NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

QUYỂN HAI

Chương ba

13 tháng 05 1990

Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ 108 về kinh I loa Nghiêm tại chùa này.

Chúng tôi xin thông báo với quí vị rằng: Ở trong ban Hoa Nghiêm này có hai vị, là ông Trị và Bà Dung- hai vợ chồng- đã được Hòa Thượng Tâm châu cắt tóc cho, để chờ đến cuối tháng sáu thì làm lễ thọ giới. Chúng tôi xin chúc hai vị được nhiều cơ duyên thuận tiện và nhiều sức tinh tấn trên đường tu học. Trước kia, ở trong ban Lăng Nghiêm, khi kết thúc ban kinh, cũng có hai vị xuất gia, ông Minh Chiếu và cụ Tịnh Quang. Tới nay, khi sắp kết thúc kinh Hoa nghiêm cũng có hai vị nảy tâm xuất gia. Chúng tôi cũng mong rằng sau này, khi chúng ta qua Đại Bát Nhã, đến khi kết thúc cũng sẽ có hai vị khác nữa nảy tâm xuất gia. Vì thực ra, sự xuất gia rất cần thiết, để vượt cửa ải dục giới mới có thể thênh thang đi trên con đường bồ tát đạo được. Trong nhà Phật, thường có ba môn học, đó là giới học, định họchuệ học. Giới học cốt vượt cửa ải dục giới, định học để vượt sắc giới, và huệ học là để vượt cõi vô sắc giới.

Lần trước chúng tôi đương giảng về vị thiện tri thức thứ 30, ngài Địa thần An Trụ. Nhưng trước khi đi vào kinh, tôi cũng xin trả lời mấy câu hỏi của một vị Phật tử ở đây, vì câu hỏi này cũng rất hay.

HỎI: Nếu trong khi tu tập mà mong cầu thần thông thì có lỗi lầm gì không? Mà chúng ta tu tập đến chừng nào thì xứng đáng được thần thông?

ĐÁP: Đạo Phật căn cứ trên trí huệ Bát Nhã, tâm đại từ bi và tâm vô sở cầu hạnh, nên một hành giả tu mà giữ tâm đúng mức thì không bao giờ mong cầu một điều gì vị kỷ mà chỉ mong cầu những cái tự tha vô ngại. Như mong cầu sang Cực Lạc để sau này có đủ sức trí huệ và đại bi để độ sanh, về vấn đề thần thông cũng vậy, thường thường một số người đọc kinh Phật mà chưa đọc kỹ, (nhất là chưa đọc kinh Đại Thừa), họ hay hiểu lầm về chuyện thần thông, nhưng phải hiểu, trong đạo Phật, khi một hành giả bắt đầu tu còn ở thấp thì khác, lên cao lại khác. Dưới thấp Đức Phật quở trách các vị đệ tử là không được phô trương thần thông, vì hành vi đó rất sai, chỉ giúp cho tâm ngã mạn dễ nổi lên. Nhưng lên cao, ngài lại nói khác, bằng cớ rằng trong kinh Hoa Nghiêm, chỉ toàn nói đến thần thông. Và Hoa Nghiêm dạy rằng, phải có thần thông mới độ sanh được, chúng tôi vẫn thường nói rằng, theo đạo Phật mọi cơ sự trong pháp giới đều vận hành theo con đường xoáy trôn ốc. Nên về thần thông, khi tâm một hành giả càng thanh tịnh bao nhiêu thì tự nhiên lại càng có nhiều thần thông bấy nhiêu, nhất là hành giả không gấp gáp, không mong cầu, tự nhiên thần thông sẽ đến. Ngược lại, nếu có tâm mong cầu thần thông để độ sanh, thì điều đó cũng là một điều tốt, nhưng đôi khi, hành giả lúc có thần thông rồi, thì cái tâm lại chuyển biến ra cách khác, lúc đó có thể sinh ngã mạn, thấy mình độ sanh được nhiều, chữa được bịnh, đuổi được quỉ, có được một chút biện tài thuyết pháp v.v… nên sanh tâm ngã mạn, hoặc sanh tà kiến, cho rằng ta là nhất và chư Phật chính là mình, hoặc cho rằng hành dục là phương tiện để đưa đến Niết Bàn v.v… Đó là hoàn toàn đi vào tà đạo. Ngược lợi, khi hành giả tu tập giữ được tấm vô ngã thì tự khắc vó thần thông, nếu tâm còn chấp ngã thì chưa nên có thần thông. Vì còn ngã thì cái ngã sẽ sai sử hành giả mong thần thông áp dụng vào những trường hợp vị kỷ, rồi càng ngày càng lệch lạc, cao thì làm Thiên Ma, thấp thì làm ma dân, (như trong kinh Lăng Nghiêm đã dạy).

Nên đừng tưởng rằng có thần thồng là một điều tốt, vì nếu không đủ phước đức trí huệ, thì thần thông đó đôi khi lại làm hại giới thần huệ mạng của mình. Thần thông như con dao hai lưỡi, nếu không sử dụng khéo cũng có thể làm hại mình như chơi.

HỎI: Trong thế gian này có nhiều đạo, mà đạo nào cũng khen đạo mình là chính đạo, gọi những đạo khác là ngoại đạo. Đạo Phật cũng thế, gọi kinh mình là nội kinh, là rốt ráo, là tột cao, còn tất cả nhưng đạo khác đều là ngoại đạo, chưa đến chỗ rốt ráo, tuyệt vời. Vậy thì, thế nào phân biệt được rằng đạo nào là đạo đưa đến chỗ rốt ráo?

ĐÁP: Ngày xưa tôi cũng thắc mắc tại sao đạo Phật lại tự nhận mình như thế, cho rằng các đạo khác đều là ngoại đạo và chưa đi đến một mức độ rốt ráo. Nhưng về sau, đọc kinh lâu, tôi thấy trong đạo Phật có những lý do rất chính đáng khiến cho chỉ riêng đạo Phật mới có thể tự nhận mình là chánh pháp, còn tất cả những đạo khác đều là ngoại pháp. Đạo Phật sỡ dĩ tự nhận mình ở đỉnh cao chót vót như đỉnh Tuyết Sơn là vì chân lý của các đạo khác chưa đạt đến mức tuyệt vời, mà chỉ riêng đạo Phật là có chân lý tuyệt vời, vậy tuyệt vời ở chỗ nào?

Thứ nhất là về giới. Nếu chúng ta giở lại những cuốn sách giới luật trong nhà Phật như luật tỳ ni, sa di ni, thì ta sẽ thấy việc giữ giới đến nơi đến chốn, trong khi ngoại đạo lại không bằng. Như có những trường hợp ngoại đạo cho uống rượu, cho nói dối, và có những trường hợp ngoại đạo cho ăn thịt, như có thể ăn cá, ăn trứng v.v… Còn đạo Phật thì không, theo đạo Phật không thể dùng thân mình làm mồ chôn chúng sanh, dù là chúng sanh nhỏ nhít đến đâu đi chăng nữa, nên giữ giới là phải rốt ráo. Như Ấn Độ giáo cho phép nói dối, trong trường hợp nguy hiểm đến tính mạng, có thể nói dối được. Đạo Phật thì không, ngay cả tính mạng cũng phải bỏ đi chứ không thể nói dối, vì đạo Phật dạy rất rõ, thân này chỉ là huyễn mộng mà thôi. Vì thế, đạo Phật rốt ráo ở chỗ đó. Thứ nhì là về những cơn tam muội. Vị giáo chủ nhập cơn tam muội càng sâu bao nhiêu thì càng có nhiều thứ “mắt” bấy nhiêu, nên mới nói giáo lý rốt ráo. Ấn Độ giáo đâu có nhiều tam muội, mà chỉ có hai thứ tam muội, một thứ tam muội có đối tượng, và một thứ tam muội không đối tượng-không đối tượng thì cao hơn, Ấn Độ giáo thường thường tu đến cơn định của cõi sắc, đến tầng trời Phạm Thiên, tầng trời Quang Âm v.v…, cao hơn nữa thì đến tầng trời cõi Vô Sắc, có thể vào được định gọi là Phi tưởng phi phi tướng xứ định, nhưng không thể lên cao hơn nữa. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói rõ rằng, đó chỉ là những cơn tam muội nông cạn, và hay khởi tâm đảo điên. Như một vị lu sĩ Ấn Độ giáo, ngồi thiền định khi vào đến tầng trời Phạm Thiên, thấy sung sướng quá, lại nhìn thấy ngài Phạm Thiên vương oai quang rực rỡ, hào quang chói lòa, đồng thời, thấy ngài có nhiều thần thông biến hóa nên khởi tâm đảo điên, cho rằng ngài là người sanh ra vũ trụ này, thì đó đạo Phật gọi là ý tưởng đảo điên. Còn những cơn tam muội của nhà Phật thì sao? Đó là những định rất sâu, lặn vào đáy tầng tâm thức, không những đến cõi sắc và cõi vô sắc, lên trên nữa, lọt vào thức ấm, vào nhiều cơn tam muội chánh niệm vô trụ. Vì vậy đạo Phật mới nói rằng các đạo khác chưa đi đến nơi, và gọi là ngoại đạo. Mà sở dĩ đức Phật ra đời ở Ấn Độ bên Tây Trúc, chính là vì nơi đó có rất nhiều ngoại đạo, đã vào được những cơn định rồi nhưng chưa được giải thoát, và hết phước báo ấy lại phải rơi xuống luân hồi, vì vậy Phật mới ra đời ở đó để chỉ cho ngoại đạo biết rằng, các ông chưa diệt hết tất cả những vọng tưởng nên chưa thể giải thoát. (Mà tất cả những đệ tử của đức Phật đều từ ngoại đạo mà ra). Điểm thứ ba, chính các nhà ngoại đạo cũng không hiểu, là chỉ có đạo Phật mới ra khỏi ba cõi, còn những đạo khác thì vẫn triền miên trong tầng trời cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, chưa giải thoát được. Vì vậy, trong kinh đức Phật nói rằng: ” Đạo của ta, giáo lý của ta đưa đến chỗ tốt lành và vĩnh cửu.” Còn đạo khác chỉ đưa lên được đến những từng trời thôi. Tầng trời đó có thể tồn tại khoảng mấy tỷ năm, nhưng vẫn còn trong vòng luân hồi. Đó là những điểm chính yếu khác biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác. Hiểu như vậy, ta có thể vui mừng vì đã có túc duyên gặp một giáo lý rốt ráo, cao siêu, nhưng đầy khó khăn, vì vậy nên chúng ta cần rất nhiều sự gia trì của chư Phật và chư Đại Bồ Tát. Nên sự xuất gia rất cần thiết để ra khỏi dục giới, và có thể bay bổng tuyệt vời được. Ở trong vô sắc (là cõi cao nhất trong dục giới) rất vui và an lạc, nhưng thường bị hai ám chướng, đó là nghi và mạn . Nghĩ rằng mình ghê gớm quá, nghĩ rằng mình đã đến bến rồi nên không thể đi tới được nữa, nên cần có trì huệ mới hiểu được giáo lý đại thừa, biết rằng đây chưa phải là bến mà còn phải đi thêm nữa .

