Đ a n g t i d l i u . . .

Nhân Vương Kinh Sớ

Nhân Vương Kinh Sớ

NHÂN VƯƠNG KINH SỚ

QUYỂN HẠ

Tác giả: Đời Đường. Pháp sư Viên Trắc

PHẨM HỘ QUỐC

Giải thích phẩm này, lược có hai nghĩa:

  1. Giải thích tên phẩm.
  2. Chánh thích văn.

Về phần giải thích tên phẩm, nếu theo Bổn ký thì quốc độ có hai loại: 1. Thế gian: Nhị thừa phàm phu; 2. Xuất thế: Mười tín đến mười địa. Giặc thì có hai loại: 1. Ngoài: cướp trộm, cầm thú,… 2. Trong: là phiền não. Hộ: có hai loại: 1. Ngoài: tức là trăm bộ quỷ thần; 2. Trong là trí tuệ. Hoặc trong hoặc ngoài đều là thần lực của chư Phật, Bồ-tát.

Nay giải thích: Bát-nhã có thể bảo hộ quốc độ của người, trời cho nên gọi là hộ quốc.

Kinh: Bấy giờ… Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Giải thích theo văn.

Có thể hộ quả Phật và hành thập địa, đều là nội hộ. Hộ các xứ của trời, người là ngoại hộ. Ở trên đã giải thích xong hai loại nội hộ. Đây là phần hai: Nói về phẩm Hộ quốc.

Nếu theo Bổn ký thì chia làm bốn phần: 1. Hành pháp; 2. Chủ thể hộ; 3. Dẫn chứng; 4. Đắc ích.

Phần hành pháp có ba phần:

1. Bảo lắng nghe. 2. Khuyên thọ trì. 3. Thuyết hộ.

Đây đúng là hai phần trước. Như kinh đã rõ.

Nay giải thích không như vậy: Trong cả phẩm này, văn có ba phần: 1. Bảo nghe, khuyên thọ trì; 2. Từ “khi quốc độ…” rộng giải thích về phương pháp hộ; 3. Từ “bấy giờ, Phật Thích ca…” chúng đắc ích. Đây là phần một. Bảo hãy nghe, hứa sẽ nói. Khuyên thọ trì, như kinh đã rõ.

Kinh: Khi quốc… giặc đến phá nước nhà.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Rộng giải thích về phương pháp hộ đất nước. Trong đó có ba phần: 1. Rộng giải thích hộ pháp; 2. Từ “Đại vương! Ngày xưa…” Dẫn chuyện xưa để làm chứng cho nay; 3. Từ “Đại vương! Mười sáu…” kết, nêu bày khuyên thọ trì.

Trong phần một lại chia làm ba phần:

  1. Hộ quốc.
  2. Từ “Đại vương! Không chỉ…” hộ phước.
  3. Từ “Đại vương! Không những chỉ…” hộ nhiều nạn.

Ở trong phần hộ quốc, văn lại có bốn phần:

  1. Hộ thời.
  2. Hộ pháp.
  3. Từ “nước ông…” nói về có thể hộ thể.
  4. Từ “Đại vương!…” hộ nạn. Đây là phần một – Hộ thời.

Căn cứ theo thật thì hộ quốc là chung cả mọi thời mọi lúc, vì để hiển bày lúc cầm kíp mà nói là kiếp thiêu… để đối trị lại mà thuyết phương pháp hộ quốc. Nói “kiếp thiêu”: do làm tổn hại quốc gia, gọi là kiếp thiêu. Chẳng phải là đại hỏa tai trong tam tai.

Kinh: Phải thỉnh trăm tượng Phật… trăm tượng La hán.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Hộ pháp. Có ba phần: 1. Thỉnh phước điền; 2. Cúng dường; 3. Thuyết thời.

Trong phần phước điền, văn có ba phần:

  1. Phước điền chư Thánh.
  2. Giảng hội thính chúng.
  3. Thỉnh sư giảng thuyết. Đây là phần một.

Nghĩa là thân thật tam tôn trên thì khó chiêu tập. Vì để chung cho các đời sau, phước điền đầy đủ, nên nói là đặt trăm tượng.

Kinh: Trăm chúng Tỳ khưu… Bảy chúng cùng nghe.

Giải thích: Phần ba: Thính chúng ở giảng hội. Có ba: 1. Trăm Tỳ khưu; 2. Trăm bốn đại chúng; 3. Trăm bảy chúng.

Nói: “Trăm Tỳ khưu”: có thuyết nói: trước mỗi một tòa đều có trăm vị Tỳ khưu, như vậy thành là một vạn người, nếu số người không đủ thì giảng pháp bất thành. Nay nói: Trăm là trước mỗi một tòa là một vị Tỳ khưu kiểm hiệu đồ chúng, cho nên nói là trăm.

Nói “bốn đại chúng”: là Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Cận sự nam, Cận sự nữ. Có thuyết nói: Giảm lược bớt Sa di, Sa di ni, Thức-xoa-ma-ni. Nay nói là gồm thâu trong chúng Tỳ khưu, Tỳ khưu ni.

Nói “bảy chúng”: là nói bốn chúng trên và ba chúng như Sa di,… Bảy chúng là chúng vãng lai.

Hỏi: Trước mỗi một tòa đều có sáu loại, đều có số trăm. Đó là có ý gì?

Đáp: Là vì để trang nghiêm hội thuyết pháp.

Hỏi: Bốn chúng thì gồm cả Tỳ khưu, sao còn cần phải nói riêng trăm tỳ khưu nữa?

Đáp: Để hiển trong mỗi một hội, cần định một người lên tòa, cho nên nói là trăm.

Hỏi: Bốn đại chúng và bảy chúng khác nhau như thế nào?

Đáp: Có người nói vì phần riêng biệt cho nên nêu ra, nhưng chưa chắc là có sự riêng biệt. Hoặc có thể là bốn đại chúng đều là chúng đại thừa. Nói là “bảy chúng” là chúng Thanh văn.

Kinh: Thỉnh trăm pháp sư… giảng Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Thỉnh sư giảng thuyết.

Kinh: Trăm sư tử… cúng dường Tam bảo.

Giải thích: Phần ba: Tỏ về pháp cúng dường. Chia làm ba phần: 1. Ba sự cúng dường Tam bảo: Là đèn, hương và hoa. Nói “Trăm đèn”: là trước mỗi một tòa đèn đều có một đèn , một hương, một hoa. Nếu không vậy thì liền thành vạn hoa, việc đó khó thành.

Kinh: Ba y, mười vật cúng dường pháp sư.

Giải thích: Phần hai: Riêng cúng pháp chủ.

Nói “mười vật” là: Đây có hai giải thích. 1. Tướng truyện nói: Y áo tức là ba, bát là bốn, tọa cụ là năm, dao cạo là sáu, dao là bảy, bọc lọc nước là tám, bọc đựng bát là chín, ống kim là mười. 2. Ngài Tam Tạng Tịnh nói: “Ba y mười vật” là: do sự sai lầm của người dịch kinh, tách ra làm hai phần, tách số ba và số mười ra thành hai phần. Đó là nghĩa của “mười ba tư cụ (đồ dùng)”. Nói “mười ba tư cụ”: Là 1. Tăng già lê; 2. Ôn-đản-la-tăng-già; 3. An-đản-bà-sa; 4. Ni-sát-thiền-na; 5. Ni-đại-san-na; . Phó-nê-đại-san-na (quần phụ); 7. Tăng-kiếp-bì-ca; . Phó-tăng-cước-bì-ca; . Bột-lý-sa-kì-ca (áo mưa); 10. Ca-da-bảo-chiếtna (khăn-lau-thân); 11. Mục-khước-bảo chiết-na (khăn lau mặt); 12 Kê-xá-bát-lạc để-yết-lạt-kha (khi cạo tóc, che chùi tóc); 13. Kiệm đậu bát-để-xa-thiền-na.

Tuy có hai giải thích: Nhưng ở đây vì chưa rõ bản tiếng Phạm kinh Nhân vương là số mười, trăm hay là chữ thập.

Kinh: Tiểu Phạm, cơm trưa, cũng lại đúng thời.

Giải thích: Phần ba: Đồ ăn, thức uống cúng dường pháp chủ. Hoặc có thể cúng chung cả đại chúng.

Kinh: Đại vương! Một ngày hai thời giảng kinh. (Có bản nói:

Giảng tán kinh này).

Giải thích: Phần ba: Chia thời gian giảng kinh. Giảng thì phải nhờ tịnh lực, cho nên theo hai buổi ăn, giảng cũng phải hai thời.

Kinh: Trong quốc độ của ông… hộ quốc độ ông.

Giải thích: Phần ba: Nói về chủ thể hộ.

Nếu theo Bổn ký: “Trăm bộ thần” là: Xuất từ nghĩa của Kim nhãn tiên nhân. Tiên nhân này thống lãnh quỷ thần, căn bản có mười xứ, triển khai thành một trăm. Mười là:

1. Đại thần: Có thể hóa ra các thần.

2. Đồng tử thần: Là con trai của Ma-hê-thủ-la. Ban đêm lẻn vào phòng của tiên, phép tắc của tiên là không giết trẻ con. Tiên nhân mới ghi nhận là năm mười sáu tuổi, thành đại tiên thì chết. Lời nói đó đã chẳng không, điều đó không thể tránh được. Ma-hê-thủ-la bèn trụ giữ đứa con trai này mãi mãi mười bốn tuổi. Đứa bé dùng trẻ con làm bè nhóm mình, hại trẻ con ở thế gian. Nếu qua mười lăm tuổi thì đứa bé không còn bị hại nữa.

3. Mẫu thần: Tức là nhũ mẫu của đồng tử;

4. Phạm thần: Trên mặt có ba mắt, có Nhất-thiết-trí. Nếu mất đồ mà không lấy lại được thì chú tiểu nhi, chú trên mặt tiểu nhi sinh thêm một mắt. Đến lúc lấy được vật, trở lại mất mắt.

5. Thần đầu voi: Làm chướng ngại tất mọi mong nguyện, việc thiện ác không thành tựu.

6. Long thần: Nhiều tham sân.

7. Tu la thần: Có thể trói người, trời. Lại còn có hai đứa con kiện nhi.

8. Sa thần: Ăn thịt kẻ phước đức mỏng. Thân như đất cát.

9. Dạ xoa thần: Có đại thần thông.

10. La sát thần: Dịch là cực nạn.

Kinh: Đại vương! Quốc độ… có nhiều giặc nổi.

Giải thích: Phần bốn: Nói về các nạn được hộ. Văn có ba phần: 1. Nạn các quỷ; 2. Nạn ba tai; 3. Từ “tất cả các nạn…” đối nạn nói về hộ. Đây tức phần 1. Lược gồm tám nạn: 1. Quỷ loạn; 2. Vạn người loạn; 3. Giặc đến cướp nước; 4. Trăm họ chết chóc; 5. Vua tôi thị phi phải trái; . Trời đất hiện quái lạ; 7. Tinh tú thất độ; . Nhật nguyệt thất độ, có nhiều giặc nổi. Các nạn như vậy, không thể kể hết.

Nói: “Nhị thật bát tú”: là như kinh Đại Tập phần Nguyệt Tạng, quyển mười, phẩm Tinh Tú Nhiếp Thọ nói: Một phương có bảy tú (sao) bốn phương hợp có hai mươi tám tú. Bảy tú ở Đông phương là: Giác, cang, để, phòng, tâm, vỹ, kỳ. Nam phương bảy tú là: tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn. Tây phương bảy tú là; khuê, lâu, vị, ngang, tất, tử, tham. Bắc phương bảy tú la: đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích. Lại nữa, phần Nguyệt Tạng, quyển mười, hơi khác với trên, e rườm không kể.

Kinh: Đại vương!… Tất cả các nạn.

Giải thích: Phần hai: Nạn về hỏa, thủy, phong…

Kinh: Cũng nên giảng kinh này. Dùng pháp đã nói như trên. (Hoặc có bản nói: Giảng đọc kinh này.)

Giải thích: Đây là phần hai: Nói về pháp hộ. Văn có ba phần: 1. Nêu; 2. Giải thích; 3. Theo pháp hộ như trên. Như văn đã rõ.

Hỏi: Nhà giàu sang còn sắp đặt giảng. Nhà nghèo hèn làm sao có thể làm thành được?

Theo các thắc mắc sau, đúng là có các trở ngại đó, nếu dựa theo thắc mắc ấy thì giảng đọc kinh này, lấy việc đó làm chính.

Kinh: Đại vương! Không những chỉ hộ phước, cũng còn hộ cho nhiều nạn.

Giải thích: Phần ba: Nói về hộ các nạn. Văn có ba phần: 1. Nêu; 2. Thích; 3. Chuẩn theo. Đây là phần nêu.

Kinh: Như tật bệnh khổ nạn… Tất cả vô lượng khổ nạn.

Giải thích: Phần hai: Giải thích các nạn. Nghĩa là: các tật bệnh… các gông cùm. Quả báo nạn. Hoặc bốn trọng nghiệp, năm nghịch nhân, tám nạn, sáu đạo nghiệp nạn, tất cả vô lượng quả khổ nạn.

Nói “bốn trọng” là bốn tội dâm, đạo, sát sinh, vọng ngữ.

Hỏi: Giảng đọc kinh này có thể hộ bốn trọng nghiệp không? Nếu có thể hộ thì đúng là chẳng mất giới. Nếu đã mất giới thì làm sao hộ được?

Giải: Các tông bất đồng: Nếu theo tiểu thừa, tự có hai thuyết. Như luận Câu-xá quyển mười lăm, nói về giải thích của ba sư:

1. Tông Tát-bà-đa, giới biệt giải thoát, do xả năm duyên. Nên tụng nói:

Xả biệt giải điều phục

Do vì xả mệnh chung

Và hai hình điều sinh.

Đêm tận hiện căn đoạn.

Khi phạm tội căn bổn

Không xả giới xuất gia.

Vì sao? Chẳng phạm một biên, tất cả luật nghi phải xả khắp.

Nhưng có hai tên gọi; là trì, giới phạm. Như người giàu có lúc nợ người khác, vẫn gọi là người giàu và người mắc nợ. Nếu với những điều đã phạm thì phát lộ sám hối trừ bỏ, gọi là đầy đủ Thi la, không gọi là phạm giới. Nếu trả nợ xong, chỉ gọi là người giàu.

2. Các sư Kinh Bộ nói: Sáu duyên xả và giới Tỳ khưu biệt giải thoát. Nghĩa là với năm điều trên, gia thêm phạm trọng.

3. Bộ pháp mật nói: Bảy duyên xả biệt giải thoát giới. Nghĩa là với sáu duyên trên thêm chánh pháp diệt.

Kinh Bộ chất vấn Tát-bà-đa: Nếu vậy thì với duyên gì mà Bạcgià-phạm (đức Phật nói): Người phạm bốn trọng, không gọi là Tỳ khưu, không gọi là Sa môn, chẳng phải là con của Thích ca. Phá thể của Tỳ khưu, hại tính của Sa môn. Hoại diệt, đọa lạc mà đặt ra những tên gọi khác?

Tông Tát-bà-đa đáp: Theo thắng nghĩa Tỳ khưu mật ý nói: Khi chánh pháp diệt, không đắc mới, chẳng xả giới cũ.

Nay theo đại thừa: các giáo bất đồng: Nếu theo luận Du già: phạm trọng thì mất giới, không nói đến hộ pháp. Quyển bốn mươi nói: Do hai duyên mà xả tịnh giới luật nghi của chư Bồ-tát: Một là: dứt bỏ đại nguyện vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Hai là: hiện hành thượng phẩm triền, phạm tha thắng xứ, pháp tạng. Các Bồ-tát, tuy lại chuyển thân khắp mười phương giới, ở mọi sinh xứ, nhưng không xả Bồ-tát tịnh giới luật nghi, do Bồ-tát đó không xả đại nguyện vô thượng Bồ-đề, cũng không hiện hành thượng phẩm triền, phạm tha thắng xứ pháp. Lại nữa, quyển năm mươi ba nói:

Hỏi: Có mấy nhân duyên, luật nghi Tỳ khưu, thọ rồi lại xả.

Đáp: Hoặc do xả những học xứ, hoặc do phạm tội căn bổn, hoặc do hình mất, hai hình sinh, hoặc do thiện căn bị đoạn dứt, hoặc do dứt bỏ chúng đồng phân thì luật nghi Tỳ khưu đã thọ rồi lại xả. Nếu chánh pháp hủy hoại, chánh pháp ẩn mất, tuy không có thọ mới luật nghi Tỳ khưu nhưng trước đã thọ đắc, phải biết là không xả.

Nếu theo kinh Phổ Hiền Quán nói: Nếu Thanh văn hủy phá tam quy ngũ giới, tám giới, Tỳ khưu giới, Tỳ khưu ni giới, Sa di giới. Sa di ni giới, Thức-xoa-ma-ni-giới, và các oai nghi, do ngu si bất thiện, tâm ác tà, mà thường phạm các giới và các oai nghi. Nếu muốn trừ diệt, khiến không có lỗi lầm, trở lại làm Tỳ khưu có đủ pháp Sa môn thì phải siêng năng tu tập, đọc kinh điển phương đẳng, suy tư đệ nhất nghĩa thâm diệu pháp không, khiến tuệ “không” tương ứng với tâm. Phải biết người đó, ở khoảnh khắc giữa mỗi niệm, tất cả tội cấu mãi mãi hết sạch không còn dư sót. Đó gọi là có đủ giới pháp của chư Sa môn. Có đủ các oai nghi. Theo kinh phương đẳng và kinh này, cũng được sinh trở lại. Cho nên, kinh Đại phương đẳng Đà-la-ni, quyển một nói: Nếu hai mươi bốn giới Bồ-tát, mười giới Sa-di, giới Thức-xoa, Sa-di-ni, giới Tỳ khưu, giới Tỳ khưu ni, các giới như vậy, nếu phạm mỗi một các giới, phải nhất tâm sám hối, nếu không sinh trở lại, thì không bao giờ có việc đó, ngoại trừ không chí tâm, hoặc phạm năm tội nghịch, như thân bị ghẻ trắng, nếu không chữa lành bệnh, thì không có việc đó. Lại nữa, quyển bốn nói: Nếu có Tỳ khưu, hủy bốn trọng cấm, chí tâm nhớ niệm kinh Đà-la-ni này, tụng một ngàn bốn trăm biến, tụng một ngàn bốn trăm biến rồi sám hối, thỉnh một Tỳ khưu làm người tác chứng. Tự trình bày tội mình trước hình tượng cứ như vậy thứ tự, trải qua tám mươi bảy ngày, ân cần sám hối rồi, các giới căn đó nếu không sinh trở lại, thì không có việc đó. Người kia trong tám mươi bảy ngày đã ân cần sám hối rồi, nếu không kiên cố nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng thì cũng không có việc đó.

Nếu theo kinh Niết-bàn thì vừa xả vừa không xả. Nếu mất thọ lực thì gọi là xả, không mất thọ thể thì gọi là không xả. Giống như hạt giống bị cháy có thể mà không có lực. Cho nên kinh Niết-bàn quyển ba mươi mốt nói: Này Thiện nam! Ta thường nói trong kinh như vậy: nếu có Tỳ khưu, phạm bốn trọng rồi, không là Tỳ khưu, là phá Tỳ khưu, là mất Tỳ khưu, không còn sinh ra giống mầm thiện, thí như hột giống bị nướng, không còn sinh ra quả trái, như đọt cây Đa-la bị chặt thì không sinh quả trái. Tỳ khưu phạm trọng; cũng lại như vậy. Các đệ tử ta nghe nói vậy rồi, không hiểu ý ta, xướng; Như Lai nói chư Tỳ khưu đã phạm trọng cấm, mất giới Tỳ khưu. Này thiện nam! Ta thường nói trong kinh, vì Thuần-đà mà thuyết bốn loại Tỳ khưu.

  1. Cuối cùng đạt đạo.
  2. Lạc đạo.
  3. Thọ đạo.
  4. Làm nhơ nhớp đạo.

Người phạm bốn trọng đức là làm nhơ nhớp đạo. Các đệ tử Ta, nghe nói vậy rồi, xướng, Như Lai nói, Tỳ khưu phạm bốn trọng rồi, không mất giới cấm.

Các tông như vậy, phải làm thành bốn trường hợp:

  1. Hoàn toàn là không xả: Như Tát-bà-đa.
  2. Hoàn toàn là xả giới: Như Kinh Bộ, và Du già…
  3. Vừa xả vừa không xả: như kinh Niết-bàn…
  4. Chẳng xả chẳng không xả: Như kinh Phương Đẳng và kinh Phổ Hiền quán.

Nếu sám hối thì không xả, không sám hối thì xả. Thành trường hợp thứ ba và trường hợp thứ tư. Nguyên do là sao? Luận rộng về bốn trường hợp thì có hai loại: Một là biệt thể, như luận Bà-sa: Thứ ba thứ tư là pháp riêng biệt mà thành trường hợp. Hai là: Gián thể: Thứ ba và thứ tư là một pháp già, biểu. Nếu môn biểu thuyên (khẳng định) thì thành trường hợp thứ ba. Nếu là môn già thuyên (phủ định) thì thành trường hợp thứ tư. Do vậy: Niết-bàn và Phương đẳng, pháp thì đồng nhưng trường hợp thì riêng biệt. Nay theo kinh Phương Đẳng và kinh này: bốn trọng năm nghịch, các nghĩa được thành.

Nói “năm nghịch”, còn gọi là nghiệp vô gián: giết cha, giết mẹ, phá hòa hợp tăng, giết A-la-hán. Và làm chảy máu thân Phật.

Hỏi: Nghiệp năm nghịch này, có được hộ không? Nếu hộ được thì chẳng phải định nghiệp. Nếu không hộ được, thì văn này trái nhau.

Giải: Chư Tông bất đồng; theo tông Tát-bà-đa thì quyết định chắc chắn thọ nghiệp, không có phương pháp hộ. Theo tông kinh bộ thì… Nay theo đại thừa, các giáo bất đồng; nếu chẳng gặp thắng duyên thì sinh địa ngục. Nếu dựa theo thắng duyên, tự có hai thuyết: 1. Dựa vào tạo tượng, kinh, tuy bị nhưng nhẹ, nên kinh kia nói: Do duyên tạo tượng, dù chịu quả nơi ba cõi ác, dù bị nhưng mau ra, mà không chịu khổ, như mũi tên bắn xuyên rừng, không trụ mà qua. Kinh Quán Vô Lượng nói; người có năm nghịch cũng sinh Tây phương. Kinh Vô Lượng Thọ nói: Không chấp thuận sinh sang kia. Theo kinh Niết-bàn, quyển hai mươi, phẩm Phạm hạnh: Vua A-xà-thế phát tâm Bồ-đề, nên không vào địa ngục. Cho nên kinh đó nói: Bấy giờ, Thế Tôn khen vua A-xà-thế. Lành thay! Lành thay! Nếu có người phát tâm Bồ-đề, phải biết người ấy đã trang nghiêm đại chúng Phật. Đại vương! Ông xưa đã ở nơi Phật Tỳ-bà-thi, sơ phát tâm Bồ-đề cầu đạo giác ngộ, từ đó đến nay, đến Ta xuất thế, ở trong khoảng ấy, chưa từng đọa vào địa ngục chịu khổ. Đại vương! Nên biết, tâm Bồ-đề, có quả báo vô lượng như vậy. Đại vương! Từ nay về sau, thường thường siêng tu tâm Bồ-đề. Lại nữa, đoạn văn trước nói: Do vua A-xà-thế phát đại tâm, toàn bộ tội nặng đều được mỏng nhẹ. Lại nói: vua A-xà-thế nói với Kỳ bà: Ta nay chưa chết mà đã được thân trời, xả ở đoản mệnh mà đắc trường mệnh. Nói đầy đủ như ở kinh ấy.

