng dường thì Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Tức là nói đối với các bậc tôn trưởng phải siêng năng tu tập như thế, và phải thường chắp tay tiếp rước, hỏi thăm, lễ bái cung kính, tức là đối với các bậc tôn trưởng siêng năng tu tập kính ngưỡng phụng thờ. Thễ muốn tạo việc thiện thì phải nương vào duyên tốt, nếu kiêu căng với người đáng tôn kính thì sẽ chướng ngại đến sự tiến tu pháp lành, cho nên dạy phải kính thờ.

Đủ duyên thành phạm, đúng theo lý lẽ ra phải nói đầy đủ, nhưng đã là chẳng phải tánh tội, chưa hẳn đều đủ năm duyên, nên duyên phạm trong tội khinh cấu còn lược bỏ. Trong năm duyên, sự tưởng, dục lạc, phương tiện, rốt ráo tuy chẳng phải tánh tội nghiệp đạo nhưng chắc chắn phải có. Thứ tư là phiền não nếu nhiễm phạm cũng là hữu trong không phạm ô nhiễm thì chưa hẳn là có.

Kết phạm khinh trọng là cố tâm phạm nhiễm, đều kết trọng, không cố tâm không nhiễm đều kết khinh, các giới đều như vậy, không nói thêm nữa. Học xứ đồng khác là Đại thừa, Tiểu thừa đều cấm, nhưng Thanh văn chế trong môn lìa lỗi. Bồ-tát chế trong môn nhiếp thiện, bảy chúng đồng phạm. Trong hai mươi tám giới khinh của chúng tại gia thì giới thứ năm dạy rằng: Nếu Ưa-Bà-tắc nào đã thọ giới rồi, khi thấy Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, các bậc trưởng lão tôn túc và Ưu-bà-tắc v.v… đến mà không đứng dậy, đón rước, lễ bái, thăm hỏi thì Ưu-bà-tắc ấy sẽ bị tội thất ý. Không đứng dậy thỉ rơi vào hành vi bất tịnh hữu tác. Trong văn, các giới đều có ba, nghĩa là nêu người tự sự kết tội. Trong tự sự, các giới khác nhau. Giới này có ba, một là khuyên thọ giới, hai là nói phải cung kính, ba là nói trái thành phạm. Phần đầu khuyên thọ giới, gồm nêu cả ba, ngôi vị, phần đầu và phần thứ hai chỉ cho thế tục, phần thứ ba chỉ chung cho xuất gia tại gia. Bồ-tát xuất gia cũng cho phép làm Tăng Thống, v.v.… Cho nên lập Tăng Thống v.v.… tuy kinh đã ngăn nhưng không được vì việc mình mà có, e rằng ở địa vị cao, hạnh buông lung cho nên chế thọ pháp, khiến cho không kiêu mạn. Nếu thọ và thuận theo mà làm thì Thần Phật đều vui mừng che chở, gần thì được an thân, xa thì sẽ nối tiếp làm hưng thạnh chánh pháp. Nên khuyên thọ giới, tuy trước thọ lâm sự nhưng phải càng thọ, vì muốn kính thờ. Đã được rồi thì phải cung kính. Tâm hiếu thuận là phục tùng lời dạy bảo của người kia không dám trái. Tâm cung kính là tôn kính đức hạnh của người không dám khinh mạn. Thượng tòa là ở trên không có người làm thượng tòa. Hòa-thượng, âm này là nhầm. Nếu đúng phải nói rằng O-Ba-Đà-Da. Hán dịch là Thân Giáo, tức là chỗ cho người theo thọ giới. A-xà-lê, nếu đúng phải gọi là A-già-lê-Da, hán dịch là Quỹ Phạm, có năm loại; một là cạo tóc; hai là xuất gia; ba là giáo thọ; bốn là Yết-ma, năm là y chỉ. Đại đồng học, đồng kiến, đồng hạnh nghĩa là trong đồng học v.v… tuổi tác là trước tiên. Lại đồng học Đại pháp, đồng tập đại kiến, đồng tu đại hạnh. Trong trái ại thì thành phạm, lại sinh tâm kiêu mạn, sân hận, ngu si, vì không hiếu thuận, nên kiêu, không cung kính nên ngã mạn, không biết chỗ đáng cung kính tức là ngu si. Lấy tự bán mình trở xuống là dẫn việc để so sánh răn chắc, còn phải xả thân, huống chi không lễ kính ư? Trong bốn mươi bốn giới, giới thứ ba chép rằng: Nếu các Bồ-tát an trụ trong luật nghi tịnh giới của Bồ-tát thấy những bậc kỳ cựu Đại đức đồng pháp đáng kính đến nhà mà kiêu mạn có tâm hiềm hận, tâm giận não, không đứng dậy đón rước, không mời ngồi. Nếu có người khác đến nói năng, bàn bạc, an ủi, thưa hỏi thì kiêu mạn, ôm lòng oán ghét, lòng sân não không hợp với chánh lý, buông lời đối đáp, đó gọi là có phạm, có sự trái vượt là nhiễm trái phạm, không kiêu mạn chế, tâm không hiềm hận, không sân não nhưng do tâm lười biếng, uể oải, vọng niệm, vô ký, đó gọi là có phạm, có sự trái vượt, không ô nhiễm trái phạm. Không trái phạm nghĩa là gặp bệnh nặng, hoặc tâm cuồng loạn, hoặc tự ngũ nghĩ. Người khác nghĩ là giác ngộ mà đến gần gũi, nói năng, bàn luận, an ủi, thưa hỏi. Hoặc tự vì người khác giảng dạy, nói pháp, luận nghĩa chọn lựa. Hoặc lại bàn bạc, an ủi với người khác. Hoặc người khác nói pháp, luận nghĩa quyết trạch chú ý lắng nghe. Hoặc có người trái phạm nói chánh pháp là muốn dùng tâm hộ pháp, hoặc muốn tìm cách điều phục người phạm lỗi ra khỏi chỗ bất thiện, an lập chỗ thiện. Hoặc hộ tăng chế, hoặc đem tâm bảo vệ nhiều hữu tình mà không đối đáp, đều không trái phạm.

2.Giới uống rượu

Nếu Phật tử cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống sinh ra vô lượng tội lỗi. Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống, sẽ chịu ác báo: Năm trăm đời không có tay, huống là tự uống. Cũng không được bảo người và tất cả chúng sinh uống rượu, huống là tự mình uống! Tất cả các thứ rượu Phật tử không được uống, nếu mình cố uống và bảo người uống, Phật tử này phạm “tội khinh cấu”.

Rượu là sự buông lung, làm sinh ra các tội lỗi, trái với các pháp lành cho nên cấm. Đại thừa, Tiểu thừa và bảy chúng đều cấm. Trong hai mươi tám giới thì giới thứ hai chép rằng: Nếu Ưu-Bà-tắc đã thọ giới rồi mà còn ưa thích uống rượu sẽ bị tội thất ý. Trong tự sự có ba, một là bày lỗi; hai là không được bảo người uống rượu, ba là nếu mình cố uống thì phạm. Trong phần đầu bày lỗi, cố uống rượu thì giống như lầm uống. Nhưng trong luật, rượu tưởng chẳng phải rượu cũng phạm. Nếu từ đầu đến cuối đều không có tâm uống rượu, thì tuy khi uống cho là chẳng phải rượu, cũng phạm, rượu là thứ làm cho người uống sinh ra vô lượng tội lỗi, tuy chẳng phải tánh ác mà có công năng khai tánh ác nên nói là vô lượng tội lỗi. Như trong luận chép rằng: Nếu khi say rượu thì ngoài việc phá tăng, tất cả việc ác khác đều gây tạo. Lại trong Luận Trí Độ nêu rõ có đủ ba mươi sáu lỗi. Trong luật Tứ phần có mười sáu lỗi. Đức  phật dạy: Này A-nan! người uống rượu có mười lỗi, một là sắc mặt xấu xa, hai là sức yếu, ba là mắt thấy không rõ, bốn là hiện tướng tức giận, năm là làm hư hỏng sản nghiệp ruộng vườn của cải, sáu là thêm nhiều bệnh tật, bảy là thích tranh đấu kiện tụng, tám là không có tên gọi, chỉ có tiếng xấu vang xa, chín là trí tuệ lu mờ, mười là khi thân chất đủ rơi vào đường ác, đó gọi là mười lỗi. Từ nay về sau, ai tôn ta làm thầy thì không được rượu dính môi dù là một giọt. Đưa rượu cho người uống giống như đưa rượu qua cho người uống, nghĩa là đưa bình có rượu cho người khác bảo họ uống, cũng là chỉ đưa bình rượu không cho người kia rót. Trước nói sai người khác uống, sau nói bảo người khác uống, nghĩa đều không khác nhau. Năm trăm đời không có tay nghĩa là tay cầm bình rượu trao cho người nên bị quả báo không có tay như những loại côn trùng, hoặc sinh trong loài người mà không có tay, có thuyết chép rằng: có năm lần năm trăm năm, năm trăm năm thứ nhứt ở địa ngục bã rượu, năm trăm năm thứ hai ở trong nước tiểu, năm trăm năm thứ ba làm giòi bọ, năm trăm năm thứ tư làm ruồi nhặng, năm trăm năm thứ năm làm người ngu độn vô tri. Nay nói năm trăm đời không có tay có lẽ là cuối cùng, trong phần cấm không được thì. Không được bảo tất cả mọi người uống rượu nghĩa là không được bảo người khác uống rượu. Cho đến tất cả chúng sinh uống rượu nghĩa là không được sai đưa rượu cho người khác uống. Huống chi tự mình uống rượu, là vì muốn ngăn lỗi buông lung của mình. Nêu người khác uống là tự mình: Luật chép rằng: Rượu là rượu cây, rượu gạo lùn và rượu gạo khác, rượu lúa mì. Nếu có cách làm rượu khác cũng là rượu. Tạp rượu là mầu rượu, mùi rượu, vị rượu không nên uống. Hoặc có rượu không mùi, không mầu không vị cũng không được uống. Hoặc có rượu không có mầu, không mùi, có vị rượu cũng không nên uống. Hoặc có rượu không mầu, không mùi, không có vị rượu không được uống, chẳng phải mầu rượu, mùi rượu, vị rượu thì được uống, nói rộng như trong ấy. Không phạm là nếu bị bệnh như thế, ngoài thuốc chữa trị không giảm thì dùng rượu làm thuốc, nếu dùng rượu trị bớt bệnh thì tất cả không phạm.

3.Giới Không ăn thịt

Nếu Phật tử cố ăn thịt, tất cả thịt các loài chúng sinh đều không được ăn. Nói về người ăn thịt thì mất tâm đại từ bi, cắt đứt hạt giống Phật tánh; tất cả chúng sinh thấy đều tránh xa người này. Người ăn thịt mắc vô lượng tội lỗi, vì thế tất cả Phật tử không được ăn tất cả các thứ thịt của các loài chúng sinh. Nếu cố ăn thịt, Phật tử này phạm “tội khinh

cấu” vì cắt đứt hạt giống đại từ cho nên cấm. Thanh văn Niết-bàn về trước cho phép căn ba loại thịt thanh tịnh, ngoài ra không cho phép. Niết bàn về sau, tất cả không cho phép, Bồ-tát trước sau tất cả đều không cho phép. Bảy chúng đồng cấm. Trong văn tự sự cũng nêu lỗi trước, kế là cấm không được an, sau trái thành phạm. Tất cả các loại, thịt đều không được ăn, hoặc là tịnh hay bất tịnh đều không được ăn. Dứt mất tâm đại từ bi, làm hư hạt giống Phật tánh, như kinh chép rằng: vì có người ăn thịt nên có người giết, biết như vậy mà còn cố ăn nên dứt mất hạt giống từ bi. Tất cả chúng sinh thấy liền xa lánh người này, như chim núp vào thân ngài Xá-lợi Tử mà vẫn còn run sợ, chỉ có tập khí mà còn như thế huống là hoàn toàn không dứt trừ ba độc. Người ăn thịt mắc vô lượng tội lỗi, vì ăn thịt đưa đến sự giết hại nên mắc vô lượng tội lỗi.

4. Giới ăn năm thứ rau cay nồng:

Nếu Phật tử, chẳng được ăn năm loại “rau cây nồng” là hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ, năm loại này bỏ vào tất cả các thứ thực phẩm đều không được ăn. Nếu cố ăn, Phật tử này phạm “tội khinh cấu”. Mùi hôi làm ngăn ngại tịnh pháp cho nên cấm. Đại thừa, Tiểu thừa đều cấm, bảy chúng đồng phạm, theo luật thì người nữ nên cẩn thận vì hiện ra sắc đẹp. Cách thông, thổ thông, lang thông: Trong đây không có kiệu và hẹ. Nhưng chia hành làm ba loại, ba loại này có tướng riêng khó biết. Hoặc nói rằng: cách thông là lá kiệu giống như lá hẹ nhưng dày hơn. Lang thông thì truyền thuyết nói ở lĩnh Nam mọc lên cây lan thông, lá giống như lá tỏi nhưng lớn hơn và có mùi hôi như tỏi. Hưng cừ là theo lời Bà-la-môn gọi cây cải dầu là Hưng cừ, các chùa ở Tây vực không cho phép ăn. Lại chép rằng: lãnh Nam mọc lên cây Hưng cừ thân nó giống cây hẹ Nhật-bản, mùi vị giống như ỏi, nếu bị bệnh thuốc khác không trị khỏi thì được phải khai. Người thực hành pháp đúng như luật, Bồ-tát cũng được khai. Đặc biệt có kinh Ngũ Tân một quyện, ngũ tân mỗi thứ đều có năm, tổng cộng là hai mươi lăm thứ. Lại nói rằng: vì ăn ngũ tân nên rơi vào A-tỷ ở phương Đông, trên dòng rửa ngũ tân, dưới dòng giặt áo cũng không đượ.v.v.. Trong ba giới nhiếp thiện này không có tướng riêng, dùng nghĩa để nhiếp trong thân, ngữ, ý, trụ không buông lung cũng chứa đựng trong đó.

5.Giới không dạy người sám hối tội lỗi:

Nếu Phật tử khi thấy người phạm năm giới, tám giới hay mười giới, phá giới hay phạm thất nghịch bát nạn, tất cả tội phạm giới… phải khuyên bảo người ấy sám hối. Nếu Phật tử chẳng khuyên bảo người phạm tội sám hối, lại cùng ở chung, đồng sống chung, cùng bố tát chung, cùng thuyết giới, mà không cử tội người ấy, không nhắc người ấy sám hối, Phật tử này phạm khinh cấu tội.

Thấy người phạm tội, mà không bảo sám hối thì trái với tướng nghĩa lợi ích. Thanh văn tự hộ còn có chỗ không cho phép huống là bậc Đại sĩ. Theo hiển giáo dường như là trong nghĩa lợi sinh. Đối với người có lỗi trong lòng rất thân mật lợi ích an lạc, tăng thượng ý lạc. Điều phục, quở trách, trị phạt, đuổi đi là vì muốn cho người phạm tội ra khỏi chỗ bất thiện, an trí chỗ thiện. Nhưng Bồ-tát giáo hóa chúng sinh tức là tự thành Phật pháp. Nên trong nhiếp thiện giới cũng chế giới này, thì đối với lỗi mình đã phạm quả nhiên biết được rõ ràng. Trong sự thấy rõ lỗi lầm cũng chứa trong đó, mình và người tuy có khác nhưng thấy lỗi sám hối, trừ giống nhau ra, Đại thừa và tiểu thừa đều chế, hai chúng xuất gia đều phạm ba chúng khác và tại gia theo lý cũng chung bát giới và ngũ giới là giới của chúng tại gia, thập giới là giới của sa Di, Huỷ cấm tức là giới của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Lại mười giới, nghĩa là mười trọng, Huỷ cấm là bốn mươi tám giới khinh, thất nghịch như thuyết dưới đây. Bát nạn, hoặc có nơi chép rằng bát trọng, lại nói rằng: Tam đồ bằng bát nạn, do phạm giới chiêu lấy bát nạn, nên trong nhân nói quả. Nay là trong mười ba nạn trừ hai hình, huỳnh môn, súc sinh, phi nhân và phá nhị đạo, ngoài ra gọi là bát nạn. Bốn loại như hai hình… hoàn toàn là nghĩa báo chướng không sám hối trừ diệt. Phá nhị đạo là vì ở đạo khác trở lại nhập vào Phật pháp nên không có nghĩa đồng ở đồng lợi dưỡng, vì thế loại thứ năm này không được vào trong số bảo sám hối. Trong bốn mươi bốn giới thì giới thứ bảy chép rằng: Nếu các Bồ-tát đối với các hữu tình phạm giới, bạo ác, có tâm hiềm hận, tức giận, do phạm giới bạo ác kia làm duyên, phương tiện xả bỏ không làm lợi ích ấy, gọi là có phạm, có sự trái vượt, là ô nhiễm trái phạm. Nếu do lười biếng, uể oải mà xả bỏ, vì vọng niệm nên không làm lợi ích ấy, gọi là phạm, có sự trái vượt không ô nhiễm trái phạm. Vì sao? Vì chẳng phải các Bồ-tát đối với tịnh trì giới, nghiệp thân, ngữ ý vắng lặng hiện hành ở các chỗ hữu tình, khởi tâm thương xót muốn làm lợi ích, như đối với hữu tình phạm giới bạo ác, trong các nhân khổ mà hiện ra để xoay chuyển không trái phạm nghĩa là tâm cuồng loạn, hoặc muốn tìm cách điều phục người phạm tội, nói rộng như trước. Hoặc là dùng tâm che trở cho nhiều hữu tình, hoặc là hộ tăng đặt ra phương tiện, xả bỏ không làm lợi ích, đều không trái phạm.

6.Giới không cúng dường thỉnh pháp:

Nếu Phật tử, thấy có vị Pháp sư Đại thừa, hay những vị đồng học, đồng kiến, đồng hạnh Đại thừa, từ trăm dặm, ngàn dặm đến chỗ tăng phường, nhà cửa thành ấp, thì liền đứng dậy, rước vào, đưa đón lễ bái, mỗi ngày cúng dường ba thời, trăm thức uống ăn, giường ghế, thuốc men, tất cả đồ cần dùng giá đáng ba lượng vàng đều phải cung cấp cho Pháp sư. Mỗi ngày, sáng, trưa và chiều, thường thỉnh Pháp sư nói pháp và đảnh lễ, không hề có lòng tức hận buồn rầu, thường thỉnh pháp không nhàm mỏi, chỉ trọng pháp chớ không màng đến thân mình. Nếu Phật tử không như thế thời phạm tội khinh cấu. Người có lỗi không thỉnh pháp mất lợi ích, ô nhiễm tinh thần cho nên chế. Thanh văn có người biết pháp bố-tát rộng lược, nên chế phải cung cấp. Trong năm tuổi và chưa hiểu năm pháp thì phải thưa hỏi, không thì phạm tụ thứ bảy, ngoài ra thì không chế, vì tự độ dễ thoả mãn. Bồ-tát thấy có người biết thì thường phải cấp thỉnh, vì muốn tốt đẹp không nhàm chán, nên bảy chúng đồng phạm. Trong văn tự sự có hai, một là cúng dường hai là thỉnh pháp. Cúng dường có hai, một là cúng dường, đi nhiễu xung quanh, hai là cúng dường thức ăn uống. Mỗi ngày ba thời cúng dường là trong thời gian ba thời, hoặc là phi thời cũng được sữa v.v.… phi thời để cúng dường. Mỗi ngày ba thời cúng dường thức uống ăn giá đáng ba lượng vàng là nói theo khả năng làm được, hoặc vì khiến cho trọng pháp nên nói như vậy. Như đại sĩ núi Tuyết vì một bài kệ mà tự xả thân, v.v… huống chi là của cải ngoài thân. Mỗi ngày ba thời cung cấp hầu hạ cúng dường, nghĩa là cung cấp tất cả đồ cần dùng khác. Ba thời thỉnh pháp là sáng, trưa và chiều, không hề có tâm tức hận, buồn phiền là Pháp sư tuy có sự trái ý cũng không bao giờ sinh tâm sân hận. Bản thân tuy cúng dường hầu hạ cực nhọc cũng không hề có tâm buồn rầu, vì chỉ trọng pháp chớ không mày đến thân mình, để thỉnh Pháp sư giải thích lý do không sinh tâm sân hận, buồn phiền. Nếu bị tật bệnh chướng nạn, hoặc Pháp sư có vướng mắc, hoặc biết người kia kém cỏi hơn mình, như vậy không thỉnh không phạm.

7. Giới không đi nghe pháp và thưa hỏi.

Nếu Phật tử, các tận học Bồ-tát, hễ nơi nào chỗ nào có giảng kinh luật, thì phải mang kinh luật đến chỗ Pháp sư để nghe giảng và thưa hỏi. Hoặc nơi núi rừng, chùa, nhà… tất cả chỗ nói pháp đều phải đến nghe học. Nếu Phật tử không đến những nơi ấy để nghe pháp và thưa hỏi thì phạm tội khinh cấu: có chỗ giảng pháp mà không đi nghe sẽ mất con đường tiến đến pháp lành cho nên chế. Học xứ giống và khác nhau cũng như trước. Trong hai mươi tám giới khinh thì giới thứ tám chép rằng: Nếu Ưu-bà-tắc trong bốn mươi dặm có chỗ giảng pháp mà không đến nghe thì phạm tội thất ý. Trong văn chép, giảng pháp Tỳ-ni, kinh luật, nghĩa là giải thích pháp gọi là kinh, giải thích Tỳ-ni gọi là luật, văn khác rất dễ hiểu. Trong bốn mươi bốn giới khinh thì giới thế ba mươi hai chép rằng: Nếu các Bồ-tát nghe nói chánh pháp bàn bạc quyết trạch, mà kiêu mạn ôm lòng hiềm hận, lòng tức giận buồn phiền mà không đến nghe, đó gọi là phạm, có sự trái vượt là ô nhiễm trái phạm. Nếu bị sự lười biếng, uể oải ngăn che mà không đến nghe là phi nhiễm ô trái phạm. Không trái phạm là hoặc không biết, hoặc bị bệnh tật, hoặc không có sức khỏe, hoặc biết người kia nói pháp điên đảo, hoặc vì hộ tâm người kia thuyết pháp. Hoặc biết chỗ người kia nghĩa của nói số ấy đã nghe, đã trì, đã học rộng nghe nhiều, đầy đủ nghe trì, sự nghe ấy đã chứa nhóm. Hoặc muốn không nghe để trụ tâm ở cảnh. Hoặc khuyên dẫn phát định cao siêu của Bồ-tát. Hoặc biết rõ người ngu độn phẩm thượng, đối với chỗ nghe pháp khó thọ khó trì, khó ở chỗ duyên nhiếp tâm khiến định, không đến nghe pháp thì đều không trái phạm.

8.Giới có tâm trái bỏ Đại thừa.

