NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
QUYỂN HAI
Chương năm
06 tháng 06, 1990
Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ 110 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này.
Vừa rồi quý vị có tụng một đoạn trong phẩm thập địa, đoạn này rất quan trọng tôi xin phép nhắc lại một vài điểm chính để quí vị nhớ. Vì chỗ này là “Viễn hành địa” tức địa thứ bảy là một nấc viên dung của con đường tu chứng. Thường thường chắc một đôi lần quí vị cũng tự hỏi là các vị Bồ Tát so với các vị A La Hán như thế nào? Các vị Bồ Tát tu hành trong thập địa thì đến địa nào có thể bằng A La Hán được, hoặc hơn A La Hán về cái gì? Viễn hành địa này, là cái địa “quá độ,” tức là một địa chuyển biến rất nhiều, và sau đó các ngài sẽ được “pháp thân Bồ Tát” tức là lên đệ bát địa, vì từ đệ thất địa trở xuống thì vẫn còn “nhục thân Bồ Tát.” Đó là một điểm quan trọng mà ta cần nhớ.
Pháp thân bồ tát tức là chỉ thị hiện thọ sanh mà thôi, (như vào thai mẹ mà vẫn hóa sanh), vì thân Bồ Tát lúc bấy giờ là “thân như huyễn,” “thân diệu hữu,” không có nghiệp, dù làm bất cứ gì cũng không tạo nghiệp, vì các ngài làm Phật sự đều do lòng đại bi và bát nhã mà ra. Còn chúng ta vì bị suy động bởi nghiệp, và nghiệp đó vẫn tương đối là thật, nên chúng ta còn chịu nghiệp báo. Ngược lại, các vị Bồ Tát vì do lòng đại bi và bát nhã thì dù các ngài có giết người đi chăng nữa cũng không chịu nghiệp báo, vì giết là do lòng đại bi. Cũng như ngày xưa, Bồ Tát Liên Hoa Sanh (Padma Sambhava) của Tây Tạng, tới tỉnh đó giết tất cả tụi đồ tể nhưng vì ngài giết do lòng đại bi nên ngài không mắc tội báo, vì ngài giết để cứu độ không phải giết vì tâm thù hận… Khi vượt qua đệ thất địa thì được “pháp thân bồ tát.” Chỉ thị hiện gá vào người đàn bà, thực ra không phải là thai sanh. Như Đức Thích Ca Mâu Ni Phật khi đản sanh, chỉ gá vào ngài Ma Gia, trong kinh Đại Thừa nói rõ rằng đó chỉ là thị hiện, không có một tí tham dục ô nhiễm nào. Điểm thứ hai chúng ta cần nhớ là ở địa thứ bảy này, nếu so với A La Hán thì vị Bồ Tát bằng định lực của một vị A La Hán, tức là có thể vào diệt tưởng định, trong kinh nói là “niệm niệm xuất nhập diệt tưởng định.” Nhưng về huệ lực và nguyện lực thì các ngài hơn A La Hán rất nhiều, vì ở bậc bồ tát đệ thất địa các ngài có thần thông vô lượng trong khi A La Hán không có thần thông mấy.
Ngay một người phàm phu như chúng ta, nếu phát tâm đại thừa, phát tâm trang nghiêm vô thượng bồ đề thì về nguyện lực và huệ lực chúng ta đã hơn bậc A La Hán, tuy rằng định lực rất kém, phiền não rất nhiều, nhưng về nguyện lực thì hơn. Vì sao? Vì tuy chưa mở được cái tâm rộng lớn ấy, nhưng chúng ta đã mong mỏi như thế rồi, và hiểu về diệu tâm, còn A La Hán thì tuyệt nhiên chưa có những tâm tưởng ấy.
Trong lần trước, ở phẩm nhập phá giới chúng ta đã đi đến vị thiện tri thức thứ 39. Hôm nay, chúng ta sẽ đi đến vị thứ 40, 41 tức là hai vị nữ nhân xưa kia có liên hệ rất mật thiết với đức Phật. Đó là Bà Thích Nữ Cù Ba, bà vợ thứ hai nhân thế thị hiện của đức Phật và bà Ma Gia là Mẹ của Phật. Trong đoạn này, kinh sẽ nói những lối tu hành, những sự dính mắc giữa nam và nữ trên đường tu hành.
Chúng ta là những phàm phu sống ở đời, mục tiêu của đời người là muốn đi tới sự sung sướng, mà trong sự sung sướng ấy có sự tự do. Càng ngày, lịch trình của nhân loại đi tiến tới chỗ tự do càng lớn hơn. Như cái tảng đá kia, nó không có tự do gì cả, nó cứ chỉ nằm ù lỳ ở đó mãi. Nhưng thật ra, theo con mắt nhà Phật, tảng đá ấy cũng không phải hoàn toàn vô tri đâu, nó cũng có một chút thức giác, nhưng cái thức giác đó rất thô sơ, do đó sự tự do của nó cũng rất hạn hẹp. Khi lên đến cây cối, thì chúng có sự tự do hơn tảng đá một chút, như nó biết vươn ra mặt trời, có thể mọc những cành lá ngang dọc, nên nó có được tự do hơn hòn đá chỉ nằm lì một chỗ, và cây cối dĩ nhiên cũng có một thức giác triển khai hơn tảng đá. Nên trong kinh có nói, loài cây chỉ cần một thời gian khoảng một, hai trăm năm có thể trở thành tinh mị, còn tảng đá thì phải hơn thế nữa, có lẽ phải đến nghìn năm, mới có, thể thành loài tinh mị. Vì thức giác của loài cây cao hơn, nên sự tự do nhiều hơn. Lên dần, đến loài côn trùng, cá, rùa…, rồi bò, chó…, như loài chó chẳng hạn, dĩ nhiên nó hơn các loài kia, vì nó gần người hơn. Loài vật nào gần người thì nó chuyển vào chỗ cao dễ hơn là các loài khác. Tâm thức càng triển khai, khả năng tự do càng nhiều. Lên đến loài người, sự tự do của chúng ta hơn các loài động vật rất nhiều. Ngoài những bản năng động vật, người còn biết thưởng thức, biết đọc sách, chơi với tâm tưởng. Lại biết cười, biết suy tư… Chúng ta có thể chế ra các phương tiện di chuyển, các máy móc v.v… Nhưng sự tự do của loài người vẫn còn hạn hẹp vì loài người còn mang tâm ngã. Khi chúng ta còn mang tâm ngã và sắc thân máu thịt thì sự tự do chưa thể lớn được. Vì chúng ta có thể làm đến tổng thống, thủ tướng, hoặc biến chế ra những máy móc để hưởng thụ, nhưng khi một trận thiên tai đổ xuống thì cũng… đành chịu bó tay, và chúng ta vẫn phải chết như thường, nên sự tự do không có nhiều. Sự tự do của loài người là tương ứng với tâm thức của người chấp ngã. Như tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do phát biểu ý kiến, tự do kinh doanh v.v… chứ chưa có thứ tự do siêu xuất, cao rộng vô ngã, và chưa tới chỗ “bất tử” của bậc Thần Linh vô ngã. Còn người tu hành thì sao? Chúng ta thường thấy trong kinh nói đến chữ “tự tại.” Vậy tự tại và tự do khác nhau ra sao? Tự tại tức là tự do, nhưng tự do một cách cao rộng sâu thẳm, nó không những bao gồm ý thức mà cả tiềm thức và vô thức, đồng thời nó thênh thanh, vô ngại, có thể “chuyển vật” được, đó là sự tự do của những bậc đã đạt được vô ngã. Còn người mang cái ngã và sắc thân máu thịt này thì không thể nhiều tự tại.
Khi chúng ta có thân hào quang, đồng thời với tâm vô ngã thì lúc đó tâm lực của chúng ta rất ghê gớm, có thể chuyển vật dễ dàng. Lúc đó nếu gặp một người mù, mà chỉ cần nói một câu: “anh hãy trông thấy đi” hay gặp một người què, chỉ cần nói “anh hãy đứng dậy đi đi” thì những người tàn tật ấy có thể làm được ngay, thấy được, hoặc đi được. Muốn được như vậy phải có tâm vô ngã và cái thân hào quang.
Vì vậy, Đức Phật, ngài đã lên đến mức độ bát nhã, đại bi, tâm vô ngã, vô sở cầu hạnh thì ngài có thể chuyển các cõi, ngài có thể chỉ lấy chân ấn đất thì trái đất trở thành màu hoàng kim… Nếu tin, hiểu được cái đó mới là hiểu đạo Phật, còn nghĩ đó là hoang đường, là thần bí thì chưa hiểu. Vì thực ra, tất cả trái đất này, nó chỉ là quang minh tụ lại họp thành, cũng như bây giờ khoa học đã chớm thấy rõ. Như nhà bác học Wheeler từng nói:
“Vật chất không thật có, vì đó chỉ là những ánh sáng mắc bẫỵ(trapped light) mà thôi.”
Nên khi tâm một hành giả tới chỗ hào quang tột bực thì có thể chuyển cái tâm ấy thành tất cả thứ vật được, muốn chuyển các cõi cũng được v.v…. Nhưng khi tới mức độ đó, các ngài lại không làm theo lối “cao hứng” như phàm phu chúng ta, mà các ngài làm theo tâm đại bi, tùy theo nghiệp duyên của người đáng được độ.
Nhân đây, chúng ta nói về ngài Thiện Tài. Ngài Thiện Tài đi vào nhập pháp giới tức là đi sâu vào tâm thức, đến đáy tầng tâm tưởng để nhập pháp giới, để được tự tại, tự do tuyệt đối sâu thẳm và cao rộng. Ta thấy rõ trong kinh nói lên một tiến trình của sự thật ấy, sự vật nào cũng tiến đến một tự do nào đó, và sự tự do chỉ tương ưng với tâm thức. Tâm thức thấp, còn có ngã thì tự do không nhiều được. Đạo Phật dạy rõ như thế, và các tôn giáo khác gần như cũng dạy như thế. Người ta có thể có rất nhiều khi người ta không còn tham, nếu tâm ta còn tham thì chỉ có một ít, rất hữu hạn. Vì càng tham bao nhiêu thì chỉ được có một chút thôi, càng buông bao nhiêu, tâm càng mở rộng, càng xả, càng ly bao nhiêu thì càng có nhiều tự tại lực bấy nhiêu. Cái chân lý ấy khác hẳn lối suy nghĩ của phàm phu. Chúng ta luôn nghĩ rằng có được bao nhiêu phải cố gắng ôm chặt lấy, gom góp cho nhiều thì càng có nhiều. Nhưng nếu chúng ta gom góp thật nhiều, mà nếu phước lực không đủ thì các vị quỉ thần cũng sẽ làm cho ta mất hết, do thiên tai hoặc một cơn hoạn nạn nào đó.
Đó là những điểm quan trọng tôi muốn nhắc lại cho quí vị nhớ. Tu hành tức là chúng ta “tập làm thần linh,” và đạt đến “tự tại lực” tuyệt đối, tự do sâu thẳm cao rộng, tự do tuyệt vời mà chỉ có cái tâm vô ngã mới đến mức tuyệt vời được.
Tại sao chúng ta phải ngồi kiết già? Vì kiết già là tư thế của thần linh. Loài súc vật không bao giờ biết ngồi kiết già, chỉ có con vật nào khá nhất thì biết ngồi xổm. Loài người chúng ta… kỵ nhất ngồi xổm, vì nó giống súc sanh quá, phải ngồi thoải mái, phải có phong tư của một người, hoặc bắc chước kiểu ngồi của thần linh là ngồi bán già hoặc kiết già. Tu hành là phải tập sống như thần linh, nên phải ngồi như thần linh, có oai nghi như thần linh, đừng có ăn nhồm nhoàm, ăn cúi mặt xuống đất, mà ăn một cách thong dong như vẫn ly cái ăn đó, đồng thời tâm niệm chúng ta lúc nào cũng phải khởi tâm niệm giống thần linh.
Tôi thường nói nhiều lần, chúng ta thường có ba thứ tâm niệm. Trong một ngày, ta có thể khởi mấy ngàn tâm niệm, mà những tâm niệm ấy đều rơi vào trong ba loại này:
1/ Tâm niệm súc sanh: Khi chúng ta khởi tình dục như điên như cuồng. Khi chúng ta khởi tâm niệm tham ăn, thấy họ nướng …thịt chó thì không thể bỏ đi được, thèm rỏ cả rãi, hoặc trông thấy một chén rượu, không thể không uống được v.v… thì đó là tâm niệm của súc sanh.
2/ Tâm niệm yêu quái: Đây là tâm niệm đấu tranh, thích mê hoặc người khác, thích hơn người v.v… Tất cả những gì có ngã đều là tâm niệm yêu quái. Khi chúng ta nghĩ bất cứ điều gì mà còn nghĩ đến mình thì đều là tâm niệm yêu quái. Có ngã thì vẫn còn là ma nghiệp, cho dù chúng ta tu hành mặc áo tăng, ni, có thể làm đủ các hình tướng bên ngoài, như gõ mõ, đánh chuông, tụng kinh, niệm Phật suốt ngày v.v… nhưng nếu còn có ngã thì vẫn còn vướng vào vòng ma nghiệp. Đó là tâm niệm của yêu ma, thích đưa cái ngã mình lên, thích đấu tranh với người khác, thích tranh luận, thích hơn người, thích mê hoặc, thích được tiến v.v… tất cả những thứ đó đều là tâm niệm yêu ma.
