Ngày hôm sau chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình dài đến núi Ngũ Đài, ban ngày thì dãi dầu mưa nắng, ban đêm thì lặn lội gió trăng, hoặc vào xóm làng khất thực, hoặc xin thức ăn của nông phu. Đến ngày mồng một tháng ba, chúng tôi đến cửa Trường Thành, qua khỏi Quan Long Tuyền thì vào đến đất Sơn Tây. Chúng tôi đến Cựu Lộ Lãnh ở núi Ngũ Đài. Phòng dành cho khách tăng thập phương ở phía ngoài cổng chùa. Sau khi được an bài chỗ nghỉ, chúng tôi đi đến phòng Phương trượng định đảnh l- Hòa thượng Tam Muội, nhưng hai vị tăng người miền bắc giữ cửa nói với chúng tôi: “Có hương nghi mới cho vào, còn không thì mời ra ngoài.”
Chúng tôi thấy hai vị đó ăn nói thô lỗ, biết không cách nào phân trần, bèn trở về phòng. Tôi than thở với thầy Thành Chuyết: “Chúng ta từ vạn dặm xa xôi đến đây, bây giờ không có hương nghi lại không được gặp mặt thiện tri thức.”
Thầy Thành Chuyến nói: “Chớ lo, sáng mai hai người giữ cửa đi ăn sáng, chúng ta đến đảnh l- ngài.”
Sáng hôm sau chúng tôi nhịn đói, đi thẳng vào phòng Phương trượng đảnh l-. Hòa thượng hỏi: “Hai thầy từ đâu đến?”
Tôi trả lời: “Chúng con từ Vân Nam đến.”
Hòa thượng lại hỏi: “Đến đây làm gì?”
Nhân vì chúng tôi không có y bát nên không dám nói đến xin thọ giới mà chỉ nói đến triều sơn núi Ngũ Đài. Hòa thượng nói: “Văn Thù ở trong tâm các thầy, các thầy lại đi triều sơn. Phải nên nghĩ đến chuyện chân thực tu hành.”
Chúng tôi lạy tạ xong ra khỏi phòng. Do nhân duyên này tôi phát nguyện: “Ngày sau nếu làm thiện tri thức, quyết sẽ không nhận l- nghi của khách tăng, để cho những vị tăng nghèo được đến gặp mặt d- dàng.”
Chúng tôi bèn trèo núi, lên đến chùa Tháp Viện, trong chùa có hai vị huynh đệ phát tâm tụng năm bộ kinh lớn trong ba năm. Các vị ấy, sau khi biết chúng tôi từ Vân Nam đến bèn vui vẻ mời ở lại. Thầy Thành Chuyết tự nguyện phụ trách việc gánh nước, nhường tôi lên điện tụng kinh với các vị ấy. Thầy Thành Chuyết, sau khi hoàn tất công việc, thường chuyên tụng kinh Pháp Hoa. Ngoài những thời gian lên điện tụng kinh ra, tôi chuyên tâm đọc bộ Lăng Nghiêm Nghĩa Hải. Chúng tôi, miệng thì không nói chuyện tạp nhạp, mà chân thì cũng không tản bộ đó đây. Nửa đêm, lúc xả thiền, các chùa lớn nhỏ ở núi Ngũ Đài đều dùng bột lúa mạch nấu thành cháo đặc mà ăn. Vị Trụ trì trong chùa Tháp Viện là thầy Đức Vân, cùng các vị tăng trong chùa thấy chúng tôi siêng học, cả một tháng không hề thay đổi, đều sinh lòng tin tưởng kính mến, bèn mời chúng tôi đến dùng cháo chung với họ.
Tôi bàn với thầy Thành Chuyết: “Chúng ta đọc kinh trong phòng làm cho mọi người ngủ không yên. Điện Già Lam buổi tối có thắp đèn lưu ly, mà trong đó lại không có người. Chi bằng chúng ta đến chỗ đèn lưu ly đọc sách. Thứ nhất là không quấy nhi-u người khác, thứ hai là yên tĩnh d- chú tâm. Đến khoảng nửa đêm thì đi nghỉ.”
Tại núi Ngũ Đài, mùa xuân mùa thu khí trời đã rất lạnh, huống hồ mùa đông. Đến tháng mười, chúng tôi quần áo đơn bạc, tay nâng quyển kinh, đứng dưới đèn lưu ly để đọc. Lúc đang chuyên chú thì quên hết cảnh vật, không cảm thấy lạnh, nhưng đến lúc ngừng lại, xếp kinh để đi nghỉ, thì mới cảm thấy mấy ngón tay tê cóng không thể co giãn, hai bàn chân gần như không còn di động được nữa, toàn thân run lẩy bẩy, sự giá buốt hình như thấm vào tận trong gan phổi. Tuy thế, chúng tôi vẫn không nản lòng, trái lại chí nguyện càng ngày càng kiên cố.
Qua mùa xuân là đời Sùng Trinh năm thứ chín. Ngày đầu tháng hai, thầy Giác Tâm đi triều Nam Hải trở về lại Nam Kinh, tìm đến núi Ngũ Đài gặp chúng tôi. Vào giữa tháng ba, có một vị tăng người Hồ Nam đến triều sơn núi Ngũ Đài, hiệu là Kiểu Như. Thầy ấy đã từng cùng chúng tôi tại phủ Bảo Khánh nghe Đại sư Chuyên Ngu giảng Lăng Nghiêm Tứ Y Sớ. Thấy chúng tôi trong chùa, thầy bèn đến hỏi thăm. Có người hỏi lý do tại sao biết chúng tôi, thầy ấy bèn tường thuật lại việc chúng tôi đi hành cước cho mọi người nghe. Thầy Trụ trì Đức Vân sau khi nghe xong câu chuyện bèn thiết trai, tập họp tất cả đại chúng trong chùa, mời tôi giảng kinh Lăng Nghiêm. Nhân vì được mọi người trong chùa đối đãi quá hậu hĩ thành thử tôi không thể từ chối. Đến ngày mồng một tháng bảy thì giảng xong.
Từ lúc đến núi Ngũ Đài đến nay, chúng tôi chỉ ở chùa Tháp Viện, chưa có dịp đi thăm các chùa khác trong vùng. Thế nên, ngày mồng ba chúng tôi lên núi Đông Đài, thầy Trụ trì ở đó tiếp đãi chúng tôi theo nghi l- tiếp đãi các vị pháp sư. Kế đó, chúng tôi đến núi Bắc Đài, thầy tri sự ở đó cũng tiếp đãi chúng tôi như thế. Nhân đây trong tâm tôi cảm thấy hổ thẹn, thành thử không dám tiếp tục đi thăm các chùa khác nữa.
Đến ngày mồng tám, chúng tôi đến cáo từ thầy Trụ trì và chư tăng để đi Bắc Kinh cầu Hòa thượng Tam Muội truyền giới. Thầy Trụ trì cố gắng giữ chúng tôi lại không muốn cho đi, nhưng thấy tôi tâm chí kiên quyết, không muốn ở lâu, thành thử thầy ấy bèn chuẩn bị ba con la để đưa chúng tôi lên đường. Chúng tôi cùng nhau đến Cựu Lộ Lãnh tá túc một đêm. Ngày hôm sau, thầy Đức Vân chưa nỡ chia tay, theo ti-n chúng tôi đến Thọ Hạ Viện ở Đường Lê. Sáng hôm sau, sau khi ăn sáng, chúng tôi bèn bái biệt, thầy Đức Vân nước mắt quanh tròng, chúc chúng tôi lên đường, nói: “Sau khi thọ giới xong, mời quý thầy trở lại
Ngũ Đài. Xin đừng phụ lòng mong đợi của chúng tôi.”
Ngày mười chín tháng bảy, chúng tôi đến phủ Bảo Định, bèn đến tá túc tại chùa La Hầu ở phía tây cầu Phương Thuận. Thầy Thành Chuyết, lúc ở núi Ngũ Đài đã từng hẹn với một vị đạo sĩ, nên đến Thường Châu gặp vị ấy. Khoảng xế trưa ngày hôm sau, chúng tôi ra phía ngoài chùa tản bộ, thấy phía xa có một khu rừng rậm rạp, bèn cùng các bạn đồng hành sáu người đến đó. Vì ham hóng mát, chúng tôi đã ngồi mãi cho đến khi mặt trời xế bóng. Nhìn lên không trung, bỗng thấy có mấy cụm mây hình như bụi mù, sau đó lại nghe tiếng người nhốn nháo từ xa vẳng lại. Từ từ đám bụi ùn lên như mây, một lúc sau, chúng tôi thấy một đám người già trẻ nam nữ từ xa ùn ùn chạy đến như núi lở sóng trào, mới biết là quan quân đang truy lùng tới. Những người đang ngồi bèn chạy tán loạn, chỉ còn thầy Giác Tâm là chạy theo tôi. Hai chúng tôi không thể trở lại chỗ cũ, mà cũng không thể đi theo đường lớn, bèn tất tả chạy về hướng nam. Mỗi đêm chỉ tá túc ở những am nhỏ, ngoài ra mỗi ngày chỉ ăn được một bữa.
Trèo non lội suối, đi lạc đường, rồi lại đi đường vòng. Một hôm bụng đói, chúng tôi bèn tạm ngồi nghỉ ở dưới gốc cây bên cạnh một ngôi mộ. Tôi nói với thầy Giác Tâm: “Chúng ta từ Vân Nam đi xuống Giang Nam, rồi từ nam đi lên bắc, nay lại từ bắc xuống nam. Đi tới đi lui đã hơn hai vạn dặm. Lặn lội một cách vô ích, chí nguyện thọ giới vẫn chưa thành tựu. Thầy bổn sư đặt cho tôi hiệu Thiệu Như, là hy vọng tôi sẽ hoằng pháp lợi sanh; nay kể như tuyệt phận, thực cảm thấy rất hổ thẹn. Lại nữa, pháp danh của tôi là Độc Thể. Thể tức là thân, tức là pháp thân lý thể. Đọc (Hán: Độc) kinh là để hiểu lý, lý đã hiểu thì phải quên lời. Giống như nhân có ngón tay mới thấy được mặt trăng, thấy được mặt trăng rồi thì phải quên ngón tay. Từ hôm nay tôi sẽ đổi
hiệu là Kiến Nguyệt.”
Hai chúng tôi càng nghĩ càng buồn, bất giác rơi lệ, không thể kềm chế được. Có một ông lão đi ngang qua, thấy chúng tôi ngồi thở than buồn bã, bèn hỏi lý do. Tôi bèn thuật lại nỗi khổ hành cước mà không toại được chí nguyện. Ông lão cũng than thở không nguôi, nói với chúng tôi: “Tôi họ Lý, hiệu là Trường Trai Đạo Nhơn, ở một mình không có thân thuộc, hồi xưa làm nghề dạy học, nhân vì thời cuộc loạn lạc nên trở về nhà. Nhà tôi ở phía trước mặt. Xin mời hai thầy về nhà nghỉ một đêm, ngày mai lên đường.”
Khi đến nhà ông lão, thì thấy nhà ông đã bị cướp sạch không còn một món. Ông lão đến nhà hàng xóm mượn một ít bột xấu, làm bánh cúng dường. Ngày hôm sau chúng tôi từ biệt lên đường.
Chúng tôi đi được sáu ngày thì đến Đại Đạo ở huyện Nam Cung. Đến trưa vẫn không có chỗ khất thực. Chúng tôi nhìn thấy phía xa có một cái am nhỏ, bèn đi đến đó. Tôi dặn thầy Giác Tâm ở ngoài, rồi bước vào am một mình. Thấy trong am chỉ có một vị sư già đang nhóm lửa mà không ai phụ giúp. Tôi chắp tay vái chào, nhưng thầy ấy làm ngơ như không thấy. Tôi bèn giúp thầy ấy nhóm lửa nấu cơm. Sau khi cơm chín, thầy ấy cũng chẳng mời tôi, cứ ngồi ăn một mình, tôi cũng lấy bát xúc cơm ăn. Hai người không nói với nhau lời nào. Thầy ấy vừa ăn xong một bát thì tôi đã xúc bát thứ hai. Thấy thế thầy ấy bèn nói: “Trên đời chưa thấy ai như thầy, chủ chưa mời đã tự tiện lấy ăn.”
Tôi trả lời: “Trên đời cũng chưa thấy ai như thầy, thấy khách đến không mời cơm mà lại tự ăn trước.”
Thầy ấy nghe thế bèn cười lớn nói: “Tôi cũng là người tu thiền. Ngày trước cũng đã từng đi tham phỏng các vị thiện tri thức. Vì không lịch duyệt nên phần nhiều phải nhẫn chịu đói khát, giống như thầy ngày hôm nay. Xin tùy tiện dùng cơm.”
Tôi nói: “Ngoài cửa còn có một vị đạo hữu.”
Thầy ấy vui vẻ nói: “Mời vào để cùng dùng cơm.”
Hai chúng tôi dùng cơm no xong, xin cáo từ. Thầy ấy bèn giữ chúng tôi ở lại ba ngày.
Ngày mồng một tháng chín đến Qua Châu ở Giang Nam, tá túc ở am Tức Lãng, gặp một thầy người Vân Nam, hiệu là Thanh Như. Bàn đến chuyện hành cước mới biết thầy ấy ở miền bắc gặp nạn đao binh nên trở về nam. Ngày hôm sau thầy ấy cùng chúng tôi qua sông, đến chùa Cam Lộ. Thầy tri sự, hiệu là Bình Tố, cũng là người cùng tỉnh với chúng tôi, từ lâu đã ở phủ Trấn Giang, có rất nhiều đệ tử. Thầy ấy rất thích những vị tăng từ Vân Nam đến Giang Nam cầu học. Thầy Thanh Như đến gặp thầy Bình Tố trước, nói về việc chúng tôi. Sau đó chúng tôi đến đảnh l- ra mắt. Thầy Bình Tố hỏi chúng tôi nguyên do gặp nạn đao binh, tôi bèn tường thuật lại câu chuyện, thầy ấy an ủi nói: “Tôi lúc nhỏ đi tham phỏng thiện tri thức, cũng đã gặp nhiều nghịch cảnh, nhưng đạo tâm không hề thoái chuyển. Ngày nay mới có những nhân duyên như vầy. Hai vị đi tìm thầy thọ giới, lên bắc xuống nam, gặp bao nhiêu việc gian nan mà vẫn không xao lãng chí nguyện ban đầu, ngày sau nhân duyên hoằng pháp tự nhiên sẽ thù thắng. Hai thầy cứ an tâm ở lại đây. Sang năm, ngày nguyên đán năm Sùng Trinh thứ mười là ngày lâm nạn của mẹ tôi (nghĩa là ngày sinh nhật của tôi), tôi sẽ cho tụng năm bộ kinh lớn để báo ân. Hai thầy có thể tham dự tụng kinh. Còn chỗ ăn ở của hai thầy tôi sẽ lo liệu hết.”
Chúng tôi tạm trú tại chùa cho đến hết kỳ tụng kinh báo ân mẹ thầy ấy thì cáo từ. Tôi nói: “Hòa thượng Tam Muội vẫn còn ở miền bắc, không thể lên được. Phải đợi Hòa thượng vào nam rồi sẽ xin thọ giới. Hiện nay chúng con muốn đến chùa Thiên Đồng để tham thiền.”
Thầy Bình Tố khen hay, bèn giúp chúng tôi chuẩn bị. Ngoài hành lý ra còn tặng chúng tôi mỗi người hai lượng rưỡi bạc làm tiền lộ phí.
Ngày mồng ba tháng hai, chúng tôi đến bến đò huyện Đan Dương, muốn lên thuyền buôn để đi. Thầy Giác Tâm đem hành lý của hai người để dưới chân, thấy mấy người lái đò dành giật hành khách, xô qua lấn lại, bất giác hành lý bị người khác trộm mất. Chúng tôi than trách duyên phận gì mà phải đến nỗi này! Cũng may là tôi vẫn còn mang tiền lộ phí trên mình. Khoảng xế trưa đến xin tá túc ở am Hải Hội, người trong am thấy chúng tôi không có hành lý bèn không chấp thuận. Chúng tôi thuật lại chuyện bị mất hành lý ở bến đò, nhân vì am ở cách bến đò không xa nên họ đã ra đó hỏi hư thực. Sau khi biết sự thực, họ bèn cho chúng tôi tá túc. Gặp hai vị du tăng, lúc trước khi chúng tôi lên miền bắc đã từng đi chung với họ mấy ngày. Họ biết chúng tôi đang đi hành cước, bèn nói: “Hai thầy đi cầu thọ giới, Hòa thượng Tam Muội đã rời Bắc Kinh. Tháng giêng vừa qua đã ở tại chùa Thạch Tháp, phủ Dương Châu khai giới đàn. Hiện nay nhân vì am Hải Triều ở huyện Đan Đồ thỉnh cầu, cho nên ngày mồng tám tháng hai này sẽ khai giới đàn ở đó. Hai thầy tại sao không đi nhanh đến đó để xin thọ giới.”
Chúng tôi nghe xong, bao nhiêu sầu muộn tự nhiên tan biến.
Hôm sau tôi và thầy Giác Tâm quay về am Hải Triều, thì đúng lúc Hòa thượng vừa đến am. Nghe nói thầy Giáo thọ là người Hồ Nam, hiệu là Huân Lục, tính tình độ lượng, thông minh khéo léo, phụ giúp Hòa thượng trong việc giáo hóa rất là uy nghiêm, và thầy ấy sẽ là người điều khiển tất cả mọi việc trong kỳ truyền giới. Chúng tôi xin thầy tri khách cho phép chúng tôi vào đảnh l- thầy Giáo thọ. Thầy ấy hỏi quê quán, tôi trả lời là người Vân Nam. Thầy nói: “Kỳ truyền giới này là do thầy tri sự muốn an táng sư phụ nên tổ chức. Mỗi người phải đóng lệ phí là một lượng bạc, y bát phải tự lo liệu lấy.”
Tôi nói: “Hành lý bị mất sạch ở bến đò Đan Dương,
chỉ còn tiền lộ phí là hai lượng rưỡi bạc.”
Thầy Giáo thọ nói: “Tiền này chỉ đủ đóng lệ phí và làm y bát cho một người.”
Tôi liền xin cho thầy Giác Tâm được ghi danh thọ giới, thầy Giáo thọ bèn đưa tôi qua Giới đường, còn thầy Giác Tâm thì vào ban Hành đường.
Thầy Dẫn l- của Giới đường, pháp hiệu là Viên Nhĩ, là người Sơn Đông, tính tình ngay thẳng, nhưng lại thiếu tế nhị. Thấy tôi không có hành lý, không chịu thỉnh Giới bổn để đọc, cả ngày cứ ngồi yên trên đơn, tuy không phạm quy luật, nhưng cũng không chịu đến thưa hỏi, thầy ấy tỏ vẻ không thích, bèn lên tiếng la rầy: “Kiến Nguyệt, ở đây không phải là chỗ để im lặng tọa thiền, tại sao không đi thỉnh Giới bổn để đọc cho thuộc.”
Tôi trả lời: “Con không biết chữ, vả lại cũng không có tiền thỉnh Giới bổn.”
H- mỗi khi có một người xin thọ giới vào Giới đường, thầy Dẫn l- liền gọi: “Kiến Nguyệt, thầy lại ngồi đây, nhường chỗ cho người sau tới.”
Tôi cứ y như lời, đem y bát dời đến phía sau mà ngồi. Sau đó có hơn mười người mới đến, thầy cứ kêu tôi ngồi thụt ra phía sau để nhường chỗ. Cuối cùng có một người mới vào, thì không còn đơn trống ở trên cao, thầy bèn kêu tôi ngồi xuống đất với thầy Hương đăng. Tôi hoàn toàn không kêu ca lời nào cả, cho là như việc đùa giởn. Các vị giới huynh đều cảm thấy bất bình, cho rằng tôi là người quá khiếp nhược. Tôi nói: “Tu hành phải lấy sự nhẫn nhục làm gốc, huống gì toàn là đồng giới với nhau, đáng lý phải nên nhường cho kẻ khác.”
Đến lúc trả bài “Tỳ Ni Nhật Dụng”, thầy Dẫn l- đem tên tôi đặt lên hàng đầu, ý muốn tôi phải khẩn cầu thầy ấy. Các vị giới huynh đều lo dùm cho tôi, nói: “Nếu như thầy không thuộc, tại sao lại không cầu thầy ấy đổi thứ tự.”
Tôi nói: “Đợi đến ngày mai xem sao.”