Nếu Phật tử, có tâm trái bỏ kinh luật Đại thừa thường trụ, cho rằng không phải Phật nói mà thọ trì kinh luật tà kiến và tất cả giới cấm của Thanh văn nhị thừa và ngoại đạo ác kiến. Phật tử này phạm tội khinh cấu: Bỏ gốc theo ngọn trái với thói quen cho nên chế. Thanh văn không chế, vì chỗ huân tập đều khác, bảy chúng cùng phạm. Trong văn nói, có quan niệm trái bỏ kinh luật Đại thừa thường trụ cho rằng chẳng phải Phật nói: theo bản cũ chép thì chỉ chế còn do dự chưa quyết, dưới đó là phương tiện tà kiến. Nếu quyết định nghĩa là Đại thừa kém cỏi, Tiểu thừa cao siêu, chấp thành thì mất giới. Nếu trong lòng muốn trái bỏ, cho rằng chẳng phải là chân thuyết muốn thọ kinh luật của nhị thừa, ngoại đạo, chấp đều chưa thành thì phạm tội khinh cấu nầy. Nhưng tà kiến phẩm thượng phẩm trung, chấp đều chưa thành cũng phạm khinh cấu, đồng chế giới này. Nay nêu trái bỏ Đại thừa hướng về Tiểu thừa mà nói vì Bồ-tát phàm phu phần nhiều gây ra việc này. Nếu nói rõ thì có hai loại. Hoặc là pháp tưởng nói giới khéo tạ lỗi, hoặc phi pháp tưởng nói phạm mười giới trọng. Nay cho rằng tâm trái bỏ Đại thừa thọ, trì kinh luật của hàng nhị thừa là nếu khởi pháp tưởng thì chưa hẳn mất giới. Nghĩa là nếu có người tuy phát tâm Đại thừa thọ, giới Bồ-tát mà không hề học kinh Đại thừa sâu xa, chỉ nghe Tiểu thừa nói tu hành ba kiếp sẽ được quả Bồ-đề. Bỗng nghe Đại thừa nói về nghĩa sâu xa thì trong lòng không khởi niềm tin, cho rằng không phải Phật nói, vì không lui sụt tâm Đại thừa nên không mất giới, vì sinh pháp tưởng nên không phạm tội trọng. Nên trong giới thứ bốn mươi bốn của Bồ-tát Địa có giới thứ hai mươi chín chép rằng: Nếu các Bồ-tát tạng đối với pháp nghĩa chân thật, sâu xa, cao quý, thần lực khó nghĩ bàn của Chư Phật và Bồ-tát, không có tâm tin hiểu chống ganh ghét, trái ghé huỷ báng không thể dẫn nghĩa, không thể dẫn pháp, chẳng phải do Như lai nói, không thể làm lợi ích an vui cho các hữu tình, ấy gọi là có phạm, có sự trái vượt là ô nhiểm trái phạm. Huỷ báng như thế hoặc trong lòng tác ý phi lý, hoặc thuận theo người mà nói như thế. Hoặc nghe chỗ sâu xa cao siêu thì trong lòng không tin hiểu. Bồ-tát lúc ấy phải tín thọ mạnh mẽ, không được dua nịnh, phải học như thế. Ta vì người bất thiện, người mù không có mắt tuệ, dùng mắt Phật tuỳ theo chỗ mà giảng nói. Đối với ngôn ngữ mật ý của các Như lai mà sinh tâm phỉ báng, từ chỗ không biết như thế của Bồ-tát mà kính ngưỡng Như lai. Đối với pháp của Chư Phật đều hiện biết, bằng với chỗ thấy biết, chánh hạnh như thế không hề trái phạm, tuy không tin hiểu nhưng không phỉ báng. Trong văn chép ác kiến của hàng Thanh văn Nhị thừa và ngoại đạo, Duyên giác Thanh văn gọi là Thanh văn Nhị thừa, tức là Thanh văn này chính là ngoại Đại thừa, trái với đạo Bồ-tát nên nói là đạo ác kiến ngoại. Lại sáu vị giáo chủ ngoại đạo, v.v.… gọi là ngoại đạo ác kiến. Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát vượt qua pháp Bồ-tát, nghiên cứu tìm tòi ngoại luận khác và các luận của ngoại đạo thân tâm khéo léo quý trọng ham vui mê đắm, không bằng quen gần vị thuốc cay, ấy gọi là có phạm, có sự trái vượt là ô nhiễm trái phạm (giới thứ hai mươi tám) khai duyên đến giới thứ hai mươi bốn sẽ biểu hiện rõ ràng. Ba giới trên đây thì luận đã nói trong giới nhiếp thiện, đối với sự nghe, suy nghĩ, siêng năng tu học.

9.Giới không săn sóc bệnh

Nếu Phật tử, thấy tất cả người bệnh phải hết lòng cúng dường như cúng dường Phật. Trong tám ruộng phước, săn sóc bệnh là ruộng phước thứ nhất. Nếu cha mẹ, sư tăng và đệ tử bị bệnh tật, trăm thứ bệnh đau khổ, đều phải chăm sóc cho được lành mạnh. Phật tử lại vì tâm hờn giận không chăm nuôi, cho đến thấy trong Tăng phường, thành ấp, nơi núi rừng đồng nội, đường sá có người bị bệnh mà không lo cứu giúp thì Phật tử này phạm tội khinh cấu, vì thấy khổ không cứu, trái giới hạnh tu từ bi cho nên chế. Thanh văn đối với. Thầy bạn đồng pháp và được tăng sai, ngoài ra không chế, vì vốn không gồm vật. Bậc Đại sĩ phải cứu giúp tất cả khổ, vì vốn mong nhiếp tất cả. Bảy chúng đồng chế. Ngay trong luận đã nói, đối với người bệnh phải thương xót, ân trọng chăm sóc, cúng dường cho nên chế, văn nói cúng dường tất cả người tật bệnh như cúng dường Phật không khác. Đức Phật là người đáng kính, bệnh là chỗ đáng thương, kính thương tuy khác nhưng nghĩa phước điền lại giống nhau cho nên không khác. Trong tám rộng phước khám bệnh là phước, săn sóc bệnh là ruộng bậc nhất, vì nghĩa sùng kính là sau, tâm bi cứu giúp là trước, nên ruộng phước tuy có tám nhưng săn sóc bệnh là trên hết.

Nếu cha mẹ, sư tăng bị bệnh đều nên chăm sóc cho được lành mạnh: ở trên tuy nêu chung nhưng tất cả người bệnh đều phải cứu giúp từ thân đến sơ đều phải lần lượt giúp đỡ họ, nên chỉ nêu riêng bà con bạn thân. Giới thứ hai trong mười một việc lợi sinh của Địa luận chép rằng: Nếu các Bồ-tát thấy hữu tình nào bị bệnh nặng mà có tâm hiềm hận, giận tức không đến cúng dường giúp đỡ, ấy gọi là có phạm, có sự trái vượt là ô nhiễm trái phạm. Nếu bị lười biếng uể oải ngăn che mà không đến cúng dường kính thờ thì chẳng phải là ô nhiễm trái phạm. Không trái phạm là, hoặc mình bị bệnh, hoặc không có sức khỏe, hoặc chuyển mời người khác có sức khỏe thuận theo, khiến họ đến cúng dường, giúp đỡ. Hoặc biết người bệnh có chỗ nương tựa, hoặc biết người bệnh có khả năng lực có thể tự cung cấp giúp đỡ. Hoặc biết rõ người kia bệnh lâu, chỗ tiếp xúc có thể tự giúp đỡ. Hoặc siêng tu phẩm lành cao quý rộng lớn vô thượng. Hoặc muốn giữ gìn chỗ tu phẩm lành cho không để đứt quảng thiếu sót. Hoặc tự biết rõ ngu độn phẩm thượng, tuệ độn của họ đối với chỗ nghe pháp khó thọ khó trì, khó dùng duyên nhiếp tâm cho được. Hoặc trước hứa là sẽ cúng dường, như đối với người bệnh, đối với người có nỗi khổ làm bạn để giúp đỡ, muốn dứt khổ cho họ, nên biết cũng như vậy.

10. Giới không được chứa khí cụ sát sinh.

Nếu là Phật tử thì không được cất chứa những binh khí, như dao gậy, cung tên, dáo, búa, v.v.… cùng những đồ sát sinh như chài lưới, rập, bẫy v.v.… là phật tử, dầu cho cha mẹ bị người giết còn không được báo thù, huống là giết tất cả chúng sinh! Không được cất chứa những khí cụ sát sinh! Nếu cố cất chứa, Phật tử này phạm tội khinh cấu: Thấy suy nghĩ đủ việc không thể quen dần, vì phòng ngừa cho nên chế. Tức là đối với các học xứ giữ gìn chánh hạnh, đều lìa việc ác, thành nhiếp thiện. Đại thừa và Tiểu thừa đều chế, đạo tục cùng cấm, hằn là hàng quý nhân, vua chúa con vua chúa…. muốn phòng nạn ngoại xâm, chuẩn bị cung tên v.v…. theo lý nên khai cho, nhưng không được làm tổn hại. Lại tuy chẳng phải quý nhân, nếu muốn hộ pháp mà chuẩn bị đầy đủ vũ khí phòng ngừa nhưng không có tâm tổn hại cũng nên khai cho. Trong kinh Niết bàn chép: Người tại gia vì muốn hộ pháp nên cho phép cầm vũ khí, nhưng không được giết hại, văn giải thích dễ hiểu. Mười giới như thế, cần nên học và kính trọng vâng giữ (Trong sáu phẩm sau có giảng rộng).

Như thế trở xuống, tổng kết khuyên thọ trì, sáu phẩm sau là chỉ nói rộng giới bản. Hoặc kinh chép rằng: phẩm thứ ba mươi sáu, lẽ ra phải phân biệt có ba mươi sáu phẩm. Trong giới thứ hai mươi, bốn giới đầu thuộc về tự hành thiện, sáu giới sau thuộc về hòa tha thiện, trong bốn giới đầu.

1. Giới Đi Sứ

Phật dạy: là Phật tử, chẳng được vì quyền lợi và tâm ác mà làm thông tin sứ mạng cho hai nước hiệp hội quân trận, đem binh đánh nhau, làm cho vô lượng chúng sinh bị giết hại. Là Phật tử trong quân trận còn không được vào và qua lại, huống chi cố làm môi giới chiến tranh. Nếu cố làm, Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Hễ là người thông tin sứ mạng cho hai nước hiệp hội quân trận đem binh đánh nhau thì chắc chắn tâm muốn thắng thua, dối gạt chuẩn bị làm cho chiến đấu, bên trong thì trái với lòng từ bi bình đẳng, ngoài thì tổn hại sinh mạng của muôn vật. Cho nên chế để dứt trừ. Đại thừa, Tiểu thừa đều chế, bảy chúng đồng cấm. Trong luận nhiếp Thiện chép: đối với thân, ngữ, ý trụ không buông lung cũng có chứa giới này, vì quyền lợi và tâm ác tức là ý buông lung. Nói đi thông tin sứ mạng là ngữ buông lung. Qua lại trong quân trận là thân phóng dật. Văn chép rằng vì quyền lợi và tâm ác, tâm mưu toan làm lợi cho mình, vì lợi mà ý mong tổn hại người khác nên có tâm có. Nếu vì kia, đây mà giao hòa, tại gia lẽ ra không cấm. Thông quốc sứ mệnh là làm sứ mạng cho hai nước đánh nhau. Hiệp hội quân trận là hai nước dấy binh đánh nhau, làm cho vô lượng chúng sinh bị giết hại, là do ta đi thông sứ đưa đến việc quan trọng này. Hưng sư là hưng khởi quân binh, nếu ý muốn đi thông sứ để giết hại thì tuỳ theo người chết mà, riêng kết tội trọng. Nay chỉ cấm thông sứ mạng nên kết tội khinh cấu. Không được qua lại quân trận là nơi ồn ào tạp loạn, chẳng phải là nơi mà người tu đạo bước chân đến, chắc chắn không có việc hệ trọng, đạo tục đều cấm. Nếu Bồ-tát tại gia là hàng võ quan danh tiếng, chấn động uy dũng, hào hùng thì không tránh được, vì an ổn quốc gia nên cho phép đi vào nhưng không được giết hại. Như khi dòng họ Thích-ca và vua lưu ly đánh nhau. Nếu Bồ-tát xuất gia có nhân duyên, kiêu gọi theo luật thì cho phép hai ba đêm.

2.Giới buôn bán phi pháp.

Nếu Phật tử cố bán người lành, tôi trai tớ gái, lục súc, buôn bán quan tài, ván cây đồ đựng thây chết, còn không được tự mình buôn bán các thứ ấy, huống chi là bảo người. Nếu cố tự buôn bán, hay bảo người buôn bán các thứ ấy, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Tổn cảnh mong lợi, vì xâm não chỗ ở nên Phật chế để dứt trừ. Bảy chúng không cùng chế. Nếu tổn cảnh buôn bán như sinh khẩu v.v.… thì đạo tục đều cấm. Nếu cầu lợi mà buôn bán trao đổi lẫn nhau v.v.… thì chế đạo mà khai cho tục. Nên kinh Ưu-Bà-tắc chép rằng: Người tại gia có của cải nên chia thành bốn phần, một phần cúng dường cha mẹ vợ con, hai phần buôn bán đúng pháp, phần còn lại cất giữ. Nay giới này cũng cấm thân, ngữ buông lung, văn chép rằng: cố buôn bán người lành là biết người không thuộc về mình mà gượng lừa dối buôn bán. Buôn bán tôi tớ lục súc, tuy là vật thuộc về của mình, dễ có phần xâm tổn nên bị tội. Buôn bán quan tài, ván cây đồ đựng thây chết, nghĩa là quan tài cũng là ván cây, hoặc ván cây là hòm bọc ngoài áo quan bằng cây, còn không được cố buôn bán huống chi bảo người buôn bán. Trong đây nêu tự mình không được, buôn bán, huống chi bảo người khác. Giới không được uống rượu ở trước cấm tự mình buông lung nên nêu người khác để so sánh với mình, giới buôn bán này chế không làm tổn người, nên nêu tự so sánh với người, mình người só sánh nhau, ý là ở đây.

3.Giới Huỷ Báng người lương thiện:

Nếu Phật tử, vì tâm ác, đối với người tốt người lành, Pháp sư, sư tăng, hoặc vua chúa và hàng quý nhân, vốn vô sự mà huỷ báng là phạm bảy tội nghịch, mười giới trọng, với cha mẹ anh em sáu thân phải có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, mà trở lại vu khống cho là phạm tội nghịch, đoạ vào đường ác, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Vô sự mà huỷ báng, mà hảm hại người lành nên Phật đặt ra để đứt trừ. Đại thừa, Tiểu thừa đều chế. Bảy chúng đồng cấm. Giới này chế về ngữ buông lung. Hỏi: Giới này đã chế huỷ báng người khác là phạm tội trọng, việc ấy cùng tội trọng trong giới thứ sáu có gì khác nhau?

Đáp: Người xưa muốn phân biệt hai giới tướng nên có nguồn gốc hay không đều chia thành bốn câu. Bốn câu có y cứ, một là đối với người có giới nói về tội trọng, tội khinh của họ, đều phạm khinh cấu. Giới này chánh chế, hai là đối với người không có giới, nói về tội trọng tội khinh của họ cũng phạm khinh cấu, giới trước phụ chế, ba là nói với người có giới, về tội trọng tội khinh của người không có giới cũng phạm khinh cấu, giới này gồm chế, bốn là nói với người không có giới về lỗi của người có giới. Nếu nói về tội trọng thì phạm trọng, giới trước là chánh chế. Nếu nói lỗi nhẹ thì phạm tội khinh cấu, giới trước gồm chế.

Bốn câu không căn cứ, câu thứ nhất là nói tội trọng tội khinh của người có giới cho người có giới nghe, lại phạm khinh cấu, giới này còn ở trong văn, chánh chế nói về tội trọng, gồm chế nói về tội khinh. Ba câu sau tác pháp giống như giới trước, nhưng không có căn cứ là khác. Lại có người nói, trong giới trọng thứ sáu chế nói về lỗi thật, kia cho rằng nói tội lỗi của bốn chúng, nay trong giới này ngăn sự phỉ báng không căn cứ, văn chép rằng vì phỉ báng người lành khác. Hai giới trước sau vẫn không phân biệt người nói với họ, có giới hay không giới hoàn toàn không lựa chọn riêng, theo lý phải đều thông.

Hỏi: Trong pháp của Thanh văn, không căn cứ mà phỉ báng phạm tội trọng, nói lỗi có thật thì phạm khinh, vì sao Bồ-tát thì ngược lại?

Đáp: Trong pháp của Thanh văn ngăn ngừa lỗi của mình, không căn cứ phỉ báng lỗi người khác là phạm trọng, có căn cứ nói lỗi phạm tội khinh, nên chế khinh trọng có khác nhau.

Trong pháp của Bồ-tát ngăn ngừa việc tổn hại người khác, nói lỗi có thật của người khác phạm dễ gây ra sự tổn hại mãi mãi, lui mất tâm Bồ-đề của người, không thật mà huỷ báng, việc đã không có thật thì không tổn hại vĩnh viễn, nên chế có nặng nhẹ, nghĩa ấy ở đây. Trong văn chép tâm ác, vô sự mà huỷ báng là chỉ muốn huỷ báng người khác không lợi ích cho tâm nên nói là ác tâm, ba căn không đầu mối nên nói là vô sự. Người tốt người lành không có phạm lỗi mà bị phỉ báng nên nói là tốt lành. Tưởng tịnh nên gọi là Tốt, thật tịnh nên gọi là Lành, không phải như giới trước nói chẳng phải tôi tớ gọi là Tốt. Pháp sư, sư Tăng, vua chúa, Quý nhân là nêu riêng cảnh trọng trong chỗ huỷ báng. Nói phạm bảy tội nghịch, mười tội trọng là chỉ nêu tội trọng trong sự huỷ báng, cha mẹ, anh, em, sáu thân là ba đời lưu thông nhau chẳmh thể không có sự thân thiết. Mà lại vu khống cho là phạm tội nghịch là không có phạm tội trọng mà huỷ báng, nên nói là vu khống phạm tội nghịch. Đoạ vào chỗ không như ý: là do ta huỷ báng nên đoạ vào chỗ trái ý (đoạ vào đường ác).

4.Giới đốt lửa:

Nếu Phật tử, vì tâm ác nên châm lửa đốt núi rừng, đồng nội. Từ tháng tư đến tháng chín đốt lửa, hoặc cháy lan đến nhà cửa, thành ấp, tăng phường, ruộng cây của người và cung điện tài vật của quỷ thần. Tất cả chỗ có sinh vật không được cố thiêu đốt. Nếu cố thiêu đốt, thì Phật tử này phạm tội khinh cấu, không chọn thời gian, nơi chốn mà vội đốt lửa thật ra làm thương tổn rất nhiều, nên Phật cấm để dứt trừ. Đại thừa Tiểu thừa đều chế. Trong bảy chúng thì năm chúng xuất gia, đúng thời tất cả đều dứt trừ, y cứ vào chỗ chế hiển bày thì cho phép che đậy. Hai chúng tại gia y cứ vào thời thì cấm nóng cho lạnh, vì có sản nghiệp. Y cứ vào chỗ lộ bày, che phải đều cho phép, nhưng không được thương tổn đến loài cỏ bò lan dưới đất. Nghĩa ấy suy ra giới này, muốn đề phòng hai tội trọng, một là đế phòng lỗi sát sinh, hai là phòng kẻ ăn trộm làm tổn hại. Y theo điều nói trong văn, theo lý phải như vậy. Giới này chỉ cấm thân buông lung. Trong văn chép, vì tâm ác cho nên đốt lửa là không mưu tính tổn hại sinh mạng của người, liền đốt lửa làm cho cháy lan đến cỏ cây, nên nói là tâm ác. Thiêu đốt núi rừng đồng nội từ tháng tư đến tháng chín là chỉ vì tổn hại đến chúng sinh nên chế lúc trời nóng nực. Nếu đốt nhà cửa trở xuống của người, chỉ vì tổn vật nên trong mọi lúc đều chế. Nếu do đối lửa mà hại mạng tổn vật, thì đặc biệt kết tội sát sinh và trộm cướp. Nay chỉ cấm đốt lửa nên kết tội khinh cấu.

Tất cả vật có chủ đều không được cố ý thiêu đốt, sớ cũ đổi thành có sinh vật là sai, vì không hiểu khoa văn, vẫn làm trở ngại, v.v… Nếu nói vật có chủ thì làm sao phân biệt tháng tư đến tháng chín. Đây như khoa trên chỉ tổn hại sinh mang nên chế tháng tư đến tháng chín. Nếu tổn vật thì không giới hạn thời gian trong tháng, đâu được lạm dụng ngay đó sửa đổi văn kinh.

5.Giới dạy giáo lý ngoài Đại thừa

Nếu Phật tử, từ đệ tử Phật, sáu thân tất cả thiện tri thức, cho đến ngoại đạo ác nhân, đều phải khuyên bảo thọ trì kinh luật Đại thừa. Nên giảng cho họ hiểu nghĩa lý, khiến phát tâm Bồ-đề, Thập Phát thú tâm, Thập Trưởng dưỡng tâm, Thập Kim cương tâm. Trong ba mươi tâm ấy giảng cho họ hiểu pháp dụng thứ lớp của mỗi món. Mà Phật tử lại có tâm ác, tâm sân, đem kinh luật của Thinh văn Nhị thừa và các bộ luận của ngoại đạo tà kiến để dạy ngang cho người. Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Từ sáu giới sau là thuộc về thiện lợi tha. Trong Luận Nhiếp Thiện chép! Đối với các học xứ chánh niệm, chánh tri, chánh hạnh, chánh phòng thủ. Trong sáu giới, hai giới đầu phân tích về chánh tri, chánh phòng thủ của học xứ người khác. Bốn giới sau phân tích về chánh hạnh phòng thủ của học xứ mình, suy nghĩ sẽ thông suốt. Đối với chánh tri phòng thủ của học xứ người khác, ban đầu không dạy giáo lý ngoài Đại thừa, nếu dạy thì sẽ khiến cho họ mất chánh đạo cho nên cấm. Đại thừa, Tiểu thừa cùng phạm, vì sở học khác nhau, bảy chúng đồng chế, trong văn chép, từ đệ tử Phật cho đến tất cả thiện tri thức, là nêu những vị truyền dạy cho người. Điều phải khuyên bảo thọ trì kinh luật Đại thừa: là dạy họ thọ trì văn cú năng thuyên. Nên giảng cho họ hiểu nghĩa lý là dạy cho họ hiểu biết chỗ giải thích nghĩa lý. Khiến phát tâm Bồ-đề là đã biết văn nghĩa, nên khiến họ phát tâm, cầu hiểu để thực hành, nguồn gốc của thực hành là phát tâm Bồ-đề, nên được hiểu, kế đó phải dạy người phát tâm. Trong đây, đầu tiên là nên phân tích sơ lược phương pháp phát tâm.