Trong kinh Phật thường nói, đạo lý của ta là con dường dài xa khổ nhọc, phải người có căn cơ nhiều kiếp, cúng dường na do tha Phật rồi mới chịu khó mà đi, còn phần đông người thế gian, căn cơ thấp kém, chỉ thích đi những con đường ngắn, gần gũi mà thôi. Bằng cớ là, nhìn chung quanh, những đạo nào nói thiển cận nhất thì đạo đó có nhiều người theo, như đạo hồi chẳng hạn, cùng lắm là chỉ đến được thiên đường có cây cảnh, vườn tược rất đẹp, cũng có thiên nữ đứng chờ v.v… và đó chỉ đến tầng trời dục giới, chưa phải giải thoát.

Ở đây, tôi biết rằng có nhiều người thao thức, muốn dấn thân vào rừng đạo lý, nên tôi nói như vậy để quí vị phân biệt rõ khi đi qua Ấn Độ giáo cùng các tôn giáo khác thì đỡ bị lạc. Vì giáo lý của những tôn giáo ngoại đạo nói khá giống nhau, cùng là làm lành tránh dữ, nhưng mục đích và hướng đi có khác nên một người sơ cơ không thể phân biệt nổi.

Nay, xin đi vào kinh Hoa Nghiêm…

Có một vấn đề chúng ta cần phải nói rõ thêm là Thiện Tài là người xuất gia hay tại gia? vấn đề này cũng không quan trọng lắm, nhưng nhân thể đây có hai vị sắp xuất gia vì vậy nên tôi xin nói thêm ít điểm cho rõ.

Kinh Hoa Nghiêm là một bộ kinh lớn, ở mức độ cao, nên xuất gia hay tại gia không thành vấn đề nữa, vì vậy trong kinh không nói rõ Thiện Tài là người xuất gia hay tại gia. Người đọc có thể nghĩ Thiện Tài là người xuất gia, hay tại gia cũng được. Vì sao? Như chúng tôi đã nói nhiều lần ở đây, xuất gia rất cần thiết ở mức độ phàm phu, muốn ra khỏi cõi dục thì cần phải xuất gia. Còn như những cư sĩ tại gia, dù có tinh tấn cách mấy cũng chỉ có thể đạt được ba quả thánh đầu thôi, quả thánh thứ tư là quả A La Hán thì không thể đạt nổi, mà chỉ có những vị đã xuất gia mới đạt được. Hơn nữa, hàng xuất gia dễ ra khỏi dục giới hơn. Nhưng lên trên cao, thì không cần phải xuất gia hay tại gia, song lên đến mức độ tột cao thì trong kinh lại nói đến những người xuất gia. Như trong kinh Hoa Nghiêm, khi Thiện Tài đi qua 53 vị thiện tri thức, lúc đầu đi gặp ba ngài đầu: ngài Đức Vân, ngài Hải Vân và ngài Thiện Trụ, ba vị này trong kinh nói rõ đều là Tỳ Kheo cả.

Như vậy kinh muốn nói rằng, bước đầu tu tập cần phải xuất gia. Sau đến ngài thứ tư là ngài Giải Thoát Trưởng Giả, rồi đến ngài Di Già trưởng giả v.v… toàn là cư sĩ, sau đó đến vị thứ sáu mới trở lại là tỳ kheo, rồi từ đó trở đi tỳ kheo rất ít mà chỉ toàn là tại gia, cư sĩ, trưởng giả, Ưu bà di, Ưu bà tắc v.v… và cả ngoại đạo nữa mà không thấy vị nào xuất gia, hoặc là rất ít. Tám vị chủ dạ thần cùng các vị khác đều là … thần, đâu phải là người xuất gia. Hơn nữa, những vị trên cao, thường thọ sanh trên cõi trời sắc giới, mà trên đó làm gì có chùa, làm gì có tăng, các vị đó chỉ suốt ngày có ngồi thiền, đắm mình trong những cơn định an lạc, thỉnh thoảng các ngài cũng đi nghe pháp Phật thuyết pháp. Trong 53 vị chỉ có khoảng 10 vị là xuất gia, 40 vị còn lại không phải là tỳ kheo vì lên đến tầng mức tương đối cao lại không cần, nhưng đến cuối cùng, tới ngài Di Lặc, ngài Văn Thù v.v… thì các ngài lại là những vị xuất gia. cần nói rõ rằng, trần gian này thuộc cõi dục giới của Ma Vương, chúng ta đang sống trong thế giới của Ma Vương, chung quanh đều là những duyên, có rất ít duyên tốt, gặp bạn bè chỉ toàn thấy nói chuyện tiền nong, nhà cửa, danh vọng, ăn uống v.v… mà thôi.

Khi nào chúng ta còn thai sanh thì cần phải xuất gia, hóa sanh lại không cần lắm. Tất cả vấn đề xuất gia, giữ giới v.v… là vì cái thân bất tịnh này, nó ô trọc quá, rất khó chuyển.

HỎI: Cực Lạc có phải cõi trời sắc giới không?

ĐÁP: Không, trong kinh có nói rõ, Cực Lạc là một thế giới ra khỏi ba cõi. Người được vãng sanh Cực Lạc sẽ không bị luân hồi sanh tử mà vào ngay được ngôi “bất thối chuyển.”

HỎI: Nếu vậy thì chắc chắn không phải bị đầu thai lại làm người nữa hay sao?

ĐÁP: Chắc chắn! Trừ phi do nguyện lực, muốn trở lại cõi Ta Bà để độ sanh.

HỎI: Nếu vậy thì bao nhiêu nợ nần từ kiếp trước đến kiếp này ai trả thế cho mình?

ĐÁP: Các Chư Đại Bồ Tát, do nguyện, sẽ gánh và trả cho mình. Mà thật ra, chính những tội tánh đều là không cả. Nếu chúng ta còn chấp có, còn chấp cái thân này, còn tất cả những điên đảo tưởng thì còn tất cả tội. Nhưng đến khi nào tâm trở thành vô ngã, thấy rõ thân là huyễn mộng, thành không thì tất cả tội đều tiêu dung. Nhưng không phải như thế là mình quịt nợ đâu, vì sau này chúng ta sẽ độ những người chủ nợ đó. Trong kinh nói rất nhiều lần, Đức A Di Đà nói rằng:

“Cõi của ta vi diệu hơn các tầng trời rất nhiều.”

Nói theo kinh Lăng Nghiêm, cõi trần gian thuộc về sắc ấm, cõi trời dục giới và địa ngục ở thọ ấm, cõi trời sắc giới trở lên ở tưởng ấm, cõi trời vô sắc giới ở hành ấm, còn cõi Cực Lạc ở thức ấm. Vì vậy, sang đó có được thần thông ngay… Ông hỏi như vậy vì còn nghĩ rằng tội báo là có, nhưng thực ra, nó chẳng có, chẳng không, tùy theo sự bập bềnh của tâm thức mà hóa thành có, không mà thôi. Tới khi ông quán được cái không, đắc được “không tam muội” thì tất cả tội đều rơi rụng hết, đó gọi là “Vô sanh sám hối”

… Đừng nói đâu xa, ông chỉ cần đọc kinh Lăng Nghiêm cho thật kỹ, hiểu và giảng giải cho người khác nghe, thì tội tánh cũng được tiêu diệt rất nhiều. Đức Thật nói trong kinh Lăng Nghiêm rằng:

“Này A Nan, nếu có người nào khởi tâm mang giáo pháp này giảng dạy cho người khác nghe thì dù tội người đó chất đầy hư không, tội nặng đến độ phải đọa dịa ngục, đến kiếp hoại phải chuyển qua địa ngục khác cho đến khi thế giới thành lập lại rồi phải trở lại địa ngục này, mà nếu đọc tụng, biên chép, hiểu rõ nghĩa lý rồi giảng nói cho người khác nghe thì các tội đều dược chuyển thành nhân sang Cực Lạc.”

Nay, xin trở về phẩm Nhập pháp giới…

Chúng ta đã tới vị thiện trí thức thứ 30, là vị Địa Thần tên An Trụ. Muốn gặp ngài, Thiện Tài phải đi ngược đường trở lại Bồ Đề Đạo Tràng, tức là về phương Bắc. Trở về Bồ Đề Đạo Tràng tức là trở về cái tâm của mình, rồi gặp vị địa thần, tức là trở về cái nhân địa, cái tâm địa của mình. Vì vậy, sau khi Thiện Tài đi rất nhiều nơi, ngài lại phải trở về tâm ấy.

Lúc đầu mới đi, Thiện Tài vào được Tàng thức, nó vốn là tàng thức sơ năng biến có cả chân lẫn vọng. Sau khi đi dần dần qua hai mươi chín vị thiện tri thức, thì ngài đã lọc được gần hết cái vọng, bây giờ mới đi vào cái chân để đi đến “Bạch Tịnh Thức.” Vì vậy, mới có vị địa thần tên là An Trụ Bồ Đề Đạo Tràng. Vị thiện tri thức thứ 30 chỉ có nghĩa như vậy thôi. Đây là lần thứ nhất ngài trở về Bồ Đề Đạo Tràng, về chân tâm..