Ngày hôm sau, thầy Dẫn l- cầm bản danh sách, dẫn chín người chúng tôi đến trước thầy Giáo thọ, lạy xong, tôi liền lớn tiếng đọc rõ ràng một hơi, tựa như giòng nước tuôn cuồn cuộn, cho đến hết. Thầy Giáo thọ nói: “Mỗi ngày thầy ngồi im lặng, nói là không biết chữ, tại sao hôm nay lại đọc một cách suông sẻ lưu loát như thế!”
Tôi nói: “Không phải là con không biết chữ, nhưng vì không có tiền để thỉnh Giới bổn, thành thử ngồi im, lắng nghe các giới huynh ở đơn bên cạnh đọc tụng, do đây mà nhớ.”
Thầy Giáo thọ bèn rất hoan hỷ, đãi tôi một chung trà. Khi trở lại Giới đường, các giới huynh đều lại chúc mừng. Trong các vị đồng giới, tâm đầu khế hợp nhất có mười ba vị.
Kỳ này thầy A xà lê Hương Tuyết phụ trách giảng kinh Phạm Võng, bốn vị bản thủ luân phiên giảng lại. Một hôm thầy Thủ tòa, hiệu là Lạc Như, giảng lại, nhưng thầy chỉ biết lặp lại những điều mà Hòa thượng đã giảng, ngoài ra chẳng thêm được một chữ, chẳng giảng được thêm một nghĩa gì mới. Tôi và các vị giới huynh thân nhất ngồi thành một hàng, quay đầu nhìn nhau, bất giác mỉm cười. Thầy Thủ tòa thấy được, trong lòng không vui; lúc trở lại Giới đường, bèn ghi tên mười ba người chúng tôi vào danh sách “giảng lại”. Trong các giới đàn từ trước đến nay, đối với các vị sa di chưa bao giờ có việc này. Thông thường, không có cách nào khác hơn là tìm cách sám hối với các vị chấp sự. Thế nhưng, quá ba ngày vẫn không thấy có ai đến cầu sám hối, thầy Thủ tòa không còn cách nào hơn là đem danh sách chúng tôi trình lên thầy Phương trượng. Hòa thượng lại tưởng là thầy Thủ tòa thực tâm tiến cử, bèn chấp nhận cho mười ba người chúng tôi được “giảng lại”. Đây đúng là “lộng giả thành chơn” (làm giả mà hóa ra thực), không còn cách nào đình chỉ được nữa. Đến ngày tôi phải lên tòa “giảng lại”, trong ngoài đều cảm thấy kinh hãi, mọi người đều đến tụ họp để nghe. Hòa thượng và hai vị A xà lê cũng đến ngồi phía sau từ bi ủng hộ tinh thần. Bài giảng chủ đề là “Thập Kim Cương Chủng Tử, Đệ Thập Tín Tâm Vị” trong quyển thượng của Kinh Bồ Tát Giới Phạm Võng. Sau khi mở kinh đọc chánh văn xong, tôi bèn trước tiên giảng phần huyền đàm về nghĩa lý chính yếu, sau đó y vào chánh văn để giải thích. Lúc giảng xong xuống đài, mọi người đều nức nở ngợi khen. Hòa thượng và hai vị A xà lê cũng đều hoan hỷ khích lệ, bèn đưa tôi vào l- tạ thầy Phương trượng. Hòa thượng tặng cho tôi mền, áo và giầy.
Thầy Huân Lục hỏi: “Thầy đã nghe ai giảng kinh?”
Tôi nói: “Dạ thưa, lúc ở Vân Nam nghe thầy bổn sư giảng, lúc đi hành cước đến phủ Bảo Khánh, nghe thầy Tự Như, thay thế Đại sư Chuyên Ngu giảng Lăng Nghiêm Tứ
Y Giải.”
Thầy Huân Lục nói: “Đại sư Chuyên Ngu là thầy y chỉ, còn thầy Tự Như là bạn thân của tôi. Tại sao thầy không cho tôi biết sớm?”
Thầy Huân Lục đối với tôi càng gia tăng sự kính mến, liền tặng cho thầy Giác Tâm y bát để vào Giới đường thọ giới.
Vào ngày hai mươi tháng ba, sau giờ ngọ, có người cháu của nhà họ Hạ ở Đan Dương, là một thư sinh thiếu niên, tính tình ngạo mạn, không tin Tam Bảo, sau khi uống rượu say sưa, bèn vào am đi thẳng đến phòng Phương trượng, ngồi trên pháp tòa của Hòa thượng, cười nói huyên náo. Thầy Thị giả khuyên gián gã ta, nhưng gã không nghe mà còn mắng nhiếc, các vị tăng trong chùa không phục, bèn tống cổ gã ra khỏi chùa. Sáng hôm sau, gã cầm đầu một nhóm bạn bè đến chùa gây sự. Hòa thượng bèn hoãn ngày thọ giới Cụ túc lại.
Những thời công phu chiều trong chùa, đều có nhiều cư sĩ tại gia đến tùy hỷ tham dự. Thầy Huân Lục muốn tìm biện pháp để chấm dứt sự gây hấn, bảo toàn đạo trường, nên sau thời công phu chiều, tập họp mọi người đến trước tượng Vi Đà, bạch với đại chúng: “Hiện giờ đạo trường đang bị ma quỷ phá phách, chưa thể giàn xếp ổn thỏa. Trong đám các vị đệ tử đây, có ai là người dám xả bỏ thân mệnh để bảo hộ pháp môn, xin bước ra tình nguyện gánh vác.”
Hỏi như vậy xong, mọi người đều im lặng, không ai dám lên tiếng. Tôi bèn lên tiếng hưởng ứng, dõng dạc bước ra phía trước, đảnh l- thầy Huân Lục. Thầy ấy nói: “Thầy có một mình, tại sao muốn làm việc này!”
Tôi nói: “Đệ tử thọ giới của Hòa thượng đầy khắp thiên hạ, con là người tự nguyện ra trước, những người khác sẽ theo sau. Người xuất gia không có vợ con để lưu luyến, không có sản nghiệp ràng buộc, không có công danh để ôm giữ, không có thân mệnh để tham tiếc. Đi khất thực qua ngày, không mang theo tiền lộ phí. Tá túc ở tùng lâm, không phải đóng tiền nhà. Phàm đã là tăng, thì phải dùng giới luật làm thân thuộc, huống hồ vì muốn bảo vệ pháp môn, ai mà không dũng cảm! Xin Hòa thượng và hai vị A xà lê an tâm, không phải lo lắng về việc này. Còn như trong nhóm bè đảng của bọn họ, nếu có kẻ nào dám xả bỏ vợ con, sản nghiệp, vứt bỏ công danh, thân mệnh, xin cứ tự nhiên đến đây nói chuyện với tôi! Nếu không, xin mỗi người tự lo lấy sự học, bồi dưỡng đạo đức của mình. Từ xưa đến nay, những kẻ có đức hạnh, giỏi văn chương, đều không phụ danh phận nho sĩ của mình. Đối với công danh sự nghiệp, phải là bậc đại trượng phu trong thiên hạ. Há có thể vì chuyện thị phi của kẻ khác mà làm táng thất đức hạnh của mình?”
Thầy Huân Lục nói: “Thầy hôm nay ở trong chúng dám nhận đảm đương, ngày sau cũng phải nên theo lời đây mà thực hành. Nếu thế, pháp môn lo gì mà không được an định, ma chướng lo gì mà không bị diệt trừ!”
Sau khi mọi người giải tán, các vị cư sĩ đến tham dự khóa tụng hàng ngày cũng được loan báo về buổi họp vừa qua. Các vị ấy cũng tuần tự loan truyền sự việc này cho mọi người trong vùng biết.
Ngày hôm sau, sau giờ ngọ, có khoảng hơn hai mươi vị tại gia, đều là những bậc tai mắt trong giới nho sĩ, cùng các bậc kỳ lão trong vùng, đến chùa yết kiến thầy Huân Lục. Bọn họ cũng mời tôi đến tham dự buổi họp, dùng lý lẽ để giảng hòa. Sau đó, ngày truyền giới Cụ túc được ấn định lại vào ngày mồng tám tháng tư.
Hòa thượng tập họp các vị tăng chấp sự tại phòng Phương trượng, nói hai thầy A xà lê và các vị thượng tọa theo hầu ngài lâu năm: “Nếu không có việc ma chướng xảy ra kỳ này, thì chúng ta cũng không biết có thầy Kiến Nguyệt. Các vị đem pháp làm thầy, phải nên can đảm hành động giống như thầy ấy. Trong kỳ giới này tôi đã tìm được người (kế vị).”
Các vị ấy nghe xong, đảnh l- Hòa thượng rồi cáo lui. Hai thầy A xà lê chỉ bảo, dặn dò chúng tôi mười ba người phải thường theo hầu Hòa thượng, hy vọng sau này sẽ trở thành rường cột của tông môn.
Ngày mồng mười, chúng tôi trở về chùa Thạch Tháp. Có chùa Huệ Chiếu thỉnh cầu Hòa thượng vào ngày hai mươi tháng tư khai giới đàn.
Ngày mười tám tháng năm là l- Đại Thọ của Hòa thượng, các vị đồng giới đều không chuẩn bị l- vật, tôi bèn đề nghị các vị ấy làm một cuộn giấy dài, tôi sẽ dùng nó để vẽ bức họa “Năm mươi ba cuộc tham bái thiện tri thức của Thiện Tài Đồng Tử”, để làm quà chúc thọ Hòa thượng. Tôi vì phải vẽ bức họa thành thử không có thì giờ rảnh để tùy chúng trong kỳ truyền giới. Hòa thượng nghe được việc này, bèn cho tôi vào phòng ngài để vẽ cho yên tĩnh. Ngài lại cười nói: “Kiến Nguyệt, con mới vừa đăng giới phẩm là đã được vào phòng của ta!”
Tôi cảm thấy hổ thẹn, bèn đảnh l- tạ ơn.
Ngày hai mươi tháng sáu, có một vị họ Trịnh ở Hải Đạo, thỉnh Hòa thượng mở pháp hội Vu Lan Bồn ở chùa Thạch Tháp, đồng thời giảng Hiếu Hành Sao. Hòa thượng bảo tôi đến chùa Huệ Chiếu thay mặt thầy A xà lê Hương Tuyết giảng Phạm Võng Trực Giải, còn thầy ấy thì trở về chùa Thạch Tháp thay mặt Hòa thượng giảng Hiếu Hành Sao. Đến ngày mười lăm tháng bảy, khóa giảng ở hai nơi đều viên mãn.
Thầy Hương Tuyết khai thị cho các bạn đồng giới của tôi, bảo họ thỉnh cầu Hòa thượng đổi pháp danh, để thuận tiện trong việc thường theo phụ giúp Hòa thượng. Các bạn đồng giới đều tuân lời, bèn đến phòng Phương trượng, tranh nhau lạy Hòa thượng cầu được đặt pháp danh mới. Chỉ có tôi là lui về phía sau, đảnh l- Hòa thượng xong, bèn quỳ xuống bạch với ngài: “Con nhân vì được sự chỉ thị của thầy bổn sư, thành thử mới rời Vân Nam đến đầy cầu xin Hòa thượng cho con được thọ giới. Nếu như không có thầy bổn sư thì không thể xuống tóc xuất gia, cũng không thể thọ cụ túc giới làm tăng. Khẩn cầu Hòa thượng từ bi cho phép con vẫn được giữ pháp danh cũ, để con không quên cội gốc của mình. Con nguyện sẽ theo hầu Ngài trọn đời.”
Hòa thượng nói: “Lúc ta mới thọ giới, các vị thượng tọa cũng khuyên ta cầu xin Tổ đổi pháp danh. Nghĩ lại, Luật tổ chữ húy là Như, ta thì pháp danh chữ Tịch, còn thầy bổn sư của ta chữ húy là Hải. Ta không dám quên nguồn gốc của mình, mà sửa pháp danh cao hơn chữ Hải. Ta đã hoằng pháp hơn ba mươi năm, nay thấy con có cùng tâm nguyện như ta, quả thật là con không tự khinh. Vả lại, làm bậc thiện tri thức, điều quan trọng là chú trọng sự trau dồi đức hạnh của mình, chứ không phải là tên gọi. Cho phép con giữ pháp danh cũ.”
Lúc đó có am Tỳ Ni ở huyện Thái Hưng thỉnh Hòa thượng khai giới đàn vào ngày mười lăm tháng tám. Mọi người đều sẽ tháp tùng. Buổi tối ngày mồng mười, thầy Giáo thọ Huân Lục bạch Hòa thượng chỉ định ban chấp sự mới, thầy ấy nói: “Con đảm nhiệm giáo thọ các vị mới thọ giới đã lâu, hiện nay khí lực không đủ, tinh thần càng lúc càng suy nhược. Thỉnh Hòa thượng thiết lập chức vị Tây đường, phụ trách việc giáo giới, lại kiêm tổng lý các vấn đề giới luật. Đơn vị này sẽ được đặt định tại Thủ đường, quản lý những người mới thọ giới. Chức vụ này chỉ có thầy Kiến Nguyệt mới có thể đảm đương. Thỉnh Hòa thượng giám xét!”
Hòa thượng liền triệu tập các vị chấp sự đến phòng phương trượng, làm yết ma bạch chúng, bổ tôi vào chức vị mới. Tôi quỳ bạch: “Con mới vừa thọ giới Cụ túc vào mồng tám tháng tư năm nay, chưa được nửa năm, đâu dám gánh vác việc to lớn. Vả lại, con chưa am tường giới luật, đâu dám dạy bảo người khác. Chỉ sợ không những vô ích cho những vị mới thọ giới, mà hơn nữa, lại còn phụ ơn của các thầy. Thỉnh cầu Hòa thượng tuyển chọn các vị thượng tọa mà giao phó cho trách nhiệm này.”
Hòa thượng nói: “Thầy Giáo thọ Huân Lục đề cử quyết định không sai. Ta cũng biết rõ lòng con. Các vị Bồ tát Thập Địa vẫn còn phải ở địa vị học tập tu hành. Nay con không nên ngại gì về việc vừa tự học lại vừa dạy bảo người khác. Nếu con hiểu lòng ta thì nhân đây sẽ thành tựu sự lợi mình lợi người.”
Tất cả mọi người đồng thanh bảo tôi: “Nên thuận tùng mệnh lệnh của Hòa thượng. Không thể chối từ!”
Tôi bèn đảnh l-, tiếp nhận sự chỉ định của Hòa thượng. Trong các bạn đồng giới, các thầy Ánh Vũ, Thương Ngộ được bổ vào chức vụ Thư ký, còn các thầy Huệ Sanh, Dĩ Nhận, Dụ Như, Nhược Ngu, Quán Chi, v.v…, thì được làm Dẫn l-. Mọi người đều phấn chí nỗ lực. Các vị chấp sự dưới quyền Hòa thượng, chưa bao giờ có các vị đồng giới tham dự một cách nhiệt liệt mạnh mẽ, tợ hồ sóng biển như vậy. Vị Dẫn l- của Thủ đường là thầy Viên Nhĩ, tức là thầy Dẫn l- thọ giới của tôi. Tôi tuy ở chức vị cao, nhưng trong mọi hành động đều vẫn cư xử với thầy ấy như bậc thầy, còn thầy ấy cũng không chấp nhất, mỗi khi phải thi hành đúng quy luật, đều nhường cho tôi đi trước. Thế nhưng, trong tâm tôi cảm thấy rất hổ thẹn, nếu như gặp những người thích học giới luật đến hỏi, thì làm sao giải thích sự thắc mắc của họ khiến cho họ hoan hỷ? Nhân đây tôi tìm đến phòng thầy Huân Lục, trình bày tâm sự của mình. Thầy ấy nói: “Trong Đại Tạng Kinh, giới luật Đại thừa, Tiểu thừa, tổng cộng có hơn ngàn quyển. Tôi cũng chưa đọc qua. Nếu thầy đã có chí nguyện, thì có thể thỉnh về học tập, để ngày sau làm Đại luật sư. Như thế thì sẽ không phụ lòng tôi, đã ở trong đám đông tìm ra thầy.”
Tôi bèn nhờ người đến huyện Gia Hưng thỉnh về một pho Quảng Luật. Từ đấy, ban ngày thì tôi tổng quản lý vấn đề quy luật của các đường, ban đêm thì chong đèn đọc sách luật. Mỗi khi gặp những đoạn văn cổ tối nghĩa, không biết hỏi ai, tôi bèn đóng sách lại thở dài. Chỉ còn có cách l- lạy thỉnh cầu chư Phật Bồ tát gia bị khiến cho được thông hiểu. Sau khi l- lạy xong, tôi ngồi lắng tâm một lúc, sau đó lại mở quyển sách ra, suy ngẫm nghĩa lý, thì cũng giống như “mở cửa thấy núi (Hán: khai môn kiến sơn)”, tự nhiên thông suốt, không còn một chút nghi ngờ nào hết. Sự cảm ứng như thế, lần nào cũng giống như vậy.
Lần truyền giới kỳ này, dự định vào ngày mười lăm tháng mười thì hoàn tất. Ba ngày trước đó, các vị tân giới tử hợp nhau làm một tấm y bằng tơ màu vàng tặng cho tôi, để tạ ơn dạy dỗ không biết mỏi mệt. Tôi bèn nói với bọn họ: “Hòa thượng và thầy Giáo thọ đã đem trách nhiệm quan trọng này giao phó cho tôi, đúng lý tôi phải tận tâm phục vụ, giúp đỡ các ngài trong việc giáo hóa. Tôi đâu phải vì tham danh tham lợi mà đảm nhiệm chức vị này.”
Nói xong, tôi bèn nghiêm nghị chối từ. Bọn họ bèn đem tấm y đến phòng Phương trượng quỳ lạy, trình bày lý do tại sao họ muốn cúng dường tấm y. Hòa thượng bảo tôi: “Trong giới luật chỉ cấm sự tham cầu, chứ không cấm việc do người khác bố thí. Con có thể nhận lấy.”
Tôi bạch Hòa thượng: “Con không nhận tấm y này là có hai lý do. Một là hổ thẹn giới đức của mình vẫn còn yếu kém mà đã gánh vác trách nhiệm lớn, sợ rằng mình có những khiếm khuyết, kẻ khác nhân đây mà hủy báng; hai là pháp môn của Hòa thượng cao vượt, sợ những vị chấp sự sau này cho đây là một việc thông thường. Cho nên con mới khước từ.”
Hòa thượng gật đầu, bảo các tân giới tử: “Thầy Tây đường không nhận y là muốn hoàn thành đức hạnh của mình, bảo hộ pháp môn. Các con cũng không nên cưỡng ép.”
Ngày mười tám tháp tùng Hòa thượng trở về chùa Thạch Tháp ở Dương Châu. Chùa Thừa Thiên ở Cao Bưu thỉnh Hòa thượng khai giới đàn vào ngày mồng một tháng mười hai, đến ngày mười lăm tháng giêng thì viên mãn. Tôi vẫn đảm nhiệm chức vụ Tây đường.
Đời Sùng Trinh năm thứ mười một, ngày mười bảy tháng giêng, chúng tôi trở về chùa Thạch Tháp. Am Thiện Khánh trong phủ thỉnh Hòa thượng khai giới đàn vào ngày hai mươi tháng giêng, cho đến giữa tháng ba thì hoàn tất. Tôi vẫn đảm nhiệm chức vụ Thủ đường. Sau đó chùa Bảo Công ở trấn Thiệu Bá thỉnh Hòa thượng khai giới đàn vào ngày mồng tám tháng tư. Kỳ này tôi đảm nhiệm chức vụ Tây đường. Sau khi giới kỳ viên mãn, chúng tôi lại quay về chùa Thạch Tháp ở Dương Châu.
[Mấy năm trước] đời Sùng Trinh năm thứ bảy, lúc Hòa thượng đang hoằng pháp ở Bắc Kinh, con gái Hoàng đế Thần Tông là Công chúa Vinh Xương và Phò mã Dương Công, đã hướng dẫn toàn bộ thuộc hạ trong dinh đến quy y, đồng thời cúng dường ba bộ tăng già lê (đại y) quý. Một bộ cúng dường Hòa thượng, một bộ cúng dường thầy A xà lê Hương Tuyết, còn một bộ cúng dường thầy Giáo thọ Huân Lục. Đến hôm nay, thầy Huân Lục ôm bộ tăng già lê đến đảnh l- Hòa thượng, đôi mắt ứa lệ, bạch với ngài rằng: “Con theo hầu Hòa thượng, đảm nhận chức vụ Giáo thọ đã được mười một năm. Mỗi kỳ truyền giới, con thường để ý quán xét phẩm cách của các tân giới tử, trắc nghiệm tâm tánh, hành vi của các vị ấy, rất mong muốn tìm một vài vị phụ giúp Hòa thượng trong việc hoằng hóa, đến nay trong kỳ truyền giới ở am Hải Triều thì tìm được thầy Kiến Nguyệt. Con cảm thấy gần đây cơ thể tinh thần của con đều suy giảm, ăn uống mỗi ngày một ít ỏi. Con biết chẳng còn bao lâu nữa con sẽ từ trần. Nay con xin khẩn thiết thỉnh cầu Hòa thượng từ bi, đem bộ tăng già lê mà Công chúa Vinh Xương đã cúng dường này, giao lại cho thầy Kiến Nguyệt. Con đã tìm được người hiền, thì nay có chết đi cũng toại nguyện.”