Kinh Phát Bồ-đề tâm chép: vì sao Bồ-tát phát tâm Bồ-đề? Dùng nhân duyên vào tu tập Bồ-đề? Nếu Bồ-tát gần gũi bậc thiện tri thức, cúng dường chư Phật, tu tập gốc lành, chí cầu thắng pháp, tâm thường nhu hòa, gặp khổ nhẫn được, từ bi thuần hậu, thân tâm bình đẳng, tin ưa Đại thừa, cầu trí tuệ Phật. Nếu người nào có đủ mười pháp như thế, mới có thể phát được tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có bốn duyên phát tâm tu tập Vô thượng Bồ-đề, Bốn duyên ấy gồm: một là tư duy Chư Phật mà phát tâm Bồ-đề, hai là quán thân bệnh hoạn phát tâm Bồ-đề, ba là thương xót chúng sinh mà phát tâm Bồ-đề, bốn là cầu quả tối thắng mà phát tâm Bồ-đề. Tư duy Chư Phật phát tâm Bồ-đề là tư duy Chư Phật mười phương ba đời mới phát tâm có đủ tánh phiền não cũng như ta ngày nay, cuối cùng thành Chánh giác là bậc Vô thượng. Do duyên này nên phát tâm Bồ-đề. Lại còn suy nghĩ Chư Phật ba đời phát tâm mạnh mẽ, mỗi người đều có khả năng chung đắc Vô thượng Bồ-đề. Nếu Bồ-đề này là pháp có thể đắc thì ta cũng phải được, do việc này nên phát tâm Bồ-đề. Lại tư duy Chư Phật ba đời phát trí tuệ rất sáng, ở trong vỏ vô minh xây dựng tâm cao quý chứa nhóm khổ hạnh, đều có khả năng tự vượt ra ba cõi, ta cũng như vậy, phải tự mình vượt qua. Do việc này nên phát tâm Bồ-đề. Suy nghĩ tất cả Chư Phật làm người mạnh mẽ trong loài người đều vượt qua biển lớn sinh tử phiền não. Ta cũng là bậc Trượng phu cũng phải có khả năng vượt qua. Do việc này

nên phát tâm Bồ-đề. Lại suy nghĩ tất cả Chư Phật phát tâm tinh tấn mạnh mẽ, xả bỏ thân mạng của cải để cầu Nhất thiết trí, nay ta cũng học theo Chư Phật. Do việc này nên phát tâm Bồ-đề. ba nhân duyên khác nói rộng như kia, để biết tướng sơ lược, lại trình bày một văn. Còn các nghĩa rộng khác các giáo đã nói đầy đủ. Nếu muốn phát tâm phải nương theo đó mà tìm. Phát mười tâm, theo kinh Bản Nghiệp chép: Từ phàm phu địa không biết gì, đến giáo pháp của Phật và Bồ-tát, khởi một niệm tin liền phát tâm Bồ-đề, người ấy lúc bấy giờ trụ ở trước gọi là Bồ-tát tin tưởng, cũng gọi là Bồ-tát giả danh, cũng gọi là Bồ-tát danh tự, lược hành mười tâm, nghĩa là tín tâm, tiến tâm, niệm tâm, tuệ tâm, định tâm, giới tâm, hồi hướng tâm, hộ pháp tâm, xả tâm, nguyện tâm. Mười tâm này là hạnh tu quan trọng của Bồ-tát phát tâm, nên phải dạy phát khởi. Tâm Kim cương là chỗ phát mười tâm bền chắc khó hư hoại. Giảng cho họ hiểu pháp dụng thư lớp của mỗi món, đã phát tâm rồi, dạy cho người khác hiểu nghĩa lý khiến phát tâm Bồ-đề tu hành pháp dụng theo thứ lớp trước sau, mà Phật tử làm trái lại cho nên phạm, nói pháp lộn lạo trái với căn cơ nên nói là thành giáo.

6.Giới nói pháp không lộn lạo.

Nếu Phật tử, phải hết lòng tu học kinh luật oai nghi Đại thừa, thông hiểu nghĩa lý, khi thấy có Bồ-tát tân học từ xa trăm dặm, ngàn dặm đến, cầu học kinh luật Đại thừa thì nên đúng như pháp giảng giải tất cả khổ hạnh, hoặc đốt thân, đốt cánh tay, đốt ngón tay. Nếu không đốt thân hay cánh tay, ngón tay cúng dường Chư Phật thì không phải là Bồ-tát xuất gia. Cho đến lác thịt của thân mình và tay chân mà bố thí cho tất cả những loài cọp, sói, sư tử đói cùng tất cả loài quỷ đói, rồi sau mới thứ lớp tùy theo căn cơ của mỗi người mà giảng nói chánh pháp cho các vị tân học ấy được mở mang tâm ý. Nếu Phật tử vì quyền lợi, đáng dạy mà không dạy, lại giảng kinh luật một cách điên đảo, văn tự lộn xộn, không có thứ lớp trước sau, nói pháp có tính cách huỷ báng Tam bảo. Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Nói pháp điên đảo trái với đạo dạy bảo cho nên cấm, chế giới trước không điên đảo. Chế giới này ẩn Đại thừa, dạy Tiểu thừa, tuy nói Đại thừa nhưng ẩn mất nghĩa lý, giảng kinh luật một cách điên đảo không có thứ lớp trước sau. Pháp Thanh văn nếu dạy bảo người khác, vì lợi mà ẩn mất, làm cho nghĩa lý không rõ ràng cũng phạm tội. Bảy chúng đồng chế. Trong văn chép: Phải hết lòng học kinh luật oai nghi Đại thừa, thông hiểu nghĩa lý, là không dạy người điên đảo, phải tự chánh học trước. Như kinh này và kinh Thiện Giới Quyết Định Tỳ-ni Bồ-tát Địa Trì v.v.… tức là kinh luật oai nghi Đại thừa. Sau đó, thấy có Bồ-tát tân học từ xa đến cầu học thì phải giải thích đúng, không giảng pháp điên đảo cho họ nghe. Trong đó có hai, đầu tiên là giảng về việc khổ hạnh để thử tâm họ, sau đó giảng chánh pháp để khai mở cho họ hiểu. Vì muốn biết chí lớn của họ nên nói về việc khổ hạnh. “Vì thử tâm họ, là muốn phát khởi đại hạnh của họ cho nên nói chánh pháp để mở mang tâm ý. Nói việc khổ hạnh, trong đó dùng hai việc khổ hạnh để thử, một là đốt thân cúng dường Chư Phật, hai là lóc thịt để cứu nạn đói. Trong nói pháp cũng có hai, một là nói pháp theo thứ lớp, hai là giúp cho họ mở mang tâm ý. Nói pháp theo thứ lớp là phần thô cạn dễ ngộ thì nói trước, phần sâu kín khó hiểu thì giảng sau. Lại giảng thứ lớp trong ba học hạnh mà Bồ-tát làm trái lại thì thành phạm. Đáng dạy mà không dạy là không nói hết nghĩa lý sâu xa. Giảng kinh luật một cách điên đảo là trái với chánh thuyết. Văn tự lộn xộn không có thứ lớp trước sau là phần trước để ở sau, phần sau để ở trước v.v.… nói pháp có tính cách huỷ báng Tam bảo, tuỳ theo điều đã nghe mà chấp nghĩa thành năm lỗi. Như kinh Niết bàn chép: Nếu nói chúng sinh chắc chắn có Phật tánh, hay chắc chắn không có Phật tánh đều là phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Đây là nói chung phỉ báng nên không phạm tội trọng. Giới thứ sáu trong Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát có người đến cầu pháp lại có tâm hiềm hận lòng sân não, ganh ghét không bố thí pháp cho họ, đó gọi là có phạm, có sự trái vượt, là ô nhiễm trái phạm. Nếu do lười biếng, uể oải tâm vọng niệm không nhớ nên không bố thí pháp cho họ cũng gọi là phạm, có sự trái vượt, nhưng không ô nhiễm trái phạm. Không trái phạm là các ngoại đạo dò xét tìm tòi khuyết điểm, hoặc là bị bệnh nặng, hoặc tâm cuồng loạn, hoặc muốn phương tiện điều phục người phạm lỗi ra khỏi chỗ bất thiện, an lập chỗ thiện. Hoặc đối với pháp ấy chưa thông suốt. Hoặc là thấy mà không sinh tâm cung kính, không có hổ thẹn, đến nghe thọ với dáang vẽ quậy phá, hoặc biết người kia căn tánh ám độn, đối với pháp sâu rộng dạy đắc pháp rốt ráo thì rất sinh tâm sợ hãi nên khởi tà kiến, thêm lớn tà chấp, suy hao tổn não. Hoặc là biết pháp kia đến tay họ thì truyền khắp cho phi nhân, mà không bố thí giúp cho đều không phạm.

7.Giới cậy thế lực quyên tởi:

Nếu Phật tử, tự mình vì việc ăn uống tiền của, lợi dưỡng, danh dự mà gần gũi vua chúa, Hoàng tử cùng các quan, ỷ quyền cậy thế bức

người để lấy tiền của, lại bảo người khác cùng cầu lợi như vậy. Tất cả sự cầu lợi ấy gọi là ác cầu, đa cầu, đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Từ bốn giới sau, đối với chỗ tự học, chánh hạnh phòng thủ. Giới đầu ngăn nương quyền cậy thế để quyên tởi. Giới thứ hai, ngăn không hiểu dối làm thầy. Giới thứ ba ngăn lỗi ganh ghét người lành. Giới thứ tư ngăn lỗi thấy khổ không cứu. Đầu tiên là cậy thế lực quyên tởi, suy tổn hạnh ít muốn, dễ dàng đưa đến lỗi buồn phiền cho người khác cho nên chế. Đại thừa Tiểu thừa đều chế, bảy chúng đồng cấm. Trong văn chép: nương quyền cậy thế là rõ ràng mượn lệnh của người có quyền thế gọi là hình, thầm nương năng lực của họ gọi là Thế. Bức người để lấy tiền của là ban đầu xin không cho thì đánh đập để ra oai, lôi kéo để cướp đoạt lấy ngang tiền của là đoạt lấy phi lý. Nếu lấy được vật riêng thì phạm đạo tổn.

Nay ỷ quyền cậy thế mà quyên tởi thì phạm biên tội kết, tội khinh cấu. Tất cả chỗ cầu lợi gọi là ác cầu, đa cầu, vì cầu của phi lý nên gọi là ác cầu, cầu không chán gọi là đa cầu. Bảo người khác cầu là chẳng phải chỉ có việc làm của mình, cũng xúi giục người khác đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, vì tổn não người khác nên không có lòng từ bi, trái lời Phật dạy nên không hiếu thuận.

8.Giới không được dối làm thầy truyền giới.

Nếu Phật tử, phải học mười hai phần kinh, thường tụng giới mỗi ngày sáu thời nghiêm giữ giới Bồ-tát hiểu rõ, tính nghĩa lý Phật tính của giới. Nếu Phật tử không hiểu một kệ một câu và nhân duyên của giới luật, mà dối rằng thông hiểu đó chính là dối gạt mình và cũng là dối gạt người khác, không hiểu một pháp, chẳng biết một luật mà lại làm thầy truyền giới cho người. Phật tử này phạm tội khinh cấu. Không có đức làm thầy mà dối làm để truyền giới cho người là có lỗi gây sự hiểu lầm cho người nên chế, nhị thừa đồng chế, xuất gia tại gia đều cấm. Kinh cho phép vợ chồng làm thầy truyền giới cho nhau nên biết chế chung cho chúng tại gia. Trong văn chép: Mỗi ngày mười sáu thường tụng giới, nghiêm trì giới Bồ-tát, cho đến hiểu rõ tính nghĩa lý, Phật tính của giới, là người biết làm thầy phải cầu tự hiểu trước ngày đêm đều đủ sáu thời, e rằng người mới học bỏ quên lời dạy, đối với việc làm có thiếu sót nên cấm.

Mỗi ngày sáu thời nghiêm trì giới Bồ-tát là thọ trì văn của giới. Hiểu rõ nghĩa lý là hiểu rõ nghĩa khai giá, khinh trọng của giới. Tính của Phật tính là hiểu tính ấy sẽ hiện nhân quả Phật tính. Trong chỗ hiểu biết quan trọng cho nên nêu lên. Mà Bồ-tát v.v….. trở xuống trái lại thành phạm, nói là trái với tự tâm nên gọi là tự lừa dối mình, khiến cho người khác hiểu lầm nên cũng lừa dối người khác. Mỗi đều không hiểu là một câu một kệ trong pháp môn đều không hiểu. Không biết tất cả pháp là đối với tất cả pháp đều không biết. Nếu không hiểu biết mà dối làm thầy truyền giới cho người thì phải tuỳ theo người thọ giới nhiều hay ít mà kết tội.

9.Giới không được làm cho đôi bên đấu tranh.

Nếu Phật tử, vì tâm ác, thấy thầy Tỳ-kheo giữ giới tay bưng lư hương, tu hạnh Bồ-tát mà tự đi đâm thọc hai đầu, làm cho sinh sự bất hòa khinh khi người hiền, gây ra nhiều tội ác. Phật tử này phạm tội khinh cấu, vì ganh ghét khéo đâm thọc trái với hạnh hòa giáo nên chế để dứt trừ. Hàng Nhị thừa đều chế, bảy chúng đồng cấm. Trong văn chép, vì tâm ác là làm trái với sự hòa hợp, tổn hạnh thanh tịnh nên gọi là tâm ác. Thấy thầy Tỳ-kheo trì giới, cho đến tu hạnh Bồ-tát là nêu người đâm thọc. Đâm thọc hai đầu là đến bên đây nói lỗi bên kia, đến bên kia nói lỗi bên đây nên gọi là đâm thọc. Hoặc kinh chép chữ Cấu nghĩa là đâm thọc để cho hai bên có thành kiến với nhau. Hoặc kinh chép là chữ “Quá” nghĩa cũng giống như vậy, tuỳ theo chữ mà thuận theo giải thích nghĩa, đều không ngăn ngại, không được thường hay thay đổi, khinh khi người hiền tạo nhiều tội ác: là do đâm thọc nên dẫn đến việc khinh khi người hiền, gây ra nhiều tội ác có khác gì với giới thứ mười ba? Vì vận tâm có khác, kia nói tâm dìm mất, đây nói tâm chia rẽ, nay là khinh khi người hiền, tạo nhiều tội ác. Đây nói lên lầm lỗi nhiều lần, chẳng phải là chỗ chánh chế của giới này, chỉ đâm thọc hai đầu chính là chỗ ngăn ngừa của giới này. Như trong giới đốt lửa, giết trộm, nêu lên vẫn phạm, chẳng phải là chỗ phòng ngừa chính. Nếu vì lòng tốt mà nói lời chia rẽ cũng không phạm. Bồ-tát Địa chép: Lại như Bồ-tát thấy các hữu tình bị bạn ác nhiếp thọ, yêu nếu không bỏ. Bồ-tát thấy rồi khởi tâm thương xót, phát sinh lợi ích an lạc ý vui, tuỳ theo năng lực của mình mà nói lời chia rẽ, khiến cho họ lìa bạn ác, bỏ thân yêu nhau, chớ làm cho hữu tình vì gần gũi bạn ác mà phải chịu đêm dài vô nghĩa vô lợi. Bồ-tát dùng tâm nhiêu ích như thế nói lời chia rẽ khiến xa lìa ái kia thì chẳng những không phạm mà còn sinh nhiều công đức.

10.Giới không phóng sinh cứu giúp báo ân:.

Nếu Phật tử vì tâm từ bi mà làm việc phóng sinh, phải nghĩ như vầy: Tất cả người nam là cha tà mạng, tất cả người nữ là mẹ tà mạng, từ nhiều đời ta đều gá sinh nơi đó, vì lẽ ấy nên chúng sinh trong sáu đường đều là cha mẹ ta, nếu giết chúng để ăn thịt, thì chính là giết cha mẹ ta, mà cũng là giết thân cũ của ta. Tất cả chất bốn đại đều là bản thân, bản thể của ta, cho nên phải thường làm việc phóng sinh và khuyên bảo người làm. Nếu thấy người đời sát sinh nên tìm cách cứu giúp cho chúng được thoát khỏi cái chết! Thường giảng dạy giới Bồ-tát để cứu độ chúng sinh. Nếu vào ngày cha mẹ hay anh em qua đời, nên thỉnh Pháp sư giảng kinh luật Bồ-tát giới. Người chết nhờ phước đức ấy, hoặc được vãng sinh tịnh độ, ra mắt Chư Phật, hay gá sinh lên cõi trời, cõi người. Nếu không làm các điều trên đây, phật tử này phạm tội khinh cấu: Dè dặt chớ nên sát sinh, để cứu nạn chết phải ăn chay thỉnh Pháp sư giảng kinh luật Bồ-tát giới để cho vong linh được nhờ phước được, ấy là hạnh từ bi làm việc lành để báo ân, nên chế khiến làm. Đại thừa, Tiểu thừa cùng chế. Tất cả hàng Đại sĩ phải cứu độ, vì từ bi bình đẳng cùng khắp. Thanh văn chính là ở trong quyến thuộc, ngoài ra không chế, vì tự độ bảy chúng đồng phạm. Trong văn chép có hai, một là phóng sinh để cứu nạn chết, hai là ăn chay thỉnh giảng kinh luật giới Bồ-tát để vong linh hưởng phước. Trong phần đầu lại có hai, đầu tiên là dùng lòng từ để làm việc phóng sinh, sau cùng tìm cách cứu hộ để cứu chúng sinh thoát khỏi nạn khổ. Trong phần đầu vì lòng từ làm việc phóng sinh là thấy khổ ách sắp chết thì rất sinh lòng từ tìm cách cứu vớt làm cho được sống. Tất cả người nam là cha tà mạng v.v.… là nói nguyên do, tu lòng từ bi trong việc cứu sinh. Trong đây có hai: một là đối với tất cả chúng sinh khởi quán bình đẳng thân thuộc, hai là đối với tất cả vật khởi quán là một thể. Trong phần đầu người nam, người nữ là cha mẹ tà mạng, là theo tướng tạm phối hợp, y cứ vào thật thì nam nữ cách đời đều là cha mẹ. Chúng sinh sáu đường đều là bà con, nên khi thấy họ bị khổ ách chẳng thể không cứu. Nếu giết chúng sinh để ăn thịt tức là giết cha mẹ, nghĩa là nêu bà con của mình, đều ngăn không cho giết ăn thịt, cũng là giết thân cũ của ta v.v.… là nói quán nhất thể trong đó nương thế trước là đừng giết hại để ăn thịt, sau đó nói về quán nhất thể. Tất cả chất bốn đại đều là bản thân bản thể của tà mạng, nghĩa là thân chúng sinh do bốn đại hòa hợp mà thành thể. Lúc sống nhóm họp là thân, khi chết chia lìa là vật, tuy tụ tán theo duyên nhưng tánh ấy không khác, quán rộng ra đều là thể của ta. Nên bậc Thánh lấy chúng sinh làm thân cứu mình, lấy muôn vật làm thể của mình, lý tự không đúng, đâu thể như vậy, cho nên thường làm việc phóng sinh để cứu giúp. Từ nhiều đời ta đều gá sinh nơi đó là nói tìm cách cứu hộ cho chúng thoát khỏi nạn khổ. Đời đời thọ sinh: Tuy lại sinh, lại tử nhưng bi quán càng sâu. Nếu thấy người đời sát sinh v.v….trở xuống là nói về tìm cách cứu giúp, sinh mạnh bị giết sẽ bị khổ hiện tại, người giết sẽ bị khổ ở tương lai. Nên đối với năng giết, sở giết phải rộng sinh lòng từ bi cứu độ, phải tìm cách cứu hộ cho họ được thoát khỏi nạn khổ là cứu sinh mang bị giết thoát khỏi khổ hiện tại, thường giáo hóa giảng nói giới Bồ-tát cứu độ chúng sinh là cứu người giết, ngăn khổ ở đương lai cho họ. Nếu cha mẹ hay anh em chết, thỉnh Pháp sư giảng kinh luật giới Bồ-tát thì người chết nhờ phước đức ấy được vãng sinh, pháp lực khó nghĩ bàn, thầm ban cho không luống uổng: Nên người chết thần linh tuỳ ở đường nào? Trừ hai đều kia chắc chắn được nhờ lợi ích. Hỏi: Nối nhau đã khác, vì sao tu nhân phước này lại được quả an vui kia, vì mình làm người chịu trái với luật nhân quả? Đáp: Theo đạo lý nhân quả thật không có việc mình làm mà người khác chịu. Nhưng tương duyên giữa mình và người thì chẳng thể không giúp đỡ lẫn nhau. Nên ngài Mục-liên tạo phước thì vong linh mẹ Ngài được thoát khổ ngạ quỷ. Na-xá tu điều lành, thần thức của cha Ngài được tránh khỏi nạn kổ dữ dội, ấy là nghĩa cảm ứng nhau, lý thường chắc chắn như vậy.

Mười giới như thế cần nên học tập và hết lòng kính trọng vâng giữ, như trong phẩm diệt tội có giảng rõ mỗi giới. Mười giới như thế trở xuống là tổng kết, khuyên thọ trì chỉ cho các văn rộng khác, từ đây trở xuống giới thứ ba mươi nói thuộc về thiện hòa kính. Hòa kính có sáu, nghĩa là ba nghiệp đồng và giới kiến lợi đồng. Trong mười giới, ba giới đầu nói ba nghiệp đồng, giới là nói kiến đồng, bốn giới tiếp theo là nói lợi đồng, ba giới sau cùng nói giới đồng. Tức là luận đã nói trong giới nhiếp thiện đối với các bậc tôn trưởng siêng tu kính thờ, trong ba giới đầu thì trước là ngăn sân hận không chịu đựng, kế là ngăn kiêu ngạo không thưa hỏi. Tiếp theo là ngăn ngã mạn không dạy dỗ, mỗi trường hợp đều ngăn chung về ba nghiệp bất hòa. Hoặc có thể như thứ lớp ngăn thân miệng ý.

Giới thứ nhất: Nhẫn chịu trái phạm.

Nếu Phật tử, không được đem giận trả giận, đem đánh trả đánh. Nếu cha mẹ, anh em, hay sáu thân bị người giết cũng chẳng được báo thù, hoặc quốc chủ bị người giết chết cũng chẳng được báo thù. Giết sinh mạng để báo thù sinh mạng, đó là việc không thuận với hiếu đạo.

Chứa nuôi tôi tớ còn không được, vì đánh đạp mắng nhiếc chúng mỗi ngày ba nghiệp gây ra vô lượng tội, nhất là khẩu nghiệp. Huống là cố gây ra bảy tội nghịch. Nếu Bồ-tát xuất gia không có lòng từ bi cố báo thù, cho đến cố báo thù cho sáu thân. Phật tử này phạm tội khinh cấu. Đã tin đạo lý khắp thân một thể mà tức giận đánh đập nhau để báo thù thì chẳng phải hiếu thuận, cũng mất lòng từ bi nhẫn nhục, cho nên Phật chế để dứt trừ. Tức trong luận chép: Đối với sự trái phạm của người khác suy nghĩ chịu đựng. Nhị thừa đều chế, bảy chúng đồng cấm. Trong văn chép. Nếu giết cha mẹ anh em, sáu thân còn không được cố báo thù, ngoại đạo nói một đời oán thân chắc chắn là khác, nên nói: mối thù cha mẹ không ở chung trong trời đất, mối thù anh em không cùng ở chung một nước. Từ mối thù anh em, không phải là đứng đầu, bên trong dung chứa oán thân nhất quán trong ba đời, đâu cho phép vì một người bà con kia mà giết một bà con này. Nên dù anh em bị giết cũng không được cố báo thù. Lại thân người đã chết rồi thì không thể sống lại, nếu giết người kia, đối với ta có lợi ích gì? Nên kinh Trường Thọ Vương chép: lấy oán báo oán, oán ấy không bao giờ mất, lấy đức báo oán, oán ấy mới tiêu tan. Nếu Quốc chủ bị người khác giết chết cũng chẳng được báo thù: nghĩa là quốc chủ vì người khác cố giết giết cha mẹ mình cũng không được báo thù đối với quốc chủ, vì Quốc chủ cũng là bà con của mình. Lại nếu Quốc chủ của mình bị nước địch giết cũng không được đến nước ấy báo thù, vì kẻ địch ở nước kia cũng là cha mẹ của ta. Thái Tử Trường sinh gác kiếm cũng là việc ấy, giết sinh mạng để báo thù sinh mạng, đó là việc không thuận với hiếu đạo, nghĩa là oán lại là thân, cũng có ân sinh ra ta, giết sinh mạng kia để báo ân sinh thành ra ta là không phải đạo hiếu thuận, khi giết đặc biệt kết tội trọng. Nay đối với báo oán kết tội khinh cấu, còn không được nuôi tôi tớ,v,v… tất cả kết tội khinh cấu. Huống chi cố gây ra bảy tội nghịch, biết tất cả là cha mẹ ta mà làm việc giết hại để báo thù nên gọi là nghịch. Nếu Bồ-tát xuất gia không có tâm từ bi, cố báo thù, v.v… làm việc trái nghịch nên thành phạm, chỉ nêu người xuất gia vì rất trái nghịch nên lý chung cho tại gia. Cho đến cố báo thù cho sáu thân là cha mẹ chú bác, anh em là sáu thân, mối thù của sáu thân còn không được báo huống chi người khác. Giới thứ mười sáu trong Bồ-tát Địa chép: Nếu các Bồ-tát đem mắng trả mắng, đem sân trả sân, đem đánh trả đánh, đem nghịch trả nghịch, ấy gọi là có phạm, có sự trái vượt là ô nhiễm trái phạm. Giới này không khai duyên, chế ý rất dễ thấy.