3/ Tắm niệm thần linh: Tâm niệm thần linh là một tâm niệm không vị ngã, vô ngã, vị tha, từ bi hỉ xả. Như khi chúng ta xót thương một con chó đói, thì trong giây phút ấy chúng ta có tâm niệm của thần linh. Nếu chúng ta tập những oai nghi của thần linh, đồng thời nuôi những tâm niệm thần linh, thì chắc chắn chúng ta sẽ thành thần linh, mà không có con đường nào khác. Nếu chúng ta nuôi những tâm niệm và oai nghi ấy trong vài tháng, vài năm… hoặc cho đến chết thì chắc chắn sớm muộn chúng ta sẽ được làm thần linh.
Tu hành là chỉ ngồi đếm tâm niệm của mình, gột cái ngã và làm những oai nghi của thần linh.
Ở nhân gian, con người có thể khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi bò, khi la hét v.v… nhưng lên Chư Thiên cõi dục thì các ngài chỉ có đi thôi, Chư Thiên cõi sắc thì các ngài ít đi lăng xăng chỉ suốt ngày ngồi kiết già mà thôi.
Nay xin đi vào kinh…
Hôm nay chúng ta sẽ đi vào vị thiện trí thức thứ 40 tức là ngài Thích Nữ Cù Ba. Theo như lịch sử của nhân thế chép lại, đức Phật có hai người vợ. Người vợ thứ nhất là bà Gia Du Đà La, người vợ thứ hai là vị thiện tri thức thứ 40 này-bà Thích Nữ Cù Ba- vị thiện tri thức này, trong kinh tả đạo lực cao hơn bà Gia Du Đà La. Chúng ta nên nhớ một điều, tất cả những người nữ dính vào Đức Phật, đều là những bậc cao và thị hiện. Trong kinh Pháp Hoa nói bà Gia Du Đà La chỉ đắc quả A La Hán, còn vị này có thể lên đến bậc Bồ Tát địa thứ mười. Khi bà Gia Du Đà La bị gia đình họ Thích nghi là có thai hoang, vì lúc đó đức Phật đã xuất gia rồi mà Gia Du Đà La mang thai sáu năm mới sinh La Hầu La. Lúc đó, chính bà Thích Nữ Cù Ba tâu với vua Tịnh Phạn rằng nên để cho Gia Du Đà La nhảy vào lửa để minh oan nếu lửa không thể cháy đến thân. Thực đúng như vậy, khi Gia Du Đà La nhảy vào lửa thì lửa không cháy được. Tất cả những việc đó đều chỉ là thị hiện.
Trong đoạn kinh này, bà Thích Nữ Cù Ba nói rõ những đời trước từ vô lương kiếp, ngài dính vào tình nam nữ đối với đức Phật như thế nào, từ khi Phật còn là vua Chuyển Luân Vương. Sau hai người chuyển tình đời thành tình đạo ra sao v.v…
KINH: Này thiện nam tử, thành Ca Tỳ La này có cô gái họ Thích tên là Cù Ba. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào ở trong sanh tử giáo hóa chúng sanh.
GIẢNG: Nguyên câu hỏi đã thấy cao hơn rồi. “Bồ Tát ở trong sanh tử giáo hóa chúng sanh mà không nhiễm.”
KINH: Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Lam Tỳ Ni Lâm Thần, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử tư duy tu tập môn thọ sanh giải thoát, tăng trưởng quảng đại ghi nhớ chẳng bỏ…
GIẢNG: Ngài Lam Tỳ Ni Lâm thần dạy Thiện Tài môn thọ sanh hải. Sau đó Thiện Tài vừa đi vừa tâm niệm, vừa tu tập môn “bồ tát thọ sanh hải,” tức là Bồ Tát thọ sanh như biển, sanh tất cả các nơi, các xứ để độ chúng sanh.
KINH: Hướng về phía thành Ca Tỳ La, Thiện Tài đi lần đến giảng đường Bồ Tát Tập Hội Phổ Hiện Pháp Giới Quang Minh.
GIẢNG: Ở chỗ này có một giảng đường trong đó có nhiều vị thần tụ tập đến để tu tập phổ hiện pháp giới.
KINH: Trong giảng đường này có thần hiệu Vô Ưu Đức cùng một vạn Chủ Cung Điện Thần câu hội đồng nghinh tiếp Thiện Tài và nói rằng…
GIẢNG: Lúc này, đường tu chứng của Thiện Tài đã cao lắm rồi, ngài đã được nhiều giải thoát môn, và có nhiều Chư Thiên, Chư Long đi theo ngài, vì vậy nên khi ngài đến đây thì các vị Chủ Cung Điện Thần ra đón ngài và ca ngợi mức độ tu hành của ngài. Chủ Cung Điện Thần là các vị thần chuyên làm cung điện cho các vị tu cao. Như các Chư Thiên đi đâu cũng mang cả cung điện của mình đi. Nên các vị Bồ Tát lớn thường có những Chủ Cung Điện Thần trông coi cung điện cho mình. Cũng như người nhân thế, những người giầu có, họ đi đâu cũng có xe, kiệu và người hầu. Thì khi tu lên cao bao nhiêu, các cung điện càng lớn, càng vi diệu, diễm lệ, và thanh tịnh bấy nhiêu.
KINH: Thiện lai Trượng Phu, có trí huệ lớn, có dũng mãnh lớn khéo tu môn giải thoát tự tại bất tư nghi…, chúng tôi xem ngài tu các diệu hạnh tâm không tạm lười…, chẳng bao lâu ngài sẽ được ba nghiệp vô thượng trang nghiêm thanh tịnh của Như Lai, chúng tôi quán ngài tinh tấn dõng mãnh không ai sánh bằng…
GIẢNG: Đại khái các vị Chư Cung Điện Thần tán thán sự tu hành của Thiện Tài. (Xin bỏ một đoạn kinh các vị thần tán thán Thiện Tài...)
KINH: ...Thiện Tài nói, như lời của Chư Thánh vừa nói, nguyện tôi sẽ được như vậy.
GIẢNG: Thiện Tài nói, các ngài nói như vậy thì tôi nguyện sẽ được như vậy. Người thường chúng ta nghe được câu khen ngợi thường hay nói khách khí, nhưng các ngài đã tu cao, có tâm vô ngã, nên nói lời thành thực.
KINH: Tôi nguyện cho tất cả chúng sanh dứt những nhiệt não, rời những ác nghiệp, sanh những an lạc, tu những tịnh hạnh. Bạch chư Thánh, tất cả chúng sanh khởi phiền não tạo ác nghiệp, đọa ác thú, nơi thân, nơi tâm hằng chịu đau khổ. Bồ tát thấy như vậy trong lòng rất đau sót…
GIẢNG: Thiện Tài nói lên những ưu tư thương sót cho chúng sanh, ngài nói một đoạn khá dài, nhưng ở đây chúng ta không cần phải đọc hết. Sau đó, ngài bước lên giảng đường, rồi các vị Chủ Cung Điện Thần kia, xúm lại chung quanh ngài rải hoa cúng dường và nói kệ tán thán. Tôi xin tóm tắt như vậy. Đại khái những câu kệ:
“Ngài chẳng rời thế gian, cũng chẳng vương thế gian, đi trong đời vô ngại, như gió thổi hư không…”
(Ta cũng cần nhớ những câu như thế, để dần dần học thái độ đi trong đời một cách vô ngại, như một người khách lạ đi qua, giúp được ai thì giúp mà không dính mắc vào bất cứ người nào, cũng không tham châ’p vào một cái gì.)
KINH: Thần Vô Ưu Đức nói kệ xong, vì mến thích chánh pháp nên theo luôn bên Thiện Tài đồng tử.
GIẢNG: Chúng ta thấy rõ, ở mức độ này, đường tu chứng của ngài Thiện Tài lớn lắm rồi nên các vị Thần lớn cũng nguyện đi theo hầu.
KINH: Thiện Tài vào trong giảng đường Phổ Hiện Pháp Giới Quang Minh tìm cô gái họ Thích. Thấy cô ấy ngồi trên tòa sư tử Liên Hoa, có tám vạn bốn ngàn thể nữ vây quanh.
GIẢNG: Ngài Cù Ba có tám vạn bốn ngàn thể nữ vây quanh. Lời kinh thường có những ẩn dụ, nên ta luôn luôn phải hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất của câu này nói về mặt phi thần hóa, ngài đã thành tựu bốn vạn tám ngàn hạnh hay diệu đức trong thân tâm, còn nói về mặt thần hóa thì mỗi hạnh có khả năng hiện hóa thân tượng trưng cho luồng tâm lực.
KINH: Những thể nữ này đều là dòng vua, thuở quá khứ đã tu hạnh Bồ Tát, đồng gieo căn lành, bố thí ái ngữ nhiếp khắp chúng sanh, đã thấy rõ được cảnh nhất thiết trí…
GIẢNG: Theo nghĩa trong thì những vị thể nữ này là những diệu đức hay đà la ni của ngài Cù Ba.
KINH: …lìa lưới chướng cái, vượt khỏi chỗ chấp nhiễm, từ pháp thân mà hiện hóa thân, sanh hạnh Phổ Hiền, lớn sức Bồ Tát, trí nhựt huệ đăng đều đã viên mãn…
GIẢNG: Khi một hành giả tu có những hạnh viên mãn thì trong thân tâm sinh ra nhiều thứ “đà la ni” tức là những năng khiếu lạ lùng, mà những thứ ấy đều chói sáng. Cũng như chúng ta là người tầm thường, nhưng nếu ta có hạnh đọc sách nhiều, dần dần trong tâm thức nở ra năng khiếu nhớ sách, nói theo như sách, đúng như sách, và nói thao thao không hết. Nhưng các vị Bồ Tát hơn chúng ta rất nhiều, vì các ngài có vô lượng đà la ni, song trong kinh chỉ nói tượng trưng là “tám vạn bốn nghìn” nhưng chính thật là vô lượng…
KINH: Thiện Tài đến đảnh lễ nơi chân của Thích Nữ Cù Ba chắp tay cung kính thưa rằng…
GIẢNG: Xin quí vị nghe kỹ câu của ngài Thiện Tài hỏi, ngài hỏi rất khó, tôi xin đọc lướt…
KINH: Bạch đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, mà chưa biết bồ tát thế nào ở trong sanh tử mà chẳng bị lỗi sanh tử làm nhiễm?
GIẢNG: Ngài hỏi ngay chỗ “song chiếu trung đạo.” Làm thế nào để bồ tát đi giữa bùn lầy, sanh tử có thể độ sanh mà không bị sanh tử làm nhiễm?
KINH: …Thế nào đầy đủ Phật pháp mà tu hạnh bồ tát? ….Thế nào trụ bậc Bồ Tát nhập cảnh giới Phật?
GIẢNG: Làm thế nào mà tâm vẫn nhập cảnh giới Phật, vẫn an trụ trong cảnh giới đại tịch diệt đó mà thân vẫn đi giữa đời để độ sanh? Chính vì vậy mà có rất nhiều vị Bồ Tát lớn như ngài Địa Tạng, ngài Quán Âm, ngài Phổ Hiền, các vị đã có thể là những vị Phật rồi nhưng các ngài không lấy ngôi vị Phật, tức là không chứng đắc, không hiện hình tướng là Phật, mà chỉ hiện hình tướng thấp hơn là những vị Bồ Tát để cho chúng sanh cảm thấy gần gũi hơn, đi trong luân hồi sanh tử để độ sanh, nhưng tâm vẫn trụ nơi cảnh giới của Phật. Đó gọi là trung đạo song chiếu, ở đoạn kinh này, ngài Thiện Tài hỏi làm thế nào để có thể làm được như thế?
KINH: Thế nào siêu quá thế gian mà thọ sanh nơi thế gian? thế nào thành tựu pháp thân mà thị hiện vô biên sắc thân?
GIẢNG: Một mặt vẫn trụ pháp thân, mặt kia vẫn hóa hiện tất cả sắc thân ở bình diện tương đối.
KINH: Thế nào chứng pháp vô tướng mà vì chúng sanh thị hiện các tướng?
GIẢNG: Vẫn là những câu hỏi song chiếu trung đạo. Thế nào đã được vào tâm của Phật rồi mà thân vẫn hiện các sắc tướng, các cõi, các đạo v.v… để độ sanh.
KINH:… Thế nào dầu biết các pháp không nghiệp, không báo mà tu những hạnh luôn không thôi nghỉ?
GIẢNG: Biết các pháp không nghiệp, không báo là biết Bát nhã, và tu các hạnh lành tức là hành Đại bi không thôi nghỉ.
KINH: Nàng Cù Ba nói, lành thay, lành thay này thiện nam tử, nay ngươi có thể hỏi những việc làm của Đại Bồ Tát như vậy. Người tu tập những hạnh nguyện Phổ Hiền mới có thể hỏi như vậy. Ngươi hãy lắng nghe và khéo suy gẫm ghi nhớ. Ta sẽ thừa thần lực của Phật mà nói cho ngươi. Nầy thiện nam tử, nếu các Bồ Tát thành tựu mười pháp thời có thể viên mãn hạnh bồ tát nhơn đà la võng phổ trí quang minh. Đây là mười pháp..
GIẢNG: “Nhơn đà la võng phổ trí quang minh” cũng là một thứ tam muội. Mười pháp này cũng đại khái làm những hạnh để độ sanh thôi, ở đây ngài nhắc lại cho chúng ta nhớ, tôi chỉ xin đọc lược qua…
KINH: Này thiện nam tử, Bồ Tát dùng mười pháp để thừa sự thiện tri thức.
GIẢNG: Mười pháp này dùng để thừa sự, để hầu hạ thiện tri thức.