Hòa thượng khen thầy Huân Lục: “Thầy đúng là đệ tử ruột của ta, nghĩ đến tiền đồ của pháp môn mình.”
Sau đó Hòa thượng triệu tập các vị chấp sự đến làm chứng minh. Ngài tự tay đem bộ tăng già lê giao cho tôi, ngài nói: “Con nên phụ giúp cho ta, giống như thầy A xà lê Huân Lục vậy.”
Tôi vô cùng cảm động, nước mắt dầm dề ướt cả tay áo, đảnh l- nhận thọ. Tôi dám nói rằng: “Cha mẹ tuy là bậc sanh thành, nhưng thầy Huân Lục mới là người tri kỷ của tôi. Ơn lớn như vậy, chỉ có sự hoằng pháp lợi sanh mới có thể báo đáp được mà thôi.”
Khoảng giữa tháng sáu, Hòa thượng theo lời thỉnh cầu bèn khai giới đàn tại chùa Đàn Độ ở Thanh Giang Phố, huyện Hoài An. Ngày ba mươi tháng bảy, sau khi truyền giới cụ túc, Hòa thượng bèn đi thăm núi Vân Đài ở Đông Hải, ngài dặn tôi ở lại lo công việc cấp phát giới điệp, sau khi xong lên núi gặp ngài. Tháng tám tôi lên núi Vân Đài gặp Hoà thượng, đến ngày ba mươi chúng tôi xuống núi, đi thuyền vào đất liền, trở về chùa Thạch Tháp.
Các vị quan chức đàn việt ở Nam Kinh thỉnh cầu Hòa thượng khai đàn truyền giới tại chùa Báo n vào ngày mười lăm tháng mười. Thầy Huân Lục bị bệnh phải ở lại chùa Thạch Tháp, tôi cũng ở lại để chăm sóc thuốc men. Hoà thượng đi Nam Kinh truyền giới. Kỳ này, thầy Độc Hành làm A xà lê, còn thầy Hương Tuyết thì làm giáo thọ. Hòa thượng sau khi đến Nam Kinh, bèn cho người gọi tôi vào kinh thành phụ giúp, tôi từ chối không đi, ngài lại cho người về gọi tiếp.
Thầy Huân Lục là người chí hiếu, bèn bảo tôi: “Bệnh tôi tuy nặng, nhưng thầy không nên làm trái lời của Hòa thượng. Tôi muốn dặn thầy, sau khi tôi mất, xin làm l- trà tỳ, sau đó đem đến đặt bên phải của tháp Thiên Long Luật Tổ.”
Tôi nghe lời di chúc của thầy, cảm thấy đau đớn trong lòng, bèn khóc sụt sùi, không nỡ lên đường.
Thầy Huân Lục nói: “Đây là lần đầu tiên Hòa thượng đến Nam Kinh, cho nên số người cầu thọ giới rất đông. Hai lần cho người về gọi, ắt là phải có sự việc quan trọng, không thể trì hoãn.”
Tôi chỉ còn cách lạy thầy Huân Lục từ biệt, sau đó lên đường đến Nam Kinh. Đến nơi, vào yết kiến Hòa thượng, ngài hỏi về bệnh tình của thầy Huân Lục, tôi bèn trả lời rất nặng. Sau đó ngài bổ nhiệm tôi vào chức vụ Tây đường, ngoài ra, thầy A xà lê Hương Tuyết cũng đem chức vụ Giáo giới ủy phó cho tôi. Chỗ ở của các giới tử ở phía sau điện Tây Phương. Số người đến xin thọ giới hơn sáu trăm người. Hòa thượng nói: “Số người đến thọ giới rất đông, hai vị A xà lê đã xuống chỗ ở của họ xem xét qua, nhưng chưa xếp đặt chỗ nằm của họ theo thứ tự, thầy nên xuống dưới sắp xếp dùm.”
Tôi liền đến liêu của các giới tử xem xét, thấy hành lý ngổn ngang trên mặt đất. Tôi nhận thấy phần lớn các người đến thọ giới đều là người có học thức, không ai là không có thói quen ngông cuồng ngạo mạn, phải nên dùng phương pháp tự khiêm để điều phục họ, do đó tôi bèn đi đến giữa đám đông lên tiếng: “Tôi y theo lời dặn bảo của Hòa thượng, ở đây giữ chức vụ Tây đường. Bây giờ tôi xin thương nghị với đại chúng, nếu nghe thì chúng ta sẽ y như quy luật mà Hòa thượng dặn dò, còn nếu không thì sẽ khó mà giải quyết. Các vị thử xem, khoảng giữa giới đường này rất khoảng khoát, vài trăm người có thể đi kinh hành, còn các đơn chung quanh rất hẹp, không thể chứa được nhiều người. Nếu ai cũng muốn lên các đơn cao, thì những người còn lại phải nằm nghỉ chỗ nào. Tôi sẽ trải chỗ nằm của mình ở dưới đất trước. Trong đại chúng nếu có ai là người thực tâm cầu thọ giới, thích nhường nhịn kẻ khác, thì đây là cơ hội để quý vị hiển bày cái tâm vô ngã, đồng thời thành tựu hạnh nguyện Bồ tát của mình. Xin hãy cùng tôi trải chỗ nằm dưới đất. Các vị phải nên xếp ngay thẳng theo thứ tự ngang dọc, đừng để xéo qua bên này hoặc bên kia. Nếu vị nào là người ở kinh thành, hoặc có giường nhỏ, thì ngày mai đem đến để vào vị trí hiện tại của mình, còn vị nào từ tỉnh khác đến, hoặc không có giường nhỏ, thì dời lên các đơn cao ở chung quanh. Xin mọi người hãy dời đổi vị trí trong im lặng.”
Mọi người nghe xong, không còn ai tranh giành, đều vui vẻ làm theo lời tôi nói. Trong giới đường này có hơn sáu trăm người cầu thọ giới, thế mà chỗ nằm đều ngay hàng thẳng lối, giống như đường xá trong thành phố. Thực là một sự kiện tốt đẹp ít có. Mỗi đêm tôi giảng giới luật một thời, còn ban ngày thì hướng dẫn, chỉ bảo bọn họ. Điều này làm cho mọi người kính phục.
Sau khi nghe tin Hòa thượng sửa soạn an bày các vị tôn chứng sư, vị thủ sa di là Tiêu Vi-n (tuổi độ năm mươi, đã từng nhiều năm ở Nam Kinh đi nghe giảng kinh ở nhiều nơi) đề nghị với các giới tử sa di là thỉnh tôi đăng đàn làm tôn chứng. Bọn họ bèn cùng nhau đến phương trượng, quỳ bạch với Hòa thượng. Hòa thượng bèn sai vị thị giả gọi tôi đến phòng ngài để cho tôi biết về việc này.
Tôi nói: “Thưa Hòa thượng, con chưa được hai hạ lạp, vả lại, đức hạnh của con còn ít ỏi. Con đâu dám lạm phép tham dự vào hàng tôn chứng.”
Hòa thượng nói: “Đây là sự thỉnh cầu của hàng mấy trăm giới tử, chứ đâu phải là con lạm phép. Con không nên từ chối điều này. Có thể gọi là nhân duyên của con đã đến.”
Tôi bèn mi-n cưỡng đảnh l- tạ ơn Hòa thượng.
Điện Tây Phương Tam Thánh ở gần nhà kho và nhà trù (nhà bếp). Mỗi ngày ba thời cơm, mỗi người đều ở trên đơn của mình mà thọ trai. Một hôm, vào buổi sáng, ban phụ trách hành đường không đưa cơm đến. Tôi điều tra lý do thì được cho biết là nhóm phụ trách hành đường muốn làm tiền các giới tử, cho nên mới là khó như vậy. Tôi bèn bắt mấy người hành đường ra quỳ hương. Lúc đó toàn thể nhân viên trong nhà trù khoảng hơn một trăm người đồng loạt ra khỏi điện Tây Phương Tam Thánh. Tôi bèn đến văn phòng Tăng Lục Ty báo cáo, vị trưởng ty là thầy Khế Huyền bèn ra lệnh cho các vị tăng quản sự đóng tất cả các cửa ra vào, đồng thời bắt mấy vị điển tọa, phạn đầu đem đóng gông. Mấy người còn lại trong nhóm bèn vội vàng leo tường trốn ra ngoài. Đây là lề thói xưa nay của bọn nhà trù tại các giới trường nơi kinh thành. Sau lần chấn chỉnh này, mọi người đều răm rắp tuân theo quy củ, không ai còn dám vi phạm. Đến ngày lâm đàn truyền giới cụ túc, quang cảnh trang nghiêm cũng giống như trong giấc mộng đêm mới vừa xuất gia làm đạo sĩ.
Hốt nhiên nghe được hung tin thầy Huân Lục viên tịch tại chùa Thạch Tháp và đã đưa linh cốt về cầu Nam Môn. Tôi nhớ đến ân đức của thầy ấy, trong lòng cảm thấy đau xót, hai dòng lệ chảy dài không dứt. Tôi bèn tụ họp mười ba vị đồng giới, nghinh thỉnh linh cốt của thầy Huân Lục về an trí tạm tại chùa Phổ Đức để cung phụng. Thầy Đạo Sanh ở lại đó để chăm nom hương hỏa. Chúng tôi trở về bảo tháp Báo n, lập đàn ở tám hướng. Hàng trăm vị tăng thay phiên nhau nhi-u tháp, lạy sám trong bảy ngày. Đến ngày mồng một tháng mười hai, Hòa thượng và hai vị A xà lê đến, tôi cùng mười ba vị đồng giới, hướng đạo các vị giới tử cầm tràng phan, hương hoa dẫn đường. Hơn một ngàn người cất tiếng niệm Phật không ngớt, ti-n đưa linh cốt của thầy Huân Lục về chùa Thiên Long, đúng như lời trăn trối của thầy ấy.
Sau khi giới kỳ hoàn tất, Đại tư mã Phạm Công mời Hòa thượng ở lại, để đến ngày mồng một tết làm l- truyền thọ Tam quy Ngũ giới. Chúng tôi bèn bái từ Hòa thượng, trở về chùa Thạch Tháp trước.
Ngày mồng chín tháng giêng, Hòa thượng lên thuyền trở về chùa Thạch Tháp, thuyền đến Long Đàm thì gặp gió lớn, phải ghé vào bến ba ngày. Có một vị tăng pháp danh Sở Tỷ ở am Đại Thủy, thuộc về hàng cháu của Đại sư Diệu Phong (Đại sư Diệu Phong đã từng phụng chiếu của Hoàng đế Thần Tông, xây chùa Đồng Điện ở Hoa Sơn), cung thỉnh Hòa thượng lên núi viếng cảnh. Đến nơi, chỉ thấy lối đi cỏ mọc um tùm, thềm đá siêu vẹo, trong các điện thờ thì đèn nhang chểnh mảng, còn các liêu phòng thì thưa thớt ít người.
Hòa thượng thở dài nói: “Tùng lâm này gầy dựng chưa đến năm mươi năm mà sao lại thê lương thảm đạm như thế này.”
Thầy Sở Tỷ nói: “Thưa Hòa thượng, đây là vì không có người đạo đức chủ trì cho nên mới ra nông nỗi này. Khẩn cầu Hòa thượng đến đây trùng hưng lại. Giác linh
của các vị tổ cũng cảm ơn ngài không ít.”
Hòa thượng nghe xong rất cảm động bèn chấp nhận lời thỉnh cầu, sau đó ngài bèn xuống núi. Ngày hôm sau lên thuyền trở về chùa Thạch Tháp ở Dương Châu.
Am Thập Phương ở Giang m thỉnh Hòa thượng khai giới đàn vào ngày mồng tám tháng hai. Thầy Hương Tuyết làm Yết ma, còn tôi thì vào năm Sùng Trinh thứ mười hai mới chánh thức đảm nhiệm chức vụ Giáo thọ. Hòa thượng tập họp các vị thủ lãnh, giao phó trách nhiệm cho tôi, ngài nói: “Phàm các sự việc nộp đơn xin thọ giới, cùng những công tác ngoại vụ, đều do văn phòng Giáo thọ xử lý, không cần phải hỏi ý kiến của tôi.”
Tôi nghĩ đến trách nhiệm nặng nề, công việc đa đoan, thế nhưng hiểu được lòng từ bi của Hòa thượng, cho nên đã hết sức nỗ lực, không dám phụ lòng tiến cử của thầy Huân Lục.
Giữa tháng hai, thầy Sở Tỷ cùng các thầy ở Hoa Sơn hướng dẫn các vị thí chủ ở Nam Kinh đến am Thập Phương thỉnh cầu Hòa thượng lên Hoa Sơn trụ trì. Nhân vì đã từng hứa khả, thành thử Hòa thượng không thể từ chối lời mời, ngài bèn sai thầy tri khách hướng dẫn các vị ấy đi thăm viếng các nơi trong chùa, lúc đến phòng tôi, thầy Sở
Tỷ trợn mắt nhìn tôi chăm chăm, tôi hiểu ý thầy ấy, bèn nói: “Dạ thưa, mùa đông năm Sùng Trinh thứ bảy có đến tham học ở chùa của quý thầy, rất tiếc đã làm phiền đến thường trụ.” Bọn họ bèn cả cười nói: “Lúc nãy thấy mặt rất quen, nhưng vẫn sợ nhận lầm người. Nếu là thầy, làm sao mà lại lên chức vị này nhanh như vậy. Chúng tôi có mắt mà không thấy được người tài.” Tôi bèn thuật lại những sự việc đã di-n tiến trong mấy năm vừa qua. Ngày hôm sau bọn họ trở về núi Bảo Hoa để làm l- chuẩn bị nghinh đón Hòa thượng. Kỳ truyền giới ở am Thập Phương đến ngày mồng tám tháng tư thì hoàn tất.
Ngày mười lăm tháng tư Hòa thượng lên núi Hoa Sơn. Đến buổi chiều, tại phòng phương trượng, triệu tập các thầy Kiến Huyền, Chi Phù, Tứ Hoằng, Thuần Nhiên, Độc Hành, Tâm Dung, Hương Tuyết, Nguyệt Cốc, Đạt Chiếu, cùng các vị a xà lê kỳ cựu và tôi. Hòa thượng nói: “Chúng ta hôm nay cùng trụ tại núi này, đây sẽ là thường trụ của chúng ta, còn chùa Thạch Tháp chỉ là chỗ ở tạm. Trong số các vị đây, cần phải có một vị có đạo tâm, có tài năng, tinh thần cường tráng, không nề lao khổ, hãy vì ta đứng ra đảm nhiệm chức vụ Giám viện!”
Hòa thượng nói xong, mọi người đều im lặng. Ngài bèn quay về phía tôi nói: “Kiến Nguyệt, tại sao thầy không chịu đảm nhận?”
Tôi trả lời: “Dạ thưa, tại vì Hòa thượng chưa gọi đến tên. Trước mặt các vị tôn túc đây, con chưa dám đáp ứng.”
Hòa thượng nói: “Ta đã nói rõ ràng là có đạo tâm, có tài năng, không nề lao khổ. Nếu không phải là thầy thì là ai?”
Các vị A xà lê đều lên tiếng: “Thầy Kiến Nguyệt nên l- tạ, không nên trái mệnh lệnh của Hòa thượng.”
Tôi hoan hỷ phụng mệnh l- tạ Hòa thượng xong, bèn thưa với ngài: “Trước tiên con xin khẩn cầu Hòa thượng chấp nhận bốn điều, sau đó mới đảm nhiệm chức vụ Giám viện. Thứ nhất, ba thời cơm cháo con sẽ tùy chúng quá đường, chứ không nhận lời thỉnh đến nhà đàn việt thọ trai. Thứ hai, tất cả các quan chức thăm chùa, con sẽ không nghinh tiếp hoặc đưa ti-n họ. Thứ ba, con sẽ không đi tham dự cúng đám hoặc l- lộc tại nhà cư sĩ. Thứ tư, con sẽ không quản lý tiền bạc, mà chỉ lo tận tâm phục vụ đại chúng. Con hứa sẽ không biếng nhác trong những công tác của thường trụ.”
Hòa thượng nói: “Ta chấp nhận bốn điều yêu cầu này, y như tâm nguyện của con. Thế nhưng không nên từ chối việc giảng giới luật.”
Tôi nói: “Thưa Hòa thượng, Giám viện giảng luật, đây không phải là nhiệm vụ của con. E rằng đại chúng sẽ không phục.”
Hòa thượng nói: “Hiện nay con là Giáo thọ kiêm đảm trách chức vụ Giám viện, chứ không phải Giám viện đi phụ trách công việc của Giáo thọ.”
Các thầy A xà lê đều lên tiếng: “Trong chúng ta, người có thẩm quyền giảng luật, đương nhiên là thầy. Điều này, thầy càng cần phải tuân hành mệnh lệnh của Hòa thượng.”
Ngày mười tám tháng năm là l- đại thọ (sinh nhật) sáu mươi của Hòa thượng, các vị thượng tọa xa gần, cùng các đệ tử khắp nơi đều tụ tập. Đến tháng chín, khai giới kỳ mùa đông, thì bỗng thấy thầy Thành Chuyết gánh y bát lên núi. Tôi cảm thấy rất vui mừng, và hỏi thầy ấy từ đâu đến. Thầy Thành Chuyết nói: “Từ lúc xa nhau khi gặp nạn ở miền bắc, tôi đã đến chùa Thiên Đồng để tham thiền, sau đó đến núi Hoàng Sơn học tập kinh điển. Hiện nay mới từ nơi đó đến đây. Tôi một mực hỏi thăm tin tức của thầy, nhưng hoàn toàn không nghe được tin tức gì.”
Tôi nói: “Vì tôi đã đổi hiệu là Kiến Nguyệt, cho nên thầy tìm không ra. Tụ họp rồi lại chia ly, chia ly rồi lại tụ họp. Đúng là chúng ta có duyên lành từ nhiều đời, cho nên mới gặp lại nhau ngày hôm nay. Ba năm không gặp nhau.
Hãy đợi đến lúc, tôi sẽ làm tôn chứng sư cho thầy.”
Năm Sùng Trinh thứ mười ba, vùng Giang Nam bị nạn đói. Giới kỳ mùa xuân hoàn tất vào ngày mồng tám tháng tư. Có quan nội giám Tô Công và các quan khách tai mắt lên núi cúng trai tăng. Nhà trù làm cơm đãi khách, dọn lên món ăn vừa đen vừa khó nuốt. Hòa thượng kêu tôi lên trách mắng, ngài đưa tay lên định đánh. Tôi nói: “Dạ, Hòa thượng đã quên con đã thỉnh cầu Hòa thượng bốn điều hay sao?” Hòa thượng nhớ đến lời hứa bèn nói: “Không phải là việc của thầy.” Bèn đến phòng phó trụ trì, đánh cho thầy Đạt Chiếu một trận. Thầy Đạt Chiếu đến phòng tôi giận dỗi oán trách, cho rằng tôi không che chở cho thấy ấy. Thầy Đạt Chiếu là tôn chứng sư của tôi. Tôi bèn nói với thầy Thành Chuyết: “Không ổn rồi, hôm nay chúng ta phải tránh đi là tốt nhất. Tôi sẽ đi với thầy đến chùa Thiên Đồng.” Sáng hôm sau, lúc trời chưa sáng, tôi đưa hành lý cho thầy Thành Chuyết ra phía sau núi đứng đợi. Đến lúc trời sáng tôi bèn lên đình Long Cang, hướng về phòng phương trượng lạy chín lạy, sau đó bèn cùng thầy Thành Chuyết đến nghỉ đêm tại chùa Diên Tường. Đi thêm bốn ngày thì đến huyện Vô Tích, nghỉ đêm tại am Trấn Đường. Có hai ba vị đệ tử giữ chúng tôi ở lại. Ngày hai mươi tháng tư có mấy vị giới tử vừa từ núi Bảo Hoa đến, thấy tôi bèn l- bái khóc lóc. Tôi hỏi việc gì xảy ra, thì bọn họ nói: “Thầy ngày mồng chín xuống núi, thì Hòa thượng tuyên bố trước đại chúng là thầy không nên đem tiền cúng chúng bốn chục lượng bạc đi. Mọi người trong chùa đều nghị luận phân vân. Con không thể không nói ra. Đây là điều oan uổng cho thầy, cho nên mới chảy nước mắt.”