2. Giới tâm nhún nhường thọ pháp.

Nếu Phật tử mới xuất gia chưa thông hiểu kinh luật, mà tự ỷ mình là trí thức thông minh, hoặc ỷ mình là cao quý lớn tuổi, hoặc ỷ mình là dòng họ tôn quý, con nhà giàu sang, hoặc ỷ mình học rộng phước to, giàu có, v.v… rồi sinh lòng kiêu mạn mà không chịu học hỏi kinh luật với các vị Pháp sư học đạo trước mình. Vị Pháp sư ấy hoặc dòng hèn, con nhà thấp hèn, tuổi trẻ nghèo nàn, hèn hạ, hay có tật nguyền, nhưng lại thật có đức hạnh, thông hiểu nhiều kinh luật. Các Bồ-tát tân học không được nhìn vào dòng giống của vị Pháp sư mà không chịu đến học hỏi đạo lý Đệ nhất nghĩa đế với vị ấy, Phật tử này phạm tội khinh cấu, vì thấy hình dáng mà không đến thưa hỏi đạo lý sẽ mất lợi ích thọ lãnh giáo pháp cho nên cấm. Đại thừa, Tiểu thừa đều chế, bảy chúng đều ngăn ngừa. Trong văn chép: Phật tử mới xuất gia, chưa thông hiểu kinh luật nghĩa là ngày gần vào đạo, chưa thông hiểu kinh luật trong Phật pháp. Tự ý mình là trí thức thông minh: nghĩa là ỷ mình là hiểu biết thông minh đối với việc đời. Hoặc ỷ mình là cao quý lớn tuổi, nghĩa là giàu sang quyền thế cao quý, tuổi tác lớn hơn người. Hoặc ỷ mình là dòng sang con nhà nổi tiếng: là sinh vào dòng họ tôn quý, gia môn sang trọng hơn người. Đại giải đại phước là tài đức dồi dào, rồi sinh tâm kiêu mạn: là dựa vào năm việc trên mà sinh tâm kiêu mạn. Vị Pháp sư ấy hoặc thuộc dòng hèn hạ, con dòng thấp hèn tuổi trẻ nghèo nàn, hèn hạ bị tật nguyền… luật chế người tàn tật làm, phải tuyên dương Pháp chủ, trong đây chính là thưa thỉnh người tuổi nhỏ, nên theo học hỏi, hoặc có thể Bồ-tát chỉ quý đạo của vị Pháp sư ấy chớ không vì hình tướng của Pháp sư, nên tuy nghèo nàn, hèn hạ cũng thỉnh nói pháp, như trời Đếthích theo Dã can để thọ pháp v.v.… mà Bồ-tát tân học không chịu đến học đạo lý Đại thừa với vị Pháp sư ấy là trái, cho nên phạm.

3. Giới có tâm tốt dạy trao:

Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới Bồ-tát, trời đối trước tượng Phật và tượng Bồ-tát mà tự nguyện thọ giới, phải sám hối trong bảy ngày, hễ thấy được tướng tốt thì thọ đắc giới, nếu chưa thấy được tướng tốtthì phải sám hối mười bốn ngày, hăm mốt ngày, hay đến cả năm, cầu thấy được tướng tốt, khi thấy được tướng tốt rồi thì được đối trước tượng Phật, Bồ-tát mà thọ giới. Nếu chưa thấy tướng tốt thì dầu có đối trước tượng Phật thọ giới, vẫn không gọi là đắc giới. Nếu đối trước vị Pháp sư đã thọ giới Bồ-tát mà thọ giới, thì không cần thấy tướng tốt. Vì sao? Vì vị Pháp sư ấy là các sư truyền giới cho nhau nên không cần thấy tướng tốt. Hễ đối trước vị Pháp sư ấy mà thọ giới liền đắc giới, vì hết lòng kính trọng nên đắc giới, nếu ở trong vòng ngàn dặm mà tìm không được vị Pháp sư truyền giới, thì Phật tử được phép đối trước tượng Phật và Bồ-tát mà tự nguyện thọ giới Bồ-tát, nhưng phải thấy tướng tốt.

Nếu các vị Pháp sư ỷ mình thông kinh luật và giới pháp Đại thừa mà kết giao với các nhà quyền quý như vua chúa, Thái Tử, bá quan, khi có Bồ-tát tân học đến cầu học nghĩa kinh luật, lại giận ghét hay khinh ngạo, không chịu tận tâm chỉ dạy, vị này phạm tội khinh cấu.

Gặp người có pháp khí mà không chịu chỉ dạy là trái với đạo chỉ dạy nên răn Đại thừa, Tiểu thừa; xuất gia tại gia đồng chế. Trong văn chép có hai, một là nói rõ duyên đắc giới của Bồ-tát tân học, hai là nói Pháp sư không chịu chỉ dạy. Trong duyên đắc giới có ba, một là nói tự nguyện thọ giới, hai là nói theo người khác thọ giới, ba là kết lại hai cách thọ. Trong pháp Thanh văn thì năm chúng xuất gia phải theo người mà thọ, hai chúng tại gia chung tự thọ và người khác thọ. Như trong giới thứ năm mươi ba của luận Du-già nói rộng về tướng ấy. Trong pháp của Bồ-tát, kinh này không phân biệt bảy chúng thọ. Nếu cho phép xem xét kỷ, bảy chúng thọ giới đều chung cho hai cách thọ. Như quyển thượng kia đã rộng phân biệt. Nếu Pháp sư v.v.… ác thuyết thì thành phạm, khác với giới thứ mười sáu ở trước là giới kia cấm vì lợi mà nói pháp điên đảo, giới này cấm khinh ngạo, ác thuyết, khai duyên đồng với giới kia.

4. Giới không được chuyên về dị học.

Nếu Phật tử, có kinh luật pháp Đại thừa, chánh kiến, chánh tánh, chính pháp thân của Phật mà không chịu siêng năng tu học, lại bỏ bảy của báu, học những sách luận tà kiến của Nhị thừa, ngoại đạo, thế tục, đó là làm hư hạt giống Phật, là nhân duyên chướng đạo, chẳng phải thật hành đạo Bồ-tát. Nếu cố làm như vậy, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Bỏ gốc theo ngọn làm trở ngại đại đạo cho Phật chế. Đại thừa, Tiểu thừa không cùng chế vì sở học khác nhau, bảy chúng đồng chế. Đây chính là hợp kiến đồng trong sáu pháp hòa. Trong văn chép: có kinh luật của Phật nghĩa là hiện có giới pháp của Phật, nếu không có Phật pháp thì cũng cho phép theo thọ pháp bên ngoài vì bấy giờ Phật pháp ở thế gian đều diệt mất. Pháp Đại thừa là giáo pháp Đại thừa, chánh kiến là trong hành pháp Đại thừa thì tuệ là chính. Chánh tín là lý Đại thừa. Chánh pháp thân là quả pháp Đại thừa, nhưng không thể bỏ gốc theo ngọn. Bỏ bảy báu là Đại thừa đáng xem trọng đồng với bảy báu mà bỏ không tu tập. Hoặc kinh bản chép không bỏ bảy báu nghĩa là không bỏ bảy báu thế gian, muốn học pháp bảo phải bỏ của báu thế gian, vì không bỏ nên không thể học tập, lại học các sách luận tà kiến của Nhị thừa, ngoại đạo, thế tục là nêu chung pháp học, khác vì trái Đại thừa nên đều gọi là tà kiến, các sách luận thế tục ấy là pháp của ngoại đạo. Sách ghi A-tỳđàm Tạp luận là pháp của hàng Nhị Thừa, Luận sư đời sau đặt ra luận ký, hoặc văn nghĩa cạn cợt, hoặc dị kiến rắc rối, không thuận với đạo lý sâu xa của Đại thừa, vì thế không cho phép chuyên tâm tu học. Nếu đã được nghiên cứu Đại thừa, vì phá dị kiến để trang nghiêm Đại thừa tạm thời tập học, theo lý thì không cấm. Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát chưa nghiên cứu tinh thông tạng Bồ-tát mà xả bỏ tạng Bồ-tát, một bề tu học Tạng Thanh văn, ấy gọi là phạm, có sự trái vượt, chẳng nhiễm ô trái phạm (là giới hai mươi sáu). Nếu các Bồ-tát, hiện đời có giáo pháp của Phật mà không nghiên cứu thông suốt, lại siêng tu học các luận của đạo khác và luận của ngoại đạo, ấy gọi là phạm, có sự trái vượt là nhiễm ô trái phạm. Không phạm là hoặc thông minh nhạy bén, hoặc có khả năng tiếp thu mau lẹ, hoặc trải qua thời gian lâu mà không quên mất, hoặc đối với nghĩa ấy có thể suy nghĩ, có thể thông hiểu, hoặc đối với giáo pháp Phật quán sát đúng lý, thành tựu câu hạnh, vô động giác ngộ. Mỗi ngày thường tu học hai phần Phật ngữ, học một phần pháp ngoài thì không phạm (là giới hai mươi bảy). Lại giới hai mươi lăm của Bồ-tát Địa chép. Nếu các Bồ-tát khởi thấy như vậy, lập luận như vậy. Bồ-tát không nên nghe giáo pháp tương ứng với Thanh văn thừa, không được thọ trì, không được tu học. Bồ-tát đâu cần giáo pháp tương ứng với Thanh văn thừa, cho phép nghe thọ trì siêng năng tu học, ấy gọi là phạm, có sự trái vượt, là nhiễm ô trái phạm, vì sao? Vì Bồ-tát đối với việc nghiên cứu sách luận của ngoại đạo còn siêng năng, huống chi đối với lời dạy của Phật. Không phạm là vì khiến cho một bề tu pháp Tiểu thừa xả bỏ dục kia mà nói như vậy, e rằng người một bề không huỷ báng Tiểu thừa phạm giới Bồ-tát, nên nhờ đó dẫn ra.

5. Giới khéo phân chia vật của đại chúng.

Nếu Phật tử sau khi Phật nhập diệt, làm Pháp sư, giảng sư, luật sư, Thiền sư, Thủ toạ, Tri Sự, Tri khách, phải có lòng từ bi khéo hòa giải trong chúng, khéo giữ gìn tài vật của Tam bảo, chớ dùng vô độ như của riêng mình, mà lại khuấy chúng gây gổ, kình chống, lung lòng xài của Tam bảo. Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Bốn giới sau đây là chế đồng lợi, khéo hòa giải trong chúng không có tâm buồn rầu hối hận, khéo giữ gìn tài vật của Tam bảo, để không để cho phí tổn. Nếu được như vậy thì chánh pháp không dứt mất, nên chế để thực hành. Đại thừa, Tiểu thừa đồng chế, bảy chúng đồng học, vì hai chúng tại gia có nghĩa là chế ngự chúng. Trong văn chép: sau Phật diệt độ là nói lên thời gian. Thuyết pháp chủ: nghĩa là người giảng nói, hoặc có thể đàn việt giảng thuyết là thuyết pháp chủ. Hạnh pháp chủ là chủ thi hành giáo pháp. Tăng phòng chủ là chủ chùa. Ma-ma-Đế giáo hóa chủ nghĩa là chủ giáo hóa xuất gia, tại gia. Toạ thiền chủ là chủ tu tập thiền định. Hành lai chủ là như chũ thí một bửa ăn cung cấp cho người qua lại. Trong sáu việc trên đều là chế ngự nên đều gọi là Chủ. Như sáu chủ trên phải thực hành hai việc, một là khởi tâm từ bi, khéo hòa giải trong chúng, hai là khéo giữ gìn tài vật của Tam bảo, thọ dụng đúng pháp không được trộm lấy dùng vô độ như của riêng mình. Đổi pháp thọ dụng hoặc như kinh Bảo Lương và các luật luận, nên y theo mà làm, ở đây không kể đủ, mà Bồ-tát lại khuấy chúng gây gổ kình chống, v.v.… vì trái nên kết phạm, lung lòng xài vật của Tam bảo, được vật thuộc về mình, phi xứ dùng lẫn lộn, đều kết tội trọng. Trong đây chỉ kết lỗi không khéo giữ tài vật của Tam bảo.

6. Giới chủ khách đồng được lợi:

Nếu Phật tử, trước ở trong Tăng phường, sau thấy có Bồ-tát Tỳkheo khách đến, hoặc ở thành ấp, nhà cửa của tăng hay của vua cho đến chỗ kiết hạ an cư và trong đại hội v.v.… chư tăng ở trước phải rước đến đưa đi, cung cấp cho vật uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà, phòng, giường ghế, v.v.… Nếu tự mình không có thì phải bán thân, bán con cái, lóc thịt thân mình mà bán, để sắm đồ cung cấp cho những khách vị tăng ấy. Nếu có thí chủ đến thỉnh chúng tăng thọ trai, khách Tăng có dự phần, vị Tri sự phải theo thứ lớp phái khách tăng đi thọ trai. Nếu chư tăng ở trước đi thọ trai riêng mà không phái khách tăng đi thì vị Tri sự mắc vô lượng tội, không đáng là sa-môn, không phải dòng Thích Tử, nào khác gì loài súc sinh. Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Dự vào pháp lợi Thích lữ lẽ ra nên đồng. Nếu pháp giống, lợi khác thì giống như việc xấu xa của thế tục. Thanh văn còn không cho phép huống là bậc Đại sĩ, nên chế đồng nhau Đại Tiểu thừa đều chế, đạo tục không chế chung. Đã nói lợi dưỡng của tăng không gồm chúng thế tục. Trong văn chép có hai: một là theo vật của tăng thì phải chia đều cho chủ và khách tăng, hai là lợi của thí chủ phải chia đều cho chủ tăng và khách tăng. Trong phần đầu trước là nói trụ xứ trong tăng, phần sau từ nhà cửa trở xuống nói chỗ của thí chủ. Nếu tự mình không có tài vật thì phải bán thân và con cái, lóc thịt thân mình mà bán, y cứ theo tướng của văn này lẽ ra phải gồm cả chúng thế tục. Tuy không dự vào lợi dưỡng của tăng nhưng chăm nom cung cấp cho khách, lý chung cho cả Bồ-tát tại gia. Nếu có thí chủ thì thí chủ chia cho khách chủ đồng lợi. Sai việc tăng lược có sáu loại, một là người năng sai phải thành tựu năm pháp, nghĩa là không thương, không giận, không sợ, không si, biết nên sai hay không nên sai. Lại trì giới thanh tịnh không dínhmắc hành pháp, sau đó phải chuyên chủ, hai là người sở sai, nghĩa là năm chúng xuất gia, không phá giới, không có giới, cho đến người vì giải thoát mà xuất gia mới được thọ giới. Nếu người mang hành pháp tăng tàn và bạch bốn lần Yết-ma thì phải nương người bản hạ lần lượt học giới, ở dưới tăng, trên sa-di, sa-di ba quy y, năm giới có thuyết nói cũng được thọ thứ lớp tăng. Văn kinh Niết Bàn, hai bản Tiểu thừa và Đại thừa lại khác nhau, nên không thể làm chứng, ba là sai chỗ hội hợp, hai chỗ Tăng và tục tự nhiên tác pháp đều được sai theo thứ lớp. Thuyết cũ chép rằng: xưa này có thể nương theo, bốn là sai theo thứ lớp, pháp chỉ có một, thứ lớp từ Thượng tọa đến Hạ tọa, xoay vần trở lại từ đầu không phân biệt Đại Tăng và sa-di, đều phải theo thứ lớp sai họ. Hoặc nói Thượng tọa được gọi là Tăng thứ, hoặc nói kinh đạo Tăng thứ, giảng độ Tăng thứ, v.v… chính là thỉnh đích xác tên khác, không khai cho tăng thứ mười phương. Như pháp lợi dị kiến không chung của năm bộ. Lại có thể trụ xứ của Tiểu thừa khác Đại thừa vì không tin Đại thừa là pháp Phật. Nếu trụ xứ của Đại thừa không thể riêng với Tiểu thừa vì Đại thừa tin năm bộ đều là Phật pháp. Bởi vì nghe trụ xứ của Đại thừa ở nước Tây vực thông hành với nghĩa của mười tám bộ, năm là sớ đến sớm muộn, sáu là thọ thỉnh xả thỉnh, sớ cũ nói đầy đủ, ở đây không phiền dẫn ra, vị Tri sự mắc vô lượng tội, vì đoạt lấy của người khác nên được lợi, tuy vật không thuộc về mình mà vẫn bị tội trộm. Nếu người thọ thỉnh biết mà cố thọ, lẽ ra phải cùng phạm, súc sinh khác v.v … là quở trách người kia phạm tội trọng, chỉ tham lợi dưỡng hiện tại mà không thấy lỗi về sau, nên nói nào có khác gì súc sinh, đã làm việc phi pháp làm sao gọi là dứt ác? vì trái lời Phật dạy nên chẳng phải dòng họ Thích.

7. Giới thọ thỉnh riêng:

Nếu Phật tử, tất cả chẳng được nhận của cúng dường dành riêng về mình, của cúng dường này thuộc về tăng mười phương, nếu nhận riêng tức là lấy của tăng mười phương đem về phần mình, và tài vật của tám ruộng phước: Chư Phật, bậc Thánh, sư Tăng, cha, mẹ, và người bệnh, tự mình nhận dùng riêng. Phật tử này phạm tội khinh cấu. Trái với rộng phước của thí chủ, mất lợi dưỡng của chúng tăng v.v… nên chế không cho thọ. Thanh văn đều cho phép nhị thỉnh, Bồ-tát một bề ngăn riêng. Trong bảy chúng nên chế năm chúng xuất gia. Trong văn chép: Tất cả chẳng được nhận của cúng dường dành riêng về mình, là trong pháp Thanh văn người thọ pháp đầu-đà thì không thọ thỉnh riêng, người không thọ đầu đà thì cho phép thọ. Trong pháp Bồ-tát không xét là đầu-đà hay chẳng phải đầu-đà, bất cứ lúc nào cũng ngăn, tất cả không được thọ thỉnh riêng, của cúng dường này thuộc về tăng mười phương nghĩa là Bồ-tát không thọ thỉnh riêng, đây đã được lợi lẽ ra thuộc về mười phương, nhưng vì Bồ-tát thọ thỉnh riêng thì có nghĩa xa vì tổn tài vật riêng của tăng mười phương đem về mình, nên nói rằng, nếu nhận riêng thì đó là lấy của tăng mười phương đem về mình, của vật trong tám ruộng phước tự mình nhận dùng riêng là chẳng những lấy vật của mười phương đem về mình, mà cũng tổn vật trong tám ruộng phước, Bồ-tát tự thọ hoặc không thọ thỉnh riêng, đối với tám ruộng phước đều có phần, nhưng vì thọ lợi dưỡng riêng giúp đỡ cho mình. Tám ruộng phước là, một là Phật, hai là bậc Thánh, ba là Hòa-thượng, bốn là A-xàlê, năm là Tăng, sáu là cha, bảy là mẹ, tám là người bệnh, Hòa-Thượng A-xà-lê trong kinh bản gọi là hai thầy, hoặc gọi là từng thầy một, nghĩa đều không khác. Hỏi: Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát, có người đến mời, hoặc đến nhà, hoặc đến chùa, dâng cúng đầy đủ các thứ như thức ăn uống, y phục, v.v… mà kiêu mạn có tâm hiềm hận, sân não không đến chỗ ấy thọ thỉnh, ấy gọi là phạm, có sự trái vượt là nhiểm ô trái phạm. Nếu vì lười biếng, uể oải quên không nhớ, không đến chỗ ấy thọ thỉnh, ấy gọi là phạm, có sự trái vượt không nhiễm ô trái phạm, văn này là y cứ thỉnh riêng nên ngăn không cho thọ, hay là y cứ theo thứ lớp tăng mà ngăn không cho thọ? Đáp: có chỗ nói rằng: luận văn kia ngăn không cho thọ thứ lớp Tăng, thỉnh riêng thì thường không cho phép, nếu không thọ cũng không phạm, có thuyết lại nói rằng: kia cũng ngăn không cho thọ thỉnh riêng, có tâm tức giận không thọ thỉnh riêng, vì trái với thí chủ, trái với hạnh từ bi. Nếu thí chủ kia theo thứ lớp thỉnh tăng rồi, thỉnh riêng Bồ-tát chắc chắn muốn cúng dường, như luận đã chế chẳng thể không thọ, chỉ trừ khai duyên, không thọ không phạm, như văn kia chép. Không trái phạm là, hoặc bị tật bệnh, hoặc không có sức khoẻ, hoặc tâm cuồng loạn, hoặc ở cách xa, hoặc đường đi có sự đáng sợ, hoặc muốn tìm cách, điều phục người phạm lỗi ra khỏi chỗ bất thiện, an lập chỗ thiện, hoặc trước đã có sự thỉnh khác, hoặc vì không ngừng tu pháp lành, muốn giữ gìn phẩm lành, nên khiến cho không tạm bỏ. Hoặc là dẫn nhiếp nghĩa chưa từng có. Hoặc đã nghe pháp nghĩa không lui sụt. Như tà mạng đã nghe pháp nghĩa không lui sụt, luận về nghĩa chọn lựa nên biết cũng như vậy. Hoặc lại biết người kia có tâm tổn não dối đến mới thỉnh. Hoặc vì hộ người nặng về tâm hiềm hận. Hoặc giữ gìn Tăng chế, mà không đến chỗ ấy thọ thỉnh đều không phạm.

8. Giới không được thỉnh tăng riêng.

Nếu Phật tử có Bồ-tát xuất gia, Bồ-tát tại gia và tất cả đàn việt lúc muốn thỉnh tăng để cúng dường cầu nguyện thì nên vào tăng phường thưa với vị Tri sự. Vị Tri sự bảo rằng: Theo thứ lớp mà thỉnh thì được Hiền Thánh Tăng mười phương, người đời thỉnh riêng năm trăm vị Ala-hán Bồ-tát tăng vẫn không bằng theo thứ lớp thỉnh một vị phàm phu tăng. Trong giáo pháp của bảy Đức Phật đều không có pháp thỉnh tăng riêng. Nếu thỉnh tăng riêng đó là pháp của ngoại đạo, là không thuận với hiếu đạo. Nếu Phật tử cố thỉnh riêng thì phạm tội khinh cấu: Bỏ rộng lớn thì riêng mất ruộng phước rộng lớn kia, cho nên chế không được. Đại thừa, tiểu thừa không cùng chế. Trong pháp của Thanh văn cũng cho phép thỉnh riêng. Trong pháp của Bồ-tát thì bảy chúng đồng cấm, có thuyết cho rằng Bồ-tát thỉnh Tăng trái hội thường không được thỉnh riêng, đều phải theo thứ lớp, thỉnh riêng một vị thì phạm giới này, có thuyết lại cho rằng, một trụ xứ tuỳ theo người nhiều hay ít thứ lớp thỉnh một vị tăng thì không phạm. Hoặc đều không có người thì phạm, ý văn giống như phần giải thích ở trước. Trong văn có Bồ-tát xuất gia chính là chế Bồ-tát không nên thỉnh riêng, và tất cả đàn việt là chế cả người khác. Tuy không có giới để phạm nhưng mất ruộng phước rộng lớn. Ruộng phước thỉnh Tăng cho đến muốn theo thứ lớp thỉnh là chỉ bày phương pháp thỉnh theo thứ lớp. Nghĩa là đạo tục muốn thỉnh tăng để cúng dường cầu nguyện, tâm không đi đến yên định, bất luận trì phạm vì tăng đều thanh tịnh không phi pháp, cho nên chỉ y cứ vào năm pháp kia thành tựu những điều mà người Tri sự hỏi. Nay muốn được thứ lớp thỉnh trong Tăng, tâm không phân biệt nên nói thứ lớp, sẽ được hiền Thánh Tăng mười phương là ruộng phước rộng lớn dung chứa tất cả Hiền Thánh mười phương, đều vào trong đó. Nếu không được Hiền Thánh, chỉ được một phàm phu, tâm thỉnh đã không chọn riêng, thì phước cũng thần thông cả mười phương nên nói được Hiền Thánh Tăng mười phương. Hỏi: Mười phương tăng khác đã không nhận cúng dường, vì sao do tâm rổng không mà muốn được thật phước ở mười phương.

