NIỆM PHẬT PHÁP YẾU
念佛法要
Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập
(惕園毛凌雲敬緝)
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Quyển thứ ba
Niệm Phật Dẫn Chứng
Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập
Pháp môn Trì Danh phổ nhiếp thượng căn, trung căn, hạ căn. Các tông Luật, Giáo, Thiền cao siêu, hết thảy pháp Thiên, Viên, Ðốn, Tiệm không một pháp nào là chẳng lưu xuất từ pháp giới này. Hết thảy các hạnh Ðại, Tiểu, Quyền, Thật, không một hạnh nào chẳng quy hoàn pháp giới đây. Vì thế, cả chín giới đều quy hồi, mười phương cùng xưng tán, ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận cùng tuyên thuyết. Phàm trái nghịch với ý kinh thì chính là báng pháp, chẳng được vãng sanh.
Kẻ hậu học căn cơ chậm chạp khó lòng tìm cầu tham cứu nên ở đây tôi trích dẫn những nghĩa lý tinh hoa, giản yếu liên quan đến pháp Trì Danh trong các kinh, luận để họ tùy thời ấn chứng, hòng tránh được lỗi tu mù luyện đui.
1. Trích dẫn kinh Phật Thuyết A Di Ðà
* Từ đây [đi về] phương Tây trải qua mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc. Cõi ấy có Phật hiệu là A Di Ðà, nay hiện đang thuyết pháp. Chúng sanh cõi ấy chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng những điều vui nên [cõi ấy] tên là Cực Lạc.
* Chẳng thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên để được sanh về cõi ấy. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe nói đến A Di Ðà Phật, [bèn] chấp trì danh hiệu trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm bất loạn thì lúc người ấy lâm chung, A Di Ðà Phật cùng các thánh chúng hiện ra trước mặt. Người ấy lúc mất, tâm chẳng điên đảo liền được vãng sanh cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Ðà… Nếu có chúng sanh nghe lời nói ấy, hãy nên phát nguyện sanh về cõi kia.
* Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này mà thọ trì và nghe danh hiệu chư Phật thì đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, đều được chẳng thối chuyển A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Các ông đều phải nên tin lời ta và lời chư Phật đã nói.
Nhận định:
Kinh này khai thị diệu hạnh Trì Danh nên cả Thiền Tông lẫn Tịnh Tông đều dùng cho khóa tụng sớm tối. Sách Tịnh Ðộ Thập Yếu viết:
“Pháp diệu yếu trong Phật pháp không chi bằng Tịnh Ðộ. Pháp diệu yếu trong Tịnh Ðộ không chi hơn được Trì Danh. [Tác phẩm] diệu yếu nói về pháp Trì Danh không gì bằng được kinh A Di Ðà và sách Yếu Giải của ngài Linh Phong”.
Sách Yếu Giải nhận định: “Tín nguyện chấp trì danh hiệu một tiếng ắt đã đầy đủ thiện căn, phước đức. Chẳng luận là xuất gia hay tại gia, sang, hèn, già, trẻ, sáu đường, bốn loài chỉ nghe được danh hiệu Phật thì đã là thiện căn nhiều kiếp thành thục. Ngũ nghịch, thập ác cũng đều gọi là thiện nam nữ vậy.
A Di Ðà Phật là vạn đức hồng danh, dùng danh để chiêu cảm đức thì không đức nào là chẳng gồm thâu trọn vẹn hết. Vì thế, lấy Trì Danh làm Chánh Hạnh, chẳng cần phải lạm dùng các hạnh Quán Tưởng, Tham Cứu v.v… thật là giản dị nhất, thẳng tắt nhất. Nghe rồi tin, tin rồi nguyện mới chịu chấp trì. Chấp trì thì trong mỗi niệm nhớ đến danh hiệu Phật, nhưng lại có Sự Trì và Lý Trì.
Sự Trì là tin có đức A Di Ðà Phật ở Tây Phương, dẫu chưa thấu đạt nổi tâm này là Phật nhưng vì quyết chí nguyện cầu sanh cho nên lúc nào cũng như con nhớ mẹ, không lúc nào tạm quên.
Lý Trì là tin đức Tây Phương A Di Ðà Phật tâm ta sẵn có, là do tâm ta tạo, dùng ngay cái hồng danh tâm ta sẵn có, do tâm ta tạo thành ấy để làm cảnh ràng buộc cái tâm chẳng cho tạm quên.
Bất luận là Sự Trì hay Lý Trì, trì cho đến tiêu sạch phiền não, thậm chí đoạn trước được Kiến Hoặc và Tư Hoặc thì đều là Sự Nhất Tâm. Chẳng bị Kiến Hoặc và Tư Hoặc nhiễu loạn nên cảm được thân Biến Hóa của Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt. Trong tâm chẳng còn khởi lên ba cõi điên đảo trong thế giới Sa Bà nên vãng sanh trong hai cõi Ðồng Cư và Phương Tiện của thế giới Cực Lạc.
Bất luận là Sự Trì hay Lý Trì, trì cho đến khi tâm khai ngộ thấy được đức Phật trong bản tánh thì đều là Lý Nhất Tâm. Chẳng bị Nhị Biên làm loạn nên cảm được thân Thọ Dụng của Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt, tâm chẳng còn khởi lên sanh tử, Niết Bàn, nhị kiến điên đảo nên vãng sanh trong hai cõi Thật Báo và Tịch Quang của thế giới Cực Lạc”.
Ðoạn văn trên đủ để chứng minh rằng tín nguyện vãng sanh nhất định sanh về Cực Lạc!
2. Lược dẫn Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh
* Trong kiếp lâu xa về đời quá khứ, Ðịnh Quang Như Lai xuất thế, lần lượt đến đức Phật thứ năm mươi ba tên là Thế Tự Tại Vương. Lúc bấy giờ có quốc vương nghe Phật thuyết pháp, tấm lòng vui sướng bèn bỏ nước xuất gia, hiệu là tỳ kheo Pháp Tạng. Phật vì ông ta giảng rộng hai trăm mười ức cõi Phật: trời, người thiện ác; quốc độ thô diệu. Nghe xong, ông đều thấy rõ nên phát đại thệ nguyện:
– Nếu tôi thành Phật, mười phương chúng sanh chí tâm tin ưa muốn sanh về cõi tôi, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng được sanh thì tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác; chỉ trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng Chánh Pháp.
Nếu tôi thành Phật, mười phương chúng sanh phát Bồ Ðề tâm, tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sanh về cõi tôi. Lúc người ấy hết tuổi thọ, nếu như tôi chẳng cùng đại chúng vây quanh hiện ra trước người ấy thì tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác.
Nếu tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, hệ niệm cõi tôi, trồng các cội lành, chí tâm hồi hướng muốn sanh về cõi tôi mà chẳng được toại nguyện thì tôi chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác…
Phát ra bốn mươi tám nguyện như thế xong, một dạ chuyên chí trang nghiêm cõi Phật, an lập chúng sanh, trụ trong đạo Vô Thượng Chánh Chơn. Nay ngài đã thành Phật, hiện đang ở thế giới Cực Lạc bên Tây Phương, hiệu là Vô Lượng Thọ Phật.
Nghe đến danh hiệu ngài, tín tâm hoan hỷ, thậm chí một niệm chí tâm hồi hướng nguyện sanh về cõi ấy thì liền được vãng sanh, trụ Bất Thối Chuyển.
* Chư thiên, nhân dân trong mười phương thế giới, những ai chí tâm nguyện sanh về cõi ấy thì nói chung là có ba bậc:
1. Bậc thượng là hạng bỏ nhà, buông dục để làm Sa Môn, phát Bồ Ðề tâm, một lòng chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật, tu các công đức nguyện sanh về cõi ấy. Hạng chúng sanh này lúc tuổi thọ sắp hết, Vô Lượng Thọ Phật và các đại chúng hiện ra trước mặt, liền theo đức Phật sanh về cõi ngài, tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy báu, trụ Bất Thối Chuyển, trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại.
2. Bậc trung là hạng tuy chẳng thể làm Sa Môn, nhưng tu các công đức lớn lao, phải phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, một dạ chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật, tu thiện ít nhiều, phụng trì trai giới, dựng tháp tạo tượng, đãi cơm Sa Môn, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương. Ðem những điều ấy hồi hướng nguyện sanh về cõi ấy thì người ấy lúc lâm chung, Vô Lượng Thọ Phật hóa hiện thân mình, quang minh tướng hảo đầy đủ như đức Phật thật, cùng các đại chúng hiện ra trước người ấy. Người ấy liền theo hóa Phật sanh về cõi kia, trụ Bất Thối Chuyển; công đức trí huệ kém hơn bậc thượng.
3. Bậc hạ là hạng giả sử chẳng thể làm các công đức, nhưng nên phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, một bề chuyên niệm, thậm chí thập niệm, niệm Vô Lượng Thọ Phật nguyện sanh về cõi kia. Nếu nghe pháp sâu xa sẽ hoan hỷ tin ưa, chẳng sanh ngờ vực; thậm chí một niệm niệm đức Phật ấy, dùng tâm chí thành nguyện sanh cõi kia. Người ấy lâm chung, mộng thấy đức Phật cũng được vãng sanh, công đức trí huệ kém hơn bậc trung.
* Trong đời tương lai, kinh đạo diệt hết. Do lòng từ mẫn, ta riêng lưu lại kinh này tồn tại trăm năm. Nếu có chúng sanh gặp được kinh này, tùy theo sở nguyện đều được độ thoát.
Nhận định:
Kinh này rộng giảng về hạnh nguyện của Phật A Di Ðà khi ngài còn đang tu nhân, y báo, chánh báo trang nghiêm và ba bậc vãng sanh đều lấy việc chuyên niệm làm Chánh Hạnh. Cuối kinh, Phật dạy trong tương lai khi kinh diệt hết, chỉ còn mình kinh này tồn tại trăm năm.
Kinh Ðại Tập chép: “Qua khỏi thời gian đó, kinh Vô Lượng Thọ cũng mất, Phật Pháp hoàn toàn biến mất. Chỉ trừ bốn chữ A Di Ðà Phật rộng độ quần sanh”. Há chẳng phải là pháp môn Trì Danh hạ thủ rất dễ mà lại nhiếp khắp các căn cơ, nhập đạo ổn thỏa mà hiệu quả mau chóng hay chăng? Ðủ chứng tỏ rằng càng về sau, pháp này càng khế hợp căn cơ vậy!
3. Trích dẫn Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh
* Muốn sanh sang cõi ấy nên tu ba phước:
- Một là hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp.
- Hai là thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi.
- Ba là phát Bồ Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Ðại Thừa, khuyến khích hành giả.
Ba sự như vậy gọi là Tịnh nghiệp, là chánh nhân Tịnh nghiệp của tam thế chư Phật.
* Chư Phật Như Lai là Pháp Giới Thân vào trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh. Vì thế, lúc tâm các ông tưởng Phật thì tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo. Tâm này là Phật, tâm này làm Phật. Biển Chánh Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm tưởng.
* Thượng Phẩm Thượng Sanh là nếu có chúng sanh nguyện sanh về cõi ấy, phát ba thứ tâm thì liền được vãng sanh: Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Ðủ cả ba tâm ấy ắt sanh về nước ấy.
Lại có ba hạng chúng sanh sẽ được vãng sanh:
– Một là từ tâm bất sát, đầy đủ các giới hạnh.
– Hai là đọc tụng kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng.
– Ba là tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh về cõi ấy.
Ðầy đủ các công đức này từ một ngày cho đến bảy ngày sẽ được vãng sanh. Lúc sanh trong cõi ấy, do người này dũng mãnh, tinh tấn nên A Di Ðà Như Lai và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn tỳ kheo, Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, cung điện bảy báu [đều hiện đến]. Quán Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cang cùng với Ðại Thế Chí Bồ Tát đến trước hành giả. A Di Ðà Phật phóng đại quang minh chiếu thân hành giả; các vị Bồ Tát đưa tay nghênh tiếp, tán thán hành giả, khích lệ tâm người ấy. Hành giả thấy xong, hoan hỷ, hớn hở, thấy thân mình nương đài kim cang theo sau đức Phật. Như trong khoảng khảy ngón tay, sanh về cõi kia.
Sanh cõi kia rồi, thấy đầy đủ các tướng nơi sắc thân Phật, thấy đầy đủ sắc tướng của các Bồ Tát, quang minh, rừng báu diễn thuyết diệu pháp. Nghe xong liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn; trong vòng khoảnh khắc, đến phụng sự các đức Phật, đi khắp các cõi trong mười phương. Ở trước chư Phật, lần lượt được thọ ký. Trở về cõi mình đắc vô lượng trăm ngàn đà ra ni môn. Ðấy gọi là Thượng Phẩm Thượng Sanh.
* Thượng Phẩm Trung Sanh thì bất tất phải thọ trì, đọc tụng kinh điển Phương Ðẳng, khéo hiểu nghĩa lý. Ðối với Ðệ Nhất Nghĩa, tâm chẳng kinh động. Tin sâu nhân quả, chẳng báng Ðại Thừa. Dùng công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh về cõi Cực Lạc. Thực hành hạnh ấy thì lúc lâm chung, A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, vô lượng đại chúng, quyến thuộc vây quanh, cầm đài tử kim đến trước hành giả, khen ngợi:
– Pháp tử! Ông hành Ðại Thừa, hiểu Ðệ Nhất Nghĩa. Vì vậy, ta nay đến đón ông.
Và một ngàn hóa Phật đồng thời đưa tay ra. Hành giả tự thấy ngồi trên đài tử kim, chắp tay khen ngợi chư Phật. Như trong khoảng một niệm, liền sanh trong ao thất bảo nơi cõi ấy. Ðài tử kim ấy như đóa hoa báu lớn, qua một đêm mới nở. Thân hành giả biến thành màu giống vàng ròng đã được giồi mài, dưới chân cũng có hoa sen bảy báu. Phật và Bồ Tát đồng thời phóng quang chiếu thân hành giả; mắt [hành giả] liền được mở sáng.
Do đã quen tu tập từ trước, hành giả sẽ nghe tất cả các thứ tiếng thuần nói Ðệ Nhất Nghĩa Ðế rất sâu; liền bước xuống kim đài lễ Phật, chắp tay, tán thán Thế Tôn. Qua bảy ngày sau sẽ liền đắc bất thối chuyển nơi A Nậu Ða La Tam Miểu Tam Bồ Ðề. Ngay khi đó, sẽ có thể bay đi qua khắp mười phương thờ khắp chư Phật. Ở chỗ chư Phật tu các tam muội. Qua một tiểu kiếp sẽ đắc Vô Sanh Nhẫn, hiện tiền thọ ký. Ðấy gọi là Thượng Phẩm Trung Sanh.
* Thượng Phẩm Hạ Sanh là hạng cũng tin nhân quả, chẳng báng Ðại Thừa, chỉ phát Vô Thượng Ðạo Tâm. Dùng công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh về cõi Cực Lạc. Lúc hành giả lâm chung, A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí cùng các Bồ Tát cầm hoa sen vàng, hóa hiện năm trăm vị Phật đến đón người ấy. Năm trăm vị Hóa Phật đồng thời xòe tay, khen rằng:
– Pháp tử! Ông nay phát Vô Thượng Ðạo Tâm thanh tịnh, ta đến đón ông.
Hành giả liền thấy mình ngồi trên hoa sen vàng. Ngồi xong, chắp tay, theo sau Thế Tôn, liền được vãng sanh trong ao thất bảo. Qua một ngày một đêm hoa sen mới nở. Trong vòng bảy ngày mới được thấy Phật. Tuy thấy thân Phật nhưng đối với các tướng hảo, tâm chẳng nhận biết rõ. Hai mươi mốt ngày sau, mới thấy rành rẽ. Hành giả nghe các âm thanh đều diễn diệu pháp. Ði qua khắp mười phương cúng dường chư Phật. Ở trước chư Phật nghe pháp rất sâu. Qua ba tiểu kiếp, chứng đắc bách pháp minh môn, trụ Hoan Hỷ Ðịa. Ðây gọi là Thượng Phẩm Hạ Sanh.