Nói “Tám nạn” là: theo kinh đại Bát-nhã quyển năm trăm sáu mươi tám nói: Thiên vương nên biết, Bồ-tát cuối cùng cũng không sinh ra ở những chốn không tự tại. Vì chư Bồ-tát ấy không có nghiệp ác để bị đoạ cõi địa ngục, không có phá giới để đọa bàng sinh, không có đố kị để đọa cõi quỷ đói. Không sinh tà kiến, thường gặp bạn lành, không khuyết các căn, thành pháp khí Phật. Không sinh nơi biên địa, căn độn ngu si, không sinh cõi trời trường thọ không thể lợi người, không gặp Phật. Không sinh ra ở thế giới không có Phật, nơi Bồ-tát sinh, tất đủ cả Tam bảo. Kinh Thắng Thiên vương Bát-nhã (cựu bản) cũng nói như vậy. Lại nữa, kinh Tăng nhất A-hàm, phẩm Bát nạn nói: Tỳ khưu nên biết, có tám điều không nghe, tám điều gì: 1. Địa ngục; 2. Súc sinh; 3. Ngạ quỷ; 4. Trường thọ thiên; 5. Sinh ở vùng biên địa, phỉ báng Hiền, Thánh, tạo các nghiệp ác; . Tuy sinh ở nơi trung tâm của cả nước nhưng sáu tình (căn) lại không đủ, không phân biệt được tốt xấu lành dữ; 7. Tuy sinh ở trung tâm của cả nước, sáu tình đầy đủ, nhưng tâm thức lại bị tà kiến; . Tuy sinh ra ở trung tâm cả nước, có đủ sáu tình, nhưng Phật không xuất thế, cũng không thuyết pháp. Nói đầy đủ như trong kinh kia.

Hỏi: Trường thọ thiên là gì?

Đáp: Theo luận Trí Độ quyển ba mươi ba: Trường thọ thiên là cõi trời Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ thọ tám vạn đại kiếp. Hoặc có người nói: Tất cả định Vô sắc giới, gọi chung là Trường thọ thiên, vì vô hình không thể hóa độ, không kham nổi đắc đạo, vì thường là xứ phàm phu. Hoặc từ sơ thiền đến tứ thiền, trừ Tịnh cư thiên, đều gọi là Trường thọ thiên vì đắm trước vị vướng mắc tà kiến, không thể thọ nhận đạo. Cho đến… Hỏi về chấp trước vướng mắc? Do tâm thiện khó sinh. Lại nữa, đoạn văn sau của luận kia nói: Trong Vô Sắc giới, không có hình, nên không thuyết pháp được, không sinh ra tại trong ấy. Nơi Sắc giới tuy có sắc thân, có thể thuyết pháp, nhưng vướng mắc sâu vào thiền vị, không thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh, vì vậy không sinh ở trong đó.

“Tất cả vô lượng khổ nạn”: là tổng kết về các nạn.

Kinh: Nếu giảng kinh này, dùng pháp như nói trên. (Có bản nói là: đọc kinh này)

Giải thích: Phần ba: Dựa theo giải thích trên.

Kinh: Đại vương! Xưa… muốn diệt nước đó.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Dẫn chuyện xưa để ví cho nay. Văn có hai phần: 1. Dẫn chuyện Đế Thích. Chứng chư quốc trên; 2. Từ “Đại vương! Xưa có…”. Dẫn chuyện vua Phổ Minh, làm chứng cho hộ thân trên. Trong phần một có ba phần: 1. Nói về nạn sự; 2. Nói về pháp hộ; 3. Thuyết xứ. Đây là phần một.

Theo kinh Hiền Ngu, phẩm Đảnh-Sanh vương: Bấy giờ, Thế Tôn thấy các Tỳ khưu tham trung sức đẹp, vướng mắc danh lợi, tích góp thêm nhiều tiền của không chán, mới kể chuyện thời quá khứ, có một 51 đại Quốc vương, tên là Cù-tát-ly-vi-tư (kinh Niết-bàn thì gọi là Thiện Trụ vương). Trên đảnh đầu vua mọc ra một bọc nhỏ, sạch sẽ tinh khiết, cũng không cảm thấy đau đớn, sau đó cái bọc lần lần chuyển lớn như một trái bầu, liền cắt ra xem, thấy một đồng tử, rất là đoan nghiêm, tóc xanh, thân màu vàng tử kim, bèn mời thầy xem tướng. Xem đoán là người có đức, sau này sẽ là một Thánh vương, thống lãnh bốn cõi, nhân đấy đặt tên là Đà-kiệt, tiếng Hoa gọi là Đảnh Sanh. Đến lúc trưởng thành, người rất đức độ anh minh. Khi vua cha băng hà, các phụ dung vương đều cùng bạch với Đảnh Sanh: Đại vương đã băng hà, mong Ngài nối ngôi vị. Đảnh Sanh đáp: Nếu phước ta ứng với làm vua thì Tứ Thiên vương và Đế Thích tôn kính đến nghinh trao mới đăng ngôi. Vừa lập lời thề xong, Tứ Thiên Vương liền xuống, mỗi vị đều cầm bình báu chứa đầy nước thơm rưới đảnh đầu, rồi trời Đế Thích lại cầm mũ báu đội lên đầu Đảnh Sanh. Ở Diêm Phù Đề, thỏa thích năm dục, trải qua tám vạn bốn ngàn tuổi, Dạ xoa hiện ra, thỉnh dạo chơi Đông-Phấtbà-đề, trải qua tám ức tuổi, lại thỉnh đến Tây Cù-da-ni, trải qua mười bốn ức năm tuổi. Đến Bắc Uất-đơn-việt, mười tám ức năm. Đến xứ Tứ Thiên Vương, trải qua mười bốn ức năm. Ý lại muốn lên cõi trời Đao Lợi, năm trăm tiên nhân giúp, xe ngự một voi, cùng lên trên trời, khi sắp đến, xa xa đã thấy thành cõi trời, tên gọi là Khoái Kiến thành, có một ngàn hai trăm cửa, chư thiên sơ hãi, đều đóng kín các cửa, khóa ba lớp khóa sắt. Binh chúng của Đảnh Sanh, tiến thẳng không trở ngại gì cả, vương vừa thổi tù và, giương cung bắn, một ngàn hai trăm cửa cùng một lúc mở ra. Đế Thích đi ra, cùng gặp mặt, nhân vậy mới cùng chia tòa cùng ngồi, vương ở trên trời, thọ năm dục lạc, hết ba mươi sáu đời vua Đế Thích. Đế Thích cuối cùng là Ca-diếp Bồ-tát. Khi ấy, A-tu-la vương, đem quân lên trời, đấu với Đế Thích, Đế Thích thua, rút quân vào thành, Đảnh Sanh lại ra, thổi ốc và, bắn cung, Tu la bèn bỏ đi. Đảnh Sanh tự nghĩ; lực ta như vậy, không có ai bằng, sao nay lại phải cùng chia ngôi với Đế Thích, chi bằng hại Đế Thích, một mình độc bá thì vui thích biết mấy. Tâm ác đã phát, vì vậy mà liền bị đoạ lạc. Vua Đảnh Sanh, thống lãnh bốn vực, trải qua bốn mươi ức năm nhưng chưa đủ chán, do bởi tham mà chết. Vì thế, này các Tỳ khưu! Lợi dưỡng thật là đại hoạn. Rộng nói như kinh kia.

Theo kinh Niết-bàn quyển mười hai nói: Bấy giờ, Đế Thích thọ trì đọc tụng kinh điển đại thừa. Vì người khác mà diễn thuyết. Nhờ lực nhân duyên mà có oai đức lớn. Bởi Đảnh Sanh sanh ra tâm ác với Đế Thích ấy, liền bị đọa, trở lại Diêm-phù-đề. Do tâm thương nhớ người trời ly biệt, sinh ra đại khổ não, lại gặp bệnh nặng, liền mệnh chung. Đế Thích bấy giờ chính là Phật Ca-diếp, Chuyển luân vương chính làthân ta. Rộng nói như kia, có hơi khác với kinh Hiền Ngu, nhưng e nhiều nên không kể.

Kinh: Lúc ấy, Đế Thích thiên vương… Đảnh Sanh liền thối.

Giải thích: Phần hai: Nương theo kinh nói về hộ pháp. Như văn đã rõ.

Kinh: Như đã thuyết trong kinh Diệt Tội.

Giải thích: Phần ba: Nêu bày nơi thuyết. (Kinh này tức là kinh Niết-bàn. Hoặc có thể là chưa dịch).

Kinh: Đại vương! Xưa có… Thái tử Ban túc.

Giải thích: Phần hai: Dẫn chuyện vua Phổ Minh, làm chứng cho phần hộ thân ở trên. Văn có hai phần: 1. Nói về nạn sư; 2. Từ “Vị Phổ Minh đó…” biện minh khả năng hộ được nạn. Đây là phần một.

Trong đó có ba phần: 1. Nói về nhân duyên của Ban Túc; 2. Thọ nhận sự dạy bảo của tà sư; 3. Phần chính tạo ra nạn sự. Đây là phần một.

Nói “Ban Túc”: Chú thích có ba nghĩa:

1. Như kinh Hiền Ngu nói: Tiếng Hồ gọi là Ca-ma-sa-ba-đàvương. Tiếng Hán gọi là Bác Túc, còn gọi là Ban Túc. Vua Ba-la-đạt đem bốn loại binh vào núi săn bắn, gặp sư tử cái, tâm dâm quá mạnh, ép vua hành dục, vua sợ nghe theo, sư tử có thai, ngày tháng đầy đủ, sinh một bé trai, thân hình giống người, chỉ chân ban đốm giống sư tử, sư tử mẹ gậm đến trao vua, vua nhận làm con, đặt tên là Ban Túc.

2. Ban Túc phi hành ăn thịt người. Nhân duyên cũng như kinh Hiền Ngu. Nhưng có thêm chuyện; vua Ban Túc hàng ngày thường cúng cho một tiên nhân những món tịnh thực, không có thịt cá. Một ngày nọ, tiên nhân không đến. Có một thiên thần hóa làm hình tiên, giả nhập cung vua, đòi ăn cá thịt. Vị cũ ngày hôm sau, đúng giờ lại đến, vua dâng thịt cá, tiên nhân nổi giận trách, sao lại thử mình, bèn nói với vua; vua sẽ thường ăn thịt người trong mười hai năm. Tiên nhân nói xong, bay về núi. Sau đó, nhà bếp quên không lo chuẩn bị trước. Ra ngoài tìm mua thịt, lại không có thịt, nửa đường thấy xác chết một đứa bé, trắng mập ở bên đường, nghĩ là chỉ cần gấp, liền bỏ đầu chân, làm món ăn cho vua, ăn xong thấy ngon, liền hỏi nguyên do, nhà bếp thật đáp, vua nói từ nay thường dùng thịt này. Nhà bếp sợ vua, chuyên bắt trẻ nhỏ, giết làm món ăn, hàng ngày cho vua. Người trong nước mất con, đi tìm khắp nơi, bèn gặp nhà bếp bắt trói con họ. Dân tố cáo với vua. Vua nói:

Chính ta giết. Dân chúng nghe vậy, đều bảo; chính vua là kẻ đại thù của ta, đợi vua đi tắm ở hồ, phục binh bắt vua. Vua đã bị trói, bèn nói với dân; xin tha Ta lần này lần sau không còn giết nữa. Dân cả nước không chịu. Vua bèn khởi nguyện: Nguyện các thiện mà Ta tu từ xưa đến nay, xoay chuyển ngày hôm nay biến thành La sát, phi hành ăn thịt người. Nói xong liền bay lên trên không, xướng: Từ nay về sau sẽ thường ăn thịt vợ con yêu của các ngươi. Mọi người nghe đều chạy trốn. Có nhiều La sát theo làm vây cánh tùy tùng. Đồ chúng lần hồi rất nhiều, người bị hại cũng rất nhiều. Sau đó, các La sát bạch với Ban Túc; chúng ta vì vua, vua nay phải vì bọn ta bắt một ngàn vị vua, để đãi một bữa tiệc lớn. Ban Túc nói: Tốt, liền lần lượt bắt được chín trăm chín mươi chín vị vua, còn thiếu một vị, không thể làm việc. Các vua bị bắt bảo nhau: Đám ta ngày nay, chẳng còn cách gì thoát thân. Nếu bắt được vua Tu đà tố, vị vua này có đại phương tiện, có thể cứu được chúng ta. Nghĩ kế vậy rồi, bèn bạch với vua Ban Túc: Vua muốn làm tiệc, Tu đà tố vương là người có danh đức cao. Nếu bắt được ông ta đến, thì tiệc hội của vua mới được viên mãn. Thời vua La sát, liền bay đi bắt Tu đà tố vương. Gặp lúc Tu đà tố vương ra ngoài thành, đi đến vườn, định vào hồ để tắm, nửa đường gặp người hành khất theo vua để xin. Vua nói: Đợi ta tắm xong, rồi về sẽ thí cho đaọ sĩ. Vương mới vào hồ tắm, vua La sát từ trên không bay xuống bắt Tu đà tố vương về nhốt trong núi. Tu-đà-tố vương do buồn thương khóc. Vua Ban túc nói: Nghe ngươi danh đức bậc nhất, bậc trượng phu sao lại buồn khóc như trẻ con ở đời. Tu đà tố vương nói: Ta không thương thân, tham tiếc thọ mạng. Sáng ra gặp kẻ xin hứa cho, vào lúc nhà vua đến bắt , e trái với sự thành tín, vì vậy mà khóc. Mong vua trả ta bảy ngày, bố thí cho đạo sĩ. Ban Túc chấp thuận. Vua trở lại nước Bố thí xong. Sau đó, các Bà-la-môn thấy vua muốn trở lại chịu chết, e vì nhớ nước nhà, mới vì vua mà thuyết kệ, kệ giống với kinh này. Tám hàng tương tự, duy chỉ có một câu “thiên long nhân quỷ điêu tán ở trong” là khác kinh này. Tu đà nghe kệ, suy tư nghĩa lý mà hoan hỷ, bèn lập Thái tử thay làm vua, từ biệt đến chịu chết. Ban Túc biết đã đến ngày hẹn, trông ngóng đợi chờ, thấy Tu đà đến, hình có sắc vui, Ban Túc lấy làm lạ hỏi: Ông nay sắp chết, sao lại hoan hỷ? Tu đà đáp: Đại vương ân rộng, cho Ta bảy ngày, bố thí đạo sĩ, lại nghe pháp diệu, tâm tự khai mở. Nguyện ta đã thỏa, tuy đến chỗ chết, tâm vui không buồn. Ban Túc hỏi: Ông nghe pháp gì? Thử nói Ta nghe. Tu đà bèn vì Ban Túc mà tuyên thuyết tám kệ pháp diệu đã được nghe. Còn vì Ban

Túc mà thuyết thêm về tội báo sát sanh. Ba Túc nghe xong, bèn thả Tu đà và các vị vua trở về nước mình. Tu đà tố vương, bèn bảo binh chúng, trở lại ngôi vua trước. Tu đà tố vương chính là Phật Thích ca. Ban Túc vương chính là ương quật ma.

3. Các kinh nói về Ban Túc thì khác nhau, như trong Trí Luận nói: Ban Túc vương gọi là Lộc Túc vương, lốm đốm như chân nai nên gọi là Lộc Túc. Còn gọi là Lưỡng Sí vương. Chỉ nói là Lộc Túc muốn ăn thịt trăm vua. Như kinh Phổ Minh vương nói: Ban Túc vương gọi là Hà Quần vương, vào núi gặp thần Đại Thọ, hứa cống trăm vua. Phổ Minh vương vì Hà Quần vương mà tuyên thuyết bốn bài kệ, Hà Quần vương nghe kệ, thả Phổ Minh và chín trăm chín mươi chín vua. Kinh Nhân Vương này và kinh Hiền Ngu tuyên thuyết là một ngàn vua, các kinh khác vốn là một nhưng với đối với người kiến văn khác nhau mà dẫn đến sự sai biệt.

Kinh: Ban Túc chấp nhận cho một ngày.

Giải thích: Phần hai: Cho thả một ngày. Nếu theo kinh Hiền Ngu thì cho bảy ngày.

Kinh: Bấy giờ, Phổ Minh vương… kệ xong.

Giải thích: Từ đây là phần ba: Dựa theo thời để nói về chủ thể hộ. Văn có hai phần: 1. Theo chủ thể hộ mà bảy Phật đã thuyết; 2. Từ “Đệ nhất pháp sư…” Theo thuận biệt lý, để nói về nhân của chủ thể hộ. Đây là phần một.

Hỏi: Làm sao trong một ngày mà có thể thuyết tám ngàn ức kệ.

Đáp: Nhờ đức Như Lai ngầm gia hộ, cho nên có thể thuyết được.

Số kệ nhiều ít, sẽ giải thích sau.

Kinh: Đệ nhất pháp sư vì vương mà thuyết kệ.

Giải thích: Phần hai: Theo thuận biệt lý để nói về chủ thể hộ. Văn có hai phần: 1. Chánh thuyết về pháp hộ; 2. Từ “bấy giờ…” nghe pháp được ích. Trong phần một có hai phần: 1. Phần văn xuôi phát khởi; 2. Nêu tụng chánh thích. Đây tức là ở trong trăm tòa. Đệ nhất pháp sư thuyết tám tụng. Theo kinh Hiền Ngu thì đạo sĩ thuyết. Do người dịch khác nhau.

Kinh: Kiếp thiêu chung xong… Nước có gì thường?

Giải thích: Phần hai: Chánh giải thích hộ pháp. Có tám hàng kệ, thuyết về bốn đạo lý, tức chia bốn phần:

  1. Hai kệ thuyết về lý vô thường.
  2. Hai kệ thuyết về lý của đạo khổ.
  3. Hai kệ thuyết về lý của đạo không.
  4. Hai kệ thuyết về lý của vô ngã.

Đây là phần một. Trong đó có ba phần: 1. Có một kệ, biện minh khí thế gian kiếp hoại vô thường; 2. Có nửa kệ, nói về một thời kỳ vô thường ở bên trong nội thân; 3. Có nửa kệ, nêu hơn so kém.

Nói “kiếp thiêu chung xong”: là kiếp thiêu chung thì bắt đầu khởi kiếp thủy. Từ phong luân cho đến sơ thiền. Cho nên nói là chung xong.

“Càn khôn động nhiên”: càn là thiên. Càn là kiện. Thiên hành không dứt, nên nói là càn, khôn là địa. Khôn là thuận. Địa thuận bốn mùa, sinh trưởng vạn vạn, gọi là khôn. Thiên địa bị thiêu cả, cho nên bảo là động nhiên.

“Tu di cự hải”: núi và nước tương đối với nhau, đều thành tro tàn.

Phần hai có nửa kệ: Thiên long điêu biểu, đều do bởi nghiệp nếu theo kinh Hiền Ngu thì “Thiên long nhân quỷ, ở trong điêu táng”.

Nói “hai nghi còn mất, nước có cậy gì.”: Nêu hơn để so với kém. Như trên đã thuyết, khí và thế gian. Hai nghi thiên địa phải có ngày mất, huống chi là quốc lại không bị diệt sao?

Kinh: Sinh lão bệnh tử… Nước nhờ vào đâu.

Giải thích: Phần hai: Hai kệ. Giải Thích tướng của khổ. Văn có hai phần: 1. Một kệ rưỡi, chính nói các khổ; 2. Có nửa kệ, nêu hơn để so với kém.

Trong phần một có hai phần: 1. Có hai câu, nói về bốn khổ tương tục với nhau không dứt; 2. Có hai câu, hiển chung về ba khổ: Là oán ghét gặp nhau khổ, yêu thương xa nhau khổ, mong mà không được khổ, đều là trái với những điều mong nguyện, hoặc vì u buồn làm hại; 3. Có hai câu, nói về năm uẩn xí thịnh khổ, chư dục là tập đế. Họa trùng là khổ. Khổ tập như vậy, giống như ghẻ lở. Khổ tập như vậy, không lìa tự thân, không ngoài tam giới, cho nên nói là “không ngoài”. Ba giới đều khổ, nước có gì vui. Nêu hơn để so với kém. Nghĩa là ba cõi hơn kém, đều là khổ, huống nữa là quốc độ, nhờ đâu mà chẳng khổ.

Kinh: Gốc hữu là vô… Quốc độ cũng như.

Giải thích: Phần ba: Hai kệ nói về “không”. Văn có hai phần. Phần một: Có một kệ, nói về pháp “không”. Câu đầu nói về tính sở chấp. Ba câu sau nói về y tha “không”. Nghĩa là trên y tha, không có tính sở chấp.

“Chúng sanh xuẩn xuẩn, đều như huyễn cư”: Phần hai: Nói về sinh không. Nói “thanh, hương đều không, quốc độ cũng như”: Là lấy hơn để so với kém. Nghĩa là: thanh và âm hưởng đều ở chỗ nói, chẳng thật có tính, giống như thanh hưởng, chẳng thật cho nên là không. Quốc độ cũng vậy. Nhân duyên các pháp mà thành pháp, cũng thuyết là không.

Kinh: Thức thần vô tình… Há lại có nước?

Giải thích: Phần bốn Hai kệ. Hiển bày lý vô ngã. Trong đó, hai câu đầu nói về tâm thức vọng chấp bốn đại, cho nó là ngã sở. Một câu tiếp theo là nói về sắc thân vô ngã. Tiếp một câu nữa là nói về sắc thân chẳng phải là chỗ trụ của ngã. Hai câu sau là nêu vô ngã trước, so cùng quốc vô ngã.

Lại giải thích: Một kệ rưỡi đầu là thân vô ngã. Hai câu sau nhắc lại vô ngã để nói quốc cũng không có. Bài kệ đầu trong phần trước, tỏ tâm là khổ để hiển bày vô ngã, trong đó nữa phần trên là nói về tâm thần vô hình. Đó là nói về tâm thần không có hình, giả ngã như bốn rắn, y chỉ bất an, nên là khổ, bốn đại là chỗ dựa, cùng tượng phản nhau. Từ thí dụ gọi là rắn. Phần dưới nói về kẻ si ôm cho là xe vui. Từ nữa kệ sau là nói về hình là vô thường. Thần không có nhà thường, để hiển bàyvô ngã. “Hình vô thường chủ”: là nói về hình vô thường. “Thần vô thường gia”: là nói về thần vô thường. Sau nhắc lại huống nữa là quốc hình, thần sẽlìa, là nhắc lại đoạn trước. Nữa hệ sau, há có nước sao? So sánh nước cũng không có.

Kinh: Bấy giờ, pháp sư… đắc pháp nhãn “không”.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Nghe pháp được ích. Trong đó có ba phần: 1. Nghe pháp được ích; 2. Từ “trong chúng …” chuyển dạy chư vương; 3. Từ “thời Ban Túc…” chư vương ngộ đạo. Trong phần một có hai phần: 1. Quyến thuộc đắc ích; 2. Vương tự đắc ích. Đây là phần một. Nghĩa là: quyến thuộc của vương đắc pháp nhãn không, đó tức là trí nhân không.

Kinh: Vương tự chứng đắc… Chỗ Ban Túc vương.

Giải thích: Phần hai: Vương tự đắc ích. Nghĩa là: Vương tự chứng các định về hư không. Nghe pháp tỏ ngộ, hiểu, đó tức là quán. Do định lực đó mà đến chỗ của Ban Túc.

Kinh: Trong chúng liền bảo… các kệ cú trong kinh.

Giải thích: Phần hai: Chuyển dạy lại các vua. Văn có bảy phần:

  1. Dạy lại các vua.
  2. Vua Ban Túc hỏi.
  3. Phổ Minh phụng đáp.
  4. Các vương đắc ích.
  5. Thả các vua, đúng ngày hẹn mà đến nên tụng câu kệ trong kinh của bảy Phật thời quá khứ.

Kinh: Bấy giờ Ban Túc… đều tụng pháp gì?

Giải thích: Phần hai: Vương hỏi về việc đọc tụng.

Kinh: Bấy giờ Phổ Minh… trả lời vương.

Giải thích: Phần ba: Phổ Minh phụng đáp. Đã rõ.

Kinh: Vương nghe pháp đó… ba môn định tam không.

Giải thích: Phần bốn: Chư vương đắc ích. Nghĩa là: Ban Túc vương đắc Tam muội “không”. Các vua khác đều chứng ba định là Không, Vô nguyện, Vô tướng.

Kinh: Bấy giờ Ban Túc vương… Danh vị cú.

Giải thích: Phần năm: Lệnh thả các vua. Trong đó có ba phần: 1. Sinh đại hoan hỷ, chỉ bày lỗi lầm, tự quy; 2. Thả về bản quốc; 3. Khuyên chúng trì kinh.

Kinh: Bấy giờ Ban Túc… Chứng vô sinh nhẫn.

Giải thích: Phần sáu: Đem nước trao em, chứng vô sinh nhẫn.

Kinh: Như thập vương địa… Hiện thế sinh báo.