Đáp: Tội phước khởi do tâm làm chủ, tâm đã muốn khắp thì phước làm sao không khắp, như người ác giới đối với tất cả loài dê mà khởi tâm ưa thích giết hại, tuy tất cả bầy dê đều không bị hại nhưng tất cả dê khởi khắp không có luật nghi, vì dùng ác để lệ cho thiện thì thiện nào mà không như vậy?

Hỏi: Nếu như vậy người không có luật nghi đối với tất cả dê sinh khởi bất luật nghi, người kia giết dê bị nghiệp đạo, bố thí cũng phải như vậy, có lựa chọn riêng chăng?

Đáp: chẳng thể không có nghĩa này, khắp với tất cả tăng được khởi phước cúng dường, chỉ đối với một vị tăng theo thứ lớp khởi phước nghiệp cúng dường, vì ưa thích suy nghĩ đối với người thọ thí. Lại biết không so sánh vì nghiệp giết hại chúng sinh là gốc. Đối với vật bị hại bị nghiệp sát sinh vì bố thí thì tâm xả là chính. Đối với tất cả được phước nghiệp cúng dường, vì ta cúng dường tâm trùm khắp tất cả. Nếu thọ dụng phước, khi cúng dường người sau khởi thỉnh riêng. Thỉnh riêng năm trăm vị A-la-hán Bồ-tát tăng không bằng theo thứ lớp thỉnh một vị phàm phu tăng, nghĩa là thỉnh hàng trăm A-la-hán, hàng trăm Bồ-tát, vì tâm lựa chọn riêng, chỉ đối với người được thỉnh ban phước, chẳng phải chỗ khác theo thứ lớp thỉnh, một Tăng theo thứ lớp không chọn riêng. Nên khắp với tất cả đều khởi phước lành. Trong luật chép, Đức Phật quở Trưởng giả Sư Tử thỉnh tăng riêng … Dù thỉnh năm trăm vị A-la-hán không bằng thỉnh một phàm phu tăng. Thỉnh tăng riêng là pháp của ngoại đạo. Chư Phật vốn bình đẳng cùng khắp làm chính, vì thế vốn không có pháp thỉnh riêng. Nếu trong luật dạy cho phép thỉnh riêng là linh động thuận theo thế tình quyền thí giáo môn. Như trong Phật pháp không cho phép ăn thịt là muốn dần dần chế, lại cho phép ba thứ thịt thanh tịnh. Ở đây cũng như vậy nên nói là pháp của ngoại đạo, bảy Đức Phật không có vì trái với bản giáo của Phật nên không có đạo hiếu thuận.

9. Giới không Nuôi Sống bằng tà mạng.

Nếu Phật tử, vì tâm ác vì lợi dưỡng buôn bán nam sắc, nữ sắc, tự tay làm đồ ăn, tự xay tự giã, xem tướng, bàn mộng tốt xấu, đoán sẽ sinh trai hay gái, bùa chú pháp thuật, cách nuôi chim ó và chó săn, pha chế trăm thứ thuốc độc, ngàn thứ thuốc độc, độc rắn, độc sinh vàng, sinh bạc, độc sâu cổ, đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Nếu cố làm các việc như thế, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Hai giới dưới đây, giải thích về giới đồng, giới đầu ngăn tà mạng, giới sau ngăn tà nghiệp, vì trái với tịnh mạng nên chế. Đại thừa, tiểu thừa đồng chế, bảy chúng đều ngăn ngừa.

Trong văn nói, dùng tâm ác vì lợi dưỡng, chẳng phải kiến cơ ích vật. Buôn bán nam sắc nữ sắc… gồm có mười việc, một là bán nam sắc, nữ sắc, hai là tự tay làm đồ ăn, ba là tự xay tự giã, bốn là xem tướng nam nữ, năm là bàn mộng lành dữ, sáu là bùa chú pháp thuật, bảy là công xảo, tam là phương pháp điều phục chim ó, chín là pha chế thuốc độc, mười là độc sâu cổ. Trong mười việc này, một việc đầu, ba việc sau xuất gia tại gia đều cấm, việc thứ hai thứ ba chế đạo khai cho tục, việc thứ tư thứ năm hoặc là xuất gia tại gia đều cấm, hoặc người thế tục không vì mạng sống thì không phạm, việc thứ sáu thứ bảy không cấm người thế tục, còn Bồ-tát xuất gia nếu không vì mạng sống mà hộ thân thì y theo luật cũng nên cho phép.

10. Giới không làm tà nghiệp.

Nếu Phật tử, vì tâm ác tự mình huỷ báng Tam bảo, mà giả bộ kính mến, miệng thì nói không, mà hành vi lại có, đưa tin cho hai bêb nam nữ giao hội, vì người tại gia làm mai làm mối cho nam cho nữ giao hội dâm sắc, gây thành các nghiệp trái buộc, sáu ngày trai trong mỗi tháng, ba tháng trường trai trong mỗi năm, làm việc sát sinh, trộm cướp, phá trai, phạm giới, Phật tử này phạm tội khinh cấu, vì trái với chánh nghiệp cho nên cấm. Đại thừa Tiểu thừa đều cấm, đạo tục đồng ngăn ngừa. Nhưng trong văn xếp vào năm việc, việc thứ năm khi không hiếu kính thì chưa hẳn đều đồng, đến văn sẽ xếp vào. Trong văn chép, tà nghiệp gồm năm việc, một là tự mình huỷ báng Tam bảo, mà làm ra vẻ kính mến, hai là miệng thì nói không, mà việc làm lại ở trong có, ba là làm mai mối cho người tại gia, bốn là làm mai mối cho nam nữ giao hội dâm sắc, năm là vào các ngày trai mà làm ác. Ngoài ra đều do văn hiển bày. Trong việc thứ năm, nếu phá trai, phạm giới thì tuỳ việc mà kết tội khác. Nay không hiếu kính thì kết chung một tội, một việc nay đối với pháp Thanh văn chưa hẳn chế làm giới riêng.

Trong pháp Bồ-tát, vì đối với pháp lành sinh tâm tha thiết nên chế làm giới. Hoặc là chỉ chế cho tại gia, vì xuất gia đều thọ trì trai bát luận thời gian. Hoặc là cũng chung cho xuất gia, vì lúc cung kính tuy có giới thường, phải vào ngày trai mà thọ. Theo kinh Dược sư thì năm chúng xuất gia cũng thọ tám giới, bởi vì làm cho pháp lành thêm lớn, sáu ngày trai là tháng có trăng và tháng không trăng, mỗi tháng có ba, vào những ngày này, quỷ thần có thế lực nên tổn hại mọi người, Vào kiếp Sơ Thánh giúp người tránh hại, chế ra pháp trì trai để tránh khởi sự tổn hại của quỷ thần, chỉ dứt bữa ăn sau ngọ là trai, chưa chế ra giới pháp. Khi Đức Phật ra đời vẫn theo pháp nầy lại thêm vào giới thứ tám. Không trăng, có trăng đều có giới thứ tám và ngày mười bốn, đây là sự chia ngày của Ma-hê-thủ-la, mỗi tháng có mười lăm ngày là sự phân chia của tất cả Thần. Nên trong sáu tháng chế thọ pháp trì trai. Ba năm trường trai, kinh Đề-vị chép: Tháng giêng vốn trì trai ngày mười lăm, tháng năm vốn trì trai, ngày mười lăm tháng chín vốn trì trai, ngày mười lăm, là ba ngày trường trai trong năm, nhân duyên như kinh có nói rộng. Kinh Ưu-Bà-tắc chép: Vì người chết mà tu phước gồm có ba tháng giêng mùa xuân, tháng năm mùa hạ và tháng chín mùa thu. Luận Thập Trụ chép: Vào ngày tam khí quỷ thần có thế lực nên ngăn tam khí. Pháp trì trai là từ mùa đông đến bốn mươi lăm ngày sau là tam khí.

Mười giới như thế, phải nên học hết lòng kính trong vâng giữ. Trong phẩm Chế Giới có giảng rõ. Mười giới sau đây tổng kết khuyên thọ trì chỉ rỏ ở phẩm khác. Giới thứ hai đến giới thứ chín nói về nhiếp chúng sinh. Trong chín giới đầu phần lớn chia làm hai, giới đầu tiên nói dùng tài vật để nhiếp chúng sinh, tám giới sau nói dùng pháp nhiếp chúng sinh.

 

QUYỂN HẠ

(Phần Cuối)

1. Giới thứ nhất: Cứu chuộc người ngay ách khổ nạn.

Phật dạy: Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt ở trong đời ác, thấy hàng ngoại đạo, bọn giặc cướp cùng tất cả người ác đem bán hình tượng Phật, Bồ-tát, cha mẹ, đem bán kinh luật, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cùng người hành đạo Bồ-tát, người phát tâm Bồ-đề, để làm tay sai cho các quan hay làm tôi tớ cho mọi người. Phật tử thấy những việc như thế, nên có tâm từ bi tìm cách cứu vớt. Nếu không đủ sức, Phật tử phải đi quyên tiền các nơi để chuộc hình tượng Phật, Bồ-tát và tất cả kinh luật, chuộc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, người tu hạnh Bồ-tát, người phát tâm Bồ-đề. nếu không chuộc thì Phật tử này phạm tội khinh cấu. Buôn bán kinh tượng có lỗi tổn nhục, bán người tu hành có não u bức. Bậc Đại sĩ đã lấy việc hộ pháp cứu khổ làm hoài bão nên phải tuỳ khả năng mua chuộc cứu hộ. Nếu không chuộc không cứu thì trái với lòng cung kính, trái với lòng từ bi nên chế để thực hành. Luận chép rằng: các Bồ-tát ở trong chỗ sợ sệt như chỗ có sư tử, cọp, Sói, quỷ ma, vua, giặc, nước, lửa… các loài hữu tình ấy Bồ-tát đều có khả năng cứu giúp, khiến lìa các chỗ sợ hãi ấy. Đại thừa tiểu thừa cùng chế. Thanh văn thấy quyến thuộc bị bán mà không chuộc thì phạm tụ thứ bảy. Kinh tượng và người khác chẳng thấy chế khác. Bồ-tát tất cả không được không cứu, chỉ trừ khả năng không cứu nổi. Bảy chúng đồng học.

Trong văn chép: Bán hình tượng Phật, Bồ-tát, cha mẹ nghĩa là Đức Phật là cha mẹ có lòng từ bi rộng lớn nên nói là tượng Bồ-tát, cha mẹ, hoặc là khắc đúc làm hình tượng cha mẹ, như loại Đinh lang, nên nói là hình tượng cha mẹ. Mua bán Tỳ-kheo v.v.… nói là cứu hộ, mua chuộc người tu hành. Trong văn chép, chỉ nói người tu hạnh Bồ-tát, vì tổn hại nhiều nên người khác rơi vào khổ nạn, đúng lý cũng phải cứu vớt.

2.Giới không được chứa khí cụ làm tổn hại chúng sinh.

Nếu Phật tử, không được buôn bán dao gậy, cung tên, các khí giới sát sinh, không được chứa cân non già thiếu, không được nương thế lực quan quyền mà lấy tài vật của người. Không được có tâm ác trói buộc người và phá hoại việc thành công của người, không được nuôi mèo, chồn, heo, chó. Nếu cố làm các đều trên, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Tám giới sau đây dùng pháp nhiếp có hai, bảy giới đầu thuộc về hành pháp, giới thứ tám thuộc về giáo pháp. Trong hành pháp nhiếp thứ hai, hai giới đầu nói về hạnh lìa lỗi, năm giới sau nói hạnh nhiếp thiện, trong hạnh lìa lỗi, đầu tiên là lìa lỗi tổn hại, sau cùng lìa lỗi buông lung, vì chưa nuôi tổn hại trái với hạnh nhiếp từ nên cấm phải dứt bỏ. Đại thừa Tiểu thừa đều chế, bảy chúng đều phòng ngừa. Trong văn chép đủ sáu việc, một là không được chứa dao gậy cung tên, đây là ngăn ngừa lỗi sát hại. Trong giới thứ ở mười trước vì trái với nhiếp thiện nên cấm. Nay trong giới này cũng trái nhiếp thiện nên cấm, vì khiến lợi sinh nên cấm, hai là không được buôn bán bằng cân non, giạ thiếu, đây là ngăn ngừa lỗi tổn hại, ba là không được cậy thế lực quan quyền mà lấy tài vật của người. Giới thứ mười bảy ở trước cấm nương thế lực mà quyên tởi nay giới này cấm dặn bảo chung. Đây cũng ngăn ngừa lỗi trộm cướp tổn hại, bốn là tâm ác trói buộc người, nghĩa là tâm muốn tổn não chưa hẳn bị hại, năm là phá hoại thành công của người, nghĩa là phá dụng đã thành của người khác, sáu là nuôi mèo chồn v.v… xa thì có lỗi xâm tổn nên không được nuôi, thấy chúng bị lâm nguy thì mua chuộc cứu vớt không phạm.

3.Giới Tà Nghiệp Giác Quán.

Nếu Phật tử không được vì tâm ác đi xem tất cả nam nữ v.v.… đánh nhau hay quân trận binh tướng giặc cướp v.v… chiến đấu, cũng không được đi xem hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, đá cầu, đá bóng v.v.… cho đến bói toán xủ quẻ, chẳng được làm tay sai cho bọn trộm cướp. Nếu cố làm các đều trên, Phật tử nầy phạm tội khinh cấu, vì trái với chánh nghiệp nên cấm. Đại thừa, tiểu thừa đồng chế, bảy chúng không cùng chế. Trong văn chép có năm việc, một/ không được đi xem các cuộc đánh nhau, nếu không có duyên sự thì xuất gia ại gia đều cấm, hai/ không được nghe các kỹ nhạc, nếu làm thì phạm, xuất gia tại gia đều chế. Nếu cúng dường Tam bảo thì xuất gia tại gia đều khai. Nếu tự mình làm thì cấm người xuất gia, khai cho tại gia, ba là chẳng được làm các trò vui chơi, xuất gia tại gia đều cấm, bốn là không được bói toán xủ quẻ, vì lợi xuất ggia tại gia đều cấm, chỉ bày như pháp khai cho người

thế tục, năm là không được làm tay sai cho kẻ trộm cướp. Mười một giới trước chế chung thông làm tay sai, giới này chế riêng thầm giới làm tay sai. Đây cũng là xuất gia tại gia đều dứt.

4.Giới không nhớ nghĩ đến thừa khác.

Nếu Phật tử, ngày đêm sáu thời, đọc tụng giới Bồ-tát này. Nên giữ gìn giới luật trong tất cả khi đi đứng nằm ngồi, vững chắc như kim cương, như đeo trái nổi để qua biển lớn, như các Tỳ-kheo bị cột bằng dây cỏ. Thường có tín tâm lành đối với Đại thừa. Tự biết rằng mình là Phật chưa thành, còn Chư Phật là Phật đã thành, rồi phát tâm Bồ-đề và giữ vững không lui sụt. Nếu có một tâm niệm xu hướng theo Nhị thừa hay ngoại đạo, Phật tử này phạm tội khinh cấu: Năm giới sau đây nói nhiếp thiện hạnh, ban đầu ngăn tâm niệm xu hướng theo Nhị thừa, ngoại đạo, kế là ngăn không khởi đại nguyện, và ngăn không phát thệ vững chắc, sau đó ngăn không tu lìa chấp trước, sau cùng ngăn không thuận lớn, nhỏ. Đầu tiên không có tâm niệm, xu hướng theo Nhị thừa, ngoại đạo là vì sợ thiếu đại hạnh cho nên cấm. Xuất gia tại gia đồng học, đại thừa tiểu thừa không cùng học vì hạnh tu tập đều khác. Trong văn xếp vào ba việc, một là hộ trì người tụng giới pháp, hộ trì giới cấm nghĩa là hoặc tánh hoặc ngăn thảy đều hộ trì. Ngày đêm sáu thời đọc tụng giới này là, hoặc văn hoặc nghĩa trì tụng không quên, vững chắc như kim cương là giữ tâm bền bỉ, nhân duyên không mất. Như đeo trái nổi để qua biển lớn là thương tiếc giữ gìn không muốn lìa, việc xứ từ ở kinh Niết-bàn. Như Tỳ-kheo bị cột bằng dây cỏ là cẩn thận cung kính thọ trì không dám trái phạm. Việc nầy xuất xứ từ kinh Nhân Duyên, hai là sinh tín tâm đối với Đại thừa, tự biết rằng mình là Phật chưa thành, tuy có Phật tánh nhưng vì chưa tu nên chưa hiển bày, Chư Phật là Phật đã thành, là đã tu nhân mầu nhiệm sẽ diệu có thể được quả cao siêu, ba là phát tâm Bồ-đề niệm niệm không lìa tâm, là tâm kỳ hẹn đại quả, niệm khác không xen. Nếu khởi một niệm thì sẽ phạm.

5.Giới phát nguyện mong cầu:

Nếu Phật tử, nên phát những đều nguyện lớn, nguyện ở hiếu thuận với cha mẹ, sư Tăng, Tam bảo. Nguyện gặp được thầy tốt, bạn thiện tri thức, thường dạy bảo tôi các kinh luật Đại thừa dạy cho tôi về “Thập phát thú”, “Thập Trưởng dưỡng”, “Thập kim cương”, “Thập địa” cho tôi hiểu rõ để tu hành đúng chánh pháp, nguyện giữ vững giới của Phật, thà chết chớ không chịu phai lòng. Nếu tất cả Bồ-tát không phát nguyện như thế thì phạm tội khinh cấu. Nguyện khéo điều ngự sẽ thú hướng đến quả vị cao siêu. Nếu không phát hạnh nguyện thì không có nơi nương tựa, nên chế phải phát nguyện, bảy chúng đồng học, Đại thừa, tiểu thừa không cùng chế, vì sở cầu khác nhau. Trong văn chép, thường nên phát những đều nguyện lớn là tuỳ theo việc khởi nguyện không chút luống uổng. Như phẩm Tịnh Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm chép: Lại có mười nguyện lớn nên nói rằng phải phát tất cả nguyện. Về mười nguyện lớn, như trong luận Phát Bồ-đề Tâm nói. Từ hiếu thuận trở xuống nêu trong tất cả nguyện, quan trọng là lược bày có mười lăm. Hiếu thuận với cha mẹ, sư Tăng, không trái phạm ân nguyện cao quý. Cha mẹ có công nhọc nhằn sinh dưỡng, sư tăng có công dạy dỗ, đều có ân cao quý nên phải hiếu thuận. Nguyện gặp được thầy tốt, bạn thiện tri thức là gặp gỡ duyên nguyện cao quý. Thường dạy tôi các kinh luật Đại thừa là nguyện nương nhờ giáo lý cao quý. Thập phát thú cho đến Thập Địa là nguyện biết rõ bước vào quả vị cao quý, cho tôi hiểu rõ để tu hành đúng chánh pháp là hợp với hạnh nguyện cao quý. Nguyện giữ vững giới của Phật là nguyện giữ gìn giới cao quý. Giới là nền tảng hành trì nên đặc biệt nêu ra.

6.Giới phải phát thệ.

Nếu Phật tử, khi đã phát mười đều nguyện lớn nầy rồi thì phải giữ gìn giới cấm của Phật. Tự thệ rằng: Thà nhảy vào đống lửa, hố sâu, núi dao, quyết không làm điều bất tịnh với tất cả người nữ để phạm điều cấm, trong kinh luật của chư Phật ba đời, lại nguyện rằng: Thà quấn lưới sắt nóng vào thân mình cả ngàn lớp chứ nhất quyết không để thân này phá giới mà thọ những đồ y phục của tín tâm đàn việt, thà nuốt hòn sắt cháy đỏ và uống nước đồng sôi mãi đến trăm ngàn kiếp chứ nhất quyết không để miệng này phá giới mà ăn các thứ thực phẩm của tín tâm đàn việt. Thà nằm trên dàn lửa lớn, trên tấm sắt nóng, chứ quyết không để thân này phá giới mà nhận lấy các thứ giường ghế của tín tâm đàn việt. Thà trong một, hai kiếp chịu cả trăm cây gươm giáo đâm vào mình, chứ không để thân phá giới này thọ các thứ thuốc men của tín tâm đàn việt. Thà nhảy vào vạc dầu sôi suốt trong trăm ngàn kiếp chứ không để thân này phá giới mà thọ lãnh các phòng nhà, ruộng vườn, đất đai của tín tâm đàn việt.

Lại phát thệ rằng: Thà bị chày sắt đập thân này từ đầu tới chân nát như tro bụi, chứ không để thân phá giới này thọ nhận sự cung kính lễ bái của tín tâm đàn việt.

Lại phát thệ rằng: Thà lấy trăm ngàn lưỡi gươm khoét đôi mắt mình quyết không nhìn sắc đẹp của người bằng tâm phá giới này. Thà dùng trăm ngàn dùi sắt đâm thủng lỗ tai mình suốt trong một hai kiếp, quyết không nghe tiếng tốt giọng hay bằng tâm phá giới này. Thà bị trăm ngàn lưỡi dao cắt bỏ lỗ mũi mình, chứ không ăn các thứ tịnh thực của người bằng tâm phá giới này. Thà chặt chém thân thể mình bị búa bén, chứ không tham mặc đồ tốt với tâm phá giới này.

Lại phát nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được thành Phật.