Lần thứ hai trở về, là để gặp ngài Phổ Hiền. Trở về Bồ Đề Đạo Tràng cũng có một nghĩa nữa là trở về cái căn bản trí của mình, còn trong khi đi thì ngài dùng cái hậu đắc trí. Căn bản trí là cái tâm linh minh sáng chói trong biển diệu tâm-là diệu tâm-nhưng cái tâm đó trải qua nhiều kiếp mình quên đi, nên sống kiếp chúng sanh chìm nổi trong sáu nẻo luân hồi. Đến một lúc nào đó, mình khởi tâm muốn trở về bến cũ của mình, tức về cái diệu tâm, về căn bản trí. Lúc đó gọi là thủy giác, bắt đầu hiểu đạo và muốn trở về bổn giác đó. Vì vậy, hậu đắc trí cũng gọi là thủy giác và căn bản trí gọi là bổn giác. Nó mang nhiều tên, tùy theo trường hợp để gọi, nhưng vẫn chỉ cho cái diệu tâm ấy thôi.

KINH: Thiện Tài qua nước Ma Kiệt Đề nơi Bồ Đề Đạo Tràng, chỗ của địa thần An Trụ cùng với trăm vạn Địa Thần, chư thần bảo nhau: Đồng tử đến kia chính là Phật tạng … Lúc đó An Trụ và trăm vạn địa thần phóng quanh minh lớn chiếu khắp cõi đại thiên. Làm khắp đại địa đồng thời chân động…

GIẢNG: Lúc này, sau khi Thiện Tài đi qua 29 vị thiện tri thức, đã đạt đến một mức độ đạo hạnh cao rồi, nên khi Thiện Tài vừa đến thì An Trụ địa thần cùng các vì địa thần khác phóng quang tiếp đón. Thường các vị tu hành cao khi phóng quang hay cất tay, nhấc chân đi qua, hay làm chấn động đại địa, (chấn động đây là chấn dộng trong tầng lớp sâu, chứ không phải trong tầng lớp thô kệch), nên chỉ có những vị nào vào định thì mới thấy chấn động đó.

KINH: …nơi nơi trang nghiêm với những bửu vật chói sáng lẫn nhau. Tất cả lá cây đồng thời sanh lớn, tất cả bông đồng thời đua nở, tất cả trái đồng thời chín, tất cả dòng nước chảy rót lẫn nhau, tất cả ao đầm đều đầy nước.

GIẢNG: Khi nào có một vị tu hành lớn đi qua, thiên nhiên hay có những triệu chứng cát tường đón chào như vậy. Hoa lá không phải mùa vẫn cứ nở, cây cỏ, trái cây đều đua nhau lúc lỉu trên cành. Nên ta thấy rõ rằng, tất cả chuyện mùa màng gặt hái, cây cối lớn sinh hoa, trổ lá v.v… đều là do các vị địa thần làm ra. Người có thể làm được đôi chút về việc trồng trọt, có thể thêm được hoa trái nhưng cũng chẳng nhiều được bao nhiêu, vì còn tùy vào phước đức của chính mình chiêu cảm nữa. Còn nếu có sức gia trì của các vị địa thần thì không cần phải làm nhiều, tự nhiên mưa thuận gió hòa, được mùa rất thuận tốt. Nên phải hiểu, tất cả những gì ta được trên thế gian này, chỉ có khoảng hai phần mười là do nhân lực tạo ra, còn lại tám phần mười đều là do phước đức cũ của mình mà có, và ta cũng thấy hiển nhiên, tại sao có những người làm rất khổ cực mà không kiếm được bao nhiêu, vì họ không có nhiều phước báo.

KINH: Trời mưa nước thơm rửa khắp mặt đất, gió thổi trải hoa khắp nơi. Vô số âm nhạc đồng thời trổi. Đồ trang nghiêm đều vang tiếng vi diệu. Những Ngưu vương, Tượng Vương, Sư Tử vương v.v… đều vui mừng nhảy nhót rống gầm, như núi to chạm nhau vang tiếng lớn… Trăm ngàn tạng báu tự nhiên hiện lên.

GIẢNG: Khi có một vị lớn đi qua, thiên nhiên và tất cả chúng hữu tình đều hớn hở vui mừng như vậy. Phước báu của chúng ta chỉ ở mức độ bình thường thì một nhà địa chất học phải đi kiếm mãi mới tìm ra được một mỏ vàng, mỏ bạc hay mỏ dầu. Nhưng nếu phước báu cao sâu hơn thì chẳng phải tìm kiếm gì cả, tự nhiên trăm ngàn tạng báu hiện lên.

KINH: An Trụ địa thần bảo Thiện Tài: Lành thay đồng tử, tại chỗ này ngươi đã từng gieo thiện căn. Ta vì ngươi mà hiện. Ngươi muốn thấy ta chăng?

GIẢNG: “Tại chỗ này ta vì ngươi mà hiện…” có hai nghĩa, đó là tại chỗ đất này. Nghĩa thứ hai là tại đây cũng chính là cái tâm của Thiện Tài, vì trong tâm Thiện Tài đã gieo trồng nhiều thiện căn nên bây giờ hiện lên nhiều tạng báu.

KINH: Thiện Tài liền đảnh lễ chân địa thần, hữu nhiễu vô số vòng chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức thánh, tôi muốn được thấy. Địa thần lấy chân ấn đất, trăm ngàn ức vô số bửu tạng tự nhiên trồi lên. Rồi bảo rằng: này thiện nam tử, những bửu tàng này theo ngươi luôn. Đây là quả báo do thiện căn thưở xưa của ngươi. Đây là phước lực của ngươi nhiếp thọ, ngươi nên tùy ý tự tại thọ dụng… Này thiện nam tử, ta được bồ tát giải thoát tên là “Bất khả hoại trí huệ tạng’…

GIẢNG: Ngài An Trụ địa thần cũng làm như ngài Chành Thụ bồ tát, “lấy chân ấn đất,” thì cũng như lấy tâm ấn tâm thôi, và trăm nghìn vô số bửu tạng tự nhiên trồi lên, vì những bửu tạng này đều do phước thiện căn quả báo ngày xưa của Thiện Tài. Vị thiện tri thức này muốn nói rằng: Thiện Tài đã trở về tâm địa của mình, vào tàng thức (vốn là cái bóng mờ của chân tâm) rồi lặn sâu để vào được đến chân tâm. Chân tâm là tạng trí huệ bất khả hoại.

KINH: Này thiện nam tử, trong thành Ca Tỳ La có chủ dạ thần tên là Bà San Bà Diễn Để…

GIẢNG: Thành Ca Tỳ La là nơi đức Phật Thích Ca đản sanh. Từ đây trở đi, chúng ta sẽ gặp luôn liên tiếp 8 vị chủ dạ thần, sau đó có khoảng mấy vị nữa, hoặc Chủ dạ thần, hoặc Lâm Thần, đều thị hiện làm nữ nhân cả. Chủ Dạ Thần là vì các vị này luôn luôn độ chúng sanh bằng cách thay đổi tiềm thức chúng sanh. Như Chủ Nhật Thần là Mặt Trời, cho chúng sanh sức nóng, thay đổi trên sắc ấm, là mức độ thô kệch nhất, còn những Chủ Dạ Thần thì độ chúng sanh trên phần tiềm thức, khiến tiềm thức tăng trưởng thiện căn mà chính chúng sanh không hề hay biết. Nên trong kinh hay nói: các ông sẽ được những phước báo mà chính các ông không biết vì tiềm thức các ông thay đổi. Như một người đọc kinh nhiều, thì những chủng tử của kinh rớt vào tiềm thức tích lũy lâu dần thành những thiện căn mà chính người đó không biết, đến khi nó nở rầm rộ ra thì chỉ biết kết quả ấy thôi, chứ không biết nguyên do rốt ráo vì đâu ra cả. Vị chủ dạ thần nữ đầu tiên là Bà San Bà Diễn Để. “Bà San Bà Diễn Để” theo tiếng Phạn có nghĩa là “mùa xuân.” Ngài Thiện Tài đi vào tâm địa, vào mùa xuân, mà mùa xuân thì các bông trái nở ra, như trong tâm thức nở ra nhiều thứ diệu đức, diệu lực.

KINH: Thiện Tài đảnh lễ chân địa thần, nhất tâm tư duy về lời dậy đó…

GIẢNG: “… tư duy về lời dạy ấy…” tức là tư duy về tâm địa của mình.

KINH: Đi lần đến thành Ca Tỳ La vào cửa Đông, Thiện Tài đứng chờ chẳng bao lâu kế trời tối…

GIẢNG: “…vào của Đông…” có nghĩa là phát khởi các nguồn ánh sáng của tâm, cũng như mặt trời mọc phương Đông, “…chờ chẳng bao lâu thì trời tối…” có nghĩa là tâm ngài vẫn còn những tập khí si ám. Ở đây, ý kinh nói Thiện Tài đã vào được tàng thức, đi sâu vào trong, gột rửa nhiều phần vọng, nhưng vẫn còn những tập khí vi tế .

KINH: Thiện Tài tâm niệm tùy thuận lời dạy của chư Bồ Tát, khát ngưỡng muốn được thấy Chủ Dạ Thần. Nơi thiện trí thức tưởng như Phật…

GIẢNG: Thiện Tài vừa tư duy, vừa nghĩ đến vị chủ dạ thần này.

KINH: Thiện Tài lại nghĩ rằng, nhờ thiện tri thức mà được phổ biến nhãn, thấy rõ cảnh giới mười phương…

GIẢNG: Quán chiếu để được “phổ biến nhãn,” nhìn thấy thiện tri thức.