Giải thích: Phần bảy: Dẫn thuyết chứng thành. Nghĩa là: Thập vương địa nói; năm ngàn Quốc vương, nên tụng kinh này, ở trong hiện báo, đắc hiện pháp lạc, và trong sinh báo đắc sinh vào cõi trời, người, lìa các nạn.

Kinh: Mười sáu đại Quốc vương… ông nên thọ trì.

Giải thích: Từ đây là phần ba: Kết khuyên thọ trì. Văn có ba phần: 1. Khuyên vua Nguyệt Quang; 2. Khuyên nơi sáu dục; 3. Khuyên tiểu vương. Đây là phần một. Văn có hai tiết: 1. Tóm kết chỉ bày pháp để hộ quốc; 2. Khuyên Nguyệt Quang vương, ông nên thọ trì.

Kinh: Trên trời trong cõi người… Danh vị cú.

Giải thích: Phần hai: Khuyên chúng trong sáu đạo (cõi), đều nên thọ trì.

Kinh: Đời vị lai… La mật.

Giải thích: Phần ba: Khuyên các tiểu vương, như pháp thọ trì.

Kinh: Bấy giờ, Phật Thích ca… Đắc nhập sơ địa.

Giải thích: Từ đây là đoạn lớn thứ ba. Chúng bấy giờ được lợi ích.

Nếu theo Bổn ký, văn có hai phần: 1. Được lợi ích; 2. Từ “Ta nay…” tổng kết về được ích.

Trong phần một có sáu lợi ích: 1. “Bấy giờ trung vương đắc nhập sơ địa” là năm trăm ức người đắc nhập sơ địa. Sơ địa tức là mười tín; 2. “Lại có Lục dục thiên đắc địa tính không”; chư thiên lục dục, tám vạn ức người, đắc địa tính không, tức là thập giải; 3. “Lại có mười tám vương đắc pháp lạc nhẫn”: mười tám Phạm vương đắc pháp vô sinh nhẫn, tức là mười hạnh. Đắc vô sinh nhẫn pháp lạc, tức là mười hồi hướng; 4. Lại có đạt cho đến mười địa”: Nghĩa là học vị Bồ-tát có người chứng từ sơ địa cho đến thập địa; 5. “Lại có tám bộ vương lên trời chánh thọ” là Tu la được lợi ích. Tu la được lợi ích có hai loại; một là đắc mười Tam muội, và hai Tam muội. Mười Tam muội là mười Nhất thiết xứ. Hai Tam muội là nhị đế Tam muội. Hoặc có thể là nhập Thánh đạo, ắt có đủ Tam muội. Mười Tam muội là Vô tưởng Tam muội, vì diệt chướng của mười địa, cho nên gọi là mười Tam muội. Hai Tam muội là Không Tam muội và Vô nguyện Tam muội. Hai là: chuyển quỷ thần lên trời chánh thọ; chánh thọ là đắc Thánh đạo vô lậu; . “Người ở hội này dến vô lượng không tín”: đó là tỏ phàm phu đắc tín Phật tính. Gọi là tín tự tính. “Vô lượng tín không” là tin pháp “không”.

Kinh: “Ta nay lược thuyết, …”: là tổng kế đã rõ.

 

PHẨM TÁN HOA

Giải thích phẩm này, lược có hai nghĩa:

  1. Giải thích tên phẩm.
  2. Chánh thích về văn.

Giải thích tên phẩm: Chư vương nghe pháp, nhớ ơn Phật rải hoa cúng dường, gọi là phẩm Tán Hoa.

Kinh: Bấy giờ… Hoan hỷ vô lượng.

Giải thích: Phần hai: Theo văn chánh giải thích. Bốn phẩm trên biện minh về nội ngoại hộ. Đây tức thuộc phần ba: Mang ơn cúng dường. Trong đó có ba phần: 1. Chư vương rải hoa, cúng dường Thế Tôn; 2. Phật hiện thần biến, khiến chúng được lợi ích; 3. Nhất-thiết-trí khuyên chúng thọ trì.

Trong phần một có ba phần:

  1. Nghe kinh hoan hỷ.
  2. Rải hoa cúng dường.
  3. Phát nguyện thọ trì. Đây tức phần một.

Văn có ba tiết: 1. Người là chủ thể nghe văn; 2. Pháp của đối tượng được văn; 3. Tâm hoan hỷ.

Nghĩa là: Chư vương nghe mười vạn ức kệ, hoan hỷ vô lượng.

Hỏi: Bát-nhã được thuyết trong kinh này, gồm ba chỗ khác nhau: 1. Trong phẩm Nhị đế thuyết tám vạn ức kệ; 2. Cuối phẩm Hộ Quốc thì tám ngàn ức kệ; 3. Phẩm tán hoa này mười vạn ức kệ. Ba chỗ đã thuyết, có sai biệt gì?

Giải: Trong phẩm nhị đế, hợp thuyết ba thời, chư Phật đã thuyết, gồm có bốn vạn ức kệ. Trong phẩm Nhân Vương Hộ quốc là dẫn riêng bảy Phật thời quá khứ đã thuyết Nhân vương Bát-nhã. Còn trong phẩm này là Phật nay thuyết Nhân vương Bát-nhã. Do vậy mà ba chỗ thuyết khác nhau.

Hỏi: Phẩm Hộ Quốc nói là một ngày thuyết xong tám ngàn ức kệ, làm sao một ngày mà có thể thuyết tám ngàn ức kệ như vậy?

Giải: Nhờ thần lực của Như Lai ngầm gia bị. Như kinh Báo Ân; nói A-nan chỉ trong một lúc mà lãnh hội được tất cả các kinh Như Lai đã thuyết trong hai mươi năm. Đây cũng như vậy. Chư vương nghe Phật thuyết mười vạn ức kệ, sinh hoan hỷ, rải hoa cúng dường. Rải hoa cúng dường tức là phẩm Tán Hoa. Theo văn kinh ấy thì bộ kinh này, tự có phần rộng và lược, cả hai bản như trên đã rõ.

Kinh: Liền rải… che chư đại chúng.

Giải thích: Phần hai: Rải hoa cúng dường. Trong có ba phần: 1. Rải hoa hạnh; 2. Hoa Bát-nhã; 3. Hoa diệu giác. Ba loại hoa này đều từ sự biểu hiện để đặt tên hoa.

Đầu tiên là rải hoa hạnh để biểu thị cho ba hiền, là hạnh hữu lậu. Thành; biểu thị Niết-bàn, bởi tối đại thắng. Ở phần hoa hạnh, văn có bốn tiết: 1. Chư vương rải hoa; 2. Ở hư không, hoa biến làm tòa; 3. Từ “mười phương…” hóa Phật thuyết pháp; 4. Từ “bốn vô lượng …” hóa chúng rải hoa. Hóa Phật thuyết pháp. Biểu cho pháp là chơn. Vì đồng thuyết. Hóa chúng rải hoa để biểu thị cho nhân là thắng. Vì kham chịu cúng dường. Phần dưới cũng theo cách giải thích này.

Kinh: Lại rải… và chư đại chúng.

Giải thích: Phần hai: Rải hoa Bát-nhã. Văn có bốn tiết: 1. Chư vương rải hoa; 2. Từ “ở hư không…” hoa biến thành đài; 3. Từ “Trong đài…” hóa Phật thuyết pháp; 4. Từ “Trong đài…” hóa Phật thuyết pháp, chúng rải hoa.

Kinh: Lại rải… Đệ-nhất-nghĩa-đế.

Giải thích: Phần ba: Rải hoa diệu giác. Văn có bốn cho tiết: 1.

Chư vương rải hoa; 2. Từ “ở hư không…” hoa biến làm thành; 3. Từ “trong thành…” hóa Phật thuyết pháp; 4. Từ “Thời thành…” hóa chúng rải hoa. Đây là phần đầu. Kim cang dụ cho trí. Thành dụ cho Niết-bàn.

Trí đoạn là nói rõ về cả hai, gọi là thành Kim cang.

Kinh: Lúc ấy trong thành… mà xuống.

Giải thích: Phần bốn: Hóa chúng rải hoa. Do hoa diệu giác, lực công đức thắng, do đó ba lớp rải hoa ở đấy, hai lớp biến hiện; đầu tiên là Bồ-tát rải hoa biến thành đài, tiếp đó là trong đài các Phật rải lọng che thành, sau là trong lọng che, thiên nhân rải hằng hà sa hoa.

Kinh: Bấy giờ các Quốc vương… Ba-la-mật.

Giải thích: Phần hai: Chư vương phát nguyện. Trong đó có hai: 1. Chư vương phát nguyện; 2. Thế Tôn ấn chứng và thuật. Đây tức là phần phát nguyện. Nguyện có hai: 1. Nguyện chư Phật thường thuyết; 2. Nguyện bốn chúng thường hành.

Kinh: Phật bảo: Đại vương!… Thần thông sinh xứ.

Giải thích: Phần hai: Thế Tôn ấn chứng và thuật. Ấn chứng hai nguyện. Lặp lại hai lần như vậy!

“Chư Phật mẫu”: là hiển bày Bát-nhã thật tướng.

“Bồ-tát mẫu”: là Bát-nhã quán chiếu.

“Thần thông sinh xứ”: là Bát-nhã văn tự.

Lại giải: Bát-nhã có thể sinh ra chư Phật Bồ-tát và thần thông, cho nên nói là mẫu (mẹ). Như kinh Kim cang Bát-nhã nói: Tất cả Bồ-đề vô thượng của chư Phật đều từ kinh này xuất. Tất cả chư Phật Như Lai đều từ kinh này mà sinh ra.

Kinh: Lúc ấy Phật vì vương… Thần biến.

Giải thích: Phần hai: Phật hiện thần biến, khiến chúng được lợi ích. Trong có hai: 1. Phật hiện thần biến; 2. Thời chúng đắc ích. Trong phần một có hai phần: 1. Nêu chương nói số; 2. Thứ lớp kể riêng. Đây là phần một.

Thần: Nghĩa là đẳng trì. Biến tức là chuyển biến. Do lực đẳng trì mà tự tại chuyển biến. Cho nên gọi là thần biến.

Bất tư nghị: là tâm không thể suy tư, lời không thể bàn nói, gọi là bất tư nghị. Nên kinh Pháp Hoa nói: Miệng chẳng thể tuyên thuyết được, tâm chẳng thể lường tính được. Luận Trí Độ nói: Xứ tâm hành diệt. Đường ngôn ngữ dứt bặt. Đại Bát-nhã nói: Tuyệt đường tâm, ngôn.

Gọi là bất tư nghị.

Kinh: Một hoa nhập… Thân hỏa phong.

Giải thích: Phần hai: Thứ lớp kể riêng. Trong đó có hai phần: 1. Kể riêng; 2. Tán lại. Đây là phần kể riêng. Nhưng năm biến này, các thuyết bất đồng: Một thuyết nói:

  1. “Một hoa…”: là lấy theo hoa và cõi. Một và nhiều tương nhập vào với nhau.
  2. “Vô lượng Phật độ nhập vào lỗ lông”: là rộng và hẹp tương nhập với nhau.
  3. “Vô lượng Tu di…”: là thô và tế tương nhập với nhau.
  4. “Một Phật nhập vô lượng chúng sinh…”: là nhân và quả tương nhập với nhau. Trong đó trước là lấy một cõi để tương nhập, sau là lấy sáu cõi tương nhập.
  5. “Phật thân nhập thân bốn đại”: là tình và phi tình tương nhập với nhau.

Một thuyết nói:

  1. Dựa theo hoa: một và nhiều tương nhập với nhau.
  2. Dựa theo Phật độ: Một và nhiều tương nhập với nhau.
  3. Phật độ và lỗ chân lông; một và nhiều tương nhập với nhau.
  4. Tu di… thô và tế tương nhập với nhau.
  5. Lấy phàm và Thánh, nội và ngoại tương nhập.

Nếu theo Bổn ký thì năm biến thì có ba ý: Năm biến là: 1. Hoa; 2. Phật độ; 3. Tu di; 4. Phật thân; 5. Nhập địa, thủy, hỏa, phong. Ba ý là:

  1. Hiện bày khắp “không”: Một hoa nhập vô lượng hoa là trừ chướng bất nguyện vui ưa đại thừa, cho nên có hun khắp không.
  2. Chuyển biến: Một Phật độ nhập vô lượng Phật độ, là để trừ chướng chấp ngã sở. Cho nên có chuyển biến.
  3. Hiển bày rõ: Một thân Phật nhập vô lượng chúng; là để trừ sợ hãi sinh tử. Cho nên hiểu rõ nhập nơi sáu đạo.

Hỏi: Tu di biển lớn nhập vào trong hạt cải, thô và tế trái nhau, làm sao nhập vào được?

Giải rằng: Các sư phương Tây, lược có ba giải thích:

Một thuyết nói: Tất cả chư pháp, dùng “như” làm tính. Lấy chỗ dựa là như, mà lìa các tướng phần. Các pháp chủ thể dựa không có lớn hay nhỏ một cách định chắc, do đạo lý này mà tế nhỏ bằng với Tu di.

Một thuyết nói: Theo lý Duy Thức thì tất cả các pháp đều không lìa thức thì tất cả các pháp đều không lìa thức, tùy theo sự biến chuyển của tâm, cũng không có tướng định mắc. Do nghĩa ấy, tế nhỏ ngang với Tu di.

Một thuyết nói: Tất cả chư pháp, theo đạo lý nhân duyên đều không có tướng định chắc. Do nhân duyên đó, sự tế nhỏ ngang với núi Tu di.

Hỏi: Sắc có thô, tế có thể đắc tương nhập. Thời gian có dài, ngắn cũng đắc tương thân?

Đáp: Cũng không sai, vì Phật tự tại. Một niệm làm nhiều kiếp. Nhiều kiếp làm một niệm, những giáo như vậy, thành và chứng khác nhau.

Hỏi: Chư Phật đắc tự tại, một niệm gồm thâu nhiều niệm chư Phật đắc tự tại, một kiếp thành nhiều kiếp. Nếu vậy, cả ba kiếp đúng phải không khác nhau, thì trái với Thánh giáo; Bồ-tát phải trải qua ba vô số kiếp siêng năng tu tập mới chứng Bồ-đề.

Đáp: Thắc mắc đó không đúng. Các cảnh giới phi phàm. Luận Hiển Dương và Du già đều nói thế. Ở bất tư nghị, mà kẻ gượng suy lường thì đắc báo thô dối.

Kinh: Phật thân… Thế giới bất khả tư nghị.

Giải thích: Phần hai: Trùng tán. Hợp năm biến trên thành ba bất tư nghị. Phật thân tức là Phật thân phần một trên. Chúng sinh tức là thân vô lượng chúng sanh ở sáu đường. Thế giới tức là bốn đại và bốn loại biến trước. Có một thuyết nói; thế giới là trừ bốn biến trước. Các nghĩa khác thì giống trên.

Kinh: Phật hiện… Thần thông Tam muội.

Giải thích: Phần hai: Chúng bấy giờ được lợi ích. Có bốn loại: 1.

Thiên nhân mười phương đắc Phật hoa định; 2. Mười hằng sa Bồ-tát hiện thân thành Phật; 3. Ba hằng sa Bát bộ thành đạo Bồ-đề; 4. Mười ngàn nữ nhân đắc định thần thông.

Hỏi: Trong một thế giới, có nhiều đức Phật đồng thời xuất không?

Đáp: Chuyển luân vương còn chẳng có hai vị đồng thời xuất, huống nữa là Phật mà cùng xuất sao?

Hỏi: Nếu vậy, sao kinh này lại nói mười hằng sa Bồ-tát hiện thân thành Phật?

Đáp: Chỉ nói hiện thân, không nói là tức thành, hiện thân thành Phật ở sáu cõi khác thì có sao đâu. Như kinh Pháp Hoa nói long nữ hiện thân thành Phật ở phương khác. Ở đây cũng như vậy.

Hỏi: Như mười ức Bồ-tát hiện thành chánh giác ở cuối phẩm thọ trì, giải thích ra sao?

Đáp: Danh từ “Phật” là chung cho cả mười địa. Kinh đại Bát-nhã, thì nói mười địa gọi là mười loại Phật. Lại như kinh Pháp Hoa, phẩm phân biệt công đức; bốn thiên hạ vị trần Bồ-tát. Một đời đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Pháp Hoa luận: Tức là sơ địaBồ-đề vô thượng. Kinh này cũng dựa theo kia, nghĩa cũng không sai sót.

Kinh: Thiện nam Tử!… Như pháp tu hành.

Giải thích: Phần ba: Tán thán về ích lợi của Bát-nhã. Khuyên chúng ta hành. Văn có hai tiết: 1. Tán thán Bát-nhã có ích lợi cả ba đời; 2. Khuyên lắng nghe, suy tư nhớ niệm tu hành. Lắng nghe là văn tuệ.

Tư niệm là tư tuệ, tu hành là tu tuệ.

—————–

PHẨM THỌ TRÌ

Giải thích phẩm này, lược có hai nghĩa:

  1. Giải thích tên phẩm.
  2. Giải thích văn kinh.

Về phần giải thích tên phẩm. Theo luận Trí Độ: Do tín lực nghe mà phụng hành là thọ. Do niệm lực, lâu ngày không mất, gọi là trì. Phẩm này chính là nói về mười ba pháp sư thọ trì Bát-nhã. Lại bảo người khác thọ gọi là phẩm Thọ trì.

Kinh: Bấy giờ, Nguyệt Quang… Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Phần hai: Chú thích theo văn. Trong năm phẩm trước, đã biện minh phần chánh tông. Cho nên hai phẩm sau này là nương theo giáo mà phụng trì. Trong đó có hai phần: 1. Thọ trì; 2. Trao gởi. Đây là phần một. Cả trong một phẩm, văn có ba phần: 1. Hỏi đáp chánh thuyết mười ba pháp sư; 2. Từ “Phật bảo Ba tư nặc…” trao vua thọ trì; 3. Từ “lúc ấy chư đại chúng…” Lúc ấy, chúng được lợi ích. Trong phần một có hai phần: 1. Nguyệt Quang vương hỏi; 2. Đại mâu ni Như Lai chánh thuyết. Trong phần thỉnh có hai phần: 1. Thấy điềm mà nghi; 2. Phát lời xin hỏi. Đây là phần một. Văn có ba tiết: 1. Thấy năm loại thần biến của Phật Thích ca; 2. Thấy Phật Bảo Mãn trên đài: “Là tất cả Phật hóa thân chủ” nếu theo kinh Phạm Võng thì đó là Phật Lô-xá-na, còn gọi là Lô-chiết-la. Tiếng Hoa gọi là chiếu. Vì sắc tịnh của báo Phật hiện rõ khắp pháp giới. Lại nữa, ánh sáng đèn Nhật Nguyệt tỏa khắp một xứ, cũng là Lô-xá-na. Hoặc có thể phiên dịch theo ý nghĩa, gọi là Bảo Mãn. Phật này hóa ngàn lá Thích ca Phật và hóa Phật trên trăm ức cánh hoa, cho nên bảo là hóa thân chủ; 3. “Lại hiện ngàn Phật trên thế giới cánh hoa”: tức là ngàn Phật trên ngàn cánh hoa: và trăm ức Phật trên mỗi một cánh. Trong đó chư Phật như trên, mỗi một Phật đều thuyết Bát-nhã Ba-la-mật. Đó là đúng với kinh Phạm Võng nói:

Ta nay Lô-xá-na

Vừa ngồi đài hoa sen

Châu vòng trên ngàn hoa

Lại hiện ngàn Thích ca

Một hoa trăm ức nước

Một nước một Thích ca

Đều ngồi cội Bồ-đề

Một lúc thành Phật đạo.

Hỏi: Phật Bảo Mãn trên, trong ba thân thì được gồm thâu trong thân nào?

Có thuyết nói: Là thân tự thọ dụng. Thuyết đó không đúng, vì cõi tự thọ dụng thì không có pháp chúng. Có thuyết nói: Thân tha thọ dụng. Đây cũng không đúng. Vì các chúng vi trần đều nghe Phật thuyết pháp. Nay giải; ở trong hóa thân, gốc ngọn sai biệt, chẳng phải là thân thọ dụng. (xem thêm kinh Vô thượng y, kinh Đại thừa Đồng tính, phần Tỳlô-giá-na và Thích ca, có gì sai biệt.)

Kinh: Bạch Phật… không thể dùng thức mà biết.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Phát lời xin hỏi: Trước là tán thán sau là thỉnh. Đây là phần tán thán.

Nếu theo Bổn ký: vì vượt qua cả ngôn thuyết, nên không thể thuyết nói được. Vì vượt qua cả tâm tưởng, nên không thể giải, hiểu. Vì vượt qua cả sự thấy biết, nên không thể dùng thức mà biết được. Đó là đúng với luận Trí Độ nói: Dứt đường ngôn ngữ, diệt xứ tâm hành. Theo kinh giải Thâm Mật thì tuyệt đường lời ý.

Kinh: Làm thế nào… Khai mở con đường pháp “không”.

Giải thích: Phần hai: Thỉnh, Khai: là khái phát. Đạo là con đường thánh đạo. Ở cảnh nhân, pháp, khai phát tuệ “không”, gọi là đạo pháp “không”.

Ý hỏi là: Bát-nhã thâm diệu mà chư Phật đã thuyết. Là khó nói ra, khó biết được, thì làm thế nào để các thiện nam ở trong kinh này hiểu biết rõ ràng, phải nương theo quán môn gì để khai mở con đường pháp “không”.

Kinh: Đại Mâu ni nói: Là đại pháp vương.

Giải thích: Phần hai: Như Lai chánh thuyết. Trong có ba phần: 1. Tổng nêu; 2. Từ “Này thiện nam! Pháp sư đó…” giải thích riêng; 3. Từ “Này thiện nam! Chư Bồ-tát như vậy…” Tổng kết. Trong phần một. Có ba phần: 1. Tổng nêu; 2. Kể riêng; 3. Khuyên cúng. Đây là phần một.

Kinh: Từ tập nhẫn… y trì kiến lập.

Giải thích: Phần hai: Kể riêng. Y: là chỗ dựa. Trì: là thâu giữ. Vì chỗ dựa của chúng mà có thể thâu giữ chúng, kiến lập chánh pháp.

Kinh: Đại chúng các ông… mà cúng dường.

Giải thích: Phần hai: Khuyên cúng. Đã rõ.

Kinh: Này thiện nam! Pháp sư đó.

Giải thích: Phần hai: Giải thích về mười ba pháp sư. Văn có hai phần: 1. Nêu tên chung; 2. Thứ lớp giải thích. Đây tức là phần một.

Kinh: Bồ-tát tập chủng tính.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Thứ lớp giải thích riêng mười ba pháp sư. Chia làm mười ba phần: Đây là phần một. Tập chủng tính. Văn có năm phần: 1. Nêu ngôi vị, kể tên; 2. Biện minh loại sai biệt; 3. Hạnh nghiệp bất đồng; 4. Nêu kém để hiển hơn; 5. Thời gian nhập vị. Đây là phần một: Nêu vị kể tên.

Nghĩa là: trong mười ba pháp sư, pháp sư thứ nhất tên là Bồ-tát tập chủng tính.

Kinh: Nếu tại gia… Tỳ-khưu-ni.

Giải thích: Phần hai: Biện minh loại sai biệt. Biện minh về bốn chúng: 1. Bà-sai; 2. Ưu-Bà-sai; 3. Tỳ-khưu; 4. Tỳ-khưu-ni.

Bà-sai: còn gọi là Ưu-bà-tắc. Đều là lược sai, đúng thì: Ô-basách- ca. Tiếng Hoa gọi là Cận sự nam. Ô-ba-tư-ca: tiếng Hoa gọi là Cận sự nữ. Sách là nam thanh. Tư là nữ thanh. Nghĩa là: họ thân thừa thiện sĩ lâu ngày, nên gọi là cận sự. Đã giải thích rộng như trên, Tỳ khưu và Tỳ-khưu-ni; cũng đã giải thích như trên.

Kinh: Tu hành thập thiện.

Giải thích: Phần ba: Hành nghiệp bất đồng. Văn có ba phần: 1. Tu thập thiện; 2. Tu nhẫn bất tịnh; 3. Trú ở Phật gia. Đây là phần tu thập thiện. Nghĩa là: mười nghiệp đạo thiện. Không sát sanh… hoặc có thể là mười tín. Mười loại tín tâm tuy có hai thuyết, nhưng theo Bổn ký, ý lấy mười tín.

Kinh: Tự quán thân mình… phần phần bất tịnh.

