KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận

 

 QUYỂN 2

PHẨM 13: NGU ÁM

Vào thời Đức Phật giáo hóa chúng sanh ở thành Phong Đức, bấy giờ trong thành có một Phạm Chí, tuổi gần 80, giàu sang vô cùng, bản tánh ngoan cố ngu ám, keo kiệt khó giáo hóa, chẳng biết Chánh Đạo và chẳng biết vô thường. Khi ấy ông muốn xây thêm một tòa nhà đẹp. Nhà của ông ta có đại sảnh ở trước và hậu đường ở sau. Có nhà nghỉ mát ở mùa hè và nhà sưởi ấm cho mùa đông. Còn hai bên của dãy nhà có khoảng vài chục căn phòng. Tuy nhiên chỉ có nhà che nắng ở phía sau đại sảnh là chưa xây xong.

Bấy giờ Phạm Chí luôn tự mình chỉ huy công nhân để xây dựng. Với Đạo nhãn, Đức Phật thấy ông lão này sống không qua khỏi hết ngày hôm nay. Thế nhưng ông chẳng thể tự biết mà cứ mải mê với công việc bận rộn, khiến thân gầy sức kiệt, tinh thần hoảng hốtthật quá đáng thương.

Khi ấy Phật dẫn theo ngài Khánh Hỷ đi đến trước cổng nhà và hỏi thăm ông lão rằng:

“Ông bề bộn với công việc như thế mà không mệt mỏi à? Nay ông xây căn nhà này định để làm gì?”

Ông lão đáp rằng:

“Đại sảnh ở trước dùng để tiếp đãi quan khách. Hậu đường ở sau thì cho tôi ở. Những căn phòng ở hai bên dãy thì cho con cái chung sống, hoặc dùng cất chứa tài vật và cho nô bộc ở. Mùa hè tôi lên nhà nghỉ mát. Còn mùa đông tôi vào nhà sưởi ấm.”

Phật bảo ông lão rằng:

“Tôi đã từ lâu nghe đại danh của ông. Nay mới có dịp nói chuyện với ông. Tôi có những bài kệ trọng yếu, có thể khiến kẻ sống và người mất đều được lợi ích. Tôi muốn mang bài kệ này tặng cho ông. Không biết ông có thể tạm gác lại công việc để cùng ngồi xuống và đàm luận chăng?”

Ông lão đáp rằng:

“Hiện giờ tôi rất bận, không thể nào cùng ngồi với ngài để đàm luận đâu. Ngày khác ngài hãy đến, rồi chúng ta sẽ cùng đàm luận. Ngài nói là có bài kệ trọng yếu gì đó, hãy cứ nói ra đi!”

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Có tiền có con cái
Kẻ ngu mãi lo toan
Cả ta chẳng phải ta
Huống nữa tiền và con?

Mùa hè sống ở đây
Mùa đông sống ở đây
Kẻ ngu lo lắm việc
Chẳng biết tương lai biến

Dù ngu đần cực điểm
Tự nhận biết sẽ khôn
Ngu mà cho mình giỏi
Đó mới là cực ngu”

Phạm Chí nói rằng:

“Đạo lý trong bài kệ của ngài nói rất hay. Bây giờ tôi thật sự quá bận, thôi hôm khác ngài hãy đến để trò chuyện thêm.”

Bấy giờ Thế Tôn chỉ biết thương xót mà ra đi. Sau đó ông lão tự mình sửa chữa sườn nhà, nhưng chẳng may bị sườn nhà mục nát rớt trúng đầu và lập tức thiệt mạng. Tất cả gia quyến khóc than và làm kinh động đến láng giềng xung quanh. Phật vừa đi chẳng xa thì liền có tai biến này. Bấy giờ Đức Phật đến đầu thôn và gặp khoảng vài chục Phạm Chí đang ở đó.

Các Phạm Chí hỏi Phật rằng:

“Ngài từ đâu đến đây?”

Đức Phật bảo:

“Ta vừa đến nhà của một ông phú gia để thuyết Pháp cho ông ấy. Tuy nhiên ông ta không tin lời Phật dạy và chẳng biết vô thường. Hiện tại ông ta hốt nhiên đã qua đời.”

Lúc ấy Đức Phật vì các Phạm Chí mà nói lại đầy đủ ý nghĩa của bài kệ đã nói trước đây. Khi nghe rồi, họ vui mừng và liền thấy dấu Đạo.