Tôi nói với bọn họ và thầy Thành Chuyết: “Không phải là Hòa thượng vu oan cho tôi, mà ngài vì lòng từ bi, dùng phương tiện này để cho tôi nghe thấy, không cần phải gọi cũng phải tự động trở về chùa. Nếu như tôi không trở về, thì mọi người sẽ cho đó là sự thực.”
Ngày hôm sau, tôi và thầy Thành Chuyết lại quay trở về núi Bảo Hoa, đảnh l- Hòa thượng cầu xin sám hối. Hòa thượng nói: “Con không có lỗi gì cần phải sám hối cả. Chỉ là điều bất đắc dĩ phải xuống núi. Do đó ta đem vụ tiền bạc ra để khích động, hầu mong con mau trở về chùa mà thôi.”
Hòa thượng vẫn cho tôi đảm nhiệm chức vụ Giáo thọ. Đến kỳ giới mùa đông, các giới tử đông hơn một trăm người đã thọ tỳ kheo xong. Sau đó có bốn người từ miền bắc xuống cầu thọ giới. Hòa thượng bảo thầy Hương Tuyết truyền cho bọn họ mười giới sa di, thầy ấy lại tùy tiện truyền giới tỳ kheo cho họ. Thầy dẫn l- Trí Nhàn dẫn bọn họ đến phòng tôi báo cáo, l- bái. Tôi nói: “Trong luật có nói rõ, Hoà thượng còn đó, tại sao một vị sư mà lại có thể truyền thọ giới tỳ kheo cho bốn người. Tôi không phải là Giáo thọ của các vị, mà cũng không cấp giới điệp cho ai hết.”
Thầy Trí Nhàn trở về bạch lại với thầy Hương Tuyết. Thầy ấy bèn trách mắng, cho là tôi coi thường sư trưởng, ngạo mạn tự tôn, bèn đi đến bạch với Hòa thượng. Hòa thượng bảo thị giả mời tôi đến, cật hỏi lý do. Tôi nói: “Thưa Hòa thượng, thầy Hương Tuyết trách con, đó là dùng lý luận của người đời. Con tuân hành quy chế của đức Phật, không đủ mười vị tăng, một mình dám truyền thọ đại giới, đây là điều quan hệ đến pháp môn. Con đảm nhiệm chức vụ Giáo thọ, đúng lý phải nên can gián. Cúi xin Hòa thượng giám xét, ai phải ai trái.”
Hòa thượng bảo thầy Hương Tuyết: “Thôi, thôi! Đây là lỗi của thầy. Lời của thầy Kiến Nguyệt là đúng. Hãy chọn ngày khác, mời mười vị tăng đăng đàn truyền giới tỳ kheo cho bốn người đó.”
Sau đó ít hôm, Hòa thượng nói với các vị thủ lãnh: “Giới tràng của tôi, hiện nay chỉ có thầy Kiến Nguyệt mới có thể giữ vững được.”
Năm Sùng Trinh thứ mười bốn, chùa Siêu Quả ở phủ Tùng Giang thỉnh Hòa thượng khai giới đàn vào ngày mười lăm tháng giêng, số người thọ giới khoảng hơn năm trăm. Trong lúc giới kỳ chưa hoàn tất thì có chùa Quảng Phước ở núi Phước Sơn, huyện Thường Thục đến thỉnh Hòa thượng đến khai giới đàn vào ngày hai mươi tám tháng năm. Ngày mười lăm tháng năm, giới kỳ ở Tùng Giang hoàn tất, Hòa thượng bảo tôi hướng dẫn các vị chấp sự đến chùa Quảng Phước trước. Đến ngày mồng một tháng bảy, giới kỳ hoàn tất, chúng tôi trở về núi Bảo Hoa. Chùa Bảo Hoa Sơn là do Hoàng đế ra sắc lệnh kiến lập, thành thử toàn bộ do các quan nội giám quản lý xây cất. Do vì phương hướng không thích hợp, cho nên chùa không được hưng vượng. Hòa thượng bèn chọn ngày để đổi phương hướng, chỉ có Đồng điện là không dời đổi, còn các điện khác đều được di chuyển. Công phí rất là to tát.
Am Quán mở Thê Hà, nơi Luật tổ xuất gia, thỉnh Hòa thượng khai giới vào ngày mồng tám tháng mười hai. Trong kỳ khai giới này, tuy tôi đảm nhiệm chức vụ Giáo thọ, nhưng Hòa thượng lại không gọi tôi đến tham dự, thành thử tôi bèn ở lại núi Bảo Hoa phụ giúp công việc xây cất. Gánh ngói, khiêng gạch, v.v…, tất cả công tác, tôi đều hăng hái xung phong trước hết.
Ngày mười tháng giêng, giới kỳ ở am Thê Hà hoàn tất, mọi người đều trở về núi Bảo Hoa. Có đồ đệ của thầy Tri khách Lý Trung đang giữ chức Hương đăng ở Tiền điện, làm chuyện phi pháp. Tôi bèn báo cho thầy A xà lê Hương Tuyết, cùng thầy tri sự Đạt Chiếu biết chuyện này, thì họ cho rằng việc đó có thể tha thứ. Tôi nghe xong cảm thấy lạnh cả xương sống. Đã phạm căn bổn tội mà dám cho là có thể tha thứ, đây là điều sẽ làm cho luật pháp hoại diệt. Tôi nghĩ mình nên ra đi, tạm đến ở ẩn tại núi Hoàng Sơn, để lo công việc riêng của mình. Nghĩ đến đây, tôi bèn nói việc này với thầy Thành Chuyết. Thầy ấy nói: “Sự việc này không nên hấp tấp.”
Tôi nói: “Tôi thọ ơn của các vị ở đây rất nhiều, thật tình cũng không muốn bỏ đi. Hiện nay, các vị dưới quyền Hòa thượng đều là bậc sư trưởng, tôi thuộc về hàng đệ tử, mà lại là người Vân Nam độc nhất. Chẳng bằng bỏ đi cho nhanh là tiện nhất.”
Tôi bèn đến phòng Hòa thượng xin phép được tạm nghỉ một thời gian để tĩnh tu. Hòa thượng không đồng ý, bảo tôi theo ngài đến Kỳ Châu ở Hồ Nam để làm l- truyền giới. Tôi nói: “Dạ, hôm nay con đến thưa trước, còn ngày xuất hành thì chưa được ấn định.”
Thế nhưng, dù sao chăng nữa, tâm tôi đã rời khỏi nơi đây rồi, thân không thể nào ở lại đây lâu được. Sáng hôm sau, tôi cùng ba thầy Thành Chuyết, Thiên Nhất, Thường Thanh, thâu thập y bát, cùng nhau đi đến núi Hoàng Sơn. Đến một trà am ở tháp Ngũ Lý, huyện Thái Bình thì được đệ tử của thầy Canh Thạch mời ở lại. Ngọn núi đối diện là Khánh Vân Nham, là chỗ cư ngụ của thầy Trọng Đức. Kế bên có một ngọn núi nhỏ, rừng tùng sầm uất, chung quanh có các ngọn núi khác vây quanh. Bọn họ mời chúng tôi sang đó tĩnh tu. Tôi bèn cùng thầy Thành Chuyết cắt cỏ, đắp nền dựng một cái am tranh, khoảng độ một tháng thì xây xong. Thốt nhiên tôi nhớ lại mục đích là muốn đến núi Hoàng Sơn, hiện nay sao lại dừng lại giữa đường. Thầy Thiên Nhất thấy tôi đổi ý muốn đi đến Hoàng Sơn liền từ giã trở về núi Bảo Hoa, thầy Thành Chuyết thì được mời đến huyện Tinh Đức, chỉ còn thầy Thường Thanh là cùng đi với tôi. Ngày mồng mười tháng mười, thầy Canh Thạch ti-n chúng tôi đến núi Hoàng Sơn. Chúng tôi trú ở am Bối Diệp phía dưới viện Văn Thù. Núi này đất ít đá nhiều, không thể trồng trọt, thành thử chúng tôi không còn dám mơ tưởng đến việc được ăn rau cải tươi nữa. Đến tháng mười hai, tuyết phủ trắng xóa, khí trời lạnh buốt, giống như nơi quan tái miền cực bắc. Thầy Hiểu Tông ở viện Văn Thù, là đệ tử của thầy Giáo thọ, tuy biết tôi ở núi Hoa Sơn mùa đông không đốt lò sưởi, thế nhưng vẫn mang gạo và than, lội tuyết đến am của tôi, quỳ dưới đất khẩn cầu tôi đốt than sưởi cho ấm. Tôi bèn tùy thuận ý nguyện của thầy ấy. Nơi đây tuy lạnh lẽo, gian khổ, thế nhưng lại rất thuận lợi cho việc tu tập, do đó tôi hoàn toàn bỏ hẳn ý niệm xuống núi.
Đầu năm Sùng Trinh thứ mười sáu, ngày mười một tháng giêng, thầy Giới Sinh ở núi Hoa Sơn, là bạn thân của tôi, cùng đệ tử là thầy Trí Châu, được thầy Canh Thạch dẫn đến am Bối Diệp. Tôi bèn chào đón, hỏi lý do gì mà đến đây. Thầy Giới Sinh nói: “Dạ thưa, ngày mười chín thầy Giáo thọ xuống núi, thì ngày hai mươi sáu, Hòa thượng đi Hồ Nam, đến mồng hai tháng giêng năm nay trở về núi. Ngài biết tôi với thầy là bạn thân, cho nên đã tự tay viết bức thư này mời thầy trở về chùa.”
Tôi bèn thắp hương, quỳ lạy, nâng thư lên đọc, cảm nhận được lòng thương mến sâu xa của Hòa thượng, như người cha hiền không nỡ bỏ đứa con ngỗ nghịch. Tôi bèn giữ thầy Giới Sinh ở lại năm ngày để đi thăm viếng các vùng lân cận, sau đó chúng tôi cùng đi đến huyện Tinh Đức để gặp thầy Thành Chuyết. Chúng tôi trú ngụ ở tịnh thất của thầy ấy để hái trà, độ hơn một tháng. Đến ngày mồng bảy tháng ba mới về đến núi Bảo Hoa. Đến nơi thì Hòa thượng đã nhận lời thỉnh đến chùa Hưng Giáo ở phủ Dương Châu để khai giới kỳ, ngài có để thư lại, dặn khi nào tôi trở về núi, hãy đến đó để giáo thọ cho giới tử. Tôi thấy giới kỳ đã khai vào ngày mồng một tháng ba, và thượng tọa Kiến Huyền đã đảm nhiệm chức vụ Giáo thọ, làm sao có thể đến đó được, bèn ở lại chùa Bảo Hoa, bảo thầy Trí Châu thay mặt đến đảnh l- Hòa thượng. Đến lúc sắp truyền giới tỳ kheo, Hòa thượng lại sai người về gọi, tôi bèn đến đảnh l- Hòa thượng, sám hối tội đã trái lời dạy bảo của ngài. Hòa thượng từ bi tha thứ, bảo tôi đăng đàn làm Tôn chứng sư.
Giới kỳ ở Dương Châu hoàn tất, chùa Đại ở Khẩu Ngạn, Thái Châu, thỉnh Hòa thượng khai giới kỳ, tôi lại đảm nhiệm chức vụ Giáo thọ.
Am Quán m ở Mã Kiều, cách Khẩu Ngạn không xa, thỉnh Hòa thượng khai giới kỳ, Hòa thượng lại nhận lời. Sau khi giới kỳ ở Khẩu Ngạn hoàn tất, chúng tôi bèn đến khai giới kỳ ở Mã Kiều. Một hôm, Hòa thượng đến nhà quan hoạn họ Chu thọ trai, nhân vì có nhiều người đến quy y xin pháp danh, Hòa thượng bèn đem áo nạp của ngài cùng bản pháp danh giao cho tôi, căn dặn nếu có người đến l- bái xin pháp danh thì đắp y của ngài vào, lên đàn mà truyền trao pháp danh cho họ. Thế nhưng, thật là may mắn, Hòa thượng vừa đi khỏi thì trời đổ mưa hai ngày liên tiếp, chẳng có ai đến xin pháp danh. Pháp tòa của Hòa thượng chưa được ngồi mà pháp danh cũng chưa phát ra tờ nào. Lúc Hòa thượng trở về, trời cũng vừa dứt mưa, thì lại có nhiều người đến xin pháp danh. Hòa thượng cười nói: “Pháp tòa của ta đã để cho con ngồi, chỉ còn phải đợi nhân duyên mà thôi.” Tôi nghe xong cảm thấy hổ thẹn, bèn bái tạ Hòa thượng.
Ngày mồng một tháng tám, giới đàn hoàn tất, núi Bạch Chữ ở phủ Thái Bình thỉnh Hòa thượng khai giới kỳ vào ngày mồng một tháng chín, đến ngày mồng tám tháng mười, giới kỳ hoàn tất, chúng tôi trở về núi Bảo Hoa.
Trong tháng mười, chùa Đại Năng Nhân ở phủ Thiệu Hưng vùng Chế Trung, thỉnh Hòa thượng khai giới kỳ vào ngày mười lăm tháng mười hai. Lỗ Vương xin quy y với Hòa thượng và thường hay đến nghe pháp. Đến ngày mồng mười tháng hai năm Ất dậu, tức là năm Hoằng Quang thứ nhất, thì giới kỳ hoàn tất.
Kế đó, chùa Tam Tháp ở phủ Gia Hưng thỉnh khai giới đàn, chúng tôi bèn rời chùa Đại Năng Nhân đi đò qua sông Tiền Đường, dọc đường chúng tôi đến nghỉ đêm ở chùa Diên Khánh. Nhân vì toàn thể mọi người trong phủ của Lỗ Vương muốn quy y Tam Bảo, cho nên ông ta cầu thỉnh Hòa thượng truyền thọ quy y cho họ tại Cổ giới đàn của chùa này. Thế nhưng, Hòa thượng đã nhận lời khai giới đàn tại chùa Tam Tháp, thành thử ngài hứa với Lỗ Vương sau khi giới đàn ở đó hoàn tất sẽ trở lại chùa Diên Khánh làm l- truyền giới.
Ngày hai mươi tám tháng hai, chúng tôi đến chùa Tam Tháp, ngày mồng một tháng ba thì khai giới đàn. Số người đến xin thọ giới nhiều hơn năm trăm, phần lớn đến từ chùa Thiên Đồng. Tôi thi hành quy chế rất nghiêm túc, mọi người đều chăm chỉ học tập giới luật, không ai dám vi phạm.
Một hôm, tôi chợt nhớ đến khoảng thời gian tĩnh tu ở núi Hoàng Sơn chưa bao lâu thì Hòa thượng cho người đến gọi về, trong lòng nghĩ muốn xây tháp chúc thọ để báo ơn Hòa thượng, đồng thời khẩn cầu được toại nguyện ý muốn vào núi tĩnh tu của mình. Tôi liền đem ý nguyện đến bạch với Hòa thượng thì ngài rất hoan hỷ cho phép. Tôi liền làm một danh sách quyên góp quỹ xây tháp. Trước tiên, tự mình đóng vào quỹ hai trăm quan tiền để làm gương cho mọi người, rồi sau đó đến các đường, khai thị cho các giới tử, bảo họ nên tùy hỷ phát tâm cúng dường vào quỹ xây tháp, không hạn nhiều ít. Mọi người nghe xong đều hoan hỷ phát “hiếu tâm” cúng dường. Kết quả tôi quyên góp được hơn ba trăm hai mươi lượng bạc.
Ngày hai mươi tháng năm, nghe tin quân Thanh đã qua sông Dương Tử. Hôm mười tám tháng năm, chánh phủ Nam Kinh đã đầu hàng. Hòa thượng vội vàng cho làm l- truyền giới Cụ túc, hoàn tất giới kỳ, sau đó chúng tôi bèn trở về Tô Châu. Có ni sư Vô Hiết, người huyện Côn Sơn, là đệ tử xuất gia thọ giới của Hòa thượng, nghe tin ngài đến Tô Châu bèn ra nghinh đón.
Trong huyện này có ngôi Đàm Hoa Đình, là tổ đình của Hòa thượng. Vì Hòa thượng thường hay đến đây thăm viếng, thành thử có rất nhiều Phật tử quy y với ngài. Tôi cho ni sư biết về dự định xây tháp chúc thọ cho Hòa thượng, bà ấy bèn phát tâm cúng dường một trăm lượng, sau đó kêu gọi các Phật tử đóng góp, kết quả quyên được hơn bốn trăm lượng bạc. Tổng cộng, tôi đã quyên được chín trăm bảy mươi bảy lượng năm tiền.
Thời buổi loạn lạc, khó mà có thể nhờ vả người khác, vì thế tôi chỉ còn cách tự mình lo liệu. Mang theo bên mình, vừa nặng nhọc lại vừa lo âu.
Thượng tọa Giới Sơ, trụ trì am Cam Lộ ở Hổ Khưu, thỉnh Hòa thượng đến đó tạm nghỉ ngơi. Đầu tháng sáu, Hòa thượng bị nhuốm bệnh tả lỵ. Lúc đó, thời buổi loạn lạc, trên sông thuyền binh hành quân, thành thử thuyền bè không tới lui được, không thể sớm trở về Hoa Sơn. Các vị tháp tùng lần lần tản mác hết, chỉ còn thầy Hương Tuyết, tôi, cùng các vị thị giả, thư ký, tổng cộng mười bốn người là còn theo hầu Hòa thượng.
Các đệ tử thọ giới ở vùng Nghiêu Phong, nghe Hòa thượng đang bị bệnh, bèn mời ngài về đó tịnh dưỡng. Đến nơi, bệnh tình của ngài càng trở nên trầm trọng. Trong lòng tôi vô cùng lo lắng. Vài hôm sau, thầy Hương Tuyết lại xin phép đi nơi khác. Một hôm, nghe quân Thanh đã đến trấn Mộc Độc, cách chùa không xa, các vị tăng trong chùa đều lo ẩn trốn. Bọn họ bèn thỉnh Hòa thượng lên một tĩnh thất trên đỉnh núi để lánh nạn. Đầu tháng sáu, nghe tình hình an tĩnh có thể xuất hành, Hòa thượng bèn ra lệnh tìm thuyền trở về Hoa Sơn. Thuyền đến Thường Châu thì bị quân lính cản lại, nên phải quay trở về Tô Châu. Ba bốn ngày sau, tình hình hơi an định, chúng tôi lại mua thuyền để lên đường. Đến trấn Tân Phong, thấy thuyền bè hấp tấp từ miệt thượng lưu đi xuống, bèn hỏi lý do. Bọn họ cho biết: “Quân Thanh đã đến Trấn Giang, và sắp sửa đến Đan Dương, vì thế chúng tôi phải chạy đi tỵ nạn. Các vị chớ nên đến đó.” Chúng tôi nghe xong, lại phải quay về Tô Châu.
Một ít lâu sau, tình hình có hơi an định, chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình. Đến ngày hai mươi sáu tháng sáu thì chúng tôi trở về đến Hoa Sơn. Đại chúng ra nghinh tiếp Hòa thượng, l- bái hỏi han. Hòa thượng mỉm cười nói: “Về núi, quả nhiên là rất an ổn. Hôm nay ta ước hẹn với các thầy là ba ngày sau, nhiều lắm là bảy ngày ta sẽ vãng sinh.” Mọi người nghe xong đều bật khóc. Hòa thượng nói: “Sinh tử huy-n hóa. Thực sự không có sự việc gì mà các thầy phải khóc.”
Ngay tối hôm đó, tôi mời các vị chấp sự đến chứng minh, sau đó đem sổ sách quyên góp ngân quỹ xây tháp ra, đồng thời thỉnh thầy Nguyệt Cốc đọc lớn số tiền đã quyên góp, thầy Huệ Mục kiểm điểm lại sổ sách. Tổng cộng thâu được chín trăm bảy mươi bảy lượng năm tiền. Sau đó tôi đem số tiền đó giao lại cho thầy Đạt Chiếu. Đến nửa đêm, tôi nhớ lại lúc dự định cải đổi phương hướng của chùa, Hòa thượng đã căn dặn các vị chấp sự rằng: “Trong tương lai, các thầy nên xây tháp của ta ở phía sau chánh điện.” Nhưng tôi nhận thấy các đại tùng lâm, nếu xây tháp ở phía sau chánh điện, thường thường không thể hưng thịnh. Phải nên thỉnh Hòa thượng xác định chỗ xây tháp trước.