Ðó gọi là phép Quán Tưởng bậc thượng vãng sanh, là pháp quán thứ mười bốn.
* Trung Phẩm Thượng Sanh là nếu có chúng sanh thọ trì Ngũ Giới, trì Bát Trai Giới, tu hành các giới, chẳng tạo Ngũ Nghịch, không có các lầm lỗi. Dùng thiện căn ấy hồi hướng nguyện cầu sanh trong thế giới Cực Lạc thì lúc lâm chung, A Di Ðà Phật và các tỳ kheo quyến thuộc vây quanh, phóng kim sắc quang chiếu đến chỗ người ấy, diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, khen ngợi hạnh xuất gia được lìa các khổ.
Hành giả thấy thế tâm hoan hỷ lớn, tự thấy thân mình ngồi trên đài hoa sen, quỳ dài, chắp tay làm lễ đức Phật. Lúc chưa ngẩng đầu lên đã được vãng sanh thế giới Cực Lạc. Hoa sen sẽ dần nở. Lúc hoa sen nở, sẽ nghe các âm thanh khen ngợi Tứ Ðế. Ngay khi đó, hành giả liền đắc đạo A La Hán, tam minh, lục thông, đầy đủ tám giải thoát. Ðấy gọi là Trung Phẩm Thượng Sanh.
* Trung Phẩm Trung Sanh là nếu có chúng sanh trong vòng một ngày một đêm trì Bát Trai Giới, hoặc một ngày một đêm trì giới Sa Di, hoặc một ngày một đêm trì Cụ Túc Giới, chẳng khuyết oai nghi. Dùng công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh về cõi Cực Lạc, giới hương huân tu. Tu hành như thế thì lúc lâm chung thấy A Di Ðà Phật và các quyến thuộc phóng kim sắc quang, cầm hoa sen bảy báu đến trước hành giả. Hành giả tự nghe trên không trung có tiếng khen ngợi:
– Thiện nam tử! Người lành như ông tùy thuận lời dạy của tam thế chư Phật nên ta đến đón ông.
Hành giả thấy mình ngồi trên hoa sen, hoa sen liền khép lại, sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới trong ao báu. Qua bảy ngày sau, hoa sen mới nở. Hoa đã nở rồi, mở mắt, chắp tay, khen ngợi Thế Tôn. Hành giả nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu Ðà Hoàn. Sau nửa kiếp mới thành A La Hán. Ðấy gọi là Trung Phẩm Trung Sanh.
* Trung Phẩm Hạ Sanh là nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hiếu dưỡng phụ mẫu, tu hạnh nhân từ theo thế gian. Người ấy khi sắp mạng chung gặp thiện tri thức vì mình rộng giảng những sự thuộc về cõi Phật A Di Ðà và cũng nói đến bốn mươi tám nguyện của tỳ kheo Pháp Tạng. Nghe sự ấy xong, người ấy liền mạng chung. Ví như trong khoảng thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày sau mới gặp Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí, nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu Ðà Hoàn. Qua một tiểu kiếp mới thành A La Hán. Ðấy gọi là Trung Phẩm Hạ Sanh,
Ðây gọi là phép quán bậc Trung vãng sanh, là phép quán thứ mười lăm.
* Hạ Phẩm Thượng Sanh là nếu như có chúng sanh làm các nghiệp ác, tuy chẳng phỉ báng kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng, nhưng gây nhiều pháp ác chẳng hề thẹn hổ. Lúc mạng sắp dứt, gặp thiện tri thức giảng cho tựa đề, danh tự của mười hai thể loại kinh Ðại Thừa. Do nghe tên các kinh như thế, trừ được ác nghiệp rất nặng trong ngàn kiếp. Người trí lại dạy chắp tay, xưng “Nam Mô A Di Ðà Phật”. Do xưng danh hiệu Phật nên trừ được tội trong năm mươi ức kiếp sanh tử. Lúc bấy giờ, đức Phật kia liền sai Hóa Phật, Hóa Quán Thế Âm và Hóa Ðại Thế Chí đến trước hành giả, khen rằng:
– Thiện nam tử! Do ông xưng danh hiệu Phật nên các tội tiêu diệt, ta đến đón ông.
Nói lời ấy xong, hành giả liền thấy quang minh của Hóa Phật ngập tràn nhà mình. Thấy xong, hoan hỷ liền xả mạng, cưỡi hoa sen báu theo sau Hóa Phật, sanh trong ao báu. Qua bốn mươi chín ngày, hoa sen mới nở. Trong lúc hoa nở, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Ðại Thế Chí Bồ Tát phóng đại quang minh, đứng trước người ấy giảng cho mười hai bộ kinh rất sâu. Nghe xong, người ấy tin hiểu phát Vô Thượng Ðạo Tâm. Qua mười tiểu kiếp mới đầy đủ bách pháp minh môn, được nhập Sơ Ðịa. Ðấy gọi là Hạ Phẩm Thượng Sanh.
* Hạ Phẩm Trung Sanh là nếu có chúng sanh hủy phạm Ngũ Giới, Bát Giới và Cụ Túc Giới. Kẻ ngu như thế lấy trộm của Tăng Kỳ và vật của hiện tiền Tăng, bất tịnh thuyết pháp chẳng hề thẹn hổ; dùng các nghiệp để tự trang nghiêm. Kẻ tội như thế do ác nghiệp đáng đọa địa ngục; lúc sắp chết các thứ lửa địa ngục đồng thời hiện ra, gặp thiện tri thức do lòng đại bi giảng vì kẻ ấy khen nói thập lực oai đức của Phật A Di Ðà, rộng khen ngợi quang minh, thần lực của đức Phật ấy và cũng khen ngợi Giới, Ðịnh, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến.
Người ấy nghe xong, trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử; lửa dữ địa ngục trở thành gió trong mát, thổi các hoa trời. Trên mỗi hoa đều có Hóa Phật và Hóa Bồ Tát đón tiếp người ấy. Như trong khoảng một niệm, liền được sanh về trong hoa sen nơi ao bảy báu. Qua sáu kiếp, hoa sen mới nở. Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí dùng tiếng Phạm Âm an ủi kẻ đó, giảng cho kinh điển Ðại Thừa rất sâu. Nghe pháp ấy xong, ngay khi đó liền phát Vô Thượng Ðạo Tâm. Ðấy gọi là Hạ Phẩm Trung Sanh.
* Hạ Phẩm Hạ Sanh là nếu có chúng sanh làm điều chẳng lành, ngũ nghịch, thập ác, đủ những việc bất thiện. Người ngu như thế do ác nghiệp nên đáng đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp, thọ khổ vô cùng. Người ngu như thế lúc lâm chung, gặp thiện tri thức an ủi đủ cách, giảng cho diệu pháp, dạy hãy niệm Phật. Người ấy bị các nỗi khổ bức bách, chẳng yên tâm niệm Phật. Thiện hữu bảo rằng:
– Nếu ngươi chẳng thể niệm Phật thì hãy nên xưng Vô Lượng Thọ Phật!
Chí tâm như thế khiến cho tiếng niệm chẳng dứt, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Do vì xưng danh nên trong mỗi niệm, trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Lúc mạng chung, thấy hoa sen vàng như vầng mặt trời dừng trước người ấy. Như trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc. Ở trong hoa sen trọn mười hai đại kiếp thì hoa sen mới nở. Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí dùng âm thanh đại bi vì người ấy giảng rộng Thật Tướng của các pháp, trừ diệt tội pháp. Nghe xong hoan hỷ, ngay lập tức phát Vô Thượng Ðạo Tâm. Ðấy gọi là Hạ Phẩm Hạ Sanh.
Ðấy là phép quán bậc hạ vãng sanh, là phép quán thứ mười sáu.
Nhận định:
Kinh này trước hết giảng rõ ba phước là chánh nhân của Tịnh nghiệp, phát ba tâm liền được vãng sanh; cuối kinh giảng rõ về nhân quả của chín phẩm vãng sanh là để người nghiệp chướng nặng nề lấy Xưng Danh làm Chánh Hạnh. Do vì Xưng Danh trừ được tội trong nhiều kiếp nên liền được vãng sanh. Sách Long Thư Tịnh Ðộ Văn nhận định:
“Chí thành tâm là chí thành quy hướng, không hề cẩu thả.
Kiên cố tâm là kiên cố tu hành tinh tấn, chẳng thối chuyển.
Thâm tâm là dụng tâm sâu xa, thấu đạt tận cùng Tịnh Ðộ như mò đáy biển tìm ngọc.
Tam thế chư Phật và pháp giới chúng sanh đều do tâm tạo. Tâm ta như thế thì lẽ nào chẳng đạt được Thượng Phẩm Thượng Sanh?”
Tổ Linh Phong dạy: “Quán Kinh chuyên dạy cách quán tưởng, nhưng tâm lực kẻ phàm phu chẳng thể lãnh hội nổi phép quán thù thắng. Vì thế, trong phép quán thứ mười sáu, kinh đại khai pháp môn Xưng Danh thì biết rằng: căn cơ con người tuy độn nhưng danh tự của Vô Lượng Thọ chưa bao giờ chẳng phải là ‘tâm này làm Phật, tâm này là Phật’. Bởi vậy cứ xưng danh chẳng nhọc lòng quán tưởng”.
Tâm làm Phật tức là tâm tưởng niệm. Ấn Quang Ðại Sư dạy: “Phép quán chín phẩm chẳng qua chỉ là để cho người ta biết nhân quả vãng sanh đó thôi. Chỉ cần hiểu rõ là được, bất tất phải tu quán! Xin hãy nhất tâm trì danh cho đến khi tâm quy về một mối thì tịnh cảnh tự khắc sẽ hiện tiền!”
Về việc kinh chẳng nói xưng danh đủ mười lượt mà chỉ nói là mười niệm, cư sĩ Dương Nhân Sơn giảng: “Lúc xưng danh nhất tâm chuyên tinh, không có niệm nào khác xen tạp, gián đoạn, chỉ có ý niệm xưng danh. Mười niệm tiếp nối liền được vãng sanh”.
Ðiều này đủ chứng tỏ rằng chúng sanh đời mạt đa số nghiệp sâu chướng nặng, phải nên phát ra ba tâm, già dặn, chắc thật xưng danh và tùy duyên kiêm tu một hoặc hai thứ phước, hoặc tu đủ cả ba phước hồi hướng Tịnh Ðộ để mong phẩm vị được cao hơn.
4. Trích dẫn kinh Ðại Phật Ðảnh Thủ Lăng Nghiêm, chương Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông
Con nhớ trong hằng hà sa kiếp xưa có đức Phật tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy con Niệm Phật Tam Muội.
Ví như có người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên. Hai người như thế dù là gặp gỡ cũng như chẳng gặp, hoặc là thấy nhau cũng như là chẳng thấy. Hai người nhớ nhau thì hai người càng nhớ nghĩ sâu xa. Cứ như thế từ đời này sang đến đời khác giống như hình bóng chẳng hề xa rời nhau.
Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ trốn, mẹ dẫu nhớ vẫn chẳng làm gì được! Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con; mẹ con đời đời chẳng hề xa nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì trong hiện tại hoặc trong tương lai, nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng nhọc phương tiện tự được tâm khai…
Lúc con tu nhân, dùng tâm niệm Phật nhập Vô Sanh Nhẫn. Nay trong cõi này, nhiếp người niệm Phật quy về Tịnh Ðộ. Phật hỏi pháp Viên Thông, con chẳng chọn lựa. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc tam-ma-địa; ấy là bậc nhất.
Nhận định:
Kinh này dạy về pháp Niệm Phật Viên Thông: nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối; xoay về một mối, chẳng còn bị sáu thức sai sử nữa. Ấn Quang đại sư cho rằng đây là:
“Phương pháp dụng công niệm Phật tuyệt diệu nhất. Nhiếp trọn sáu căn tức là: Tâm niệm Phật chuyên chú vào danh hiệu Phật chính là thâu nhiếp ý căn. Miệng niệm Phật sao cho rành rẽ, rõ ràng chính là thâu nhiếp thiệt căn. Tai nghe sao cho rành mạch, rõ ràng chính là thâu nhiếp nhĩ căn. Ba căn này đã gom về câu Phật hiệu thì mắt quyết chẳng thể nhìn loạn xạ. Lúc niệm Phật mắt nên cụp xuống, tức là ánh mắt nhìn xuống, đừng mở to mắt. Mắt đã nhiếp thì mũi quyết chẳng thể ngửi xằng, tức là tỵ căn cũng bị nhiếp. Thân phải cung kính tức là thân căn cũng bị nhiếp.
Sáu căn đã nhiếp thì chẳng tán loạn nên tâm cũng không có vọng niệm. Ðấy mới là tịnh niệm. Nếu nhiếp được cả sáu căn mà niệm thì gọi là ‘tịnh niệm tiếp nối’. Nếu thường có thể giữ được tịnh niệm tiếp nối như thế thì Nhất Tâm Bất Loạn và Niệm Phật Tam Muội đều sẽ có thể dần dần đạt được.
Tam Ma Ðịa là tên gọi khác của Tam Muội, Hán dịch là Chánh Ðịnh, cũng dịch là Chánh Thọ. Chánh Ðịnh nghĩa là tâm an trụ trong Phật hiệu, chẳng còn ruổi chạy theo bên ngoài. Chánh Thọ nghĩa là chỗ mình nhận lấy chỉ duy nhất là cảnh duyên công đức của Phật hiệu, không còn hết thảy các cảnh duyên nào khác!”
Ðiều này đủ chứng tỏ: Do ức niệm Phật hiệu, nhất định sẽ thấy Phật, tâm tự được khai ngộ.
5. Trích dẫn kinh A Di Ðà Cổ Âm Thanh Vương Ðà Ra Ni
Tây Phương An Lạc thế giới hiện đang có Phật hiệu A Di Ðà. Nếu có tứ chúng có thể chơn chánh thọ trì danh hiệu Phật ấy, tấm lòng kiên cố, nhớ nghĩ chẳng quên, trong vòng mười ngày mười đêm trừ bỏ tán loạn, siêng năng tinh chuyên tu tập Niệm Phật Tam Muội. Nếu có thể giữ tâm sao cho niệm niệm chẳng dứt thì trong vòng mười ngày nhất định được thấy đức Phật A Di Ðà ấy và thấy các đức Như Lai trong mười phương thế giới và chỗ ở của các ngài. Chỉ trừ hạng chướng nặng, độn căn, trong khoảng thời gian ngắn chưa thể thấy được [thì cứ đem] hết thảy các thiện đều hồi hướng nguyện được vãng sanh thế giới An Lạc. Ðến ngày lâm chung, A Di Ðà Phật và các đại chúng hiện trước người ấy an ủi, khen ngợi, người ấy liền được vãng sanh.
Nhận định:
Theo kinh này trì danh mười ngày chẳng ngớt thì có thể thấy được Phật. Nếu là người chướng nặng, độn căn tuy nay chưa được thấy Phật, nhưng cứ hồi hướng nguyện sanh thì lúc lâm chung ắt sẽ được thấy, liền được vãng sanh. Ðiều này chứng tỏ trong ba thứ tư lương Tín – Nguyện – Hạnh, phải dùng Nguyện để dẫn đường.