KINH: Nhờ thiện tri thức mà được quảng đại giải thấu rõ tất cả cảnh sở duyên. Nhờ thiện tri thức mà được tam muội nhãn quan sát tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà được trí huệ nhãn soi sáng mười phương sát hải. Lúc suy nghĩ như vậy, Thiện Tài thấy trên hư không Dạ Thần ngồi trên tòa hương liên hoa tạng sư tử trong bửu lâu các. Thân màu chơn kim, mắt và tóc xanh biếc, hình mạo đoan nghiêm, những chuỗi ngọc báu dùng trang sức. Thân mặc y phục đỏ, đầu dội mão Phạm Thiên. Tất cả tinh tú hiện rõ trên thân…

GIẢNG: “Tất cả tinh tú hiện rõ trên thân,” là vị thần này thân rất lớn bao trùm nhiều khoảng hư không. Cũng như chúng ta ngồi đây, chỉ nhìn thấy vài cái cây ngoài kia, ngôi chùa này, và một chút hư không v.v…, nhưng chắc chắn, chúng ta đang ngồi trong thân của một vị thần linh nào đó, thân các ngài là cõi. Có thể đó là đức A Di Đà, cũng có thể là ngài Quán Âm Bồ Tát. Vì trăng, sao còn hiện trong thân các ngài mà. Khi chúng ta quán chiếu như thế đó lâu dần và thấy rằng “có thể tin được” thì lúc đó tâm thức của chúng ta đã tiến được đôi chút rồi, khi đó chúng ta sẽ cảm thây rất an lạc, dù có bị hoạn nạn gì cũng nghĩ rằng mình đang ở trong thân của các ngài. Nếu nghĩ được như thế thì cho dù có rơi xuống biển cũng không thể nào chết được, tự nhiên sẽ được thoát, hoặc cho dù có bị chết đi chăng nữa thì mất đi sắc thân thô kệch này ta cũng được một sắc thân khác tốt hơn ngàn lần. Cũng vậy, những con thi trùng ở trong thân ta mà chúng nó có biết gì đâu, cứ lổn ngổn bò trong thân ta, ăn uống, lăng xăng, lít xít. Nên cần nhớ rằng, cõi tức là thân, thân tức là cõi. Thân đức A Di Đà, thân ngài Quán Thế Âm là cõi, trong đó có vô lượng chúng sanh. Cũng vậy, thân của chúng ta là cõi đối với những con thi trùng trong người.

Thiện Tài quán một lúc lâu thì thấy hình ngài chủ Dạ Thần hiện trên hư không, thân bao trùm cả hư không, tinh tú hiện trong thân, đội mũ Phạm Thiên.

KINH: Mỗi lỗ lông trên thân của Dạ Thần đều hiện hóa độ vô lượng, vô số chúng sanh ác dạo, cho họ thoát khỏi thân hình hiểm nạn…

GIẢNG: Trong kinh nói rõ, các ngài thường độ các chúng sanh, nhưng sở dĩ chúng ta không cảm thấy gì là vì nhiều khi mức độ tâm thức chưa tương Ưng, chưa khởi lòng tin, thân chưa thanh tịnh đủ .

KINH: …lại trong mỗi lỗ lông thị hiện những phương tiện giáo hóa, hoặc hiện thân, hoặc thuyết pháp, hoặc thị hiện đạo Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa, bồ tát hạnh, bồ tát dũng mãnh, bồ tát tam muội, bồ tát tự tại, bồ tát trụ xứ, bồ tát quán sát, bồ tát sư tử tần thân, bồ tát giải thoát du hí…

GIẢNG: Trên lịch trình tu đạo của Thiện Tài, trước hết ngài chưa có nhãn lực mấy đỗi, nhưng dần dần nhãn lực nhãn lực của ngài lên mức độ ghê gớm được gọi là “trí vi tế” mà trong thập hồi hướng có nói, trí vi tế tức là pháp nhãn. Càng ngày, trí vi tế của ngài càng cao, lúc trước trong kinh không nói ngài nhìn thấy mỗi lổ lông, tới đây thì nói ngài nhìn thấy mỗi lỗ lông có cả một thế giới, trong ấy, hiện không biết bao nhiêu hóa thân để độ sanh. Dần dần về sau, ngài lại thấy trong mỗi vi trần có tất cả cõi Phật, tức là pháp nhãn của ngài ngày càng tăng tiến, nếu ta để ý, thì thấy rất rõ có một mức đi lên dần dần, sau cùng thì ngài vào hẳn lỗ lông của ngài Phổ Hiền đi trong đó mười hai năm rồi ngài mới “nhập pháp giới.” Trở về đoạn kinh này, Thiện Tài đang đứng nhìn ngài Chủ Dạ Thần thấy những lỗ lông biến hóa một cách thần kỳ.

KINH: Bạch đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề. Lòng tôi trông mong nương thiện tri thức để được công đức pháp tạng của Như Lai. Xin dạy cho tôi đạo nhất thiết trí, tôi đi trong đó đến bực thập lực.

GIẢNG: Chúng ta thấy rõ lúc trước Thiện Tài hỏi rất khiêm tốn, thường thường ngài hỏi “xin dạy tôi bồ tát đạo, tu bồ tát hạnh…” Nhưng đến đây, thì Thiện Tài nói “xin dạy tôi đạo nhất thiết trí,” để đi đến bực thập lực. Như vậy tâm Thiện Tài ngày càng mở rộng, nên câu hỏi ngày càng lớn.

KINH: Dạ Thần liền bảo Thiện Tài rằng, lành thay, lành thay, này thiện nam tử, ngươi có thể thâm tâm kính thiện tri thức, thích nghe lời dạy tu hành theo. Do tu hành nên quyết định sẽ được vô thượng bồ đề.

Nầy thiện nam tử, ta được môn giải thoát bồ tát pháp quang minh phá tất cả chúng sanh si ám.

GIẢNG: Ngài Dạ Thần này được môn giải thoát chỉ chuyên tác động vào tiềm thức chúng sanh, ngài hiện thân trên hư không, phóng quang minh chiếu vào tất cả chúng sanh để gột tất cả si ám trong tàng thức của họ (chứ không phải si ám trong ý thức). Phần nhiều các vị thần linh lớn độ sanh như vậy, tức là phóng quang minh, mỗi loại quang minh gột một thứ trần trược nào đó, chẳng hạn như gột sân, hoặc si, v.v… ở đây, Thiện Tài đã vượt qua mức tham dục rồi, sân cũng không còn nữa, mà ngay cái si thô cũng đã tiêu diệt, chỉ còn những si ám rất vi lố trong tàng thức, thì vị Dạ Thần này gột hết cho Thiện Tài.

KINH: Này thiện nam tử, ta ở nơi ác huệ chúng sanh, khởi tâm đại từ, nơi chúng sanh bất thiện khởi tâm đại bi, nơi chúng sanh làm lành khởi tâm đại hỉ.

GIẢNG: Khi ở nơi chúng sanh ác ngài khởi tâm đại từ, khi ở nơi chúng sanh bất thiện ngài khởi tâm đại bi. Còn nơi chúng sanh làm lành ngài khởi tâm đại hỉ, không cần phải dạy dỗ nữa mà ngài khởi tâm đại hỉ để cùng vui mừng…

KINH: Nơi chúng sanh đủ hai hạnh thiện ác khởi tâm bất nhị…

GIẢNG: Thường chúng sanh như chúng ta luôn luôn có đủ những tâm thiện và tâm ác, thì ngài khởi tâm bất nhị để dạy cho chúng ta giáo lý bình đẳng vô nhị. Vì sao? Vì thiện ác cũng là từ do cái tâm ấy khởi lên, mà vấn đề là chúng ta phải chuyển cái ác ấy sang thiện, rồi đi tới trạng thái Như Như Bất Nhị.

KINH: Này thiện nam tử, đêm tối yên lặng, lúc quỉ thần trộm cướp, các ác chúng sanh du hành, lúc mây kín sương dầy, gió to mưa lớn nhựt nguyệt tinh tú đều tối tăm, thấy có các chúng sanh hoặc vào biển, hoặc đi trong lục địa, nơi núi rừng hoang vu, những chỗ hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc lạc đường kinh hãi lo buồn không thể thoát được. Ta liền dùng nhiều phương tiện để cứu giúp họ.

GIẢNG: Ở đây cũng có hai nghĩa. Nghĩa đen là có những chúng sanh đi đêm có nhiều sự hiểm nạn thì ngài giúp cho. Còn nghĩa bóng là trong tâm thức các chúng sanh vẫn còn nhiều si ám, vì vậy trong tâm thức đen tối ấy như đêm dài sanh tử, có những niệm ác lởn vởn trong tâm thức chúng sanh thì ngài chiếu quang minh gột sạch những thứ ấy. Ngài dạ thần này chỉ dạy có vậy thôi.

KINH: Này thiện nam tử, nếu có chúng sanh ham tụ lạc, mến nhà của, thường chỗ tối tăm bị khổ, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ nhàm lìa để được đầy đủ pháp lành, an trụ chánh pháp. Nguyên tất cả chúng sanh đều chẳng tham mến tụ lạc lục trần, mau được thoát khỏi cảnh giới sanh tử, rốt ráo an trụ nơi thành nhất thiết trí.

GIẢNG: Trong đạo Phật, chữ “tụ lạc” quan trọng lắm. Tụ lạc cũng có hai nghĩa, nghĩa trong và nghĩa ngoài. Nghĩa ngoài chữ tụ lạc là nơi chốn đông người, đông dân cư. Nghĩa trong tụ lạc tức là các căn của mình. Như cái mắt có quang minh phóng qua, các hình ảnh của vật chiếu vào, qua lại, giao thoa tụ tập với nhau, thì gọi là tụ lạc. Trong đạo Phật cho rằng, tất cả mọi vật đều chỉ là sự kết hợp tụ tập hay ly tán thôi. Thân căn là một tụ lạc, gồm rất nhiều tế bào tụ lại, như một cái chợ trong thân mình, mà thật ra, tất cả mọi vật cũng đều thế cả, như cái bàn này, nó cũng là tụ lạc của nhiều tế bào của gỗ, bao nhiêu cực vi. chúng ta thử nghĩ xem, tuệ giác của nhà Phật thật cao siêu, vì không có một vật gì là đơn thuần cả, vật nào cũng là sự nhóm họp lại mà thôi. Nên suy sét cho kỹ, những gì chúng ta yêu nhất, như cái thân này chẳng hạn, chính nó chỉ là những tế bào nhóm họp lại, gồm lúc nhúc những thi trùng trong đó. Vì vậy, đạo Phật mới gọi là huyễn, vì khi hết duyên thì nó tan rã ra. Nên trong kinh có câu, “nguyện tất cả chúng sanh chẳng tham mến tụ lạc lục trần,” vì tụ lạc cũng chính là sáu căn của mình. Đó là nhận thức quan của đạo Phật, tức là dùng pháp nhãn, phân tách các thứ vật, vật nào cũng là những phức thể gồm vô số những hạt tử li ti, vì vậy nên nó mới là huyễn. Và đó gọi là trí huệ bát nhã.