Ngày hôm sau tôi bèn đến phòng Hòa thượng, tìm cách bạch với ngài: “Bạch Hòa thượng, Hòa thượng đã hứa khả chúng con dựng tháp, nhưng không biết Hòa thượng
quyết định xây tháp nơi đâu?”
Hòa thượng nói: “Thầy quên rồi sao! Dựng tháp ở phía sau chánh điện.”
Tôi nói: “Bạch Hòa thượng. Con từng nghe thầy địa lý lúc bàn luận về mạch đất, đã từng bạch với Hòa thượng là có ba loại chuyển biến. Đại chuyển cần phải trải qua một trăm hai mươi năm mới hưng thịnh, trung chuyển phải đợi tám mươi năm sau mới hưng thịnh, còn tiểu chuyển thì phải đợi bốn mươi năm mới hưng thịnh. Phía sau chánh điện là mạch đến, nếu như mạch chuyển không được hưng thịnh, người sau cho rằng tháp làm tổn hại đến phong thủy, e rằng họ sẽ chuyển tháp đi nơi khác, chi bằng dựng tháp ở Long Sơn (chỗ “đầu rồng”), để bảo trì sự hưng thịnh lâu dài. Tháp hưng thịnh thì thường trụ sẽ hưng thịnh, thường trụ hưng thịnh thì tháp cũng sẽ hưng thịnh.”
Hòa thượng trầm ngâm một hồi lâu, sau đó nói với tôi: “Cứ y như lời con nói, dựng tháp ở Long Sơn.”
Lúc đó có mặt các vị khác như thầy Đạt Chiếu, v.v… ở bên cạnh, tôi bèn nói với họ: “Các vị đã nghe Hòa thượng tự quyết định. Không được xây tháp ở sau chánh
điện, mà nên xây tháp ở trước chánh điện.”
Vào ngày mồng một tháng sáu nhuận, Hòa thượng bảo thầy thị giả đem lịch ra xem. Hòa thượng nói: “Vào giờ tỵ, ngày mồng bốn ta sẽ vãng sinh.” Sau đó ngài ra lệnh đánh khánh tụ họp đại chúng tại phương trượng. Hòa thượng nói với mọi người: “Thầy Kiến Nguyệt là người kế thừa pháp tịch của ta tại Hoa Sơn này.” Sau đó ngài đem bộ y màu tím (do vua ban cho) cùng quyển giới bổn giao cho tôi, và nói: “Ta đem việc này giao phó cho con. Hy vọng con sẽ tổng trì tam học (giới, định, huệ), làm hiển dương ánh sáng của giới luật.”
Tôi bèn quỳ xuống bạch với Hòa thượng: “Giới lạp và đức hạnh của con đều là nhỏ nhất. Kính thỉnh Hòa thượng giao phó cho các vị A xà lê. Con nguyện sẽ phụ giúp các vị ấy trong công cuộc hoằng hóa chúng sinh.”
Hòa thượng nghe xong bèn im lặng nằm quay vào tường. Tôi nghĩ phải nên tạm chiều theo ý của Hoà thượng, bèn bạch với ngài: “Con xin vâng mệnh Hòa thượng. Hôm nay con tạm thời đảm nhiệm công tác mà Hòa thượng giao phó, đợi đến khi Hòa thượng bình phục, sẽ trao lại cho ngài.”
Hòa thượng nghe xong bèn thay đổi nét mặt. Ngài nói: “Không phải hôm nay ta mới giao cho con, mà từ lâu ta đã ôm ấp ý tưởng này trong đầu. Con không nên thoái từ.”
Tôi đỉnh l- thọ nhận xong đứng dậy. Hòa thượng bảo thầy Độc Hành: “Giới lạp và đức hạnh của thầy đều xuất sắc, xin thầy giữ chức vụ Yết ma làm mô phạm cho hậu học.” Kế đó nói với thầy Đạt Chiếu: “Xin thầy cứ giữ chức Giám viện, trợ giúp cho cho thầy Kiến Nguyệt.”
Đến ngày mồng bốn, Hòa thượng tụ tập mọi người ở Phương trượng, lấy nước lau thân thể xong, bèn nói với mọi người: “Khi nào nước khô, ta sẽ đi. Các thầy đừng nên nghĩ rằng có sự đi và sự đến, cũng không nên mặc áo tang, hoặc khóc lóc. Không nên báo tang đến các chùa khác, không nên rườm rà những việc l- nghi thế tục. Ba ngày sau chôn thi thể ở Long Sơn của chùa.”
Nói xong, Hòa thượng bèn bảo mọi người niệm Phật. Khi nước lau mình vừa khô, ngài bèn ngồi kiết già, tươi cười mà viên tịch. Tăng chúng quàng nhục thân của ngài tại phòng Phương trượng. Tất cả mọi người đều tuân theo lời giáo huấn của ngài, chí thành tụng kinh ba ngày, sau đó theo đúng nghi thức, dùng hương hoa phan lọng đưa linh cữu ngài đến Long Sơn, và xây tháp cúng dường toàn thân xá lợi của ngài. Tôi không nỡ về chùa, phát nguyện ở lại làm người quét dọn, giữ tháp ba năm. Tôi bèn xây một cái chòi lá, chỉ lợp nóc nhưng không có vách. Ngày đêm tụng kinh lạy Phật để báo ơn sâu của ngài. Thế nhưng, ở đó chưa đầy một tháng, thì đại chúng đến cưỡng ép tôi trở về chùa, làm l- tấn phong trụ trì.
Lúc đó, thầy A xà lê Hương Tuyết đang ở Tô Châu, nghe tin Hòa thượng viên tịch và đã đem y bát truyền lại cho tôi, trong lòng cảm thấy không phục. Thầy bèn từ Tô Châu, ngồi thuyền đến Hồ Bắc, khi thuyền qua Long Đàm lại không chịu về Hoa Sơn. Thầy Đạt Chiếu phải viết thư khẩn thiết can gián, thì thầy ấy mới về núi đảnh l- tháp của Hòa thượng. Sau đó ở điện Quán m khắc bản quyển Lăng Nghiêm Quán Châu do thầy tự soạn tập. Trong điện đồ đạc bày biện ngổn ngang, tôi bảo thầy ấy dời đồ qua lầu bên cạnh, thì thầy ấy nói: “Hôm nay tôi trong điện này khắc kinh, thầy lại chê bai bề bộn, đợi mai mốt chùa chiền quạnh quẽ, không người lai vãng, chỉ sợ lúc đó không còn ai giúp thầy quét dọn.”
Tôi nghiêm mặt nói với thầy ấy: “Thầy nên thận trọng lời nói. Có long thiên thường trụ, giác linh của các bậc tiền bối, chắc chắn sẽ không đến nỗi như vậy. Xin thầy đừng phải lo lắng.”
Sau đó tôi trở về phòng phương trượng, trầm ngâm suy nghĩ, nửa vui nửa buồn. Thầy Hương Tuyết hôm nay nói những lời này, trở thành trợ duyên tăng thượng, làm cho tôi càng kiên cố chí nguyện chưởng quản trụ trì pháp môn. Phải nên tức tốc thiết lập quy chế, trước hết là để cải cách tệ đoan, sau đó là y cứ vào phương quỹ.
Đêm đó, tôi soạn mười điều quy ước. Ngày hôm sau tự tập đại chúng. Tôi đảnh l- hai thầy Hương Tuyết và Đạt Chiếu xong, bèn thưa với mọi người: “Kiến Nguyệt hạnh kém phước mỏng, thừa mệnh Hòa thượng làm trụ trì ở Hoa Sơn này, nay muốn công bố mười điều quy ước, không mô phỏng các tùng lâm khác, xin quý thầy chứng minh cho lời cáo bạch của Kiến Nguyệt.
1/ Thứ nhất: Thường thấy các tùng lâm, mỗi phòng nấu ăn riêng, ai nấy lo việc riêng của mình, điện đường ít người, ít thấy người xuất gia khắc khổ tu tập, làm cho tùng lâm mỗi ngày một trở nên đồi bại. Lỗi lầm là do các vị trụ trì đời trước độ người xuất gia một cách cẩu thả, không chịu xem xét phẩm cách của họ. Hôm nay tôi chỉ nguyện làm cho Hoa Sơn vĩnh vi-n hưng thịnh, dứt tuyệt tệ đoan về sự mạnh ai tự nấu ăn riêng. Duy nguyện cùng ở với các vị pháp lữ xuất gia, thệ (thề) không bao giờ độ người khác xuất gia.
2/ Thứ hai: Thường thấy các tùng lâm thu tiền dưỡng lão, ngay cả người trẻ cũng thâu vào, phóng túng không chịu tu hành, ngồi không mà không biết hổ thẹn. Nói chuyện thị phi, đâm thọc đại chúng, làm cho thí chủ đàm tiếu, cửa Phật lu mờ. Sự kiện này, Hoa Sơn quyết định cải cách tận gốc. Nếu như người già mà muốn tu hành, không cần nộp tiền dưỡng lão. Tùy duyên sinh hoạt với đại chúng.
3/ Thứ ba: Thường thấy các tùng lâm thường lập chức vụ Hoá chủ (chuyên môn đến các nhà cư sĩ hoá duyên), phát phiếu công đức (biên lai thu nhận), các vị phương trượng cũng thường khen ngợi những công việc này, còn các vị chấp sự thì thường phải đến nhà thí chủ thăm viếng, tỏ lòng cảm ơn. Điều này làm cho bọn cư sĩ ỷ công rồi khinh thường người xuất gia, xen vào nội bộ chùa chiền, không biết nhân quả, hoặc làm cho họ mất lòng tin tưởng Tam bảo. Nay Hoa Sơn sẽ không lập chức vụ Hóa chủ, không phát một phiếu công đức nào hết. Hãy để cho thí chủ tùy ý phát tâm cúng dường. Nếu như đại chúng gắng sức tu hành, chắc chắn sẽ không bị đói.
4/ Thứ tư: Những vị trưởng lão nổi danh, mỗi khi lên đảm nhiệm chức phương trượng, đều lập nhà bếp riêng, thâu nhận tích chứa thực phẩm cúng riêng cho họ, tự nấu nướng riêng, mặc tình ăn riêng, ít khi đến dùng trai với mọi người. Những tay chân bộ hạ thì được cùng hưởng, còn những người khác thì không có phần. Thật là hổ thẹn, không biết tôn trọng danh nghĩa thống lãnh đại chúng. Kể từ hôm nay, ba thời trai phạn, tôi sẽ dùng chung với đại chúng, tất cả thực phẩm cúng riêng cho tôi sẽ được đưa vào nhà kho của chùa. Nếu các đàn việt hộ pháp lên chùa thăm viếng, giả như tôi không thể bỏ phế việc tiếp đón họ, thì đây không được coi là thiên vị một thí chủ nào.
5/ Thứ năm: Ở khắp nơi, các vị đường đầu không ai không thâu nhận cúng dường của đàn việt. Tiền hương nghi thì giao cho phương trượng, còn tiền cúng trai thì giao cho nhà kho. Đây thực sự là đem tiền cúng dường chung cho đại chúng mà phân làm hai. Giả như thí chủ chỉ cúng hương nghi, lúc khoản đãi đàn việt thì dùng tiền của thường trụ, còn tiền cúng dường (hương nghi) thì cất riêng cho mình. Làm cho Giám viện phải cực nhọc lo lắng bảy việc cho đại chúng (bảy việc, tức là gạo, dầu, đèn, nhang, v.v…). Các vị phương trượng đó không nghĩ rằng việc thường trụ là việc của mình, đồ vật cúng cho mình là hoàn toàn thuộc về thường trụ. Hôm nay, duyên của tôi tuy chưa đến, nhưng trước tiên phải cải cách điều này. Bất cứ ai cúng hương nghi, tất cả đều thuộc về thường trụ. Nếu như muốn xài việc riêng, phải công bố cho đại chúng biết.
6/ Thứ sáu: Các nơi khác, khi loan báo truyền giới, hoặc ba tuần, hoặc một tháng. Các giới tử lúc đến đều phải đóng lệ phí “ăn ở”, lúc trở về đều được giao công tác phân phát phiếu hóa duyên (cho thí chủ), (thường trụ) dùng đây
(sự truyền giới) như một thủ đoạn kinh doanh, đây gọi là chân thực hoằng pháp hay sao? Từ nay Hoa Sơn sẽ không thâu lệ phí của các giới tử đến thọ giới, mà cũng không phát phiếu hóa duyên. Tùy duyên sống đạm bạc, thanh tịnh truyền giới.
7/ Các đại tùng lâm, mỗi phòng đều chất chứa trà, bánh, trái cây, v.v…, để dùng riêng, bày biện nhiều dụng cụ giải trí, đâu phải chỉ có tụ tập bàn chuyện nhảm nhí tiêu hao ngày tháng, mà còn bàn chuyện thị phi của đại chúng, làm cho mọi người đâm ra xích mích, tổn nhiều lợi ít, làm sao mà có thể an nhiên thọ dụng của tín thí. Hôm nay xin cải cách tệ đoan này. Tất cả đại chúng, nếu có bạn đạo hoặc người quen đến thăm, xin dẫn họ đến khách đường tiếp chuyện, khoản đãi. Để cho: thứ nhất, thường trụ không khiếm khuyết trong việc tiếp đãi khách khứa; thứ hai, đối với cá nhân vị ấy cũng được hãnh diện.
8/ Thứ tám: Những vị chấp sự ở các tùng lâm có thói quen đi đến nhà đàn việt thăm viếng, quà cáp. Đã xuất gia mà ngược lại vẫn còn chạy theo những l- nghi thế tục, làm Tăng mà không biết giữ thể diện của Tăng. Nhân vì tham cầu lợi dưỡng nên đã hoàn toàn vi phạm giới luật của Phật. Hiện nay Hoa Sơn cách xa thành ấp, hơn nữa tất cả tăng chúng đều trì luật tu hành. Những vị đàn việt có đạo tâm ắt sẽ thông cảm mà ủng hộ.
9/ Thứ chín: Các chùa trên núi, không giống như các tùng lâm ở gần thành thị, tất cả gạo, củi, v.v…, đều phải được gánh gồng lên núi. Công tác chung đều có đánh bảng để mọi người cùng nhau chung sức. Nếu như tự cầu an nhàn, để mặc cho người khác lao nhọc, thì làm sao có thể gọi là thống lý đại chúng. Từ nay trở đi, mỗi khi có công tác chung, tôi sẽ cùng ra chung sức với đại chúng, quyết không tr- nải, mà sẽ làm gương cho mọi người. Nếu ai bị bệnh thì sẽ được tạm mi-n công tác, chỉ có những người già yếu mới được mi-n tham gia. Tất cả đại chúng đều y theo đây mà tiến hành.
10/ Thứ mười: Tất cả đại chúng cùng sống chung trong một đại giới, đều phải tuân theo giới luật của Phật, vứt bỏ đi những đồ trang sức lòe loẹt, không chứa đồ tơ lụa, không nên bắt chước ăn mặc như người thế tục, ba y không được lìa thân, cần phải nhuộm hoại sắc, phải nên dùng bát, hoặc bằng sắt, hoặc bằng sành để thọ trai. Giới luật không cho phép ăn quá giờ ngọ, chúng tăng cùng nhau y giáo phụng hành, khuyến khích, nhắc nhở lẫn nhau, những người biếng nhác phải tùy chúng mà gắng sức.
Tôi nay đặt mười điều này làm quy ước, lo gì mà Hoa Sơn không hưng thịnh.”
Thầy Đạt Chiếu nói: “Những điều khác thì có thể áp dụng, còn như việc Hóa chủ (điều 2) thì không thể bỏ được. Một lời nói ra khó có thể rút lại, chỉ sợ sau này không còn lương thực, lúc đó hối hận cũng không kịp.”
Tôi nói: “Kiến Nguyệt mới đảm nhận chức Phương trượng, quả thực không có duyên, thề không bắt chước những chùa náo nhiệt ồn ào khác, mà chỉ nguyện học tập cách thức hành trì của các bậc cổ đức.”
Thầy Hương Tuyết nghe xong, ngang nhiên bước ra ngoài, còn thầy Đạt Chiếu thì không được vui, thở dài trở về phòng.
Lúc Hòa thượng còn sanh tiền, có ba thái giám quy y. Thái giám họ Tôn, pháp danh Đốn Ngộ, thái giám họ Lưu, pháp danh Đốn Tu, thái giám họ Trương, pháp danh Đốn Chứng. Lúc Dự Vương đưa binh qua sông Trường Giang, ba người bèn trốn lên núi cầu xuất gia. Lúc đó Hòa thượng chưa về núi, thầy Đạt Chiếu thay mặt Hòa thượng làm l- xuống tóc cho bọn họ. Đến lúc Hòa thượng về núi, thì bọn họ mỗi người được ở một phòng. Ngày ba mươi tháng chín, Lưu Đốn Tu bí mật thương lượng với hai thầy Hương Tuyết và Đạt Chiếu về việc nấu ăn ở trong phòng riêng, hai thầy đều cho phép. Ngày hôm sau, một tháng mười, Đốn Tu mời tôi đến phòng uống trà, hai thầy kia đã ngồi sẵn nơi đó. Đốn tu cho tôi biết việc nấu ăn riêng, và nói rằng hai thầy kia đã đồng ý, nay báo lên cho Phương trượng biết.
Tôi nói: “Tôi đã là Phương trượng, tại sao không bàn với tôi trước. Trước đã cho phép, rồi sau mới nói với tôi. Tôi nay có ba việc xin phụng cáo: Thứ nhất, ngày trước lúc Hòa thượng còn tại thế, chùa nào thỉnh ngài truyền giới, nếu họ có những dụng cụ nấu nướng riêng tư, ngài đều yêu cầu họ hủy bỏ, mọi người phải cùng dùng trai với nhau, sau đó ngài mới chấp nhận lời thỉnh, nếu không ngài không đến. Hiện nay, Hòa thượng viên tịch chưa được bốn tháng, ai dám cả gan ở thường trụ này mà nấu riêng trong phòng. Đây là coi thường người quá cố, quyết không được làm. Thứ hai, nếu muốn nấu riêng, phải đợi sau khi tôi chết thì may ra có thể. Thứ ba, nếu khi tôi có nhân duyên rời khỏi Hoa Sơn này, thì các vị tùy ý muốn chủ trì ra sao cũng được. Nếu như tôi còn ở núi này, lẽ nào nhẫn tâm làm cho đạo tràng này đồi trụy.”
Nói xong, tôi bèn phất áo đi ra khỏi phòng. Hai thầy Hương Tuyết, Đạt Chiếu im lặng không nói lời nào, còn Đốn Tu thì hổ thẹn thất vọng. Tôi mượn nhân duyên này để làm đầu mối cho sự trung hưng giới luật.
Một hôm, tôi triệu tập đại chúng ở chánh điện. Mời hai thầy Hương Tuyết, Đạt Chiếu đến. Sau khi đảnh l- hai thầy xong, tôi bèn cáo bạch với mọi người: “Kiến Nguyệt từ lúc theo hầu Hòa thượng đến nay, là cùng chung với quý thầy phụ giúp Hòa thượng trong công việc hoằng hóa. Phàm có việc gì muốn làm, đều bạch riêng với Hòa thượng trước, ý muốn canh cải tệ đoan. Thường được ngài từ bi dặn rằng: “Từ luật tổ cho đến ta, nhân vì muốn trung hưng giới luật, nên đã thiết lập phương tiện (tùy thuận chúng sinh), nếu ý hướng con là tuân thủ giới luật, hãy đợi sau này (sau khi ta mất) thì con cứ y theo luật chế mà hành trì.” Hiện nay, Kiến Nguyệt một mình gánh vác trọng trách, chủ trì mọi sự, lẽ nào biết giới luật mà lại không hành trì giới luật. Từ nay trở đi, tất cả phải tuân theo quy chế, nghiêm trì giới luật.”
Ba ngày sau, thầy Đạt Chiếu từ chức Giám viện, thầy Đốn Ngộ phát tâm đảm nhận việc ấy. Thầy Hương Tuyết bỏ đi đến chùa Thiên Ninh ở Thường Châu để giảng kinh. Các vị đồng giới đều cáo từ, còn các vị chấp sự cũ, mười người bỏ đi hết tám, chín. Thứ nhất là họ không thể nghiêm trì giới luật, thứ hai là họ không thể cùng với đại chúng sinh hoạt đạm bạc, thứ ba là họ không muốn làm công tác chung với mọi người. Tôi cũng không lưu giữ họ. Chỉ còn lại hơn độ một trăm người cùng chung chí hướng, đều phấn khởi ủng hộ, nguyện cùng nhau nghiêm trì giới luật.