KINH: Mười pháp này là, không đoái tiếc thân mạng mình…
GIẢNG: Trong kinh bao giờ cũng dạy không được đoái tiếc thân mạng mình, vì thân này chính là biển khổ không bao giờ được đoái tiếc, phần nhiều chúng ta sống co quắp, lúc nào cũng quí và lo sợ cho cái thân. Mà quí thân cũng… đúng! đúng để dùng thân này làm phương tiện tiến tu, nhưng đừng quí quá, đừng cú suốt ngày nghĩ đến nó, chau chuốt, sửa sang, ăn ngon, mặc đẹp v.v… như vậy là sai, rồi đến khi gần mạng chung thì sợ cuống lên. Nhưng chính ra, trong đạo Phật dạy rõ rằng, chúng ta không lúc nào không có thân cả, mất thân này đi mà nếu ta có tâm thanh tịnh, thì lại được một thân hào quang sáng ngời khác, còn hơn thân máu thịt này nhiều. Nhìn chung quanh, ta thấy tất cả nền văn minh này, chỉ do muốn bổ dưỡng thân này, mà thân máu thịt là hiện tướng của nghiệp súc sanh. Nên trong kinh Phật, điều thứ nhất dạy là không nên đoái tiếc thân mạng, nếu cần thí thân để độ sanh thì phải sẵn sàng thí thân không một mảy may tiếc nuối.
KINH: Thứ hai là lòng chẳng tham cầu sự vui thế gian.
GIẢNG: Những sự vui thế gian này có gì đâu, chỉ có ăn, uống, tham dục, hưdanh, ngủ, nghỉ v.v… lăng nhăng ba thứ đó. Tu hành đến rnột mức độ ta không thây tiếc những thứ ấy, có người mời ăn một bữa ăn ngon cũng không thấy ham, được một chiếc mề đay cũng không thấy hãnh diện, hoặc một vài chục ngàn đô la cũng thấy dửng dưng v.v…, thì lúc đó ta đã bắt đầu có tâm nhàm lìa thế gian, ta sắp có tâm niệm của thần linh. Vì xét cho cùng trong biết thế gian này, dù có được bất cứ vật gì, nhưng ta cũng không thể giữ được một mảy may, hoặc có là tỷ tỷ phc đi chăng nữa đến khi chết cũng chẳng đem theo được đồng xu nhỏ nào, hay dù có một người vợ xinh đẹp như tiên nữ cũng phải tàn phai, hoặc danh vọng nổi như cồn, hàng triệu người cung kính, nhưng có thể chỉ vài năm sau, hàng triệu người ấy lại quay ra chửi mình v.v… Nên phải hiểu, thế gian này không có gì bền vững, giống như con dã tràng xe cát biển đông vậy. Nên người trí không cần lăng xăng nhiều trong thế gian này, họ chỉ cần giữ giới thân huệ mạng của mình là đủ. Nên khi ta không còn vui thích mấy cái thế gian này nữa, lúc đó ta sẽ có được những niềm vui của thần linh, niềm vui thanh tịnh của thiền, của định.
KINH: Biết tất cả các pháp tánh đều bình đẳng…
GIẢNG: Giáo lý của Chư Phật là một giáo lý bình đẳng vô nhị, thiện cũng như ác, lời chửi cũng như tiếng khen, nếu thấy không sai khác thì lúc đó ta đã đạt được tâm bình đẳng.
KINH: Trọn chẳng lui bỏ, nguyện nhất thiết trí…
GIẢNG: Lúc nào cũng nên nghĩ ta phải đến chỗ tự tại tuyệt vời đó, chỉ cần nói một câu có thể chữa khỏi được bệnh cho người, và đồng thời biết tất cả các pháp, tâm niệm, kiến giải, các phiền não v.v… của chúng sanh, lúc nào cũng nghĩ như vậy thì mới tiến tu được.
Đôi khi, ta thấy cuộc sống thật cô quạnh, thì lúc đó chúng ta cần phải nghĩ đến triển vọng tự tại tuyệt vời như vậy, nghĩ rằng rồi thì ta sẽ được như thế, chắc chắn, không thể sai trật. Nếu chịu khó tu hành, thì đường đi nhanh hơn, còn giải đãi, thì nó lay lắt, lâu xa, lên xuống chìm nổi trong nhiều cõi, nhiều kiếp, a tăng kỳ kiếp…, để rồi cuối cùng cũng có thân hào quang, cũng đủ các thần thông, cũng dự những hải hội nhiệm mầu của Chư Phật. Vì sao thế? Vì sức của diệu tâm diệu tâm huân tập, cộng thêm chư Phật làm tăng thượng duyên, cho dù quần ma kéo chúng ta xuống, nhưng chỉ kéo được một ít, vì nghiệp báo tương Ưng khiến ta chìm nổi một thời gian, rồi sau đó chư Phật cuối cùng cũng đẩy ta lên mà thôi.
Tất cả những gì trong kinh Hoa Nghiêm nói, về sự hóa giải không gian, thời gian thì rồi chúng ta sẽ được hết. Vì vậy, nên khi gặp trường hợp buồn, lo, chán nản, đau ốm…, thì ta nên nghĩ đến kinh, hay đắm mình trong câu niệm Phật, đó là một diệu dược đem lại sự an ủi, chúng ta sẽ cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, và khi chết thanh thản. Mà tôi xin đoan quyết rằng lời kinh, không có mảy may hư vọng. Người nữ thì trước sau cũng trở thành Bửu Nữ, còn người nam trước sau cũng trở thành Chuyển Luân Vương, không thể sai trệch, vì đà tiến hóa, đạo lý vận hành phải như thế.
Bên Thiên Chúa Giáo, nhiều khi vì giáo quyền, nên có đưa ra giáo điều là “có địa ngục vĩnh cửu.” Điều đó là sai với đạo lý vận hành của vũ trụ. Nói cách khác, không có một cái gì có thể gọi là vĩnh cửu cả, vì bất cứ cái gì có hình thì phải có hoại. Chỉ trừ tâm vô hình tướng mà thôi.
KINH: Thường có thể thị hiện tất cả sát hải, tịnh tu trí luân vô ngại của Bồ Tát.
GIẢNG: Ở đây, lại nhắc tới chữ “trí luân.” Ý nói rằng trí huệ của các ngài như con dao xoay tròn, trong khi ý thức của chúng sanh như con dao cắt các khía cạnh, ý thức của phàm phu thường thấy hai khía cạnh, nên dựa vào khía cạnh này hay khía cạnh kia. Còn trí huệ của Bồ Tát là xoay tròn nhìn mọi khía cạnh, từ không đến có, đến cũng có cũng không, chẳng có chẳng không, không hề trụ ở một khía cạnh nào, vì thế nên gọi là “trí luân”
KINH: Này thiện nam tử, nên dùng pháp này để kính thờ tất cả thiện tri thức không trái nghịch.
Bấy giờ nàng Thích Nữ Cù Ba muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần lực của Phật, quán sát mười phương mà nói kệ rằng:
Bồ Tát vì lợi các quần sanh
Chánh niệm thân thừa thiện tri thức
GIẢNG: “Thân thừa thiện tri thức…” tức là dùng thân mình hầu hạ thiện tri thức.
KINH: Kính xem như Phật tâm không rời. Là hạnh đế võng đi trong đời…
GIẢNG: “Đế võng’ là cái lưới chân lý. Các vị Bồ Tát lớn tung lưới chân lý vớt chúng sanh đặt trên bờ giải thoát. Các ngài đi trong đời, tâm dệt bao nhiêu hạnh nguyện, hạnh từ, hạnh bi, hạnh hỉ, hạnh xả, hạnh bố thí, hạnh ái ngữ, hạnh lợi hành, hạnh đồng hành v.v…, ngài đi trong đời như cây đuốc sáng, như màng thiên la võng, một màng lưới hạnh nguyện kéo vớt chúng sanh. Vì vậy, gọi là “hạnh đế võng đi trong đời”…
KINH:
Thắng giải rộng lớn như hư không,
Tất cả tam thế đều vào trong
Quốc độ chúng sanh, Phật đều vậy
Đây là phổ trí quang minh hạnh
…
Là hạnh thân vân đi thế gian…
…Là hạnh chẳng nhiễm đi thế gian
…Là hạnh phổ chiếu đi thế gian…
GIẢNG: Đại khái như vậy. Một vị Bồ Tát đi trong đời mang theo tràng hạnh nguyện. “Tràng hạnh nguyện” tức là cái tràng tâm thức của mình. Tâm thức của mình tỏa ra như cái lưới bao bọc lôi kéo dìu dắt tất cả chúng sanh. Sau đó, các ngài còn phân thân ra các nơi để độ sanh.
KINH: Nói kệ xong, Thích Ca Cù Ba bảo Thiện Tài. Này thiện nam tử, ta đã thành tựu môn giải thoát quán sát nhất thiết Bồ Tát tam muội hải…
GIẢNG: Ngài nói rõ cho Thiện Tài biết ngài thành tựu môn giải thoát, ngài có thể quán sát, nhìn thấy tất cả những tam muội của các vị Bồ Tát. Tức là các vị Bồ Tát có những tam muội gì, tâm biến hóa ra sao, có thần thông gì ngài đều biết hết. Thiện Tài hỏi ngay rằng, thưa đại thánh, cảnh giới của tam muội này như thế nào?
KINH: Này thiện nam tử, ta nhập môn giải thoát này, biết trong cõi Ta Bà, trải qua Phật sát vi trần sát kiếp có bao nhiêu chúng sanh ở trong các loài chết đây sanh kia, làm lành, làm dữ, chịu những quả báo, có cầu xuất ly, chẳng cầu xuất ly, chánh định tà định và bất định…
GIẢNG: Đại khái ngài biết tất cả các chúng sanh chết đây sanh kia, sanh khởi tâm niệm gì, khởi kiến giải gì, khởi phiền não gì .v.v… ngài đều biết cả.
KINH:… ta cũng biết chúng hội sai biệt của chư Phật ấy…
GIẢNG: Chúng hội của chư Phật ngài cũng biết. Khi Chư Phật họp chúng hội để nói pháp lớn, thường ngài đều vào những tam muội rất sâu, nhưng ngài Cù Ba này đều biết những tam muội hải, thần thông hải của chư Phật. Như vậy là sự tu chứng của ngài rất cao.
KINH: Này thiện nam tử, cõi Ta Bà này tận thuở vị lai có những kiếp hải xoay vần chẳng dứt ta đều biết rõ.
GIẢNG: Trong vị lai có những kiếp hải xoay vần nào ngài cũng biết rõ cả. Trong kinh không bao giờ nói kiếp hải (thời gian) đi vùn vụt theo con đường thẳng, mà là “xoay vần chẳng dứt.” Bao giờ các ngài cũng dùng chữ “xoay vần” tức là chuyển động xoáy trôn ốc. Nên nếu ta mường tượng thời gian đi theo đường thẳng tuột thì tâm niệm đó vẫn còn là tâm phàm phu, một khi lên cao hơn sẽ thấy rõ tất cả đều xoay vần nối luôn không dứt.
KINH: Như biết cõi Ta Bà, ta cũng biết vi trần số tất cả thế giới trong cõi Ta Bà, ta cũng biết những thế giới trong vi trần của cõi Ta Bà…
GIẢNG: Ngài biết tất cả các thế giới trong cõi này, đồng thời trong vi trần của cõi Ta Bà ngài cũng nhìn thấy tất cả thế giới trong những vi trần ấy.
KINH: Cũng biết mười phương thế giới ở ngoài cõi Ta Bà, cũng biết những thế giới của Ta Bà thế giới chủng sở nhiếp, cũng biết những thế giới của thập phương vô lượng thế giới chủng sở nhiếp trong Hoa Tạng Thế Giới Hải này: những là thế giới rộng rãi, thế giới an lập, thế giới luân, thế giới tràng, thế giới sai biệt, thế giới chuyển, thế giới liên hoa, thế giới tu di, thế giới danh hiệu…
GIẢNG: Đạo Phật có những ngôn từ phong rất phú, nói đến những thế giới mà nếu chúng ta không đọc kinh thì không thể mường tượng ra được. Như thế giới rộng rãi thì có thể tạm hiểu nổi, nhưng trong phẩm Hoa Tạng Thế Giới còn nói ghê gớm hơn nhiều, “thế giới luân,” bao giờ cũng là “xoay vần” để chuyển thành cái khác. “Thế giới tràng,” đó là những thế giới nối nhau kéo dài, nhưng vẫn có tính cách xoay vần. “Thế giới sai biệt,” là những thế giới hiện những khác biệt nhau”. “Thế giới chuyển,” là thế giới chuyển biến từ thế giới này thành thế giới khác, như có lúc thế giới hình bông liên hoa lại chuyển thành hình một dòng suối chảy, giống như những hình trạng của các tinh hà. “Thế giới liên hoa,” “thế giới tu di,” “thế giới danh hiệu”… đó là tất cả những danh hiệu của Chư Phật ngự trị trong thế giới ấy.
KINH: Ta cũng nhớ những nhân duyên hải thuở xưa của Đức Như Lai…
GIẢNG: Đức Như Lai đi qua những tiền thân nào, những nhân duyên vô lượng, độ chúng sanh thế nào, những bổn sanh, bổn sự .v.v… ngài đều nhớ rõ.