Nếu Phật tử không phát những đều thệ này thì phạm tội khinh cấu. Nguyện là ở trong tâm, thệ là ở thân miệng, vì sợ theo duyên nên lập thệ tất nhiên là cần thiết. Đại thừa Tiểu thừa cùng chế, bảy chúng đồng học. Trong văn chép, đã phát mười đều nguyện lớn rồi, hoặc có bản chép rằng phát ba mươi nguyện lớn, tức là dưới đã lập ba mươi lời thệ đầu tiên trong tâm đã phát rồi, sau đó miệng mới lập thệ, nên nói đã phát rồi. Nếu nói mười nguyện lớn, thì chỉ có mười nguyện, Bồ-tát sơ tâm đã phát trước, như kinh Phát Bồ-đề Tâm chép: Vì sao Bồ-tát phát tâm hướng đến Bồ-đề? Dùng hạnh nghiệp gì để thành tựu tâm Bồ-đề? Bồ-tát phát tâm trụ ở Tuệ Địa? trước phải phát chánh nguyện vững chắc nhiếp thọ tất cả Vô lượng chúng sinh, ta cầu vô thượng Bồ-đề cứu hộ độ thoát không để dư thừa, đều khiến rốt ráo vô dư niết-bàn, vì thế người mới phát tâm lấy đại bi làm đầu, vì tâm từ bi làm phát chuyển mười chánh nguyện lớn cao quý. Mười nguyện ấy là: một là ta nguyện bố thí gốc lành đã trồng đối trước và đời này cho tất cả vô biên chúng sinh, cùng nhau hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, khiến cho nguyện nầy của ta lớn lên theo từng niệm, sở sinh đời đời thường ở tại tâm, không hề quên mất, được Đà-la-Ni giữ gìn, hai là nguyện ta hồi hướng đại Bồ-đề rồi, đem gốc lành này đến chỗ tất cả chúng sinh, thường được cúng dường tất cả Chư Phật, không bao giờ sinh vào cõi nước không có Phật, ba là ta nguyện được sinh vào các cõi nước của Chư Phật, thường được gần gũi hầu hạ ở gần bên như bóng theo hình, không xa lìa Chư Phật một khoảnh khắc, bốn là ta nguyện được gần gũi Chư Phật, Chư Phật theo sở cầu của ta mà nói pháp thì tà mạng được thành tựu năm thần thông của Bồ-tát, năm là ta nguyện thành tựu năm thần thông của Bồ-tát rồi thì thông suốt sự giả danh truyền bá của thế đế, hiểu rõ Đệ nhất nghĩa đế, như tánh chân thật được chánh pháp trí, sáu là ta nguyện được chánh pháp trí rồi, dùng tâm không cảm thấy đủ để nói pháp chỉ dạy lợi ích vui mừng cho chúng sinh, đều làm cho hiểu rõ, bảy là nguyện ta hiểu rõ các chúng sinh rồi, dùng thần lực Phật đến khắp vô số thế giới ở mười phương cúng dường Chư Phật, nghe thọ chánh pháp, rộng nhiếp hóa chúng sinh, tám là ta nguyện ở chỗ Chư Phật thọ lãnh chánh pháp rồi, có khả năng tuỳ ý xoay bánh xe pháp thanh tịnh, các thế giới mười phương tất cả chúng sinh nghe pháp của ta, nghe danh hiệu ta thì được xa lìa tất cả phiền não, phát tâm Bồ-đề; Chín là ta nguyện có khả năng khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề rồi, thường theo ủng hộ, dứt bỏ việc không lợi ích, ban cho vô lượng an vui, xả bỏ thân mạng tài sản, nhiếp thọ chúng sinh, gánh vác chánh pháp. mười là trôi lăn anguyện có khả năng gánh vác chánh pháp rồi thì dù tâm hành chánh pháp nhưng không có sở hành, như các Bồ-tát thực hành chánh pháp mà vô sở hành, cũng chẳng phải không có sở hành, vì giáo hóa chúng sinh không bỏ chánh nguyện. Ta phát tâm Bồ-tát, mười chánh nguyện lớn, mười nguyện lớn này, trùm khắp các cõi chúng sinh, nhiếp thọ tất cả Hằng hà sa các nguyện. Nếu chúng sinh cùng tận thì nguyện ta mới cùng tận, nhưng chúng sinh thật không thể cùng tận, nên nguyện lớn này của ta cũng không cùng tận, giữ gìn giới cấm của Phật, lập lời nguyện, phải nân lập thệ. Trong mười ba lời thệ thì mười hai lời thệ đầu là thệ hộ giới, một nguyện cuối cùng là thệ chứng quả. Trong mười hai lời thệ thì bảy lời thệ đầu là giới hộ luật nghi, năm lời thệ sau là giới hộ năm căn. Trong bảy lời thệ, lời thệ đầu là đôi cảnh lập thệ, cảnh người nữ dễ nhiễm đáng sợ, nên thệ giữ gìn, sáu lời thệ sau đối với cúng dường mà lập thệ, đại ý giống với thánh hạnh Niết-bàn.

7 Giới lúc nào cũng thực Hành Đầu Đà (cũng gọi là giới Đầu-đà Tránh Nạn)

Nếu Phật tử, mối năm phải hai lần thực hành đầu-đà, mùa đông mùa hạ thì ngồi thiền kiết hạ an cư. Thường dùng nhành dương, nước tro, ba y, bình bát, đồ ngồi, tích trượng, hộp lư hương, đãy lượt nước, khăn tay, cái dao, đá lửa, cái nhiếp, giường dây, kinh luật, tượng Phật, tượng Bồ-tát. Khi Phật tử thực hành đầu-đà và lúc đi lại trăm dặm ngàn dặm, mười tám món này thường mang bên mình. Đây là hai thời gian hành đầu-đà trong mỗi năm. Từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba và từ rằm tháng tám đến rằm tháng mười. Trong hai lần hành đầu-đà, thường mạng theo bên mình mười tám món ấy như chim mang theo hai cánh.

Nếu đến ngày bố-tát, các Bồ-tát tân học, mỗi nửa tháng thường bố-tát, tụng mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh. Lúc tụng giới nên tụng trước tượng Phật và Bồ-tát, chỉ có một người bố tát thì một người tụng. Nếu hai người, ba người, cho đến trăm ngàn người cũng một người tụng, còn bao nhiêu người khác thì lắng nghe. Người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp. Mỗi người đều đắp y hoại sắc chín điều, bảy điều, năm điều. Trong lúc kiết hạ an cư mỗi việc cũng phải đúng theo phép tắc.

Lúc thực hành đầu đà, chớ đến chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có các loài thú dữ sư tử, cọp, sói, cùng lụt, bảo, nạn cháy, giặc cướp, đường sá có rắn rít… tất cả những nơi hiểm nạn ấy đều không được đến, chẳng những lúc hành đầu đà, mà lúc kiết hạ an cư cũng không được đến những chỗ hiểm nạn ấy.

Nếu cố vào những nơi ấy, Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Đầu-đà, Hán dịch là Đẩu Tẩu, vì tâm chúng sinh hăng hái, ngoại trần vắng lặng, có khả năng trang nghiêm giới, nên phải tuỳ chỗ mà đến, đi không chọn chỗ dễ bị tai hoạ. Người chưa lìa dục ở chỗ hiểm nạn tâm không được an nên phải tránh chỗ hiểm nạn thì hạnh được hạnh đầu-đà. Bảy chúng đồng chế. Thanh văn tránh nạn cũng nên đồng chế. Hai thời thường hành đầu-đà không cần chế. Trong văn chép: thường phải thực hành hạnh đầu-đà mỗi năm hai kỳ là vì hai mùa xuân, thu nóng lạnh điều hòa thích hợp, không tổn hại cho nên chế. Trong hai mùa này mà thực hành đầu đà. Luận Du-già chép.

Hỏi: Vì sao gọi là công đức Đỗ-Đa?

Đáp: Ví như ở thế gian, hoặc lông hoặc vải bông không phải roi, chẳng phải đạn, chẳng phải rối, chẳng phải tách. Bấy giờ, mặc vào không mềm không nhẹ, không nhận vận chế tạo thảm tơ lụa. Hoặc roi, hoặc đàn, hoặc phấn, hoặc tách, bấy giờ phân tán mềm mại nhẹ nhàng tốt đẹp, có khả năng làm ra thảm bằng tơ lụa, làm như vậy là do tham ăn uống, ở các nơi ăn uống khiến cho tâm đàm nhiễm, vì tham mặc quần áo tốt nên đối việc ăn mặc khiến tâm đắm nhiễm. Do các công đức tháp này mà kia sẽ tịnh tu trị tâm khiến cho trong sáng ngay thẳng, mềm mại nhẹ nhàng tốt đẹp, có khả năng kham nhiệm, thuận theo y chỉ có thể tu phạm hạnh, vì thế gọi là công đức Đỗ-Đa. Trong việc ăn uống có người tham ăn ngon, ăn nhiều làm chướng ngại việc tu pháp lành, vì muốn dứt trừ việc tham ăn ngon nên thường hành khất thực, thứ lớp khất thực vì muốn dứt trừ tham ăn nhiều nên chỉ một lần ăn, trước ngăn hậu thực. Trong y phục có ba thứ tham làm chướng ngại tu pháp lành, một là tham nhiều y phục, hai là tham xúc chạm mềm mại, ba là tham tốt đẹp bậc thượng. Vì muốn dứt trừ tham nhiều y phục nên chỉ giữ ba y, vì muốn dứt trừ lòng tham đồ tốt đẹp bực thượng nên chỉ giữ y phục phấn tảo. Đối với các đồ ngồi có bốn thứ tham, làm chướng ngại tu pháp lành, một là tham cảnh ồn ào, hai là tham nhà cửa, ba là tham ngồi nằm, bốn là tham đồ ngồi, vì muốn dứt trừ tâm tham ồ ào náo động nên ở chỗ A-Luyện-Nhã. Vì muốn dứt trừ lòng tham nhà cửa cao đẹp nên thường ở dưới gốc cây, ở chỗ trống. Lại vì muốn dứt trừ lòng tham dâm dật nên thường ở gò mả, vì muốn dứt trừ lòng tham dựa nằm nên thường ngồi trên tòa ngay thẳng, vì muốn dứt trừ lòng tham đồ ngồi nên ngồi tòa bình thường, ấy gọi là thành tựu công đức đỗ-đa. Lại nói rằng: Nên biết trong đây, nếu dựa vào khất thực không có tánh khác nhau chỉ có mười hai. Nếu dựa vào khất thực có tánh khác nhau thì có mười ba. Mùa Đông, mùa Hạ ngồi thiền là mùa đông thì rất lạnh, mùa hạ thì rất nóng, lại làm tổn thương nhiều, trở ngại cho việc du hành nên chế tĩnh toạ. Kiết hạ an cư là giới hạn tâm ở một chỗ, tĩnh duyên nương gáy, nên gọi là an cư. Nếu không có duyên gấp thì không đi lang thang. Nếu đối với mình và người có sự lợi ích thì tuỳ duyên khai cho thọ pháp ra ngoài một ngày, pháp thọ ra ngoài một ngày trong năm bộ tuỳ tiện ứng dụng. Thường dùng nhành dương, nước tro, nghĩa là nhành dương có năm đức nên thường dùng. Vì nước tro vì trong sạch nên cũng thường dùng, mười tám món gồm: ba y là ba, bốn là bình, năm là bát, sáu là đồ ngồi, bảy là tích trượng, tám là hộp lư hương, chín là đãy lượt nước, mười là khăn tay, mười một là cái dao, mười hai là đá lửa, mười ba là cái nhíp, mười bốn là giường dây, mười lăm là kinh, mười sáu là luật, mười bảy là tượng Phật, mười tám là tượng Bồ-tát. Mười bốn món đầu là đạo cụ giúp thân, bốn món sau là phép tắc cao quý xuất thế, nên chế phải thường mang bên mình không được lìa. Đầu-Đà là chế theo thời tiết, từ tháng giêng về sau chẳng những là thời tiết thực hành đầu-đà điều hòa thích hợp, mà còn có chỗ nêu phép tắc cao quý. Như kinh Tâm Vương dạy phải biết. Nếu vào ngày Bố-tát chế pháp bố-tát, pháp như phần tựa đầu của kinh nói, sớ cũ chép rằng: Hàng Thanh văn tâm yếu kém, phải có bốn vị trở lên mới được rộng tụng. Bậc Đại sĩ có hạnh cao quý, một người cũng cho phép nói rộng, nay gọi là nói rộng, rộng tụng Thanh văn cũng cho phép, nhưng không được tác bạch Yết-ma. Trong pháp Bồ-tát lẽ ra phải như vậy, tuy là rộng tụng nhưng không được tác bạch. Người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp là vì cung kính pháp. Luật cũng không cho phép người nói dưới thấp nói pháp cho người nói trên cao nghe. Mỗi người đều đắp y hoại sắc chín điều, bảy điều và năm điều là dùng văn nầy chứng minh, ba y đều được dùng trong chúng, ở đây là mặc cả ba y.

Như Tam người oai nghi chép: không đắp Nê-hoàn-tăng thì không được đắp y năm điều, không đắp y năm điều thì không được đắp y bảy điều, không đắp y bảy điều thì không được đắp y chín điều, nên biết phải mặc cả ba (văn kia nói rõ). Trong lúc kiết hạ an cư, mỗi việc cũng phải đúng theo phép tắc: là khi kiết giới y theo chỗ thọ nhật, xuất giới, tự tứ, nêu tội, sám hối, đều y theo luật mà làm. Lúc thực hành đầu-đà, chớ đến chỗ có tai nạn, giải thích hành đầu-đà và hạ an cư phải chọn nơi tránh tai nạn. Trong đây đã chế từ đầu đến cuối hoặc là xuất gia tại gia đều đồng, hoặc là du phương chỉ giáo hóa, không được mạo hiểm đến chỗ hiểm nạn. Đây là chế chung cho xuất gia tại gia. Nếu pháp an cư, bố-tát cho ngồi, chỉ chế cho năm chúng xuất gia. Kinh Ưu-Bà-Tắc chép rằng: Ưu-Bà-tắc nên chứa y tăng-già lê Bát, tích trượng, chẳng biết mười tám vật có cần chuẩn bị hay không. Bồ-tát tăng ni mỗi nửa tháng phải hai bên bố-tát, tụng hai bản Đại thừa Tiểu thừa, không như vậy thì phạm tội khinh cấu. (Nói rõ trong bản văn). Đối với Bồ-tát tại gia, nếu trong nhà có tịnh thất thì mỗi nửa tháng nên tự tụng, nếu không thì trong phạm vi một do-tuần trong chùa có Bồ-tát làm lễ bố tát thì nên đến nghe, nếu không thì phạm tội khinh cấu. Hoặc nhà mình ồn ào bực bội, trong một do-tuần không có Bồ-tát hội hợp thì không phạm.

8. Giới Trái Thứ lớp tôn ti.

Nếu Phật tử, phải theo thứ lớp ngồi cho đúng pháp, người thọ giới trước thì ngồi trước, người thọ giới sau thì ngồi sau, bất luận già trẻ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, người sang như người vua chúa, Hoàng tử, cho đến kẻ hèn như huỳnh môn, tôi tớ.v.v… tất cả đều nên ngồi theo thứ lớp, người thọ giới trước thì ngồi trước, người thọ giới sau thì ngồi sau.

Không được như hàng ngoại đạo, si mê, hoặc già hoặc trẻ, ngồi trước sau lộn xộn không có thứ lớp, không khác cách ngồi của bọn binh nô. Trong Phật pháp của ta, hễ người thọ giới trước thì ngồi trước, người thọ giới sau thì ngồi sau.

Nếu Phật tử không ngồi theo thứ lớp đúng pháp thì phạm tội khinh cấu.

Vì lìa kiêu mạn thuận cho giáo pháp cho nên chế. Đại thừa Tiểu thừa đều chế, xuất gia tại gia đồng học. Trong luật chép. Đức Thế tôn nhóm họp các ỳ-kheo dạy rằng: Này các Tỳ-kheo, các thầy cho rằng ai nên thọ lãnh tòa ngồi bậc nhất, nước bậc nhất, thức ăn bậc nhất, đứng dậy đón rước, đưa đi lễ bái cung kính khéo léo thăm hỏi. Hoặc có người nói dòng cao quý xuất gia, hoặc có người nói khất thực, hoặc có người nói y phấn tảo, như thế cho đến có người nói thể chúc tụng, hoặc có người nói học rộng, hoặc có người nói Pháp sư, hoặc có người nói trì luật, hoặc có người nói ngồi thiền, v.v.… Phật dạy các Tỳ-kheo và dẫn câu chuyện thời quá khứ, voi, chồn, chim còn cung kính nhau, các thầy xuất gia trong Phật pháp của ta phải cùng kính lẫn nhau. Như thế Phật pháp mới được truyền bác rộng khắp, từ nay về sau cho phép tuỳ theo già trẻ cung kính lễ bái, đưa rước, hòi han. Lại dạy rằng: không nên lễ người tại gia, không được lễ tất cả người nữ: Người thọ đại giới trước, người thọ đại giới sau, mười ba nạn, nêu ba bỏ hai, tất cả những người có nói lời nói phi pháp đều không được lễ. Những người nào nên lễ bái? Tiểu Sa –Di-Ni phải lễ đại Sa-Di-Ni. sa-di, Thức-xoa-Mắt tuệ-Na, Tỳkheo, Tỳ-kheo nói, tháp thờ những vị này, tất cả phải lễ bái. Hoặc Sa-di tuổi nhỏ phải lễ bái Đại Sa-di-ni. Thức Xoa-Ma-Na, cho đến Tỳ-kheo và tháp, tất cả nên lễ bái. Tiểu Thức xoa-Ma-Na phải lễ bái Đại Thức xoa-Ma-Na, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni và tháp nên lễ bái. Tỳ-kheo-ni nhỏ tuổi nên lễ bái Tỳ-kheo-ni lớn tuổi, Tỳ-kheo và tháp cũng nên lễ bái. Tỳ-kheo nhỏ tuổi nên lễ bái Đại Tỳ-kheo, thờ của đại Tỳ-kheo cũng nên lễ bái. Trong pháp của Đức Thích-ca đã nói không riêng Bồ-tát tăng, y theo luật trên mà làm, lý không sai lệnh. Văn chép: phải ngồi theo thứ lớp đúng pháp, nghĩa là trên dưới thứ lớp không trái với Phật chế, trong đây các sư hành pháp khác nhau. Thuyết thứ nhất, đều lấy việc thọ giới Bồ-tát làm thứ lớp. Tỳ-kheo một trăm tuổi hạ thọ giới Bồtát sau, Tỳ-kheo một tuổi hạ thọ giới Bồ-tát trước, thì Tỳ-kheo một tuổi hạ ngồi trước, Tỳ-kheo trăm tuổi hạ ngồi sau. Chia loại nam nữ, đen trắng, tôn ti y cứ theo giới trước sau không được lẫn lộn. Nếu binh nô thọ giới trước, quan thọ giới sau thì binh nô ngồi trên, quan ngồi dưới, đã vào trong giới pháp rồi thì không theo địa vị trước kia.

Hai là, nếu người vốn chưa thọ giới Bồ-tát đều ở sau người thọ giới Bồ-tát trước. Nếu tiến đàn thọ giới thì trở lại thứ lớp, như Tỳ-kheo trăm tuổi hạ chưa thọ giới Bồ-tát, Tỳ-kheo một tuổi hạ đã thọ giới Bồtát thì Tỳ-kheo một tuổi hạ ngồi trên Tỳ-kheo trăm tuổi hạ chưa thọ giới Bồ-tát. Nếu Tỳ-kheo trăm tuổi tiến thọ thì lại ngồi trên, binh nô hay quan quyền cũng giống như vậy. Nếu binh nô thọ giới trước, quan chưa thọ thì binh nô ngồi trên, quan ngồi dưới, nếu quan tiến thọ thì quan ngồi trên binh nô, đã đồng giới nên tuỳ theo địa vị trước kia. Nếu Sa-di tiến thọ thì ngồi trên Tỳ-kheo-ni trăm tuổi.

Ba là oai nghi ngồi thứ lớp đều lấy pháp Thanh văn làm thứ lớp, bất luận là Thanh văn. Bồ-tát, hễ người thọ giới trước thì ngồi trước.

Nếu Tỳ-kheo Thanh văn mười tuổi hạ, Tỳ-kheo Bồ-tát chín tuổi hạ thì Tỳ-kheo mười tuổi hạ vẫn ngồi trước. Luận Trí Độ chép: Chư Phật phần nhiều dùng Thanh văn làm tăng không riêng Bồ-tát tăng như Bồ-tát Di lạc, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, v.v.… vì Đức Phật Thích-ca Mâu-ni Phật không phân biệt Bồ-tát tăng. Vào trong Thanh văn tăng ngồi theo thứ lớp, văn này chỉ nói người thọ giới trước thì ngồi trước, người thọ giới sau thì ngồi sau, không phân bịêt giới Thanh văn, Bồ-tát. Bồ-tát tại gia đã không tính tuổi, đều lấy giới Bồ-tát làm thứ lớp. Nay cho rằng người tại gia cũng nên lấy việc thọ giới làm đầu. Hoặc thọ năm giới Thanh văn, hoặc thọ năm giới Bồ-tát, hễ người thọ giới trước thì ngồi trước. Nếu binh nô thọ giới trước, chủ thọ giới sau thì không được lấy việc thọ giới làm thứ lớp, binh nô và chủ có địa vị khác nhau, vốn không lẫn lộn. Nếu phóng nô làm chủ, nên theo thứ thọ giới, việc làm tở thế gian phần nhiều nương theo thuyết sau, bất luận già trẻ là không theo năm sinh già trẻ. Trong luật, năm sinh của Sa-di làm thứ lớp, năm sinh v.v.… là thọ giới làm thứ lớp văn này đã nói bất luận già trẻ, vì không theo thứ lớp năm sinh của họ. Hai chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đều lấy thọ giới làm thứ lớp, không được ni thọ trước thì ngồi trên Tỳ-kheo tăng thọ sau. Nam nữ tôn ti vốn không lẫn lộn, binh nô lấy sức mạnh làm đầu, không theo thứ lớp lớn nhỏ tôn ti trong đạo, Phật pháp không phải như vậy.

9. Giới Phước tuệ thu nhiếp người.

Nếu Phật tử, thường phải giáo hóa tất cả chúng sinh, xây cất tăng phường, nơi núi rừng vườn ruộng, xây dựng tháp Phật, chỗ an cư, ngồi thiền trong mùa đông mùa hạ, tất cả những nơi chốn hành đạo đều nên xây dựng.

Phật tử giảng nói kinh luật Đại thừa cho tất cả chúng sinh. Lúc tật bệnh, nước có nạn, có giặc, ngày, cha, mẹ, anh, em, Hòa thượng, A-xà-lê qua đời và mỗi tuần thất, cho đến bảy tuần thất cũng nên giảng nói kinh luật Đại thừa. Tất cả những trai hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những lúc có tai nạn lụt, bão, hoả, hoạn, ghe thuyền trôi giạt trên sông to biển lớn, gặp quỷ la-sát v.v… đều cũng đọc tụng giảng nói kinh luật Đại thừa này, cho đến tất cả tội báo ba đường, tám nạn, bảy tội nghịch, gông cùm xiềng xích trói buộc tay chân, hoặc người nặng về dâm, nặng về sân, nặng về ngu si, thường tật bệnh đều nên giảng nói đọc tụng kinh luật Đại thừa này.

Nếu Phật tử học không thực hành như trên thì phạm tội khinh cấu. Hai việc lành phước và tuệ như chiếc xe hai bánh thiếu một thì thắng quả khó thành tựu, cho nên Phật chế khiến tu. Đại thừa, Tiểu thừa không cùng chế, bảy chúng đồng học. Trong chánh văn có hai, một là giáo hóa khiến tu phước nghiệp, hai là giảng nói khiến tu trí nghiệp.

Trong phần đầu, thường phải khuyến hóa tất cả chúng sinh, cho đến tất cả nơi chốn chỗ hành đạo đều phải xây dựng nghĩa là tu phước nghiệp tuy có nhiều môn nhưng y cứ vào con người là chủ yếu, nên nói xây dựng nơi chốn nơi hành đạo. Tuỳ sức, tuỳ khả năng khuyến hóa người khác, tự làm thì sức không đủ nhưng không phạm, khiến tu khởi trí. Nên giảng nói kinh luật Đại thừa cho tất cả chúng sinh: nghĩa là tự mình có trí hiểu biết, năng lực ấy có thể giảng nói cho người khác. Nếu tật bệnh v.v.… là nói chỗ khó báo ân, cũng giảng nói cho họ nghe, có nên mười loại, một là nạn bệnh, nghĩa là khi cõi nước có nhiều tật bệnh, hai là cõi nước có nạn, nghĩa là khi vị vua độc ác cai trị ở đời, ba là nạn giặc, nghĩa là khi người nước khác xâm chiếm hung bạo, bốn là lúc những người thân đáng kính qua đời, năm là những lúc đi làm ăn, có bản kinh chép là làm ăn sinh sống, sáu là tai nạn bảo lụt, hoả hoạn, bảy là nạn la-sát, tám là tất cả tội báo, nghĩa là ba báo, tám nạn, cho đến trói buộc tay chân, chín là nặng về phiền não, mười là thường tật bệnh, nghĩa là trong thân bị tật bệnh. Gồm mười việc phải giảng kinh luật, khiến xa lìa các nạn, chuyển các nghiệp chướng, tô điểm thần minh, trí tuệ thêm rộng lớn. Nếu không như vậy thì trái lại thành phạm.