6. Trích dẫn kinh Xưng Dương Chư Phật Công Ðức
Nếu có ai được nghe tên của Vô Lượng Thọ Như Lai mà nhất tâm tin ưa, trì tụng, phúng niệm, khởi lên vô lượng hoan hỷ rộng xa, an lập ý mình khiến cho lòng tin chắc chắn, chân thật mười vạn ức phần, niệm đức Như Lai ấy thì kẻ đó sẽ được vô lượng phước, sẽ vĩnh viễn xa lìa nạn tam đồ. Sau khi mạng chung đều sẽ vãng sanh về cõi đức Phật ấy. Lúc sắp lâm chung, nhất tâm tin ưa, niệm chẳng quên bỏ thì A Di Ðà Phật dẫn các tỳ kheo Tăng đứng trước mặt, Ma trọn chẳng thể hủy hoại tâm chánh giác của những người ấy.
Nếu ai vào lúc tối hậu, nghe nói đến danh hiệu của A Di Ðà Như Lai, khen ngợi rồi tin tưởng chẳng hồ nghi, dùng tâm tương kính, dốc lòng niệm ngài như nghĩ đến mẹ, tất cả những người ấy sẽ được thỏa mãn các nguyện nơi cõi đức Phật ấy. Còn kẻ nào chẳng tin tưởng, khen ngợi, xưng dương công đức của danh hiệu Phật A Di Ðà lại còn báng hủy thì trong năm kiếp phải đọa địa ngục, chịu đủ các khổ.
Nhận định:
Theo kinh này, ai được nghe danh hiệu Phật tin ưa trì niệm đều sẽ được sanh trong cõi Phật ấy. Dù nghe danh ngài vào lúc tối hậu, nhưng chỉ cần tín niệm thiết tha thì cũng được vãng sanh. Ðã chẳng tin mà còn hủy báng thì sẽ bị đọa địa ngục. Ðiều này chứng tỏ: Trong pháp môn Trì Danh, Tín là điều trọng yếu!
7. Trích dẫn kinh Phật Thuyết Quán Ðảnh Tùy Nguyện Vãng Sanh Thập Phương Tịnh Ðộ Phổ Quảng Sở Vấn
Phổ Quảng Bồ Tát bạch Phật rằng:
– Cõi nước Phật tịnh diệu trong mười phương có sai biệt hay chăng? Vì lẽ nào đức Thế Tôn khen ngợi cõi Phật A Di Ðà rằng: “Những người nguyện vãng sanh thuận theo điều nguyện trong tâm họ, chỉ trong một niệm liền tới ngay đó?”
Phật dạy:
– Thế giới Ta Bà con người nhiều tham trược. Người tin tưởng theo thì ít, kẻ tu tập tà vạy thì nhiều; chẳng tin chánh pháp, chẳng thể chuyên nhất, tâm loạn vô chí. [Các cõi Phật] thật sự không sai biệt, nhưng để cho các chúng sanh có nơi chuyên tâm nên ta khen ngợi cõi nước kia mà thôi! Những kẻ vãng sanh ắt tùy theo ý nguyện mỗi người, không ai chẳng đắc quả!
Nhận định:
Kinh này minh thị: Chúng sanh căn độn, trược loạn nhiều nên Phật muốn cho họ chuyên tâm một cảnh, dễ được vãng sanh. Ðủ chứng tỏ rằng: Ðiều trọng yếu hàng đầu của Tịnh nghiệp hành nhân là chuyên tu.
8. Trích dẫn kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
* Thà chịu khổ địa ngục,
Mà được nghe tên Phật.
Chẳng hưởng vô lượng vui,
Mà chẳng nghe tên Phật.
Lấy Phật làm cảnh giới,
Chuyên niệm nhưng chẳng niệm.
Người ấy được thấy Phật,
Số nhiều như tâm lượng.
* Phổ Hiền Bồ Tát bảo các vị Bồ Tát và Thiện Tài rằng:
– Này thiện nam tử! Nếu muốn thành tựu môn công đức này thì nên tu mười thứ nguyện hạnh rộng lớn: Một là lễ kính chư Phật, hai là khen ngợi Như Lai, ba là rộng tu cúng dường, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỷ công đức, sáu là thỉnh chuyển pháp luân, bảy là khuyên Phật trụ thế, tám là thường học theo Phật, chín là luôn tùy thuận chúng sanh, mười là đều hồi hướng hết cả….
Nếu lại có người dùng tâm thâm tín, đối với các đại nguyện này thọ trì, đọc tụng cho đến biên chép một bài kệ bốn câu thì sớm có thể trừ diệt được nghiệp Ngũ Vô Gián. Lúc sắp mạng chung, trong sát na cuối cùng, hết thảy các căn thảy đều tan hoại, chỉ còn nguyện vương này chẳng hề bỏ lìa, trong hết thảy thời nó luôn dẫn đường đằng trước, trong khoảng sát na liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc.
* Kệ rằng:
Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung,
Trừ sạch hết thảy các chướng ngại,
Diện kiến đức Phật A Di Ðà
Liền được vãng sanh cõi An Lạc
Tôi đã vãng sanh cõi ấy rồi
Hiện tiền thành tựu đại nguyện này
Viên mãn hết thảy không còn sót,
Lợi lạc hết thảy chúng sanh giới,
Chúng hội của Phật đều thanh tịnh.
Khi ấy, tôi sanh trong sen đẹp
Tận mặt thấy Phật Vô Lượng Quang
Hiện tiền thọ ký Bồ Ðề quả.
Nhận định:
Theo kinh này, chỉ nghe được danh hiệu của Phật là đã gieo trồng cái nhân thù thắng, chuyên niệm chẳng ngơi, lại phát hạnh nguyện rộng lớn thì nhất định được vãng sanh gặp Phật. Ðiều này chứng tỏ danh hiệu Phật công đức chẳng thể nghĩ bàn, công đức của hạnh nguyện cũng chẳng thể nghĩ bàn. Bởi thế, trong kinh Vô Lượng Thọ, trước hết thuật hạnh nguyện Phổ Hiền để khuyến tấn hành giả. Xin hãy lấy Trì Danh làm Chánh Hạnh, dùng Tín Nguyện dẫn đường, nhất tâm chuyên niệm, chẳng xen tạp các nghiệp khác!
9. Trích dẫn kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà Ra Ni
Phật dạy:
– Quán Thế Âm Bồ Tát đây, hết thảy trời, người thường phải nên cúng dường, chuyên xưng danh hiệu thì được vô lượng phước, diệt vô lượng tội, mạng chung sanh về cõi A Di Ðà Phật.
Nhận định:
Kinh này minh thị: Chuyên xưng thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ hưởng phước, diệt tội, mạng chung vãng sanh, đủ chứng tỏ công đức xưng danh ngài chẳng khác gì công đức niệm Phật. Xin hãy niệm kèm thêm danh hiệu ngài ngoài lúc niệm Phật. Nếu gặp phải hoạn nạn, hãy nên chuyên niệm Quán Âm vì đức Quán Âm bi tâm cực thiết, thay Phật rủ lòng từ cứu khổ, cảm ứng rất mau.
10. Trích dẫn kinh Văn Thù Sư Lợi Phát Nguyện
Nguyện tôi lúc mạng chung
Trừ diệt các chướng ngại
Diện kiến A Di Ðà
Vãng sanh cõi An Lạc,
Sanh cõi Phật ấy xong
Thành mãn các đại nguyện
A Di Ðà Như Lai,
Hiện tiền thọ ký tôi
Nhận định:
Kinh Bi Hoa nói Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát được Phật thọ ký: trong tương lai sẽ thành Phật ở thế giới Thanh Tịnh Vô Cấu Bửu Trí nơi phương Nam, hiệu là Phổ Hiện. Phổ Hiền Bồ Tát được Phật thọ ký trong tương lai sẽ thành Phật ở phương Bắc trong thế giới Tri Thủy Thiện Trụ Tịnh Công Ðức, hiệu là Trí Cang Hống Tự Tại Tướng Vương. Cả hai vị đều phát nguyện vãng sanh Cực Lạc thế giới đủ thấy tầm trọng yếu của việc phát nguyện. Bọn phàm phu chúng ta phải sớm học đòi phát nguyện theo, chẳng được coi thường!
11. Trích dẫn kinh Văn Thù Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Hành như thế nào để mau đắc A Nậu Bồ Ðề?”
Phật dạy: “[Hãy hành] Nhất Hạnh Tam Muội. Thiện nam tử, thiện nữ nhân tu tam muội này thì mau đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề”.
Văn Thù Sư Lợi thưa: “Thế nào là Nhất Hạnh Tam Muội?”
Phật dạy: “Pháp giới nhất tướng, buộc duyên nơi pháp giới gọi là Nhất Hạnh Tam Muội. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn nhập Nhất Hạnh Tam Muội thì hãy ở chỗ vắng vẻ, bỏ các loạn ý, chẳng giữ lấy tướng mạo, buộc tâm nơi một đức Phật, chuyên xưng danh hiệu, tùy theo đức Phật đó ở chốn nào thì đoan chánh thân thể hướng thẳng về đó. Nếu có thể trong mỗi niệm luôn nghĩ nhớ về một đức Phật thì ngay trong mỗi niệm thấy được chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì sao vậy? Công đức niệm một đức Phật vô lượng, vô biên, chẳng khác gì công đức niệm vô lượng chư Phật. Nếu đắc Nhất Hạnh Tam Muội thì đều hiểu rõ hết thảy pháp môn trong các kinh”.
Nhận định:
Kinh này minh thị: Nếu muốn mau được thành Vô Thượng Phật Quả thì phải nên tu Nhất Hạnh Tam Muội, chẳng chấp lấy tướng mạo, chuyên xưng Phật danh, chẳng cần phải quán tưởng hay tham cứu chi cả!
12. Trích dẫn kinh Phật Thuyết Quán Phổ Hiền Hạnh Pháp
Cách sám hối của hàng vương giả, đại thần, cư sĩ, tể quan, mọi người như sau:
Một là phải chánh tâm, chẳng báng Tam Bảo, chẳng chướng ngại người xuất gia, chẳng làm điều ác, gây khó dễ cho người phạm hạnh, phải hệ niệm tu pháp Lục Niệm.
Hai là hiếu dưỡng phụ mẫu, cung kính sư trưởng.
Ba là dùng chánh pháp trị quốc, chẳng tà uổng nhân dân.
Bốn là trong sáu ngày trai, trong tất cả các chốn thuộc quyền cai quản của mình ra lệnh chẳng được sát sanh.
Năm là hãy nên tin sâu nhân quả, tin đạo Nhất Thật, biết Phật chẳng diệt.
Nếu có ai tu tập pháp sám hối này thì chư Phật sẽ hộ trợ, chẳng lâu sau sẽ thành A Nậu Bồ Ðề.
Nhận định:
Những điều dạy ở đây chỉ đại đồng tiểu dị so với ba phước trong Quán Kinh, đủ tỏ rõ: vua, quan tu Tịnh nghiệp phải nên theo đúng như kinh này mà tu tập sám hối thì mới thành được tịnh nhân.
13. Trích dẫn Thiền Tông Bí Mật kinh
Lúc bấy giờ, Tịnh Pháp Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật:
– Khi trước đức Như Lai thuyết pháp dạy các chúng sanh chỉ cần tịnh tâm mình, nếu ai tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Lại nói: “Hết thảy chúng sanh niệm danh hiệu A Di Ðà Phật quyết định sanh Tịnh Ðộ”. Nếu như tâm tịnh cõi Phật sẽ tịnh thì tịnh tâm lập địa thành Phật, cần gì phải niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ? Nếu để tịnh cõi nước cần phải niệm Phật thì sao Như Lai lại bảo: “Hết thảy tâm tịnh thì cõi Phật tịnh?” Xin giảng về hai pháp môn này để người học Thiền Na và chúng sanh niệm Phật không còn khởi lên nghi hoặc, gièm báng lẫn nhau, trở ngại nẻo tu hành.
Phật dạy:
– Này thiện nam tử! Khi xưa, lúc Như Lai thuyết pháp từng đã nói hai thứ phương tiện như thế, nhưng chúng sanh kia chẳng hiểu ý nghĩa niệm Phật Như Lai đã nói, cũng chẳng thông đạt ý chỉ “tâm tịnh thời Phật độ tịnh” của Như Lai đã giảng, chỉ chấp trước văn tự, cho rằng: Niệm Phật chỉ là khẩu niệm, chẳng biết niệm bằng tâm niệm. Niệm niệm chẳng tạp, niệm niệm chẳng đoạn, niệm niệm là Phật. Phật ở trong tâm ông, tâm ông làm Phật, ngay nơi sắc thân của chính mình thành tựu huệ thân. Tu Tịnh Ðộ cũng phải nên như thế.
Nay chúng sanh điên đảo, miệng tuy niệm Phật, tâm chẳng khế hợp với Phật, mình cùng Phật sai khác thì Tịnh Ðộ càng xa. Còn như Duy Tâm Tịnh Ðộ vốn là để dạy các chúng sanh tu tập Thiền Ðịnh nhất tâm bất loạn. Buông bỏ hết thảy lợi dục trần lao, phiền não vọng tưởng, một tấc linh đài rỗng rang, thông suốt, thầm thầm, lặng lặng, trạm tịch vô vật. Ðó gọi là “tịnh tâm”. Do tâm thanh tịnh nên đạo tràng của đức Phật chơn thật sẵn có của ta chẳng nhiễm, chẳng uế. Như nay chúng sanh tu tập Thiền Ðịnh, vọng tưởng Nhân, Ngã rối bời trong tâm, hợm mình, khinh người, thích a dua, xu lợi, cậy mình thế cả, giàu to, thích kết giao người quyền quý. Cái niệm ban đầu của việc tọa thiền chẳng biết, chẳng hay, sa vào lưới tục, dù cho có những khổ hạnh từ trước cũng đều thành căn nguyên phú quý. Tâm đã chẳng tịnh, làm sao tịnh cõi Phật được? Vì thế, trước kia, Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức là chẳng phải là trang nghiêm.
Này thiện nam tử! Nếu kẻ nào tu tập Thiền Ðịnh mà thật sự có thể nhập Phật tri kiến, duy tâm Tịnh Ðộ thì Phật biết là người ấy quyết định thành Phật. Người niệm Phật kia duy tâm niệm Phật quyết định sanh về Tịnh Ðộ. Còn nếu cả hai điều ấy đều chẳng đạt được thì đường Bồ Ðề xa vời, tự mất công đức, chớ báng Như Lai!
Nhận định:
Dùng kinh này để chứng minh thì Thiền lẫn Tịnh đều thuộc Duy Tâm, đều là phương tiện nhập môn, nhưng niệm danh hiệu Phật thật là phương tiện tối thắng trong các phương tiện, so ra thật khế cơ. Xin hãy thâm nhập một môn, chẳng cần phải song tu, thật chẳng thể gièm báng lẫn nhau.
14. Trích dẫn kinh Tọa Thiền Tam Muội Pháp Môn
Bồ Tát tọa thiền chẳng niệm hết thảy, chỉ niệm một đức Phật liền được tam muội.
Nhận định:
Theo kinh này, Tọa Thiền chỉ niệm Phật, đủ chứng tỏ Thiền, Tịnh bất nhị. Ðiểm bất đồng chỉ là Thiền trọng minh tâm kiến tánh, Tịnh trọng Tín – Nguyện – Hạnh mà thôi.
15. Trích dẫn Vô Lượng Thọ Kinh Luận của Thiên Thân Bồ Tát
Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu Ngũ Niệm Môn, thực hành thành tựu thì rốt ráo được sanh về cõi nước An Dưỡng, gặp đức A Di Ðà Phật.
1. Một là Lễ Bái Môn: Thân nghiệp lễ bái A Di Ðà Như Lai để sanh về cõi ấy.
2. Hai là Tán Thán Môn: khẩu nghiệp khen ngợi, xưng danh hiệu đức Phật ấy như quang minh trí tướng của đức Phật ấy, như danh nghĩa của đức Phật ấy vì muốn được như thật tu hành tương ứng vậy.