KINH: Tại sao vậy? Vì môn giải thoái của ta đã được đây, có thể biết tâm hành của tất cả chúng sanh, tất cả thiện căn của chúng sanh tu hành, tất cả chúng sanh tạp nhiễm thanh tịnh…
GIẢNG: Đại khái ngài nói môn giải thoát này của ngài sâu đến mức có thể biết được tất cả tâm niệm của chúng sanh. Đại khái như vậy. Sau đó Thiện Tài lại hỏi rằng ngài được môn giải thoát này đã được bao lâu? Khi Thiện Tài hỏi câu này, thì vị thiện tri thức nào cũng trả lời về những bổn sanh, bổn sự từ vi trần số kiếp về trước như thế, như thế v.v… Nhưng tuy các ngài trả lời đại khái là về bổn sanh bổn sự, chúng ta cũng cần đọc qua vì có rất nhiều lời dạy hay. Như ngài Cù Ba kể lại những nhân duyên cũ của ngài.
Phần nhiều các vị Bồ Tát trong nhiều đời thường dính mắc nhau về những nhân duyên. Rồi đến một kiếp nào đó, cùng quyết định đi vào Bồ Tát đạo, cùng chuyển tình đời sang tình đạo, mà thường các vị nữ nhân ấy, hay các vị thái tử ấy đều trở thành Bửu Nữ và vua Chuyển Luân Vương. Rồi dính mắc một thời gian nữa, cúng dường tất cả Chư Phật sau rốt sẽ đắc được vô sanh pháp nhẫn và đi vào hẳn con đường bồ tát đạo. Rời vọng tình, vọng tưởng.
KINH: Bà Cù Ba nói, này thiện nam tử, thuở xưa quá Phật sát cực vi trần số kiếp…
GIẢNG: “Quá phật sát cực vi trần số kiếp…” là một thời gian lâu xa lắm, nhưng chúng ta nghe đến chữ “lâu xa” ấy cũng đừng thấy nản, vì thời gian chỉ là một vọng tưởng tùy theo tâm thức bập bềnh lay động của chúng sanh. Tâm thức mình ở dưới thấp thì sẽ thấy là vi trần số kiếp, còn khi tâm thức lên cao thì vi trần số kiếp ấy nhiều khi rút lại chỉ bằng một kiếp, còn đối với tâm thức của chư đại Bồ Tát thì nhiều khi chỉ bằng một bữa ăn…
KINH: Có kiếp tên là Thắng Hạnh, thế giới tên là Vô Úy, trong thế giới ấy có tứ thiên hạ tên là An Ổn…. Có quốc vương tên là Tài Chủ, có sáu vạn thể nữ, năm trăm vương tử, năm trăm đại thần…
GIẢNG: Vị quốc vương này có sáu vạn thể nữ, năm trăm vương tử, năm trăm đại thần, ở đây, tôi nhớ lại câu hỏi của một vị Phật tử, “Sao vị chuyển Luân Vương đã ở mức độ tu hành cao rồi mà còn nhiều tham dục thế?” Như ngay trong đoạn này, vị quốc vương này có sáu vạn thể nữ là thế nào? Trước hết ta phải hiểu rằng, các vị này đều là những Nhân Vương rất lớn, hoặc Chuyển Luân Vương. Một vị Chuyển Luân Vương thường ra đời vào lúc phước lực và trí lực của con người lớn, nên thọ lượng của người thời đó đến hai, ba vạn tuổi. Thường một vị Chuyển Luân vương là một vị Bồ Tát Sơ Địa, thọ sanh làm Chuyển Luân vương để độ sanh. Kinh Hiền Ngu nói các ngài thường có một vạn phu nhân, và một nghìn người con, nếu có 999 người con cũng không được, vì vị hoàng tử thứ 1000 mới có đủ phước lực và trí lực để nối ngôi Chuyển Luân Vương. Nếu vị vua Chuyển Luân chết đi mà không có vị thứ 1000 kia, thì lập tức sáu cái bửu biến mất. Trở lại câu hỏi là vị Chuyển Luân Vương này có nhiều tham dục hay không? Chúng ta sống trong thời kỳ mà thọ mạng chỉ được bảy, tám mươi tuổi, mỗi ông thường có một bà vợ hay hai thôi. Nhưng còn các vị này sống đến hai vạn tuổi thì dĩ nhiên phước báo lớn hơn, và số vợ cũng … nhiều hơn. Nhưng nhiều khi những người vợ này chỉ là phước báo nhiều thôi, chưa chắc đã có nhiều tham dục, và nhiều khi lại là hóa sanh, không cứ là phải thai sanh do tham dục. Ta nên nhớ rằng họ sống thọ hơn ta nhiều, nên phước đức cũng rất lớn, nếu dùng tâm phàm phu nhỏ hẹp để nói thì khó có thể nói đến mức rốt ráo. Vì phần đông các vị này là những vị siêu xuất, không còn là người đơn thuần mà có khi là chư Thiên xuống trần, và tham dục của chư Thiên cõi dục không phải như lối tinh huyết, máu mủ như chúng ta, nhiều khi họ chỉ liếc mắt, cầm tay v.v… cũng có thể thọ thai rồi.
Cũng như vậy, trong đoạn kinh này, ngài Cù Ba có kể một câu chuyện bổn sanh rằng. Ngày xưa, tiền thân của ngài là Diệu Đức Cụ Túc, có người mẹ tên Thiện Hiện, tuy gọi là mẹ nhưng không phải bà sanh ra mà ngài Cụ Túc hóa sanh trong hoa sen. Bà Thiện Hiện chỉ là nhũ mẫu, thấy nàng Cụ Túc sinh trong hoa sen, sinh lòng thương mến bồng lấy muôi nấng. Trong kinh, thường người nhũ mẫu đóng vai trò quan trọng như người mẹ vậy. Như trong kinh Hoa Nghiêm, có rất nhiều vị thần, khi Bồ Tát thọ sanh, vị thần coi đạo tràng ấy đến ẵm vị Bồ Tát, và lúc đó, vị Dạ Thần đắc được môn giải thoát, và về sau trở thành Bồ Tát. Nên trong kinh, có nhiều thời kỳ, nhiều thế giới mà phong tục và lối sinh hoạt rất lạ lùng, không phải như bây giờ. Do đó phải hiểu, loài người chúng ta sống bây giờ với tuổi thọ bảy mươi đến một trăm tuổi chớ có nghĩ rằng nhân loại mãi mãi là như thế, có rất nhiều thời kỳ phước lực khác, trí lực khác, nhân loại khác .v.v…
Như ở Bắc Cu Lưu Châu, nhân loại sống khác hẳn. Nhân dân trong đó sống rất sung sướng, hơn loài người chúng ta rất nhiều, họ sống đến một vạn tuổi, không bao giờ chịu cảnh đau ốm, không phải nuôi con, đứa bé sinh ra thì cứ cho ngón tay cái vào miệng bú, và nó nằm dưới gốc cây bên đường cạnh những lá non và cứ thế… bú ngón tay mà lớn dần lên. Quí vị thấy có lạ không? Nếu cứ dùng ý thức thông thường hạn hẹp mà phán đoán chia chẻ thì không bao giờ có thể … tin được. Nhưng trong kinh nói rõ như thế, và chúng ta phải khởi lòng tin, vì sự biến hóa của tâm thức rất lạ lùng, mà khi tin vào sự biến hóa ấy mới thấy được xa và rộng hơn. Có nhiều cõi rất lạ, vì phước báo, nghiệp báo biến hiện do cái tâm ấy nên hiện ra những y báo tương ưng. Nhưng ở Bắc Cu Lưu Châu có cái nạn lớn mà trong kinh thường khuyên răn không nên cầu sanh về cõi ấy, tuy rằng cõi đó rất sung sướng nhưng lại không có kinh Phật và không bao giờ được gặp Phật.
Trong kinh có kể rõ, khi thần thức của người chết vừa thoát ra khỏi sắc thân, nếu nhìn thấy một bờ hồ rất rộng, ngan ngỗng bơi lội trong hồ ấy, trên bờ lại có những con ngựa ăn cỏ một cách thong thả, ung dung. Đó là cảnh giới Bắc Cu Lưu Châu, người trí không bao giờ nên cầu thác sinh vào đó, vì tuy sung sướng thật, nhưng không bao giờ có cơ duyên tu hành, không biết niệm Phật, tụng chú hay ngồi thiền, đến khi hết phước báo cũng bị đọa vào những đường dữ.
Trong đạo Phật, đức Phật thường mách chúng ta biết những thế giới như vậy, mà ta lại không chịu tin, chịu hiểu, chỉ tin vào nhục nhãn và ý thức thô kệch của mình. Ngay cả khoa học cũng thế, cứ khư khư tin vào những gì mắt thấy, tai nghe, chỉ biến đến ý thức, chưa hiểu được tiềm thức vào vô thức của người, cần hiểu rằng, ý thức là người bạn tốt nhất mà cũng là người lừa dối ta nhiều nhất. Tốt nhất vì sao? Vì nó có thể đưa ta đến chính kiến, đưa ta trở về với diệu tâm. Nhưng đồng thời, ý thức cũng là đầu mối của mê vọng, vì chuyên về nhị biên.
Naỵ, xin trở về kinh…
Có vị quốc vương tên Tài Chủ, có sáu vạn thể nữ…
Thể nữ là những người nữ tỳ hầu hạ. Nhưng nghĩa bóng là những “cơn tam muội,” vì tam muội làm cho người tu hành được tâm an ổn.
“Có năm trăm vương tử…” vị vua này chưa phải là Chuyển Luân Vương mà chỉ là một vị Đại Quốc Vương thôi, vì chỉ mới có năm trăm vương tử. Nhưng vị vua này có phước đức lớn nên có một người con sau này làm Chuyển Luân Vương.
KINH: Các Vương tử này đều dũng mãnh dẹp được oán địch. Thái tử tên là Oai Đức Chủ…
GIẢNG: Vị thái tử này chính là tiền thân đức Thích Ca Mâu Ni.
KINH: Thân tướng đầy đủ đoan chính xinh đẹp, mọi người đều thích thấy. Vương tử này dưới bàn chân bằng đầy, đủ luân tướng, lưng bàn chân vun cao, ngón tay, ngón chân đều có màn mỏng…
GIẢNG: Đại khái thái tử này có nhiều tướng của Phật..
KINH: Lúc đó thái tử tuân lịnh Phụ Vương cùng một ngàn thể nữ vào vườn hương nha du ngoạn. Thái tử ngồi trên tòa sư tử đại ma ni trong xe, năm trăm thể nữ cầm giây báu kéo xe…, trăm ngàn muôn người trồi nhạc, rải hoa đẹp tùy tùng bước sau xe thái tử. Đường xá bằng phẳng rải đầy những hoa đẹp, lưới báu giảng che, nhiều lầu các chứa những châu báu, hoặc trần thiết những vật trang nghiêm, hoặc chưtig dọn những thức uống ăn, hoặc treo y phục, hoặc sắm đủ những vật tư sanh, tùy ai cần gì đều ban cho.
GIẢNG: Thái tử ngày hôm đó nhận lệnh của vua cha cùng với một ngàn thể nữ đi chơi. Phước lực thái tử rất cao nên y báo hiện ra rất đẹp đẽ, cùng nhiều người theo rải hoa đẹp cúng dường…
Thánh Kinh Công giáo có một câu rất hay, lúc đức Chúa Trời khiển trách Adam, Ngài bảo:
“Các ngươi về sau sẽ phải đổi bát mồ hôi lấy bát cơm.”
Ý nói rằng phước báo đã kém rồi, tụt xuống, nên sau này phải cầy sâu cuốc bẫm mới có ăn… Trái lại, có những cõi phước báo lớn, không cần cầy cấy, trồng trọt gì cũng tự nhiên có ăn, do các vị quỉ thần lo cho hết. Nên cần hiểu rằng những gì xuất hiện nơi thế gian này, từ y báo (cảnh giới), đến chánh báo (thân căn) đều tùy vào phước báo của chúng sanh vùng đó. Như đất Cali này, nếu phước lực của dân chúng vùng này kém, thì dù có máy móc tối tân, hoặc tận lực sức người cách mấy, các vị quỉ thần cũng sẽ khiến đất này không mầu mỡ, cây cỏ héo úa, thiên tai nổi lên khắp nơi, như hỏa hoạn, sóng thần, bão tố, .v.v… lúc đó con người làm gì cũng hỏng. Nhân lực chỉ đóng góp được một phần nhỏ, còn phần lớn tùy thuộc vào phước lực, nghiệp báo.
KINH: Bấy giờ có bà mẹ tên là Thiện Hiện dắt một đồng nữ tên là Cụ Túc Diệu Đức. Đồng nữ này dung nhan đoan chánh, mắt và tóc xanh biếc, tiếng nói như phạm âm, nghề khéo, luận giỏi, siêng năng kính nhường, đủ lòng từ mẫn, hổ thẹn, nhu hòa, chất trực, lìa ngu si, ít tham dục, không siểm nịnh dối phỉnh. Đồng nữ cùng mẫu thân ngồi xe, các thể nữ theo hầu, đi trước xe thái tử.
GIẢNG: Tiền thân của ngài Cù Ba gần như là Bửu Nữ, chánh báo của ngài rất đẹp, đoan chánh, tóc xanh biếc, tiếng nói như Phạm âm, nghề khéo, luận giỏi, đủ lòng từ mẫn, hổ thẹn, nhu hòa, chất trực, lìa ngu si, ít tham dục v.v… Mẫu thân của nàng không phải là mẹ ruột, mà chỉ là nhũ mẫu, (nhũ mẫu là người nuôi nấng cho đứa trẻ lớn lên).
KINH: Đồng nữ ấy thấy Thái Tử bèn sanh lòng yêu mến, nói với mẹ rằng nàng muốn kính thờ người nầy, nếu không toại nguyện quyết sẽ tự vẫn.
