KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Pháp Cự và Pháp sư Pháp Lập ở Thế Kỷ 4
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
QUYỂN 1
PHẨM 4: CHÍNH TÍN
Thuở xưa có một con sông lớn, cách thành Phong Đức về hướng đông nam. Con sông này chẳng những sâu mà còn rộng. Vào thời ấy có hơn 500 gia đình sinh sống ở cạnh bờ sông. Họ chưa nghe qua Phật Pháp và Pháp tu hành để vượt khỏi thế gian. Bản tánh của họ rất cang cường, lấy dối trá làm nghề nghiệp, tham lợi phóng túng, và ưa khoái làm việc xấu.
Ở mọi thời, Thế Tôn luôn quán sát. Nếu những ai đáng hóa độ, Ngài sẽ đến hóa độ. Khi quán sát phước đức ở đời trước của những người trong thôn này và biết đáng được độ, Ngài liền đến giáo hóa.
Bấy giờ Thế Tôn đi đến ven sông và ngồi ở dưới một gốc cây. Khi những người trong thôn thấy quang minh và tướng hảo kỳ diệu của Phật, không ai là chẳng kinh ngạc. Sau đó, họ đều đến cung kính đảnh lễ, hoặc lạy hay vái chào, rồi nói lời thăm hỏi đến Phật. Lúc ấy Đức Phật bảo họ ngồi, rồi thuyết giảng Kinh Pháp. Tuy có nghe Pháp nhưng lòng họ đều chẳng tin. Do tập khí của lười biếng và dối gạt nên họ không thể tin lời chân thật của Phật.
Do đó, Đức Phật liền biến hóa một người khác. Vị ấy từ hướng nam của bờ sông kia, chân lướt đi trên nước và nước chỉ đến mắt cá chân, rồi đến ở trước Phật và cúi đầu đảnh lễ Phật. Khi những người trong thôn nhìn thấy, không ai là chẳng kinh ngạc.
Họ hỏi hóa nhân rằng:
“Từ đời tổ tiên cho đến nay, chúng tôi đều sống ở bờ sông này. Song chúng tôi chưa từng nghe ai có thể lướt đi trên nước. Ngài là ai? Ngài có phép thuật gì mà đi trên nước và không bị chìm? Xin ngài hãy nói!”
Hóa nhân đáp rằng:
“Tôi là một bá tánh quê mùa, cư trú ở ven sông phía nam này, và rất yêu mến Phật Pháp. Khi nghe Phật đang thuyết Pháp ở đây, tôi liền đến bờ sông ở phía nam nhưng lúc ấy chẳng có thuyền.
Tôi liền hỏi một người ở ven sông rằng:
‘Nước sông sâu hay cạn?’
Người kia bảo rằng:
‘Nước chỉ tới mắt cá chân. Sao không lội qua?’
Do tôi tin lời nói của người ấy nên liền qua được, chứ không có phép thuật khác lạ gì của ai đâu.’
Bấy giờ Phật khen rằng:
“Lành thay, lành thay! Những ai có lòng tin sâu thì mới có thể vượt qua bể sâu của sanh tử. Huống nữa là chỉ lướt qua vài dặm của con sông kia, thì có gì kỳ lạ đâu?”
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:
“Vững tin vượt bể sâu
Nhiếp ý làm thuyền trưởng
Tinh tấn trừ khổ ách
Trí tuệ qua bờ kia
Ai tín niệm phụng hành
Thánh hiền sẽ ngợi khen
Ai vui thích vô vi
Cởi bỏ mọi buộc ràng
Tin sâu mới đắc Đạo
Như Pháp được diệt độ
Từ đó trí tuệ thành
Nơi đến quang minh chiếu
Tín tâm và giới Pháp
Tuệ ý khéo tu hành
Trượng phu đoạn phiền não
Nhân đó thoát luân hồi”
Do tận mắt chứng kiến và nghe lời Phật nói, tâm của những người trong thôn được khai mở và khởi lòng tin kiên cố. Họ đều xin thọ trì Năm Giới và trở thành các Thanh Tín Sĩ. Kể từ đó, giáo Pháp ngày càng lan xa.