HỎI: Thưa ông, đó là ông giảng nghĩa chữ “tụ lạc” trên bình diện sắc ấm, còn trên bình diện thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm thì sao?

ĐÁP: Cũng thế, cũng đều nhóm họp lại mà thành, có điều nó được dệt bằng những quang minh vi tế hơn, thì sự “nhóm họp” cũng vi tế hơn. Trong tưởng ấm, thọ ấm ngay cả đến hành ấm ấy, cũng có những nhóm họp li ti vi tế, nhưng với mắt thịt và vài ba cái ống nhòm của khoa học thì không thể nào thấy được, phải có thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn mới nhìn thấy. Mà những phần tử li ti vi tế đó nó vừa là hạt tử, vừa là sóng, vừa là tia chớp nháng (flash) phụt lên… Ngay đến hư không cũng vậy, đối với khoa học ngày nay, cứ tưởng rằng trong hư không không có gì cả, nhưng chính trong đó có vô lượng những hạt tử mà những vị có thiên nhãn mới thấy, lại còn có hư những loại chúng sanh sống trong ấy nữa. Nói cho rõ hơn, khoa học ngày nay, chỉ mới đến ranh giới giữa sắc và hư không thôi, chứ chưa hiểu không là cái gì?

KINH: Những chúng sanh không có trí nhãn bị che đậy bởi những kiến chấp điên đảo: vô thường tưởng là thường, vô lạc tưởng là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh…

GIẢNG: Trong đạo Phật có mấy loại tưởng điên đảo, chúng ta cũng cần nhớ. Trong kinh thường nói rằng chúng sanh bị bốn cái điên đảo tưởng che lòa, chẳng hạn như những gì vô thường thì ta tưởng là thường, đó là một điên đảo tưởng, như cái thân mình, nó rất vô thường, nếu nhìn theo pháp nhãn thì nó phụt lên từng tia chớp nháng một, mà từng tia chớp nháng đó vừa phụt lên lại bị diệt đi ngay, má chúng sanh cứ tưởng là thường, nên cả ngày cứ khởi tâm ưa thích, chăm sóc nó, làm đủ các điều bất thiện cũng vì nó, không hiểu được rằng, mang một sắc thân thai sanh này rất khổ. Lão Tử nói rằng: “Chúng ta có cái khổ lớn là vì có sắc thân này”. Mà thực vậy, nếu ngồi suy nghĩ kỹ thì thấy tất cả mọi sự khổ đều do sắc thân này mà ra cả, cứ phải đi làm cũng là để nuôi thân, sau phải lấy vợ, sinh con cũng vì cái thân này, rồi chạy theo danh vọng, làm đủ các chuyện cũng vì cái thân này v.v… Có thể nói chín mươi lăm phần trăm thời gian, (trừ thời gian ngủ) thì chúng ta chỉ lo đến sắc thân thôi, rất ít khi nghĩ đến tâm thức, hoặc bồi bổ tâm thức. Thân này như một ngọn nến, nó là sự “nhóm họp” của vô lượng vô số những flash phụt lên tạo thành một tổng tướng ảnh tượng là thân này, rồi lại tắt đi ngay, sau lại phụt lên một loạt gần y hệt như vậy, tương tợ tương tục, vì vậy chúng sanh mới tưởng là thường, tưởng rằng thân này có sự tồn tại hiện hữu riêng của nó. Tóm lại, thân này rất vô thường.

Thứ hai là vô lạc tưởng là lạc, như ăn một miếng ngon thì khoái chí lắm, nhưng chính cái đó không ngon gì, vì chư thiên nhìn xuống thấy ta sống trong ăn uống, sắc dục v.v… giống như những con dòi trong thùng phân vậy.

HỎI: Theo như những tôn giáo khác nói rằng có một linh hồn trường cửu là như thế nào?

ĐÁP: Nếu nhìn theo con mắt tuệ của Phật giáo thì cái đó không đúng. Vì sao? Vì cái gọi là “linh hồn” đó, nhưng đó chỉ là “một trường lực” diễn biến, và lúc nào cũng thay đổi tùy theo tâm niệm và nghiệp lực chúng sanh. Nó chính là tàng thức sơ năng biến. Nó hằng, nhưng không bất biến, vì luôn luôn chuyển từng sát na. Nếu lấy con mắt thô mà nhìn thì ta cho rằng cái đó là “linh hồn,” nhưng chính lúc nào nó cũng biến hiện. Vì vậy, tôi đã nói ở đây nhiều lần, đạo Phật hơn đạo khác là có ngũ nhãn, nhìn rõ được pháp giới này. Trong khi ngoại đạo tưởng rằng có một linh hồn bất biến, thì đạo Phật nhìn thấy sự biến hiện rõ rệt. Vì vậy các tôn giáo khác so với đạo Phật tương tự như có một rặng núi, phần đông ngọn núi đều cao nhưng chưa tuyệt vời cao, chỉ riêng ngọn Tuyết Sơn là cao nhất, giao hợp với mây trời tuyệt vời thôi. Nên chỉ có đạo Phật mới đưa con người đến sự giải thoát rốt ráo, còn những tôn giáo khác chỉ đưa tâm thức con người lên một mức nào thôi, thường là lên các từng trời cõi dục, cõi sắc và vô sắc. Không có một tôn giáo nào dám nói có vô lượng cõi chỉ riêng đạo Phật nói có vô lượng cõi mà thôi. Tùy theo nhãn lực.

HỎI: Kinh thì khó hiểu, như trong kinh nói đến núi Tu Di chẳng hạn, mà chúng ta thì hoàn toàn không ai có thể thấy núi Tu Di. Nên khởi lòng tin rất khó, chưa kể các ngài lại nói đến nhiều cõi khác nữa. Tôi trộm nghĩ, chắc kinh chỉ để dành cho những vị phải có thiên nhãn mới lãnh hội được chăng?

ĐÁP: Núi Tu Di thuộc về thọ ấm. Ở đây tôi cũng xin nhắc với quí vị một điều, kinh là gần như nói ít đến cảnh giới của thế gian, còn toàn nói cảnh giới của thiên nhãn và pháp nhãn, như Hoa Nghiêm là cảnh giới của pháp nhãn. Vì thế mới khó tin, khó hiểu, khó vào. Nên đức Christ bên công giáo nói rằng: “Sung sướng thay cho kẻ nào không thấy mà tin.” Vì vậy cái tín tâm để đi vào đạo rất cần thiết, vì khởi được lòng tin mới có thể đi vào cảnh giới trùng trùng của pháp giới này.

Bây giờ xin trở lại kinh…

Bốn điên đảo tưởng nói trên khiến trong đạo Phật nói bốn pháp ấn là: các pháp đều là khổ, không, vô thường, vô ngã để trị bốn điên đảo tưởng của chúng sanh.

KINH: Bạch đức thánh, ngài phát tâm vô thượng bồ đề được bao lâu? Được môn giải thoát này hồi nào mà có thể lợi ích chúng sanh như vậy?

GIẢNG: Lúc nào cũng vậy, các ngài thường kể những kiếp từ thời xa xưa quá khứ của ngài cho Thiện Tài nghe, như vị chủ dạ thần này thì một kiếp làm một vị phu nhân, đang đêm đương ngủ có một vị chủ dạ thần đánh thức bà dậy, bằng cách động chuỗi ngọc, hoặc phóng quang minh, nói rằng có một bậc Như Lai đang thành chánh Đẳng Chánh Giác. Nên ngài vì cơ duyên đó mà tu hành nên được giải thoát môn này. Mà pháp môn của ngài chỉ cốt gột những si ám của chúng sanh. Giảng nghĩa thì có vậy thôi, nhưng trong kinh ngài kể nhiều chi tiết hơn. ở đây, ta nên hiểu qua về quan niệm thời gian của nhà Phật. Theo như trong kinh nói, vị nào cũng tu trong vô lượng kiếp, nhưng trong vô lượng kiếp ấy thì tùy theo tâm người tu mà thấy nó lâu hay mau. Như chúng ta là những người phàm phu, thô trọc, tâm thức chỉ đến thế thôi, thì ta sẽ thấy sự tu hành của các ngài là vô lượng kiếp, nhưng đối với các vị tu cao, thì “vô lượng kiếp” đó chỉ thu lại là một khoảng khắc mà thôi. Như chúng ta chạy tỵ nạn sang Mỹ mười mấy năm, đôi khi ngồi nghĩ lại những chuyện xảy ra trong mười mấy năm, có cảm giác như một cơn gió thoảng. Như vậy trong đạo Phật, thời gian là một sự tùy tâm biến hóa, là một vọng tưởng tùy theo tâm chúng sanh mà thành dài lê thê hay chỉ thoảng qua chóng vánh. Như một vị tu thiền vào định vài ngày, thấy thời gian qua như một khảy móng tay.

KINH: Này thiện nam tử, trong bồ đề đạo tràng đây có một chủ dạ thần tên là Phổ Đức Tịnh Quang. Ta vốn từ thần đó phát tâm vô thượng bồ dề, thường dùng diệu pháp khai ngộ cho ta…

…Thiện Tài đến chỗ dạ thần Phổ Đức Tịnh Quang, đảnh lễ nơi chân, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng, Bạch đức thánh, tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề mà chưa biết bồ tát thế nào tu bồ tát địa, thế nào xuất sanh bồ tát địa, thế nào thành tựu bồ tát địa.

GIẢNG: Ở đây Thiện Tài không dùng chữ “hạnh” nữa mà ngài dùng chữ “địa,” tức là tâm địa. Vậy thì cái hạnh khác với cái địa ra sao? Là khi một hành giả viên dung những hạnh đó thì bắt đầu đi vào địa. Nên từ đây trở đi, Thiện Tài bắt đầu đi vào thập địa, tức là mười bậc tu chứng của bồ tát trước khi vào đẳng giác và diệu giác.