3. Ba là Tác Nguyện Môn: Tâm thường phát nguyện, nhất tâm chuyên niệm, rốt ráo sanh về cõi nước An Lạc, vì muốn được như thật tu hành Xa Ma Tha vậy.
4. Bốn là Quán Sát Môn: Trí huệ quán sát, chánh niệm quán sát cõi ấy, vì muốn như thật tu hành Tỳ Bát Xá Na vậy. Quán Sát gồm có ba: Một là quán sát công đức trang nghiêm của cõi ấy, hai là quán sát công đức trang nghiêm của đức Phật A Di Ðà, ba là quán sát công đức trang nghiêm của các vị Bồ Tát cõi ấy.
5. Năm là Hồi Hướng Môn: Chẳng bỏ hết thảy chúng sanh khổ não, tâm thường phát nguyện, lấy hồi hướng làm đầu vì được thành tựu tâm đại bi vậy.
Nhận định:
Bồ Tát tông Vô Lượng Thọ Kinh bèn soạn Nguyện Sanh Kệ Luận. Hễ ai thấy nghe đều nguyện vãng sanh nên còn có tên là Vãng Sanh Luận. Cùng với kinh A Di Ðà, kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh, luận này hợp thành Tịnh Tông Tam Kinh Nhất Luận. Ðại sư Ðàm Loan chú giải như sau:
“Danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai ấy là tướng trí huệ, phá được vô minh của hết thảy chúng sanh, thỏa mãn chí nguyện của hết thảy chúng sanh. Nhưng nếu có ai xưng danh, ức niệm mà vô minh vẫn còn, chẳng được thỏa mãn chí nguyện thì là do chẳng tu hành như thật, do chẳng tương ứng với danh nghĩa, nghĩa là: chẳng biết Như Lai là thân Thật Tướng. Có ba điều chẳng tương ứng:
– Một là tín tâm chẳng thuần vì hoặc còn, hoặc mất.
– Hai là tín tâm bất nhất vì không quyết định.
– Ba là tín tâm chẳng liên tục, vì các niệm khác xen vào.
Ba câu này lần lượt lập thành lẫn nhau: Do tín tâm chẳng thuần nên tâm không quyết định. Do không quyết định nên niệm chẳng liên tục. Cũng có thể bảo là vì niệm chẳng liên tục nên chẳng được quyết định, vì chẳng được quyết định nên tâm chẳng thuần. Không có những điều ấy thì gọi là như thật tu hành tương ứng.
Hồi hướng có hai điều:
1. Một là vãng tướng: đem công đức của chính mình hồi thí hết thảy chúng sanh, nguyện cùng vãng sanh cõi Phật An Lạc của A Di Ðà Như Lai.
2. Hai là hoàn tướng: Ðã sanh trong cõi ấy rồi, được thành tựu sức phương tiện Xa Ma Tha, Tỳ Bát Xá Na rồi trở vào rừng rậm sanh tử, giáo hóa hết thảy chúng sanh cùng hướng đến Phật đạo.
Dù là Vãng hay Hoàn đều là cứu vớt chúng sanh vượt qua biển sanh tử, cho nên bảo Hồi Hướng làm đầu vì được thành tựu tâm Ðại Bi vậy!”
Bản chú giải này lâu ngày đã thất lạc. Ðến cuối đời Thanh, cư sĩ Dương Nhân Sơn mới tìm lại được ở Nhật Bản, khắc bản lưu hành trong đời. Ấn Quang đại sư đem in vào cuối cuốn Thập Yếu. Ðiều này cho thấy: trong khóa lễ sáng tối, cần phải lễ Phật, tán thán, phát nguyện, hồi hướng. Chỉ có mỗi Quán Sát Môn thuộc về Quán Tưởng Niệm Phật, kẻ trì danh bất tất phải kiêm tu.
16. Trích dẫn Ðại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh Bồ Tát
Như Lai có phương tiện thù thắng nhiếp hộ tín tâm, nghĩa là: Dùng nhân duyên chuyên ức niệm Phật để tùy nguyện được sanh về cõi Phật ở phương khác, thường gặp đức Phật, vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo như Khế Kinh nói: “Nếu ai chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A Di Ðà Phật, đem tất cả thiện căn hồi hướng, nguyện cầu sanh về thế giới ấy liền được vãng sanh. Vì thường thấy Phật nên trọn chẳng thối chuyển”.
Nhận định:
Ðây là lấy Niệm Phật làm phương tiện thù thắng, tùy nguyện được vãng sanh và dẫn kinh để làm chứng.
17. Trích dẫn Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của Long Thọ Bồ Tát
Phật pháp có vô lượng môn như đường thế gian có khó, có dễ. Ði đường bộ thì khổ, đi đường thủy ngồi thuyền thì sướng. Bồ Tát đạo cũng thế! Hoặc có kẻ thì siêng hành tinh tấn, hoặc có người dùng Tín làm phương tiện, dễ đi mà chóng đạt A Duy Việt Trí. Nếu ai muốn mau đạt đến địa vị Bất Thối Chuyển thì hãy nên dùng tâm cung kính, chấp trì xưng danh hiệu.
Nhận định:
Luận này chứng minh các pháp môn khác đều là Nan Hành Ðạo, chỉ mỗi Tín Nguyện Trì Danh là Dị Hành Ðạo.
Trí Giả đại sư nói: “Nan Hành là trong đời ác ngũ trược, vào lúc không có Phật mà cầu A Bệ Bạt Trí thì thật khó đạt được. Như người thọt chân, một ngày bất quá đi được mấy dặm, hết sức nhọc nhằn, đó là nói về Tự Lực.
Dị Hành đạo là tin lời Phật dạy Niệm Phật tam muội, nguyện sanh Tịnh Ðộ, nương vào nguyện lực nhiếp trì của Phật A Di Ðà, quyết định vãng sanh. Như người theo đường thủy, đi bằng sức thuyền, trong khoảnh khắc đã đi ngàn dặm. Ðó là nói về Tha Lực vậy!”
A Duy Việt Trí tức là A Bệ Bạt Trí, dịch là Bất Thối Chuyển. Ðoạn luận này chứng rõ: Bỏ khó theo dễ, vãng sanh Cực Lạc liền được bất thối chuyển.
18. Trích dẫn Tây Phương Xác Chỉ của Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát
* Nếu niệm Phật chẳng thể nhất tâm thì chỉ dứt ý tưởng lo cầu đắc định, cứ từ từ niệm, cốt sao tiếng hợp với tâm, tâm nương theo tiếng. Niệm lâu ngày, tự được các niệm lặng trong, tâm cảnh tuyệt chiếu, chứng nhập Niệm Phật Tam Muội. Nhưng thường ngày cần phải niệm cho nhiều, từ ngàn niệm đến vạn niệm. Tâm không gián đoạn thì căn khí mới dễ thành thục nhất. Nếu cưỡng ép tâm chuyên nhất thì trọn chẳng chuyên nhất nổi.
* Kệ rằng:
Nói ít một câu chuyện
Niệm nhiều một câu Phật
Ðánh chết được vọng niệm
Pháp thân ngươi hiển lộ
* Tâm hành xứ diệt là chơn tâm thường trụ của chư Phật. Tâm hành xứ hữu là nghiệp tâm sanh tử của chúng sanh, chẳng có kẽ hở bằng tơ tóc. Nếu các ông có thể miên mật gia công, khiến cho cái tâm này không chút hở trống thì mới được tương ưng đôi phần. Ðừng tu sơ sài nửa năm, mười tháng rồi tự cho là mình đã khổ tâm tu đạo, chẳng biết rằng đấy chính là điều chướng đạo, cần phải dè chừng.
Hơn nữa, dẫu gia công tu tập mạnh mẽ nhưng nếu chưa đạt đến mức như tường đồng, vách sắt, đẩy chẳng đổ, dời chẳng lay thì vẫn chưa tạo thành một phiến [nhất tâm], chớ nên thấy có chút ảnh hưởng đã ngừng tay. Ấy là nửa đường bỏ dở, đến nỗi phí hết công lao khi trước, chẳng lợi ích mảy may. Ðây chính là căn bịnh lớn của người học đạo, các ông chẳng nên không biết!
Cần phải biết rằng: Phật pháp như biển cả, càng vào bên trong càng thấy sâu, dứt khoát chẳng thể dùng chút tri kiến nhỏ nhoi hòng lãnh hội được hết nổi. Phải tu tập suốt đời, gắng hết sức tu tập, đừng nghĩ là dễ dàng.
* Niệm Phật Tam Muội là từ đại thế lực nơi tâm ông tạo thành chứ chẳng phải là do cái khác mà có. Nay các ông niệm Phật suốt ngày đêm vẫn chẳng được nhất tâm, loạn tưởng vẫn còn cách trở chơn tâm đều là vì chưa tận lực dụng tâm.
* Tâm vốn vô niệm, hễ niệm thì tưởng sanh. Tưởng ấy hư vọng, lưu chuyển sanh tử. Nên biết: Một câu A Di Ðà Phật đây chẳng từ tưởng sanh, chẳng từ niệm có; chẳng trụ vào trong hay ngoài; chẳng có tướng mạo thì các vọng tưởng chấm dứt. Thân thanh tịnh vi diệu chơn thật của Như Lai chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng thể phân biệt. Niệm như thế thì phiền não trần lao liền chẳng đoạn, chẳng trói, chỉ là nhất tâm. Phải đạt nhất tâm mới gọi là chấp trì danh hiệu, mới gọi là nhất tâm bất loạn, Tịnh nghiệp thành tựu, chứng ngay vào thượng phẩm.
Phàm phu đời trược tâm trí cạn cợt, kém cỏi, chưa thể thâm đạt chí lý nên phát đại nguyện, nguyện sanh về Cực Lạc. Sau đó, chí thành khẩn thiết xưng niệm A Di Ðà Phật sao cho tiếng niệm duyên theo tâm, tâm duyên theo tiếng, tiếng và tâm nương dựa lẫn nhau như mèo rình chuột, lâu ngày chẳng mất thì nhập chánh ức niệm tam muội.
* Người tu Tịnh nghiệp: đi, đứng, nằm, ngồi, đứng lên, ngồi xuống, ăn uống đều nên hướng về phương Tây thì sự cơ cảm dễ thành, căn cảnh dễ thuần thục. Trong thất chỉ bày một tượng Phật, một quyển kinh, một lò hương, một cái bàn, một cái giường, một cái ghế, chẳng được bày nhiều thứ khác. Trên sân cũng quét dọn thanh tịnh để đi kinh hành không trở ngại gì.
Cần giữ cho tâm này chẳng vướng bận mảy may gì, quên hết muôn mối lo, trống rỗng, chẳng biết có thân, chẳng hay có đời, cũng chẳng biết việc mình đang làm ngày nay là việc tu hành. Ðược vậy thì ngày càng gần với đạo, ngày càng cách xa đời, mới xu hướng Tịnh nghiệp được. Lúc bình thời ông đã có thể buông bỏ sạch hết thảy sự, trong ý niệm chẳng còn chút vướng mắc nào thì khi đại hạn xảy đến, thanh thản, thảnh thơi, chẳng có ý tưởng lưu luyến con cái, nuối tiếc tấm thân, con cháu, há chẳng phải là hành vi của bậc đại trượng phu ư?
Bởi vậy, ông nên nhất ý tu hành, chẳng còn dính mắc điều gì khác nữa. Ðó chính là điều then chốt nhất. Còn như cách thức Tịnh tu thì chẳng ngoài hai chữ ‘chuyên cần’. Chuyên là chẳng làm chuyện gì khác. Cần chẳng bỏ uổng lúc nào.
Nay ông sáng dậy liền tụng một quyển kinh Di Ðà, trì một ngàn câu A Di Ðà Phật, đối trước Phật hồi hướng, niệm bài Nhất Tâm Quy Mạng vì bài này lời lẽ giản dị nhưng ý nghĩa súc tích. Ðấy chính là công khóa trong một thời. Nếu như lúc sơ khởi, thân tâm còn chưa yên thì mỗi ngày chỉ hành trì bốn thời. Ðã hơi yên thì dần dần tăng đến sáu thời, lại tăng dần đến mười hai thời: tụng được mười hai quyển kinh, niệm danh hiệu Phật một vạn hai ngàn tiếng. Trong lúc hồi hướng lại lễ Phật trăm lạy, cũng có thể chia làm bốn thời. Ðấy là thường khóa mỗi ngày. Những lúc khác chẳng cần tính vô số ấy.
Dù niệm thầm hay niệm ra tiếng đều phải nhiếp tâm niệm chắc chắn mà thôi… Trong pháp trì danh, cần phải mỗi câu mỗi chữ, tâm và tiếng phải nương theo nhau, chẳng được xen tạp mảy may ý niệm thế tục. Lâu ngày thành thục, quyết định được vãng sanh Cực Lạc, ngồi trên hoa sen báu, đạt lên địa vị Bất Thối. Nếu năm tháng tuổi già chưa hết, do ông đã chứng đắc như thế, ông sẽ dạy dỗ đại chúng hòng báo ân sâu của Phật.
* Khi tụng kinh phải đều đặn, bình tịnh, đừng hoãn đãi, đừng gấp gáp, chẳng nhanh, chẳng chậm. Niệm Phật cần phải từng tiếng ứng theo tâm, chẳng thô tháp, chẳng lao chao, chẳng hư phù, chẳng trầm trệ mà niệm. Ðến lúc hồi hướng, chẳng phải là tụng bản văn Hồi Hướng một lượt là xong, mà phải từ trong tâm mình phát ra lời nguyện Ðại Bồ Ðề chơn chánh, chí thành khẩn thiết, nguyện khắp hết thảy chúng sanh cùng vãng sanh Cực Lạc, nhưng tâm mình chẳng chấp trước hệt như hư không. Ðấy gọi là hồi hướng.
Lại khi tịnh tọa, nên phản quán thâm cứu: Phật chính là tâm ta, tâm này là Phật, chẳng cần phải cầu tự bên ngoài, đúng như tâm mà trụ, không năng, không sở. Quán sát đúng đắn, chắc chắn như thế không còn có niệm khác thì gọi là tu hành tam muội. Cẩn thận chớ quên mình, tâm nguội lạnh như đã chết, kẻo lại lạc vào tri kiến của ma tà ngoại đạo. Ngồi tịnh tọa một thời như vậy xong liền đứng dậy đi kinh hành, rồi lại trì tụng theo thứ tự.
Nếu cứ gấp gấp gáp gáp làm liền một hơi, cho là đã hoàn tất khóa tụng của một ngày nhưng rốt cục thành ra tụng niệm cẩu thả, chẳng phải là tu hành chơn chánh vậy. Ðại để, người học đạo chẳng tuân lời tri thức răn dạy thì nhất định sẽ nhọc nhằn nhưng vẫn vô ích, chưa được lâu đã nản. Cẩn thận, cẩn thận!
Thêm nữa, đối với những thứ chánh báo, y báo trang nghiêm cõi Tịnh Ðộ được giảng trong các kinh, ông phải giảng, tụng minh bạch. Giả sử lúc tịnh tọa hoặc kinh hành hoặc khi lễ tụng, nếu như Tịnh Ðộ hiện tiền thì hiểu biết rành rẽ, chẳng bị dị cảnh mê hoặc.