Chín giới trên cần nên học, hết lòng kính trọng vâng giữ, trong phẩm Phạm Đàn có giảng rộng, chín giới này trở xuống là tổng kết chỉ còn lại. Trong giới thứ hai mươi chín, năm giới đầu đều dùng giới pháp nhẫn thọ, bốn giới sau đều dùng tâm từ bi giáo hóa. Trong phần trước, ba giới đầu nói trao giới pháp cho người, hai giới sau giới pháp tự nhiếp. Bồ-tát tự nhiếp khiến người khác theo học, cho nên tự nhiếp chính là lợi tha. Trong ba phần đầu, thứ nhất nói người có pháp khí không phân biệt liền trao, thứ hai là nói người có nghiệp chướng giáo hóa khiến họ sám hối dứt trừ, ba là nói người chưa thọ thì không nói cho họ nghe ngay.

1. Giới thứ nhất, truyền giới không bình đẳng: Nếu Phật tử, lúc cho người thọ giới không được lựa chọn. Tất cả hàng vua chúa, Hoàng tử, các quan, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, tín nam, tín nữ, dâm nam, dâm nữ, Phạm Thiên trong mười tám cõi sắc, Thiên tử trong sáu tầng trời cõi dục, người thiếu căn, hai căn, huỳnh môn, tôi tớ và tất cả Quỷ thần đều được thọ giới. Tất cả y phục, đồ nằm nên bảo phải hòa các mầu: xanh, đỏ, đen, tím nhộm thành hoại sắc cho hợp với đạo.

Trong tất cả cõi nước tùy theo y phục của người trong nước mặc, y phục của thầy Tỳ-kheo đều phải khác với y phục, người thế tục.

Khi người nào muốn thọ giới Bồ-tát thì vị sư phải hỏi rằng: Trong đời này ngươi có phạm bảy tội nghịch chăng? Bồ-tát Pháp sư không được cho người phạm bảy tội nghịch thọ giới trong đời này.

Bảy tội nghịch là: có tâm ac làm thân Phật chảy máu, hại bậc Thánh, giết cha, giết mẹ, giết Hòa-thượng, giết A-xà-lê, phá Yết-ma tăng, chuyển pháp luân Tăng.

Nếu phạm bảy tội nghịch, thì hiện đời không đắc giới. Ngoài ra tất cả mọi người đều được thọ giới.

Theo pháp của người xuất gia không lạy vua chúa, cha mẹ, sáu thân và quỷ thần.

Hễ ai nhận hiểu lời của Pháp sư thì đều được thọ giới. Mà có người từ trăm dặm, ngàn dặm đến cầu pháp, nếu Pháp sư Bồ-tát vì tâm ác, sân tâm mà không mau truyền giới Bồ-tát cho người ấy, thì phạm tội khinh cấu. Người pháp khí có khả năng lãnh thọ giới pháp phải truyền trao cho họ. Nếu vì giận ghét mà lựa chọn thì trái với nghĩa dìu dắt nên không cho phép lựa chọn. Nếu Bồ-tát, có người đến cầu thọ giới đều không được trái, vì bản thệ đều phái cứu giúp. Thanh văn hứa mà bên trong hối hận thì phạm. Nếu vốn không hứa thì không phạm. Bảy chúng đồng học. Trong kinh nói cho phép vợ chồng làm thầy lẫn nhau, trong văn chép: khi cho người thọ giới không được lựa chọn, cho đến đều được thọ giới. Nêu mười bảy loại đều được thọ giới, không phân biệt là tại gia, xuất gia, Sa-di, Tỳ-kheo, chỉ nói là được thọ. Nếu y theo văn chép dưới đây thì dạy làm khác thế tục, phải chung cho xuất gia. Nhưng phép thọ có hai, nếu y theo luật pháp, từ bốn người thọ, thì phải phân biệt loại vô căn v.v…. Nếu y theo thọ chung ba quy y, ba tụ thì văn hoàn toàn không phân biệt, theo lý nên thọ chung, y theo bán trạch v.v.… cho phép thọ năm giới nhưng ngăn tánh cận sự. Đây cũng nên cho phép thọ giới cụ túc nhưng ngăn tánh Tỳ-kheo v.v… văn không chọn riêng vì nghĩa chuẩn xác, những người có trí nên phải tìm giáo. Nên dạy mặc y ca-sa v.v.… nói huỷ bỏ trang sức tốt đẹp thế tục cho hợp với y phục trong đạo. Nói hoại sắc là làm hoại mầu sắc kia thành mầu không chánh, cho hợp với đạo là vì huỷ sắc đẹp thế tục nên hợp với y phục trong đạo. Đều nhuộm màu xanh, đỏ, đen, tím, vàng thành hoại sắc là năm bộ dị kiến của Tiểu thừa, y phục đều có một mầu. Bồ-tát đối với năm bộ ấy không có sự thiên chấp nên mặc đủ cả năm mầu. Đây nói năm màu như xanh, v.v.… là đều lấy hoại thành xanh v.v… chẳng phải là đại sắc xanh v.v.… cho đến đồ nằm đều dùng hoại sắc là không những ba, y hoại sắc mà tất cả y phục, cho đến đồ nằm cũng giống ba y đều hòa mầu thành hoại sắc. Thân đã mặc y phục cho đến cùng với cõi nước ấy v.v.… y phục khác mầu là làm cho màu khác thế tục, khác y phục thế tục là cách làm cũng khiến cho khác thế tục, hoàn toàn nói Tỳ-kheo không được giống như thế tục. Theo thuyết cũ thì đạo tục đều phải hoại sắc là sai, người muốn thọ giới Bồ-tát v.v.… thì phải lựa chọn từ bỏ trọng chướng để thành pháp khí thanh tịnh. Bảy tội nghịch là người có chướng nặng, nếu hiện đời thực hành thì không thể thành pháp khí lãnh thọ giới pháp. Nếu tác pháp cho thọ thì không thể nào được, cho nên phải phân biệt.

Trong mười ba nạn phải lấy ra năm tội nghịch và thêm vào giết hại thầy là bảy tội nghịch. Bảy tên tội ấy là: làm thân Phật chảy máu, giết cha, giết mẹ, giết Hòa-thượng, giết A-xà-lê, phá Yết-ma tăng, chuyển pháp luân tăng, giết bậc Thánh. Phá Yết-ma Tăng, chuyển pháp luân tăng là chỉ phá pháp luân tăng thì mang tội nghịch. Nếu phá Yết-ma Tăng thì chẳng phải tội nghịch, khi phá Yết-ma tăng vì không muốn tranh tác khởi lên dị kiến. Nhưng khi phá pháp luân vì Yết-ma hoại nên nói rằng phá Yết-ma chuyển pháp luân tăng. Luận giải thích phá pháp luân tăng vốn là tội nghịch, nếu phá Yết-ma thì phải phân biệt. Nếu khởi là pháp tưởng phá thì chẳn phải nghịch. Nếu dùng phi pháp tưởng phá, đối với Thanh văn chẳng phải nghịch, đối với Bồ-tát là nghịch. Đây cũng nên như vậy. Giết bậc Thanh là lấy chung bậc Học và Vô học, không giống ngũ nghịch chỉ lấy việc giết hại bậc Vô học. Bồ-tát Thanh văn đối nhau phân biệt là nạn hay chẳng phải nạn, nên tạo ra bốn câu. Câu thứ nhất: Đối với Thanh văn là nạn, chẳng phải Bồ-tát, nghĩa là trong mười ba trừ năm tội nghịch còn lại tám, câu thứ hai là Đối với Bồ-tát là nạn, chẳng phải Thanh văn, nghĩa là trong bảy tội nghịch giết bậc thánh Hữu học, phá Yết-ma tăng. Nếu giết hại thầy là nạn chẳng phải nghịch, tám biên tội đối với Thanh văn kia cũng là thuộc về nạn, giết bậc Thánh hữu học là người từng thọ giới, là nạn tám biên tội. Người chưa từng thọ giới thì chẳng phải nạn, câu thứ ba cả hai Thanh văn và Bồ-tát đều là nạn, nghĩa là năm tội nghịch, đều phi nạn là trừ việc nói trên. Nếu đủ bảy già nạn thì thọ không đắc giới: vì bảy tội nghịch trên có công năng giá giới, gọi là già, có hai nghĩa: một là đủ duyên thành nghiệp nên gọi là cụ, phân biệt kia thiếu duyên không đủ, hai là ở trong một thân chứa đủ bảy tội nghịch, nghĩa là người có thọ giới cụ túc làm đại Tỳ-kheo ở trong thân chứa đủ bảy tội nghịch, nếu người chưa từng thọ giới cụ túc, trừ tội nghịch giết hai thầy và phá tăng.

Hỏi: Nếu y cứ vào nghĩa sau, không có bảy tội nghịch lẽ ra cũng được thọ?

Đáp: Không được, vì có rất nhiều thuyết cho rằng đủ bảy già nạn thì hiện đời không đắc giới, chẳng phải phạm mỗi tội nghịch không thành chướng già nạn. Nếu không như vậy thì sau khi Phật diệt độ không cần phải hỏi vì nói không phá tăng và làm thân Phật ra máu. Theo pháp người xuất gia thì không lạy vua chúa cho đến quỷ thần là chỉ cho tôn trọng đạo kia, nói người xuất gia là phân biệt với tại gia kia, Bồ-tát tại gia đã tuỳ theo thế tục tuy lễ bậc tôn quý cũng không phạm. Quỷ thần là vì cầu phước nên lễ bái Quỷ thần thế gian. Hoặc người thọ giới tuy thế tục không cho phép. Hoặc biết rõ kia quyền hiện quỷ thần, Bồ-tát thế tục lễ cũng không phạm, nhưng hiểu lời nói của Pháp sư v.v.… đều trái thành phạm.

2. Giới làm thầy phải có đủ đức:

Nếu Phật tử, giáo hóa người sinh tâm kính tin pháp Đại thừa, Bồtát làm Pháp sư chỉ dạy cho người. Lúc thấy có người muốn thọ giới Bồtát, nên bảo người ấy thỉnh hai Đại sư là Hòa-thượng và A-xà-lê.

Phải hỏi người ấy có phạm tội bảy tội nghịch hay không? Nếu người ấy hiện đời có phạm bảy tội nghịch, thì Pháp sư không được cho người ấy thọ giới. Nếu không phạm bảy tội nghịch thì cho thọ giới. Nếu có phạm trong mười giới trọng phải bảo người ấy sám hối, đối trước tượng Phật và Bồ-tát. Ngày đêm sáu thời tụng giới Bồ-tát, tha thiết đảnh lễ Chư Phật ba đời, cho được thấy điều lành. Sám hối như thế trong bảy ngày, mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày cho đến suốt năm, cho đến chừng nào thấy được điều lành. Điều lành là thấy các thứ cảnh tượng lạ như Đức Phật đến xoa đầu, thấy các hoa báu, v.v… Thấy được những điều lành ấy là chứng tỏ tội đã tiêu diệt. Nếu không thấy được điều lành thì dầu có sám hối vẫn vô ích. Người này hiện đời cũng không đắc giới, nhưng tạo nhân duyên cho việc thọ giới.

Nếu là người phạm trong bốn mươi tám điều giới khinh, đối thú sám hối, thì tội được tiêu diệt chẳng phải như bảy tội nghịch.

Vị Pháp sư giáo giới đối với các pháp này phải hiểu rõ. Nếu không hiểu kinh luật Đại thừa, các giới khinh giới trọng, hành tưởng đúng, không đúng; không hiểu Đệ nhất nghĩa đế, tập chủng tánh, trưởng dưỡng tánh, tánh chủng tánh, bất khả hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh, các quán hạnh nhiều ít, hơn kém trong các pháp đó, cùng mười chi thiền, tất cả pháp hạnh, mỗi pháp đều không thông hiểu. Phật tử vì tài lợi, danh tiếng, cầu sai lầm, cầu nhiều, tham đệ tử đông nên làm ra vẻ là mình hiểu biết tất cả kinh luật, để được cúng dường, đó là tự dối mình mà cũng lừa dối người khác. Nếu cố làm Giới sư truyền giới cho người, Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Bên trong không thông hiểu mà vì lợi dối làm thầy truyền giới cho người là có lỗi lừa dối người cho nên cấm. Đại thừa Tiểu thừa đều cấm. Trong bảy chúng, xuất gia đều gồm cả tại gia vì tại gia cũng có pháp làm thầy lẫn nhau. Trong văn chép: Giáo hóa người sinh tâm tin tưởng Pháp Đại thừa, nghĩa là giáo hóa người khiến họ sinh tâm kính muốn thọ giới Bồ-tát. Bồ-tát làm Pháp sư chỉ dạy người nghĩa là làm thầy truyền giới cho người, nên chánh chế Hòa-thượng, vì từ đầu đến cuối thân giáo là Hòa-thượng. Lúc thấy có người muốn thọ giới Bồ-tát nên bảo người ấy thỉnh hai đại Sư nghĩa là tự chưa được thỉnh nên bảo thỉnh làm Hòa Thượng. Lại phải có một vị làm thầy yết-ma, lại bảo thỉnh một vị làm A-Xà-Lê, tức là A-Xà-Lê yết-ma, nghĩa đồng với Pháp thọ Sa-di của Thanh văn, nhưng pháp vẫn chung cho năm chúng vì thọ giới không phân biệt.

Hỏi: Trong văn thọ giới của Bồ-tát Địa không nói thỉnh hai thầy, văn tương tự chỉ thỉnh thầy yết-ma, không có văn thỉnh Hòa-thượng, vì sao hai văn nói khác nhau?

Đáp: Lẽ ra phải đủ thỉnh hai thầy, nhưng trong văn kia không thỉnh Hòa-thượng có lẽ là thỉnh trước làm thân giáo Sư, vì thế không phải đến lúc thọ mới thỉnh, hoặc là một vị gồm đủ hai việc, nghĩa là làm Hòa-thượng và A-Xà-Lê, cho nên văn kia không thỉnh riêng. Hai thầy phải hỏi lời dưới đây, nói muốn đem pháp thọ già nạn. Hỏi là hai thầy đồng thời hỏi hay một người hỏi, một người thì ai nên hỏi? Đáp: Nếu thỉnh hai vị thì A-Xà-Lê nên hỏi, vì chính làm người yết-ma. Nếu thỉnh một người làm hai thầy thì không trở ngại. Tội được hỏi có ba loại; một là tội bảy nghịch thường không được thọ; hai là mười tội trọng nếu sám hối thấy điều lành thì được thọ, không thấy điều lành thì không đắc giới. Nay mười giới trọng nầy nếu sám hối thấy điều lành, không tác pháp thọ cũng được bản giới. Nếu không sám hối trừ diệt thì lẽ ra được nên tăng thọ; ba là bốn mươi tám tội khinh chỉ cần đối thú sám hối không cần tăng thọ. Nếu không thấy điều lành dù có sám hối cũng vô ích, nghĩa là không diệt tội được lợi ích của giới thì hiện đời cũng không đắc giới. Theo thuyết cũ, chẳng nhưng không đắc bản giới mà cũng không được tăng thêm giới. Nay là ngăn do sám hối mà được, không ngăn do thọ mà được, nhưng được tăng thọ giới. Thuyết cũ chia làm ba phần giải thích nghĩa là không đắc mà gượng thọ lại càng tăng thêm tội thọ giới vì trái với lời dạy của Phật; hai là tuy không đắc giới nhưng được tăng phước thọ giới; ba chỉ là lời kinh, sợ quỳ không được. Nay cho rằng được tăng thọ giới có lẽ là lời trùng thọ, nghĩa là phạm mười tội trọng không được thấy điều lành, dù hiện đời không được bản giới nhưng được thêm trùng thọ giới mới, cho nên phải biết. Kinh Anh Lạc chép: Mười giới trọng có phạm không sám hối được trùng thọ giới, tám muôn giới oai nghi đều gọi là khinh, có phạm được hối lỗi, đối thú sám hối diệt tội. Bồ-tát Địa chép: Nếu các Bồ-tát do việc hủy phạm này mà xả bỏ luật nghi tịnh giới của Bồ-tát. Đối với pháp hiện tại có khả năng lại thọ, chẳng thể không có khả năng, như Bí-sô trụ giới biệt giải thoát phạm pháp tha thắng xứ, đối với hiện pháp không có khả năng lãnh thọ. Phần Quyết Trạch chép rằng: Do nhân duyên này nên biết xả bỏ luật nghi Bồ-tát, nếu có tâm thọ thì lại được thanh tịnh, được phép thọ lại. Do các văn đây mà biết, giới Bồ-tát tuy phạm trọng xả nhưng được thọ lại. Nếu phạm bốn mươi tám giới khinh đối thủ sám tội hối, nghĩa là đối thủ một người sám hối diệt tội lại được thanh tịnh. Thú cũng gọi là đối thú, nghĩa là đối trước một người chắp tay sám hối tạ tội, đầu mặt tương đối nhau, trình bày tội để sám hối nên gọi là Đối thú. Bồ-tát Địa chép rằng: Lại giới Bồ-tát này, tát cả trái phạm phải biết đều là thuộc về ác tác, phải đối trước người có năng lực, lời nói tiêu biểu nghĩa, có khả năng học, có khả năng thọ Bổ-Đặc-già-la của Tiểu thừa, Đại thừa Phát lồ sám hối diệt tội. Nêu y theo văn này thì Thanh văn cũng được thọ Bồ-tát sám hối. Lại chép rằng: Nếu các Bồ-tát trái phạm phẩm triền ở trên, như pháp tha thắng xứ ở trên mất giới luật nghi, phải nên thọ lại. Nếu trái phạm trung phẩm triền, như pháp tha thắng xứ trên thì mất giới luật nghi, nên phải thọ lại. Hoặc trái phạm trung phẩm triền, như pháp tha thắng xứ ở trên thì phải đối trước ba Bổ Đặc Gìa la, hoặc hơn số ấy, phải phát lồ đúng như pháp dứt trừ pháp ác tác. Trước tiên phải nêu tên việc đã phạm. Phải nói như vầy: Trưởng lão chuyên chí, hoặc nói bạch Đại đức tôi tên là v.v.… trái vượt pháp tỳ-nại-da của Bồ-tát, như việc đã nêu phạm tội ác tác. Ngoài ra như Bí-sô phát lồ sám hối diệt tội ác tác phải nói như vầy: Nếu triền hạ phẩm trái phạm như pháp Tha thắng xứ ở trên và trái phạm khác nên đối với một Bổ-Đặc-già-la phát lồ sám hối, nên biết như trước. Nếu không thì thuận theo Bổ-Đặc-gia-la có thể phát lồ sám hối dứt trừ tội dã phạm. Bấy giờ, Bồ-tát dùng định ý lạc khởi tâm tự thệ, tà mạng nên quyết định phòng hộ tương lai không hề phạm trọng, đối với tội đã phạm lại được thanh tịnh, không đồng với bảy già nạn, là mười tội trọng sám hối được thọ lại, bốn mươ tám tội khinh sám hối được thanh tịnh, vì thế không giống như bảy già nạn, vốn hiện đời không được thọ. Vị thầy giáo giới trở xuống là chế giáo sư giáo giới đối với pháp này phải hiểu rõ, không hiểu kinh luật Đại thừa, những giới khinh giới trọng, hành tưởng đúng, không đúng: nghĩa là không hiểu giáo pháp, đối với luật biết khinh trọng, đối với kinh biết đúng sai, nghĩa là mười giới là trọng, bốn mươi tám giới là khinh. Lại nhiễm phạm là trọng, không nhiễm là khinh, cố làm là trọng lầm làm là khinh, ấy gọi là tướng khinh trọng. Thuận theo lý là đúng, trái lý là sai, Đại thừa là đúng, Tiểu thừa là sai, sở đoạn là sai, sở tu là đúng, ấy là tướng phải trái. Không hiểu Đệ nhất nghĩa đế nghĩa là không hiểu lý pháp. Địa luận đã nói bốn thứ chân thật v.v… gọi là Đệ nhất nghĩa. Hoặc tập chủng tính, v.v… nghĩa là không hiểu hành pháp. Tập chủng tánh là Thập phát thú, trưởng dưỡng tánh là thập trưởng dưỡng, bất khả hoại tánh là Thập kim cương, ba loại này chính là ba bậc hiền địa tiền, đạo tánh là Thập địa, chánh tánh là Phật địa. Trong kinh Bản Nghiệp gồm sáu thứ tánh đó là Tập chủng tánh, Tánh chủng tánh, Đạo chủng tánh, Thánh chủng tánh, Đẳng Giác tánh, Diệu Giác. Trong Đạo tánh gồm nhiếp Đẳng giác, nên ở đây chỉ có năm. Lại Đạo tánh nhập vào Đạo chủng tánh, chánh tánh gồm nhiếp thập địa kia, Đẳng Giác tánh và Diệu Giác tánhk thể hoại, ngoài tánh có lập riêng. Đạo tánh là sau Thập hồi hướng lại tu bốn gốc lành thì vào Cận phương tiện của Thánh Đạo, nên lập riêng. Trong đó ít nhiều quán hạnh ra vào mười chi thiền, tất cả hành pháp mỗi pháp đều không được pháp này. Trung nghĩa là ở trong định môn không được ý thú. Mười chi Hiền, trong kinh quyển thượng chép: Mười tâm, tâm thứ mười chép rằng: Mười chi thiền trong 800 tam-muội mà không có tên riêng, không nói rõ là tại sao. Bản cũ chép: trong mười tám chi thiền trừ đồng chấp dị nên thành mười chi, nghĩa là Sơ thiền có năm: giác, quán, hỷ, lạc, nhất tâm, Nhị thiền trong bốn chi chỉ chấp nội tịnh, thêm năm phần trước là sáu, trừ ba chi phần khác giống như sơ thiền nên không chấp, Tam thiền trong năm chi chỉ chấp xả,niệm, an tuệ, thêm vào sáu phần trước là chín, hai phần khác giống như trước nên không chấp. Tứ thiên, bốn chi chỉ chấp không khổ không vui, thêm chín chi trước là mười, ba chi khác giống với các chi trước nên không chấp mà Phật tử, v.v… không đủ đức mà làm thầy thành ra phạm. Có gì khác với mười tám giới; một là trước chế vì mới thọ phải có sự hiểu rõ. Ở đây chế vì người phạm tội trọng cần phải hiểu rõ; hai là trước chế không hiểu liền trao, phần nhiều là nắm giữ phần cuối. Ở đây chế vì lợi mà vọng trao, phần nhiều là việc làm của những người không hổ thẹn, nay thì trước thuộc về môn nhiếp thiện, nay chế trong môn lợi sinh.