Giải thích: Phần hai: Tu nhẫn bất tịnh, tự có ba loại: 1. Quán sáu đại bất tịnh; 2. Quán các căn bất tịnh; 3. Quán tam giới bất tịnh. Đây là quán sáu đại.

Nghĩa là: Sáu giới thành thân của các hữu tình. Là bốn đại, và không giới, Sắc giới hữu lậu thức, đều là hữu lậu, vì có thể bị hư hoại.

Gọi là bất tịnh. Quán riêng từng sáu giới, cho nên bảo là phần phần.

Kinh: Lại quán mười bốn căn… tâm Bồ-đề.

Giải thích: Phần hai: Các căn bất tịnh.

Nghĩa là: ở trong hai mươi hai căn, lại quán mười bốn căn, là bất tịnh. Là năm căn, có năm thức tình, hoặc có thể là gồm thâu hữu tình số, gọi là năm tình căn. Năm thọ căn là; khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, và nam, nữ, ý, mệnh, đều là hữu lậu, có lỗi lầm vô lượng, nên thuyết là cả mười bốn thứ đều là bất tịnh. Năm căn; tín… và ba vô lậu đều chỉ là thiện tính. Không có thuyềt về các lỗi lầm, nên người quán hạnh là quán mười bốn căn, thì phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Kinh: Thường tu tam giới… Môn nhẫn quán.

Giải thích: Phần ba: Quán tam giới bất tịnh.

Nghĩa là: pháp trói buộc trong tam giới đều là hữu lậu, cho nên cũng là bất tịnh.

Hỏi: Bốn tĩnh lự và Vô Sắc giới, cũng có pháp tịnh, sao lại nói là bất tịnh?

Đáp: Bất tịnh có nhiều loại. Như luận Du già quyển hai mươi sáu nói: Có sáu loại bất tịnh.

1. Ô uế bất tịnh tự có hai loại:

-Nương theo bất tịnh ở bên trong; là lông, tóc…

-Nương theo bất tịnh ở bên ngoài; bầm xanh, …

2. Khổ não bất tịnh: Nghĩa là thọ sinh ra do tiếp xúc khổ.

3. Hạ liệt bất tịnh: là Dục giới.

4. Quán đãi bất tịnh: Như so với sự thanh tịnh của vô sắc thì các pháp thuộc Sắc giới tựa như là bất tịnh. So với Bồ-ca-da, Niết-bàn tịch diệt, thì cho đến hữu đảnh, đều tựa như là bất tịnh.

5. Phiền não bất tịnh: Nghĩa là: tất cả mọi kết phược, thùy miên, tùy phiền não triền có trong tam giới.

6. Ví hoại bất tịnh: Nghĩa là: năm thủ uẩn, vô thường vô hằng. Không thể bảo tín, biến hoại pháp tính. Nói đủ như nơi Luận kia. Do vậy tĩnh lự, vô sắc đều gọi là bất tịnh.

Kinh: Trú ở Phật gia.

Giải thích: Phần ba: Trú ở Phật gia. Văn có hai phần: 1. Trú tại Phật gia; 2. Tu sáu hòa kính. Đây là phần một.

Nghĩa là: không, vô ngã là trụ xứ của Phật, gọi là Phật gia. Tập chủng tính đó, mới bắt đầu chứng lý “không”, nên gọi là trú.

Kinh: Tu sáu hòa kính…. Ba-la-mật đạo.

Giải thích: Phần hai: Tu sáu hòa kính. Nghĩa là: Do trú ở Phật gia, cho nên tu sáu hòa kính; là ba nghiệp; đồng giới, đồng kiến, đồng học tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật là sáu hòa kính.

Kinh: Thiện nam tử!…. có thối có tiến.

Giải thích: Phần bốn: Nêu cái kén để hiển cái hơn. Văn có hai phần: 1. Nêu kém. 2. Từ “Làng định… .” hiển bày hơn.

Trong phần một có hai phần: 1. Giải thích về ngôi vị kém trên; 2. Từ “tuy dùng…” thích về phục khó. Trong phần một có ba phần: Pháp, Dụ, Hợp. Đây là phần pháp thuyết.

Nghĩa là: Bồ-tát thập tín, trước khi đạt tập nhẫn, thì có thối có tiến, cho nên gọi là ngôi vị kém.

Kinh: Thí như lông nhẹ theo gió mà khi đông khi tây.

Giải thích: Phần hai: Nêu dụ. Đã rõ.

Kinh: Bồ-tát ấy cũng lại như vậy.

Giải thích: Phần ba: Hợp Dụ. Đã rõ.

Kinh: Tuy dùng mười ngàn kiếp… gọi là người bất định.

Giải thích: Phần hai: Điều phục khó. Văn có hai tiết: 1. Nhắc lại ba điều phục khó: 2. Từ “Nhưng không thể… ” là nêu tông.

Lược đáp về Bồ-tát thập thiện, có ba nghĩa: 1. Dùng mười ngàn kiếp thực hành mười chánh đạo; 2. Phát tâm Bồ-đề, sẽ nhập nhẫn vị tập; 3. Cũng thường học ba phục nhẫn, đã đủ ba nghĩa, đúng là phải bất thối, sao nay lại nói là có thối có tiến? Vì vậy mà nói lời đó. Tuy là có ba sự, nhưng không thể đặt tên. Là Tập chủng tính, đó danh là Người bất định.

Kinh: Người định đó…. tính Thánh nhân.

Giải thích: Phần hai: Hiển bày Thắng vị thù thắng. Văn có hai phần: 1. Chứng lý; 2. Lìa lỗi. Đây là phần một.

Nghĩa là: Ngôi vị là Thập trú, mới bắt đầu chứng lý sinh “không”. Do bởi chứng đắc tính Thánh nhân. Danh là Người định, cũng là Bất thối.

Hỏi: Bồ-tát chủng tính đó, như kinh này là chắc chắn không thối sao? Hoặc có thì sao?

Giải rằng: Giả sử vậy có sao đâu, phân biệt chi tiết đã nói ở trên.

Kinh: Ắt sẽ không khởi…. không có chuyện đó.

Thích viết: Phần hai: Lìa lỗi (lìa lỗi lầm). Có bốn trọng:

1. Không khởi năm nghịch: giết cha, mẹ, A-La-Hán, làm chảy máu thân Phật, phá hòa hợp Tăng.

2. Không khởi sáu trọng: Như kinh Ưu-bà-tắc giới, quyển bốn, phẩm Thọ giới nói: không sát sanh, không trộm cướp, không dâm đảng, không vọng ngữ, không nghiện rượu, không hủy báng lỗi lầm của bốn chúng xuất gia và tại gia. Nói chi tiết như kinh kia. (Các kinh khác hoặc nói là bốn trọng, tám trọng. Bốn trọng là: 1. Tham lam đố kị; 2. Keo kiết; 3. Sân giận; 4. Báng bổ. Tam bảo Tạng nói tám trọng là: tức tám trọng của Bồ-tát. Bốn trọng trước gia thêm bốn trọng, thì gọi là tám trọng. Nói mười trọng là: Sáu trọng trên gia thêm bốn, (các tham,… cực nặng trong các lỗi lầm, gọi là trọng.

3. Không khởi hai mươi bốn khinh: cũng như kinh Ưu-bà-tắc, phẩm Thọ giới nói: 1. Không cung cấp nuôi nấng cha mẹ, Sư trưởng; 2. Đam mê vui thú uống rượu; 3. Ghét bỏ không thăm nom người bệnh khổ; 4. Thấy có người ăn xin, không thể nhiều ít tùy nghi mà cho, để họ tay không trở về; 5. Như gặp Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, trưởng lão, tiên túc, chư Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… không đứng dậy nghinh đón, lễ bái hỏi han; . Nếu thấy Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hủy giới đã thọ, tâm sinh kiêu mạn, nói là ta hơn họ, họ không bằng ta; 7. Trong hàng tháng, không thể sáu ngày thọ trì tám giới, cúng dường Tam bảo; . Trong vòng bốn mươi dặm có nơi giảng pháp, không đến nghe; . Thọ đồ dùng giường nằm, chỗ ngồi của Tăng Chiêu đề; 10. Nghi nước có sâu trùng mà vẫn cứ uống; 11. Những nơi nguy hiểm, đi một mình không có bạn cùng đi; 12. Ở lại chùa ni một mình; 13. Vì tiền mà đánh mắng các nô tỳ, đồng bộc, người ngoài; 14. Lấy đồ ăn dư thí cho Tỳkhưu, Tỳ-khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; 15. Nuôi mèo chồn; 1. Nuôi dưỡng voi, ngựa, bò, dê, lạc đà, tất cả súc thú. Không tịnh thí cho những người chưa thọ giới; 17. Không tích chứa Tăng già lê y, bát, thau, tích trượng; 1. Nếu vì thân mạng, cần phải làm ruộng, không cầu nước sạch, và xứ lục chủng; 1. Nếu làm buôn bán, cân đong bán hàng, vừa trả giá xong, không được cướp trước, bỏ rẻ bán mắc, đong cân lường hàng, không đúng cân lượng; 20. Như ở chỗ phi xứ, phi thời hành dục; 21. Làm ăn buôn bán, không nộp thuế quan, trốn thuế bỏ đi; 22. Nếu phạm quốc che; 23. Nếu thu được lúa gạo rau quả mới, không trước tiên phụng sự hiến sư, cúng dường Tam bảo, mà tự thọ dụng trước; 24. Tăng nếu không nghe thuyết pháp tán thán, liền tự ý tự tác; 25. Trên đường đi, đi trước chư Tỳ-khưu, Sa-di; 2. Múc đồ ăn trong Tăng, nếu thiên lệch về một sư, chọn lựa các thức ăn ngon, đưa cho quá phần; 27. Như nuôi tằm; 2. Đi đường gặp người bệnh, không dừng lại xem xét, để giúp phương tiện, gởi gắm chỗ ở, mà bỏ đi.

4. Không khởi hủy báng pháp: Nghĩa là người định vị, không báng pháp Phật, kinh sách, nói là chẳng phải Phật thuyết. Kinh. Có thể dùng một A-tăng-kỳ…. vị Tăng-già-đà Giải thích: Phần bốn – Thời gian nhập vị.

Tiếng Phạm là A-tăng-kỳ kiếp, tiếng Hoa gọi là vô số kiếp. Nghĩa là số năm tháng ngày, không thể đếm được, gọi là A-tăng-kỳ. Hoặc kiếp tam tai, cũng không thể đếm được. Còn tông Đại Tiểu thừa gọi Tam Atăng-kỳ là A-tăng-kỳ. Nay ở đây thì theo số ngày tháng năm chẳng phải là tam Tai… Vị Tăng-già-đà: Tướng truyền chú thích: là Tính chủng tính, hoặc gọi là Ly chấp trước. Nghĩa là chứng nhân (người) “không”, nhưng không chấp trước các ngã, hữu tình….

Ý đó nói: Một tăng kỳ tu hành tập nhẫn, mới bắt đầu nhập tính chủng tính.

Kinh: Lại nữa, tính chủng tính.

Giải thích: Phần hai – Tính chủng tính. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên. 2. Biện minh quán sai biệt. 3. Thời gian nhập vị. Đây tức phần một.

Sơ học gọi là Tập. Do tập lâu thành tính, mười hạnh mới gọi là tính chủng tính.

Kinh: Thực hành mười tuệ quán.

Giải thích: Phần hai – Biện minh quán sai biệt. Trong đó có năm phần: 1. Hành quán hạnh; 2. Diệt chướng; 3. Biết tục; 4. Luyện quán; 5. Tu hạnh. Đây tức phần một.

Nói “Thực hành mười tuệ quán”: là bốn niệm xứ, ba thiện căn và quán ba đời. Như trong phẩm Giáo Hóa trước đã nói.

Kinh: Diệt mười điên đảo.

Giải thích: Phần hai – Diệt chướng. Nói: “Diệt mười điên đảo”: là quán bốn niệm xứ trừ bốn điên đảo, quán ba thiện căn trừ ba độc, Quán ba đời trừ chấp vào ba đời; định chắc là có nhân quá khứ, có quả vị lai, và nhân quả hiện tại mà chấp, đều không thuận lý, đều gọi là điên đảo.

Kinh: Và Ngã, Nhân, Tri kiến…. bất khả đắc.

Giải thích. Phần ba: Biết tục.

Nghĩa là Ngã, Nhân, Tri kiến là dựa theo thế tục mà nói. Từng phần giả ngụy mà chẳng thật có, chỉ có danh, tức chính là giả danh. Chỉ có thọ, tức là thọ giả. Chỉ có pháp, tức là pháp giả, do đạo lý đó, thật bất khả đắc, nên biết ngã, nhân… đều là thế tục hữu.

Kinh: Tướng vô định…. tu đạo “không” quán.

Giải thích: Phần bốn – Luyện quán. “Vô định tương” là nêu chung về ngã pháp. “Không có tướng định, do không có tướng tự tha”: là giải thích riêng về ngã pháp không có tướng tự tha. Đây thì có hai giải thích: một thuyết nói: vô tự tướng là hiển bày tướng vô ngã. Tướng vô tha là tướng vô pháp. Một thuyết nói là vô tự tướng là không có tướng nhân ngã, pháp ngã. Vô tha tướng: là không có tướng của hai loại ngã sở nơi nhân ngã và pháp ngã. “Tu Hộ Quán môn”: như quán môn trên. Chưa đắc thì gọi là tu. Đã đắc thì gọi là hộ. Ý nghĩa đoạn văn trên khó hiểu, có các thuyết khác, e nhiều nên không kể.

Kinh: Cũng thường hành trăm vạn… niệm niệm không bỏ tâm.

Giải thích: Phần năm – Tu hành. Nghĩa là trong ngôi vị này, quán lần lần thắng, cho nên hành các Ba-la-mật thường không lìa tâm. Kinh: Dùng hai A-tăng-kỳ…. vị Ba-la-đà Giải thích: Phần ba – Thời gian nhập vị.

“Ba-la-đà” nếu theo Bổn ký thì dịch là Thủ Hộ, nghĩa là ngôi vị đạo chủng tính, hạnh đó kiên cố chắc chắn, không mất tự tính, gọi là vị thủ hộ, đây là nói về mười hạnh dùng hai A-tăng-kỳ, thực hành pháp chánh đạo, đắc trụ mười hồi hướng. Nếu theo Bổn Ký thì phối thuộc mười hạnh, gọi là đạo chủng tính, tức trái với kinh thuyết là Phục Nhẫn Thánh Thai ba mươi người.

Kinh: Lại nữa, Đạo chủng tính.

Giải thích: Phần ba – Đạo chủng tính. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Biện quán sai biệt; 3. Thời gian nhập vị. Đây là phần một.

Chủng tính của Thánh đạo trên địa, cho nên gọi là Đạo chủng tính. Vì vậy kinh trên nói: Tu hành thượng phục nhẫn, tiến nhập đạo bình đẳng, gọi là đạo chủng tính.

Kinh: Trú trong kiên nhẫn…. vô sinh vô diệt.

Giải thích: Phần hai – Biện minh quán sai biệt. Trong đó có hai phần: 1. Biện minh quán sai biệt; 2. Thọ báo hơn kém. Trong phần. Có ba phần: 1. Tổng nêu quán tướng; 2. Kể riêng về mười quán; 3. Nêu thắng lược kém. Đây là phần một.

Trú mười kiên tâm, gọi là trú nhẫn. Nghĩa là ở trong ngôi vị này quán tất cả pháp đều là vô sinh, sinh đã bất thành, liền không có trụ, diệt. Là nghĩa của quán “không”.

Kinh: Gọi là năm thọ… do bất khả đắc.

Giải thích: Phần hai – Kể riêng về mười quán.

Gọi là năm thọ, ba cõi nhị đế: năm thọ; năm uẩn hữu lậu, tham những sở thủ, gọi là năm thọ uẩn. Do quán những thứ ấy mà đắc năm phần pháp thân. Quán tam giới đắc ba không nhẫn. Quán nhị đế đắc hai nhẫn vô thường, vô sinh. Chi tiết như đã nói trên. Mười pháp như vậy, không có tướng tự, tha và tính như thật, do bất khả đắc, đều thuyết là không.

Kinh: Mà thường nhập… tâm tâm tịch diệt.

Giải thích: Phần ba – Nêu thắng lược kém.

Nghĩa là: ở trong ngôi vị này, tuy hành mười nhẫn, nhưng trong phần mãn, lược bớt chín nhẫn, thực hành nhẫn quán Chơn đế thứ mười. Tức thuyết là quán vô sinh nhẫn, gọi là Đệ-nhất-nghĩa-đế quán. “Tâm tâm tịch diệt”; tịch; nghĩa là tịch tĩnh. Diệt: là trừ diệt. Tức tâm hành kia niệm niệm tịch tĩnh, diệt trừ tán động, nên gọi là tâm tâm tịch diệt.

Kinh. Mà thọ sinh ba cõi.

Giải thích: Phần hai – Thọ báo hơn kém. Văn có ba phần: 1. Nêu. 2. Trưng dẫn; 3. Giải thích: Đây tức là nêu chung.

Tuy tâm tịch tĩnh nhưng thọ sinh ba cõi quả báo.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Phần hai – Trưng dẫn. Nghĩa là: ngoại đạo thắc mắc; đã đắc tịch diệt, sao lại có thể thọ báo phần đoạn?

Kinh: Nghiệp tập nghiệp báo…. thuận đạo sinh.

Giải thích: Phần ba – Chánh thích. Nghĩa là: do lực tập nghiệp huân tập mà thọ nhận sinh tử phần đoạn trong ba cõi. Có thể vì y chỉ ở Thánh đạo, gọi là Thuận đạo sinh. Hoặc có thể vì để giáo hóa hữu tình mà thọ thân nơi sáu đạo (cõi). Do thuận theo với thánh đạo, nên gọi là thuận đạo sinh. Tuy có hai giải thích, nhưng giải thích trước thì đúng hơn. Vì như trên đã nói, Bồ-tát chủng tính, không sinh ở cõi ác.

Kinh. Lại dùng ba A-tăng-kỳ kiếp…. chánh vị.

Giải thích: Phần ba – Thời gian nhập vị.

Nói “Bình đẳng Thánh Nhân địa danh”: nghĩa là nhập sơ địa Thánh đạo, Lìa tướng của chủ thể thủ và đối tượng thủ tướng. Hoặc có thể sơ địa song chứng cả hai đế. Nên bảo là bình đẳng. A-tỳ-bạt-trí: tiếng Hoa gọi là Bất Thối. Nghĩa là: sơ địa trở lên, chứng lý bất thối gọi là bất thối. Nghĩa là: ba A-tăng-kỳ tu các độ, sẽ nhập Thánh vị, sẽ trụ bất thối.

Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát Thiện Giác.

Giải thích: Phần bốn – Thiện Giác. Văn có năm phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Biện minh tu sai biệt; 3. Từ “Dùng bốn…” Thời gian nhập Tạng; 4. Từ “Không có ba cõi…” nói về thọ sinh sai biệt; 5. từ “Thường tu…” Đăng vị khác nhau. Đây tức là phần một. Nêu vị kê tên theo trên đã rõ.

Kinh: Trụ nhẫn bình đẳng… tâm không xả.

Giải thích: Phần hai – Biện minh tu sai biệt. Văn có hai phần: 1. Hiển bày tướng riêng của hai trí; 2. Từ “Như vậy! Này thiện nam!…” Nói lại về sự đồng dị của hai trí. Trong phần một có hai phần:

  1. Lập hai chương.
  2. Từ “Nhập xả Vô tướng…” là giải thích riêng hai chương. Đây tức là phần một.

Nói “Nhẫn bình đẳng”: là chương thứ nhất nói về thật tướng lìa hai tướng hữu và vô, gọi là nhẫn bình đẳng.

Nói “Tu hành bốn nhiếp, niệm niệm không bỏ tâm”: là lập chương thứ hai trí phương tiện. Nghĩa là: dùng bốn nhiếp, hóa độ chúng sanh, gọi là trí phương tiện.

Kinh: Nhập xả Vô tướng… phiền não tham.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Giải thích riêng về hai chương. Trong đó có hai phần: 1. Thật trí. Giải thích bình đẳng trên; 2. Từ “Vô lượng…” Hiển bày trí phương tiện. Giải thích bốn nhiếp trên. Trong phần một có ba phần:

  1. Tổng nêu thật trí, diệt tham của tam giới.
  2. Giải thích riêng về thật trí, chứng ba vô vi.
  3. Hiển bày vô vi, lìa tướng hữu và vô.

Đây tức phần một. Lìa xả tam luân. Vì không có tính tham nên có thể diệt phiền não tham dục trong ba cõi.

Kinh: Ở đệ nhất nghĩa…. là pháp tính vô vi.

Giải thích: Phần hai – Giải thích riêng về thật trí. Chứng hai vô vi. Văn có ba phần: 1. Pháp tính vô vi; 2. Trạch diệt vô vi; 3. Phi trạch diệt vô vi. Đây là phần một.

Ở đây có hai tên gọi: 1. Pháp tính; 2. Hư không.

Kinh: Duyên với lý mà diệt… vô vi Vô tướng.

Giải thích: Phần hai – Trạch diệt vô vi. Nghĩa là duyên với chơn như, diệt tất cả các tướng phiền não. Chơn như được hiển là trạch diệt vô vi. Có ba tên gọi: 1. Trạch diệt. Thể tức là trí. Trạch: nghĩa là giản trạch. Chọn lựa diệt đạt được, gọi là trạch diệt; 2. Số duyên diệt. Số nghĩa là tuệ số. Tuệ số đắc được, gọi là số duyên diệt; 3. Trí duyên diệt.

Trạch và trí, nghĩa của chúng là một.

Kinh: Khi trụ sơ nhẫn…. vô vi Vô tướng.

Giải thích: Phần ba: Phi trạch diệt vô vi. Nghĩa là: trụ trong tín nhẫn, đệ nhất hạ nhẫn, thì mãi mãi đoạn dứt tất cả phiền não phân biệt. Cho nên có thể ở trong vô lượng pháp vị lai, đắc phi trạch diệt. Vô vi Vô tướng. Đây có ba tên gọi: 1. Phi trạch diệt; 2. Phi số duyên diệt; 3. Phi trí duyên diệt, theo trên đã rõ. Nhưng hai diệt này, có sự sai biệt là; theo tông Tát-bà-đa, do trí đoạn chướng, gọi là trạch diệt. Diệt không do trí, gọi là phi trạch diệt. Theo tông Kinh bố trí hữu lậu đoạn dứt, gọi là phi trạch diệt, trí vô lậu đoạn dứt gọi là trạch diệt. Nay theo đại thừa, giống với tông Kinh Bộ, đã nói đầy đủ như ở chương khác.

Hỏi: Chẳng phải hư không và cảnh trí phi trạch diệt phi vô lậu, thì làm sao trí vô lậu chứng được ba vô vi.

Giải: Các tông bất đồng; tông Tát-bà-đa không chấp nhận trí vô lậu duyên với hai vô vi. Theo tông Đại thừa thì ở trên chơn như do giả an lập, nên chấp nhận là duyên hợp.

Kinh: Vô vi Vô tướng… vô Vô tướng.

Giải thích: Phần ba – Hiển bày ba vô vi, lìa tướng Hữu và Vô. Ý hiển bày tính của ba loại đó đều không. Nhưng giải thích đoạn văn này thì các thuyết bất đồng: Một thuyết nói: Giải thích Vô tướng có ba câu: 1- Vô tự tha, là dứt bỏ tướng hữu. Vô vô là dứt bỏ tướng vô. Nói là do Vô tướng; là dứt bỏ cả hai tướng hữu và vô. Hoặc có thuyết nói: dứt bỏ cả bốn câu: Vô tướng tự tha; là dứt tướng hữu. Vô vô là dứt bỏ tướng vô. Nói Vô tướng: là dứt bỏ câu thứ ba: vừa hữu vừa Vô tướng và câu thứ tư: phi hữu phi Vô tướng. Nay giải thích: vô tự tha: là dứt bỏ ngã tướng tức hiển bày lý sinh không là vô. Vô Vô tướng là hiển bày lý pháp không là phi Vô tướng, nên bảo là vô vô. Phi hữu tướng nên bảo là Vô tướng.

Kinh: Vô lượng phương tiện đều Quán Hiện Tiền.

Giải thích: Phần hai – Hiển bày trí phương tiện. Văn có hai phần: 1. Tổng nêu sáu loại; 2. Giải thích riêng về sáu loại. Đây tức phần một. Cũng chẳng phải một, nên gọi là vô lượng. Chẳng phải nội chứng trí, nên gọi là phương tiện.