KINH: Lành thay, lành thay thiện nam tử, đã có thể phát tâm vô thượng bồ đề. Nay lại hỏi tu hành xuất sanh và thành tựu bồ tát địa. Này thiện nam tử, bồ tát thành tựu mười pháp thời có thể viên mãn bồ tát hạnh. Một là được thanh tịnh thường thấy chư Phật, hai là được thanh tinh nhãn thường xem tướng hảo trang nghiêm của chư Phật, ba là biết tất cả Như Lai vô lượng vô biên công đức đại hải, bốn là biết vô lượng phật pháp quang minh hải khắp pháp giới, năm là biết tất cả Như Lai, mỗi mỗi lỗ lông phóng dại quang minh hải đồng số chúng sanh lợi ích tất cả chúng sanh, sáu là thấy tất cả Như Lai mỗi mỗi lỗ lông phóng ra quang minh diệm hải đủ tất cả bửu sắc, bảy là trong mỗi niệm xuất hiện tất cả Phật biến hóa hải đầy khắp pháp giới, rốt ráo tất cả cảnh giới chư Phật điều phục chúng sanh, tám là được Phật âm thanh đồng tất cả chúng sanh ngôn âm hải, chuyển pháp luân tam thế Phật, chín là biết tất cả Phật vô biên, danh hiệu hải, mười là biết tất cả Phật bất tư nghi tự tại lực điều phục chúng sanh…

GIẢNG: Đại khái vẫn là quang minh biến hóa tràn đầy thế gian, vì đạo Phật cũng quanh đi quẩn lại là như vậy, nhưng càng lên cao càng bất tư nghì, càng vi diệu biến hóa.

KINH: Này thiện nam tử, ta được bồ tát giải thoát tên là “tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ'” thấy khắp tất cả chư Phật tam thế…

GIẢNG: Môn giải thoát “tịch tinh thiền định lạc phổ du bộ” lạc là vui mừng, phổ là khắp tất cả, du là đi, bộ là bộ, cũng giống như “nhất thiết xứ tam muội” nhưng mỗi chỗ có sự cao thấp khác nhau, nên danh tự nó cũng có khác biệt. Ngài vào thiền định đó, ngài hóa thân đi khắp các nơi, trong khi đi hóa thân để độ sanh, thì trong tâm ngài sinh hỷ lạc.

KINH: Thấy tất cả chư Phật tam thế…

GIẢNG: Ở chữ “tam thế” tôi đã nói mấy lần rồi là nói về thời gian ba đời, quá khứ, hiện tại, và vị lai. Chúng ta thường nghĩ rằng thời gian trôi qua vun vút, nhưng trong đạo Phật nói hành giả tu đến một mức độ nào đó có thể nhìn thấy ba đời bình đẳng, tam thế hiện tiền ngay trước mắt, và tam thế đi theo đường vòng trôn ốc. Chứng cớ trong kinh Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền đọc một bài kệ về thời gian thật hay, cuối phẩm thứ 37:

Vị lai trong quá khứ,
Hiện tại trong vị lai,
Tam thế lẫn thấy nhau
Biên tế bất khả đắc…

Mới đọc bài kệ này thì ai cũng ngẩn ra, nhưng suy nghĩ lâu thấy thật là đúng. Người tu hành cao sẽ thấy rõ như nhìn bàn tay mình. Cũng như, tôi vẫn thường lấy ví dụ rằng, chúng ta ngồi trong một nhà tù lớn là cái thân này, đôi mắt là một kẽ hở nhìn ra pháp giới, bỗng dưng có một cái hoa đi qua kẽ hở ấy, khi nó đi qua rồi vì vướng cái tường nên ta không còn trông thấy nó nữa, lúc đó ta cho rằng nó đã vào quá khứ rồi. Nhưng nếu một vị có thiên nhãn nhìn, họ vẫn thấy cái hoa ấy, thì như vậy cái hoa đối với họ vẫn là hiện tại, sự hiện hữu của nó như trôi lâu hơn. Ngoài ra, cái hoa đó theo ý thức phân biệt của chúng sanh cứ tương rằng nó trôi theo giòng thời gian, và giòng thời gian trôi theo một đường thẳng rồi mất hút. Nhưng chính thật không phải, vì theo chiều thời gian chảy, được tạo bằng chính tâm thức của chúng sanh, và chiều chảy của tâm thức chúng sanh chạy theo chiều nghiệp lực, mà chiều nghiệp lực thì cũng như mọi vật phải chạy theo đường vòng trôn ốc. Trở về thí dụ của cái hoa, theo mắt thịt chúng ta, thì ta thấy nó đi vào quá khứ, trên phương diện sắc ấm nó sẽ rã thành bụi tan vào thức luân, rồi trở thành một chủng tử trong tàng thức, chủng tử ấy, đến một giai đoạn nào đó sẽ hiện hành nở ra thành một cái hoa khác. Vì vậy khi “vị lai trong quả khứ” là nghĩa thế, do đó mới có nhân quả nghiệp báo. Nếu quá khứ đi thẳng tuột, thì không thể có nhân quả nghiệp báo được. Đạo Phật xây dựng trên nhân quả, nghiệp báo, nên quá khứ phải trở lại, trở lại dưới một hình thức khác, hoặc tốt hơn, hoặc xâu hơn, hoặc rất lộng lẫy, hoặc rất đen tối. Krishnamurti cũng nói rằng “thời gian là sản phẩm của tâm tưởng.” Đó là sơ lược như vậy, muốn hiểu kỹ, cần phải có sự suy tư của chính mình. Vì thật ra, người giảng chỉ có thể nói trên một mặt phiến diện, dùng một thứ ngôn từ hữu hạn để nói về một vấn đề liễu nghĩa, nên không thể nói được hết, phải thêm vào sự suy tư của người nghe thì may ra mới hiểu được đôi phần.

Trong đạo Phật khẳng định rõ rằng, người tu đến một mức độ nào sẽ nhìn thấy tam thế bình đẳng, ba đời như trước mắt, nhìn thấy tất cả Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.

KINH: … cũng thấy Chư Phật: quốc độ thanh tịnh, đạo tràng, chúng hội, thần thông, danh hiệu, thuyết pháp, thọ mạng ngôn âm, thân tướng nhiều loại chẳng đồng, thảy đều thấy rõ mà không chấp lấy. Tại sao vậy? Vì biết Như Lai chẳng phải đi, vì đã diệt hẳn thời gian, không gian. Vì biết đức Như Lai chẳng thể đến vì thể tánh vô sanh. Đức Như Lai chẳng phải sanh, vì pháp thân bình đẳng. Đức Như Lai chẳng phải diệt vì không có tướng sanh. Đức Như Lai chẳng phải thiệt, vì an trụ pháp như huyễn. Đức Như Lai chẳng phải vọng vì lợi ích chúng sanh. Đức Như Lai chẳng phải rời đổi vì vượt khỏi sanh tử. Đức Như Lai chẳng phải hư hoại vì tánh thường chẳng biến đổi. Đức Như Lai một tướng vì đều rời ngôn ngữ. Đức Như Lai vô tướng vì tánh tướng vốn không…

GIẢNG: Ở đoạn kinh này có thể tóm lược rằng, đức Như Lai không phải đến, không phải đi vì là tâm biến hiện. Trong đoạn kinh này, cũng giống như trong bài kệ của ngài Long Thọ về bát bất.

Chẳng phải sanh, chẳng phải diệt.
Chẳng phải đoạn, chẳng phải thường
Chẳng phải khứ, chẳng phải lai,
Chẳng phải đồng, chẳng phải dị…

Trong tất cả lịch trình đi của Thiện Tài, dần dần ngài phải đi đến chỗ giáo lý bình đẳng vô nhị và giáo lý như huyễn

KINH: Phổ Đức Tịnh Quang Dạ Thần muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

Nếu có lòng tin hiểu,
Thấy hết tam thế Phật,
Người này mắt thanh tịnh,
Vào được biển Chư Phật.

Thân Phật bất tư nghi,
Pháp giới đều sung mãn,
Hiện khắp tất cả cõi,
Tất cả đều thấy rõ…

Như Lai một lỗ lông
Phóng bất tư nghi quang,
Chiếu khắp các quần sanh
Cho họ diệt phiền não
Như Lai một lỗ lông,
Xuất sanh vô tận hóa
Đầy khắp cả pháp giới
Diệt trừ khổ chúng sanh

Gần đây có Dạ Thần,
Tên Hỷ Mục Quán Sát
Ngươi nên đến đó hỏi
Học tu bồ tát hạnh…

GIẢNG: Sau khi ngài Phổ Đức Tịnh Quang nói kệ xong, liền giới thiệu cho Thiện Tài đến một vị Dạ Thần khác, cũng ở Bồ Đề Đạo Tràng là Hỷ Mục Dạ Thần. Đó là một vị dạ thần có thân rất lớn, bao trùm khắp hư không, mà luôn dùng đôi mắt hoan hỷ để nhìn chúng sanh.

KINH: Lúc đó Thiện Tài liền phát ý nghĩ rằng, do thân cận thiện tri thức mà có thể dũng mãnh siêng tu nhất thiết trí đạo. Do thân cận thiện tri thức mà có thể mau xuất sanh những đại nguyện. Do thân cận thiện tri thức mà có thể vì chúng sanh thọ vô biên khổ tận kiếp vị lai…

GIẢNG: Trong kinh thỉnh thoảng lại nhắc đi, nhắc lại vai trò rất cần thiết của thiện tri thức…

KINH: Sau khi phát ý nghĩ như vậy, Thiện Tài đến chỗ Dạ Thần Hỷ Mục. Thấy Dạ Thần này ở trong chúng hội đạo tràng của Đức Như Lai, ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, nhập đại thế lực phổ hỷ tràng giải thoát…

GIẢNG: Ở đây kinh tả về trạng thái tâm thức hỷ, lạc của các vị cao vào địa, ngài nhập vào tam muội hoan hỷ có lực phổ biến khắp nơi để độ sanh.

