KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận

 

 QUYỂN 1

PHẨM 12: HƯƠNG HOA (PHẦN 1)

Thuở xưa khi Phật còn tại thế, có một kỳ đài ở vùng biển hướng đông nam của nước Phong Đức. Trên kỳ đài này có một cây hoa thơm; thân cây rất sạch sẽ. Ở nơi đây có 500 Phạm Chí nữ đang phụng sự pháp ngoại đạo. Lòng của họ rất tinh tấn và chưa hề biết đến Phật.

Một ngày nọ, các Phạm Chí nữ nói với nhau rằng:

“Khi vừa lọt lòng, chị em chúng ta đã mang thân nữ. Từ trẻ đến già luôn bị nhiều việc cấm chế, không được tự do, và tuổi thọ lại ngắn ngủi. Thân này sẽ già yếu và rồi sẽ chết. Chẳng bằng như các chị em chúng ta hãy cùng đến kỳ đài kia, rồi hái hoa thơm để cúng dường, tinh tấn ăn chay trì giới, và thờ bái Phạm Thiên. Các chị em chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để được sanh lên cõi Phạm Thiên. Như thế chúng ta sẽ được trường sanh bất tử, lại được tự tại, không có điều gì cấm chế, xa lìa các nghiệp tội, và chẳng còn ưu sầu hoạn nạn.”

Và thế là, họ mang những phẩm vật cúng dường và đi đến kỳ đài, rồi hái hoa thơm để dâng lên Phạm Thiên. Họ nhất tâm ăn chay trì giới và nguyện thờ bái tôn thần.

Khi Thế Tôn thấy các Phạm Chí nữ này, tuy là thọ trì trai giới của thế tục nhưng lòng họ rất tinh tấn. Ngài biết họ đáng được hóa độ nên liền dẫn các đệ tử, chư Bồ-tát, thiên long quỷ thần cùng đại chúng, rồi thăng lên hư không, bay đến kỳ đài, và ngồi dưới gốc cây. Lúc đó các Phạm Chí nữ rất vui mừng và cho rằng đó là vị Phạm Thiên.

Họ mừng rỡ và bảo với nhau rằng:

“Ước nguyện của chúng ta nay đã thành hiện thực.”

Bấy giờ có một vị trời bảo các Phạm Chí nữ rằng:

“Ngài không phải là Phạm Thiên. Ngài là bậc tôn quý mà khắp ba cõi đều cung kính, hóa độ vô lượng chúng sanh, gọi là Đức Phật.”

Các Phạm Chí nữ liền đến trước chỗ của Phật mà đảnh lễ, rồi thưa với Phật rằng:

“Xưa chúng con chắc tạo nhiều nghiệp bất tịnh nên giờ phải làm thân nữ. Nay chúng con mong muốn lìa xa những sự cấm chế và nguyện sanh lên cõi Phạm Thiên.”

Đức Phật bảo:

“Các thiện nữ nhân! Các con vì muốn được lợi ích lành nên mới phát nguyện đó. Trên đời có hai việc mà quả báo của nó rất rõ ràng: làm thiện hưởng phước lành, làm ác gặp tai ương. Thế gian khổ ách, cõi trời an vui. Hữu vi phiền não, vô vi tịch diệt. Ai có thể tuyển lựa để lấy sự chân thật đó?

Lành thay, các thiện nữ nhân! Các con có trí tuệ nên mới khéo lựa chọn như thế.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Ai khéo lựa nơi xứ
Lìa đường ác sanh thiên?
Ai khéo giảng Pháp nghĩa
Như khéo hái hoa xinh?

Học nhân khéo lựa nơi
Lìa đường ác sanh thiên
Khéo giảng diệu Pháp nghĩa
Khéo hái hoa công đức

Quán thân như sành gốm
Huyễn hóa như ảo ảnh
Chặt đứt nụ hoa ma
Không đọa vòng sanh tử

Thấy thân như bọt nước
Biết đó là huyễn hóa
Chặt đứt nụ hoa ma
Không đọa vòng sanh tử”

Khi nghe những bài kệ của Đức Phật, các Phạm Chí nữ nguyện học theo Chánh Đạo và xin làm Bhikṣuṇī. Lúc đó, tóc trên đầu của họ tự rụng, Pháp y khoác trên thân. Sau đó, họ tĩnh lặng tư duy thiền định và liền đắc Đạo Ứng Chân.

Bấy giờ ngài Khánh Hỷ bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Thuở xưa các Phạm Chí nữ này đã gieo trồng căn lành gì mà nay được Thế Tôn đến hóa độ, rồi chỉ một lần nghe Pháp, họ liền xuất gia và đắc Đạo?”

Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

“Vào thời giáo hóa của Đức Phật Ẩm Quang thuở xưa, bấy giờ có một đại trưởng giả giàu sang vô cùng. Ông có nhiều phu nhân và thể nữ, 500 người cả thảy. Tuy nhiên, bản tánh của ông đố kỵ, xấu ác và không cho họ ra khỏi cửa. Các phu nhân và thể nữ rất muốn đến diện kiến Đức Phật nhưng ông luôn luôn không cho phép. Về sau có một ngày, vị vua của nước đó triệu tập các đại thần và thiết yến tiệc ở trên đại điện đến trọn cả ngày.

Nhân cơ hội ông trưởng giả vào cung dự yến tiệc, các phu nhân và thể nữ liền cùng đến chỗ của Phật, rồi cúi đầu đảnh lễ và ngồi xuống nghe Kinh.

Sau đó mỗi người họ phát nguyện rằng:

‘Nguyện con đời đời sẽ không gặp kẻ ác. Ở mọi nơi sanh ra, con sẽ luôn gặp thánh nhân và biết Chánh Đạo. Con nghe Phật nói ở vào đời vị lai sẽ có một Đức Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Śākyamuni. Con nguyện sẽ gặp Ngài, xuất gia học Đạo, và phụng trì lời dạy.'”

Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

“Các phu nhân và thể nữ thuở đó–500 người cả thảy, nay chính là 500 vị Bhikṣuṇī đây vậy. Do bởi bổn nguyện khẩn thiết và chí thành, nên nay họ đặc biệt được Thế Tôn đến hóa độ vậy.”

Khi Phật nói lời ấy xong, không ai là chẳng hoan hỷ.

Kinh Pháp Cú Thí Dụ – Hết quyển 1

 

KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận

 

 QUYỂN 2

PHẨM 12: HƯƠNG HOA (PHẦN 2)

Thuở xưa khi Phật vừa đắc Đạo, Ngài giáo hóa chúng sanh ở thành Vương Xá, rồi triển chuyển đến thành Phong Đức. Bấy giờ các quốc vương và quần thần, không ai là chẳng kính ngưỡng.

Đương thời có một đại thương chủ tên là Viên Mãn. Ông cùng với 500 thương nhân vào biển tìm châu báu.

Khi ấy thần biển xòe ra một bụm nước trên tay và hỏi Đại thương chủ Viên Mãn rằng:

“Nước trong biển nhiều hơn hay bụm nước trong tay ta nhiều hơn?”

Đại thương chủ Viên Mãn đáp rằng:

“Bụm nước trong tay ngài nhiều hơn.

Vì sao thế? Bởi nước trong biển tuy nhiều nhưng chẳng có lợi ích và không thể cứu người đang khát. Bụm nước trong tay ngài tuy ít nhưng nếu lấy cho người đang khát thì sẽ cứu sống họ. Cho nên một bụm nước có thể giúp người được lợi ích nhiều không thể tính kể.”

Thần biển hoan hỷ và ngợi khen lành thay, rồi liền cởi xuống tám loại hương sức anh lạc trên thân và tặng nhiều trân bảo bảy báu cho Đại thương chủ Viên Mãn. Thần biển cũng đích thân hộ tống, nên khiến ông trở về nước Phong Đức bình an. Sau đó Đại thương chủ Viên Mãn cầm những hương sức anh lạc dâng lên cho vua Thắng Quân và thuật lại mọi việc.

“Những hương sức anh lạc quý báu này, hạ nhân không dám đeo. Hạ nhân kính cẩn dâng lên cho đại vương. Mong đại vương thu nhận.”

Khi được những hương sức anh lạc, nhà vua vô cùng phấn khởi và liền sai người gọi tất cả hậu cung mỹ nữ hãy đứng ngay ngắn ở trước điện.

[Ngài nghĩ:]

“Nếu ai là người mỹ lệ nhất, ta sẽ ban thưởng những hương sức anh lạc này.”

Khi 60.000 hậu cung mỹ nữ đều đã đến trình diện chỉnh tề, nhà vua hỏi rằng:

“Tại sao Phu nhân Mallikā không đến?”

Thị nữ tâu rằng:

“Tâu đại vương! Hôm nay là ngày rằm, phu nhân thọ trì trai giới của Phật và mặc áo trắng đơn sơ. Cho nên phu nhân không đến.”