Trong tháng mười, có hơn ba trăm người đến cầu thọ giới. Thầy Long Sa ở huyện Diêm Thành làm thủ sa di (chúng trưởng của các sa di). Trước tiên chúng tôi theo đúng nghi quỹ kết đại giới, sau đó tổ chức một đàn ba người, truyền thọ giới tỳ kheo. Thầy Đạt Chiếu cùng các đệ tử, trước mặt đại chúng không nói lời nào, thế nhưng sau đó cùng nhau bàn luận không nguôi, cho rằng tôi nhận lời phó chúc của Hòa thượng, mà nay lại dám sửa đổi nghi quỹ.
Việc xướng phương kết đại giới, xưa nay chưa từng nghe, lại còn việc một đàn ba người thọ giới tỳ kheo, cũng chưa từng thấy bao giờ. Bọn họ bèn gán cho tôi tội bất hiếu. Đây là do bọn họ chưa am tường giới luật nên mới nói những lời như vậy. Nghe bọn họ bàn tán, tôi giả vờ như không biết.
Một hôm thầy Đạt Chiếu tản bộ đến Phương trượng, tôi bèn nhẹ nhàng khuyên nhủ: “Nếu thầy có thì giờ rảnh, xin duyệt qua bộ Luật trong Đại tạng kinh, để xem thử thế nào.” Thầy ấy nghe lời về đọc bộ Luật. Sau đó biết rằng sự hành trì của tôi là có y cứ, bèn trở ngược lại khen ngợi. Từ đó không còn ai dị nghị nữa.
Thầy Lưu Đốn Tu lúc còn làm thái giám, có giao cho thầy Tôn Đốn Ngộ bốn trăm lạng bạc để mua ruộng gần chùa, dự định để làm nơi dưỡng già. Đốn Ngộ ôm lòng bất chánh, bèn dùng giá mắc mà mua ruộng rẻ, số mẫu lại không đủ, số thóc thâu vào không đủ trả tiền thuế. Đốn Tu căm hận đến cực điểm, bèn dấu một lưỡi búa vào người, thề sẽ giết chết Đốn Ngộ. Thấy án mạng sắp xảy ra, mọi người trong chùa đều kinh hoàng. Thầy Đạt Chiếu báo cáo sự việc này cho tôi hay, tôi nói: “Nếu mà để vụ án mạng xảy ra thì thanh danh của chùa này sẽ bị hủy hoại. Rất may là số tiền xây tháp của Hòa thượng hãy còn dư, hãy đem số tiền này mua miếng ruộng đó để làm ruộng hương hỏa của tháp, và cũng để cho hai người kia cởi bỏ oán thù.” Đốn Tu bán ruộng cho thường trụ sau khi giảm giá một trăm lượng.
Nhờ đó thường trụ mới an bình trở lại.
Mùa xuân năm Thuận Trị thứ hai, kỵ binh của quân Thanh thả ngựa ăn lúa mạch của dân chúng. Mấy người dân trong làng không biết, bèn bắt ngựa đem đi. Tướng quân họ Ba bèn gán cho họ tội phản nghịch, đem quân đến bắt giữ, hơn phân nửa số dân làng bị giết, tất cả tài sản, vợ con đều bị tịch thu, những người chạy thoát được, tứ tán khắp nơi, không ai dám trở về nhà. Đột nhiên có người đứng ra làm thủ lãnh, tụ tập những người dân chạy loạn lại, giả danh mượn lương thực để khởi nghĩa, nhưng thực ra là đi xâm hại người lương thiện. Thầy Đạt Chiếu nghe tin cảm thấy lo sợ, bèn dẫn các đệ tử của thầy xuống núi.
Đến đầu tháng tư, tôi nghĩ thổ tặc tuy đang làm loạn, thế nhưng việc an cư tự tứ đã bị phế bỏ từ lâu; lúc mới nhiệm chức vụ Phương trượng tôi đã bạch với đại chúng là kiên quyết hành trì giới luật, hiện nay đến ngày kết hạ, lẽ nào lại bỏ phế không thực hành. Do đó, vào ngày mười sáu tháng tư, chúng tôi làm l- tiền an cư, số tỳ kheo được hơn một trăm sáu mươi người, số sa di đuợc tám người, tổng cộng là một trăm bảy mươi ba người, nghiêm trì luật chế, dụng công tu hành gấp bội ngày thường.
Ngày hai mươi tháng năm, lúc trời hừng sáng, tên đầu đảng của bọn thổ tặc là Trương Tú Phong dẫn hơn trăm đồng đảng lên núi, đứng đợi bên ngoài, đợi lúc cổng chùa vừa mở, thì cả bọn liền xông vào. Tên đầu đảng nói với tôi: “Chùa này phòng ốc khá nhiều, nhà bếp lại to rộng, chúng tôi mượn ở vài ngày.”
Tôi nói: “Phòng ốc, nhà bếp quả thực có thể dùng được, thế nhưng có hai việc bất tiện. Thứ nhất, các ông đối với những người dân không nộp lương thực, đánh đập tra khảo họ, chúng tôi ở đây nếu trông thấy cảnh tượng như vậy, quả thực không thể nhẫn tâm. Thứ hai, chúng tăng giả như cùng các ông ăn chung một chỗ, nếu quan quân bắt được, chúng tôi khó tránh khỏi tù tội. Tôi có nghe ngày xưa lúc ngài Diệu Phong mới lập chùa này, các dân làng phụ cận đều vui vẻ đến đây làm việc công quả, trợ giúp công việc xây dựng Đồng Điện, đốn cây vác gạch, trong đây cũng có công đức của ông cha quý vị. Hiện nay nếu hủy hoại thường trụ, tức là hủy họai phước điền của chính mình.
Chỗ ở rất nhiều, tại sao lại không đi nơi khác.”
Tôi một mực từ chối ba bốn lần như vậy, gã đầu đảng bèn nói: “Y như lời thầy nói, chúng tôi sẽ tạm trú phía ngoài phạm vi của chùa.”
Không ngờ, có một vị tăng trong chùa, pháp danh Khắc Tu, có một người anh cũng là đầu đảng trong nhóm thổ tặc. Khắc Tu thường lén đi gặp người anh. Khi tôi hỏi về hành tung của bọn họ, thì thầy ấy không chịu tiết lộ một lời. Mọi người cảm thấy rất lo lắng, còn thầy Khắc Tu thì tỏ ra bất chấp (sự ngăn cấm đi lại). Tôi bèn ra lịnh cho đại chúng: “Mỗi người hãy vác một bó cũi ra, đem Khắc Tu đi đốt chết, để dứt tuyệt hậu hoạn, bảo hộ thường trụ.”
Khắc Tu nghe tôi nói, hồn phi phách tán, bèn trốn vào trong phòng, khóa chặt cửa lại. Sư phụ của Khắc Tu là thầy Kế Hiền, đến khóc lóc quỳ xuống năn nỉ xin làm theo lời yêu cầu của tôi, cầu xin đại chúng đừng đốt chết Khắc Tu. Nghe xong, tôi gọi thầy Khắc Tu đến, nói với thầy ấy: “Trưa ngày mai, thường trụ thiết trai. Mời mười vị thủ lãnh của bọn họ đến tham dự, không được nhiều hơn số này. Nếu thầy làm theo lời tôi dặn thì sẽ được mi-n tội. Nếu như quá nhiều người đến, hoặc không ai đến, tôi cũng sẽ xử phạt thầy.”
Đêm đó, tôi tụ tập đại chúng, thương lượng rằng: “Trưa mai, nhóm đầu đảng của bọn thổ tặc đến, các vị hãy xếp hàng hai bên, những người lớn tuổi ở sau, còn những người trẻ đứng trước. Phải giữ im lặng, không nên tỏ vẻ sợ hãi. Nếu tôi không nói gì thì hãy cứ đứng đó, còn nếu tôi bảo thì hãy lui ra, chỉ cần hai mươi người ở lại. Hai người ứng phó một người.”
Đến trưa, bọn họ đến đúng giờ hẹn. Sau khi bọn họ ngồi xuống, đại chúng đứng dàn hai bên. Tôi nói: “Quý vị hiện nay phải làm những điều này, là do vợ con quyến thuộc bị giam cầm. Các vị lại đều là con dân của nhà Minh, đâu thể nhẫn chịu sự oan uổng. Đây chỉ là vì bất đắc dĩ mới làm những sự việc này.”
Bọn họ nghe nói, đều cảm thấy mủi lòng, cho rằng tôi rất thấu hiểu tâm tình của họ. Tôi liền đứng dậy lấy tay đập vào bàn nói: “Hôm nay chúng tôi mời quý vị đến đây thọ trai, là muốn cho quý vị biết rằng, Đồng Điện là do nhà vua
(triều Minh) ra sắc lệnh kiến lập, Đại tạng kinh cũng do vua (nhà Minh) ban. Hiện nay chúng tăng không thể yên tâm tu hành. Quý vị lẽ nào nhẫn tâm phá hủy thường trụ hay sao.
Hôm nay chúng tôi cũng bất đắc dĩ mà làm điều này.”
Bọn họ thấy tôi dõng dạc như vậy, thảy đều hoảng sợ thất sắc, cả thảy đồng thanh lên tiếng: “Biết rồi, biết rồi! Chúng tôi biết trong chúng tăng đây cũng có nhiều người văn võ toàn tài. Thầy cũng không cần phải to tiếng. Ngày mai chúng tôi sẽ lập tức dời doanh trại đi nơi khác.”
Tôi thấy thế bèn dùng lời nhỏ nhẹ an ủi. Sau đó bọ họ cáo từ. Quả nhiên sáng hôm sau vào canh năm bọn họ dời doanh trại đi nơi khác. Tôi đề phòng quan quân sẽ lên núi tuần tra, bèn cấp tốc ra lệnh cho các vị chấp sự trong chùa cầm đèn đuốc đi xem xét khắp nơi. Nếu còn có vết tích củi than nấu nướng, thì phải quét cho sạch hết, lấy lá phủ lên, còn như có lông, xương của cầm thú, thì phải thu nhặt cho sạch sẽ, đem đổ xuống các khe nước sâu.
Trời vừa hừng sáng, quan Đô thống họ Mã của phủ Trấn Giang dẫn quân lên núi, cưỡi ngựa đi thẳng vào chùa nói với tôi: “Quan phủ tra xét, biết bọn thổ tặc đã ở đây tám ngày. Tại sao các ông chấp chứa bọn họ mà không khai báo?”
Tôi nói: “Nếu bọn thổ tặc đã ở đây nhiều ngày như vậy, lẽ nào không có lưu lại vết tích than củi, hoặc lông xương của cầm thú quanh đây. Xin quan hãy cho người đi
xem xét mọi nơi cho rõ hư thực.”
Bọn lính sau khi đi tra xét trở về, báo cáo là không thấy gì, quan Đô thống bèn thưởng cho bọn họ năm lượng bạc, rồi dẫn quân xuống núi.
Tin tức quân binh kéo lên núi tra xét loan truyền khắp nơi, khiến cho đàn việt không còn dám đến chùa. Mỗi ngày ba bữa, chúng tăng phải húp cháo loãng cho đỡ đói. Nhiều hôm, dầu muối cũng không có. Bọn thổ tặc thì tới lui bất định, làm cho đại chúng tinh thần bất an. Tôi bèn cáo bạch với đại chúng: “Hiện nay, chúng ta mới bắt đầu an cư, các vị đừng nên sợ hãi thoái tâm. Lẽ nào chư vị thiện thần không ủng hộ chúng ta. Khi nào có quan quân hoặc thổ tặc lên chùa, tôi sẽ tự mình lo liệu. Đại chúng không cần phải lo lắng.”
Mọi người nghe xong, cảm thấy an tâm, bèn tiếp tục siêng năng tu tập.
Đầu tháng sáu, thổ tặc nổi lên ở khắp nơi. Bọn chúng đều kéo lên núi Hoa Sơn. Có bọn thì trú tại tĩnh thất Long Oa, có bọn thì trú tại tĩnh thất Hoàng Hoa Động, có bọn thì trú tại tĩnh thất Luyện Tính Nham, còn lại có bọn trú tại tĩnh thất ngay phía sau nhà trù. Sáu chỗ này đều thuộc về phạm vi đại giới của thường trụ. Bọn chúng, có người thì dùng l- nghi, viết giấy xin mượn vật dụng của thường trụ, có kẻ thì ỷ sức mạnh mà đến lấy đi một cách ngang nhiên.
Những trường hợp như vậy, tôi đều khéo léo từ chối.
Bọn chúng, mỗi khi nghe quan quân kéo đến thì đều tản mác ẩn trốn. Sau khi quan quân đi rồi, thì họ tụ tập trở lại. Tôi nghĩ điều này sẽ có hại lớn, bèn điều động đại chúng phá hủy tất cả những tĩnh thất, không còn lưu lại một nơi nào.
Đến ngày rằm tháng bảy, mọi người làm l- tự tứ ở phòng Phương trượng. Khi ấy, thầy Nguyện Vân, giữ chức Tây đường, có làm một bài thơ như sau:
An cư tuế sự dĩ trầm mai,
Ngã Phật nghiêm quy phụ lãnh hôi,
Bạch thủ tăng lưu vô nhất lạp,
Bảo Hoa Luật Xã hỷ trùng khai,
Thọ trù kháp ứng Nam tham số,
Tọa thảo do tồn Tây quốc tài,
Tự tứ dĩ viên, giai thoại tại,
Ba Ly tuyệt học, hẩu như lôi.
Tạm dịch:
Pháp sự an cư bị lãng quên,
Nghiêm quy của Phật lạnh tro tàn,
Xuất gia đầu bạc không một lạp,
Nay mừng Luật xã tại Hoa San,
Thọ trù an cư, người đã ít,
Tọa thảo tự tứ, càng hiếm khan,
Tự tứ đã xong, còn nhớ mãi,
Ba Ly trì luật, tiếng rền vang.
Đến đầu tháng tám, tình hình tạm yên ổn, tôi đem công việc của thường trụ ủy thác cho thầy Giám viện Đốn Ngộ quản lý, còn tôi thì ở tại lầu Phương trượng dụng công lạy Phật.
Đến ngày mười hai, mở cửa sổ nhìn ra ngoài, thì thấy một người trạc tuổi trung niên, mặc áo màu xanh cũ, phía dưới lộ ra màu đỏ, đang đi ở phía dưới hành lang dò xét. Tôi liền xuống lầu nói với thầy Đốn Ngộ: “Gã ấy là binh lính mặc đồ dân, đến chùa dọ thám. Không nên cho gã ở lại.”
Về sự việc này, Đốn Ngộ đã nói riêng với thầy Tuần chiếu (phụ trách an ninh trong chùa) rằng gã đó là dân tỵ nạn, đến chùa xin ở tạm đến qua Trung thu, tại sao lại không mở lòng từ bi cho gã tạm trú. Khi tôi biết được sự việc này, liền gọi thầy Tuần chiếu đến quở trách. Lúc ấy, gã thám tử cũng đang đứng dưới lầu phương trượng nhìn lên.
Khoảng một lúc sau, có khoảng hơn một trăm tên thổ tặc, mỗi tên đều cầm gậy gộc làm vũ khí, đến đứng dưới các mái hiên. Thầy Đốn Ngộ vừa nhìn thấy đã cảm thấy hoảng sợ. Nhân vì lúc thầy ấy còn làm thái giám, đã nổi tiếng là giàu có, cho nên lo sợ bọn thổ tặc đến làm tiền. Thầy ấy bèn giả vờ thân thiện, nấu cơm mời bọn chúng ở lại dùng trai, hy vọng mua chuộc cảm tình. Tôi biết chuyện này, bèn xuống lầu, thấy bọn thổ tặc đã ngồi vào bàn ăn, chén bát đã dọn sẵn, khó bề có thể can ngăn được nữa, tôi bèn nói với thầy Đốn Ngộ: “Tánh mạng của hơn một trăm đại chúng ở đây, cùng sự tồn tại của chùa này, đều do một bữa cơm này mà bị hủy hoại. Sau này có việc gì, đều là do thầy, không liên can gì đến tôi.”
Gã thám tử mặc áo xanh khi nảy, thấy thế bèn mỉm cười bỏ đi. Sau khi nghe tin Tướng quân họ Ba, họ Ngao, cùng với quan huyện họ Trần của phủ Trấn Giang dẫn quân ra khỏi thành tảo trừ bọn thổ tặc, đóng trại trên đỉnh núi Đông Tạ, lúc đó chúng tôi mới biết gã mặc áo xanh đó chính là binh lính đến chùa thám thính.
Vào nửa đêm ngày mười ba tháng tám, khoảng hơn một trăm kỵ binh của quân Thanh kéo lên núi vây chùa. Đại chúng hoảng hốt, không đường tẩu thoát. Trời vừa bình minh, tôi nói với thầy Đốn Ngộ: “Tôi là phương trượng, thầy là Giám viện. Hiện nay có chuyện, phải cùng nhau gánh vác. Nếu như quan binh tiến vào, họ sẽ phá hủy chùa chiền, lại còn liên lụy đến đại chúng.”
Nói xong, hai chúng tôi bèn mở cửa chùa, đi đến Đồng Điện Đài. Vị quan cầm đầu hỏi chúng tôi: “Hai thầy là ai?”
Tôi trả lời: “Tôi là phương trượng, còn vị này là giám viện.”
Vị quan thấy chúng tôi tự động đến ra mắt, tỏ vẻ hoan hỷ, bèn cùng chúng tôi đến trước cổng chùa ngồi xuống. Vị quan hỏi trong chùa có bao nhiêu tăng nhân. Tôi nói: “Tăng chúng, già trẻ cả thảy là chín mươi bốn người.”
Vị quan bảo phải gọi ra hết. Ai mà không đến, tức là có liên hệ với bọn thổ tặc. Trong chùa cũng có một số dân chúng đến làm công tác, phụ trách công việc gạch, ngói, cùng tô tượng, v.v… Thầy Đốn Ngộ cũng đều gọi bọn họ ra ngoài trình diện.
Đội lính đem một gã tù đang bị trói ra để nhận diện đồng bọn. Gã tù đó, sau một đêm bị giam, hồn tiêu phách tán, nói không ra tiếng, chỉ biết đưa tay chỉ loạn cả lên. Do đó, khi một người trong nhóm dân làm công vừa bị điểm mặt, thì cả mười sáu người trong nhóm đều bị vu oan là thổ tặc, lại còn sáu người khác cũng bị cột cổ dẫn đến doanh trại.
Thấy sự tình như vậy, sợ có gian tế ẩn núp trong chùa, hai vị quan bèn dẫn theo bốn người lính. Một người lính mở cửa. Bọn họ kêu tôi và thầy Đốn Ngộ cùng đi vào chùa. H- thấy liêu phòng nào khóa cửa, họ liền lấy ngón tay chọc thủng màn cửa sổ để nhòm vào. Tôi muốn cho họ hết nghi ngờ, bèn lấy chìa khóa trong túi mở cửa phòng cho họ khám xét. Trên bàn chỉ có kinh sách, ngoài ra chỉ có giường ghế phủ vải (che bụi vì không có ai ở). Liên tiếp ba bốn phòng đều như thế, vị quan tin là không có sự man trá, bèn ra lệnh không cần phải mở những cửa phòng còn lại. Vị quan dẫn binh lính ra khỏi chùa, ngồi xuống rồi nói với tôi: “Có người báo quan là trong chùa có chứa chấp thổ tặc. Quan lớn ra lệnh cho chúng tôi áp giải tất cả mọi người trong chùa về bản doanh, không chừa người nào.”
Tức thời ra lệnh cho một kỵ binh áp giải một vị tăng đi sau, còn vị quan ấy thì áp giải tôi đi trước. Tôi nghĩ nếu như trong chùa không có người, bọn lính cũng không có chủ, nếu như bọn chúng tiến vào trong chùa, ắt là thường trụ sẽ bị cướp sạch. Tôi bèn nói với vị quan: “Khi tiến binh thì đi phía trước để thống lãnh, khi rút lui thì đi phía sau để trấn định. Tôi là tăng thủ, còn ông là lãnh binh. Nên để lính dẫn các vị tăng đi phía trước, còn tôi và ông đi phía sau, như thế tăng chúng sẽ không thiếu một ai, mà binh lính cũng sẽ không làm loạn.”
Vị quan cười nói: “Cứ y theo lời thầy nói.”