GIẢNG: Đọc kinh, nhiều đoạn ta thấy bỡ ngỡ, nhưng khi hiểu duyên nghiệp từ nhiều kiếp, do đó, nàng Cụ Túc khi thoạt trông thấy Thái Tử thì trong lòng khởi tâm muốn kính thờ ngay. Cũng có thể trong nàng cũng còn một chút tham dục. Cũng như đoạn kinh sau này có một bài kệ nói rằng: Trong kiếp đó, có một nàng con gái thấy một vị khất thực ngang qua nhà nàng, (đó chính là một vị Thái Tử đã xuất gia), nàng vội cởi chuỗi ngọc cúng dường. Khi dâng chuỗi ngọc, trong tâm nàng còn vướng một chút tham dục, (vì thấy vị thái tử có nhiều tướng hảo rất trang nghiêm đẹp đẽ, nên khởi tâm ưa thích), dù vậy, nàng vẫn hưởng phước đức lớn vì đã cúng dường một vị tu hành đắc đạo cao, do phước đức đó, nên trong hai trăm năm chục kiếp nàng không bị đọa vào ác đạo. Sau hai trăm năm chục kiếp, nàng lại có cơ duyên gặp lại, lúc đó tâm dục của nàng đã hết, nên chuyển thành Bửu Nữ với vị Bồ Tát đó… Sự chuyển biến của vọng tình là như thế, tất cả những ái tâm, lòng say mê sau này sẽ chuyển thành đại bi, còn những vọng tưởng sau sẽ trở thành trí huệ bát nhã.
Nên cần nhớ rằng, vọng tình sau thành Đại Bi, thành những lượn sóng tạo hóa thân. Vọng tưởng sau thành Bát Nhã, thành pháp thân.
HỎI: Tôi có nhớ một lần ông giảng, nếu tình nhiều hơn tưởng thì xuống địa ngục. Ý nghĩa đó như thế nào so với hôm naỵ ông giảng?
ĐÁP: Nếu vọng tình và vọng tưởng mà không biết chuyển thì vẫn nằm trong quả báo luân hồi, tùy theo nặng nhẹ mà lên, xuống trong sáu nẻo. Còn nếu biết chuyển thì thăng hoa rất cao. Khi chưa biết chuyển thì nó là họa lớn, nhưng khi biết chuyển thì nó lại thành phước lớn. Đạo Phật bao giờ cũng vậy, cái họa càng lớn bao nhiêu thì khi biết chuyển sẽ thành phước lớn bấy nhiêu. Vì vậy kinh Lăng Nghiêm nói rằng, nếu bảy phần tình, ba phần tưởng thì xuống địa ngục, còn nếu năm phần tình, năm phần tưởng thì được làm người, bảy phần tưởng ba phần tình thì lên thiên, chín phần tưởng một phần tình thì qua Cực Lạc, như vậy, phần lớn tình đã chuyển thành tâm bi, nên mới sang được Cực Lạc.
KINH: Mẹ bảo chớ vọng niệm. Đây là thái tử đủ tướng Luân vương. Sau đây sẽ lên ngôi, sẽ làm Chuyển Luân Vương, có Bửu Nữ xuất hiện bay trên không tự tại. Chúng ta là hàng ti tiện chớ sanh vọng niệm, vì sự ấy khó đạt thành.
GIẢNG: Người mẹ nói với nàng Cụ Túc Diệu Đức rằng, con chớ nghĩ bậy, chúng ta là hàng ti tiện, con chớ sanh vọng niệm. (Tuy người mẹ bồng nàng Diệu Đức từ hoa sen hóa sanh, nhưng cũng không nhìn rõ được túc duyên của nàng Diệu Đức). Chúng ta cũng đừng nên nghi ngờ về vấn đề hóa sanh. Phàm nhân chúng ta đều đồng thấy rằng, ai ai cũng là thai sanh nên chỉ chấp rằng, mọi người đều do thai sanh, không chịu tin là thực ra có nhiều trường hợp là có hóa sanh. Ngay thời Đức Phật Mâu Ni, ngài có kể mấy trường hợp hóa sanh, nhưng tôi chỉ nhớ một trường hợp, đó là bà kỹ nữ Amrapali mà vị vua Tần Bà Sa La mê, trốn sang ở với nàng một tuần, sau sinh ra ngài Kỳ Bà là một vị Bồ Tát, làm thầy thuốc chữa bệnh cho chúng sinh. Ngài Kỳ Bà cũng là một nhân vật ghê gớm, ngài là người can vua A Xà Thế không được giết mẹ. Trong kinh Đại Bảo Tích nói, ngài chữa bệnh bằng cách tạo ra một hóa nhân (tức là một người huyễn), hễ người bệnh nào đến cứ cho đùa với người huyễn một lúc là khỏi. Mẹ của ngài Kỳ Bà, tuy thị hiện làm kỹ nữ, nhưng lại được hóa sanh trên hoa soài.
Bây giờ cũng có thể có những trường hợp hóa sanh, nhưng rất ít mà chúng ta không biết thôi.
KINH: Bên cạnh khu vườn Hương Nha có một đạo tràng tên là Pháp Vân Quang Minh. Có Đức Như Lai hiệu là Thăng Nhựt Thân, đủ mười hiệu, xuất hiện trong đó đã được bảy ngày.
GIẢNG: Trong khi Thái Tử và nàng Diệu Đức đi chơi trong khu vườn, bên kia là một đạo tràng, nơi đó có đức Phật xuất hiện thành chánh giác đã được bảy ngày. Nàng đồng nữ Diệu Đức (tức là tiền thân của ngài Cù Ba) đêm trước mộng nằm thấy Phật…
KINH: Đồng nữ Diệu Đức ngủ gật mộng thấy Phật. Khi thức dậy, trên không có thiên thần bảo đồng nữ rằng, Thắng Nhựt Thân Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, nơi đạo tràng Pháp Vân Quang Minh đã được bảy ngày, chúng Bồ Tát vây quanh, chư Thiên, Long, Bát Bộ, cùng chư Thần vì muốn thây Phật nên đều tập hội.
GIẢNG: Nàng Cụ Túc Diệu Đức có mộng biết Đức Phật ở gần đây đã thành Chánh Giác.
KINH: Đồng nữ Diệu Đức do mộng thấy Phật, nên lòng nàng an ổn, không khiếp sợ…
GIẢNG: Khi nàng nghe nói có Phật tại thế, lòng nàng an ổn không có sự sợ hãi nào, ngay cả khi có chuyện gì xảy ra chăng nữa cũng không sợ hãi. Vì vậy, trông thấy vị Thái Tử nàng cũng không cảm thấy sợ hãi, nàng bèn đến trước mặt Thái Tử mà nói kệ, mà câu kệ là lời tỏ tình yêu lạ lùng nhất. Tuy trong kinh nói nàng là người biết hổ thẹn, nhưng lúc đó vẫn đủ can đảm nói thẳng điều mình mong muốn. Bài kệ rất hay, nàng nói thế này…
KINH:
Thân tôi rất đoan chánh.
Tiếng đồn khắp mười phương.
Trí huệ không ai sánh.
Khéo giỏi đủ các nghề.
Vô lượng trăm ngàn chúng.
Thấy tôi đều tham nhiễm.
Lòng tôi đối với họ,
Không một niệm ái dục.
Không sân cũng không hận.
Không ghét cũng không mừng.
Chỉ phát tâm quảng đại.
Lợi ích các chúng sanh…
GIẢNG: Nàng luôn phát tâm quảng đại làm lợi ích tất cả chúng sanh.
KINH:
Nay tôi thấy Thái Tử.
Đủ những tướng công đức.
Tâm tôi rất vui mừng.
Khắp thân đều thơi thới…
GIẢNG: Nàng nhìn thấy Thái Tử như gặp được túc duyên cũ của mình, hơn nữa vị Thái Tử này là bậc cao, nên trong nàng, thọ ấm nổi lên rào rạt, khiến nàng thấy an lạc sung sướng vô cùng, các lỗ chân lông đều nở ra, thơi thới vui mừng. Sự vui mừng ấy, như nước vỡ bờ, trào lên môi thành bài kệ ca tụng những nét đẹp của Thái Tử…
KINH:
Màu da như minh bửu.
Tóc đẹp xoăn phía hữu.
Trán rộng, mày nhỏ cong.
Lòng tôi nguyện thờ ngài.
Tôi xem thân Thái Tử.
Giống như tượng chân kim.
Cũng như đại bửu sơn.
Tướng tốt có quang minh.
Mắt rộng màu xanh biếc.
Mặt tròn như trăng sáng.
Vui vẻ giọng nói hay.
Xin thương nạp thọ tôi.
Tướng lưỡi rộng dài đẹp.
Đỏ như màu xích đồng.
Phạm âm, tiếng Khấn Na.
Ai nghe cũng vui đẹp.
Miệng vuông chẳng co rút.
Răng trắng đều kín bằng.
Lúc phát ngôn, hiện cười.
Người thấy lòng hoan hỉ.
Thân ly cấu thanh tịnh.
Đủ ba mươi hai tướng.
Tất sẽ ở cõi này.
Mà làm Chuyển Luân vương.
Thái tử bảo Đồng nữ rằng, nàng là con gái của ai? ai thủ hộ nàng, nếu trước đã thuộc vào người khác, thời ta không nên sanh lòng ái nhiễm. Thái tử nói kệ rằng…
GIẢNG: Những vị đi trên con đường Bồ Tát đạo cao, khi vấp phải một vị nữ nhân, thường thường hỏi xem nàng đã thuộc về ai chưa, nếu rồi thì chàng sẽ không bao giờ sanh lòng ái nhiễm. Thì đây, tôi xin đọc bài kệ Thái Tử nói với nàng Diệu Đức..
KINH:
Thân nàng rất thanh tịnh.
Đầy đủ tướng công đức.
Nay ta có lời hỏi.
Hiện nàng ở với ai?
Cha mẹ nàng tên gì?
Nay nàng hệ thuộc ai?
Nếu đã thuộc người khác.
Người đó nhiếp thọ nàng…
GIẢNG: Ý Thái Tử muốn hỏi rằng nàng có thuộc về ai chưa, hoặc đã có chồng chưa? Rồi sau đó, Thái Tử lại hỏi về các giới xem nàng có phạm những giới nào không…
KINH:
Nàng chẳng trộm của người.
Nàng không lòng giết hại.
Nàng chẳng phạm tà dâm.
Nàng nương lời nói nào.
Chẳng nói xấu người khác.
Chẳng phá thân thuộc người.
Chẳng xâm cảnh giới người.
Chẳng giận hờn người khác.
Chẳng sanh tà hiểm kiến.
Chẳng làm nghiệp trái nhau.
Chẳng dùng sức siểm khúc.
Phương tiện gạt thế gian.
Tôn trọng cha mẹ chăng?
Kính thiện tri thức chăng?…
GIẢNG: Chúng ta thấy vị Thái Tử này “khảo” nàng rất kỹ, vì chàng phải dè chừng tất cả siểm khúc, những tính cong queo, những tâm say mê của một nữ nhân.
KINH:
Thấy những người nghèo cùng.
Phát tâm giúp đỡ chăng.
Nếu có thiện tri thức.
Dạy bảo những điều hay.
Nàng phát tâm kiên cố.
Hoàn toàn tôn trọng chăng?
GIẢNG: Nếu gặp vị thiện tri thức dạy cho những điều hay nàng có phát tâm tôn trọng không? hay nàng chỉ làm theo cái ý bướng bỉnh, ngang dọc của người Nữ?
KINH:
Có kính mến Phật chăng?
Có biết Bồ Tát chăng?
Chúng tăng biển công đức.
Nàng có tôn kính chăng?
Nàng có biết pháp chăng? (biết về Phật pháp).
Dạy được chúng sanh chăng?
Nàng ở trong chánh pháp.
Hay ở trong phi pháp?
Thấy những người cô độc.
Nàng có thương xót chăng?
Thấy chúng sanh ác đạo.
Nàng có bi mẫn chăng?
Thấy người được vinh hạnh.
Nàng có hoan hỉ chăng?
Người đến bức hại nàng.
Nàng có phiền giận chăng?
GIẢNG: Chúng ta để ý, Thái Tử “khảo” nàng rất kỹ về lòng từ, bi, lòng hỉ, xả đối với chúng sanh, và có lòng nhẫn đối với chúng sanh không?
KINH:
Nàng phát tâm Bồ Đề.
Khai ngộ chúng sanh chăng?
Vô biên kiếp tu hành.
Được không mỏi nhàm chăng?
GIẢNG: Cuối cùng là nàng đã phát Bồ Đề tâm chưa? có nguyện tu hành trong vô biên kiếp mà không nhàm mỏi chăng? Trong lịch trình tu hành bồ tát đạo, bí quyết lớn lao nhất là lòng không mỏi nhàm, và phải có tâm nhẫn nhục, tinh tấn để đi trên con đường bồ tát đạo.
Nhân đây, tôi muốn kể cho quí vị nghe mấy chuyện, thứ nhất là về giới, về vấn đề tà dâm, vì tôi có đọc trong một cuốn sách của ngài Diễn Bồi và trong kinh Đại Bảo Tích có rất nhiều chuyện hay về vấn đề tương quan giữa người Nam và người Nữ mà người tu thường vấp phải. Phần nhiều đều… ngã cả, vì vậy chúng ta cần phải rõ giới luật cho phép đi đến đâu, và những chuyện trong kinh ý muốn nói những gì? Thì đây tôi xin kể vài trường hợp cho quí vị nghe…
Chuyện này, tôi lấy trong kinh Đại Bảo Tích…
(Kinh Đại Bảo Tích là một bộ kinh rất lạ, đó là một bộ kinh gồm nhiều pháp hội, trong đó hay nói về thần lực của Chư Phật, cũng nói đến vọng tưởng không gian, thời gian .v.v… và nhất là có những chi tiết giúp ta hiểu thêm rất nhiều.)