KINH: Ở trên thân của dạ thần, mỗi lỗ lông phát ra vô lượng thân biến hóa,… nhiếp khắp tất cả chúng sanh đều làm cho họ hoan hỷ được lợi ích. Như là hiện ra vô lượng hóa thân sung mãn tất cả thế giới mười phương…, hiện ra vô lượng hóa thân bằng số chúng sanh đầy khắp pháp giới…, lại hiện ra vô lượng thân bằng số chúng sanh diễn nói nhẫn thọ được tất cả sự khổ… Lại hiện ra vô lượng thân, dùng nhiều phương tiện làm cho các chúng sanh có lòng hoan hỷ bỏ ác niệm, nhàm dục lạc…

GIẢNG: Ngài hóa hiện thân vô lượng vì chúng sanh tùy nghi thuyết pháp, khi thì diễn nói đàn ba la mật, tức là nói bố thí, rồi trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn v.v… Rồi ngài lại hiện thân phương tiện để khiến chúng sanh sanh lòng hoan hỷ mà bỏ những ác niệm, và khi được những hỷ lạc thanh cao, chúng sanh sẽ chán những dục lạc thô ở dưới…

KINH: … diễn nói sự hổ thẹn cho chúng sanh che dấu các căn…

GIẢNG: Ngài giảng rằng chúng ta có thân thô kệch, xấu xí, có chín khiếu chảy hôi, thì nên che dấu đi. Trong kinh Hiền Ngu có kể một người tối cởi trần đi ngủ, đến đêm có đám cháy, sắp chết cháy nhưng ông ta cũng cố kiếm lấy quần áo để mặc che thân, chỉ riêng cái cử chỉ tàm quý hổ thẹn đó mà sau khi chết được sinh thiên. Vì những căn bất tịnh này là những sanh tử huyền môn, đưa chúng ta trôi lăn vào sanh tử, ta phải khởi tâm hổ thẹn mới được. Chỉ có súc sanh mới phô trương các căn bất tịnh ấy thôi, còn các thần linh, chư thiên không bao giờ phô trương ra cả, cũng không bao giờ nói đến những thứ ấy, còn loài người chúng ta, đứng ở chặng giữa, nên đôi khi có tư tưởng thần linh, nhưng nhiều khi hay có tâm niệm súc sanh.

KINH: Diễn nói phạm hạnh thanh tịnh vô thượng, diễn nói dục giới là cảnh của Ma cho họ kinh sợ…

GIẢNG: Chúng ta sống trong dục giới này cứ nghĩ rằng mình ghê gớm lắm, chứ đâu ngờ rằng tất cả cảnh giới này đều là của Ma Vương, và hầu hết các tâm niệm chúng ta khởi lên đều là tâm niệm ma, vì tâm niệm nào cũng là tham, sân, si, đấu tranh, tật đố, chấp ngã v.v… mà rất ít khi có tâm niệm hào hiệp, vị tha, quảng đại, từ bi… Vì chúng ta luôn có tâm niệm của ma nên cũng là quyến thuộc của ma, chung quanh toàn tụi ma đến cả. Khi tâm niệm tham, sân, si của chúng ta lớn lên đến một mức độ nào đó, tương Ưng với bên ngoài thì lúc đó sẽ chiêu dụ những ngoại ma đến. Như một hành giả khi khởi tâm ngã mạn cao, nghĩ rằng mình là đạo sư giỏi, hay khi khởi tâm niệm tham dục cuồng điên thì ngoại ma dễ dàng nhập vào người ấy. Như trong Khổng Giáo nói, trong nhà có người quân tử thì ngoài cửa có người quân tử đến, nhưng nếu trong nhà có kẻ tiểu nhân thì ngoài cửa kẻ tiểu nhân cũng đến ngay. Cũng vậy, trong chúng ta có tham, sân, si, dục khởi lên mạnh mẽ, thì chiêu cảm ngay bên ngoài, một là sẽ gặp người tương ưng cùng tham dục với mình để hành lạc, hoặc sẽ bị thiên ma nhập vào mình. Đó là lẽ chiêu cảm tương ưng chứ không có gì khác hết.

Nhiều khi chúng ta cứ nghĩ rằng ta là người chứ đâu phải ma, nhưng tâm niệm của chúng ta thường là tâm niệm của ma, hoặc súc sanh, ít có tâm niệm thần linh. Vì vậy, nên khi ta chịu khó suy tư về kinh nhiều, ta sẽ bớt tâm niệm yêu quái, súc sanh, và có những tâm niệm của thần linh.

HỎI: Trong kinh thánh bên Thiên chúa giáo, thuở khai thiên lập địa, lúc mới có Adam và Eva, thì đồng thời có hai cây là cây sống Đời và cây Tri Thức. Sau đó, con rắn súi bà Eva ăn trái Tri Thức, rồi hai người mới hoát nhiên thấy mình lõa thể. Vậy thì trước, đó họ không biết sao? Như vậy trạng thái tâm thức trước đó của họ thế nào, mà họ không biết?

ĐÁP: Trạng thái tâm thức trước đó là sự trong trắng ngây thơ, vượt lên trên thiện ác. Thiên đường của họ là tầng trời sắc giới, thân của họ được dệt bằng thân hào quang của tưởng ấm, nên chưa có ý niệm về nam, nữ, cũng chưa có ý niệm về cái gọi là “tổ tông truyền,” về vấn đề tham dục, nên chưa thấy hổ thẹn. Đến khi họ ăn cây tri thức thì lúc đó mới bắt đầu có ý niệm phân biệt nam, nữ, và trong người nữ có sự nuối tiếc người nam, ngược lại, trong người nam cũng có sự nuối tiếc người nữ nên bấy giờ mới có tội tổ tông truyền. Cũng như đạo Phật kể rằng lúc trái đất mới nguội, chưa có người ở, vào chu kỳ đó, loài người chưa phải thai sanh mà là hóa sanh… Nên lúc đó, có những vị trời Quang Âm, vì phước báo hết nên bị tụt xuống, hóa sanh, làm loài người ở nhân gian. Lúc các ngài mới xuống, tuy gọi là phước báo kém, nhưng vẫn còn thần thông, thân thể còn hào quang sáng chói, bay đi bay lại tự tại, không cần phải cầy cấy gì mà chỉ ăn “địa bì,” tức là cái vỏ ngoài của trái đất, tuy gọi là địa bì nhưng chắc ngon ngọt còn hơn phô mát của mình nữa. Song ăn địa bì ấy lâu ngày, thân thể nặng dần, khó bay lên hơn và lúc bấy giờ mới khởi lòng dục, phân dần thành nam nữ. Vì vậy cần hiểu rằng, đạo Phật đi theo chu kỳ tuần hoàn, từ khởi nguyên có thời kỳ chưa phân nam, nữ. Sau dần kém đi phân thành nam nữ,( như thời kỳ này), rồi dần dần lên cao lại không phân nam nữ, như ở cõi Sắc và bên Cực Lạc. Diễn tiến của mọi loài là như vậy, khởi nguyên thì không phân nam nữ, rồi xuống thấp có sự phân biệt và đủ những vọng tình vọng tưởng thì phân nam nữ, sau lại tiến lên cao hơn, có định huệ thì… lại không phân nam nữ nữa. Vì vậy, đạo phật có thể giải thích được các hiện tượng thác loạn như việc “đồng tình luyến ái.” Vì trước kia là một thực thể không phân biệt nam nữ, (androgyne), sau vì cộng nghiệp tham dục nên phân ra thành nam, nữ, nhưng trong lúc phân cũng có những trường hợp “biến dạng” phần ra hai nam, hoặc hai nữ, và qua nhiều kiếp vẫn có những sự nuối tiếc thực thể uyên nguyên, nên mới có chuyện đồng tình luyến ái. Còn có những trường hợp vẫn phân ra, nhưng nó lại mang hai tính chất, vừa thích nữ, cũng vừa thích nam, thì sẽ sinh ra hiện tượng “bisexsual.”

HỎI: Nhưng trường hợp ấy tại sao bây giờ mới phát hiện, trước kia tại sao không thấy?

ĐÁP: Trước kia cũng có nhưng nó không công khai, vì thời Hy Lạp, những danh nhân Hy Lạp nổi tiếng đều là “lại cái” cả, dân Đức cũng bị lại cái nhiều, nhưng cũng lạ, phần nhiều đều là người tài giỏi. Nên vấn đề sex rất phức tạp, nó là một loại theo như danh từ duy thức học gọi là “dị sanh tánh,” mà thật ra, trong pháp giới này cái gì cũng phức tạp, tùy tâm niệm chúng sanh khởi lên thế nào thì nó kết lại như thế. Vì vậy nên pháp giới mới trùng trùng, chúng sanh mới vô lượng, mới có thể sinh ra nhiều loài chúng sanh dị tánh…

Nay xin trở về kinh…

KINH: Thiện Tài đồng tử thấy nghe tất cả sự hy hữu đã hiển hiện đó, liền quan sát tư duy hiểu rõ và thâm nhập an trụ trong đó, nương các oai lực của Phật và sức giải thoát nên được bồ tát bất tư nghi đại thế lực, phổ hỷ tràng tự tại lực giải thoát.

GIẢNG: Thiện Tài gặp vị Dạ Thần này thì đắc ngay được “Phổ hỷ tràng giải thoát môn.” Liền sau đó, Thiện Tài hoan hỷ nói bài kệ tán thán:

KINH:

Vô lượng vô số kiếp
Học Phật pháp thậm thâm
Tùy chỗ nên hóa độ
Hiển hiện diệu sắc thân…

GIẢNG: Thiện Tài nói một bài kệ khá dài, đại khái tán thán công đức bất tư nghi của ngài Dạ Thần này và hỏi rằng ngài đã phát tâm vô thượng bồ đề được bao lâu, thì ngài chủ Dạ Thần này cũng kể nhiều kiếp đã từng cúng dường bao nhiêu đức Phật, và nói kệ rằng:

KINH:

Tất cả Chư Phật ấy,
Ta đều cúng dường đủ
Vẫn còn trong các pháp
Không mà cho là có (nghĩa là còn kém)

Chư Phật Như Lai đó
Ta đều thường cúng dường
Chưa được thanh tịnh nhãn
Thâm nhập biển phật pháp

Ta nguyện như mười phương
Tất cả đấng thập lực
Duyên Phật và chúng sanh
Phát khởi những đại nguyện
Từ đó tu công đức
Xu nhập phương tiện đạo

Lúc đó ta được nhập
Đạo Phổ Hiền bồ tát
Biết rõ mười pháp giới
Tất cả môn sai biệt…

GIẢNG: Trong kệ, ngài nói qua rất nhiều kiếp tu hành và cúng dường chư Phật, cuối cùng ngài nhập vào đạo Phổ Hiền bồ tát, các ngài nói rất hay, mà công đức tán thán rất ghê gớm. Ở đây tôi chỉ xin đọc lược, quí vị nào có thì giờ về xem kỹ sẽ thấy rất thích thú.