Kinh: Thật tướng phương tiện…. không điên đảo.

Giải thích: Từ đây là phần hai – Giải thích riêng về sáu loại phương tiện. Tức chia làm sáu phần. Đều có hai đoạn: trước là nhắc lại, sau là giải thích. Đây là phần thích thứ nhất về thật tướng phương tiện. Duyên với đệ nhất nghĩa, nên gọi là thật tướng, khởi công năng khéo léo, gọi là phương tiện.

Hỏi: Có sai biệt gì với trí căn bản ?

Giải rằng: Như luận Thành Duy Thức nói: trí căn bản thì chứng tự thể ở bên trong, không biến hình ảnh. Trí hậu đắc này thì duyên với cảnh chơn như, biến hình ảnh mà duyên, không thể tự nó chứng ở Đệnhất-nghĩa-đế. Nói không chìm , thì các thuyết bất đồng. Nếu theo Bổn ký thì phàm phu gọi là trầm chìm, vì chìm trong sinh tử. Nhị thừa thì gọi là xuất ra, vì xuất ra khỏi sinh tử. Ba mươi tâm đến địa thứ mười, đã hoàn trả gọi là bất chuyển. Phật địa thì gọi là bất điên đảo. Trong mười hồi hướng thì học pháp này. Thuyết đó không đúng, nguyên do là sao? Vì kia giải thích về “Như vậy! Này thiện nam!…” Là mới thuộc về sơ địa, mà các đoạn văn kinh ở trên là thuộc mười hồi hướng, không đúng với ý kinh, nên nay không theo. Nay giải thích không như vậy: Sơ và nhị địa như trên, mười trụ hạnh có thể chuyển, mười hồi hướng còn có điên đảo. Sơ địa thì lìa bốn ngôi vị trước, cho nên nói là “Tứ bất”. Trầm: nghĩa là hôn trầm tức làm chướng định. Xuất: tức là trạo cử, tức là chướng tuệ. Chuyển: là nghi và các hoặc điên đảo sót lại, tức là các đảo về ngã kiến. Khi nhập sơ địa, thì lìa bốn lỗi trên, gọi là “Tứ bất”.

Kinh: Học khắp phương tiện…. học tất cả.

Giải thích: Phần hai – Học khắp phưong tiện. Theo Bổn ký nói: trong tục có chơn chẳng phải chứng. Trong chơn có tục chẳng phải không chứng. Có thuyết nói: Trong năm thừa, không chọn người, trời và nhị thừa, cho nên chẳng phải chứng. Do có đại thừa, cho nên là chẳng phải không chứng. Như Luận Thành Thật nói: Rộng học các dị luận, biết khắp ý bậc Thánh. Lại nữa, kinh Thiện Giới nói: Học khắp năm minh luận, nhưng không phân biệt chứng hay không chứng, tuy chẳng phải chứng, hông chứng, nhưng có thể học tất cả pháp. Có bản nói: “Học tất cả” là sai.

Kinh: Hồi hướng phương tiện mà hướng đến Nhất-thiết-trí.

Giải thích: Phần ba – Hồi hướng phương tiện. Nghĩa là: cầu đại Bồ-đề, khác với nhị thừa, cầu trụ tiểu quả, gọi là phi trụ quả. Khác với phàm phu không có cầu trụ quả, gọi là phi chẳng trụ. Cầu hướng đến Bồ-đề, gọi là Hướng Tát-bà-nhã (Nhất-thiết-trí).

Kinh: Tự tại với ma… không bị lay động do bốn ma.

Giải thích: Phần bốn – Phương tiện tự tại đối với ma là phương tiện tiếp dẫn. “Phi đạo mà hành Phật đạo”: tức như kinh Duy-ma nói: hoặc hiện làm dâm nữ, tiếp dẫn những người hiếu sắc; trước là lấy dục để dẫn dắt, sau là làm cho nhập vào Phật đạo.

“Ma bất động”: tức trong kinh Duy ma; lại tại dục mà hành thiền khiến tâm ma loạn, không đắc những tiện lợi đó.

“Bốn ma” là: 1. Phiền não; 2. Ấm ma; 3. Tử ma; 4. Thiên ma. Bốn ma đó gia thêm vô thường, vô ngã, bất tịnh, khổ gọi là tám ma. Lại giải thích: tuy hành ma sự, xảo tiện tự tại, cho nên gọi là phương tiện tự tại đối với ma. Vì vậy mà kinh Duy-ma-cật nói: Bồ-tát giải thoát trú bất khả tư nghị, dùng lực phương tiện giáo hóa chúng sanh, hiện tác ma sự. Lại nữa, phẩm Phật đạo nói: Nếu Bồ-tát hành ở phi đạo. Ấy là thông đạt Phật đạo.

Hỏi: Sao Bồ-tát lại thực hành ở phi đạo ?

Đáp: Bồ-tát hành năm vô gián mà không có não loạn, cho đến thị hiện có thê thiếp nô tì, nhưng thường xa lìa bùn lầy năm dục. Đó là Bồtát thông đạt Phật đạo. Nói đủ như kinh kia.

Kinh: Nhất thừa phương tiện… tất cả hạnh.

Giải thích: Phần năm – Phương tiện nhất thừa.

Nghĩa là: lý và thể không hai, cho nên thuyết là nhất thừa. Ở pháp nhất thừa, khéo biết tướng sai biệt của chúng sanh, gọi là phương tiện. “Tướng bất nhị”: là giải thích về nhất thừa trên. “Ở trong thông đạt tất cả Hành tướng”: là giải thích về phương tiện đó. Lại nữa, kinh Quang Minh nói: pháp giới không có phân biệt. Vì độ chúng sanh mà phân biệt thuyết ba thừa. Lại nữa, kinh Pháp Hoa nói: chư Phật dùng lực phương tiện, ở một Phật thừa, phân biệt thuyết thành ba. Nói đủ về nhất thừa, nghĩa như chương khác.

Kinh: Phương tiện biến hóa… Tịnh Quốc Độ Phật.

Giải thích: Phần sáu – Phương tiện biến hóa. Nói: “Biến hóa”: là tên gọi khác của biến dịch, cho nên luận Hiển Dương và Duy Thức, theo đó nói là Biến sinh tử, gọi là biến hóa sinh.

Ở đây là nói về Bồ-tát địa thượng. Do nguyện lực ở trong tịnh độ, thọ biến sinh, không thọ cái thân phần đoạn trong tam giới, nên gọi là phương tiện biến hóa.

Kinh: Như vậy! Này thiện nam!… Thật trí chiếu.

Giải thích: Phần hai – Hiển bày lại sự giống và khác nhau giữa hai trí. Trong đó có ba phần: 1. Kết tướng khác nhau trên; 2. Nêu dụ để hiển phi nhất phi dị; 3. “Dùng tất cả hạnh thành tựu”; là hiển hạnh thành tựu. Đây tức là phần một. Văn có hai phần: 1. Hiển bày tướng của thật trí; 2. Hiển bày trí của phương tiện. Đây tức là phần một.

Nghĩa là: ở sơ địa, trí căn bản sinh ra, bắt đầu giác biết sinh và pháp cả hai đều không, nên bảo là sơ giác trí. Tức là giác trí này, ở tướng hữu và vô, nhưng không hai khác, đó là vì thật trí chiếu. Như đoạn văn trước đã nói: do Vô tướng tự tha, vô Vô tướng.

Kinh: Xảo dụng không chứng… phương tiện quán.

Giải thích: Phần hai – Hiển bày trí phương tiện.

Nói “xảo dụng”: là nêu chung cả bốn dụng, nghĩa là hậu đắc trí ở địa đó, bốn dụng xảo diệu, gọi là xảo dụng.

“Không chứng…”: là nói riêng bốn dụng. Không chứng khác với ngoại đạo chứng bốn tĩnh lự, cho là Niết-bàn. Không trầm; là khác với phàm phu, chìm trong sinh tử. Không xuất; là khác với nhị thừa xuất ly sinh tử. Không đến; là khác với Bồ-tát địa tiền, không đến sơ địa. Hoặc có thể nói “không đến” là sai lầm, phải nói là “không” đảo: nghĩa là Bồ-tát địa tiền còn khởi điên đảo, vì lược bỏ, nên nói là không đảo. “Đó là Quán phương tiện”: là kết bốn dụng trên, đều là trí hậu đắc.

Kinh: Thí như nước và sóng không một không khác.

Giải thích: Từ đây là phần hai – Nêu dụ. Hiển bày phi nhất, dị. Văn có hai phần: 1. Nói về hai trí không một không khác; 2. Hiển bày các hạnh.

“Cũng thể phi nhất, dị” nghĩa là: hai trí trên cùng một Sát-na, hai dụng khác nhau, cho nên là không một. Do cùng một tuệ cho nên là không khác. Thí như sóng và nước, thể và tướng khác nhau, nên không một. Sóng tức là nước, nên không khác.

Kinh: Cho đến tất cả hành… không một không hai.

Giải thích: Phần hai – Giải thích loại. Các hành cũng phi nhất phi dị. Nghĩa là: Như hai trí không một không khác, như vậy cho đến tất cả tám vạn bốn ngàn hành Ba-la-mật, các môn thiền định và môn Đà-lani, lần lượt so vọng với nhau, đều phi nhất, dị.

Kinh: Mà từng mỗi một hành thành tựu.

Giải thích: Phần ba – Hiển bày hành thành tựu. Nghĩa là: ở trong vị này, do hai trí thành, mà tất cả các hành khác, đều thành tựu.

Kinh: Dùng bốn A-tăng-kỳ… môn công đức tạng.

Giải thích: Phần ba – Thời gian nhập tạng, nghĩa là: ở địa này,quán vô lậu thành, thâu chứa tất cả các môn công đức. Do vậy mà biệt lập môn công đức tạng. Lý phải ứng với các ngôi vị, phải có môn này, vì chẳng phải là khởi đầu, nên không biệt lập, trong đây ý nói bốn A-tăngkỳ thực hành các hạnh mà nhập môn ấy. Có giải thích nói: Đoạn văn này đúng thì phải nằm sau đoạn văn trên, phải đặt sau đoạn văn tất cả tịnh độ, mới nói đoạn văn này, nguyên do là sau? Vì bốn kiếp đã mãn mới nhập ngôi vị sau.

Kinh: Không có nghiệp của tam giới… do rốt ráo mà không tạo mới.

Giải thích: Phần bốn – Thọ sinh sai biệt. Văn có hai phần: 1. Bất sinh tam giới; 2. Sinh ở tịnh độ. Đây là phần một.

Nghĩa là: Nhập sơ địa, đoạn dứt phân biệt ngã kiến, không tạo nghiệp trong tam giới, cho nên xong hết các nghiệp cũ, mà không tạo mới.

Hỏi: Bồ-tát Địa thượng, không thọ thân phân đoạn. Các đoạn văn nói về thọ báo làm mười vua thì lấy gì để thọ dụng?

Đáp: Các sư ở Tây phương. Tự có hai giải thích: Một giải thích là Bồ-tát Địa thượng đều thọ biến dị sinh, cho nên thọ mười vua đều là hóa thân, nếu không vậy thì mười xứ phải không thấy vua, do diệu thân biến dị chẳng phải là cảnh kia.

Một giải thích nói: có một Luận sư, tên là Điều Phục Quang. Theo kinh Giải Thâm Mật nói như thế này: tám địa trở lên, thân vương được hiện ra đều chỉ là biến hóa. Bảy địa trở về trước, vì khởi phiền não làm nghiệp trong tam giới, thọ thân phân đoạn, đó tức thật thân, thọ báo mười vua, nên không có sai.

Kinh: Nhờ nguyện lực… tất cả tịnh độ.

Giải thích: Phần hai – Nhờ nguyện lực, sinh ở tịnh độ. Có thuyết nói: Theo đa phần mà nói, nếu phiền não trợ lực thì hoặc sinh ở tam giới, như Điền Phục Quang đã nói.

Kinh: Thường tu quán xả… thường trao cho người.

Giải thích: Phần năm – Đăng vị sai biệt. Văn có hai phần: 1. Nói về đăng vị; 2. Nói về Thí báu. Đây là phần Đăng vị Cưu ma gia. Nếu theo Bổn ký thì dịch là Thắng ma ác. Sơ địa thì lìa năm bố úy vượt, qua ma nhị thừa.

Kinh: Dùng bốn đại bảo tạng thường trao cho người.

Giải thích: Phần hai: Bảo thí. Các thuyết bất đồng: Một thuyết nói: Tam Tạng và Tạp Tạng, Thí cho chúng sanh. Một thuyết nói: Theo kinh Thắng Man, có bốn loại Bảo Tạng: 1. Vô giá: là Bồ-tát thừa; 2. Thượng giá: Là Duyên giác thừa; 3. Trung giá: Là Thanh văn thừa; 4. Hạ giá: là Nhân thiên thừa. Nếu theo kinh Địa Trì thì bốn nhiếp làm ích cho vật, gọi là bốn Bảo tạng.

Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Đức Tuệ.

Giải thích: Phần năm – Bồ-tát Đức Tuệ. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Biện minh quán sai biệt; 3. Thời gian nhập vị. Đây tức phần một. Nghĩa là: có đủ luật, nghi, ba loại giới đức, cùng đều sinh ra với tuệ, gọi là Đức Tuệ.

Kinh: Dùng bốn vô lượng tâm.

Giải thích: Phần hai – Biện minh quán sai biệt. Văn có ba phần: 1. Hiển bày hành riêng của địa; 2. Trừ chướng; 3. Vị sai biệt. Đây là phần một. Vì muốn đối trị phiền não sân mà tu bốn vô lượng. Nghĩa như trên đã nói.

Kinh: Diệt các phiền não sân nơi ba Hữu.

Giải thích: Phần hai – trừ chướng. Do tu tuệ mà có thể diệt các phiền não sân trong tam giới. Nhưng về phiền não sân thì các tông bất đồng: Nếu theo Tát-bà-đa thì chỉ tại Dục giới. Nếu theo Tông Kinh Bộ thì sân thông cả ba cõi. Theo tông Đại thừa, các thuyết của Du-già thì giống với Tát-bà-đa. Nay theo kinh này thì giống với thuyết của Tông Kinh Bộ. Hoặc có thể kinh này tùy chuyển lý môn. Hoặc có thể là đoạn văn này là nói chung mà có ý riêng, nghĩa là: trong ba hữu. Dục giới thì có sân, nên bảo là các sân trong ba hữu. Căn cứ theo thật thì không thông các cõi trên.

Kinh: Trụ trong Trung Nhẫn, hành các công đức.

Giải thích: Phần ba – Vị sai biệt. Nghĩa là Tín Nhẫn trụ, thông cả ba địa. Đây đúng là bậc thứ hai, nên gọi là Trung nhẫn. Nghĩa là: ở trong ngôi vị này, lấy vô lượng làm chính, tu chung thông cả các hạnh.

Kinh: Dùng năm A-tăng-kỳ… hóa tất cả chúng sanh.

Giải thích: Phần ba – Thời gian nhập vị. Xà-đà-ba-la, nếu theo Bổn ký thì dịch là Lực Mãn Túc. Nghĩa là: năm đại kiếp hành quán đại từ, do thường hiện tiền mà trí lực được đầy đủ, hóa độ các chúng sanh cũng nhập vị Xà-đà-ba-la. Còn gọi là Ly ám, còn gọi là Vô úy.

Kinh: Lại nữa, Minh Tuệ Đạo nhân.

Giải thích: Phần sáu – Bồ-tát Minh Tuệ. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Biện quán sai biệt; 3. Thời gian nhập vị. Đây là phần một. Nghĩa là: ở trong ngôi vị này, hành quán ba Minh, nên gọi là Minh Tuệ.

Kinh: Thường dùng Vô tướng…. Quán ba Minh

Giải thích: Phần hai – Biện quán sai biệt. Văn có ba phần: 1- Hành riêng của địa; 2- Trừ chướng; 3- Mãn túc.

Trong phần một có hai phần:

  1. Quán ba Minh.
  2. Tướng hành. Đây là phần một.

“Quán ba Minh” là: 1. Túc mệnh trí minh; 2. Sinh tử trí minh; 3.

Lậu tận trí minh. Giải thích như trong phẩm Tựa.

Kinh: Biết pháp ba đời… tâm tâm tịch diệt.

Phần hai – Tướng của hành.

“Biết pháp ba đời, vô lai, vô khứ, vô trụ xứ”: là cảnh thực hành của ba Minh. Nghĩa là: vị lai chưa có, quá khứ thì đã diệt, hiện tại thì không dừng lại. Khác với Tông Tát-bà-đa, ba đời đều có thật thể.

“Tâm tâm tịch diệt”: do đối tượng duyên là vô, cho nên cái tâm của chủ thể duyên niệm niệm tịch diệt.

Kinh: Hết phiền não si nơi tam giới.

Giải thích: Phần hai – Biện minh ngôi vị. Do trừ chướng biết ba đời, cho nên có thể trừ cái ngu mê ba đời nơi tam giới.

Kinh: Đắc tam minh quán tất cả công đức.

Giải thích: Phần ba – nói về đức đầy đủ. Nghĩa là: trừ cái ngu của ba đời, mà đắc tùy thuận tam minh quán các công đức.

Kinh: Thường dùng sáu A-tăng-kỳ…. tất cả pháp.

Giải thích: Phần ba – Thời gian nhập vị. Gia-la-đà: tiếng Hoa gọi là Độ Biên. Nghĩa là ở trong ngôi vị này, lìa các kiến hạ tiện biên lậu, nên bảo là Gia-la-đà. Tuy có giải thích đó; nhưng cũng chưa đủ. Nghĩa là: sáu đại Tăng Kỳ, tập vô lượng minh mới nhập vị Gia-la-đà dùng hạnh Vô tướng mà thọ trì các pháp.

Kinh: Lại nữa… Bồ-tát Thánh Giác.

Giải thích: Từ đây là Pháp sư thứ bảy. Văn có ba phần: 1. Nêu danh kê tên; 2. Hiển bày hành riêng của địa; 3. Thời gian nhập vị. Đây là phần một.

Nói “Nhĩ diệm”: tiếng Hoa gọi là Trí-mẫn. Nghĩa là ở trong ngôi vị này, sinh và pháp cả hai đều không, có thể sinh Thánh đạo, nên gọi là Trí-mẫn. Nói “Đạt Thánh giác”: tức là Thánh trí được sinh ra, do ba địa trước, hành về Thí, giới, tu tương đồng với phàm phu. Ở trong ngôi này, khởi quán Đạo phẩm, sơ chứng Thánh giác, đạt lý hai không, gọi là đạt Thánh giác.

Kinh: Tu hành thuận Pháp Nhẫn

Giải thích: Phần hai – Hành riêng của địa. Văn có ba phần: 1. Tu nhẫn pháp vị; 2. Khởi năm thần thông; 3. Diệt chướng.

Trong phần một. Văn có hai phần:

1. Thuộc thuận nhẫn. 2. Trú vị. Đây là phần một. Nghĩa là: Trong thuận nhẫn, có ba ngôi vị: là thượng, trung, hạ. Địa thứ tư này, ở trong ba nhẫn, ngôi vị tại sơ nhẫn, do thuận Thánh đạo, cho nên gọi là tu hành thuận pháp nhẫn.

Kinh: Nghịch năm dòng kiến… trụ Tu-đà-hoàn.

Giải thích: Phần hai – biện minh trú vị.

Nói “Tu-đà-hoàn”: có hai nghĩa: 1. Nghịch lưu; 2. Tu tập. Ở trong địa này, khởi quán Đạo phẩm. Nghịch năm dòng kiến tập vô lượng đức, cho nên gọi là trụ vị Tu-đà-hoàn. Theo luận Du già thì dịch là Dự Lưu. Dự là nhập. Lưu tức loại dòng. Bắt đầu nhập vào dòng Thánh, nên là Dự Lưu.

Hỏi: Đó không phải là người đã khởi riêng năm kiến phần, khi nhập sơ địa, đều đã mãi mãi đoạn dứt. Sao ở đây lại nói theo địa thứ tư, nghịch năm dòng kiến.

Giải: Thật sự mà nói thì năm kiến, ngôi vị sơ địa đã đoạn dứt, nay đoạn tập khí, gọi là đoạn năm kiến. Nếu không vậy thì Nghi chỉ thuộc về phiền não phân biệt, duy chỉ bị kiến đoạn. Sao ở đây lại nói là địa thứ năm đoạn. Cho nên biết đó là dựa theo Tập khí mà nói.

Kinh: Thường dùng thiên nhãn… Thân thông đạt.

Giải thích: Đây là phần hai. Khởi năm thần thông. Ở trong vị này, chưa đến cứu cánh, nên ngoài Lậu tận thông trong sáu thần thông. Nhưng trong luận Trí Độ và đoạn văn sau nói là Bồ-tát lậu tận: là dựa theo ngôi vị chưa tận mà giả nói lậu tận, nên không trái nhau.

Kinh: Trong niệm niệm diệt tất cả kiến nơi tam giới.

Giải thích: Đây là phần ba. Diệt chướng sai biệt. Nghĩa là: ở trong ngôi vị này, phối hợp với Tu-đà-hoàn, nên nói là có thể diệt các kiến trong ba giới.

Kinh. Cũng dùng… không lìa tâm.

Giải thích: Phần ba – Thời gian hành vị. Dùng bảy đại kiếp, hành năm thần thông và Ba-la-mật, mà ở trong mãn phần, công đức như trên, thường không lìa sắc.

Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Thắng Đạt.

Giải thích: Biện minh Pháp sư thứ tám. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Hiển bày hành riêng của địa; 3. Thời gian tu hành. Đây là phần một. Nghĩa là có thể liễu đạt Nhị đế, Tam đế, gọi là Thắng đạt còn gọi là Thắng tuệ. Hoặc có thể địa này chơn và tục đều song hành. Việc khó như vậy mà địa này thắng được. Cho nên gọi là Thắng Đạt.

Kinh: Ở Thuận đạo nhẫn dùng bốn vô úy.

Giải thích: Phần hai – Hiển bày hành riêng của địa. Văn có ba phần: 1. Hành bốn vô úy; 2. Trừ chướng; 3. Nhập vị.

Trong phần địa số. Văn có hai phần:

  1. Tổng nêu bốn số.
  2. Thứ tự giải thích riêng. Đây là phần một.

Nghĩa là; Địa thứ năm nương theo Thuận đạo mà nhẫn, khởi bốn vô úy, với bốn nạn ở bên ngoài. Tâm không có sợ hãi, nên gọi là vô úy.

Kinh: Quán-na-do-tha-đế… Bậc Nhất-thiết-trí.

Giải thích: Phần hai – Thứ lớp Giải thích riêng. Về bốn vô úy thì chia làm bốn phần: Đây là phần một. Nhất-thiết-trí vô úy.

Nghĩa là: đối với hai cảnh, không có chỗ nào là không biết. 1. Quán-na-do-tha-Đế: nghĩa là Nhị, Tam đế và Bát đế,… con số rất nhiều, gọi là Na-do-tha; 2. Quán nội đạo luận: tức Nội minh luận trong năm Minh. Ngoại đạo Luận: là Nhân minh và Thanh minh. Dược phương tức là y phương. Công xảo cứu thuật; đều là Công xảo minh luận. Cả bốn Minh luận này tuy chung cả nội ngoại. Nhưng nay theo Nhất tướng, chỉ nói là ngoại. “Ta là bậc Nhất-thiết-trí”; là tự xướng lên đức hiệu. Đối với bốn vô úy đều có hai nghĩa: 1: Chấp tích sinh nghi: Nghĩa là ngoại đạo nghi thắc mắc: Phật hỏi: A-nan từ đâu đến? Hoặc hỏi: âm thanh bên ngoài là âm thanh gì vậy?… Nếu đã là người Nhất-thiết-trí, sao lại còn hỏi làm gì; 2. Tự xướng lên đức hiệu: ta là Nhất-thiết-trí là do tùy thuận với thế gian mà Phật hỏi như vậy.

Kinh: Diệt tam giới… tướng ngã đã tận.

Giải thích: Phần hai – Lậu tận vô úy.

Nghĩa là: 1. Ngoại đạo thắc mắc: Thế Tôn hoặc có lúc dùng lời ngọt ngào với La-hầu, có lúc lại mắng Đề-bà, sao lại gọi là Lậu tận. 2. Tự xướng lên đức hiệu “Lậu ta đã tận (hết)”. Thuận với thế gian mà thị hiện thương, ghét (hoặc có bản nói: “Tướng ta đã tận” là sai).