Tôi rất lấy làm mừng rằng giáo lý về quang minh và tất cả thần lực của Chư Phật được kinh Đại Bảo Tích xác nhận một cách rất rõ ràng. Có phẩm gọi là “xuất hiện quang minh” và nói về thần lực rất ghê gớm.
Một vị Bồ Tát, khi gặp một vị nữ nhân mà ngài thấy người nữ nhân kia nảy sanh tâm lưu luyến phi thường, thì vị bồ tát đó luôn luôn hỏi vị nữ nhân ấy những câu hỏi tương tự như vị Thái Tử này hỏi nàng Cụ Túc Diệu Đức:
“Nàng tu hành như thế nào, tà đạo hay chánh đạo, có tâm bi mẫn, tâm ngay thẳng và đã phát bồ đề tâm chưa?
Thì đây, một câu chuyện trong kinh Đại Bảo Tích, (quyển 4, trang 422) xin kể quí vị nghe …
Hồi Đức Phật còn tại thế, có một vị Bồ Tát tên là Chúng Tôn Vương. Một hôm đức Phật đương ngồi thuyết pháp, ngài A Nan đứng lên mách Phật rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn, lúc nãy con đi khất thực thấy vị Chúng Tôn Vương Bồ Tát ngồi chung giường với một vị nữ nhân.”
(Nhiều khi tôi trộm nghĩ, ngài A Nan thị hiện một sự ngây thơ thật dễ thương, có vẻ nửa như còn tính chất người, nửa như đã vào hàng thánh cao rồi).
Sau khi ngài A Nan mách Phật như thế, thì ngài Chúng Tôn Vương Bồ Tát vội đứng lên, ngài không nói gì, chỉ bay vọt lên hư không cao bảy cây đa la rồi nói với ngài A Nan rằng:
“Này Đại Đức, Đại Đức có thấy một người nào phạm giới mà có thể đứng giữa không trung như tôi được không?”
Sau đó, ngài A Nan lập tức sám hối, nói rằng ngài đã nghĩ lầm về vị Bồ Tát ấy. Rồi ngài Chúng Tôn Vương Bồ Tát mới kể rằng:
“Từ nhiều kiếp trước, ngài đã độ cho vị nữ nhân ấy. Trong một tiền kiếp, ngài làm một vị tăng, đi đường vấp phải vị nữ nhân ấy, ngài nhìn thấy nàng rất đẹp, và cứ lăn xả vào ngài. Nhưng ngài vẫn bỏ đi. Đi được một quãng ngài trở lại, cởi áo sư lấy nàng làm vợ trong mười hai năm. Khi công việc độ nàng đã viên mãn, thì ngài lại đi tu và làm tăng trở lại…”
HỎI: Thưa ông, tôi thấy câu chuyện này có vẻ … “nguy hiểm” quá. Ông sư ấy đi khất thực thường đi chậm rãi, mà không hiểu vì duyên cớ gì, làm thế nào để có thể vấp vào một vị nữ nhân?
ĐÁP: Thật ra, tôi nói chữ “vấp” là để nhấn mạnh cái cơ duyên gặp một người nữ thôi, chứ trên thực tế, không thể đi sầm sầm mà vấp vào một người ngồi lù lù đó được. Nhưng trong câu chuyện này, có hai điều chúng ta cần nên biết, thứ nhất là nhà tu này đàng hoàng cởi áo để độ xong người nữ đó rồi đi tu lại. Thứ hai là cơ duyên nam nữ rất chập chùng, vì từ nhiều kiếp, chúng ta kết rất nhiều cơ duyên, nó chằng chịt đan nhau như một cái lưới, khó có thể thoát khỏi. Sự uyển chuyển của vị sư này không phải do ham sắc mà vì tâm độ người, vì ngài biết rằng vị nữ nhân này nhiều kiếp đã có túc duyên với ngài, mà có lẽ ngài cũng còn nợ nàng nữa.
Lời kinh thường có hai nghĩa, người sơ cơ nghe thoảng qua thường chỉ ôm lấy nghĩa thô thôi, nên rất nguy hiểm. Vì vậy, đôi khi không biết thường dễ bị lầm lạc, và làm hại luôn cả giới thân huệ mạng của chính mình nữa. Vì sao? Vì họ cứ tưởng rằng có thể chuyển tình đời thành tình đạo, nhưng rốt cuộc hóa ra lại bị tình đời nó chuyển lại, đạo tâm của mình không còn nữa.
Còn trong cuốn kinh Phạm Võng diễn giải ngài Diễn Bồi có kể mấy câu chuyện sau: Hồi thời đức Phật còn tại thế, các vị tỳ kheo ni ngồi thiền trong rừng vắng, hay bị tụi Bà La Môn đến hiếp rất, sau đó Phật mới dạy rằng, các tỳ kheo ni không được ngồi trong rừng vắng nữa, mà phải về chùa mà tu. Có vị tỳ kheo ni ở trong một cái cốc nhỏ, một hôm có người bà la môn lén chui nằm dưới gầm giường, chờ khi vị này tối nằm ngủ, nó liền lên hiếp rồi bỏ đi. Sáng hôm sau, vị này đến bạch với Đức Phật, Phật hỏi rằng: trong lúc đó, ngươi có thấy sự khoái lạc gì không? Vị này trả lời rằng, con chỉ thấy như có một cục sắt nóng đỏ đâm vào người mà thôi. Đức Phật dạy rằng: như vậy ngươi không phạm giới. Sau đó, bà đắc quả A La Hán.
Một câu chuyện khác:
Có một vị tỳ kheo ni rất đẹp, đắc quả A La Hán rồi. Ngài thường ngồi ở ven rừng thiền định. Có một vị Bà La Môn mê ngài quá, nó cứ đến dụ dỗ ngài mãi không thôi. Vị tỳ kheo ni này đạo lực rất cao, nên hỏi người Bà La Môn:
“Tại sao ông lại sinh cái tâm đảo điên thế?”
“Vì nàng đẹp quá, lòng ta không thể cưỡng lại nổi, nên ta muốn chăn gối với nàng.”
“Tôi đẹp ở chỗ nào?”
“Ta mê nhất đôi mắt nàng, trên đời ít ai sánh bằng.”
Vị tỳ kheo ni mới vận thần lực lấy tay móc hai mắt mình, để lên lòng bàn tay và bảo người kia:
“Ông nhìn xem cục thịt máu mủ hôi nhơ này có gì là đẹp?”
Người Bà La Môn bỗng dưng nổi cơn giận dữ, đánh lên đầu vị tỳ kheo ni mắng rằng:
“Cái mụ trọc đầu kia, ngươi dùng ảo thuật trêu gan ta chăng?”
Nói xong rồi bỏ đi.
Nếu một vị tăng đang tu hành, mà có một vị ma nữ, hay một người con gái nhà lành đến nhất định đòi mê thì sao? Theo như ngài Diễn Bồi, thì những người xuất gia không thể làm gì khác cả, dĩ nhiên phải từ chối, vì không thể phá giới được, nhưng người tại gia có thể làm được, vì cư sĩ tại gia chỉ phải giữ năm giới thôi. Nếu người đó là một người con gái nhà lành, đơn thuần, muốn đi vào đạo, song còn vướng vào tình yêu thương, thì một cư sĩ tại gia có thể độ cho người ấy, bằng cách phương tiện tùy thuận để độ người ta. Không biết quí vị có đồng ý kiến đó với ngài Diễn Bồi không? Nhưng có một điều khó là trong khi độ người đó, thì phải có tâm từ bi, chứ đừng có tâm tham dục nhiều quá. Song ở đây, ta chỉ có thể nói theo cái lý thôi, vì người xưa đời sống của họ rất thanh tịnh, nghiệp chướng lại mỏng, nên có thể phương tiện tùy thuận để độ sanh cũng dễ. Nhưng ngày nay, vào thời mạt pháp, cách Phật trên hai ngàn năm trăm năm, căn cơ của chúng sanh cạn mỏng, nghiệp chướng sâu dầy, theo ý tôi, việc tùy thuận phương tiện quả là một việc… rất khó. Vì theo như lời Phật huyền ký, trong thời mạt pháp, chúng sanh tu có khá lắm đi nữa cũng chỉ đến mức đa văn kiên cố, hay tháp tự kiên cố là cùng… Nói sơ qua để quí vị thấy rằng giữ giới tham dục trong dục giới này là một việc khó nhất cho cả người xuất gia cùng cư sĩ tại gia. Nên phải tùy từng trường hợp mà đối phó, và trong khi đối phó, phải giữ tâm mình đúng mức, điều này đòi hỏi hành giả phải có định lực và huệ lực khá cao, cộng thêm lòng từ bi bình đẳng mới có thể làm nổi.
Nay xin trở lại kinh…
Sau khi Thái Tử hỏi nàng Diệu Đức xong, thì bà mẹ của nàng liền trả lời. Đó là một bài kệ, xin quí vị lắng nghe…
KINH:
Thái tử ngài lắng nghe.
Nay tôi nói Đồng Nữ.
Sơ sanh đến trưởng thành.
Tất cả đến nhân duyên:
Ngày Thái Tử mới sanh.
Nàng từ Liên Hoa sanh.
Mắt nàng sáng, dài, rộng.
Tay chân đều hoàn mỹ
Tôi từng ở mùa xuân.
Du ngoạn vười Ta La.
Thấy khắp những dược thảo.
Mọi thứ đều tươi tốt.
Cây lạ trổ hoa đẹp.
Trông đó như khánh vân.
Chim đẹp cùng hòa hót…
GIẢNG: Thân mẫu đồng nữ này tả cảnh trí đẹp là vì thời đó, trong kiếp đó, phước lực của con người khá lớn…
KINH:
Chim đẹp cùng hòa hót.
Trong rừng đồng hoan lạc.
Cùng đi tám trăm cô.
Đoan chánh chiếm lòng người.
Y phục đều nghiêm lệ.
Ca ngâm đều rất hay.
Vườn đó có ao tắm.
Tên là Liên Hoa Tràng.
Tôi ngồi trên bờ ao.
Thể nữ hầu chung quanh.
Trong ao sen lớn ấy.
Bỗng sanh hoa ngàn cánh.
Cánh báu, cọng lưu ly.
Vàng Diêm Phù làm đài.
Bấy giờ là hừng sáng.
Mặt nhựt mới ló mọc.
Hoa ấy đương nở ra.
Phóng ánh sáng thanh tịnh.
Ánh sáng ấy rất mạnh.
Dường như mặt trời mọc.
Chiếu khắp Diêm Phù Đề.
Mọi người đều khen lạ.
Bấy giờ thấy Đồng nữ.
Từ hoa sen đó sanh.
Thân nàng rất thanh tịnh.
Chi phần đều viên mãn
Đây là báu nhân gian.
Từ nơi tịnh nghiệp sanh.
GIẢNG: Vị Đồng Nữ này từ hoa sen sanh ra, và những người sanh như thế là phước báu của nhân gian, vì do phước nghiệp cũ. Như nếu chúng ta tu khá, ta sẽ được hóa sanh trong hoa sen bên cõi Cực Lạc. Hoặc có khi ở ngay cõi này.
KINH:
Nhân trước không hư mất.
Nay thọ quả báo này.
Tóc biếc, mắt sen xanh.
Phạm thinh, da chân kim.
Tràng hoa, những bửu kế.
Thanh tịnh không chút nhơ.
Chi tiết đều đầy đủ.
Thân nàng không khuyết giảm.
Dường như tượng chân kim.
Đặt ở trong bửu hoa.
Chân lông mùi chiên đàn.
Xông khắp cả mọi nơi.
Miệng phát mùi thanh liên.
Thường diễn tiếng Phạm-âm.
Chỗ của nàng này ở.
Thường có âm nhạc trời.
Chẳng nên để kẻ hèn.
Sánh đôi với nàng này.
Duy ngài đủ tướng tốt.
Xin nạp thọ nàng này.
Chẳng cao, cũng chẳng thấp.
Chẳng thô, cũng chẳng tế.
Toàn thân đều trang nghiêm.
Xin ngài nạp thọ nàng.
GIẢNG: Sau đó, Thân mẫu nàng mô tả đến tài của nàng, từ toán số, văn tự, nghề khéo, binh pháp, phán đoán, kiện tụng, ngôn ngữ, lý số, biết rõ duyên khởi của chúng sanh, kỹ nhạc, những nghề phụ nữ .v.v… nàng đều thông suốt cả.
Khi một hành giả tu bồ tát đạo đến địa thứ năm, thì lúc đó hành giả ấy thông suốt tất cả kỹ thuật của thế gian, nho, y, lý số, kỷ nhạc, văn thơ .v.v… vì từ tâm nở ra. Vì từ trong tâm ấy, trải qua vô lượng kiếp, tất cả những thứ đó ta đều học cả rồi, và nó đều rớt lại những chủng tử trong tàng thức, đến kiếp năy, tu hành đúng mức nở ra vằ hiện hành mọi thứ.
Nàng Đồng Nữ này, ở một mức tu hành đủ viên mãn để tâm nở ra tất cả những nghề khéo ở thế gian, vì tâm vốn bổn cụ.
KINH:
… Những nghề của phụ nữ.