* Phàm hết thảy tướng nhân ngã, tướng danh lợi, tướng sân hỷ v.v… trong thế gian chẳng phải chỉ phát xuất từ nơi thân, mà nó phát xuất từ lưới trần dằng dặc từ trước. Hễ tâm vướng mắc đôi chút liền tạo thành nhân duyên chướng đạo. Ông cần phải hiểu rõ như thế! Ông chỉ cần thân lễ A Di Ðà Phật, miệng tụng A Di Ðà, tâm niệm A Di Ðà, chẳng hề có chút mảy may ý niệm nào khác liền sạch làu trần cấu, xé nát lưới trần, sanh về cõi Cực Lạc.
* Nếu lo thân mình bị ràng buộc trong lưới rập thế sự, ý niệm chẳng được thanh tịnh thì chỉ cần phát nguyện xa lìa, cầu giải thoát, đem tâm khăng khăng quy hướng thế giới Cực Lạc gặp Phật A Di Ðà thay cho cái tâm bon chen danh lợi liền có thể dứt trần lao, bước trên đường giác.
* Nói chung, người tu Tịnh Ðộ kỵ nhất là xen tạp. Thế nào là xen tạp? Tức là vừa tụng kinh, vừa trì chú, vừa kết hội, lại ưa nói đôi chút về sự khẩn yếu của Thiền, lại ưa bàn những chuyện cát hung, họa phước, thấy thần, gặp quỉ. Ðấy chính là xen tạp. Ðã xen tạp thì tâm chẳng chuyên nhất. Tâm chẳng chuyên nhất thì khó thấy Phật vãng sanh, phí uổng cả một đời. Nay ông chớ nên làm như thế, chỉ khẩn thiết trì một câu A Di Ðà Phật, cầu sanh về Cực Lạc. Lâu ngày công hạnh thành tựu, mới là chẳng sai lầm vậy.
* Có bịnh vẫn còn chưa chết thì nên dứt mọi buộc ràng, an tâm đoan tọa, niệm thân vô thường, niệm thế vô thường. Tất cả vọng duyên buông bỏ xuống hết, từ từ niệm một câu A Di Ðà Phật, tự nhiên lục trần chẳng sanh, nhất tâm thanh tịnh thì chẳng những lành được căn bịnh trong đời này mà căn bịnh sanh tử cũng nhờ đó được dứt khỏi.
Nhận định:
Bồ Tát minh thị: Cách thức tu hành chẳng ngoài hai chữ: Chuyên là chẳng làm việc nào khác, Cần là chẳng hề bỏ uổng lúc nào, lâu ngày thành thục, quyết định được sanh về Cực Lạc. Ðủ thấy: nếu có thể đem cái tâm quy hướng Cực Lạc đánh đổi cái tâm bon chen danh lợi, buông xuống vạn duyên, nhiếp tâm niệm nhiều thì dần dần sẽ nhập Niệm Phật Tam Muội, lâm chung quyết sanh Cực Lạc vậy!
19. Trích dẫn Lược Luận An Lạc Tịnh Ðộ Nghĩa của Ðàm Loan đại sư
Ví như có người ở chỗ khuất khúc nơi đồng hoang gặp phải oán tặc vung gươm hùng hổ chạy đến toan giết. Người ấy rảo chạy, thấy phải vượt sông. Nếu vượt được sông thì đầu cổ mới còn. Lúc bấy giờ, chỉ nghĩ phương cách vượt sông: “Ta đến bên bờ sông, mặc áo mà lội hay là cởi áo mà bơi? Nếu vẫn mặc áo sợ chẳng qua nổi. Nếu cởi áo ra, e không kịp nữa!” Chỉ có ý niệm ấy, không còn duyên nào khác. Nghĩ cách nào vượt được sông chính là nhất niệm. Dụng tâm chẳng tạp như vậy thì gọi là thập niệm tiếp nối.
Hành giả cũng vậy, niệm A Di Ðà Phật như kẻ kia nghĩ cách vượt sông trong suốt mười niệm. Nếu niệm danh hiệu Phật không có tâm nào khác xen tạp, tâm tâm tiếp nối nhau cho đến mười niệm liên tiếp. [Ðiều này] tựa hồ chẳng khó, nhưng tâm phàm phu như ngựa hoang, thức còn quá khỉ vượn, rong ruổi sáu trần, chẳng thể tạm ngưng nghỉ. Hãy nên dốc lòng tin, tự hoạch định niệm sẵn để tích tập thành tánh, thiện căn kiên cố vậy. Như Phật bảo vua Tần Bà Sa La: “Người tích thiện hạnh, chết không có ác niệm; như cây đã ngả về Tây, lúc đổ ắt sẽ rạp về Tây”. Giả sử một phen phong đao xảy đến, trăm nỗi khổ bức thân, nếu như chẳng sẵn quen tập tành từ trước thì sao mà làm được?
Lại nên có năm ba người đồng chí kết ước cùng nhau, lúc sắp lâm chung sẽ đến giảng giải, vì mình xưng niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, nguyện sanh An Lạc, từng tiếng tiếp nối khiến thành mười niệm. Lúc đoạn mạng ấy, một phen vào ngay Chánh Ðịnh Tụ, còn lo nỗi gì!
Nhận định:
Ðại Sư minh thị: Mười niệm tiếp nối liền được vãng sanh, nhưng cần phải dùng tâm chí tín, tự hạn định số lượng mà niệm sẵn khiến cho thành tánh, thiện căn kiên cố và mời bạn đồng chí lúc lâm chung đến trợ niệm khiến mười niệm được thành. Ðủ thấy rõ mười niệm chẳng phải là chuyện dễ, xin hãy cẩn tuân chớ xem thường.
20. Trích dẫn Tịnh Ðộ Thập Nghi Luận của đại sư Thiên Thai Trí Giả đời Tùy
Muốn quyết định sanh về Tây Phương nếu đủ hai hạnh sẽ nhất định được sanh về đó:
1. Một là hạnh chán lìa: Từ vô thỉ đến nay phàm phu bị ngũ dục trói buộc, luân hồi ngũ đạo, chịu đủ các khổ, chẳng khởi tâm chán lìa ngũ dục, chưa từng có kỳ ra. Vì thế, thường quán thân này: bất tịnh, hôi thối, chỉ khổ, không vui, sanh lòng chán lìa sâu xa. Ví dù chưa dứt được ngay chuyện mây mưa thì cũng dần dần sanh chán. Thực hành bảy thứ Bất Tịnh Quán thì sẽ sanh lòng chán lìa sâu xa những cảnh giới yêu thích, thân thể nam, nữ v.v… Nếu có thể thường quán bất tịnh như thế thì dâm dục phiền não dần dần giảm thiểu. Lại thực hành các phép quán Thập Tưởng như kinh đã giảng rộng. Lại còn phát nguyện, nguyện ta vĩnh viễn xa lìa tam giới tạp thực, hôi thối, máu mủ bất tịnh, đam hoang ngũ dục, thân thể nam nữ, nguyện được Tịnh Ðộ Pháp Tánh Sanh Thân. Ðấy là hạnh Nhàm Chán.
2. Hai là hạnh Hân Nguyện. [Hạnh Hân Nguyện] lại gồm hai điều:
b.1. Một là trước hết phải hiểu rõ cầu sanh Tịnh Ðộ là vì muốn dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, liền tự suy nghĩ: Ta nay không sức cứu khổ chúng sanh nên vì thế cầu sanh Tịnh Ðộ, thân cận chư Phật. Nếu chứng Vô Sanh Nhẫn thì mới thể cứu khổ cho chúng sanh đời ác.
b.2. Hai là quán những sự trang nghiêm trong cõi Tịnh Ðộ kia, tâm thích thú nguyện cầu, thường hành Niệm Phật Tam Muội và thí, giới, tu v.v… hết thảy các thiện hạnh đều hồi thí hết thảy chúng sanh, đồng sanh cõi kia, quyết định được sanh. Ðấy là Hân Nguyện Môn.
Nhận định:
Từng nghe cổ đức nói: “Nếu ai vào lúc lâm chung có chút tình thức dù bằng hạt cải nghĩ đến thế giới Sa Bà thì trọn chẳng thể sanh về Tịnh Ðộ”. Ðại Sư là hậu thân của Phật Thích Ca, chỉ dạy hai môn Ưa, Chán, thật là cách đối trị khéo léo. Xin hãy tin Sa Bà là khổ, Tịnh Ðộ đáng quay về. Ưa chán quyết liệt thì lúc lâm chung sẽ tự chẳng còn tơ hào tình thức nghĩ đến thân hay thế giới này mà chướng ngại vãng sanh.
21. Trích dẫn Thích Tịnh Ðộ Quần Nghi Luận của đại sư Hoài Cảm đời Ðường
* Chí tâm niệm Phật là hạnh lành nơi ý nghiệp, xưng danh hiệu Phật là hạnh lành nơi khẩu nghiệp, chắp tay lễ Phật là hạnh lành nơi thân nghiệp. Do ba thiện nghiệp hạnh ấy có thể diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Hạnh, nguyện hỗ trợ nhau liền được vãng sanh.
* [Về chuyện] Niệm Phật trong thất tối, tuy không có Thánh Giáo [làm căn cứ], nhưng người mới học nên dùng nhà tối để dứt tuyệt các sự thấy, nghe, tâm bỏ các duyên, chuyên nhất niệm Phật, dễ đắc tam muội. Như trong lúc đang ở trong thất niệm Phật mà có chút tia sáng chiếu vào thất tối ấy thì tâm liền duyên theo đó, tư duy ào ạt nổi lên. Nếu như dứt tuyệt ánh sáng đó sẽ nhất tâm bất loạn. Kẻ học phải biết điều này, chớ bỏ phí pháp ấy. Do vì hạng sơ học tâm rong ruổi ngũ dục, vin nắm sáu trần; nếu chẳng ép mình vào trong thất tối thì không cách nào thành tam muội nổi! Sau khi học thành tựu rồi thì tùy ý mà dùng, chẳng phân biệt là tối hay sáng, thường thấy được Phật, nào còn phải nhọc sức thực hành niệm Phật trong nhà tối.
* Quán kinh dạy: “Kẻ đó bị khổ bức bách, chẳng rảnh rỗi để niệm Phật, thiện hữu dạy cho xưng niệm A Di Ðà Phật. Chí tâm như thế khiến cho tiếng niệm chẳng dứt”. Há chẳng phải là bị khổ não bức bách nên niệm tưởng khó thành ư? Còn “tiếng niệm chẳng dứt” thì cứ hễ chí tâm thì liền làm được. Nay học Niệm Phật Ðịnh, niệm ra tiếng thì cũng giống như thế: khiến cho tiếng niệm chẳng dứt sẽ đắc tam muội, thấy Phật và thánh chúng thường ở trước mặt. Vì thế, kinh Ðại Tập dạy: “Ðại niệm thấy đại Phật, tiểu niệm thấy tiểu Phật”. Ðại niệm là xưng Phật hiệu lớn tiếng. Tiểu niệm là niệm Phật hiệu nhỏ tiếng. Kẻ học ngày nay chỉ cần lớn tiếng niệm Phật thì tam muội dễ thành. Niệm Phật hiệu nhỏ tiếng thì hay tán loạn. Ðấy là điều kẻ học tự biết, người ngoài không hiểu được nổi!
Nhận định:
“Muốn biết đường dưới núi, hãy hỏi khách vãng lai”. Ðại Sư tinh tấn ba năm, chứng Niệm Phật tam muội. Chuyện lớn tiếng niệm Phật trong nhà tối thì tam muội dễ thành là kinh nghiệm sở đắc của ngài, thật đáng dẫn chứng, xin hãy làm thử xem!
22. Trích dẫn Tịnh Ðộ Luận của đại sư Thích Ca Tài đời Ðường
Tu hạnh nghiệp gì mà phàm thánh đều được vãng sanh, kinh luận mênh mông khó lòng tìm trọn được, nay rút lấy hai điều trọng yếu:
– Một là Thông Nhân như ba bậc vãng sanh trong kinh Vô Lượng Thọ đều phải phát Bồ Ðề tâm và phải tu đủ ba phước Tịnh nghiệp theo như Quán kinh thì mới được vãng sanh.
– Hai là Biệt Nhân gồm có sáu thứ:
1. Một là phải riêng niệm danh hiệu A Di Ðà Phật. Một là tâm niệm, hai là khẩu niệm.
1.1. Tâm niệm lại gồm có hai loại: một là niệm Phật sắc thân, hai là niệm Phật trí thân.
1.2. Khẩu niệm là nếu tâm vô lực thì phải dùng miệng để hỗ trợ, dùng miệng dẫn tâm khiến chẳng tán loạn như kinh dạy: “Nếu ai niệm A Di Ðà Phật đến trăm vạn lần thì quyết định được sanh về thế giới Cực Lạc”. Nếu có thể chuyên tâm niệm Phật trong bảy ngày thì niệm được cả trăm vạn lần. Do vì nghĩa này, các kinh hay khuyên niệm Phật bảy ngày.
2. Hai là phải lễ bái. Hướng thẳng về Tây, tưởng đức A Di Ðà Phật như đối trước mắt, nghiêm trì hương, hoa, miệng xưng danh hiệu Phật, năm vóc gieo xuống đất, đôi ba lượt dập đầu nguyện sanh về cõi ngài.
3. Ba là phải tán thán A Di Ðà Phật: [khen ngợi] sắc hoặc tâm, hoặc y báo, hoặc chánh báo, [tưởng Phật] hoặc đứng hoặc ngồi, nhìn thẳng về phương Tây như Phật đang ở ngay trước mắt, nhất tâm tán thán, nguyện sanh Tịnh Ðộ.
4. Bốn là phải phát nguyện cầu sanh Cực Lạc. Hoặc nguyện chúng sanh vãng sanh, hoặc nguyện Thích Ca đưa đi, hoặc nguyện Di Ðà đến đón, hoặc nguyện thường dạo chơi cõi Tịnh, hoặc nguyện vĩnh viễn lìa khỏi thân sanh trong thai, hoặc nguyện lâm chung [Phật đến] an ủi, hoặc nguyện chánh niệm hiện tiền. Tùy tâm phát nguyện những điều như thế.
5. Năm là phải quán sát y báo và chánh báo của Tây Phương. Theo đúng như mười sáu pháp quán trong Quán kinh, mỗi thứ đều quán sát, hễ thành tựu được một pháp quán nào thì nhất định được vãng sanh.
6. Sáu là phải hồi hướng:
6.1. Một là đem công đức của chính mình hồi hướng để chúng sanh cùng sanh về Tịnh Ðộ.
6.2. Hai là đem tất cả công đức từ vô thỉ đến nay và tất cả công đức trong một đời này dù ít hay nhiều, dù là phước hay trí thảy đều nguyện hồi hướng để cầu sanh Cực Lạc.
Hai nhân Thông, Biệt dành cho bậc thượng căn. Ðối với hạng trung, hạ, chỉ cần năm điều sau:
1. Một là sám hối ác nghiệp chướng đạo từ vô thỉ đến nay, chỉ sợ chúng gây trở ngại [việc vãng sanh] Tịnh Ðộ.
2. Hai là phải phát Bồ Ðề tâm. Nếu chẳng phát Bồ Ðề tâm, cứ một bề lánh khổ tìm vui, e chẳng được vãng sanh!
3. Ba là phải chuyên niệm danh hiệu A Di Ðà Phật. Cần phải trang nghiêm riêng một đạo tràng, thắp hương, rải hoa; phan, đèn đầy đủ, thỉnh một tượng A Di Ðà Phật bày trong đạo tràng, tượng quay mặt về Ðông, người hướng mặt về Tây, hoặc là bảy ngày hoặc mười ngày, giảm bớt ngủ nghê, trừ khử tán loạn, chỉ trừ khi đại tiểu tiện và lúc ăn uống, nhất tâm chuyên niệm. Hễ buồn ngủ liền đứng dậy niệm, chẳng cần phải lễ bái, đi nhiễu. Niệm Phật bảy ngày xong, ra khỏi đạo tràng, đi, đứng, nằm, ngồi, hễ rảnh lúc nào là niệm.