Nhà vua liền nổi giận và sai người truyền lời rằng:

“Hôm nay phu nhân thọ trì trai giới và dám làm trái ý vua, chẳng lẽ không sợ chết hay sao?”

Nhà vua sai người truyền lời ba lần như thế. Khi đó Phu nhân Mallikā với quần áo trắng thanh tịnh đi đến. Bấy giờ ở giữa muôn người, Phu nhân Mallikā sáng rỡ như vầng nhật nguyệt và đoan nghiêm gấp bội hơn lúc bình thường.

Nhà vua hết sức kinh ngạc và hỏi rằng:

“Nàng tu tạo công đức gì mà hôm nay sáng ngời như thế?”

Phu nhân tâu rằng:

“Thần thiếp tự nghĩ mình kém phước, sanh làm thân nữ bất tịnh, tình thâm nghiệp trọng và ngày ngày chồng chất như núi. Thần thiếp nghĩ đến đời người ngắn ngủi và sợ đọa ba đường ác. Thế nên mỗi tháng vào ngày rằm, thần thiếp thọ trì trai giới của Phật, cắt ái phụng Đạo và mong đời đời được phước báo.”

Nghe xong, nhà vua hoan hỷ và liền ban cho Phu nhân Mallikā những hương sức anh lạc.

Phu nhân tâu rằng:

“Hôm nay thần thiếp thọ trì trai giới. Thần thiếp không nên đeo những trang sức này. Mong đại vương hãy thưởng cho các phu nhân khác.”

Nhà vua nói rằng:

“Trước đó trẫm đã quyết định là sẽ ban thưởng cho ai mỹ lệ nhất. Hôm nay nàng là người đẹp nhất, và còn phụng trì trai giới cao thượng của Phật, nên trẫm mới thưởng thí. Nếu nàng không nhận, thử hỏi trẫm phải làm sao?”

Phu nhân tâu rằng:

“Đại vương chớ ưu sầu. Xin đại vương cùng thần thiếp đi đến chỗ của Phật và cầm những hương sức anh lạc này để dâng lên cho Thế Tôn. Nhân đó chúng ta cũng sẽ nghe được lời dạy của Phật và gieo trồng phước báo cho đời sau.”

Nhà vua liền đồng ý và bảo hạ nhân chuẩn bị xe ngựa, rồi đi đến chỗ của Phật. Khi đến nơi, ngài cúi đầu sát đất và ngồi qua một bên.

Nhà vua thưa với Phật rằng:

“Thưa Thế Tôn! Đây là những hương sức anh lạc mà thần biển đã tặng cho Đại thương chủ Viên Mãn. 60.000 hậu cung mỹ nữ đều mong muốn có được. Con chỉ ban thưởng cho Phu nhân Mallikā, nhưng phu nhân đang thọ trì trai giới của Phật, lòng chẳng hề tham muốn và đã không nhận. Con nay kính cẩn dâng lên Đức Phật. Xin Thế Tôn hãy rủ lòng thương xót mà nhận lấy cho.

Các đệ tử nào của Thế Tôn với hết lòng tín tâm thọ trì trai giới như thế, họ sẽ được phước gì?”

Bấy giờ Thế Tôn nhận lấy những hương sức anh lạc và liền nói kệ rằng:

“Lấy nhiều hoa xinh đẹp
Kết thành vòng trang sức
Ai rộng tích thiện căn
Đời sau sanh chốn lành

Kỳ hoa dị thảo hương
Không ngược làn gió thổi
Hiền giả gần Chánh Đạo
Đức hạnh tỏa ngát thơm

Hương mộc hương chiên đàn
Và hương hoa sen xanh
Tuy ngửi thật ngát thơm
Không bằng giới đức hương

Hương hoa tỏa nhạt nhòa
Chẳng thể gọi là thật
Huân tu trì giới hương
Thù thắng thơm thấu trời

Thành tựu đầy đủ giới
Tu hành chẳng buông lung
Định tuệ đoạn sanh tử
Vĩnh viễn lìa tà ma”

Khi nói kệ xong, Đức Phật lại bảo nhà vua rằng:

“Phước đức của thọ trì trai giới sẽ được tiếng thơm vang xa. Cho dù khắp 16 đại quốc có toàn trân bảo và có người lấy hết để làm bố thí đi nữa, thì cũng không bằng phước đức của Phu nhân Mallikā đã thọ trì trai giới của Phật chỉ một ngày một đêm. Phước của người bố thí ở trước mà so với phước trì trai, thì như một hạt đậu so với núi Diệu Cao. Bởi vậy, những ai tích phước và tu học trí tuệ thì sẽ có thể đến tịch diệt.”