Nàng này biết tất cả.
Mà không lỗi phụ nữ.
Ngài nên mau nạp nàng…
GIẢNG: “Lỗi phụ nữ” là những lỗi như kiêu hãnh, đam mê, hay quắt quéo, quanh co v.v…
HỎI: Tại sao con đường tu hành của vị nữ nhân nàỵ đã lên một mức độ cao như vậy rồi mà vẫn chưa dứt được luyến ái ấy? Tại sao không chịu chuyển thành trượng phu để tu hành dễ hơn? mà cứ dính líu mãi với cái nhân duyên cũ như thế?
ĐÁP: Đương nhiên khi lên cao vút thì tất cả đều phải chuyển, nhưng ở mức độ này, nam nữ vẫn còn phân biệt mà chưa đi đến chỗ không phân biệt. Theo thuyết nhà Phật, có thời kỳ nam nữ chưa phân, (như thời chư Thiên trời Quang Âm hết phước bị đọa xuống trái đất), nhưng khi họ theo hành trình đi xuống thì lần lần phân chia nam nữ, khi phân chia họ mang tất cả những vết tích, tập quán cũ, từ vô lượng kiếp, nên không thể chỉ trong một thời mà có thể gột hết được một lần, cần phải có thời gian dài thì tập quán cũ mới nhạt dần đi được. Nên vì vậy cực độ này vẫn nuối tiếc cực độ kia… Lần lần, cả hai đều có cùng một ý nguyện, cùng đi vào đạo, tu lên cao vút, thì hình tướng phân chia lại mờ nhạt và trở về cái Nhất Thể uyên nguyên.
Nay xin trở về kinh…
Sau khi thân mẫu của nàng Diệu Đức nói lên những tài khéo cùng đức hạnh của con mình, Thái Tử mới bảo nàng Diệu Đức rằng, ta đi trên đường bồ tát đạo, điều tiên quyết là phải bố thí không tiếc một thứ gì, đến lúc phải bố thí cả ngai vàng thì nàng có tiếc chăng? Rồi bố thí cả vợ, con thì nàng có kêu ca chăng? Hoặc bố thí ngay cả nàng thì nàng có sầu muộn chăng? Và ngay cả thí thân mạng ta thì nàng có chịu chăng? Nàng có cản trở con đường bồ tát đạo của ta chăng?
Ngày xưa, khi đọc đến vụ bố thí vợ con cho Bà La Môn về làm nô lệ, chính tôi cũng bị rất… shock, bố thí cái gì của riêng mình còn được, nhưng mang cả vợ con ra bố thí làm nô lệ cho người khác thì thật tình tôi thấy… phi nhân đạo quá, không thể chịu nổi!
HỎI: Thưa ông, không phải chỉ có một mình ông bị shock đâu, ngày xưa tôi nghe như thế cũng thấy shock lắm, mà đến giờ cũng… vẫn còn shock. Và vẫn còn… “khắc khoải, khổ tâm” về điều ấy lắm.
ĐÁP: Thực sự, người nào mới nghe qua cũng đều thấy kinh hoàng và có vẻ phi nhân đạo. Ngay một vị tu hành khá cao bên Pháp, tên bà là David Neel tu bên Tây Tạng khá lâu, đã có một ít thần thông. Nhưng sau 30 năm ở Tây Tạng và sống đến 104 tuổi, có viết nhiều cuốn sách nổi tiếng, cũng bị shock nặng nề về việc này. Bà viết một quyển sách nói rằng, bà không thể” hiểu nổi tại sao lại có thể bố thí vợ con mình cho người khác về làm nô lệ, như vậy thật là vô nhân đạo!
Nhưng lần lần chúng ta sẽ hiểu rằng, vợ, con của một Đại Bồ Tát đều là những bậc Bồ Tát khá cao dính dáng, và có nhiều cơ duyên với ngài từ nhiều kiếp. Bố thí vợ con để làm gì? Để vợ con hoàn thành hạnh nhẫn nhục, mà thường thường chư Thiên, chư Thần bao giờ cũng hộ trì những người đó, không bao giờ anh Bà La Môn nào có thể mang về làm nô lệ được, nên tuy có bố thí thật, nhưng người nhận cũng không thể dùng được. Mặt khác, bố thí như vậy để xóa được cái tự và cái tha, cái gì của mình, hay của người.
Trong kinh Hiền Ngu có kể một câu chuyện về hạnh bố thí. Có một vị vua Nhân Từ ở nước này tu hạnh bố thí của bồ tát. Còn vị vua nước láng giềng thì sinh lòng ganh ghét vị vua này, nên sai một người Bà La Môn tên là Lao Độ Sai sang xin cái đầu của vị vua nhân từ ấy. Lao Độ Sai tham tiền thưởng quá lớn, nên không quản ngại đường xá xa xôi, sang nước ông vua Nhân Từ tu hạnh bố thí, xin đầu vua. Đến nơi, thần giữ thành cản, không cho Bà La Môn vào thành, sau cùng cũng vào được thành, gặp vua và xin đầu. Vua bằng lòng, tự cắt đầu dâng cho người Bà La Môn. Vị này, hớn hở ôm đầu vua đem về, nhưng đi đến giữa đường, (có thể vì lòng hối hận ray rứt, cũng có thể vì sự quả báo mà các hộ pháp hay chư Thiên phẫn nộ), tim bị nổ tung mà chết. Đủ chứng tỏ rằng, với một vị tu hành có đức độ cao, các vị quỉ thần theo hộ trì ghê gớm, không ai có thể dùng được của bố thí ấy, nếu không đủ phước lực để hưởng. Nhưng ít có người phàm phu nào dám đến xin bố thí như đầu vậy, nếu có, đều là những vị quỉ thần vương tới thị hiện để thử lòng vị Bồ Tát ấy mà thôi, (như trong kinh Duy Ma Cật có nói rõ). Khi nào quí vị tu đến mức độ có người đến xin đầu mình, mà lúc đó, trong tâm không kinh sợ, ngược lại hớn hở vui mừng mà vội vã mang đầu cho ngay thì lúc đó quí vị đã rất cao rồi.
KINH: Thái tử nói kệ bảo nàng Diệu Đức rằng:
Vì thương sót chúng sanh.
Ta phát tâm bồ đề.
Ở trong vô lượng kiếp.
Tu tập nhất thiêt trí.
… (bỏ một đoạn kinh đại khái ngài muôn đi trên con đường bồ tát dạo)…
Nàng thấy người đến xin.
Hoặc sanh lòng tham tiếc.
Tâm ta thường thích thí.
Nàng chớ trái lòng ta.
Nếu thấy ta thí đầu.
Chớ có sanh buồn khổ.
Nay ta bảo nàng trước.
Cho lòng nàng kiên cố.
Nhẫn đến chặt tay chân.
Nàng chớ trách người xin.
Nay nàng nghe lời ta.
Cần phải suy nghĩ kỹ.
Tất cả vật sở hữu.
Ta đều xả tất cả.
Nếu nàng thuận lòng ta.
Ta sẽ toại ý nàng.
GIẢNG: Sau khi vị Thái Tử nói những gì chàng muốn làm, nhất là hạnh bố thí khi đi trên đường Bồ Tát, nếu nàng thuận thì chàng sẽ nhận nàng. Vị nữ nhân này vội trả lời Thái Tử cũng bằng một bài kệ dài, và rất hay, xin đọc lược ít phần:
KINH:
Trong vô lượng kiếp hải.
Lửa địa ngục đốt thân.
Nếu ngài thương nạp tôi.
Cam tâm chịu khổ này.
Vô lượng chỗ thọ sanh.
Nát thân như vi trần.
Nếu ngài thương nạp tôi.
Cam tâm chịu khổ này.
Vô lượng kiếp đầu đội.
Núi Kim Cang lớn rộng.
Nếu ngài thương nạp tôi.
Cam tâm chịu khổ này.
Vô lượng biển sanh tử.
Đem thịt tôi bố thí.
Chỗ ngài thành Pháp Vương.
Nguyện cho tôi cũng vậy.
Nếu ngài thương nạp tôi.
Cho tôi làm chủ đó.
Đời đời ngài bố thí.
Nguyện thường đem tôi thí.
Vì thương chúng sanh khổ.
Mà phát tâm bồ đề.
Đã nhiếp chúng sanh rồi.
Cũng sẽ nhiếp thọ tôi.
GIẢNG: Nàng bảo với Thái Tử rằng: khi ngài bố thí tôi, tôi rất hoan hỉ, vì sau này ngài thành Phật thì sẽ nhiếp thọ tôi.
KINH:
Tôi chẳng cầu giàu sang.
Chẳng tham vui ngũ dục.
Chỉ vì cùng tu hành.
Nguyện dùng Ngài làm chủ.
Mắt rộng dài xanh biếc.
Từ mẫn nhìn thế gian.
Chẳng móng tâm nhiễm trước.
Quyết thành đạo Bồ Tát.
Chỗ Thái Tử bước đi.
Đất mọc những bửu hoa.
Tất làm Chuyển Luân vương.
Xin ngài thương nạp tôi.
Tôi vừa mộng thấy Phật.
Diệu pháp bồ đề tràng.
Đức Phật ngồi dưới cây.
Vô lượng chúngvây quanh.
Tôi mộng thấy Như Lai.
Thân như núi Chân Kim.
Tay Phật xoa đầu tôi.
Thức dậy lòng hoan hỉ.
GIẢNG: Bài kệ này cũng dễ hiểu, nên tôi không giảng nhiều, chỉ đọc quí vị nghe để tăng tín căn và thêm công đức. Sau khi nàng Diệu Đức đồng ý với Thái Tử những gì chàng muốn, thì nàng liền rủ Thái Tử đến gặp đức Phật, cả hai đều hớn hở đi…
KINH: Thái Tử nghe danh hiệu Thắng Nhựt Thân Như Lai, rất hoan hỷ muốn được thấy Phật. Thái Tử đem 500 châu ma ni rải trên Đồng Nữ, ban mão Diệu Tạng Quang Minh Bửu và áo Hảo Diệm Ma Ni Bửu. Đồng Nữ Diệu Đức lòng chẳng rung động cũng không lộ vẻ mừng, chỉ chắp tay cung kính chiêm ngưỡng Thái Tử mắt chẳng tạm rời.
GIẢNG: “Không lộ vẻ mừng…” là vì sao? Tức là vị Đồng Nữ này có rất ít ngã, mà chỉ chắp tay cung kính nhìn Thái Tử mắt không tạm rời. Sau đó, thân mẫu lại ca ngợi thêm về con mình. Tôi xin đọc lược ít phần…
KINH:
Con tôi thân nhu nhuyễn.
Dường như lụa cõi trời.
Tay nàng rờ chạm đến.
Bệnh đau đều trừ diệt.
Lỗ lông phát hương thơm.
Ngào ngạt không gì bằng.
Nếu ai được ngửi đến.
Đều ở nơi tịnh giới.
Màu da như chân kim.
Ngồi ngay trên hoa đài.
Chúng sanh nếu được thấy.
Hết oán phát tâm từ…
GIẢNG: Đại khái nói đến chánh báo của Đồng Nữ đem nhiều lợi ích cho chúng sanh…
KINH: Lúc đó Thái Tử và nàng Diệu Đức đem một ngàn thể nữ cùng quyến thuộc, ra khỏi vườn Hương Nha, đến Đạo Tràng Pháp Vân Quang Minh, xuống xe đi bộ đến chỗ đức Phật. Thấy đức Phật Thắng Nhựt thân đoan nghiêm tịch tịnh… Thái tử và nàng Diệu Đức mỗi người cầm năm trăm bông sen báu cúng dường đức Phật…, Đức Phiệt thuyết kinh Phổ Nhãn Đăng Môn, Thái Tử nghe xong ở trong tất cả pháp được tam muội hải.
GIẢNG: Trong kinh kể rất dài, tôi xin tóm lược cho quí vị nghe nốt câu chuyện tiền thân của ngài Thích Nữ Cù Ba… Thái Tử sau khi nghe Phật thuyết kinh thì được khoảng hai mươi thứ tam muội, còn nàng Diệu Đức thì được “nan thắng hải tạng tam muội.” Sau khi lễ Phật, cả hai cùng đi về. Vua cha mới hỏi Thái Tử rằng, ai cho con biết có đức Phật thành Chánh Giác!? “Nàng Cụ Túc Diệu Đức nói cho con biết.” Sau đó vua nghĩ ngợi một lúc rồi đến chầu đức Phật. Rồi ngài truyền ngôi cho Thái Tử. Thái Tử lên ngôi làm Chuyển Luân Vương. Lúc bấy giơ,ợ có bảy báu tự bay đến, trong đó có Bửu Nữ, và Bửu Nữ chính là nàng Cụ Túc Diệu Đức. Còn Vua cha xuất gia, sau cũng đắc quả, thành Phật.
Đến đây, ngài Cù Ba nói rằng, xưa kia Thái Tử chính là đức Thích Ca Mâu Ni hiện nay. Vua cha nay chính là đức Bửu Hoa Phật. Thân mẫu Thiện Hiện ngày xưa cũng chính là thân mẫu của ngài bây giờ. Nàng Diệu Đức chính là ngài, tức là Thích Nữ Cù Ba. Sau đó, ngài còn kể thêm nhiều kiếp khác tiền thân của ngài nữa, và cúng dường bao nhiêu Phật.