3. Giới nói giới mà lựa chọn người.

Nếu phật tử, không được vì tài lợi mà nói đại giới của Chư Phật cho người chưa thọ giới Bồ-tát nghe, hoặc nói cho ngoại đạo, những người tà kiến v.v.… nghe. Trừ vua chúa, ngoài ra không được nói với tất cả hạng người ấy. Những hạng người ấy chẳng thọ giới Phật, gọi là súc sinh, đời đời sinh ra không gặp được Tam Bảo, như cây đá không có tâm thức; gọi là ngoại đạo, tà kiến, nào khác cây cối. Với những hạng người tà ác ấy, nếu Phật tử giảng nói giới Pháp của Chư Phật thì phạm tội khinh cấu: Tôn trọng lý của giới pháp thì phải chọn Pháp khí, người không phải Pháp khí mà nói ngay sẽ sinh tội lỗi, nên Phật cấm để dứt trừ. Đại thừa tiểu thừa đều chế, bảy chúng cũng đồng. Bồ-tát Địa chép rằng: Lại nữa các Phật tử đã thọ giới Bồ-tát, tuy đã thọ trì đầy đủ rốt ráo nhưng đối với người hủy báng tạng Bồ-tát không tin hữu tình không hề xem thường, công khai bày tỏ khai ngộ. Vì sao? Vì khi họ nghe rồi lại không thể tin hiểu, phần nhiều không biết chỗ che lấp làm chướng ngại liền khởi tâm phỉ báng. Vì phỉ báng nên như trụ định giới luật nghi của Bồ-tát, thành tựu vô lượng đại công đức tạng. Người phỉ báng kia cũng bị vô lương tội nghiệp tạng to lớn theo bên mình. Cho đến tất cả ác ngôn, ác kiến, ác tư duy chưa xả bỏ hẳn, không bao giờ xa lìa. Trong văn chép: Không (8) được vì tài lợi mà nóii đại giới của Chư Phật nầy cho người chưa thọ giới Bồ-tát, cho đến những người tà kiến v.v… nghe, nếu không vì tài lợi, mà muốn cho người sắp thọ biết được giới tướng thì dù nói cũng không phạm. Địa luận chép rằng: Lại các Phật tử, khi muốn truyền giới Bồ-tát cho người thì trước phải nói pháp tạng Ma-ĐátLý-Ca và học xứ của Bồ-tát khiến họ nghe nhận. Dùng trí tuệ quán sát ý lạc của mình, có thể nhớ nghĩ lựa chọn, thọ giới Bồ-tát. Không phải chỉ khuyên người, không phải chỉ hơn người, phải biết đó gọi là Bồ-tát vững chắc, có khả năng thọ tịnh giới luật nghi của Bồ-tát để thọ giới pháp đúng như chánh thọ. Nên biết là tin người muốn thọ giới, tuy lúc chưa thọ cũng được nói trước, không phải như Thanh văn khi thọ rồi mới nói. Người chưa thọ giới Bồ-tát, nếu không có dị kiến, vì chưa thọ cho nên không được nói cho họ nghe. Thanh văn thọ giới cụ túc rồi mà chưa thọ giới Đại thừa lẽ ra cũng không được nói cho họ nghe ngay, kẻ ác ngoại đạo là người dị kiến. Đại tà kiến: là người hủy báng. Chỉ Trừ vua chúa: là vua được tự tại, thành hay bại đều do vua chúa, lại làm cho tâm ấy biết Pháp thanh tịnh nên được nói cho vua chúa nghe. Những hạng người ác ấy v.v… là lời quỡ người không thọ giới của Phật. Nếu Phật tử giảng nói giới pháp của Chư Phật thì thành phạm. Không có tâm thọ giới đều gọi là người ác. Kinh Thiện Giới chép: Nếu Tỳ-kheo vì tìm tội lỗi mà nghe giới Bồ-tát, không tín thọ giáo, không thành tựu giới Ưu-bà-tắc, không thành tựu giới Sa-di, không thành tựu giới Ba-la-đềmộc-xoa, không được nghe giới Bồ-tát, nghe thì phạm tội. Nếu Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, không hổ thẹn, không sám hối mà nghe giới Bồ-tát thì phạm tội tăng tàn. Nếu phạm Tăng tàn mà không hổ thẹn, không sám hối, nghe giới Bồ-tát bị tội Ba-la-di, nghĩa là mười tám giới trọng nếu có người nói thì bị tội tăng tàn, cho nên trong kinh nói rằng người không tin thì không được nghe, người không tin không được nói.

4. Giới Cố móng tâm phạm giới.

Nếu Phật tử do đức tin mà xuất gia, thọ chánh giới của Phật, lại cố móng tâm phạm giới, thì không được nhận đồ cúng dường của tất cả đàn việt, cũng không được đi trên đất của quốc gia, không được uống nước của quốc gia. Năm ngàn đại quỷ thường đứng án trước mặt người đó mà gọi là” tên giặc nguy hiểm”. Nếu khi bước điều lành, vào phòng nhà, thành ấp, các quỷ thường theo chà quét dấu chân người ấy. Tất cả người đời đều mắng người ấy là tên trộm trong Phật pháp. Tất cả chúng sinh đều không muốn nhìn ngó người ấy. Người phạm giới khác nào loài súc sinh, cây cỏ. Nếu cố phá huỷ giới pháp của Phật, Phật tử này phạm tội khinh cấu.

Hai giới dưới đây là giải thích tự nhiếp.

Trong đó. Giới đầu giải thích về nhiếp giới hạnh, giới sau phân biệt nhiếp giới giáo, hủy phạm tịnh giới, giả vờ làm tín thí, mình tự thêm tội, đối với người thì tổn phước, nên Phật chế để dứt trừ. Đại thừa Tiểu thừa đều chế, nhưng trong pháp Thanh văn không thấy kết tội hủy giới mà thọ cúng. Đại Sĩ vì tổn mình lợi sinh nên kết tội riêng ở trong năm chúng. Văn chép: Do đức tin mà xuất gia, nghĩa là tùy theo tội đã phạm mà kết bản tội, mình đã thêm tội hủy phạm mà thọ thí, bản tội đã phạm chung cho cả khinh trọng chỉ trừ thượng triền mất giới.

Do đức tin xuất gia thọ chánh giới của Phật: là do xuất gia thọ giới, xứng đáng là ruộng phước, chỉ nói riêng xuất gia. Cố khởi tâm hủy phạm Thánh giới: là giới Phật chế đều gọi là Thánh giới, biết mà cố tình trái phạm gọi là cố khởi tâm. Vì suy nhược thọ thể nên nói là hủy phạm. Không được nhận lãnh đồ cúng dường của tất cả đàn Việt: giới ruộng Phước đã hủy, không nên thọ lãnh cúng dường. Năm ngàn đại qủy luôn đứng án trước mặt: vì không phải phần mình mà mạo nhận nên bị phi nhân quở trách. Tất cả người đời quỡ người ấy là tên trộm trong Phật pháp, v.v… Vì luống uổng của tín thí nên bị người đời quở mắng.

5. Giới không cúng dường kinh luật.

Nếu phật tử, phải thường nhất tâm thọ trì đọc tung kinh luật Đại thừa, dùng giấy, vải hàng lụa, thẻ tre, vỏ cây cho đến lột da làm giấy, chính máu làm mực, dùng tủy làm nước, chẻ xương làm viết để biên chép kinh luật, dùng vàng bạc, và hoa hương vô giá và tất cả châu báu làm hộp rương đựng các quyển kinh luật. Nếu không y theo pháp mà cúng dường kinh luật thì Phật tử này phạm tội khinh cấu. Pháp là khuôn mẫu mở mang tinh thần, vâng giữ phải tôn kính. Nếu không cố giữ gìn đúng như Pháp thì trong việc làm có nhiều thiếu sót nên Phật chế phải cung kính. Bảy chúng đồng học, Đại thừa Tiểu thừa không cùng học. Văn chép gồm có năm loại; một là thọ trì; hai là đọc; ba là tụng; bốn là biên chép; năm là cúng dường. Trong phần thứ tư lột da làm giấy, v.v… là nếu được tâm bền chắc không lay động thì nên làm, nếu không như vậy thì không cần phải làm, chỉ nên khởi tâm nguyện là cây, da, giấy, lụa v.v… tuỳ theo khả năng cần phải làm. Trong Bồ-tát Địa, trong ba phần chế chung nên Văn kia chép: Nếu các Bồ-tát đối với tịnh giới luật nghi trong mỗi ngày, hoặc đối với Như lai, hoặc xây dựng nhiều ngôi tháp để thờ Như lai, hoặc đối với chánh Pháp, hoặc vì chánh Pháp mà in ấn kinh sách. Cái gọi là chư Bồ-tát Tố-Đát-Lãm Tạng Ma-ĐátLý-Ca. Hoặc đối với Tăng-già: nghĩa là các cõi mười phương đã vào đại địa các chúng Bồ-tát. Nếu không cho là hoặc ít hoặc nhiều các vật cúng dường để cúng dường, dưới cho đến dùng thân lễ một lễ cung kính, hoặc dùng một loài kệ bốn câu khen ngợi công đức chân thật của Phật, Pháp, Tăng. Hoặc đem tâm thanh tịnh tuỳ niệm công đức chân thật của Tam Bảo.

Luống qua ngày đêm gọi là Phạm, có sự trái vượt. Hoặc không cung kính lười biếng uể oải mà trái phạm, là nhiễm ô trái phạm. Hoặc nhầm lẫn thất niệm mà trái phạm, là phi nhiễm trái phạm. Không trái phạm là tâm cuồng loạn. Nếu đã chứng nhập tịnh ý lạc địa thì thường không trái phạm. Do Bồ-tát được thanh tịnh ý lạc, như Tỳ-kheo đã được chứng tịnh, Pháp nhĩ như vậy, đối với Phật Pháp Tăng, thừa sự cúng dường phẩm vật tối thắng. Kinh Thiện Sinh chép: Nếu dâng lên y bát, cúng dường Phật, và cho cha mẹ Sư trưởng thọ dùng trước sau đó mới tự dùng. Hoặc dâng lên cúng Phật, phải dùng hương hoa để chuộc.

6. Giới phải dắt dẫn với tâm từ bi.

Nếu Phật tử, nên có tâm đại bi, khi vào trong tất cả nhà cửa, thành ấp, thấy các loài chúng sinh, phải xướng lên rằng:” Các ngươi đều nên thọ ba quy y và mười giới”. Nếu gặp trâu, bò, chó, ngựa, heo, dê v.v… phải tâm nghĩ miệng nói rằng:” Các ngươi là súc sinh nên Phát tâm Bồđề”, khi Phật tử đi đến núi rừng, sông, đồng nội cùng tất cả chỗ, đều làm cho hết thảy chúng sinh phát tâm Bồ-đề.

Nếu Phật tử không phát tâm giáo hóa chúng sinh thì phạm tội khinh cấu.

Bốn giới dưới đây là dùng tâm từ bi giáo hóa, trong hai giới đầu nói từ bi nhiếp hóa chúng sinh, hai giới sau phân tích dùng sự cung kính giữ gìn chánh pháp, vì Pháp trụ người được lợi ích nên tuy hộ pháp tức là giáo hóa người. Trong hai giới đầu, giới đầu nói xướng đạo giáo hóa, giới kế là phân tích thuyết giáo hóa. Thấy chúng sinh không giáo hóa thì trái với hạnh nhiếp rộng nên phật chế. Xuất gia tại gia đồng học, đại thừa tiểu thừa không mất, vì Thanh văn vốn không gồm việc cứu giúp. Văn chép: Nên có tâm đại bi là thương xót chúng sinh luôn đắm chìm trong biển khổ, nên muốn cứu vớt họ ra khỏi. Hoặc lúc vào tất cả nhà cửa, v.v… trong tâm khởi đại bi phát ngôn xướng đạo. Mười giới là giới mười nghiệp đạo lành, hoặc là mười giới vô tận của Bồ-tát. Thấy các loài súc sinh khiến phát tâm Bồ-đề: trong súc sinh có loài thông minh nhận hiểu được, hoặc tuy đương thời có thể nhận hiểu, tiếng pháp trong sáng lọt vào lỗ lông thì xa làm nhân duyên Bồ-đề.

7. Giới có tâm cung kính nói pháp.

Nếu Phật tử, thường nên có tâm đại bi phát tâm giáo hóa. Lúc vào nhà đàn việt sang giàu và tất cả chúng hội, không được đứng nói pháp cho người tại gia nghe, phải ngồi trên tòa cao trước chúng tại gia.

Vị Tỳ-kheo Pháp Sư không được đứng dưới đất nói Pháp cho bốn chúng. Khi nói Pháp, Vị Pháp Sư ngồi trên tòa cao, hương hoa cúng dường, còn bốn chúng thính giả thì ngồi dưới. Đối với Pháp sư phải như hiếu thuận cha mẹ, kính thuận Sư trưởng như Bà-La-môn thờ lửa. Nếu Phật tử nói Pháp mà không đúng Pháp thì phạm tội kinh cấu: Đứng bên đường mà nói, có lỗi khinh Pháp nên Phật chế dứt trừ, bảy chúng đồng học. Văn chép: Tỳ-kheo tại gia là nghĩa Sư Phạm, Đại thừa tiểu thừa cùng chế. Trong văn chép: Nên có tâm đại bi giáo hóa là việc dùng tâm đại bi giáo hóa lợi ích chúng sinh, lý nên nghiêm kính, sinh ra pháp lành, không nên khởi tâm sai trái khinh thường. Đối với tất cả chúng sinh trở xuống chính là nói nghi thức nói Pháp, trong đó có hai; một là nói nghi thức nói Pháp cho người tại gia; hai là nói nghi thức nói pháp cho tứ chúng. Theo luật thì người năm rồi ngồi, hoặc là che đầu, ném gậy, v.v… đều phải đồng chế. Nhưng hiếu thuận với cha mẹ là tôn kính người, như Bà-La-Môn thờ lửa: là trọng pháp.

8. Giới không lập ra chế hạn tội ác.

Nếu Phật tử, đều đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc vua chúa, Hoàng tử, các quan, bốn bộ đệ tử ỷ thế lực cao qúy, phá diệt giới, luật của Phật Pháp, lập ra điều luật, hạn chế bốn bộ đệ tử Phật, không cho xuất gia hành đạo, cũng không cho đúc tạo hình tượng Phật và Bồ-tát cùng tháp và kinh luật. Lại lập ra chức quan đổng lý hạn chế bốn chúng, và lập bộ sổ ghi số tăng, Tỳ-kheo Bồ-tát đứng dưới đất còn người tại gia ngồi tòa cao, làm nhiều việc phi Pháp như binh nô thờ chủ. Các Bồ-tát này lẽ ra được mọi người cúng dường mà rái lại bắt làm tay sai của các quan chức, đó là phi pháp phi luật.

Nếu vua chúa và các quan có lòng tốt thọ giới của Phật, chớ làm những tội phá Tam Bảo ấy. Nếu cố làm, thì phạm tội khinh cấu. Hai giới sau đây là cung kính giữ gìn chánh pháp, giới đầu ngăn việc ác cho nên chế, giới sau là giữ gìn chánh giáo, trong phần đầu trái sự lập chế của Phật là nhân duyên phá Pháp, nên cấm để dứt trừ. Hoa Nghiêm chép: chẳng thể trước không chế, không còn tạo lập, chính là ỏ đây. Đại thừa tiểu thừa đều chế, bảy chúng cùngngăn ngừa. Trong văn chép, đều đã có lòng tin thọ giới của Phật: nghĩa là khi thọ giới đều dùng lòng tin. Hoặc vua chúa, v.v…:nghĩa là biến trì tà mạn, phá diệt Phật Pháp. Do hai nhân duyên phá diệt Phật Pháp: một là lập chế phi pháp; hai là không cho xuất gia hành đạo, v.v… Tội phá Tam Bảo là người ngu si Phá Tam Bảo nên gọi là người phá Pháp. Do phi chế mà chế, chế ấy liền dứt.

9. Giới kính mến chánh Pháp.

Nếu Phật tử do lòng tốt mà xuất gia, lại vì danh tiếng và tài lợi mà giảng nói giới của Phật cho vua chúa và các quan nghe, làm những việc gông trói các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, người thọ giới Bồ-tát, như cách của ngục tù và binh nô. Như giòi trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử, chớ chẳng phải giòi ở ngoài đến ăn. Cũng thế, các Phật tử tự phá hủy Phật Pháp, chứ không phải ngoại đạo hay mắt tuệ trời phá được.

Người đã thọ giới của Phật, nên giữ gìn giới luật của Phật như ấp yêu con một, như kính thờ cha mẹ, không được hủy phá.

Người Phật tử khi nghe ngoại đạo và người ác dùng lời xấu hủy báng giới pháp của Phật thì đau đớn không khác nào cả ba trăm cây giáo nhọn đâm vào tim mình, hay cả ngàn lưỡi dao, cả muôn cây gậy đánh bổ vào thân mình, thà tự chịu đọa vào ở địa ngục đến trăm kiếp, chớ không muốn nghe lời hủy báng giới pháp của Phật của bọn người ác, huống chi không có lòng hiếu thuận, tự mình hủy phá giới pháp của Phật, hay làm nhân duyên bảo người khác hủy phá. Nếu cố phá giới pháp, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Giới pháp bí mật, người thế tục chẳng nên nghe, lý phải ưa thích giữ gìn, giống như cha mẹ hay con một của mình, mà ở trước người thế tục chưa có lòng tin lại vọng nói giới bí mật quan trọng của Phật, lại làm những việc trói buộc, lại khởi những việc gai góc đối với chánh Pháp, Pháp suy người đọa đều do đây, nên Phật chế phải cung kính hộ trì. Đại thừa, Tiểu thừa đều chế, bảy chúng đồng học. Trong văn chép do lòng tốt xuất gia: nghĩa là khi xuất gia vốn có lòng tốt kính mến Phật pháp, lại vì danh tiếng, v.v… trái với lòng tốt, chạy theo danh lợi. Ở trước vua chúa và các quan nói giới của Phật: là tâm đuổi theo miếng mồi hôi thối, cho là lời Thánh, làm những việc trói buộc các Tỳ-kheo v.v… là vì người thế tục nghe giới của Phật, rút tỉa những điều Phi lý, gây ra những sự trói buộc ngang trái. Như giòi trong thân sư tử, v.v… dẫn dụ quở trách phá Pháp do tự Phật tử chứ không do ngoại đạo, ma trời. Nếu người thọ giới của Phật, v.v…. khuyên nhủ phải kính trọng che chỡ, huống chi tự phá, v.v… là trái phạm.

Chín giới như vậy, cần nên học, hết lòng kính trọng vâng giữ. Tám giới như thế phải tổng kết kính trọng vâng giữ.

Phật dạy: Nầy các Phật tử! Đó là bốn mươi tám điều giới khinh, các ngươi phải thọ trì. Các Bồ-tát thuở qua khứ đã tụng, các Bồ-tát thuở vị lai sẽ tụng, các Bồ-tát hiện tại đang tụng.

Các Phật tử lóng nghe! Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh nầy, Chư Phật trong ba đời đã tụng, sẽ tụng và đang tụng, nay ta cũng tụng như vậy.

Phật dạy tiếp: Tất cả đại chúng như vua chúa, các quan, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, tín nam tín nữ, v.v… những người thọ trì giới Bồ-tát, nên phải thọ trì, đọc tụng, giảng nói biên chép quyển giới Pháp Phật tính thường trụ để tryền bá mãi mãi. Tất cả chúng sinh xoay vần truyền dạy cho nhau không dứt, được gặp Chư Phật, được Chư Phật duỗi tay, đời đời thoát hẳn ba đường ác và tám chỗ nạn, thường được gá sinh trong loài người hay cõi trời.

Nay ta ngồi dưới cội Bồ-đề này, lược giảng giới Pháp của Chư Phật, tất cả đại chúng phải nhất tâm học Ba-la-đề-mộc-xoa vui mừng vâng giữ.

Như phần khuyến học trong phẩm “ Vô Tướng Thiên Vương” mỗi điều đều giảng rõ.

Lúc đó, các vị Học Sĩ trong cõi Tam thiên ngồi lóng nghe Đức Phật tụng giới, hết lòng kính trọng, vui mừng thọ trì. Phật tử lóng nghe v.v… là phần lưu thông, trong đó có hai; một là trao pháp để giữ gìn; hai là kết chung giáo hóa khác. Trong phần đầu có ba; một là mệnh lệnh cho chúng, tức là Phật tử lóng nghe; hai là chánh thức Phó chúc; ba là lúc đó các vị học sĩ trong cõi Tam thiên là chúng đường thời kính trọng. Trong chánh phó có hai; một là giới kinh khiến thọ trì, hai là nay ta ngồi dưới cội Bồ-đề trao giới Pháp dặn dò khiến vâng giữ.

Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng xong về mười giới Pháp vô tận trong phẩm “ Tâm Địa Pháp Môn” của Đức Phật Lô-xána đã giảng ở thế giới Liên Hoa Đài Tạng lúc trước. Ngàn trăm ức đức Thích-ca cũng đồng giảng như vậy.

Từ cung vua chúa Đại Tự Tại đến dưới cây Bồ-đề này, nói Pháp cả mười chỗ, vì tất cả Bồ-tát và vô số đại chúng thọ trì đọc tụng giảng nói Pháp nghĩa cũng như vậy.

Ngàn trăm ức thế giới, thế giới Liên Hoa Đài Tạng, các thế giới: nhiều như cát bụi, Chư Phật cũng giảng nói như vậy.

Tất cả Phật Tâm tạng, địa tạng, giới tạng, vô lượng hạnh nguyện tạng, nhân quả Phật tính thường trụ tạng. Tất cả Chư Phật giảng nói vô lượng Pháp tạng như thế đã xong.

Tất cả chúng sinh trong ngàn trăm ức thế giới đều thọ trì, vui mừng vâng làm.

Còn về phần giảng rộng những hành tướng của tâm địa thì có nói trong phẩm “ Phật Hoa Quang Vương Thất Hạnh”.

Người trí nhiều định tuệ
Thọ trì được pháp này
Thì lúc còn chưa thành Phật
Được hưởng năm điều lợi:
Một là Phật mười phương
Thường thương trưởng che chỡ
Hai là lúc qua đời
Chánh niệm, tâm vui vẻ
Ba là sinh chỗ nào
Làm bạn với cùng Bồ-tát
Bốn là các công đức,
Giới độ đều thành tựu
Năm, đời này đời sau
Đầy đủ giới, phước tue,
Đây là việc Phật làm
Người trí khéo nghĩ lường.
Kẻ chấp tướng chấp ngã
Không thể tin pháp này
Người chấp mắt vắng lặng
Cũng không gieo giống được
Muốn nảy mầm Bồ-đề
Trí tuệ soi thế gian
Phải nên quán sát kỹ
Về thật tướng các pháp:
Không sinh cũng không diệt,
Không thường cũng không đoạn
Chẳng đồng cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi,
Trong thể nhất tâm ấy,
Siêng tu tập trang nghiêm
Công hạnh của Bồ-tát
Phải thứ lớp học tập
Đối với Học và Vô học
Chớ móng tưởng phân biệt,
Đấy là Đệ đạo bậc nhất,
Cũng gọi pháp Đại thừa
Tất cả lỗi ký luận
Đều từ đây dứt sạch
Vô lượng trí của Phật
Đều do đây mà thành
Vì thế nên Phật tử
Phải phát tâm mạnh mẽ
Giữ nghiêm giới của Phật
Tròn sạch như ngọc báu
Các Bồ-tát quá khứ
Đã từng học giới này,
Hàng vị lai sẽ học
Người hiện tại đang học
Đây là đường Phật đi
Là điều Phật khen ngợi
Ta đã giảng giới rồi,
Phước đức nhiều vô lượng,
Hồi hướng cho chúng sinh
Đồng đến Nhất thiết trí,
Nguyện ai nghe pháp này
Đều được thành Phật đạo

 

 

Pages: 1 2