Thường niệm danh hiệu Phật có ba điều lợi ích:
3.1. Một là do thường niệm nên các ác giác quán rốt ráo chẳng sanh, cũng được tiêu nghiệp chướng.
3.2. Hai là do thường niệm nên thiện căn tăng trưởng và cũng gieo thành nhân duyên thấy Phật.
3.3. Ba là do thường niệm nên huân tập chín mùi, lúc lâm chung chánh niệm hiện tiền.
4. Bốn là cần phải quán sát tổng tướng của thế giới Cực Lạc: đất, ao, lầu gác, rừng cây như thế; A Di Ðà Phật: hoa tòa, tướng hảo, đồ chúng như thế, thuyết pháp như thế. Tổng quán như vậy nhất định được vãng sanh vì tam giới duy tâm.
5. Năm là với những công đức đã tạo dù trong quá khứ hay trong đời này đều phải phát nguyện hồi hướng để sanh về cõi Cực Lạc.
Nếu có thể thực hiện đầy đủ năm hạnh trên ắt sẽ vãng sanh, xin đừng ngờ nữa!
Nhận định:
Như kinh đã nói: Nếu ai niệm Phật đến trăm ngàn lần thì quyết định được vãng sanh, chẳng luận là thượng, trung, hạ căn, chỉ cốt sao nhất tâm chuyên niệm nhiều hay ít, bất tất kiêm tu quán sát!
23. Trích dẫn Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận của đại sư Phi Tích ở núi Tử Các đời Ðường
Dù là lúc nghiến chặt răng để búi tóc hay lúc sanh tử giao xen, chưa hề có lúc nào chẳng có hơi thở ra vào. Người đời hay dùng bảo ngọc, thủy tinh, kim cang, Bồ Ðề, Mộc Hoạn… làm niệm châu, ta dùng hơi thở ra vào để làm niệm châu. Xưng danh hiệu Phật theo từng hơi thở có lợi ích lớn vì sợ rằng một hơi chẳng hít vào thì đã thuộc vào thân sau rồi! Ta đi, đứng, nằm, ngồi thường dùng loại xâu chuỗi ấy. Dù cho có mê muội, vẫn ngậm Phật mà ngủ, tỉnh giấc lại tiếp tục, ắt sẽ trong mộng được thấy đức Phật kia. Chẳng những chỉ mộng thôi mà còn thành tam-muội nữa, tận mắt thấy ngọc hào, đích thân được thọ ký, [tu tập như thế thì trong] vạn người chẳng sót một ai [là không thành tựu].
Nhận định:
Ấn Quang đại sư minh thị: Pháp môn Bảo Vương tùy tức (niệm Phật theo hơi thở) chính là pháp môn nhiếp trọn sáu căn của ngài Ðại Thế Chí. Nếu chẳng chịu tuân theo pháp này thì khó thành tam muội. Nhưng Tùy Tức chẳng bằng lặng lẽ lắng nghe vì chẳng khéo niệm theo hơi thở sẽ mắc bịnh, còn lặng lẽ nghe thì quyết chẳng bị mắc bịnh. Xin hãy tận lực mà hành.
24. Trích dẫn Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ của Tứ Minh Diệu Hiệp đại sư thời Minh
Niệm Phật thì nên ngay vào lúc công danh, phú quý đắc chí hãy một dao cắt đứt lìa, mạnh mẽ phát đại tâm, tận lực hành đạo này. Ðối với những sở hữu trong đời: vợ con, của báu, đầu, mắt, tủy, não, thậm chí thân mạng chẳng tự lẫn tiếc, quyết chí cầu sanh. Há có nên đợi mãi đến lúc hối tiếc, rủi ro, bất đắc dĩ mới toan dùng cái tâm cẩu thả để tu ư? Thật đáng thương quá!
Nếu có thể nhân lúc tiếc nuối đó, buông bỏ ngay, phát sanh kiến giải tìm đến chốn của báu Ðại Thừa, lập thành tâm quyết định bất thối chuyển, như chiếc thuyền đã xuôi giòng, thuận gió lại thêm chèo chống thì há chẳng mau đến đích hay sao? Ðược như thế thì may mắn sao! Buông bỏ chỉ là buông bỏ nghiệp duyên thế gian, nào phải là buông bỏ tâm tinh tấn hiểu đạo đâu!
* Hãy nên quán sát đúng đắn hai cõi: khổ – vui, tịnh – uế. Ðối với hai cảnh đó, sanh hai tâm: một là tâm nhàm chán, hai là tâm vui ưa. Do nhàm chán cõi Sa Bà này nên có thể tùy thuận Chiết Môn của đức Thích Ca đã dạy; sanh tâm vui ưa nên có thể tùy thuận Nhiếp Môn đức Di Ðà đã chỉ. Ðối với hai môn đó, tinh tấn tu tập ngày đêm chẳng nghỉ.
Tùy thuận lời Phật dạy, đối với các cảnh sắc thanh cõi này tưởng là địa ngục, tưởng là biển khổ, nhà cháy. Ðối với các vật báu, tưởng là đồ gây khổ. Tưởng thức ăn, y phục như máu, mủ, da sắt. Ðối với quyến thuộc tưởng là quỷ Dạ Xoa, La Sát nuốt người. Cõi này lại sanh tử chẳng trụ, trường kiếp bôn ba, phiêu bạt, thật đáng chán lìa.
Từ nơi tri thức, kinh sách nghe đến nguyện lực, cõi nước trang nghiêm của đức Phật kia; trong mỗi niệm, nhắc nhở nghĩa lý ấy, sanh ý tưởng an ổn, tưởng là chốn có của báu, là gia nghiệp, là nơi giải thoát. Tưởng Di Ðà Như Lai, Bồ Tát, thánh chúng như cha mẹ nhân từ. Tưởng như cầu, thuyền tiếp dẫn. Tưởng trong khi sợ hãi, nạn gấp, hễ xưng danh [Phật, Bồ Tát] liền ứng hiện, mau đến cứu giúp; tưởng hễ nghĩ đến liền xuất ly. Công đức vô lượng như thế thật đáng vui ưa.
Nếu nhàm lìa chẳng sâu thì nghiệp hệ Sa Bà chẳng thoát; vui ưa chẳng tha thiết thì thắng cảnh Cực Lạc khó đạt. Muốn sanh Tịnh Ðộ, thành tựu Niệm Phật tam muội hãy thực hiện đầy đủ hai môn này để làm bước ban đầu phát khởi công hạnh vậy. Nếu có thể chán, ưa quyết liệt, viên tu Quán Huệ thì không những đã sanh mà còn được Thượng Phẩm nữa!
* Nếu là người xuất gia muốn tu Niệm Phật tam muội, muốn được thanh tịnh ba nghiệp, cởi mở oan kết sanh về Tịnh Ðộ lẽ nào chẳng dứt được việc giết hại để ăn uống đến nỗi lúc lâm chung tự bị chướng ngại? Kinh có dạy đầy đủ các giới, đầu tiên là dạy đoạn sát thì mới vẹn toàn các giới được. Tu tam muội ắt phải các giới thanh tịnh mới có thể thành được. Ví dù túc nghiệp sâu dầy, chẳng thể đoạn ngay được thì cũng nên bày các phương tiện để dứt bỏ. Giới đức tuy đủ nhưng nếu chẳng giữ cho thân tâm lặng định, dứt các kỹ năng, tạp thuật thế gian, cho đến nếu như chẳng trừ sạch hết thảy ý niệm phân biệt dù thiện hay ác thì làm sao có thể nhất tâm tu tam muội này được? Tam muội bất nhất, vãng sanh bằng cách nào?
Tinh tấn là chẳng bị bát phong thế gian làm lui sụt. Lại chẳng bị thân tâm dị kiến, hết thảy bịnh duyên lớn nhỏ khiến hạnh lười nhác. Nếu do túc nghiệp sai sử khiến hạnh khiếm khuyết thì hãy nên nhất tâm tụng Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Ðà Ra Ni: Trì một biến trừ được tất cả hết thảy các tội ngũ nghịch, thập ác… nơi thân. Trì mười vạn biến liền được chẳng quên mất Bồ Ðề tâm. Trì hai mươi vạn biến khiến mầm Bồ Ðề nảy sanh. Trì ba mươi vạn biến thì A Di Ðà Phật thường trụ trên đảnh, quyết sanh Tịnh Ðộ.
* Sao gọi là Chánh Hạnh? Hạnh là phải sao cho thân tâm thanh tịnh. Vào đạo tràng, trước hết phải quán mình cùng hết thảy chúng sanh suốt tột cõi hư không thường ở trong biển lớn sanh tử, không nơi quay về, không được cứu vớt, nếu chẳng làm cho họ đều được giải thoát hết thì gọi là Chánh Hạnh sao được? Bởi đấy, coi oán lẫn thân bình đẳng, khởi tâm đại bi như hư không che chở khắp cả.
Tiếp đó, xét kỹ chánh hạnh niệm Phật của các vị tiên hiền, chọn lấy chốn tịch tịch, tự nhiên, chọn cuộc đất từ trước chưa từng nhiễm uế. Ðối với phí tổn thì trước hết phải dốc sạch hết của sở hữu rồi mới có thể xin người khác [giúp cho]. Ðúng như pháp kiến lập đạo tràng sao cho cực nghiêm tịnh. Ðem hết thảy tất cả thiện căn từ vô thỉ hồi hướng cho khắp tất cả chúng sanh sanh về Tịnh Ðộ, trang nghiêm hạnh nguyện. Ngay khi đó, ba tâm (thâm tâm, chí thành tâm, hồi hướng tâm) phát khởi trọn vẹn. Năm vóc gieo xuống đất, quán Phật tướng hảo, hồ quỳ chắp tay, vận tâm duyên khắp hết thảy chúng sanh và thân mình đây: “Từ xưa đến nay trôi nổi chẳng ngừng, thật đáng đau đớn!” Buồn bã khóc lóc cầu Phật rủ lòng từ, mổ bụng rửa ruột, phát lộ tội lỗi. Ngày đêm sáu thời định kỳ luyện hạnh.
Nếu vì chướng sâu chưa cảm ứng được thì lấy đến lúc chết làm kỳ hạn, trong suốt khoảng thời gian ấy chẳng có sát na nào nghĩ đến ngũ dục thế gian. Nhất tâm như thế ắt được vãng sanh. Nếu căn cơ chẳng xứng, hạnh thù thắng khó toàn thì cũng nên ở nơi tịnh thất, sao cho trong ngoài sạch làu, tùy ý lập hạnh, lễ Phật, sám hối. Hoạch định mỗi ngày [thời khóa] mấy lượt, tinh tấn nhất tâm, thề chẳng hối hận giữa chừng: hoặc chuyên trì chú, hoặc chỉ chấp trì danh hiệu, một dạ cầu vãng sanh. Nếu được thấy tướng hảo thì biết là tội diệt duyên sâu, cũng sẽ sanh về cõi ấy.
Lại có người chưa thể đoạn sạch duyên đời thì cũng nên tu điều lành thế gian, tin tưởng chắc chắn vào cõi Cực Lạc chẳng nghi, niệm niệm luyến mộ chẳng quên. Ðối với những hạnh môn đã nói ở trên, tùy ý tu tập. Trong bốn oai nghi, lấy đó làm chỗ quy hướng. Tiếp xúc cảnh liền thấu hiểu uyên nguyên của nó, gặp việc tận lực dùng phương tiện thì lúc lâm chung cũng sẽ được sanh cõi kia. Tuy các hạnh có tỏ tường hay đại lược nhưng pháp lực của chúng vốn đồng; nhưng do giữ tâm hoãn đãi hay mau chóng nên Phật cũng sẽ ứng hiện chậm hay mau.
* Nếu đang đi trên đất khách hay không ở cố định một nơi thì bất tất phải trang nghiêm đạo tràng, chỉ một bề thanh tịnh thân tâm. Áo mặc thì tùy phận mặc lấy áo sạch đẹp nhất, hương đèn dù có hay không cũng chẳng sao. Nếu là chỗ có tượng hay đem tượng theo bên mình thì nên miệng tụng, thân lễ, đối trước tượng mà tu. Nếu không có tượng Phật thì hoặc là đối trước quyển kinh, hoặc chỉ hướng về Tây lễ vọng; hoặc chỉ trừ hướng Ðông ra, lễ về phương nào cũng được.
Nếu đang đi đường hay ngồi thuyền và hết thảy các việc động dụng nuôi thân bất đắc dĩ chẳng thể bỏ được thì cùng làm cả thế sự lẫn Phật sự. Tiếng tụng niệm tuy tùy theo cảnh người tốt xấu mà niệm to hay nhỏ, niệm trầm tiếng nhưng rõ ràng, niệm nhè nhẹ nhưng chắc chắn, cốt sao người hai bên chỉ nghe loáng thoáng. Chẳng được nói nhiều với người khác. Những lúc khác thì phải nên ngồi một mình, đi một mình, xa lìa ồn tạp và chỗ xúm xít tán nhảm, giỡn cười, ca vịnh khiến người quên mất các việc chánh niệm.
Ðêm đến, người yên, cảnh lặng, chính là lúc nên dụng công. Ðã coi sanh tử là việc lớn, há có nên mặc tình ngủ nghỉ? Dù gặp lúc lạnh buốt, nóng gắt cũng chớ cởi áo. Pháp phục, xâu chuỗi nên để chỗ gần. Khăn tay, nước sạch chẳng để xa chỗ mình ngồi. Tất cả những thứ cần đến đều nên sắp sẵn. Lại nên quán sát tín căn của người là sâu hay cạn, chẳng làm phiền người khác, chẳng làm cho người khác chán ngán. Ðối với những điều ấy đã không trở ngại rồi thì hãy khẽ lên tiếng niệm khiến cho thiên thần hoan hỷ giáng xuống hộ trì; quỷ, súc sanh nghe tiếng được giải thoát. Công đức ấy rất sâu!
Ðối với người lòng tin nông cạn, chớ khăng khăng khuyên tu. Ðối với người tin sâu, lại chẳng thể chẳng ngầm chỉ bảo khiến họ quyết tâm. Chẳng nên quy công về mình; như mùa Xuân tăng trưởng vạn vật nhưng chẳng thấy mình có công. Ở chỗ tạm bợ mà tiến tu thì gọi là tu hành trong nghịch cảnh, công còn lớn hơn nữa.
* Nếu như trong lúc niệm Phật, tuy vận dụng cả thân lẫn miệng mà tâm niệm rối bời chẳng thể tự chế thì nên dụng tâm như thế nào để khỏi tán loạn?
Ðáp: Nên vận dụng thân khẩu mà niệm, chẳng cần luận đến tán loạn, cứ chẳng gián đoạn, tự có thể một lòng mà niệm thì cũng gọi là Nhất Tâm. Chỉ lấy việc thực hành chẳng ngơi làm chừng, bất tất phải lo đến tán loạn! [Nghĩ đến Phật hiệu] như mẹ chôn con yêu, như rồng mất mạng châu thì chẳng mong nhất tâm mà tâm tự nhất, cần gì phải chế ngự tâm cho nó quy nhất? Tâm này vốn chẳng thể chế ngự, thật chỉ là do hành nhân siêng hay lười mà thôi!
Nếu như có tu mà vô hiệu thì là do tín căn cạn mỏng, tu nhân chẳng thật, chưa từng lập hạnh, chưa gì đã muốn được người khác biết, trong tâm kiêu căng, ngoài thích phô trương để người khác cung kính cúng dường hòng được của cải. Thậm chí vọng ngôn thấy được tịnh cảnh, hoặc thấy tiểu cảnh và tướng lành trong mộng; chưa biết đúng sai đã toan giảng trước. Những bọn hèn kém như vậy ắt bị bè bạn ma mê hoặc, nguyện hạnh thối thất, lại đọa trong nẻo khổ sanh tử, chẳng nên dè dặt sao?