Thì đây, tôi xin đọc một đoạn kinh để kết thúc vị thiện tri thức thứ 40 này. Đoạn này rất hay, để quí vị hiểu chỗ quán sát, thân của Bồ Tát, và hiểu được thân chính là cõi. Đây là lời ngài Cù Ba nói…
KINH: Này thiện nam tử, trong Phật sát vi trần số kiếp ta quán thân Bồ Tát không biết nhàm. Như người đa dục nam nữ hội họp ái nhiễm nhau sanh vô lượng vọng tưởng. Cũng vậy, ta quán thân Bồ Tát, nơi mỗi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thây vô lượng vô biên thế giới rộng lớn, những sự an trụ, trang nghiêm, hình trạng, những núi, đất, mây, danh hiệu, Phật xuất thế, những đạo tràng, chúng hội diễn thuyết những khế kinh, những sự quán đảnh, các thừa, những phương tiện, những thanh tịnh…
GIẢNG: Ngài quán lỗ chân lông, quán hình hài Bồ Tát lên đến mức tuyệt vời, ngài còn ví rằng, ngài quán thân Bồ Tát say mê cũng như đôi nam nữ đa dục tương tư, ái nhiễm lẫn nhau, họ tưởng tượng nhiều thứ về kẻ đối tượng không tạm rời… Cũng vậy, người tu quán thân vị Bồ Tát một cách mạnh mẽ và say mê như thế. Dần dần thấy thân Bồ Tát rộng lớn như một cõi, mỗi lỗ chân lông đều hiện mây quang minh, hiện vô lượng hóa thân. Đây, tôi xin đọc tiếp:
KINH: Này thiện nam tử, trong Phật sát vi trần số kiếp mỗi niệm xem thấy nơi mỗi chân lông của Bồ Tát như vậy, chỗ đã đến không còn lại đến, chỗ đã thấy không còn lại thấy, tìm biên tế đó trọn không thể được. Nhẫn đến thấy Thái Tử Tất Đạt ở trong hoàng cung, thể nữ vây quanh, ta dùng sức giải thoát xem nơi mỗi chân lông của Bồ Tát, thấy tất cả sự trong tam thế pháp giới.
GIẢNG: Khi đến kiếp sau cùng, ngài thị hiện làm vợ của Đức Thích Ca Mâu Ni, sau đó ngài quán thân của Đức Mâu Ni lúc còn làm Thái Tử, vui chơi trong cung với cung nữ. Quán thân như cảnh giới Hoa Nghiêm vậy, nói đó có vô lượng quang minh và mỗi một lỗ lông có vô lượng thế giới. Tôi xin nhắc lại là khi ta quán hình hài một người thì có thể quán theo mấy lối được. Thứ nhất là ta nhìn theo lối phàm phu, lối đa dục nam nữ, nhớ lại sóng mắt nụ cười, “niềm riêng nhớ ít tưởng nhiều…” (chính ra là không đẹp lắm đâu), nhưng cứ nghĩ ra đủ các thứ đẹp. Đó là lối quán của phàm phu. Còn lối quán thứ nhì là quán theo Thanh Văn, quán bất tịnh, thấy tất cả trong đó là đờm rãi, bầy nhầy, thi trùng lổm nhổm. Thứ ba là quán cao hơn nữa, quán theo lối Bồ Tát, thấy hình hài ấy chính là giải ngân hà, là thế giới võng, ở đây, tất cả vọng tình đều chuyển thành Đại Bi.
Trong bài kệ cuối cùng, ngài Cù Ba có nói rõ. Lúc này, trong một tiền thân khác của ngài, cũng có một Thái Tử tên là Thiện Quang, ngài Thiện Quang xuất gia làm tăng, đi khất thực.. Đây, tôi xin đọc quí vị nghe…
KINH: Có lúc nhân khất thực vào vương Đô Trí Thọ. Đi đứng rất an tường, tâm chánh trí chẳng loạn. Trong thành có Cư Sĩ, hiệu là Thiện Danh Xưng, ta là con gái ông, tên là Tịnh Nhựt Quang. Thấy thân tướng đoan nghiêm, lòng ta sanh luyến mến. Khi Ngài khất thực nhà ta, lòng ta càng ái nhiễm, liền cởi ngay chuỗi ngọc, chân châu để vào bát. Dầu vì tâm ái nhiễm, cúng dường Phật tử ấy, hai trăm năm mươi kiếp, cũng chẳng đọa ác đạo…
GIẢNG: Lúc đó ngài làm con gái một vị trưởng giả, thấy Thái Tử Thiện Quang thân tướng đoan nghiêm, lòng nàng sanh luyến mến. Khi ngài đến khất thực nhà nàng, “lòng ta càng ái nhiễm…” do túc duyên nhiều kiếp, nàng liền cởi ngay chuỗi ngọc để vào bát cúng dường. Dù là vì tâm ái nhiễm cúng dường, nhưng từ đó về sau, hai trăm năm chục kiếp nàng không bị đọa ác đạo. Chỗ này chúng ta phải hiểu tại sao thế? Một là vì vị Thái Tử đó đã tu cao nên phước đức lớn quá. Hai là vì tuy có tâm ái nhiễm, nhưng lòng vì đạo của nàng cũng chí thành và rất lớn do sự huân tập nhiều kiếp. Sau ngài lại kể tiếp…
KINH: Hoặc sanh nhà Thiên vương. Hoặc làm con Nhân vương. Hằng gặp ngài Thiện Quang, thấy thân tướng diệu nghiêm. Sau đó quá hai trăm năm mươi kiếp kế tiếp, ta sanh nhà Thiện Hiện, tên Cụ Túc Diệu Đức.
GIẢNG: Hai trăm năm mươi kiếp sau mới hóa sanh vào nhà Thiện Hiện, làm Cụ Túc Diệu Đức rồi làm Bửu Nữ cho Thái Tử tức là vua chuyển Luân vương sau này.
Sau đó lại lẵng đẵng theo nhau mãi, chuyển dần tất cả tình đời thành tình đạo, tất cả vọng tưởng thành bát nhã, tất cả vọng tình thành đại bi. Cuối cùng thị hiện làm vợ đức Thích Ca Mâu Ni mà không có một chút tham dục nào, vì ngài đã là một vị Bồ Tát rất cao khoảng mức Pháp Vân Địa. Đây, có một đoạn này cũng nên đọc…
KINH: Quán Bồ Tát tam muội, một niệm nhập mười phương bất tư nghi sát hải, ta thấy các thế giới, tịnh uế nhiều sai khác, nơi tịnh chẳng tham ưa, nơi uế chẳng ghét bỏ, thấy khắp các thế giới, đức Phật ngồi đạo tràng, đều ở trong một niệm, phóng vô lượng quang minh…. (bỏ một đoạn kinh)…, ta quán thân Bồ Tát, vô biên kiếp tu hành, mỗi mỗi lỗ chân lông, cầu đó chẳng thể được. Nơi mỗi mỗi chân lông, hiện bất khả thuyết cõi, địa, thủy, hỏa, phong luân, đều đủ cả trong đó. Bao nhiêu sự kiến lập, bao nhiêu thứ hình trạng, bao nhiêu thân, danh hiệu, vô biên thứ trang nghiêm. Ta thấy các sát hải, bất khả thuyết thế giới, cũng thấy Phật trong đó, thuyết pháp dạy chúng sanh. Chẳng biết thân Bồ Tát, và tất cả thân nghiệp, cũng chẳng biết tâm trí, hành đạo trong nhiều kiếp…
GIẢNG: Sau khi kể cho Thiện Tài nghe xong về những tiền kiếp của ngài, ngài liền bảo Thiện Tài đến gặp Ma Gia Phu Nhân, tức là người mẹ thị hiện của Đức Phật ở nhân thế.
KINH: Thiện Tài nhất tâm muốn đến chỗ Ma Gia Phu Nhân tức thời chứng được trí quán Phật cảnh giới.
GIẢNG: Lúc này, Thiện Tài đắc thêm một môn tam muội, nên được “trí quán Phật cảnh giới.” Đó là một thứ pháp nhãn, nhìn trong các cảnh giới đều thấy ngài Ma Gia Phu Nhân.
KINH: Thiện Tài tự nghĩ rằng, thiện tri thức này xa lìa thế gian an trụ nơi vô sở trụ, siêu quá sáu trần, lìa tất cả chấp trước, biết đạo vô ngại, đủ pháp thân thanh tịnh, dùng nghiệp như huyễn mà hiện hóa thân, dùng trí như huyễn mà quán thế gian, dùng nguyện nhưhuyễn mà giữ gìn thân Phật. Theo thân ý thân.
GIẢNG: Nguyện của ngài Ma Gia là xin làm mẹ của Chư Phật đản sanh. Ngài dùng “huyễn trí” để hiện ý sanh thân.
KINH: Không thân sanh diệt, không thân lai khứ…
GIẢNG: Thân của chúng ta là thân sanh diệt, có đến có đi, còn thân của ngài Ma Gia là thân từ ý sanh ra, tức là thân huyễn từ một tam muội hiện ra.
KINH: Chẳng phải thân hư thiệt, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận. Có bao nhiêu tướng đều là thân một tướng, thân rời hai bên, thân không chỗ tựa nương, thân vô cùng tận, thân như ảnh hiện rời phân biệt…
GIẢNG: Đại khái là như vậy… Thiện Tài vừa đi vừa suy nghĩ như thế. “Suy nghĩ” tức là quán chiếu đến ngài Ma Gia, là vì diệu sắc thân của ngài phải quán thế nào để nhìn thấy thân vô tận, thân chẳng sanh diệt, thân chẳng biến hoại v.v… Trong kinh nói, trụ xứ của Bồ Tát rất sâu. Đối với ngài Cù Ba thì Thiện Tài trông thấy ngay, nhưng còn ngài Ma Gia Thiện Tài phải quán lâu hơn. Song tùy từng vị, có vị thị hiện thế này, có vị thị hiện thế khác.
KINH: (Thiện Tài tiếp tục suy nghĩ…) hạng người như vậy, tôi làm sao được thân cận để kính thờ cúng dường, để được cùng ở hầu quán sát dung mạo, nghe tiếng nói, suy nghĩ lời dạy và nhận lãnh..
GIẢNG: Trong khi đi, Thiện Tài suy nghĩ như thế, thì lại có vị Chủ Thành Thần hiện ở trên không trung rải hoa nói rằng..
KINH: Này thiện nam tử, phải gìn giữ tâm thành, nghĩa là chẳng tham tất cả cảnh giới.
GIẢNG: Ngài Chủ Thành Thần này tên là Bửu Nhãn, tức là chủ cái tâm (thành trì là tâm), ngài nói phải giữ tâm mình không tham tất cả cảnh giới. Muốn tới cảnh giới siêu xuâ’t của ngài Ma Gia thì cảnh giới thế gian này không được lưu luyến, không dính mắc, dù có thây cảnh giới rất đẹp, hay thấy Thiên Nữ, Long Nữ v.v… rất đẹp cũng không dính mắc.
KINH: Phải trang nghiêm tâm thành, nghĩa là chuyên ý xu cầu Phật thập lực…
GIẢNG: Lúc nào cũng nhớ nghĩ cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thập lực, thập bát pháp bất cộng v.v… nhất thiết chủng trí, đặt tâm cao bao nhiêu thì mới vượt được thế gian này.
KINH: Phải tịnh trị tâm thành…, phải thanh lương tâm thành, phải tăng trưởng tâm thành…, phải nghiêm sức tâm thành…, phải chiếu diệu tâm thành…, (đại khái là phải làm thanh tịnh tâm thức một cách rất chí thành. Xin bỏ một đoạn kinh…) phải biết tâm thành như huyễn, nghĩa là dùng nhất thiết trí biết rõ những pháp tánh…
GIẢNG: Vị Chủ Thành Thần nói như thế còn chưa đủ, lại có một Chư Thiên khác hiện ra nói nữa, nhắc nhở Thiện Tài thêm, trước khi gặp được ngài Ma Gia…
KINH: Bấy giờ có Thân Chúng Thần tên là Liên Hoa Pháp Đức và Diệu Hoa Quang Minh…
GIẢNG: Thân chúng thần là các vị thần có nhiều thân.
KINH: Vô lượng chư thần vây quanh sau trước, ra khỏi đạo tràng dừng ở không trung trước mặt Thiện Tài dùng diệu âm thanh ca ngợi…
GIẢNG: Các Chư Thiên vây quanh Thiện Tài ca ngợi Ma Gia Phu Nhân là ngài có diệu sắc thân như huyễn như thế…, như thế…
KINH: Ma Gia Phu Nhơn từ bông tai phóng lưới quang minh vô lượng sắc tướng chiếu khắp vô biên thế giới mười phương, cho Thiện Tài thấy tất cả Chư Phật. Lưới quang minh đó hữu nhiễu thế gian giáp một vòng rồi xoay về chiếu đỉnh đầu Thiện Tài và vào khắp lỗ lông trên thân Thiện Tài. Liền đó Thiện Tài chứng được tịnh quang minh nhãn, vì lìa hẳn tất cả tối ngu si. Được ly ế nhãn…, được ly cấu nhãn…, được tịnh huệ nhãn…, được vô ngại quang nhãn…, được phổ chiếu nhãn…, được phổ kiến nhãn…
GIẢNG: Trong kinh, còn nói rất nhiều thứ nhãn, tôi chỉ đọc lược qua, đủ biết rằng ngoài đôi mắt thịt của chúng ta, còn rất nhiều thứ nhãn khác. Danh từ trong kinh đôi khi làm người đọc dễ bị loạn, nhưng tóm lại, tất cả những nhãn ấy đều gom lại trong những nhãn chính là thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn rồi cuối cùng là Phật nhãn.
Tôi xin tạm chấm dứt ở đây, xin hẹn quí vị lần sau…