Thuở xưa khi Phật còn tại thế, bấy giờ có một trưởng giả giàu sang vô cùng, tên là Thiện Trì. Ông rất tín ngưỡng Phật Đạo. Ông đã tự mình nguyện rằng, vào mùng tám tháng Chạp âm lịch của mỗi năm, ông sẽ thỉnh Phật cùng chư Tăng đến nhà để cúng dường. Con cháu cũng phụng hành đến suốt đời và sẽ không hủy bỏ.
Khi sắp mạng chung, ông trưởng giả dặn dò đứa con nhớ đừng hủy bỏ tục lệ này. Con của ông tên là Tỉ-la-đà. Về sau gia cảnh ngày càng nghèo và cuộc sống thiếu hụt. Tháng Chạp đã đến nhưng không có đủ phương tiện để cúng dường, thế nên chàng sầu lo chẳng vui.
Bấy giờ Phật sai Bhikṣu Đại Thải Thúc Thị đến hỏi trưởng giả tử rằng:
“Ngày làm công đức của cha con vào tháng Chạp sắp đến. Con có dự định thiết lễ cúng dường gì không?”
Trưởng giả tử thưa rằng:
“Thưa Tôn Giả! Lời cha dặn dò trước khi mất, con đâu dám làm trái. Kính mong Thế Tôn chớ thấy gia cảnh hiện giờ của con mà không đến. Khoảng giữa ngọ của ngày mùng tám, cúi xin Thế Tôn hãy quang lâm đến nhà con.”
Tôn giả Đại Thải Thúc Thị trở về và thưa lại với Phật như thế. Sau đó, trưởng giả tử liền dẫn vợ con đến nhà của cha mẹ vợ và mượn 100 lượng vàng, rồi trở về nhà và chuẩn bị đầy đủ ẩm thực để cúng dường.
Bấy giờ Đức Phật cùng với 1.250 vị Bhikṣu đi đến nhà của trưởng giả tử, rồi ngồi xuống, rửa tay, và thọ trai. Khi đã thọ trai xong, Đức Phật cùng các vị Bhikṣu rửa tay và trở về tinh xá. Khi ấy, trưởng giả tử vô cùng hoan hỷ và chẳng hề cảm thấy hối hận.
Vào nửa đêm hôm đó, trong các kho tàng tự nhiên có đầy những vật báu như trước kia. Sáng sớm hôm sau, khi vợ chồng của trưởng giả tử thấy vậy, họ vừa mừng vừa sợ. Họ sợ quan liêu tra hỏi, rằng từ đâu mà có những vật này. Lúc đó phu thê bàn bạc và họ quyết định đến hỏi Phật. Sau khi tìm đến chỗ của Phật, trưởng giả tử kể rõ tường tận mọi việc đã xảy ra.
Phật bảo trưởng giả tử:
“Con hãy an tâm sử dụng và chớ sanh hoài nghi. Đó là bởi con có lòng tin và không làm trái lời cha dạy, lại giữ giới, biết hổ thẹn, và suốt đời không thoái lui. Do có đầy đủ Bảy Pháp Tài–tín, giới, tàm, quý, văn, thí, và tuệ–nên con có được phước đức và không gặp tai ương. Những người trí nào mà có thể tu hành như thế, chẳng kể nam hay nữ, thì phước báo sẽ tự nhiên ứng hiện ở mọi nơi họ sanh ra.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:
“Tín tài và giới tài
Tàm tài cộng quý tài
Cùng với văn, thí, tuệ
Gọi là Bảy Pháp Tài
Do tín mà giữ giới
Thanh tịnh thường quán Pháp
Tu tuệ lợi mình người
Phụng kính chẳng lãng quên
Ai có Bảy Pháp Tài
Chẳng kể nam hay nữ
Mãi mãi không nghèo túng
Bởi họ thấy chân lý”
Khi nghe Phật dạy, trưởng giả tử càng thêm vững tin, rồi cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật và vui mừng trở về nhà. Bấy giờ trưởng giả tử tuyên lại đầy đủ lời dạy của Phật cho vợ con, và tiếp tục kế thừa truyền thống. Sau đó, họ đều thấy dấu Đạo.