Lúc bấy giờ Thế Tôn nói kệ rằng:

“Ngu ám gần bậc trí
Ví như vá múc canh
Cho dù múc luôn khi
Vẫn không biết vị gì

Thông minh gần bậc trí
Ví như lưỡi nếm vị
Dù chỉ một thoáng thôi
Pháp yếu liền rõ thông

Hành động của kẻ ngu
Khiến thân chiêu hoạn nạn
Ưa khoái làm việc ác
Tai ương tự chuốc lấy

Hành vi mà bất thiện
Về sau lòng hối hận
Nước mắt chảy đầm đìa
Báo ứng nghiệp ác xưa”

Khi lại nghe được các bài kệ này, các Phạm chí có thêm lợi ích và càng tin sâu hơn. Sau đó họ đảnh lễ Phật và hoan hỷ phụng hành.


Thuở xưa Đức Phật thuyết Pháp cho hàng trời người ở tại vườn Cấp Cô Độc, trong Rừng cây Chiến Thắng gần thành Phong Đức.

Bấy giờ vua Thắng Quân có một công chúa góa chồng tên là Kim Cang. Do bởi góa chồng từ thời còn trẻ mà vẫn chưa tái giá, nên cha mẹ rất thương yêu. Họ đặc biệt xây một cung điện xinh đẹp và cung cấp 500 nghệ nữ để cho cô sinh hoạt vui vẻ. Ở trong chúng nghệ nữ có một người nữ lớn tuổi tên là Độ Thắng, luôn được sai đến chợ để mua son phấn và hương hoa.Khi thấy vô số đại chúng, kẻ nam người nữ, cầm theo hương hoa ra khỏi thành để đến chỗ của Phật, nên liền hỏi những người qua đường rằng:

“Xin hỏi các người đi đâu vậy?”

Mọi người đáp rằng:

“Nay Phật xuất hiện ở thế gian, là bậc tôn quý của ba cõi. Ngài độ thoát chúng sanh và khiến họ đều được tịch diệt.”

Khi nghe xong, trong lòng của Nghệ nữ Độ Thắng vui mừng khôn xiết và liền tự nghĩ thầm:

“Nay mình đến lúc tuổi già mới thấy được Phật. Đây quả thật là phước báo của đời trước đến.”

Thế là Nghệ nữ Độ Thắng liền lấy bớt một phần tiền dùng để mua hương mà mua hoa đẹp, rồi theo mọi người đến chỗ của Phật. Khi đảnh lễ xong, Nghệ nữ Độ Thắng đứng qua một bên và thắp hương rải hoa. Sau khi đã nhất tâm nghe Pháp, Nghệ nữ Độ Thắng ghé qua chợ lấy hương. Do nhờ công đức nghe Pháp và phước đức của đời trước nên mùi hương tỏa ngát gấp bội hơn trước đây. Nhân bởi đi lâu mới về nên khiến chủ nhân nghi ngờ và cật vấn.

Nghệ nữ Độ Thắng giữ chí phụng Đạo nên liền kể rõ sự tình:

“Thưa công chúa! Thế gian có một vị thánh sư, là bậc tôn quý của ba cõi. Ngài đánh trống Pháp vô thượng chấn động khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Có vô số người đến nghe Pháp ở chỗ Ngài và con cũng theo họ đi nghe Pháp, nên con mới về trễ.”

Khi nghe Nghệ nữ Độ Thắng nói Pháp của Thế Tôn rất vi diệu và thâm sâu, Công chúa Kim Cang và các nghệ nữ vừa mừng vừa sợ, rồi tự than thở rằng:

“Chúng ta đã tạo tội gì mà không có duyên được nghe Pháp?”

Công chúa liền nói với Nghệ nữ Độ Thắng rằng:

“Hãy vì ta mà nói lại Pháp của Thế Tôn.”

Nghệ nữ Độ Thắng thưa rằng:

“Thân con hạ tiện, lời nói bất tịnh, nên không dám tuyên nói. Xin chủ nhân cho phép con đi thưa hỏi Đức Phật, rồi sẽ phụng mệnh thuyết Pháp.”

Công chúa liền bảo đi và căn dặn thêm rằng:

“Hãy ráng nhớ mọi quy tắc lễ nghi, rồi trở về ngay!”

Trong khi Nghệ nữ Độ Thắng còn chưa về, các thị nữ của Công chúa Kim Cang đã đợi sẵn ở trước sân như con chờ mẹ.

Phật bảo Nghệ nữ Độ Thắng rằng:

“Con hãy trở về thuyết Pháp, sẽ độ thoát rất nhiều người. Nghi thức đầu tiên của thuyết Pháp là cần an trí một tòa cao.”