Chúng tôi đi khoảng hai mươi dặm thì đến đỉnh núi Đông Tạ. Đi vào đại doanh, thấy rất nhiều thổ tặc ở trần đang bị trói, khoảng hơn một ngàn người dân quê đang gào khóc rên la, kêu trời như bộng.
Một tên lính cầm cờ dẫn chúng tôi đến ngồi ở một nơi, rồi đem mười sáu người bị vu oan dẫn đi, một lúc sau lại dẫn họ trở lại phía sau lưng chúng tôi. Tên lính nói: “Các vị phải nên nói thực, nếu không cũng sẽ bị giết một lượt, giống như mười sáu tên này.”
Nói xong, chỉ nghe vài âm thanh vang lên, mười sáu người kia đã bị giết sạch. Sáu người bị trói còn lại thì được tha mạng. Máu của những người bị giết văng tung tóe, vấy vào các tăng bào.
Tôi nói với đại chúng: “Các thầy chớ nên sợ hãi. Mỗi người nên nhất tâm niệm Phật. Nếu như đã là định nghiệp của nhiều đời, thì hôm nay nhất định phải trả báo. Còn nếu không phải như vậy, tự nhiên sẽ được giải thoát. Sự tu tập hằng ngày, chính vào giờ phút này được thử thách.” Mọi người nghe xong, đều chuyên tâm niệm Phật.
Quan huyện họ Trần đi xuống, chỉ kêu một mình thầy Đốn Ngộ lên trên, tra tấn hạch hỏi. Thầy ấy khai tôi là phương trượng, ông Huyện bèn sai lính xuống gọi tôi lên. Tôi suy ngẫm sự sống chết giống như bọt nước sanh diệt, dù lâm nạn cũng không nên làm mất uy nghi của một vị tăng, bèn đi lên một cách khoan thai. Quân lính đứng hai bên tuốt gươm ra khỏi vỏ, đều hô lớn tiếng bảo tôi quỳ xuống. Tôi nghiêm mặt nói: “Thân mặc áo cà sa của đức Như Lai. Đức Phật đã chế định không được l- bái người thế tục, lẽ nào lại quỳ xuống để xin tha mạng. Như vậy là vi phạm giới luật.”
Nói xong, tôi bèn chắp tay đứng qua một bên. Vị tướng quân họ Ba dơ tay chỉ vào tôi mà cười, kế đó lại lấy tay tự sờ vào đầu, rồi lại đưa ngón tay cái lên (tỏ vẻ khen ngợi), sau đó quay lại nói tiếng Mãn châu với tướng quân họ Ngao và quan huyện Thao Giang họ Trần. Người thông ngôn dịch cho tôi nghe: “Tướng quân họ Ba nói đầu ông và đầu của tướng quân giống nhau (trọc), ông là Hòa thượng tốt, không cần phải quỳ.”
Quan huyện họ Trần nói: “Thổ tặc trú tại núi Hoa Sơn đã lâu, tại sao không lập tức cho người đến báo quan, mà lại tự chuyên chấp chứa?”
Tôi nói: “Núi Hoa Sơn tuy cao, nhưng trên đỉnh có đường lớn băng ngang. Nếu như thổ tặc từ phía trước đi đến phía sau núi, thì những người ở phía trước núi nói là họ trú tại Hoa Sơn, còn nếu như thổ tặc từ phía sau đi đến phía trước núi, thì những người ở phía sau lại nói là họ trú tại Hoa Sơn. Nếu chúng tôi đi báo quan, mà lúc quan quân đến không thấy thổ tặc, thì chúng tôi lại mắc tội. Đây không phải là chúng tôi chấp chứa bọn họ mà không đi báo. Nay Hoa Sơn ở phía trước mặt, thỉnh quan lớn hãy nhìn xem cho rõ.”
Quan huyện bèn quay đầu nhìn lên, quả nhiên trên đỉnh núi có đường lớn băng qua, bèn nói với tôi: “Trường hợp này bỏ qua không tra xét.”
Kế đó lại hỏi: “Tôn thái giám là nội quan của triều Minh, lén lút chứa chấp thổ tặc, trong lòng ôm ấp sự phản nghịch, thầy ắt biết rõ điều đó?”
Tôi nói: “Tôn thái giám lên núi xuất gia vào năm Sùng Trinh thứ mười bảy. Hiện nay làm Giám viện chưa đến nửa năm. Tôi chỉ biết rằng ông ta từ quan xuất gia tu hành, còn tâm ông ta xấu tốt, đó là một sự bí mật, tôi làm sao biết được.”
Quan huyện Thao Giang nói: “Quả nhiên đó là sự việc bí mật. Hãy bỏ qua việc này. Thầy hãy đi xuống.”
Tôi vẫn giữ uy nghi từ từ trở về chỗ cũ. Phía trên lại tiếp tục tra khảo thầy Đốn Ngộ về việc đãi cơm cho bọn thổ tặc. Thầy ấy lại khai thầy Khắc Tu có liên hệ. Hai người đổ thừa qua lại, không ai chịu nhận. Bọn lính bèn trói thầy Khắc Tu lại đánh. Thầy Khắc Tu bị đánh đau quá chịu không nổi, lại khai tôi là phương trượng, cai quản cả chùa. Bọn họ lại cho người xuống gọi tôi lên hỏi. Tôi quay lại nói với đại chúng: “Lần này đi lên sợ không được trở về. Mỗi người nên chánh niệm, không nên vì tôi mà hoảng sợ.”
Nói xong, tôi lại đi lên một cách khoan thai, chắp tay đứng qua một bên. Quan huyện họ Trần lại nói: “Chùa của thầy vào ngày mười hai đã có đãi cơm cho bọn thổ tặc. Tôi đã có người ở trong chùa thám thính. Tại sao lại dấu diếm.”
Tôi thấy thầy Khắc Tu bị côn kẹp vào đùi, còn thầy Đốn Ngộ thì bị trói quỳ một bên. Tôi liền lên tiếng quở trách hai người: “Rõ ràng vào ngày mười hai thực sự có hơn một trăm người đến chùa dùng cơm, tại sao lại không chịu nhận. Làm phiền ba vị quan lớn đây hạch hỏi tới lui ba lần bảy lượt, mà tự mình lại còn phải chịu sự khổ sở.”
Quan Huyện họ Trần nói: “Thầy đúng là người tốt.
Nói sự thực cho tôi biết.”
Tôi nói: “Quan Huyện muốn hỏi việc đãi cơm cả năm nay, hay chỉ hỏi việc đãi cơm ngày mười hai vừa qua?”
Quan Huyện hỏi: “Cái gì là đãi cơm cả năm?”
Tôi nói: “Các làng xóm trong vòng hơn một trăm dặm quanh núi đều gọi là Hoa Sơn. Trong chùa, vì tăng chúng nhiều, cho nên mỗi năm vào mùa gặt hái chúng tôi đều đi đến các làng để hóa duyên thực phẩm, do đó mỗi làng đều là thí chủ của chùa. H- có người đến chùa, bất luận nhiều ít, chúng tôi đều đem cơm nước ra khoản đãi. Nếu như không giữ họ lại dùng cơm, e rằng sang năm sẽ không có thực phẩm cúng dường. Từ lúc xây Đồng Điện đến nay, mỗi năm đều như vậy. Đâu chỉ có một bữa cơm vào ngày mười hai tháng tám năm nay. Bọn họ đến lại không có đem theo cung tên binh khí, làm sao chúng tôi biết ai là thổ tặc, ai không phải là thổ tặc.”
Quan huyện họ Trần bèn nói tiếng Mãn Châu với hai vị quan họ Ba và họ Ngao, người thông ngôn dịch cho tôi nghe: “Ba vị quan lớn nói thầy là người thành thực, không nói dối trá. Không xét việc đãi cơm nữa. Mời thầy đi xuống.”
Phía trên, bọn họ lại hỏi Đốn Ngộ về tài sản của thường trụ. Thầy ấy sợ bị hình phạt, bèn đem tất cả ruộng vườn tài sản của chùa khai nộp hết cho quan, lại khai rằng phòng kim ngân (giữ tiền bạc) là do thầy Phật Huy quản lý. Bọn họ bèn gọi thầy Phật Huy lên để thẩm vấn, thầy ấy bèn khai rằng số ngân khoản chỉ có ba mươi sáu lượng bạc và khoảng bảy tám ngàn quan tiền (kẻm). Vị quan thẩm vấn không tin, bèn nọc thầy Phật Huy ra đánh. Thầy ấy không biết trả lời thế nào, bèn khai là thầy Phương trượng biết rõ điều này. Quan huyện lại cho gọi tôi lên. Hai vị quan họ Ba và họ Ngao thấy tôi lên xuống mấy lần, lần nào cũng dáng dấp khoan thai, sắc mặt điềm tĩnh, bèn nói mấy câu với người thông ngôn, người ấy nói với tôi: “Quan lớn kêu thầy ngồi xuống nói chuyện. Đừng sợ.”
Quan huyện họ Trần nói: “Chùa Hoa Sơn rộng lớn, tăng chúng lại nhiều, chi tiêu mỗi ngày cũng không ít. Tại sao lại khai dối là tồn khoản chỉ có ba mươi sáu lạng bạc?” Tôi nói: “Thầy chủ kho hoảng sợ cho nên nói không rõ ràng.”
Quan huyện hỏi tôi: “Vậy thực sự có bao nhiêu?”
Tôi nói: “Thầy bổn sư của tôi là Hòa thượng Tam Muội phước duyên rất lớn. Các bậc vương hầu quan chức quy y rất nhiều. Ngân lượng cũng rất nhiều. Ngài là bậc giải thoát tự tại, cho nên đã không giữ lại đồng nào. Nơi nơi đều xây chùa đúc tượng. Vào cuối đời ngài, lại phải tu sửa chùa Hoa Sơn, cho nên đã dùng hết tiền nong. Ngài vừa từ trần vào năm ngoái. Bọn đệ tử chúng tôi bạc phước vô duyên, tiền bạc lương thực rất ít. Số tăng trong chùa lại nhiều, thành thử tiêu xài thiếu thốn. Chùa có một con ngựa xanh (Hán: thanh mã) bán cho chủ xưởng dệt họ Xa ở Nam Kinh được năm mươi tám lượng bạc. Tám, chín ngày vừa qua đã chi tiêu hết hai mươi hai lượng, hiện nay chỉ còn ba mươi sáu lượng. Nếu như quan lớn không tin, xin cho người đi hỏi ông chủ hãng dệt họ Xa, thì sẽ biết rõ hư thực.”
Ba vị quan lớn bàn với nhau một hồi, sau đó gật gật đầu. Người thông ngôn nói với tôi: “Ba vị quan lớn nói rằng thầy không nói dối, thành thử không cần đi hỏi.”
Bọn họ bèn cởi trói cho thầy Phật Huy. Sau đó lại kêu hai thầy Huyền Văn và Kế Huyền lên. Quan huyện họ Trần nói với tôi: “Việc này không liên quan đến thầy, mời xuống.”
Tôi bèn đi thẳng về chỗ ngồi không dám quay đầu nhìn lại. Đến khoảng giờ ngọ, ánh nắng chói chang, không có bóng cây che nắng. Mọi người ngồi lâu, vừa đói vừa mệt, mồ hôi đổ ra như tắm, lại càng cảm thấy khổ sở. Lúc ấy, đột nhiên có một vừng mây đen xuất hiện, vần vũ phía trên chúng tôi, giống như trương lọng che mát, còn bốn phía chung quanh, ánh nắng vẫn chói chang như cũ. Đến lúc xế chiều, có một tên lính cầm cờ đến, hô lớn: “Các vị đi theo tôi.”
Mọi người cho rằng phải đi thọ hình, tất cả đều thất sắc. Trong nhóm binh lính cũng có người tốt, chắp tay vui vẻ nói lớn: “Các thầy được tha rồi. Nếu người lính dẫn đường cầm cờ đen là bị tử hình. Hiện nay đang cầm cờ xanh (lục), không cần hoảng sợ.”
Chúng tôi nhìn lên, quả nhiên là cờ xanh lục. Khi ấy mọi người mới cảm thấy an tâm. Đi đến một dốc núi, đại chúng ngồi xuống nghỉ mệt. Độ hơn mười người lính đến đứng vây quanh nhìn, nói với mọi người: “Hôm nay nếu không có vị đại phương trượng này lên xuống biện bạch phân minh, lại có duyên lành với ba vị quan lớn, thì có lẽ mấy thầy đã không còn sống sót.”
Một người lính đến gần nói với tôi: “Thầy đã lao nhọc cả ngày, hãy nằm nghỉ ngơi chốc lát.”
Nói xong, bèn cởi bao đựng tên đưa cho tôi làm gối. Tôi nói: “Đây là dụng cụ giết người, người trì giới không thể xử dụng.”
Lại có một người lính khác nói: “Thầy đã đói rồi.”
Bèn đem một cái bánh khô trong người ra đưa cho tôi ăn, tôi bèn bẻ bánh vụn ra đem phân phát cho mọi người. Người lính nói: “Thầy cứ ăn một mình, khỏi phải phân phát.”
Tôi nói: “Những người tu hành ở chung với nhau, chịu thì cùng chịu, hưởng thì cùng hưởng, huống chi hiện nay đang gặp hoạn nạn mà không chia xẻ hay sao?”
Mấy người lính đều khen nức nở, họ đề nghị với nhau: “Chúng ta hãy vào xóm trước nấu cơm, sáng mai đem lại cho mấy thầy ăn.”
Đến nửa đêm, mọi người cảm thấy rất khát nước, nhìn xuống chân đồi thấy có một ao nhỏ. Mọi người hân hoan chạy xuống vốc nước uống, cảm thấy mùi vị vừa ngọt lại vừa mát. Đến khi trời sáng, nhìn lại thì ra là một vũng nước của trâu tắm.
Sáng hôm sau, binh lính đến gọi chúng tôi đến đại doanh. Quan huyện họ Trần nói với tôi: “Thầy là người tu hành, có thể trụ trì tại Hoa Sơn. Hãy dẫn mọi người trở về chùa.”
Tôi nói: “Hiện nay tôi không trụ trì Hoa Sơn nữa.”
Quan họ Trần nói với mọi người: “Thầy ấy đã không trụ trì Hoa Sơn nữa, vậy các vị hãy đề cử một người có đức hạnh ra làm phương trượng.”
Đại chúng đồng thanh: “Chỉ có vị phương trượng này mới xứng đáng, ngoài ra không còn ai nữa.”
Quan họ Trần cười nói: “Tôi bảo thầy làm trụ trì, đại chúng cũng đề cử thầy. Trước đây thầy đã làm trụ trì, sao nay lại không làm?”
Tôi nói: “Trước đây nhân vì Hòa thượng vừa mất, tháp chưa xây xong. Nếu nhân vì thổ tặc loạn lạc mà bỏ đi, thì mọi người sẽ trách là bất hiếu, cho nên không đi. Hiện nay Hoa Sơn đã trở thành vùng binh lửa (Hán: nạn địa). Nếu như thổ tặc tới lui như cũ, rồi lại có người báo cáo trong chùa chứa chấp, chúng tăng chẳng lẽ cứ ngồi đó mà đợi chết hay sao. Bởi vậy tôi không làm trụ trì nữa. Giả như tháp chưa xây xong, cũng không mang tội bất hiếu.”
Quan họ Trần nói: “Thầy đừng nên lo lắng việc sau này. Hai vị quan họ Ba, họ Ngao cùng với tôi đều làm hộ pháp cho chùa. Chùa Hoa Sơn sẽ là chùa hương hỏa của triều đình. Từ nay về sau quan quân sẽ không đến nữa. Nếu như có binh lính hoặc kẻ nào đến xâm hại, thầy cứ viết thư báo cho tôi, tôi sẽ bắt họ chém đầu. Hôm nay tôi viết cho thầy một tờ cáo thị đem về chùa treo lên.”
Tôi nói: “Hôm nay xin phụng mệnh làm trụ trì. Còn việc Tôn thái giám đem ruộng đất của chùa khai báo nộp quan, đó không phải là tài sản riêng của ông ấy, xin hãy hoàn lại cho chùa.”
Quan họ Trần vui vẻ hoàn lại tất cả. Tôi cùng đại chúng đồng cảm tạ rồi trở về chùa.
Về đến chùa, vào Chánh điện lạy Phật, bất giác nghẹn ngào, nước mắt tuôn rơi không dứt. Có duyên gì mà vẫn còn được chiêm ngưỡng Kim Nhan như vầy!
Xóm Nghiêm Hạng dưới chân núi có một người họ Trần là đệ tử quy y của chùa. Tối ngày mười ba, nghe có quân Thanh vây chùa, áp giải toàn thể tăng chúng đến doanh trại, cảm thấy rất lo lắng. Đến ngày mười lăm muốn lên chùa nghe ngóng sự tình, mấy người con cháu đều khuyên rằng lúc này binh lính còn ở núi Đông Tạ, vả lại trên núi Hoa Sơn xác chết ngổn ngang, trên đường không một bóng người qua lại, không nên lên núi. Họ Trần nói với họ: “Đệ tử nghe thầy có nạn, lẽ nào nhẫn tâm ngồi nhìn.”
Vào khoảng giữa trưa tìm lên chùa, thấy đại chúng đều được thả về. Sau khi hỏi han đầu đuôi câu chuyện, họ Trần ra về cảm thấy rất là vui vẻ.
Thầy A xà lê Hương Tuyết khởi kỳ truyền giới tại chùa Thượng Phương, phủ Trấn Giang. Hai sư huynh đệ thầy Thuần Chi, nhân dịp đi mua nhang đèn ghé đến chùa Thượng Phương xin nghỉ đêm. Thầy Hương Tuyết nói: “Chùa Hoa Sơn hữu sự, đừng liên lụy đến giới kỳ của tôi, xin hãy đi nơi khác tá túc.”
Hai sư huynh đệ thầy Thuần Chi nghe xong đành phải gạt lệ đi ra. Đến ngày mười tám, hai người trở về chùa thuật lại, đại chúng nghe xong ai cũng thở dài chán ngán. Tôi nói: “Hoa Sơn là nơi thờ toàn thân xá lợi của Hòa thượng. Không những nghe chùa có nạn, không lo không hỏi, mà đối với người sống cũng không cho tá túc. Thầy Hương Tuyết nỡ nào có lòng dạ bạc bẽo như vậy! Còn như vị cư sĩ họ Trần kia sao lại có tình nghĩa như vậy!”
Nửa tháng sau, có một gã thanh niên mặc quân phục đến chùa. Đại chúng giống như con chim đã bị trúng tên, vừa thấy đã cảm thấy lo sợ. Tôi bèn ra tiếp, hỏi han một cách nhỏ nhẹ. Hắn nói: “Dinh của quan huyện họ Trần cần ngựa.”
Tôi nói: “Trong chùa quả thật có một con ngựa tốt.
Tôi sẽ giao cho anh.”
Gã thanh niên nghe nói lộ vẻ vui mừng. Tôi bèn hỏi tiếp: “Bây giờ giao ngựa cho anh, nhưng anh có đem chứng cứ gì không?”
Hắn bèn rút một tờ thiếp từ bên hông ra đưa cho tôi xem. Tôi thấy dấu ấn không phải là chu sa mà là đất đỏ. Tôi bèn cầm tờ thiếp trong tay, quát to: “Anh là thổ tặc đảng nào, mà dám đến chùa lừa gạt lấy ngựa đem đi. Anh chưa nghe ba quan lớn họ Ba, họ Ngao và họ Trần đã làm hộ pháp cho chùa này hay sao? Hãy bắt trói hắn lại, giải đến quan huyện!”
Gã thanh niên nghe xong bèn quỳ xuống, giập đầu xin tha mạng, nói rằng hắn không muốn đi, nhưng tên đầu đảng là Trương Côn sai hắn đến. Nói xong bèn lớn tiếng khóc òa không dứt. Lúc đó, đột nhiên trời đổ mưa thật lớn, tôi cảm thấy thương hại bèn nói: “Nay tôi tha cho anh, nếu còn trở lại, chắc chắn sẽ không được tha thứ. Cho anh một đôi giày cỏ, một cây dù. Hãy đi cho lẹ!”
Hắn cởi đôi giày da, mang giày cỏ, chạy mất dạng vào trong cơn mưa tầm tã. Từ đó về sau, vùng Hoa Sơn thái bình, thổ tặc tuyệt tích.