KINH: Này thiện nam tử, trong chúng hội đây có một Dạ Thần tên là Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Đức…

Thiện Tài được nghe Phổ Hỷ Tràng Giải Thoát Môn, thời tin hiểu xu nhập, biết rõ tùy thuận tư duy tu tập…

Phát nguyện như vậy rồi, Thiện Tài đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Đức. Dạ thần này vì Thiện Tài mà thị hiện bồ tát điều phục chúng sanh giải thoát thần lực, dùng những tướng hảo trang nghiêm thân mình. Giữa chăng mày phóng đại quang minh tên là Trí Đăng Phổ Chiếu Thanh Tịnh Tràng, có vô lượng quang minh làm quyến thuộc. Quang minh này chiếu khắp tất cả thế gian, rồi xoay về chiếu vào đảnh đầu Thiện Tài sung mãn cả thân. Liền dó Thiện Tài được cứu cánh thanh tịnh luân tam muội.

GIẢNG: Từ trước tôi đã nói rằng pháp nhãn của Thiện Tài dần dần mở lớn, trước chỉ trông thấy các hình tướng thần lực thôi, thấy những hóa thân v.v… Bây giờ ngài nhìn thấy từng lỗ lông một, trong lỗ lông có rất nhiều hóa thân. Và đến vị chủ dạ thần này, thì trí nhãn của Thiện Tài lại mở hơn nữa.

KINH: Được tam muội này rồi, Thiện Tài thấy khoảng giữa chỗ hai Dạ Thần có tất cả những địa trần, thủy trần, hỏa trần, vi trần của những châu báu kim cang Ma Ni, những vi trần của tất cả hoa hương anh lạc đồ trang sức. Trong mỗi vi trần đều thấy phật sát vi trần sế thế giới thành hoại, và thấy những khối lớn của địa, thủy, hỏa, phong. Cũng thấy tất cả thế giới tiếp liên đều dùng địa luân nhiệm trì mà an trụ. Cũng thấy tất cả những núi, biển, sông, ao, cây rừng, cung điện của chư thiên, Long, Bát bộ, nhơn, phi nhơn, cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhẫn đến các loài luân chuyển sanh tử qua lại theo nghiệp thọ báo, mọi thứ sai khác đều thấy cả…

GIẢNG: Kinh tả, khi Thiện Tài có được tam muội ấy rồi thì nhìn được những sự vi tế hơn, từ khoảng cách từ dạ thần này đến dạ thần khác có bao nhiêu vi trần đất thì trong mỗi vi trần đều thấy phật sát vi trần số thế giới thành hoại, trong vi trần đều thây tất cả các tinh hà, thấy các chư Phật thành hoại, và còn thấy những khối lớn của địa, thủy, hỏa, phong v.v… đến đây Thiện Tài có được pháp nhãn khá rộng lớn rồi, nhưng vẫn còn giới hạn trong khoảng từ dạ thần này đến dạ thần nọ mà thôi, chứ chưa nhìn được khắp tất cả pháp giới.

KINH: Lại thấy tất cả thế giới sai biệt: những thế giới tạp uế, những thế giới thanh tịnh, những thế giới hướng về tạp uế, những thế giới hướng về thanh tịnh, những thế giới tạp uế thanh tịnh, những thế giới thanh tịnh tạp uế, những thế giới thuần thanh tịnh, những thế giới hoặc hình trạng bằng phẳng, hoặc úp xuống, hoặc ngược lên… Trong tất cả thế giới, tất cả xứ, tất cả loài như vậy, đều thấy Dạ Thần Phổ Cứu…

GIẢNG: Ở đoạn kinh này, pháp nhãn của Thiện Tài cũng rất lớn, phần vì ngài Dạ Thần Phổ Cứu gia trì, phần do công phu tu tập của Thiện Tài, nên Thiện Tài thấy rất nhiều thế giới, từ tạp uế đến thanh tịnh, và trong tất cả thế giới ấy, đều thấy Dạ Thần Phổ Cứu tùy phương tiện để độ sanh. Tới đây, Thiện Tài mới hỏi Dạ Thần Phổ Cứu là ngài phát bồ đề tâm như thế nào và sự chứng đắc ra sao? Xin đọc đoạn này để ta có thể so sánh với thế giới Cực Lạc, vì nhiều khi cũng cần so sánh với những thế giới khác. Các ngài thường hay nói như thế để cho chúng ta hiểu rằng có rất nhiều thế giới khác nhau, mà có nhiều giai đoạn của đời tu, tu phước thế nào, huệ ra sao, nên thọ mạng và y báo cũng có sai khác. Những tôn giáo khác thường chỉ có thể nói về thái dương hệ này, và độ vài ngàn năm thôi, còn đạo Phật thì pháp nhãn quá sâu, có thể nói đến vô lượng kiếp, nên mỗi giai đoạn, chúng sinh và các cõi đều khác hẳn. Thì đây, ngài Chủ Dạ Thần nói:

KINH: Nay ta thừa oai lực của Phật vì ngươi mà nói. Nầy thiện nam tử, thuở xưa, quá phật sát vi trần số kiếp, có một kiếp tên là Viên Mãn Thanh Tịnh, thế giới tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Oai Đức, có tu di sơn vi trần sấ Như Lai xuất thế trong thế giới đó…

GIẢNG: Ngày xưa có “tu di sơn vi trần số Như Lai xuất thế” chứ không phải chỉ có một Đức Thích Ca Mâu Ni như bây giờ đâu, vì phước huệ chúng sanh thời đó rất lớn, và thế giới đó gọi là “Viên mãn thanh tịnh” .

KINH: Thế giới đó bằng chất nhất thiết hương vương ma ni bửu, châu báu trang nghiêm, trụ trên biển vô cấu quang minh ma ni vương. Thế giới này hình chánh viên, tịnh uế hiệp thành, mây bửu trướng và tất cả trang nghiêm cụ giăng phía trên, luân sơn ma ni trang nghiêm bao quanh ngàn vòng, có mười ức na do tha tứ thiên hạ đều diệu trang nghiêm.

GIẢNG: Dần dần thế giới xuống thấp dần, có tịnh có uế, nhưng trong kinh tả thế giới đó cũng vẫn còn rất đẹp. Có “Mười ức na do tha tứ thiên hạ…” có nghĩa rằng trong thái dương hệ chúng ta có bốn châu thiên hạ, tức là có những châu chính và những châu quyến thuộc bao quanh, nhưng đây lại có rất nhiều, như vậy nói nôm na dễ hiểu, thì thái dương hệ này phải lớn gấp triệu triệu lần thái dương hệ của chúng ta đang sống.

KINH: Hoặc có tứ thiên hạ chúng sanh ác nghiệp ở trong đó, hoặc có tứ thiên hạ chúng sanh tạp nghiệp ở trong đó, hoặc có tứ thiên hạ thiện căn ở trong đó, hoặc có tứ thiên hạ chư Bồ Tát thuần thanh tịnh ở trong đó..

GIẢNG: Vậy thì thế giới này, nếu ta đem so sánh bên cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà là hơn hay kém? Lúc đầu thì có lẽ cõi này thanh tịnh hơn, nhưng sau, dần dần biến hóa theo các nghiệp của chúng sanh, nên trở thành tạp nhiễm, có chỗ thì rất thanh tịnh của chư Bồ Tát, nhưng cũng có chỗ chỉ toàn ác nghiệp, và tạp nhiễm, nên lại không bằng cõi Cực Lạc thanh tịnh của ngài A Di Đà, vì cõi Cực Lạc không có nam nữ, cũng không có chúng sanh ác nghiệp. Trong cõi này có một ao nước, trong ao mọc lên một bông sen phóng quang minh, người có thiên nhãn nhìn quang minh ấy liền biết rằng mười ngàn năm sau sẽ có Đức Phật ra đời, sau đó thì đến chín ngàn năm sau, rồi tám, rồi dần dần đến vài ngày, tôi xin đọc lược đoạn kinh kế…

KINH: Bảy ngày trước, hoa sen này phóng đại quang minh tên là nhất thiết chúng sanh hoan hỷ âm. Nếu có chúng sanh gặp quang minh này thời được thấy khắp Chư Phật sanh lòng rất hoan hỷ. Biết sau bảy ngày sẽ có Phật xuất thế. Đủ bảy ngày sau, tất cả thế giới thảy đều chấn động, thuần tịnh vô nhiễm, mỗi niệm hiện khắp mười phương tất cả cõi Phật thanh tịnh, cũng hiện những sự trang nghiêm của những cõi đó. Nếu có chúng sanh nào cản tánh thuần thục, đáng được thấy Phật thời đều đến đạo tràng…

GIẢNG: Đến đây, bà hoàng hậu tên là Viên Mãn Diệm, mặt tròn như trăng rằm cũng tới, và vị vương nữ Diệu Nhãn cũng tới, thì ngài Dạ Thần Phổ Cứu này chính là hậu thân của vương nữ Diệu Nhãn, đại khái ngài kể những bổn sanh bổn sự của ngài ở nhiều đời quá khứ về trước là như vậy.

Đó là hết vị thiện tri thức thứ 34. Phần nhiều các ngày dạy hơi giống nhau, chỉ có khác biệt đôi chút, nhất là về sau, các ngài kể bổn sanh, bổn sự, đều là những vị nữ nhân, đôi khi kể những cuộc tình duyên cùng đi vào đạo thời quá khứ của các ngài, rất hay, nhưng bây giờ đã hết giờ rồi, xin tạm ngừng đây, để tiếp theo kỳ sau.

Xin cảm ơn quí vị…