Nghệ nữ Độ Thắng tiếp thọ giáo sắc và tuyên lại tường tận lời của thánh chỉ. Mọi người đều vui mừng vô cùng, rồi mỗi vị cởi y phục trên cổ xuống và chất làm tòa cao. Khi đã tắm gội sạch sẽ, Nghệ nữ Độ Thắng nương uy thần của Phật và như lời ứng thỉnh mà thuyết Pháp. Bấy giờ Công chúa Kim Cang và 500 nghệ nữ phá trừ lưới nghi và đắc Quả Nhập Lưu.

Đương lúc ấy có lửa bốc cháy ở cung điện, nhưng do họ chú tâm nghe Nghệ nữ Độ Thắng thuyết Pháp vi diệu thâm sâu, nên tất cả đồng thời bị lửa thiêu chết. Sau khi chết, họ liền sanh lên trời. Lúc ấy nhà vua dẫn người đến cứu hỏa nhưng thấy mọi thứ đã cháy rụi. Ngài cho người thu nhặt thi thể để chôn cất. Khi đã mai táng xong, nhà vua ghé qua chỗ của Phật, đảnh lễ Đức Phật và lui xuống ngồi ở chỗ thường ngồi.

Phật hỏi nhà vua rằng:

“Đại vương từ đâu đến?”

Nhà vua chắp tay thưa rằng:

“Thưa Thế Tôn! Công chúa Kim Cang của con bất hạnh. Tất cả lớn nhỏ chẳng may đều bị lửa thiêu chết. Con vừa mới an táng xong. Tuy nhiên, con không biết ái nữ đã tạo tội gì mà mắc phải hỏa hoạn. Kính mong Thế Tôn hãy nói rõ cho con hay.”

Phật bảo đại vương:

“Vào thuở quá khứ có một thành quách tên là Lộc Dã. Trong thành có một phu nhân của trưởng giả dẫn theo 500 thể nữ ra ngoài thành để làm đại lễ cúng tế. Trừ họ ra, nghi lễ của họ không cho bất cứ dòng họ nào khác đến gần. Hễ có ai đến gần, chẳng kể kẻ lạ người thân, đều bị ném vào trong lửa.

Thuở ấy trong đời có một vị Độc Giác sống ở trên núi, tên là Thời Phân. Buổi sáng ngài hạ sơn khất thực và chiều tối trở về lại trong núi. Có một hôm vị Độc Giác đi khất thực và đi đến ngôi đền đó. Khi thấy vậy, bà phu nhân của trưởng giả tức giận dữ dội và bắt vị Độc Giác quăng vào trong đám lửa, khiến toàn thân cháy chín. Lúc ấy vị Độc Giác liền hiện thần túc và bay lên hư không.

Khi đó mọi người kinh hoàng, khóc lóc sám hối, hai gối quỳ, và ngẩng đầu lên mà ăn năn rằng:

“Nữ nhân chúng con ngu xuẩn, chẳng biết bậc thánh nhân. Chúng con ngu si mê muội mà dám hủy nhục đến thần linh. Chúng con hối hận về tội ác nặng như núi đã làm. Xin ngài rủ lòng thương xót mà tiêu trừ tai ương cho chúng con.”

Khi nghe tiếng sám hối của họ, vị Độc Giác bay hạ xuống và vào tịch diệt. Sau đó, các người nữ cùng nhau xây tháp để cúng dường xálợi.”

Bấy giờ Đức Phật nói kệ cho nhà vua rằng:

“Kẻ ngu lúc làm ác
Không thể tự hiểu thấu
Ương họa đuổi theo đốt
Nghiệp tội cháy phừng phừng

Kẻ ngu chốn ước mong
Không nhận đó là khổ
Mãi khi đọa hiểm nguy
Mới biết nó chẳng lành”

Phật bảo đại vương:

“Phu nhân của trưởng giả thuở đó, nay chính là Công chúa Kim Cang. Còn 500 thể nữ, nay chính là 500 nghệ nữ, gồm có Nghệ nữ Độ Thắng và những người khác. Tội phước luôn theo sát và không bao giờ mất. Thiện ác theo người như bóng theo hình.”

Khi Phật thuyết Pháp này xong, nhân dân lớn nhỏ ở trong nước đều tín thọ và vui mừng. Họ cùng nhau quy y Tam Bảo, thọ trì Năm Giới, và liền thấy dấu Đạo.



KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