Dẫu có nghi thức trì tụng, sám nguyện trong đạo tràng cũng chẳng nên để người khác biết; nếu phải trình bày ra thì chỉ là chuyện bất đắc dĩ, há nên phô phang hình tích khiến cho quán hạnh bị bại hoại ư! Hãy nên tự xét kỹ điều ấy, kín đáo, chân thật ngầm tự hành, ôm lòng hổ thẹn, chẳng phô đức mình, tận cho đến lúc về nhà (vãng sanh) chẳng bị hai thứ ma mạnh bạo hay mềm mại làm lầm lạc!
Trong lúc tu tập, lúc túc chướng sắp diệt sẽ thấy vài tướng hảo nho nhỏ, nếu chẳng biết tích đức, khoe cho người khác biết thì hạnh mình lại bị vùi lấp. Bởi thế, ngài Huệ Viễn ba lần thấy thánh tượng mà lúc bình thời chẳng hề nói, chỉ trừ lúc lâm chung mới thố lộ thôi!
* Niệm Phật tam muội tuy mang tên là Nhất Hạnh, nhưng cũng nên lấy hết thảy vô lượng pháp môn thế gian, xuất thế gian, các hạnh công đức để làm trợ đạo thì chánh hạnh vãng sanh sẽ mau. Vì vậy, hết thảy các hạnh đều là vì Tịnh Ðộ mà tu, [đem công đức ấy] hồi hướng Cực Lạc thì đều được vãng sanh.
Hơn nữa, tam muội này thể tánh tuy viên, nhưng kiến giải nên rộng lớn, về hạnh nên thực hành trọn hết các điều khoản vi tế, vứt bỏ các điều bỉ ổi, tệ hại; thậm chí đối với tội nhỏ cũng đem lòng sợ hãi lớn lao. Lại nên có kiến giải Ðại Thừa, nhưng hạnh như người học Tiểu thừa. Kinh dạy: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp, thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi, phát Bồ Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Ðại Thừa, khuyến khích hành giả”. Mỗi một câu trên là một pháp hạnh.
Lại nên gìn giữ tâm người, chớ khiến họ khoe khoang, ganh ghét, nên thân cận bạn lành, thưa hỏi bậc tiên giác (bậc đã giác ngộ trước), chẳng chấp vào sự hiểu biết của mình, chẳng cậy sở trường. Chí giữ nhẫn nhục, hành theo đúng kinh, nghe ngóng chánh pháp, chẳng hủy Tăng, Ni; dứt bỏ các sự lành tạp nhạp thế gian, chẳng tham danh lợi, xa lìa tà ác. Xử sự phải trung tín, quy điều lỗi về mình, hết sức thận trọng tránh nói thêu dệt, nhất tâm bất loạn, xem người khác như Phật, buông bỏ tài khéo, chỉ cầu vãng sanh, thân ắt thanh tịnh. Vô lượng thiện hạnh như thế đó đều phải nên tu tập để hỗ trợ chánh đạo.
Nếu lại có thể cắt bỏ tâm nhiễm thế gian, đối với hai cảnh yêu ghét không còn bị vướng vít, lặng tâm như nhất ắt sẽ sanh về Tịnh Ðộ.
* Vừa muốn hiểu thấu đáo Ðạo thì ma cảnh đã hiện trước, một điều lỡ tâm thì vạn thiện đều mất. Vì thế, căn cứ vào kinh, lập ra mười hạnh gây trở ngại lớn, đặt tên là Thập Bất Cầu Hạnh:
1. Một là nghĩ đến thân chẳng cầu không bịnh. Không bịnh thì tham dục sanh, ắt phá giới thối đạo. Biết tánh của bệnh là không, bệnh chẳng não được. Vì thế lấy bệnh làm thuốc hay.
2. Hai là ở đời chẳng cầu không nạn. Ðời không nạn thì kiêu ngạo, xa xỉ nổi dậy, ắt muốn đè ép hết thảy. Hiểu nạn vốn là vọng thì nạn cũng chẳng làm gì được. Vì thế hoạn nạn là giải thoát.
3. Ba là cứu xét tâm đừng cầu không chướng. Tâm không chướng thì học qua loa, chưa đắc đã nói là đắc. Hiểu chướng chẳng có cội rễ thì chướng tự lặng. Vì thế dùng ma chướng để tiêu dao.
4. Bốn là lập hạnh chẳng cầu không có ma sự. Hạnh không có ma sự thì nguyện chẳng kiên cố, ắt sẽ chưa chứng mà nói là chứng. Thấu hiểu ma là giả có, ma nhiễu sao nổi! Vì thế lấy quần ma làm pháp lữ.
5. Năm là mưu sự chẳng cầu dễ thành. Sự dễ thành thì chí khinh mạn, ắt sẽ xưng mình có tài. Hiểu rõ việc được thành là tùy theo nghiệp, chứ chẳng phải do tài năng. Vì thế lấy sự khó làm điều an vui.
6. Sáu là giao tình chẳng cầu mình được lợi. Mong lợi mình thì thiếu đạo nghĩa, ắt sẽ thấy người khác sai trái. Xét rõ tình vốn có nhân thì tình sẽ nương theo duyên. Vì thế, lấy mối giao tình tệ bạc làm tư lương.
7. Bảy là chẳng cầu người khác thuận thảo với mình. Người ta thuận thảo thì trong lòng [mình] sẽ kiêu căng, ắt chấp mình là phải. Chúng ta sống trong đời, người khác chỉ đáp trả mình. Vì thế lấy kẻ nghịch làm vườn rừng.
8. Tám là thí đức chẳng cầu mong được báo đáp. Làm điều công đức mà mong được báo chính là có ý đồ, muốn phô phang tiếng tốt. Hiểu rõ đức vô tánh mà cũng chẳng thật. Vì thế coi việc thí đức như bỏ đôi dép rách.
9. Chín là thấy lợi chẳng cầu được hưởng phần. Ðược hưởng phần lợi thì tâm si phát động, ắt bị tham lợi hủy hoại mình. Thấu rõ lợi vốn là không, chẳng vọng cầu lợi. Vì thế, coi lợi sơ bạc là phú quý.
10. Mười là bị chèn ép chẳng cầu kêu oan. Bị chèn ép mà kêu oan thì còn giữ lòng nhân ngã, ắt oán hận sẽ nẩy nở. Chịu đựng chèn ép, khiêm tốn thì sự chèn ép tổn thương gì được mình? Vì thế lấy việc bị chèn ép làm hạnh môn.
Như thế thì chịu đựng chướng ngại mà lại thành thông suốt, cầu thông suốt mà lại bị chướng ngại. Những chướng ngại ấy đều thành diệu cảnh. Bởi lẽ đó, đức Như Lai đắc Bồ Ðề đạo ngay trong chướng ngại. Dù là lũ La Sát, Ca Lợi hay bọn Ương Quật, Ðề Bà đến tạo nghịch, Phật đều thọ ký, giáo hóa họ trở thành Phật, há chẳng phải là lấy cái nghịch kia làm cái thuận cho mình, lấy cái hủy báng của họ làm điều thành tựu cho mình ư?
Huống hồ, lúc thời bạc, thế ác, nhân sự dị thường, lẽ nào người học đạo không có chướng ngại! Nếu chẳng đã ở trước trong chướng ngại thì sao bài trừ nó cho được, khiến cho đại bảo của Pháp Vương vì đó bị mất đi, chẳng tiếc lắm ư!
Nhận định:
Bộ luận này bị thất truyền đã lâu, Tổ Vân Thê Liên Trì mong được đọc nhưng không được đọc. May nhờ ngài Linh Phong ghép nó vào tác phẩm Niệm Phật Thập Yếu, nó mới được lưu truyền rộng rãi. Xin hãy thọ trì hai hạnh Chánh và Trợ trên đây, chớ coi thường. Lại nên dùng mười Ðại Ngại Hạnh (Bất Cầu Hạnh) trên để nhất nhất tự nghiệm thì quả thật, ngay trong lúc bịnh hoạn, gặp nạn cho đến lúc bị ép uổng thì tâm niệm Phật chỉ càng tăng thêm, hiểu khổ, quán không, chẳng oán, chẳng hiềm, không uất, không ngại, giống như đắc Tam Muội, ắt được sanh Tây.
25. Trích dẫn Tây Phương Hiệp Luận của Thạch Ðầu đạo nhân tức cư sĩ Viên Hoằng Ðạo (Viên Liễu Phàm) ở Hà Diệp Am thời Minh
Muốn trong một đời đạt lên cái quả phải tu cả A-tăng-kỳ kiếp, chỉ mười niệm thu tóm cả con đường xa cách mười vạn [cõi nước] thì nào có phải là dùng cái kiến giải thô lậu, tư duy hời hợt, cái tâm kiết sử, cái miệng trần lao mà đạt đến nổi ư? Sao chẳng gom một lòng nhẫn để khỏi luống uổng nhiều đời, như pháp tu hành miễn đọa lưới ma?
- Tịnh Ngộ môn:
Muốn sanh về Tịnh Ðộ, hãy nên tham cứu chơn thật, liễu ngộ đúng như pháp:
1.1. Một là hiểu rõ uế tức là hằng tịnh, chẳng xả tịnh.
1.2. Hai là nghe nói Tịnh Ðộ chẳng thể nghĩ bàn chẳng khiếp nhược.
1.3. Ba là biết trong Tất Cánh Không, nhân quả chẳng mất, dứt hết thảy pháp ác, chẳng làm ác nữa.
1.4. Bốn là biết là cõi kia chẳng đến, chẳng đi, cõi này cũng chẳng đến chẳng đi.
1.5. Năm là liễu ngộ thân lượng của Phật đầy khắp hư không, thân lượng của chúng sanh cũng đầy khắp hư không.
1.6. Sáu là nghe các hạnh trong vô lượng a tăng kỳ kiếp chẳng kinh sợ.
1.7. Bảy là tu thập thiện, tam phước, chẳng trụ nhân, thiên.
1.8. Tám là như sau khi thức giấc, nhớ lại việc trong mộng, chẳng còn có kiến giải hữu, vô.
1.9. Chín là như mắt thấy cố hương, tin hay không tin đều bất khả đắc.
1.10. Mười là biết pháp vô ngã, thuận tánh lợi sanh thẳng đến khi thành Phật không nhàm mệt.
Bồ Tát nhập môn này rồi, thành tựu bạch pháp, tùy ý được sanh.
2. Tịnh Tín môn:
Nếu như tu hành mà chưa thể đốn ngộ thì nên trồng sâu tín căn, chẳng kinh, chẳng động.
2.1. Một là tin vào lời thành thật từ kim khẩu, quyết định sẽ sanh.
2.2. Hai là tin tự tâm rộng lớn vì có đủ các công đức thanh tịnh như vậy.
2.3. Ba là tin nhân quả như hình với bóng vì chúng quyết định đi theo nhau.
2.4. Bốn là tin hình chất và tâm thức của thân này và hết thảy thế giới kiến lập như ánh nắng dợn, như hoa đốm trên không vì vô sở hữu.
2.5. Năm là tin đời ác ngũ trược, nóng lạnh khổ não, uế tướng hun đốt, chẳng thể ở nổi một khắc.
2.6. Sáu là tin hết thảy pháp duy tâm như nhớ đến trái mơ thì lưỡi có vị chua vậy.
2.7. Bảy là tin niệm lực chẳng thể nghĩ bàn như nghiệp lực.
2.8. Tám là tin thai sen chẳng thể nghĩ bàn giống như bào thai vậy.
2.9. Chín là tin Phật vô lượng thân, vô lượng thọ, vô lượng quang chẳng thể nghĩ bàn như thân con kiến, như tuổi phù du, như ánh đom đóm, đồng nhất bất khả tư nghị.
2.10. Mười là tin thân này quyết định sẽ chết.
Nếu đầy đủ tín căn như thế thì giở chân, hạ chân không chi là chẳng niệm Phật.
3. Tịnh Quán môn:
Chúng sanh vô thỉ cấu uế khắp hết thảy pháp; tu Tịnh nghiệp thì phải kèm thêm các thứ quán hạnh để gọt giũa tập khí hòng làm phương tiện vãng sanh.
3.1. Một là tịnh quán: quán Phật tướng hảo như Quán kinh đã dạy.
3.2. Hai là bất tịnh quán: quán thân bất tịnh, khí thế gian bất tịnh, sanh lòng chán lìa.
3.3. Ba là vô thường quán: quán hết thảy pháp vô định; như cùng một sắc đẹp, kẻ dâm thấy thì vui, kẻ nữ ghen ghét trông thấy đâm khổ; người tu quán hạnh quán thấy như các thứ nhơ ác, dị loại xem như gỗ đất.
3.4. Bốn là hòa hợp quán: quán thân này, thế giới này, sự thấy nghe hay biết này giống như tích gỗ làm nhà, tích màu để vẽ, chẳng có thật thể.
3.5. Năm là đối trị quán: quán trên thân, kiết sử nào nặng nề nhất, nên dùng pháp nào để đối trị.
3.6. Sáu là tàm hối quán: quán hết thảy chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay cùng ta làm cha mẹ, anh em, chị em, con cái, dâm độc lẫn nhau chẳng hề hay biết cho nên sanh lòng hối hận lớn lao.
3.7. Bảy là niệm niệm quán: quán trong hết thảy thời, có mấy lúc là tâm niệm Phật, mấy lúc nào tâm lợi lạc chúng sanh, mấy lúc tâm nhơ sạch chộn rộn.
3.8. Tám là bình đẳng quán: quán hết thảy sắc và một sắc không có đẹp, xấu; hết thảy thanh, một thanh không có khen, chê; hết thảy thọ, một thọ không có ân, cừu; hết thảy nghĩa, một nghĩa không có cạn, sâu.
3.9. Chín là vi tế quán: quán Phật niệm, pháp niệm khởi thì sẽ đến đâu, đi thì trụ ở đâu?
3.10. Mười là pháp giới quán: quán một sợi lông, một hạt bụi, một nhánh cỏ, một cây đều có đủ vô lượng cõi Phật thanh tịnh.
Nếu lúc hành các pháp quán này thì lấy pháp quán thứ nhất là Tịnh Quán làm chủ, chín pháp kia làm bạn.
4. Tịnh Niệm môn:
Pháp niệm Phật mang tên Nhất Hạnh tam muội, nếu niệm tản mạn thì tam muội chẳng thành.
4.1. Một là nhiếp tâm niệm: Ðối với hết thảy chỗ, nhiếp niệm chẳng quên, dẫu cho ngủ mê cũng hệ niệm trong giấc ngủ, niệm chẳng bị gián cách, chẳng có niệm khác.
4.2. Hai là dũng mãnh niệm: như kẻ háo sắc nghe dâm nữ ở đâu dù núi hiểm, suối sâu, nẻo lân, hang quỷ cũng mò đến chẳng hãi.
4.3. Ba là thâm tâm niệm: như biển cả sâu rộng vẫn mò đến tận đáy, đường giác xa vời, chưa đến nơi chẳng nghỉ.
4.4. Bốn là quán tưởng niệm: trong niệm niệm thấy ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo.
4.5. Năm là tức tâm niệm: dứt bặt hết thảy tâm cầu danh, tâm mong quan chức, dục tâm, thế gian tâm, tham luyến tâm, tâm hợm hĩnh, cao ngạo, tâm ngăn trở, tâm nhân ngã thị phi mà niệm Phật.
4.6. Sáu là bi đề niệm: Mỗi một khi tưởng đến Phật, lông trên thân dựng cả lên, ngũ tạng như toạc ra, như con thơ lìa mẹ hiền vậy.