Kinh: Biết mỗi địa đều có chỗ xuất, nên gọi là xuất đạo.

Giải thích: Phần ba. Vô úy xuất khổ đạo.

Cũng có hai sự: 1. Chấp tích sinh nghi: nghĩa là: ngoại đạo thắc mắc; các Thánh-đạo không thể hết khổ, thấy A-la-hán bị các khổ rắn, trăn… tựa như là không hết khổ; 2. Tự xướng đức hiệu; nghĩa là: A-LaHán đoạn dứt nỗi khổ vị lai, nên nói là đoạn khổ, chứ không nói khổ hiện tại không có mà nói là đoạn.

Kinh: Có gì bất xuất, gọi là chướng đạo.

Giải thích: Phần bốn: Nêu Hoặc có thể làm Chướng đạo vô úy. Cũng có hai sự: 1. Chấp tích sinh nghi: nghĩa là, các bậc Tu-đà-hoàn, tuy là có các ái, nhưng nhờ có Thánh đạo. Dục không thể làm chướng đạo; 2. Tự xướng đức hiệu: tuy không thể chướng các quả Dự lưu, nhưng có thể làm chướng ngại các Đạo A-na-hàm.

Ở trên đã giải thích về bốn vô úy của Phật, nay ở trong văn này; nói về vô úy của Địa Bồ-tát thứ năm, tướng của vô úy, có thể suy ra thì rõ.

Kinh: Nghịch nghi nơi tam giới.

Giải thích: Phần hai – Trừ chướng. Đây là theo tập khí, mà thuyết thì trừ nghi, theo Phật thì đã đoạn, chỉ phân biệt mà thôi.

Kinh: Tu tập vô lượng… nhập vị Tư-đà-hàm.

Giải thích: Phần ba – Nhập vị. Nghĩa là: trong địa này, đã diệt các hoặc nghi nơi tam giới, tu tập vô lượng thắng phần công đức, do vậy liền nhập vị Tư-đà-hàm. Tư-đà-hàm: tiếng Hoa gọi là Nhất vãng lai, nghĩa là đoạn hết sáu phẩm Hoặc nơi Dục giới, vì còn ba phẩm, ở trong cõi người, trời, một lần vảng lai, gọi là Nhất vảng lai.

Kinh: Lại tập hành… tâm không bỏ.

Giải thích: Phần ba – Thời gian tu hành. Nghĩa là: ở địa này, tám kiếp tu hành chư Đà-la-ni và bốn vô úy, thường không bỏ tâm.

Kinh: Lại nữa, Thường hiện chơn thật.

Giải thích: Pháp sư thứ chín. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2.

Biện quán sai biệt; 3. Thời gian tu hành. Đây là phần một.

Kinh: Trú trong Thuận Nhẫn.

Giải thích: Phần hai – Biện quán sai biệt. Văn có năm: 1. Phối nhẫn khác nhau; 2. Tạo quán riêng của địa; 3. Biện thủ trừ chướng; 4. Biện minh Hành tướng quán; 5. Lập quả sai biệt. Đây là phần một. Nghĩa là: Trong Thuận Nhẫn, thuộc về Thượng phẩm nên bảo là trú Trong Thuận Nhẫn.

Kinh: Tác quán Trung đạo.

Giải thích: Phần hai – tạo quán riêng của địa. Nghĩa là: nhập quán Vô tướng, lìa ở hữu, vô và thường, đoạn… Hoặc nương quán mười hai duyên sinh. Do lìa Đoạn, Thường, nên gọi là quán Trung đạo.

Kinh: Tiết tập nhân tập quả, tất cả phiền não nơi ba cõi.

Giải thích: Phần ba – Trừ chướng. Nói “Tập nhân”: là nêu chung về ba phiền não, và nghiệp, gọi là Tập đế. Nói “Tập Nghiệp”: là giải thích riêng các nghiệp tội. “Tất cả phiền não”: là Giải thích riêng các phiền não căn bản, tùy Hoặc… Hoặc có thể “Tập Nhân” là phát nghiệp phiền não. “Tất cả phiền não”: là Nhuận Nghiệp phiền não.

Kinh: Quán phi hữu phi vô… mà vô nhị.

Giải thích: Phần bốn – Biện minh hành tướng quán. Nói “Tất cả”: là chơn như nhất vị tướng. Tức là nhất tướng, gọi là Vô tướng. Kinh Vô Lượng Nghĩa nói: Nhất tướng tức là Vô tướng. “Mà vô nhị”: là kết một tướng và Vô tướng trên, đều không có các tướng hữu và vô.

Kinh: Chứng vị A-na-hàm.

Giải thích: Phần năm – Lập quả. Nghĩa là nơi địa này, tuy đã đoạn tất cả phiền não trong tam giới, nhưng vi tế thì còn hiện ở ngay trước. Đó là lấy theo kinh Giải Thâm Mật nói: chư Bồ-tát chứng đến địa thứ bảy, còn khởi các phiền não tham ở tam giới. Do đó, trong này lập Ana-hàm. A-na-hàm; dịch là Bất Hoàn căn cứ theo thật thì Bồ-tát địa thứ sáu, cũng còn sinh nơi Dục giới, như luận Trí Độ. Nay phối với nhất tướng mà nói là Bất Hoàn.

Kinh: Lại tác chín A-tăng-kỳ kiếp… tất cả Phật độ.

Giải thích: Phần ba – Thời gian tu hành. Lạc: nghĩa là nguyện lạc.

Nghĩa là: ở địa này, chín A-tăng-kỳ tập quán Trung đạo, tùy theo lực nguyện lạc mà sinh nơi các cõi Phật.

Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Huyền Đạt.

Giải thích: Biện minh về Pháp sư thứ mười. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Thời gian nhập vị; 3. Từ “Thường hành ba không… ” là Biện minh quán sai biệt. Đây tức là phần nêu tên.

Huyền: nghĩa là huyền đạt. Đạt: tức là thông đạt xa đến công dụng hậu biên, gọi là Huyền bắt đầu nhập Vô sinh nhẫn, gọi là Đạt.

Kinh: Trong mười A-tăng-kỳ kiếp tu Vô sinh nhẫn pháp lạc.

Giải thích: Phần hai – Thời gian nhập vị… Văn có năm phần: 1. Nhập vị sai biệt; 2. Biện minh Diệt; 3. Trú thân phần hạn; 4. Đủ các đức; 5. Lập quả. Đây tức phần một. Phần hạn nhận vị.

Trong năm nhẫn, nhẫn thứ tư, vô sinh nhẫn có ba phẩm. Đây là Hạ phẩm. Bồ-tát địa này mười tăng kỳ, tu học vô sinh nhẫn.

Kinh: Diệt tập nhân nghiệp quả trong tam giới.

Giải thích: Phần hai – đối tượng được diệt trong ngôi vị này, diệt Tập nghiệp quả tế trong tam giới.

Kinh: Trụ trong hậu thân.

Giải thích: 3. Trú thân sai biệt. Trú trong sinh tử phần đoạn, là thân sau cùng, đến Địa thứ tám thì thành Biến dịch báo.

Kinh: Vô lượng công đức… đều đầy đủ.

Giải thích: Phần bốn – có đủ các đức. Nghĩa là: sáu thần thông, tận vô sinh trí, cho đến năm phần pháp thân đều đầy đủ. Các đức như vậy, đều đã nói như trên.

Kinh: Trụ Địa thứ mười… vị Phạm Thiên.

Giải thích: Phần năm – lập quả. Nghĩa là: trong mười ba Pháp sư, trụ ngôi vị Pháp sư thứ mười. Trong bốn quả thì quả thứ tư “vị Phạm Thiên”: Phạm là tịnh. Do đã trú Hạnh vị Thanh Tịnh.

Kinh: Thường tu ba không… Hoằng hóa pháp tạng.

Giải thích: Phần ba – Biện minh quán sai biệt. Nghĩa là: trong địa này, các Tam muội “không”, đã đắc viên mãn, đầy đủ trăm vạn Tam muội. Lại dùng các Tạng Tu-đa-la, nơi ba tạng Thánh giáo của Như Lai mà hoằng hóa chúng sanh.

Kinh: Lại nữa, bậc Đẳng-giác.

Giải thích: Biện minh về Pháp sư thứ mười một. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Biện minh Quán sai biệt; 3. Từ “Ngàn A-tăng-kỳ…” Thời gian tu hành. Đây là phần một.

Giả: nghĩa là kẻ. Nghĩa là: địa thứ tám, với mọi lúc, chơn và tục

cùng quán, gọi là bậc Đẳng giác.

Kinh: Trụ trong vô sinh nhẫn.

Giải thích: Từ đây là phần hai – Biện minh quán sai biệt. Văn có ba phần: 1. Trở về Quán hữu và vô; 2. Biện minh quán mười lực; 3.

Đăng vị sai biệt.

Trong phần một có hai phần:

  1. Phối thuộc nhẫn vị.
  2. Chánh nói về hữu vô quán. Đây là phần một. Nghĩa là: ở trong ba phần vô sinh nhẫn thì trú trong phẩm nhẫn.

Kinh: Quán tâm tâm tịch diệt… vô tri tri.

Giải thích: Phần hai – Biện về hữu vô quán. Văn có ba phần: 1. Riêng giải thích hữu, vô; 2. Kết hợp giải thích hữu vô; 3. Song kết hữu vô. Trong phần một có hai phần: 1. Tịch mà thường dụng; 2. Dụng mà thường tịch. Đây là phần một.

Trong Địa này, “Quán tâm tâm tịch diệt”: là niệm niệm đều không mà tâm tâm tịch diệt. Đó là hiểu về nghĩa thường tịch tĩnh. Nói “Vô tướng tướng, vô thân thân, vô tri tri”: là hiểu về nghĩa thường dụng. Nghĩa là thường tịch, nên lìa tất cả tướng. Nhưng nương theo tục mà thị hiện Vô tướng. Tựa như sắc thân thường không tịch, nhưng nương theo tục mà sắc thân thường dụng, vì thường tịch, nên vô tri, nhưng nương theo nên hằng năng chiếu.

Kinh: Mà dụng Tâm… trú ở vô trú.

Giải thích: Phần hai – Dụng mà thường tịch. Hai câu đầu là hiển bày hữu dụng. Từ “an nhiên” là chỉ rõ nghĩa thường tịch.

Kinh: Tại hữu… thường vạn hóa.

Giải thích: Phần hai – kết hợp giải thích hữu và vô.

Nói “Tại hữu thường tu không”: là giải thích về dụng mà thường tịch trên. “Hư không thường vạn hóa”: là giải thích về tịch mà thường dụng trên.

Kinh: Song chiếu tất cả pháp.

Giải thích: Phần ba – Song kết. Nghĩa là: Tục không lìa chơn nên tịch mà thường dụng. Chơn không lìa Tục nên dụng mà thường tịch.

Kinh: Biết xứ ấy phi xứ, cho đến Nhất-thiết-trí, do Quán Thập lực.

Giải thích: Phần hai – Nói về quán mười Lực. Nghĩa là: ở trong ngôi vị này, học quán mười Lực. Nêu hai Lực đầu và cuối, hiển chung tám Lực ở giữa, có quán mười Lực, mười nghĩa khác nhau, nghĩa như ở chương khác.

Kinh: Có thể phát vị Ma-ha-la-già, giáo hóa tất cả quốc độ.

Giải thích: Phần ba – Đăng vị sai biệt.

“Ma-ha-la-già”: Nếu theo Bổn ký thì dịch là Đại Thánh. Tức là đại tướng của Pháp Phật. Hoặc dịch là Vị trí Vô công dụng, hoặc dịch là Đại Lực, hoặc dịch là Long Tượng.

Kinh: Ngàn a-tăng-kỳ-kiếp… Tam muội thấy Phật.

Giải thích: Phần ba – Thời gian tu hành. Đây là kết về vị trí trụ tự, trải qua bấy nhiêu kiếp, từ đây về sau, do công càng khó thành cho nên thời gian càng lúc càng nhiều.

Kinh: Lại nữa, Bậc Tuệ quang Thần biến.

Giải thích: Biện minh về Pháp sư thứ mười hai. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Biện quán sai biệt; 3. Từ “Vạn A-tăng-kỳ…” là nói về thời gian nhập vị. Đây là phần một.

Nghĩa là: Địa thứ chín, bốn trí vô ngại, Quốc độ các hữu tình, hoặc khởi sáu thần thông, gọi là bậc Tuệ quang và Thần biến.

Kinh: Trú Vô sinh nhẫn Thượng thượng

Giải thích: Phần hai – Biện minh quán sai biệt. Văn có bốn tiết: 1. Phối với ba phẩm Nhẫn; 2. nói về diệt tâm tâm tướng; 3. Bốn nhãn thấy Pháp quán; 4. Sinh tịnh độ. Đây tức phần một. Phối với ba ngôi vị nhẫn.

Nghĩa là: vô sinh nhẫn có ba phẩm, đây tức là thượng phẩm mà nói “thượng thượng phẩm”; chữ thượng ở trước là thắng nghĩa, chữ thượng ở sau là phẩm số. Nghĩa là Địa thứ chín này, đắc bốn Biện… Nên bảo là Thắng.

Kinh: Diệt tâm tâm tướng.

Giải thích: Phần hai – nói về diệt tâm tướng. Ở trong ngôi vị này, trừ diệt tâm tâm có chấp tướng mà nói là Thắng. Về “Diệt tâm tâm tướng”, có thuyết nói là diệt hai tướng của kiến phần và tướng phần, nên nói là Diệt tâm tâm tướng. Nay giải thích: Diệt tự tính Tâm, gọi là diệt Tâm. Nếu diệt sự sai biệt trên tâm thì gọi là Diệt tâm Tướng.

Kinh: Pháp nhãn thấy tất cả pháp, ba nhãn thấy sắc, không.

Giải thích: Phần ba – Môn Bốn nhãn quán.

Nghĩa là: pháp nhãn thấy tất cả pháp là bệnh thuốc có nhiều loại tướng khác nhau. “Ba nhãn thấy sắc, không” nghĩa là: nhục nhãn thì thấy sắc thô. Thiên nhãn thì thấy thô, tế, Tuệ nhãn thì thấy sắc không. Căn cứ theo thật thì tuệ nhãn quán chư pháp không. Nay để đối vối hai nhãn nhục, thiên mà chỉ nói là thấy sắc không. Nếu theo Bổn ký thì pháp nhãn thấy tất cả chơn như, ngoài ra thì như đã nói trên.

Kinh: Dùng đại Nguyện Lực, thường sinh nơi tất cả tịnh độ.

Giải thích: Phần bốn – Thường sinh tịnh độ.

Kinh: Vạn A-tăng-kỳ… Tam muội Phật Hoa.

Giải thích: Phần ba – Thời gian nhập vị. Vị Bạc-già-phạm. Tiếng Hoa gọi là Thế Tôn; vì đủ các đức. Còn gọi là địa thứ chín, gọi là Thế Tôn. Tam muội Phật Hoa, cũng lại như vậy, vì tựa như Phật định, gọi là Phật Hoa.

Kinh: Lại nữa, Bồ-tát quán Phật.

Giải thích: Biện minh về Pháp sư thứ mười ba. Văn có bốn phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Thời gian đăng Trú; 3. Từ “thiện nam!… ” các ngôi vị đối nhau để biện về tướng sai biệt; 4. Từ “Thường tu…” nói về Nhập vị trụ định. Đây là phần một. Nêu vị kê tên.

Nghĩa là: trong ngôi vị này, hai loại quán Phật: 1. Nhãn kiến: chỉ là thân Tha thọ dụng; 2. Định tâm kiến: Quán thông cả ba thân.

Kinh: Trú Nhẫn tịch diệt… Trụ đài Kim cang.

Giải thích: Phần hai – Thời gian đăng vị. Văn có bốn tiết: 1. Phối với năm Nhẫn; 2. Trải qua thời gian sai biệt; 3. Biện minh về tu đức; 4. Hiển bày đăng trụ vị.

Nói “Trú Nhẫn tịch diệt”: là phối với năm nhẫn vị. Nghĩa là nhẫn tịch diệt tự có hai loại: Hạ phẩm và Thượng phẩm. Nay địa thứ mười là trong nhẫn tịch diệt thứ năm. Ngôi vị nhẫn hạ phẩm.

Nói “từ khởi thủy đến trải qua trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp”: là tính chung từ tập chủng tính đến nhẫn quán đảnh.

Nói “tu trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp công đức”: là biện minh vô lượng đức đã tu. Nói “Đăng tất cả pháp giải thoát”: là ở ngôi vị đang đến, tức là Diệu giác. “Trú đài Kim cang”: là Tam muội Kim cang chánh nói về Đẳng Giác Như Lai. Hoặc có thể giải thoát, tự có hai loại; Đẳng Giác và Diệu giác. Nay Kim cang này tuy chẳng phải gồm thâu trong quả giải thoát Diệu giác, mà thành Đẳng giác giải thoát, nên gọi là đăng tất cả pháp giải thoát.

Kinh: Thiện nam tử!… tất cả phiền não.

Giải thích: Từ đây là phần ba – các ngôi vị cùng đối nhau để biện về tướng sai biệt. Văn có năm phần: 1. Phục, Đoạn sai biệt; 2. Tín, Kiến sai biệt; 3. Đốn, Tiệm sai biệt; 4. Khác nhau giữa Thường và Vô thường; 5. Khác nhau giữa Đẳng và Vô đẳng. Đây là phần một. Sự khác nhau giữa Phục và Đoạn. Văn có hai phần: trước là phục, sau là đoạn. Đây là phần phục.

Nghĩa là: từ tập nhẫn đến đảnh Tam muội, đều gọi là phục điều

phục tất cả phiền não; do nghĩa của phục là rộng, nên gọi chung là phục. Theo Bổn ký nói: Đều gọi là phục, là từ mười tín đến cuối Kim cang. Đoạn dứt thức A-lại-da tại một Sát-na, nên nói là phục tất cả phiền não.

Kinh: Mà tin Vô tướng… chiếu Đệ-nhất-nghĩa-đế.

Giải thích: Đây là phần hai. Đoạn: Sơ địa trở lên, tín vị vô lậu, mới đoạn dục. Nói “Vô tướng”: tức là vô lậu. Không có tướng của hữu lậu nên gọi là Vô tướng, nghĩa là tín Vô tướng, là đạo vô gián, đoạn diệt tất cả phiền não, sinh ra đạo giải thoát, chiếu kiến Đệ-nhất-nghĩa-đế.

Kinh: Không gọi là kiến, gọi là kiến, là Tát-bà-nhã (Nhất-thiếttrí).

Giải thích: Phần hai – Tín, Kiến sai biệt. Văn có hai phần: 1. Chánh thích về Tín, Kiến; 2. Dẫn thuyết chứng thành. Đây là phần một.

Trước khi thành Phật, chỉ nói là Tín, không gọi là Kiến, gọi là Kiến, là Nhất-thiết-trí.

Kinh: Do đó… bất kiến, bất giác. (Có bản nói: duy Phật sở tri là sai).

Giải thích: Phần hai – Dẫn thuyết chứng thành.

Tri, kiến, giác, khác tên nhưng đồng một thể, tuy chung cả nhân và quả, mà đều được tên đó. Nay nói theo phần hơn, cho nên chỉ nói tại quả.

Kinh: Chỉ Phật mới giải, hiểu tức thì, không gọi là tín, lần lần phục.

Giải thích: Phần ba – Tiệm, Đốn sai biệt. “chỉ Phật mới giải tức thì, không gọi là tín, dần dần phục”: Nguyên do là sao? Do đốn đoạn dứt ngay tất cả, hai chướng. Chỉ gọi là kiến, không gọi là Tín, cũng không gọi là từ từ chế phục.

Kinh: Tuệ tuy khởi diệt… vô sinh vô diệt.

Giải thích: Phần bốn – Khác nhau giữa thường và vô thường. Hoặc có thể vô ngại khác với giải thoát. Theo đoạn văn này, có hai giải thích:

1. Ngài Tam Tạng Chơn đế lập nghĩa như vậy: Phật quả công đức, Bồ-đề Niết-bàn đều không có sinh và diệt, cho nên chung cả phục nạn, dùng nghĩa của tam tông. Nghĩa là: ngoại đạo thắc mắc; khi đạo vô gián, Tuệ có sinh, diệt thì làm sao lại có thể sinh ra trí vô sinh diệt? Vì vậy mà nói câu này; khi đạt định Kim cang, tuệ tuy có sinh diệt, nhưng có thể chứng biết lý vô sinh diệt, do thắng tuệ ấy mà chứng lý sâu xa. Tâm này nếu diệt thì có thể chứng đắc Niết-bàn lụy tận, còn có thể

55 chứng đắc vô sinh vô diệt, thường trú Bồ-đề, vì vậy đoạn trước kinh nói: “Nhất-thiết-trí giác phi hữu phi vô, an nhiên thanh tịnh, thường trụ bất biến, đồng chơn tế, đẳng pháp tính”.

2. Ngài Tam Tạng Từ Ân thuyết như vậy: Thời Kim cang, tuệ tuy có sinh diệt, nhưng có thể chứng giải lý vô sinh diệt, nên có thể chứng đắc Niết-bàn quả tận, cũng có thể chứng đắc pháp đại Bồ-đề thường trụ. Đoạn trước kinh thuyết: “Thường trú Bất Biến” là nói theo phần thắng, chỉ thuyết về thật tướng nhưng chẳng quán chiếu.

Kinh: Nhập lý tận Tam muội Kim cang… đẳng vô đẳng đẳng.

Giải thích: Phần năm – Sự khác nhau giữa đẳng và vô đẳng. Hoặc có thể là sự khác nhau giữa vô gián và giải thoát. Văn có ba phần: pháp, dụ và hợp. Đây là nói về pháp.

Nghĩa là: nhập lý tận Tam muội Kim cang. Thanh tịnh vô nhiễm, ngang đồng với Chơn như tế, Đạo hậu, ở đạo tiền là pháp tính chơn như. Nói “nhưng chưa thể đẳng (ngang) vô đẳng đẳng” nghĩa là: dưới Phật Thế Tôn, ví không bằng, gọi là vô đẳng. Ngang với chư Phật, thì gọi là đẳng. Kim cang trở về trước thì không có thể đẳng nên gọi là Vô đẳng đẳng.

Kinh: Thí như có người… thấy rõ cả.

Giải thích: Phần hai – Nêu dụ. Đã rõ.

Kinh: Trú lý tận Tam muội, cũng lại như vậy.

Giải thích: Phần ba – Hợp dụ. Đã rõ.

Kinh: Thường tu tất cả Tam muội Phật Tuệ.

Giải thích: Phần bốn – Nhập vị trụ định.

Nghĩa là: trong ngôi vị này, tất cả sáu độ và bốn nhiếp, thực hành đã viên mãn, đủ công đức tạng, nhập Bà-già-độ, trụ Tam muội Phật Tuệ. Âm Phạm là Bà-già-độ, tiếng Hoa gọi là Thế Tôn, tức là một hiệu trong mười hiệu. Trú trong ngôi vị này, Quán Tam muội ba thân, mới đắc viên mãn.

Kinh: Thiện nam!… Ngang bằng không khác.

Giải thích: Đây là dựa theo phần chánh thuyết mười ba Pháp sư. Văn có ba phần: 1. Nêu; 2. Từ “Thiện nam!…” Giải thích; 3. Từ “Thiện nam!…” Tóm kết tán thán. Ở trên đã giải thích xong hai phần trước.

Đây là phần ba – kết. Tán thán thắng đức không khác với Phật.

Kinh: Phật bảo vua Ba-Tư-Nặc… Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Từ đây là phần hai – Trao vương thọ trì. Văn có bốn phần: 1- Tán dụng khuyến trì. 2- từ “Đại vương! Bát-nhã ấy…” tán danh khuyến trì. 3- từ “Đại vương! Ta nay…” giải thích nguyên do khuyên. 4- từ “Đại vương! Nay…” xưng tên trao gởi.

Trong phần một có hai phần : 1. Lược tán khuyến trì; 2. Từ “Đại vương!…” rộng tán khuyến trì.

Trong phần lược tán có năm phần : 1. Ứng thời khuyên thọ trì; 2. Nguyên do khuyên thọ trì; 3. Kết thuộc các vương; 4. Ngoại nhân thắc mắc; 5. Như Lai giải thích. Đây là phần một.