Tháng hai năm Thuận Trị thứ sáu, có một hai đệ tử của thầy Đạt Chiếu, tôi là Giáo thọ truyền giới cho bọn họ, cố ý vi phạm tăng quy. Thầy Đạt Chiếu làm ngơ không chịu quở trách. Tôi bèn rời chùa xuống núi, qua sông định đi lên núi Bắc Ngũ Đài. Đến Quan Sơn ở Trừ Châu, thì gặp thầy Giám viện Trạm Nhất giữ lại, cầu được thọ giới. Thầy Nguyện Vân là đệ tử xuất gia của Hòa thượng, tôi cũng là giáo thọ của thầy ấy, đang học tập giới luật trên núi Hoa Sơn, tụ họp các vị đồng học ở Cảnh Đường, trách cứ khuyên nhắc bọn họ. Thầy ấy nói với thầy Đạt Chiếu: “Hòa thượng Kiến Nguyệt là người mà cố Hòa thượng Tam Muội chọn làm người kế vị chức vị Phương trượng, lại là người đã bảo tồn đạo trường trong lúc Hoa Sơn gặp ách nạn. Đáng lý phải nên tôn trọng quy luật, nghe lời chỉ dạy, y chỉ tu hành. Tại sao lại dám kháng cự làm ngài sầu não, hơn nữa, lại tự phá hoại môn đình. H- ai đắc tội với Phương trượng, tức là đắc tội với cố Hòa thượng.” Nói xong bèn viết giấy thông báo trục xuất những người không tuân thủ giới luật.
Sau đó, hai thầy Đạt Chiếu và Ly Ngôn đến Quan Sơn ở Trừ Châu để đón tôi trở về chùa. Từ đó mọi người đều tuân thủ luật quy một cách nghiêm chỉnh. Tôi bèn kiến lập Mộc giới đàn để truyền thọ cụ túc giới. Số đại chúng trong chùa không bao giờ dưới ba trăm người, lương thực tồn trữ trong kho tuy chỉ đủ ăn vài ngày, thế nhưng ngày nào cũng đủ ăn.
Mùa đông năm Thuận Trị thứ sáu, có hội trưởng hội Trường Xuân ở phủ Ninh Quốc đến thỉnh tôi đến đó làm phương trượng, tôi hứa sẽ cứu xét lại. Qua năm Thuận Trị thứ bảy, tôi được năm mươi tuổi, đàn việt bốn phương tấp nập cúng dường, các vị trưởng lão của các tùng lâm cũng đến quang lâm chúc thọ.
Có thầy Mịch Tâm là đệ tử của cố Hòa thượng, cũng là tôn chứng sư của tôi, muốn giành chức Phương trượng. Sáng sớm ngày mười lăm tháng tư, tôi cho người đánh bảng triệu tập đại chúng nơi phương trượng, mời thầy Mịch Tâm đến. Tôi bạch với đại chúng: “Từ xưa đến nay, chức vị phương trượng là do cung thỉnh người có đức hạnh đảm nhận. Tôi là người đức mỏng, không kham nổi trọng trách này. Hôm nay nhờ đại chúng tính toán sổ sách tiền bạc lương thực cho rõ ràng để xin giao lại. Số gạo trong kho là ba trăm thạch, số tiền là hơn hai trăm lượng bạc và chín vạn quan tiền. Nay xin lấy năm vạn hai ngàn quan tiền chia đều ra cúng dường đại chúng. Số lượng dầu muối đồ khô trong nhà kho đủ để dùng trong một năm.”
Sau khi đảnh l- thầy Mịch Tâm, tôi bèn đi đến Đông Lầu, không hề ngoảnh mặt lại. Hôm sau, ngày mười sáu, cùng đại chúng làm l- tiền an cư. Qua ngày mười bảy, làm l- từ tạ tháp của Hòa thượng. Trong giới luật cho phép trong trường hợp có nạn duyên, có thể đến nơi khác an cư, tôi bèn nói với đại chúng: “Ngày mai tôi sẽ đến hội Trường
Sinh ở phủ Ninh Quốc để an cư.”
Đại chúng đều bẩm bạch là tất cả muốn cùng đi với tôi xuống núi. Tôi nói với họ: “Hoa Sơn là nơi cố Hòa thượng đã đổi phương hướng để trung hưng giới luật. Hơn nữa, ngài đã viên tịch và xây tháp tại đây. Đây là tổ đình của chúng ta. Tôi đã từng nguyện thường được ở đây để làm thị giả, quét tước chăm sóc bảo tháp của ngài. Hiện nay do nhân duyên nào mà phải như vầy! Bây giờ tôi đề nghị với đại chúng. Ai muốn ở lại thay tôi chăm sóc tổ đình, xin đứng qua bên trái. Sau này vẫn có cơ hội sớm gặp lại nhau. Còn những ai nhất định đi theo, xin đứng qua bên phải.”
Đại chúng y theo lời, phân làm hai nhóm. Những người đi theo tôi nhiều hơn phân nửa, khoảng hơn một trăm hai mươi người.
Sáng ngày mười tám, thầy phó trụ trì Lý Trung đưa cho tôi ba mươi lượng bạc làm lộ phí. Tôi cười không nhận. Thầy ấy nói: “Đây là tiền hương nghi của ngài, chứ không phải là tiền của đại chúng.”
Tôi nói: “Giao thì giao hết, sao lại còn phân biệt.”
Sau khi ăn sáng xong, chúng tôi bèn xuống núi. Đến cầu Lão Bồng thì gặp vị Đạo nhân họ Trương mời chúng tôi dùng cơm trưa, sau đó ông ấy lại chuẩn bị thuyền để ti-n đưa. Đến tối, chúng tôi tạm trú tại Nhị Trung Từ ở Hạ Quan. Thầy Giám viện cũng là đệ tử thọ giới của tôi, giữ chúng tôi ở lại ba ngày. Các thiện nam tín nữ tìm đến xin quy y, cúng gạo hơn bốn mươi thạch, tiền hương nghi được một trăm lượng bạc. Chúng tôi bèn mua thuyền, đi ngược về mạn thượng lưu, đến cuối tháng tư thì đến Ninh Quốc. Chủ nhân tiếp đãi chúng tôi rất là chu đáo.
Đầu tháng năm, có hai ba đệ tử từ Hoa Sơn đến tr-, kể lại rằng sau khi tôi xuống núi, quan huyện Cú Dung nghe tin thầy Mịch Tâm giành chức Phương trượng, và tôi đã nhường chức xuống núi, bèn gọi thầy Mịch Tâm đến Hạ viện ở Long Đàm để quở trách. Ra kỳ hạn trong vòng nửa tháng phải thỉnh tôi trở về chùa. Kế đó có một vị hộ pháp của chùa là cư sĩ Trần Mẫn Chiêu lên chùa l- Phật, lớn tiếng khóc lóc, nói với đại chúng: “Hòa thượng trụ trì vừa xuống núi, tùng lâm đã lập tức bại hoại. Gốc họa này không phải chỉ do một mình thầy Mịch Tâm, mà là do đồ đảng của thầy ấy bày mưu lập kế. Đáng lý phải trình lên nhà chức trách, nhưng hiện tại xin hãy tạm khoan thứ cho họ. Con là hộ pháp cho chùa, việc đầu tiên là phải hộ trì tăng đoàn. Con sẽ chọn ngày tự mình đi Tuyên Thành cung thỉnh Hòa thượng (Kiến Nguyệt) trở về.”
Ngày hai mươi mốt tháng bảy, họ Trần đến Tuyên Thành gặp tôi, trình bày sự việc trên Hoa Sơn và nhân duyên đến tiếp rước tôi trở về chùa, nghe xong tôi cảm thấy ngượng ngùng, xúc động trước sự hộ pháp ân cần của tín chúng.
Ngày hai mươi bốn, tôi ra lệnh cho đại chúng đi thuyền trở về trước, còn tôi và họ Trần thì đi đường bộ. Ngày hai mươi chín, chúng tôi đến Giang Ninh. Ngày hôm sau, Hòa thượng Giác Lãng và các cư sĩ hộ pháp cùng nhau đưa tôi về chùa. Đến nông trường nhà họ Phạm dưới chân núi thì trời đã nhá nhem tối. Những người dân trong làng nghe tin tôi trở về chùa, mọi người đều tranh nhau ra xem, những người khác thì cầm đuốc đưa đường. Ánh sáng chói rực như ban ngày. Hòa thượng Giác Lãng cười lớn tán thán, nói với các vị hộ pháp: “Ngài Kiến Nguyệt làm trụ trì cảm hóa mọi người như vậy, đây chính là điềm lành Đạo pháp đại hưng.”
Sáng hôm sau, tôi kêu các vị chấp sự cũ trong chùa, đề nghị thiết trai cảm tạ các vị hộ pháp. Tôi hỏi họ vật dụng của thường trụ còn lại bao nhiêu, thầy Giám viện Nhược Kiến trả lời: “Tiền bạc đã hết nhẵn, gạo chỉ còn vài thạch, nhà kho thì trống không.”
Tôi thở dài nói: “Tôi xuống núi chưa đến năm tháng, tại sao thường trụ lại đến nông nỗi này!”
Thầy Nhược Kiến trả lời: “Sau khi Hòa thượng đi rồi, trong chùa không còn nghiêm trì giới luật. Đại chúng chỉ muốn phân tán. Thầy Mịch Tâm ngày nào cũng ăn uống hoang phí, vả lại không có ai đến cúng dường, thành thử mới hao hụt như vậy. Giống như uống nước ao cạn mà thiếu trời mưa (Hán: do ẩm tử thủy nhi phạp hoạt tuyền), cho nên mới đến nông nỗi này. Con cũng không thể quản lý gì được.”
Các cư sĩ hộ pháp nghe nói, tất cả đều nhíu mày buồn bực. Tôi nói: “Lần trở về núi kỳ này, khác xa với lần từ doanh trại của quân binh trở về. Chúng ta hãy tùy duyên mà sinh hoạt, chớ nên lo âu!”
Những người từ xa tìm đến học giới càng lúc càng đông. Tôi cáo bạch với đại chúng: “Cuộc sống trong chùa đạm bạc. Nếu như thêm người, chỉ có thể thêm nước uống, chứ không thể thêm gạo. Nếu ai không kham nổi sự đạm bạc, xin hãy đi tìm nơi khác.”
Tất cả mọi người nghe xong đều nguyện ở lại, không một ai chịu bỏ đi.
Bắt đầu từ năm Thuận Trị thứ tám, vào mỗi mùa đông hoặc mùa hạ, tụ tập mọi người tại một nơi niệm Phật mười ngày liên tiếp. Buổi trưa chỉ dùng cháo lót lòng, không tăng không giảm. Vào ngày rằm tháng bảy thì tổ chức hội Vu Lan Bồn. Phòng Phương trượng nếu có tiền bạc hay vật dụng gì, đều đem ra phân phát hết cho đại chúng, dùng nhân duyên này để báo đáp ân sâu của cha mẹ. Từ đó, những sự việc này trở thành những quy luật cố định của thường trụ.
Năm Thuận Trị thứ chín, vùng Giang Nam bị hạn hán và nạn châu chấu hoành hành, cây cỏ đều trơ trụi, không gặt hái gì được. Những người dân trong các làng mạc dưới chân núi, già trẻ gái trai, đều lên chùa xin ăn. Trong số đó, không chỉ là những người nghèo khổ, mà còn có cả những kẻ có ruộng vườn. Thường thường là một trăm cho đến hai trăm người. Tôi cáo bạch đại chúng giảm thiểu phần ăn để làm việc cứu tế. Một hôm, vào lúc giờ ngọ, số người đến xin nhiều hơn lúc thường gấp bội, đứng đầy chật cả trong chùa. Tôi bèn dùng phương tiện khai thị cho bọn họ: “Các vị ngày hôm nay bất đắc dĩ phải lên núi. Mọi người nên quán xét nhân duyên quá khứ của mình, là vì đời trước không tin Tam bảo, bỏn sẻn không chịu bố thí người nghèo khổ, cho nên mới chiêu cảm quả báo như hiện nay. Bây giờ chúng tăng bố thí cho quý vị mỗi người ba xu, tôi sẽ đi đến trước mặt quý vị, mỗi người hãy cúng dường cho tôi một xu. Tất cả mọi người hãy niệm Phật, hai tay dâng lên cúng dường. Tôi sẽ đem tiền này cúng dường cho chúng tăng, để trồng phước điền thanh tịnh cho quý vị. Trong tương lai sẽ không còn bị bần cùng khổ sở.”
Lúc tôi đi chung quanh hóa duyên, tiếng niệm Phật vang rền như sấm. Tôi bèn cho người đem hết gạo trong kho ra nấu cơm bố thí cho bọn họ. Mọi người đều được ăn uống no đủ, sau đó tất cả đều niệm Phật ra về. Thường trụ không còn gạo, sáng hôm sau đại chúng trong chùa phải uống nước nóng cầm hơi. Mãi đến chiều thì có cư sĩ Hoàng Quân Phụ ở Giang Ninh đem mười thạch gạo lên cúng dường.
Trong tháng hai năm Khang Hy thứ mười, có bà ni Tâm Văn ở Hán Dương tỉnh Hồ Bắc, tuổi khoảng năm mươi, có chí muốn học giới, cùng chín người đệ tử, không ngại đường xa, ngồi thuyền tìm đến Hoa Sơn. Bọn họ mười người lên núi, cầu xin được an cư ba tháng, lại xin cúng dường cho chùa mười thạch gạo và hai mươi lạng bạc. Tôi thấy bọn họ có vẻ thiết tha thành khẩn bèn thương xót chấp nhận. Đến ngày thiết trai cúng chúng (trai tăng), bọn họ không chịu vào trai đường đảnh l- chúng tăng. Sau khi thọ trai, tôi bèn triệu tập đại chúng, gọi bọn họ vào nói: “Các vị phát tâm từ xa đến đây học giới, tại sao lại không chịu vào Trai đường đảnh l- chúng tăng. Giới luật chế định tỳ kheo ni dù một trăm tuổi hạ cũng phải đảnh l- tỳ kheo một tuổi hạ. Nay lại dám tự đại, coi thường chúng tăng, đây không phải tư cách của người học giới.”
Bà ni nói: “Chúng tôi ở Hồ Bắc, nếu nơi nào có bậc thiện tri thức, đều đến thiết trai cúng dường. Các vị trụ trì đều khoản đãi chúng tôi như thượng khách.”
Tôi nói: “Bọn họ tham lam lợi dưỡng, bại hoại pháp môn. Mỗi khi thấy bà ni nào đến cúng dường, thì đon đả cung kính như mẹ đẻ, hầu mong được thêm cúng dường hậu hỷ. Đó là dòi trùng trên thân sư tử, không phải là thiện tri thức chân thực. Chùa Hoa Sơn chúng tôi tuy sống đạm bạc, chẳng thà hết gạo chịu đói, nhất quyết không vi phạm giới luật để mong cầu lợi dưỡng. Bữa trai tăng hôm nay coi như đã cúng dường thường trụ, bây giờ hoàn lại số bạc cho bà. Gạo thì ở dưới Hạ viện, bà hãy đem nó mà đi nơi khác.”
Bà ni tỏ vẻ ương ngạnh, lấy tiền xong bèn dẫn đồ đệ xuống núi. Có một đệ tử của tôi là Cổ Đàm vào phòng Phương trượng bạch rằng: “Bà ni đó từ xa đến, thường trụ hiện nay lại thiếu thốn. Hòa thượng hãy dùng phương tiện nhiếp thọ. Thứ nhất là không làm cho họ thoái thất đạo tâm, thứ hai là đại chúng có được thực phẩm nửa tháng.”
Tôi bèn nghiêm mặt nói: “Chỉ cần chân thực tu hành, mọi người đều sẽ không bị đói. Chấn chỉnh pháp môn, chính là vào lúc đạm bạc mà hành động. Luật sư hành trì giới luật, chẳng lẽ h- cứ thấy lợi dưỡng là vi phạm sự chế định của đức Phật hay sao?”
Cổ Đàm nghe xong, tỏ vẻ ngượng ngùng bèn cáo lui.
Ba ngày sau, bà ni Tâm Văn lại dẫn mấy đệ tử trở lên núi, cùng quỳ trước cửa phòng Phương trượng khóc lóc, nói: “Chúng con ở Hồ Bắc đã mông muội ngu ám như vậy, chứ thực sự không phải tự đại xem thường chúng tăng. Thành khẩn cầu nguyện Hòa thượng từ bi tha thứ cho chúng con được sám hối. Chúng con nguyện tuân hành tất cả những lời răn dạy.”
Các vị chấp sự trong chùa cũng quỳ xuống cầu xin giùm cho bọn họ. Do đó, tôi đã ra lệnh xếp đặt một sơn trang dưới chân núi cho bọn họ kết giới an cư. Lại sai các vị A xà lê cứ mỗi nửa tháng đến đó dạy giới luật cho họ. Cũng do nhân duyên này, tôi đã soạn một quyển Tỳ Kheo Ni Chánh Phạm, và cho lưu hành khắp mọi nơi.
Tuần đầu tháng tám, có thầy Hội Nhất, phụ trách Hậu đường, là người tu thiền lâu năm, lên núi xin được y chỉ học tập giới luật. Gặp lúc trong chùa đang phơi Đại Tạng Kinh, thầy Hội Nhất lật nhằm quyển Bát Chu Tam Muội Kinh, ngày hôm sau đến bạch với tôi rằng: “Trong Đại Tạng có quyển Bát Chu Tam Muội Kinh, đây là quyển kinh tông yếu của Tịnh Độ Tông, thuộc về loại rất khó hành trì.”
Tôi nói: “Lúc tôi còn ở Bắc Ngũ Đài, cũng đã từng được nghe thiện tri thức khai thị. Trong chín mươi ngày, không ngồi không nằm, chỉ có đứng và đi. Sau khi đến núi này, đọc qua Hành Tập của Nam Sơn Luật tổ Đạo Tuyên, biết rằng đây là pháp môn mà ngài thường tu tập (theo sách vở ghi chép, ngài Đạo Tuyên đã tu Bát chu tam muội hai mươi lần). Sau này ít có người tu tập. Nếu như có thể xả bỏ thân này, thì tự nhiên sẽ tu được mà thôi.”
Nói xong, tôi bèn chọn ngày hai mươi tháng tám, từ tạ mọi sự, nhập thất tại phòng Phương trượng, tu tập Bát Chu Tam Muội trong chín mươi ngày, nguyện theo vết chân của luật tổ Đạo Tuyên. Đến ngày hai mươi mốt tháng mười một thì ra thất. Sang mùa thu năm Thuận Trị thứ mười, tôi lại tu Bát Chu Tam Muội lần thứ hai chín mươi ngày. Tự cảm thấy rất vui mừng hãnh diện là đã có cơ hội hai lần trồng nhân duyên Tịnh nghiệp, nhưng đồng thời cũng cảm thấy hổ thẹn là vì do nghiệp chướng sâu dầy cho nên không thu hoạch được nhiều sự lợi ích.
Đến như những việc y vào giới luật chế định để canh cải những quy lệ lỗi thời, nghiêm trì giới luật, soạn tập Tỳ Ni, cải chánh những tệ đoan, tất cả nhân duyên của sự giáo hóa, lãnh đạo, cùng những việc thiết lập giới đàn để làm mô phạm cho hậu học, mua ruộng đất để cúng dường chúng tăng, tất cả những sự việc tu tạo lớn nhỏ này, đều là vì muốn hoàn thành ý nguyện mà cố Hòa thượng Tam Muội đã kỳ vọng khi ngài cải đổi phương hướng của chùa Hoa Sơn, dùng đây để báo đáp ơn đức pháp nhũ thọ giới mà ngài đã ban bố cho tôi.
Mấy mươi năm qua lao tâm khổ nhọc, phấn đấu chi trì, chưởng quản Phật pháp, không nề lao khổ. Nay tôi đem kể hết cho tất cả đại chúng nghe. Các vị A xà lê Ly Ngôn, cùng các đại đệ tử theo tôi đã lâu ắt đều đã nghe đã thấy. Thế nhưng, tất cả pháp có hình tướng đều như mộng huy-n, cho nên đặt tựa đề của quyển sách này là Nhất Mộng Mạn Ngôn, và xin được làm bài kệ như sau:
Nhất mộng nam du số thập thu,
Gian nguy lịch tận sự phương hưu,
Nễ kim vấn ngã nam du thuật,
Nhưng bả mộng trung cảnh giới thù.
Tạm dịch:
Giấc mộng về Nam mấy chục năm,
Trải bao gian khổ, sự long đong,
Hôm nay bạn bảo tôi kể lại,
Chỉ đem mộng cảnh thuật lòng dòng./.
A di đà phật! Con xin QTV Website cho con bản .doc hay pdf của tác phẩm trên để nghiên cứu tu học.
Đã gởi vào email.