Khi ấy nhà vua và phu nhân, quần thần cùng bá quan, không ai là chẳng hoan hỷ và thọ trì phụng hành lời dạy của Phật.

 


 

Thuở xưa Đức Phật ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá. Đương thời trong thành có 50 trưởng giả tử đến chỗ của Phật, đảnh lễ rồi ngồi xuống.

Khi ấy Phật nói rằng, các pháp là khổ, không, vô thường, vô ngã. Ân ái như giấc mộng, có hợp ắt có tan. Tôn quý giàu sang cũng phải chịu khổ đau. Duy chỉ có tịch diệt là vĩnh viễn lìa xa sanh tử, diệt sạch mọi tai ương, và mới có thể đạt đến niềm an lạc cứu cánh.

Sau khi nghe Pháp, 50 trưởng giả tử hoan hỷ và xin làm đệ tử.

Đức Phật bảo:

“Thiện lai, Bhikṣu!”

Khi ấy râu tóc của họ tự rụng, Pháp y khoác trên thân và liền trở thành Đạo Nhân. Các vị Đạo Nhân này có một người thân hữu là trưởng giả. Khi nghe tin họ xuất gia, ông rất vui mừng và đi đến núi Thứu Phong để gặp.

Khi thấy họ, ông tán thán rằng:

“Các vị thật có phước lành to lớn nên mới được xuất gia.”

Sau đó ông thiết lễ cúng dường và thỉnh Phật cùng chư Tăng đến nhà. Sáng hôm sau, Đức Phật dẫn đại chúng đến nhà của ông để thọ trai. Khi ăn xong, Đức Phật thuyết Pháp và khoảng xế trưa mới trở về.

Bấy giờ các vị Đạo Nhân mới xuất gia học Đạo đều lưu luyến thân thuộc và muốn hoàn tục. Đức Phật biết ý nghĩ của họ nên dẫn ra khỏi cửa thành. Ngài thấy trong mương ruộng có hoa sen đang mọc ở giữa phân bùn dơ bẩn. Các hoa sen có năm màu và tỏa hương thơm khiết. Mùi thơm của chúng phảng phất đến nỗi che lấp các mùi hôi thối.

Nhân đó, Phật liền nói kệ rằng:

“Ví như ở mương ruộng
Gần cạnh nơi đại lộ
Trong đó mọc hoa sen
Thơm khiết rất đáng yêu

Có sanh ắt phải chết
Phàm phu ưa nơi đó
Bậc trí quyết thoát ra
Đó là đệ tử Phật”

Khi nói kệ xong, Phật liền trở về trong núi.

Bấy giờ Hiền giả Khánh Hỷ ở trước Phật thưa rằng:

“Vừa rồi Thế Tôn đi qua chỗ mương ruộng và đã nói hai bài kệ. Tuy nhiên, con không hiểu ý nghĩa của chúng. Nay con mong muốn được nghe.”

Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

“Ông có thấy trong mương ruộng có hoa sen đang mọc ở giữa phân bùn dơ bẩn bất tịnh chăng?”

“Dạ, con có thấy!”

Đức Phật bảo:

“Này Khánh Hỷ! Con người sống ở thế gian, họ triển chuyển trong vòng sanh tử. Họ có thể sống đến trăm tuổi hoặc bị đoản mạng, vợ con ân ái, hoặc chịu đói khát nóng lạnh, hoặc có lúc buồn hay vui. Đời người là nơi tụ hội của một xấu, hai tốt, ba độc, bốn đảo, năm uẩn, sáu nhập, bảy thức, tám tà, chín não, và mười ác. Đây ví như ở trong mương ruộng ẩn chứa phân bùn dơ bẩn bất tịnh.

Rồi ở chốn sanh tử kia, hốt nhiên có người giác ngộ rằng thế gian là vô thường, nên họ phát tâm học Đạo, tu hạnh thanh tịnh, định tâm ý, diệt vọng tưởng, và tự đắc Đạo. Đây cũng như giữa bùn dơ mọc ra hoa sen xinh đẹp. Rồi sau đó, khi đã tự mình đắc Đạo, họ lại trở về hóa độ thân bằng quyến thuộc. Họ khiến tất cả chúng sanh đều được khai ngộ. Đây cũng như hương hoa tỏa lấp mùi xú uế vậy.”

Khi nghe Phật thuyết Pháp, Đạo tâm của 50 vị Bhikṣu được kiên cố và liền đắc Đạo Ứng Chân.

 



KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