Nghĩa là: khi chánh pháp ta diệt, thọ trì cả bộ nhân vương Bátnhã.

Kinh: Đại tác Phật sự…… Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Phần hai – Nguyên do khuyên thọ trì. Có ba loại : 1. Đại tác Phật sự. Nghĩa là: diệt ác sinh thiện; 2. Quốc độ an lập; 3. Trăm họ vui vẻ an lạc. Hoặc có thể là phần một là nội hộ, hai phần sau là ngoại hộ. Lợi ích như vậy, đều do nhờ Bát-nhã.

Kinh: Do đó, gởi trao…. Thanh tín nữ.

Giải thích: Phần ba – Kết, thuộc các vua.

Kinh: Vì sao ?

Giải thích: Phần bốn – Ngoại nhân thắc mắc.

Kinh: Không có lực của bậc vua…. hiểu như lý.

Giải thích: Phần năm – Như Lai giải thích.

Kinh: Đại vương! Ta nay… đế vương hoan hỷ.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Rộng tán thán khuyên thọ trì. Văn có hai phần: 1. Tổng nêu. Trừ nạn phước sinh; 2. Hỏi đáp phân biệt: giải thích riêng về bảy nạn. Đây là phần một.

Nói “bảy phước”: như Bổn ký nói; ngược lại với bảy nạn trước, là bảy phước. Bảy phước là: 1. Muôn họ yêu trọng Quốc vương; 2. Bốn biển chầu phục; 3. Oán địch lùi tan; 4 Quốc vượng tự thọ thân mình; 5.

Bốn phương ca ngợi; . Trăm họ giàu vui; 7. Vị lai nhập vào thiện đạo.

Kinh: Nạn là gì?

Giải thích: Phần hai – Hỏi đáp phân biệt giải thích về bảy nạn.

Văn có hai phần: Trước hỏi, sau đáp. Đây là phần hỏi.

Kinh: Nhật nguyệt thất độ…. là nan thứ nhất.

Giải thích: Phần hai – Đáp. Ở phần đáp về bảy nạn, chia làm tám phần: Đây là phần một – Nạn Nhật nguyệt thất độ. Nghĩa là: thời tiết chuyển khác, hay khiến đói kém. Số lượng chuyển khác, khởi nhiều chiến tranh. Sắc tướng chuyển khác, nhiều tật bệnh.

Kinh: Nhị thập bát tú… là nạn thứ hai.

Giải thích: Phần hai – Nạn tinh tú biến đổi quái lạ.

Kinh: Đại hỏa thiêu quốc… là nạn thứ ba.

Giải thích: Phần ba – Nạn đại hỏa thiêu đốt.

Kinh: Đại thủy trôi chìm… là nạn thứ tư.

Giải thích: Bốn – Nạn đại thủy chìm trôi.

Kinh: Đại phong thổi hại… là nạn thứ năm.

Giải thích: Năm – Nạn Đại phong thổi hại.

Kinh: Thiên địa quốc độ… . là nạn thứ sáu.

Giải thích: Sáu – Nạn hạn hán nóng bức.

Kinh: Bốn phương giặc đến… . là nạn thứ bảy.

Giải thích: Phần bảy – Nạn giặc ác xâm bức.

Kinh: Đại vương! Bát-nhã… Long Bảo Thần vương.

Giải thích: Phần hai – Tán danh khuyên thọ trì. Văn có hai phần: 1. Tán danh thù thắng; 2. Khuyên thọ trì, vương cúng dường. Đây là phần một.

Nhưng tám tên gọi này, các thuyết bất đồng: Một thuyết nói: Danh đầu tiên trong tám danh là hiển bày Thật Tướng Bát-nhã, vì đó là thể tâm thần của chư phàm thánh. Danh gọi thứ hai là nói về quán chiếu Bát-nhã, vì sinh ra tâm tuệ giải của chư Quốc vương. Sáu danh gọi sau là biện về văn tự Bát-nhã, do có sáu thắng nhân để hộ quốc độ. Một thuyết nói: đó có thể làm chỗ nương dựa cho phàm, thánh, nên gọi là thần bổn. Có thể sinh ra ngôi vua, nên dụ là phụ mẫu, có thể hộ thân mệnh, nên dụ là thần phù. Có thể trị tà ma, nên gọi là Tị quỷ châu (hạt châu tránh quỷ) có thể thỏa mãn các nguyện nên gọi là Như ý châu, làm cho nước nhà yên ổn, gọi là châu hộ quốc, tỏ hiển nhân quả, gọi là gương thiên địa. Tối thắng trong pháp, oai lực khó lường, gọi là Long Bảo Thần vương. Bổn ký nói: Thức thứ sáu, gọi là Tâm. Thứ bảy gọi là Thức, thứ tám gọi là Thần. Kinh này có thể làm chỗ nương cho tám thức phàm thánh, nên gọi là gốc. Có thể sinh ra Quốc vương Thế gian và xuất thế, nên dụ là phụ mẫu. Ngoại đạo Ma vương không thể hàng phục, nên dụ là thần phù. Có thể trừ năm loại bố úy: bất hoạt,… danh là châu trừ quỷ. Có thể gồm lợi cho chúng sanh, danh là châu Như ý. Có thể hàng bảy nạn, danh là châu hộ quốc. Có thể hiển bày mọi đối tượng nhận biết, danh là gương Thiên Địa. Đạo Tiền, Đạo Hậu, thanh tịnh không khác, danh là Long Bảo Thần Vương. Nói rộng như sách ấy.

Kinh: Phật bảo… Đặt kinh ở trên.

Giải thích: Phần hai – Khuyên vua cúng dường. Văn có hai phần: 1. Chỉ bày pháp cúng dường; 2. Chỉ bày riêng đi, đứng cúng dường. Đây là phần một.

Pháp có sáu sự: 1. Phướn chín màu, dài chín trượng; 2. Hoa chín màu, cao hai trượng; 3. Đèn ngàn cành, cao năm trượng; 4. Rương chín ngọc; 5. Khăn chín ngọc; . Bàn bảy báu.

Nói “chín màu”. Theo Bổn ký nói: trắng, đen, vàng, đỏ, xanh, đó là sắc năm trần, cùng với sắc bốn đại là chín. Sắc bốn đại là: Địa thì sắc tro, Thủy thì theo sắc Phả-lê thủy tinh. Hỏa thì sắc quang hỏa châu.

Phong thì sắc khói.

Kinh: Nếu vương khi đi…. tội lỗi không sinh.

Giải thích: Phần hai – Đi, đứng cúng dường. Văn có hai phần: 1. Pháp cúng dường khi đi; 2. Pháp cúng dường khi đứng. Đây là phần một. Khi đi.

Kinh: Nếu khi vương đứng… như phụng sự Đế Thích.

Giải thích: Phần hai – cúng dường khi đứng. Như kinh đã rõ.

Kinh: Đại vương! Ta nay năm nhãn…. bảy nạn tất khởi.

Giải thích: Phần ba – Thích về nguyên do khuyên. Văn có hai phần: 1. Nói về phước ba đời của chư vương có hưng có suy; 2- Nói về vị lai hộ trì, làm lợi ích lớn. Đây là phần một.

Kinh: Nếu đời vị lai… đến hộ nước đó.

Giải thích: Vị lai hộ trì. Văn có ba phần: 1. Nêu chương nêu số; 2.

Thứ đệ giải thích; 3. Kết. Khuyến cúng dường. Đây là phần một.

Kinh: Một, Kim cang hống… đến hộ nước đó.

Giải thích: Từ đây là phần hai – Thứ lớp giải thích. Văn đã rõ.

Kinh: Năm đại lực sĩ đó,… mà cúng dường.

Giải thích: Phần ba – kết. Khuyên cúng. “Năm đại lực sĩ đó”: là kết về năm Bồ-tát. “Năm ngàn thần vương,…” giải thích về lợi ích.

Từ “phải lập hình tượng…” khuyên cúng dường. Khuyên pháp cúng dường như nói trong kinh ngũ Thần Vương Nhân Duyên, trong phần nhân duyên Bồ-tát Điện Lôi Hống, dạy người pháp đọc kinh, viết chép kinh. Dụng pháp là: phải làm một căn phòng tám góc tám bức vách, hiên ngoài tùy sức mà trang hoàng, nay chỉ nói phần chính. Trong tám góc, mở một góc cửa để người ra vào. Ở bên trong phòng, đặt một giường tám mặt chừa lại một khoảng trống nhỏ để người làm việc hành xử, trong ngoài tám vách, trét đất thơm, trên mỗi bức vách, đều lường thân ngồi, ngay đúng khoảng hai mắt mở hai lỗ để thấy được kinh, ngay đúng hai tay, lại mở thêm hai lỗ vừa với bàn tay thò ra để nắm kinh. Khi muốn đọc kinh, đặt kinh ở ngoài vách, trên bàn giá, trong vách ngoài vách đều đốt hương thơm, dùng nước nóng hương thơm đậu miến để tắm rửa thân tay và súc miệng. Cần phải khéo giỏi xem gió, nếu là gió đông thì đặt kinh quyển ngoài vách Đông. Ở bên trong vách đọc

kinh về hướng Đông, khiến gió thổi hơi miệng theo gió bay về hướng Tây, không ập vào kinh quyển. Vì miệng luôn có hơi khí, nên phải làm phòng này, về chép kinh pháp dùng cũng như trên.

Kinh: Đại vương! Ta nay, Tam bảo… tất cả các vua.

Giải thích: Phần bốn – Gọi tên trao gởi. Văn có ba phần: 1. tỏ chung trao gởi; 2. Kể tên các nước lớn; 3. Từ “Như vậy, tất cả….” kết. Khuyên phải thọ trì. Đây là phần một.

Kinh: Nước Kiêu-Tát-La… nước Ba đề. (Hoặc có bản kinh; chỉ kê ra mười lăm nước, thiếu nước Sa Đà Vệ)

Giải thích: Phần hai – Kể tên các nước chính. Về danh hiệu mười sáu nước lớn, thì kinh Đại Tập phần Nguyệt Tạng chia làm mười sáu. Luận Đại Tỳ-bà-sa quyển một trăm hai mươi bốn, thì âm Phạm khác nhau.

Kinh: Như vậy, tất cả… Ba-la-mật.

Giải thích: Phần ba – kết. Khuyên trì.

Kinh: Lúc ấy các đại chúng… Nguyện không sinh ra ở nước kia.

Giải thích: Phần ba – Thời chúng đắc ích. Trong đó có năm phần: 1. Nói về Tu-La được ích; 2. Hiển bày về vua người được ích; 3. Biện minh về các Phạm thiên được ích; 4. Các chúng khác được ích; 5. Bồ-tát được ích. Đây là phần một.

“Lúc ấy chư đại chúng”: là câu nêu chung từ “A-tu-luân…” là hiển bày lợi ích. Nghĩa là: Tu-la kia nghe thuyết về bảy nạn, thân sợ thất thanh, phát nguyện không sinh ra ở các quốc độ xấu ác kia, tức là sự ích lợi ghét ác thích thiện.

Kinh: Lúc ấy mười sáu Quốc vương…. xuất gia tu đạo.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Vua người được ích. Trong đó có hai phần: 1. Chư Vương xả tục nhập đạo; 2. Tu đạo khởi quán sai biệt khác nhau. Đây là phần một.

“Đem nước trao em”: tức là xả tục. “Xuất gia tu đạo”: tức là nhập đạo. Giải thích rõ về tại gia thì mắc lỗi, xuất gia thì lợi lạc. Như kinh Văn Thù Vấn quyển hai.

Kinh: Quán bốn đại… Thắng xuất tướng.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Tu đạo khởi quán khác nhau. Văn có hai phần: 1. nói về các Quán; 2. Từ “Đó là…” kết thành chứng đắc. Trong phần một có bốn phần: 1. nói về tám thắng xứ; 2. nói về mười biến xứ; 3. Hiển bày về tướng sơ địa; 4. Tướng của chín địa. Đây là phần một.

Quán Địa, Thủy, Hỏa, Phong tạo ra bốn Đại. Xanh, vàng, đỏ, trắng, tạo ra bốn sắc, gọi là tám thắng xứ. Cảnh của đối tượng duyên thắng phiền não, cho nên gọi là thắng xứ. Xuất lìa tham dục cho nên gọi là thắng xuất. “Tướng”: nghĩa là thể tướng, hoặc là tướng trạng, hoặc là hành tướng. Đó là tướng hành giải của tám thắng xứ. Theo kinh Đại Bát-nhã thì hơi khác. Kinh ấy nói: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc ít; 2. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc nhiều; 3. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc có bốn; 4. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc nhiều. Nội vô sắc tưởng quán ngoại các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, lại thành là bốn loại. Gọi là tám thắng xứ. Theo kinh Anh Lạc thì tám gọi lại khác nhau, bốn đại thì giống với kinh này, bốn sắc thì giống với kinh Bát-nhã. Còn bốn hữu sắc thì không nói là xanh, vàng,… là bốn sắc. Hoặc có thể kinh này giống với kinh Anh Lạc, nghĩa cũng không trái.

Kinh: Bốn đại bốn sắc… nhập hành tướng.

Giải thích: Phần hai – nói về mười biến xứ: Địa, thủy, hỏa, phong, xanh, vàng, đỏ, trắng, không xứ, thức xứ, gọi là mười biến xứ. Còn gọi là mười Nhất thiết nhập, tức là xứ duyên với rộng lớn, không có khe hở, nên gọi là hành tướng biến xứ. Tức là mười tướng hành giả của Nhất thiết nhập. Nói “không dùng”: là ngữ thừa tiếp. Vì vậy mà không nói về tám giải thoát. Ba khóa pháp này là quán của những người thuộc ba căn thượng, trung, hạ. Trong đó chỉ có hai căn thượng và trung, vì không có hạ căn nên không xét đến.

Kinh: Ba mươi nhẫn là tướng sơ địa.

Giải thích: phần ba – nói về tướng của sơ địa.

Ba mươi tâm địa tiền, gọi là ba mươi nhẫn. Tức là tướng phương tiện của sơ địa. Sơ địa thì dùng Đệ-nhất-nghĩa-đế làm Thể.

Kinh: Đệ-nhất-nghĩa-đế, tướng của chín địa.

Giải thích: Phần bốn – nói về tướng của chín địa.

Sơ địa chứng Như. Cảnh và trí bình đẳng ngang nhau, gọi là Đệ Nhất nghĩa. Làm tướng nhân cho chín địa sau, gọi là Tướng chín địa. Vì vậy mà Nhiếp Luận nói: Nếu ở sơ địa, khi đạt pháp giới, mau chóng thông đạt, tất cả sau đều nói là Như Địa.

Tụng nói:

Như phá vỡ đốt đầu.

Các đốt khác mau phá.

Đắc chơn trí sơ địa

Các địa khác mau thành.

Kinh: Do đó, Đại vương!… Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Đây là phần hai – kết thành chứng đắc. Văn có hai tiết:

1. Xả phàm nhập Thánh; 2. Xả phân đoạn nhập dị biến.

Nói “Do đó, Đại vương” kết về người được bảo. Nói “xả thân phàm phu”: nghĩa là, xả thân phàm phu Địa tiền. Nói: “nhập thân lục trụ”: là nhập sơ địa đến thân trụ địa nơi sáu địa. Đó tức là xả phàm nhập thánh ở trên. Nói: “xả thất báo thân”: nghĩa là xả báo thân phân đoạn nơi bảy địa, cho nên luận Trí Độ nói: Bảy địa chưa xả thân sâu bọ thân xác thịt. Nói là: “Nhập Bát pháp Thân”: nghĩa là nhập pháp thân biến không tám địa trở lên. Cho nên kệ trên nói:

Chưa độ Báo thân một sinh còn

Tiến vào đẳng quán pháp lưu địa.

Nói “Nhất Địa hành Bát-nhã Ba-la-mật”: đó là vạn hạnh, pháp thân đều có đủ, hoặc có thể nói chung cả mười địa vạn hạnh đều có đủ.

Kinh: Mười tám Phạm Thiên vương đồng với cảnh vô sinh.

Giải thích: Từ đây là phần ba. Phạm Thiên đắc ích thủ ngang bằng với các a tu luân. Trong đó có hai phần: 1. Đắc ích; 2. Hiển bày cúng dường. Đây là phần một.

Nghĩa là: các Phạm Thiên, tùy theo căn tính của họ, chứng đắc quán môn chơn thật của ba Thừa.

Kinh: Lại rải hoa cúng dường.

Giải thích: từ đây là phần hai – Giải thích cúng dường. Văn có ba phần: 1. Tổng nêu về cúng dường; 2. Kê riêng về tên hoa; 3. Hiển bày cúng dường. Đây là phần một.

Cúng dường có hai loại: Pháp và Tài. Nay trong văn này là hiển bày pháp cúng dường.

Kinh: Hoa không…. Hoa ba mươi bảy phẩm.

Giải thích: Phần hai – Liệt kê riêng về tên Hoa: Hoa không: là Hiển bày nhân không, hoa pháp tính, là nói về pháp không. Hai loại hoa này là biểu thị cho phục nhẫn, vì địa tiền nhờ học quán nhị không. Hoa thánh nhân là biểu cho tín nhẫn, vì mới bắt đầu nhập vào thánh pháp tín vô lậu. Hoa thuận: là biểu cho thuận nhẫn, vì địa thứ tư, thứ năm, thứ sáu thuận vô sinh. Hoa vô sinh, là biểu cho hạ, trung, phẩm nơi vô sinh nhẫn, vì mới bắt đầu chứng giải vô sinh. Hoa Pháp lạc: là biểu cho thượng phẩm vô sinh nhẫn, do bốn biện tự tại thuyết pháp lạc. Hoa Kim cang: là biểu cho hạ phẩm tịch diệt nhẫn, vì Tam muội Kim cang phá các kết. Bảy hoa trên là biểu cho pháp đại thừa. Hoa duyên quán Trung Đạo: là biểu cho pháp Duyên giác, do chứng giải duyên sinh Quán Trung đạo Hoa ba mươi bảy phẩm: là biểu thị cho pháp Thanh văn, vì đắc tự tại trong quán đạo phẩm.

Kinh: Mà rải trên Phật… chúng đại Bồ-tát.

Giải thích: Phần ba – Chánh hiển cúng dường do các vị Phạm Thiên trên đắc Tam thừa quán, dùng hoa Tam thừa, rải trên Phật.

Kinh: Tất cả chúng còn lại chứng quả đạo tích.

Giải thích: Phần bốn – Chúng khác được ích. Văn có ba đoạn: 1.

nói về được ích; 2. Liệt kê tên hoa; 3. Chính cúng dường. Đây là phần một.

Đạo tích: là Hướng, Quả; tức là Quả đó. Lại giải; Đạo tích: là Hữu học, Quả tức là Vô học, thông cả ba Thừa. Trước là đắc quán Tam Thừa, đây là chứng quả Tam thừa, mà có sự khác nhau.

Kinh: Rải hoa tâm Không… Hoa Diệu giác

Giải thích: Phần hai – Liệt kê riêng tên Hoa. Hoa ba Không là bốn Không. Trong ba học thì gọi là Tâm học. Hoa Tâm Thọ: là Quán duyên sinh. Mười hai Duyên Sinh gọi là Hoa Thọ (thọ là cây). Hoa sáu Bala-mật; là hạnh Thập Địa. Ba hoa trên thoe thứ tự hiển bày pháp Tam Thừa. Hoa Diệu giác: là Phật quả hạnh, trong Nhân mà nói Quả, gọi là Hoa Diệu giác.

Kinh: Mười ngàn Bồ-tát nghĩ về chúng sanh đời sau.

Giải thích: Phần năm – Nói về Bồ-tát đạt lợi ích, trong đó có hai phần: 1. nói về mười ngàn Bồ-tát đắc Tam muội ích; 2. Hiển bày mười ức Bồ-tát hiện thành Phật ích. Trong phần một có hai phần: 1. Người năng chứng; 2. Định được chứng đắc. Đây là phần một.

Nghĩa là: đây đều là những Bồ-tát Địa Thượng đắc đồng Thể Đại Bi, thương xót nghĩ đến chúng sanh cõi ác đời vị lai.

Kinh: Liền chứng… Kim cang Tam muội.

Giải thích: Phần hai – Định được chứng đắc, trong có ba phần: 1.Duyên quả định; 2. Duyên nghĩa định; 3. Đắc định khác. Đây là phần một.

Nghĩa là: Đức diệu Phật quả gồm cả chơn và tục, nên bảo là Diệu giác. Chiếu lý viên tận, nên bảo là viên minh. Không hư hoại nên gọi là Kim cang. Nay những Bồ-tát đó chứng đắc cái Định duyên vào ba, từ nơi đối tượng duyên mà đặt tên.

Kinh: Tam muội Thế đế… Tam muội Đệ-nhất-nghĩa-đế.

Giải thích: Phần hai – Duyên Nghĩa Định. Trong đó có hai: 1. nói về ba định; 2. Hiển bày ba thù thắng. Đây là phần một.

Biết Định Hữu Lậu, gọi là Tam muội Thế Đế. Biết Định vô lậu, gọi là Tam muội Chơn đế. Biết phi chơn như an lập gọi là Tam muội Đệ-nhất-nghĩa-đế.

Kinh: Tam muội ba đế này… Tam muội vương

Giải thích: Phần hai – Hiển bày ba thù thắng. Ba Tam muội đó thâu tóm hết tất cả Tam muội, có đại Thắng dụng, nên gọi là Vương.

Luận Trí Độ nói: Tam muội vua của Tam muội.

Kinh: Cũng đắc… Tam muội Nhất thiết hành Giải thích: Phần ba – Đắc các định khác.

“Tam muội vô lượng”: là định bốn vô lượng.

“Tam muội bảy Tài”: là Định duyên bảy tài: 1. Tín; 2. Giới; 3. Tàm (hổ); 4. Quý (thẹn); 5. Thí; 6. Văn; 7. Tuệ. Như kinh Anh Lạc đã nói. Chú thích chi tiết như Luận Tập Dị Môn quyển mười sáu.

Tam muội hai mươi lăm hữu: là chứng giải Định hai mươi lăm hữu. Bốn người, bốn cõi ác, bốn không, bốn thiền, phạm vương, sáu cõi trời Dục, vô tưởng, và NA-hàm, đó gọi là hai mươi lăm hữu. Như kinh Niết-bàn quyển ba mươi bốn và luận Trí Độ đã nói. Lại giải: đối trị hai mươi lăm định Hữu, gọi là Tam muội hai mươi lăm Hữu, vì vậy mà kinh Niết-bàn nói: Tam muội Vô cấu có thể đối trị Địa ngục hữu, cho đến Tam muội đắc Ngã có thể đối trị phi tưởng phi phi tưởng Hữu.

“Tam muội tất cả hạnh”: là gồm thâu chung các hạnh định.

Kinh: Lại có hiện thành Chánh giác.

Giải thích: Phần hai – Lợi ích của mười ức Bồ-tát hiện thành Phật.

Nghĩa là: những vị đó đều là Bồ-tát địa thứ mười, do từ diệu lực nghe kinh mà lên tòa Kim cang, tọa định Kim cang, hiện thành Phật.

———————-

PHẨM CHÚC LỤY

Chú thích phẩm này, lược có hai nghĩa:

  1. Giải thích tên phẩm.
  2. Chánh giải thích văn.

Về giải thích tên phẩm: chú; nghĩa là trao gởi, dặn dò. Lụy nghĩa là trùng lớp. Như Lai trao gởi kinh này, lưu hành nhiều đời nhiều lớp, nên gọi là phẩm Chúc Lụy.

Kinh: Phật bảo…Ta khuyên bảo các ông. (Có bản không có chữ “các” là sót)

Giải thích: Từ đây là phần hai. Chánh thích kinh văn. Phẩm trước đã nói về lưu thông khuyên học. Phẩm này nói về lưu thông dặn dò. Trong đó có hai phần: 1. Dặn dò khuyên răn; 2. Từ “Bấy giờ, vô lượng…” nương theo lời dạy mà phụng trì. Trong phần một có hai phần: 1. Nhiều lần dặn dò răn bảo; 2. Rộng thích về trao gởi răn khuyên. Đây là phần một. Răn: Nghĩa là răn khuyên, tức nêu bảy điều răn. Bảo:

Nghĩa là dạy bảo, nói về sự dặn dò.

Kinh: Sau khi ta diệt độ…. không có tín nữ.

Giải thích: Phần hai – Rộng thích về trao gởi dặn dò răn khuyên. Có hai phần: 1. Trao gởi dặn dò; 2. Từ “Năm trược… ” rộng tỏ răn bảo.