4.7. Bảy là phát phẫn niệm: như kẻ cô đơn, nghèo đói lại thi rớt, như kẻ cậy tài gặp cảnh tịch mịch, mỗi phen nghĩ đến chẳng muốn sống nữa.
4.8. Tám là nhất thiết niệm: thấy, nghe, hay, biết và lỗ chân lông, cốt tủy, không chỗ nào chẳng niệm Phật.
4.9. Chín là tham cứu niệm: niệm Phật một tiếng liền nghĩ tiếng niệm ấy đi về đâu.
4.10. Mười là Thật Tướng niệm: Chẳng dùng hữu tâm niệm, chẳng dùng vô tâm niệm, chẳng dùng hữu vô tâm để niệm, chẳng dùng phi hữu phi vô tâm mà niệm.
Ðấy là môn niệm Phật của bậc Thượng Phẩm. Nếu niệm như thế thì ngay trong đời này ắt được thấy Phật.
5. Tịnh Sám môn:
Muốn trừ trọng chướng hãy nên siêng sám hối:
5.1. Một là nội sám: sám hối tâm ý thức bất tịnh.
5.2. Hai là ngoại sám: Sám hối hết thảy sắc, thanh, hương bất tịnh pháp.
5.3. Ba là sự sám: Sám hối mười tám giới, hai mươi lăm cõi, tám vạn bốn ngàn các thứ trần lao kết sử gây chướng ngại việc học a tăng kỳ kiếp các hạnh nghiệp thấy Phật, lợi sanh.
5.4. Bốn là lý sám: Sám hối từ khi nhập đạo đến nay, những cuồng giải sở đắc, những kinh luận đã học, những nghĩa sâu thẳm đã nghe, các bịnh: Làm, Ngưng, Nhậm, Diệt v.v… chướng ngại Phật vô lậu trí.
5.5. Năm là quá khứ sám: Sám hối các hắc nghiệp: giết, trộm, dâm, dối đã tạo từ đời vô thỉ đến nay, mỗi mỗi đều sám hối.
5.6. Sáu là vị lai sám: Hết thảy pháp ác ngày nay đã dứt, tột cùng đời vị lai vĩnh viễn chẳng tái phạm nữa.
5.7. Bảy là hiện tại sám: Sám hối trong đời hiện tại, sanh, lão, bệnh, tử, các thứ khổ nghiệp, phiền não nghiệp, nghiệp giở chân, hạ chân, nghiệp há miệng, động tâm, hết thảy vi tế chẳng thể tính kể nghiệp.
5.8. Tám là sát na sám: Trong một niệm có chín mươi sát na, một sát na có chín trăm lần sanh diệt; cứ một sanh diệt là một lần sám hối.
5.9. Chín là cứu cánh sám: Trong địa vị Ðẳng Giác có một phần vô minh nên tẩy rửa trọn vẹn.
5.10. Mười là pháp giới sám: Trong pháp tánh không ta, không người, khắp vì hết thảy chúng sanh trong quá khứ, vị lai, hiện tại mà sám hối.
Nếu có thể sám hối chân thật như thế thì hết thảy chướng ngại ắt bị tiêu diệt, chẳng lìa đạo tràng mà được thấy chư Phật.
6. Tịnh Nguyện môn:
Tu Tịnh Ðộ phải nên phát đại nguyện.
6.1. Một là chẳng vì phước điền mà nguyện, nguyện vì che chở hết thảy chúng sanh mà sanh Tịnh Ðộ.
6.2. Hai là chẳng vì quyến thuộc mà nguyện, nguyện coi sóc hết thảy nhà Như Lai mà sanh Tịnh Ðộ.
6.3. Ba là chẳng vì bịnh khổ mà nguyện, nguyện chữa các thứ ghẻ vô minh của hết thảy chúng sanh mà sanh Tịnh Ðộ.
6.4. Bốn là chẳng vì làm Chuyển Luân Vương mà nguyện, nguyện chuyển pháp luân của các đức Như Lai, làm đại pháp vương mà sanh Tịnh Ðộ.
6.5. Năm là chẳng vì Dục Giới mà nguyện, nguyện lìa hết thảy ngũ dục vi diệu mà sanh Tịnh Ðộ.
6.6. Sáu là chẳng vì Sắc Giới mà nguyện, nguyện lìa hết thảy Thiền chấp mà sanh Tịnh Ðộ.
6.7. Bảy là chẳng vì Vô Sắc Giới mà nguyện, nguyện dứt hết thảy vi tế lưu chú, chứng thân vô lượng tướng hảo mà sanh Tịnh Ðộ.
6.8. Tám là chẳng vì Thanh Văn, Bích Chi Phật mà nguyện, nguyện dùng phước trí nhị nghiêm để lợi lạc hết thảy thế giới chúng sanh mà sanh Tịnh Ðộ.
6.9. Chín là chẳng vì một thế giới, ngàn thế giới mà nguyện, nguyện chịu khổ thay cho vô ương số thế giới, cứu chúng sanh trong hết thảy thế giới mà sanh Tịnh Ðộ.
6.10. Mười là chẳng vì một cho đến ngàn a tăng kỳ kiếp chúng sanh mà nguyện, nguyện chịu khổ thay cho vô lượng, vô số a tăng kỳ kiếp hết thảy chúng sanh, cứu hết thảy chúng sanh mà sanh Tịnh Ðộ.
Nếu có thể phát đại nguyện như thế thì trong sát na cuối cùng, quyết định sẽ đúng như trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện đã dạy, sẽ biết đại nguyện ấy làm minh sư dẫn về Cực Lạc.
7. Tịnh Giới môn:
Hết thảy tịnh pháp đều lấy Giới làm nền tảng. Giới đứng đầu các thiện pháp, là cửa để vào cõi tịnh.
7.1. Một là xan tham giới: Thực hành hai pháp bố thí tài thí và mạng thí chẳng yêu tiếc.
7.2. Hai là hủy cấm giới: Trì trọn vẹn ngũ giới, luật nghi giới cho đến Vô Lậu Giới.
7.3. Ba là sân nhuế giới: Dùng nhẫn để điều tâm và thân, khẩu. Nếu gặp phải ác khẩu, dao, gậy làm hại thì chỉ nên suy nghĩ pháp nghiệp nhân duyên, coi như đền trả, coi như đạo sư, tưởng như gió rét, lạnh, nóng.
7.4. Bốn là phóng dật giới: Ðường hiểm sanh tử không chỗ để phóng dật. Như người bưng bát dầu đầy, như đi trên dây, chẳng được liếc ngoái tả hữu cũng như nghĩ đến chuyện gì khác.
7.5. Năm là tán loạn giới: Gom giữ các căn, dứt các duyên cảnh như giữ ngọn đèn trước gió, như ngăn chim sống.
7.6. Sáu là ngu si giới: Dùng trí huệ phá các mê mờ.
7.7. Bảy là kiêu mạn giới: Chẳng nên cậy tài biện luận, ngộ giải, tranh luận rồi hợm hĩnh, kiêu căng. Hết thảy sở đắc như bụi trên đất, như chất dơ đóng trên mặt gương, chẳng thể cậy chất dơ này để coi thường chất dơ khác!
7.8. Tám là phú tàng giới: Chư Phật, Bồ Tát, thần minh ở khắp mọi nơi, chẳng thể giấu giếm được; giống như giữa ban ngày trốn bóng, giữa trận sóng tránh ướt chẳng thể nào được.
7.9. Chín là vô ích giới: Phải nên xa lìa hết thảy trò bỡn cợt, thi văn, trần duyên, chuyện giải thoát vô ích nơi cửa miệng!
7.10. Mười là chẳng trụ giới: Trì giới như trên chỉ là để sanh Tịnh Ðộ, lợi lạc chúng sanh, chẳng cầu được ngợi khen và các quả nhân, thiên, Nhị Thừa.
Bồ Tát hành các tịnh giới như thế thì có thể nhiếp chúng sanh sanh về Tịnh Ðộ.
8. Tịnh Xử môn:
Người học đạo đã có chí xuất trần thì hãy nên bỏ các chốn ác:
8.1. Một là chỗ phồn hoa huyên náo.
8.2. Hai là chốn ca lầu, tửu quán.
8.3. Ba là chỗ nóng bức, hun đốt.
8.4. Bốn là chốn bàn luận việc triều chánh.
8.5. Năm là chỗ ân ái trói buộc và chỗ thường đi chơi quen.
8.6. Sáu là thi đàn, văn xã, đua văn, kén ý.
8.7. Bảy là chỗ châm chọc cổ kim, sánh dài, đua ngắn.
8.8. Tám là chỗ giảng đạo học vô nghĩa vị.
8.9. Chín là chốn khoe khoang hiểu biết, đấu danh tướng, tiểu trí kiêu căng.
8.10. Mười là chỗ cuồng giải tông thừa, bàn xằng đốn ngộ, khinh thị giới luật.
Nhiễu đạo như thế có khác gì ma, vì vậy phải nên xa lìa. Nếu lìa được hết thảy các chỗ như vậy thì hết thảy đạo nghiệp sẽ hoàn thành.
9. Tịnh Lữ môn:
Hết thảy ngộ cơ nếu chẳng nhờ bạn bè thì chẳng thể phát khởi được. Hết thảy pháp ác nếu không bạn thì chẳng dứt được. Hành đạo cầu bạn thì phải phân biệt nghiêm nhặt bạn tịnh, bạn uế. Hãy nên thân cận:
9.1. Một là bạn nhàn nhã chốn núi rừng vì có thể dứt tâm thô tháo.
9.2. Hai là bạn nghiêm trì giới luật vì có thể làm cho lãnh đạm các dục
9.3. Ba là bạn trí huệ rộng lớn vì có thể khiến thoát khỏi bến mê.
9.4. Bốn là bạn tổng trì văn tự vì có thể dứt nghi nan.
9.5. Năm là bạn tịch mịch, khô khan vì có thể tấn, thủ điềm tĩnh.
9.6. Sáu là bạn khiêm tốn, nhẫn nhục vì có thể tiêu trừ ngã mạn.
9.7. Bảy là bạn thẳng tính nói thật vì có thể ngăn dè các ác.
9.8. Tám là bạn dũng mãnh, tinh tấn vì có thể mau đạt đạo quả.
9.9. Chín là bạn khinh tài, thích bố thí vì có thể phá lòng keo kiệt lớn lao.
9.10. Mười là bạn nhân từ thương yêu muôn vật, chẳng tiếc thân mạng vì có thể dẹp tan chấp trước ta người.
Nếu không có bè bạn thanh tịnh như vậy thì hãy nên lánh người, ở một mình, tự lo đạo nghiệp, lấy tượng làm thầy, lấy kinh làm bạn. Còn những bọn cười giỡn khác tuyệt chẳng giao du.
10. Bất Ðịnh Tịnh môn:
Căn khí chúng sanh lợi độn chẳng đồng. Các pháp như trên thì hạng thượng căn lợi khí mới làm trọn đủ nổi. Ðức Như Lai có phương tiện lạ, mở ra môn cửu phẩm, phân thành ba hạng tu tập: thượng, trung, hạ.
10.1. Một là hoặc hiểu Nghĩa Ðế, nhưng chưa hoàn toàn dẹp nổi hoặc chướng, hay là chẳng hiểu sâu nhưng có thể đọc tụng các kinh.
10.2. Hai là hoặc chỉ theo lời nói mà tin, hoặc do người khác mà tin, hoặc lâm cảnh bần cùng, mang nhục mà tin.
10.3. Ba là hoặc quán tượng vàng, hoặc tùy ý quán một tượng.
10.4. Bốn là hoặc sáng sớm mười niệm, trăm niệm, cho đến ngàn niệm.
10.5. Năm là hoặc sám hối các tập khí thô trọng và các nghiệp bất thiện.
10.6. Sáu là hoặc vì sợ sanh tử, hoặc gặp nạn khổ, phát nguyện vãng sanh, nhưng chẳng được phát nguyện hưởng các phước đức cõi trời, cõi người.
10.7. Bảy là hoặc chỉ giữ ngũ giới, bát giới, cho đến chỉ không giết, trộm, dâm, dối.
10.8. Tám là nếu chẳng thể lìa sạch hết thảy chốn ồn ào thì lúc nào cũng chỉ sanh tâm nhàm lìa.
10.9. Chín là nếu là người vướng bận các pháp thế gian, chưa thể đoạn ngay thì chẳng nên thuận theo chúng.
10.10. Mười là chỉ có mười niệm vào lúc lâm chung.
Ðối với các pháp như trên, nếu có thể chí tâm thọ trì một pháp thì đều được vãng sanh, nhưng chẳng được tin ngờ lẫn lộn. Nếu có nghi thì hết thảy các hạnh đều chẳng thành tựu.
Nhận định:
Mười môn tu trì của luận này bao trọn hết thảy pháp môn Niệm Phật. Luận Bảo Vương chép: “Niệm danh Phật ắt thành tam muội”, bất tất phải cầu khai ngộ hoặc quán tưởng, tham cứu, cũng chẳng bất tất phải miễn cưỡng tìm tòi tịnh xứ, tịnh lữ, chỉ cần dứt các tâm danh lợi v.v… Ðối với hết thảy chỗ huyên náo, tâm sanh chán lìa, đừng tùy thuận người còn vướng víu trong pháp thế gian, nên sanh tín, phát nguyện, nghiêm trì tịnh giới, nhiếp tâm niệm Phật, nguyện dốc lòng nhẫn đốn siêu ba a tăng kỳ.
Niệm Phật Pháp Yếu
Quyển thứ ba hết
(Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa dịch xong ngày 03 tháng 03 năm 2003)
Phụ lục
Ðại sư Liên Trì phổ khuyến giới sát, phóng sanh
Ai ai cũng yêu mạng, con vật nào cũng tham sống, lẽ đâu giết thân mạng chúng để no miệng mình. Hoặc mũi nhọn phanh bụng, hoặc dao sắc chọc tim, hoặc lột da, cạo vảy, hoặc cắt họng, bóc vỏ, hoặc nước sôi sùng sục nấu sống trạnh, lươn; hoặc muối, rượu muối sống cua, tôm. Ðáng thương thay! Ðau đớn cùng cực không cách giãi bày, khổ sở tột bậc khó lòng chịu đựng. Tạo tội ác ngập trời đến thế, kết thành muôn kiếp thâm thù. Một mai vô thường liền đọa địa ngục, vạc sôi, lò than, cây kiếm, núi đao, vừa chịu tội xong lại làm loài vật. Oán oán vay trả, mạng mạng đắp đền. Rốt cuộc làm người, lắm bệnh, yểu thọ, hoặc bị rắn, cọp cắn chết, hoặc chết vì nạn đao binh, hoặc chết trong vòng tù tội, hoặc chết vì độc dược, đều là do sát hại cảm thành.
Tôi nay ứa lệ máu, dập trán, ai cáo người đời: chẳng dám bức các vị ăn chay, trước chỉ khuyên nên tránh giết. Nhà giới sát thiện thần thủ hộ, tai hoạnh tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiền hiếu, cát tường đủ thứ, khó thuật trọn nổi. Nếu còn tùy sức phóng sanh, lại thêm niệm Phật, chẳng những phước đức tăng trưởng, ắt còn tùy nguyện vãng sanh, mãi thoát luân hồi, lên bậc Bất Thối.
Các nhân giả có duyên gặp lời này, xin hãy hồi tâm, quyết chí thọ trì, chớ sanh nghi hối. Nếu chưa làm được, hãy chuyển cho người khác thì công đức cũng vô lượng.
Nhận định:
Chẳng kết mối nợ oan nghiệt thì lâm chung không chướng ngại. Xin tất cả các đồng đạo niệm Phật hãy giới sát, phóng sanh để vãng sanh khỏi bị chướng duyên.