Trong phần một có hai phần: 1. Thời dặn dò; 2. Chánh nói về dặn dò. Đây là phần một.

Nói “Tám mươi năm…”: chú thích đoạn văn này, các thuyết bất đồng: Một thuyết nói: Sau khi Phật diệt độ, trong khoảng một trăm năm, có năm người trụ trì: 1. Ca diếp hai mươi năm; 2. A-nan hai mươi năm; 3. Mạt điền địa hai mươi năm. Ba người trụ trì giữ pháp trải qua sáu mươi năm, gặp Phật tại thế để hành pháp, giữ pháp không bị diệt. 4. Thương-na-hòa-tu, trì giữ hai mươi năm; 5. Ưu-bà-cúc-đa, cũng hai mươi năm. Thương Na-hòa-tu vì không gặp Phật mà hóa, cho nên pháp oai nghi bị diệt.

Nói “Tám trăm năm” : là trong khoản năm trăm năm chánh pháp, có hai mươi lăm sư trú trì Pháp Phật, đều cùng là thánh nhân tương truyền cho nhau Phật Pháp không bị diệt. Năm thứ sáu trăm thì Bồ-tát Mã Minh. Năm thứ bảy trăm thì Bồ-tát Long Thọ, nhờ hai người trì giữ mà Pháp Phật bất diệt. Trong khoảng năm tám trăm, người trì pháp nhỏ ít, cho nên nói là pháp diệt.

Nói “Tám ngàn năm”: là Tượng pháp, Mạt pháp, chúng sanh hành pháp tà, nên hai thời tượng và mạt, pháp diệt. Kinh Niết-bàn nói: “Mạt thế có mười hai vạn đại Bồ-tát khéo trì pháp ta không diệt”, theo cái thấy của phàm tục, mà bảo là diệt mà thôi.

Một thuyết nói: “Tám mươi năm” nói ở đây là tám mươi năm sau cùng trong thời chánh pháp năm trăm năm. “Tám trăm năm” là tám trăm năm sau cùng trong thời tượng pháp một ngàn năm, cho nên nói là tám trăm năm. “Tám ngàn năm” là lấy theo tám ngàn năm sau cùng trong thời mạt pháp mười ngàn năm. Tuy có thuyết đó, nhưng chưa thành văn, nên không thể theo. Nhưng về thời chánh pháp, Tượng pháp, Mạt pháp, ý nghĩa đó rất khó hiểu, vì vậy mà nay lấy năm phần để phân biệt: 1. Giải thích tên gọi; 2. Xuất thể tính; 3. Thời gian chia dài ngắn; 4. Tướng của Diệt pháp; 5. Hội thích với các văn trái ngược. Chi tiết như đã nói ở Biệt ký. Nói “khi không có Phật… không có tín nữ”: là hiển bày phần trên. Chỉ nêu lên ý tám mươi năm, tám trăm năm, tám ngàn năm, vì trong những thời đó Tam bảo bị chìm, ít người hoằng pháp, vì vậy chỉ nêu tám mươi năm,… là khi không có Phật Pháp. Chữ “vô” (không có) nói ở đây là ít có gọi là vô, cũng vừa có nhưng làm cho không có, gọi là vô.

Kinh: Tam bảo kinh này… đọc tụng hiểu nghĩa.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Chánh nói về gởi gắm dặn dò. Văn có hai phần: 1. Trao pháp khiến thọ trì; 2. trao chúng khiến giáo hóa. Đây là phần một.

Nghĩa là: thời ác này, giao cho vương bốn chúng, đều khiến thọ trì đọc tụng hiểu nghĩa.

Kinh: Vì chúng sanh nơi tam giới… Hóa tất cả chúng sanh.

Giải thích: Phần hai – trao chúng khiến hóa. Nghĩa là: khai mở ba hạnh hoá cho chúng sanh nơi Tam giới. Ba Hạnh là: 1- Hạnh “Không”; 2. Hạnh bảy Hiền; 3. Hạnh Thập Thiện.

Có thuyết nói: Phần giao dặn có hai: 1. Giao dặn khiến hiểu; 2. từ “Vì chúng sanh…” là giao chúng khiến hóa.

“Khai đạo Không Tuệ”: là Tuệ vô lậu. “Hạnh bảy Hiền” là bảy phương tiện quán. “Thập thiện hạnh” là mười nghiệp thiện đạo, đó là nói từ cao xuống thấp, hoặc có thể hạnh bảy Hiền là các Hạnh, Tín,…

Hỏi: Vì sao phẩm trước chỉ giao cho các vương, trong phẩm này là giao chung cho cả bốn chúng?

Giải: Phẩm trước giao gởi là để hộ trì, cho nên chỉ giao cho chư vương, phẩm này giao dặn khiến hiểu để hóa chúng sanh, cho nên chung cả bốn bộ chúng.

Kinh: Đời năm ô trọc (ô trược) sau này… diệt phá pháp ta.

Giải thích: Từ đây là phần hai – Rộng biện về bảy điều răn. Văn có hai phần: 1. Rộng biện về bảy điều răn; 2. Từ “Bấy giờ, mười sáu Quốc vương…” nương theo giáo phụng trì. Đây là phần một. Rộng biện về bảy điều răn. Tức chia làm bảy phần: 1. Điều răn về các lỗi lầm diệt pháp; 2. Điều răn về làm hư hoại hạnh của bốn Bộ; 3. Điều răn về lấy theo Nhân cấm, không nương theo pháp; 4. Điều răn về tự mình hủy hoại; 5. Điều răn về sự sai khiến nô dịch; . Điều răn về lỗi lầm của tự mình; 7. Điều răn về tin lầm. Đây tức là phần một. Các lỗi lầm diệt pháp. Văn có ba phần: 1. Người Diệt Pháp; 2. Từ “Minh tác….” biện về lỗi lầm làm pháp diệt; 3. từ “phải biết…” kết về lỗi lầm thành. Đây là phần một. Văn có ba tiết:

1. Đời năm ô trọc: là thời gian diệt pháp, tức là thời năm trọc. Nghĩa của năm trọc này, lược dùng ba môn để phân biệt; 1- Giải thích Danh; 2. Xuất Thể; 3. Lập năm nguyên do. Về phần thứ nhất, giải thích tên gọi thì có hai loại: 1. Tên chung; 2. Tên riêng. Nói “năm trọc” tức là tên chung. Năm: là nêu con số. Trọc: là làm nhơ nhớp cái đẹp. Luận Câu-xá quyển mười hai nói: Thời kiếp giảm sắp Mạt, các Thọ thấp kém, như chất nhơ uế, gọi đó là trọc. Lại nữa, luận Thuận Chánh Lý quyển ba mươi hai nói: Nghĩa của trọc là gì? Vì cực kỳ thấp kém, phải tìm cách xả bỏ, như chất cặn bã. Năm trọc là tên gọi chung. Tên gọi riêng là: 1. Thọ mạng trọc; 2. Kiếp trọc; 3. Phiền não trọc; 4. kiến trọc; 5. hữu tình trọc. Luận Du già quyển ba mươi bốn nói: Như ở thời nay, tuổi thọ con người rút ngắn. Người cực trường thọ, không quá trăm năm. Thời xưa không vậy, đó gọi là Thọ trọc. (Như kinh văn Thù Vấn nói: mười tuổi mà sống, hai mươi tuổi, ba mươi tuổi, cho đến ngàn tuổi, vì có dài, ngắn, đó là Mệnh trọc). Như ở thời nay, lần lần nhập đến trong kiếp tam tai, hiện có nhiều loại đói khát dịch bệnh, chiến tranh. Thời xưa không có vậy, ấy là kiếp trọc. Như Thời nay, hữu tình đa phần tập sự tham lam trái pháp, tham bất bình đẳng. Cầm dao kiếm, gậy gộc đấu tụng tranh giành, hay hành dối trá dua nịnh vọng ngữ, thâu giữ pháp tà, có vô lượng loại ác, pháp bất thiện, thời xưa không vậy. Ấy gọi là phiền não trọc. (Kinh nói; nhiều tham, sân, si gọi là phiền não trọc). Như ở thời nay, hữu tình đa phần làm hại chánh pháp, làm diệt chánh pháp, tạo lập nhiều loại hình tựa như chánh pháp, suy cầu tà pháp, tà nghĩa, lấy đó làm đầu. Thời xưa không vậy. Ấy gọi là kiến trọc. (Kinh nói: Tà kiến, giới kiến thủ, kiến thủ, thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến, ngã kiến, chúng sanh kiến, ấy gọi là kiến trọc). Như ở thời nay, hữu tình đa phần không biết cha mẹ, sa môn, Bà-la-môn. Không biết gia trưởng, bậc đáng tôn kính, mà làm những điều nghĩa lợi, làm những điều phải làm. Nay đối vối tội đời sau, không biết sợ hãi, không tu tuệ thí, không làm nghiệp phước. Không thọ trai pháp, không thọ tịnh giới. Thời xưa không vậy, đó gọi là hữu tình trọc. Năm trọc nói trong luận địa trì, cũng giống với luận Du già. (Kinh nói: chúng sanh thiện ác, hạ trung thượng chúng sanh, chúng sanh thắng, liệt, đệ nhất, bất đệ nhất chúng sanh, đó gọi là chúng sanh trọc). 2. Về phần xuất thể; thọ mạng trọc, thì lấy mệnh căn làm tính. Kiếp trọc, chúng sanh trọc, thì lấy năm uẩn làm tính. Phiền não trọc thì trừ năm kiến, lấy tất cả phiền não làm tính. Kiến trọc thì dùng năm kiến làm tính; 3. Lập năm nguyên do: Luận Thuận Chánh Lý nói: Ba loại trọc; thọ, kiếp, hữu tình không lìa xa nhau. Kiến trọc thì dùng phiền não làm tính. Khi cực tăng thịnh thì theo thứ tự mà hiển rõ năm loại suy tổn. Năm loại suy tổn là gì? 1. Thọ mệnh suy tổn, vì thời gian sống cực ngắn ngủi; 2. Đồ dùng sinh sống bị suy tổn: Vì thiếu sự sáng sủa; 3. Phẩm thiện suy tổn: Vì vui thích với các hạnh ác; 4. Tịch tịnh suy tổn: Lần lượt trái ngược nhau, vì tranh cạnh nhau; 5. Tự thể suy tổn: Do chẳng phải là công đức khí của xuất thế gian. Vì muốn hiển bày thứ tự năm loại suy tổn khác nhau, mà chia thành năm trọc. Luận hiển tông cũng nói giống vậy. Lại nữa, luận Câu-xá quyển mười hai nói: Do hai trọc trước, như thứ tự của chúng; thọ mệnh và đồ dùng sinh sống cực kỳ suy tổn. Do hai trọc tiếp theo, phẩm thiện suy tổn, vì chìm đắm trong dục lạc, mà tổn hạnh tự tại, hoặc tổn tại gia, xuất gia thiện. Do một trọc sau cùng, làm suy tổn tự thân.

Tiếp đó là các Tỳ khưu… biện minh về người diệt pháp. Có bốn loại người diệt pháp: 1. Bốn bộ chúng nói “Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, đệ tử bốn bộ”: là nêu riêng để hiển chung; 2. “Thiên Long Bát Bộ”: tức tám bộ chúng. Đây cũng là nêu riêng để hiển chung; 3. Quỷ thần chúng; 4. Quý chúng các vương … “tự ỷ cao sang, diệt phá pháp Ta”: là diệt thắng duyên của pháp, do vì cao quý tạo thành các sai lầm.

Kinh: Minh tác chế pháp… Phật tháp hình.

Giải thích: Phần 2 – Biện về lỗi lầm diệt pháp. Văn có hai phần:

1. Chế bốn phúc; 2. Lập bốn tà.

Đây là phần chế bốn phúc:

  1. Chế xuất gia.
  2. Chế hành đạo.
  3. Chế tạo tượng.
  4. Chế tạo tháp. Như kinh đã rõ.

Kinh: Lập thống quan… đều chẳng phải là pháp của Ta.

Giải thích: Phần 2 – Lập bốn t giáo: 1. Sai lầm về lập thống quan chế chúng, an tịch ghi tăng, không nương theo pháp tăng; 2. “Tỳ khưu địa, lập bạch y ngồi cao”: Đó là làm mất đi tướn cao, thấp. Câu này có hai chú thích: Một là: ở trong tăng địa, bạch y ngồi cao. Hai là: cùng bắt Tỳ khưu ngồi dưới thấp, bạch y thì ngồi cao; 3. Binh nô làm Tỳ khưu; bên trái với tướng tôn quý của phước điền; 4. Thọ nhận biệt thỉnh mời riêng, làm mất đi tướng của phước điền, đó là pháp của ngoại đạo, chẳng phải là pháp Ta. Do đó, kinh Tỳ khưu ứng cúng pháp hạnh nói; nếu đệ tử Ta có người thọ nhận sự thỉnh mời riêng, thì người đó chắc chắn đã làm mất nhất quả, nhị quả, tam quả, tứ quả. Không gọi là Tỳ khưu. Đó là không được đi trên đất của Quốc vương. Không được uống nước của Quốc vương. Có năm trăm đại quỷ thường chặn ở trước mặt. Tỳ khưu ấy bảy kiếp không gặp Phật. Phật không trao truyền tay. Không được thọ nhận đồ vật của đàn việt. Năm ngàn đại quỷ thường theo phía sau, gọi là giặc lớn trong pháp Phật. Chư Tỳ khưu phải tác thứ lớp thỉnh tăng. Pháp của bảy Phật là như vậy, có tăng Phật hóa, tăng tứ quả, tăng Bồ-tát, tăng thất hiền, tăng phàm phu. Vì muốn khiến cho đàn việt thí chủ bốn phương đều được Tăng như vậy, cho nên đừng nhận lời những cuộc mời riêng nói đầy đủ như trong kinh kia.

Lại nữa, kinh Phạm Võng nói: Tất cả không được nhận lời mời riêng. Lợi dưỡng nhập vào mình, nhưng lợi dưỡng đó là thuộc Tăng mười phương, nhận lời mời riêng tức là lấy đồ vật của Tăng mười phương mà nhập vào mình. Lại nói: “thứ lớp thỉnh”: Tức là đắc thập phương hiền Thánh Tăng. Người đời biệt thỉnh năm trăm La hán, không bằng một Tăng thứ lớp phàm phu. Nếu người biệt thỉnh là pháp ngoại đạo. Bảy Phật không có pháp đó, nói đủ như kinh kia. Kinh cư sĩ thỉnh Tăng phước điền, đại ý cũng như vậy.

Kinh: Nên biết bấy giờ… không lâu.

Giải thích: Phần 3 – Kết về lỗi lầm. Đã rõ.

Kinh: Đại vương!… Đó là các ông làm.

Giải thích: Phần 3 – Bốn bộ hành diệt hoại. Văn có bốn phần: 1. Nêu tên gọi về lỗi lầm; 2. Biện về tướng của lỗi lầm; 3. Hiển bày lụy của chúng; 4. Kết. Lỗi nặng. Đây là phần một. Làm hư loạn chánh đạo mà bốn bộ đã thực hành.

Kinh: Tự ỷ oai lực… Đệ tử.

Giải thích: Phần 2 – Biện về tướng của lỗi lầm. Nghĩa là: chế ngự chánh lý mà bốn bộ đã thực hành.

Kinh: Trăm họ tật bệnh… Nhân duyên phá nước.

Giải thích: Phần 3 – Hiển bày quả. Do bốn bộ chế, hiện cảm báo ác.

Kinh: Nói về tội… không hết.

Giải thích: Phần 4 – Kết lỗi nặng. Như kinh đã rõ.

Kinh: Đại vương!… Các hành phi pháp.

Giải thích: Phần 3 – Răn về dựa theo tù cấm, không nương theo luật của pháp. Văn có bốn phần: 1. Nêu chung về lỗi lầm; 2. Biệt hiển tướng của lỗi; 3. phi pháp… là nói về tù cấm phi pháp; 4. “Nên biết…” là kết về lỗi nặng. Đây là phần một.

Kinh: Cùng với Phật pháp… Làm các tội lỗi.

Giải thích: Phần 2 – Biệt hiển tướng lỗi lầm. Như kinh đã rõ.

Kinh: Phi pháp, phi luật… Như pháp tù cấm.

Giải thích: Phần 3 – Phi pháp tù cấm.

Kinh: Đương thời bấy giờ, pháp diệt không lâu.

Giải thích: Phần 4 – Kết. Lỗi nặng.

Kinh: Đại vương!… Diệt phá Tam bảo.

Giải thích: Từ đây là phần 4 – Điều răn bảo về tự hủy. Văn có ba phần: 1. Tự hủy; 2. Khởi ác; 3. Chiêu cảm quả báo. Trong phần tự hủy:

Trước là pháp, sau là dụ. Đây là phần pháp. Như kinh đã rõ.

Kinh: Như trùng trong thân sư tử… chẳng phải là ngoại đạo.

Giải thích: Phần 2 – Nêu dụ giải thích lại, giải thích dụ này. Như kinh Liên Hoa; Phật bảo tôn giả A-nan: thí như sư tử, mệnh chung thân chết, tất cả chúng sanh hoặc ở trong không hoặc ở trong đất, hoặc ở trong nước hoặc ở trên đất liền, đều không dám ăn thịt thân sư tử kia, duy chỉ thân sư tử tự sinh ra các sâu trùng lại tự ăn thịt của sư tử. A-nan! Pháp Phật của Ta, chẳng có loại người nào khác có thể phá hoại, mà chính là các Tỳ khưu xấu ác trong pháp Ta, phá tan pháp Phật mà Ta đã siêng năng cần khổ thực hành tích tập trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Giải kinh đó chỉ dụ cho những Tỳ khưu xuất gia, không như kinh này dụ chung cả đạo và tục.

Kinh: Làm hư hoại Phật pháp Ta… chỉ còn trăm tuổi.

Giải thích: Phần 2 – Nói về khởi ác. Ác có ba loại: 1- Hoại pháp đắc tội; 2. Chánh giáo không hành; 3. Ác Tăng thọ giảm.

Kinh: Người hoại Phật giáo… họa liền ngang dọc.

Giải thích: Phần 3 – Chiêu cảm quả báo, trong có ba phần: 1. Pháp; 2. Dụ; 3. Hợp. Đây tức phần pháp thuyết.

Trong đó có ba phần: 1. Nói về hiện báo; 2. Hiển bày sinh báo; 3. Biện về hậu báo.

Đây là nói về hiện báo. Có năm loại:

  1. Hủy hoại Phật giáo.
  2. Không có con hiếu thảo.
  3. Bà con thân thích bất hòa. (Cha mẹ, anh em, vợ chồng).
  4. Thiên thần không phù hộ.
  5. Tai nạn lạ lùng không dứt.

Kinh: Chết nhập địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Giải thích: Phần 2 – Hiển bày sinh báo.

Kinh: Nếu xuất ra được làm người thì bị quả báo làm binh nô.

Giải thích: Phần 3 – Biện về hậu báo. Về chi tiết của ba báu, xin xem ở chương khác.

Kinh: Như tiếng vang như ảnh… Lửa tắt chữ còn.

Giải thích: Phần 2 – Nêu dụ. Dụ có ba loại: Hai dụ đầu là dụ về hiện báo: Như có âm thanh và hình thì chắc chắn phải có tiếng vang và bóng. Có nơi hiện nghiệp, báo định cùng một lúc. Một dụ sau là dụ cho sinh báo. Như người viết chữ vào ban đêm, đèn tắt chữ vẫn còn. Hiện nghiệp tuy đã diệt, nhưng hai báo vẫn còn. Hoặc có thể hai dụ trước là dụ chung cho cả ba thời. Nếu có ba nghiệp thì chắc chắn phải có quả theo. Như nơi có âm thanh, hình, thì tất phải có tiếng vang và bóng.

Kinh: Quả báo nơi tam giới, cũng lại như vậy.

Giải thích: Phần 3 – Hợp pháp binh nô.

Kinh: Đại vương!… Như pháp binh nô.

Giải thích: Phần 5 – Điều răn bảo về sai dịch. Văn có bốn phần: 1. Hoành chế; 2. Sử dịch; 3. Ghi sổ; 4. Nêu bày lỗi lầm.

Phần ngang nhiên chế có ba: 1. Chế người; 2. Ngang nhiên chế điều răn; 3. Thuộc bạch y. Đó là pháp binh nô.

Kinh: Nếu đệ tử ta… Đó là pháp binh nô.

Giải thích: Phần 2 – Sai khiến, nô dịch. Văn có ba tiết: 1. Lập tịch; 2. Cưỡng ép sai khiến; 3. Hiển bày chẳng phải là đệ tử Phật. Đó là pháp binh nô.

Kinh: Lập thống quan để thâu tóm Tăng… pháp của binh nô.

Giải thích: Phần 3 – Ghi chép cai quản. Văn có bốn tiết: 1. Quan nhiếp. (Bị quan lại quản chế); 2. Điển nhiếp (sổ sách ghi chép); 3. Tăng nhiếp (bị tăng quản chế). 4. Đều thuộc về tù ngục, pháp binh nô.

Kinh: Đương thời như vậy, Phật pháp không lâu.

Giải thích: Phần 4 – Nêu bày lỗi lầm.

Kinh: Đại vương!… là con đường thực hànhthường của chư Phật.

Giải thích: Bảy điều răn về tin lầm. Văn có bốn phần: 1. Chỉ rõ thiện; 2. Chỉ rõ ác; 3. Tin lầm; 4. Thị lỗi. Đây là phần thị hiện. Kinh này là pháp khí của bảy Phật, là con đường thường thực hành của chư Phật mười phương, cho nên phải lưu thông.

Kinh: Các Tỳ khưu xấu ác… Nhân duyên phá nước, giải thích: Các Tỳ-kheo cầu lợi, ở trước mặt các vua, tự thuyết về các nhân duyên phá pháp phá nước. Tỳ khưu tự thuyết, gọi là phá pháp. Chỉ bày cho vua khiến vua làm, gọi là phá nước.

Kinh: Vua đó không rõ… không nương theo pháp Phật.

Giải thích: Phần 3 – Tin lầm. Các vị vua không biết là họ vì cầu danh cầu lợi, tin nhận lời dối gạt dua nịnh của họ, tạo pháp chế bậy không nương theo giới Phật.

Kinh: Đó là phá Phật pháp… chánh pháp không lâu.

Giải thích: Phần 4 – Chỉ rõ lỗi lầm. Tin theo lời dua nịnh của họ, không tin theo lời Phật, chắc chắn đó là nhân duyên phá nước, pháp diệt không lâu.

Kinh: Bấy giờ, mười sáu… mất ánh sáng không hiện.

Giải thích: Từ đây là phần 2 – Đại chúng phụng trì. Trong có hai phần: 1. Vua người thương cảm; 2. Vua trời thở than. Trong phần đầu có hai phần: 1. Nói về thương cảm; 2. Hiển bày thọ trì. Đây là phần một.

Mười sáu đại vương nghe Phật nói về bảy điều răn sự ác thời vị lai, buồn khóc ra tiếng. Chấn động ba ngàn, các ánh sáng không còn hiện.

Kinh: Lúc ấy các vương… đúng như Phật dạy.

Giải thích: Phần 2 – Thọ trì lời Phật dạy, theo như Phật răn, không dám trái nghịch.

Kinh: Bấy giờ, đại chúng… là không có Phật tại thế.

Giải thích: Phần 2 – Vua trời than thở. Nghĩa là: các vua trời, than thở thời ác, không có Phật tại thế, là hư không.

Kinh: Bấy giờ… Vua A-tu-luân.

Giải thích: Từ đây là phần 2 – Đại chúng phụng hành. Trong đó có hai phần: 1. Nói về người là chủ thể thọ trì; 2. Hiển bày pháp là đối tượng được thọ. Đây tức phần một. Văn có ba tiết: 1. Là Bồ-tát; 2. Là Thanh văn; 3. Là tạp phẩm.

Kinh: Nghe Phật đã thuyết… Ba-la-mật.

Giải thích: Phần 2 – Kết về pháp được lãnh thọ.

Nghe Phật đã thuyết về nhân duyên hai hộ, cung kính thọ trì, phụng hành pháp đó.

Trang 1 2 3

0 0 Phiếu
Xếp Hạng Bài Viết
Đăng ký
Thông báo về
guest

0 Bình Luận
Mới nhất
Cũ nhất Được bình chọn nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả ý kiến