MƯỜI PHÁP GIỚI

Hòa Thượng Tuyên Hóa

 

Pháp giới của Phật

Bất đại bất tiểu
Phi khứ phi lai
Vi trần thế giới
Giao ánh liên đài.

Tạm dịch :

Không lớn không nhỏ
Chẳng đến chẳng đi
Thế giới như bụi
Ðài sen chiếu nhau.

‘Không lớn không nhỏ, chẳng đến chẳng đi
Thế giới như bụi, đài sen chiếu nhau’.

Hôm nay vẫn nói về mười pháp giới. Thứ nhất là nói về pháp giới của Phật. Pháp giới của Phật tôi đã giảng qua một lần về chữ “Phật” ở tại thành phố Hồng Mộc (Redwood), tiểu bang Cali. Chữ Phật tiếng Anh gọi là “Buddha”. Vì tôi rất ngu si và tai cũng điếc cho nên lần đầu tôi nghe chữ Buddha bằng tiếng Anh tôi tưởng là “Bu đa” bằng tiếng Tàu nghĩa là “Không lớn”. “Không lớn” là gì? Tức là Phật. Có một vị giáo sư rất thích tôi giảng kiểu này, cho nên giảng xong rồi y đến trước mặt tôi chắp tay lại gọi “Bu đa”. “Không lớn” này tức là chẳng có tâm cống cao. Phật thì chẳng có tâm cống cao, cũng chẳng có tâm ngã mạn. 

Tiếng Anh cũng có lối cống cao gọi là I (tôi), Phật thì chẳng có I (tôi). “I” này tức là “Tôi”. Tôi ! Tôi ! Tôi ! Gì cũng đều là tôi; trái, phải, trước, sau, trên, dưới, bốn phương đều là tôi, thật là quá nhiều cái tôi. Vì quá nhiều cái tôi cho nên trở thành lớn. Vì Phật chẳng có ngã, cho nên không lớn. Vậy phải chăng là nhỏ ? Cũng không nhỏ. Nếu là nhỏ thì Ngài chẳng phải là Phật, cho nên câu thứ nhất nói “không lớn không nhỏ”.

“Chẳng đến chẳng đi”. Ngài cũng chẳng đến cũng chẳng đi, tức là “đến mà chưa từng đến, đi mà chưa từng đi”. Tại sao nói chẳng đến chẳng đi ? Vì pháp thân của Phật tận hư không, khắp pháp giới, vô tại vô bất tại, nếu bạn nói Ngài đi, vậy Ngài đi về đâu ? Nếu bạn nói Ngài đến, lại đi đến đâu ? Pháp thân của Ngài vốn khắp cùng, cho nên nói chẳng đến chẳng đi. Vậy có phải ở tại thế giới này chăng? Chẳng phải. Chẳng phải chỉ riêng ở một thế giới này mà trong vô lượng vô biên hết thẩy tất cả thế giới nhiều như hạt bụi trong pháp giới đều là pháp thân của Phật, cho nên nói “thế giới như bụi”, nhiều giống như hạt bụi trong thế giới.

“Ðài sen chiếu nhau”: Chiếu nhau tức là quang minh của Phật ở pháp giới này chiếu đến Phật ở pháp giới kia. Quang minh của Phật ở pháp giới kia lại chiếu đến Phật ở pháp giới này. Ðài sen chiếu nhau là Phật ngự ở trên tòa sen hổ tương phóng quang động địa, tai cũng phóng quang, mắt cũng phóng quang, mũi cũng phóng quang, lưỡi cũng phóng quang, răng cũng phóng quang, không những sáu căn đều phóng quang động địa mà mỗi lỗ chân lông cũng đều phóng quang động địa. Trong mỗi lỗ chân lông lại hiện ra thế giới nhiều như số hạt bụi, có vô lượng vô biên chư Phật đều hiện ra ở trong mỗi lỗ chân lông. Mỗi một vị Phật đều phóng quang vô lượng vô biên như thế, cũng giống như ánh đèn, ánh sáng của bạn không xung đột ánh sáng của tôi, ánh sáng của tôi cũng chẳng xung đột ánh sáng của bạn, chẳng phải nói :”Ê ! Ánh sáng của bạn phóng ra quá nhiều, còn ánh sáng của tôi chẳng còn chỗ để phóng ra, như vậy không được”. Ánh sáng với ánh sáng chẳng xung đột, ánh sáng với ánh sáng hòa nhau, đó gọi là “hòa quang”. Cho nên Phật giáo của chúng ta là hòa quang, ánh sáng với ánh sáng chẳng xung đột với nhau, chúng ta người với người cũng đừng xung đột với nhau, do đó gọi là đài sen chiếu nhau, nghĩa là ánh sáng của bạn chiếu tôi, ánh sáng của tôi chiếu bạn, ánh sáng này chiếu ánh sáng kia, lỗ này thông với lỗ kia giống như lưới La-tràng của Ðại Phạm Thiên Vương, đó gọi là đài sen chiếu nhau. Ðó là pháp giới của Phật.

 

Pháp giới của Bồ Tát

Hữu tình giác ngộ
Khiêu xuất trần ai
Lục độ vạn hạnh
Thời khắc bồi tài.

Tạm dịch :

Hữu tình giác ngộ
Vượt khỏi bụi trần
Lục độ vạn hạnh
Giờ phút vun bồi.

Thứ hai là nói về pháp giới của Bồ Tát. Ở trước, tôi có đổi lại là “tất cả người ba đời” là vì mười pháp giới đều do người tu thành. Người, không lìa một tâm niệm hiện tiền, cho nên thứ hai là pháp giới của Bồ Tát.

Bồ Tát là Phạn ngữ, dịch là “giác hữu tình”. Sao gọi là giác hữu tình ? Giác hữu tình có hai lối nói : Một là giác ngộ tất cả hữu tình, khiến cho tất cả hữu tình đều giác ngộ, hai là hữu tình đã giác ngộ.

Hai lối nói này chúng ta đều có phần. Có phần gì ? Có phần thành Bồ Tát. Vì chúng ta đều là chúng sinh hữu tình, chúng ta cũng có thể làm bậc giác ngộ ở trong chúng sinh. Chúng ta cũng có thể dùng đạo lý giác ngộ để thức tỉnh tất cả chúng sinh. Cho nên là một Bồ Tát, không sai ! Bạn có phần, tôi cũng có phần. Không phải chỉ Bồ Tát là như thế mà Phật chúng ta cũng đều có phần.

Có người nói :”Tôi không minh bạch đạo lý nầy, sao vừa rồi Pháp Sư nói Phật là do người tu thành ! Vậy tại sao chúng ta không thành Phật ?” Ðừng nói vấn đề “người thành Phật, không thành Phật”, bạn nói đứa bé nầy tương lai có lớn chăng ? Ðứa bé nầy tuy nhiên bây giờ là trẻ con, nhưng tương lai nó có thể trưởng thành làm người, rồi lại già nua. Cũng thế, hiện tại chúng ta là trẻ con, còn Phật thì ví như người lớn, tương lai chúng ta trưởng thành tức là thành Phật. Hiện tại chúng ta là trẻ con ở trong Phật giáo. Mỗi ngày phải uống sữa, mỗi ngày phải nghe pháp. Ðặc biệt sự nghe pháp làm cho căn lành của con người tăng trưởng, đặc biệt làm cho khai mở trí huệ. Cho nên nếu bạn tạo cơ hội nghe pháp vẫn có giá trị hơn dù bạn kiếm được bao nhiêu tiền.

Cho nên hôm nay tôi lập ra một quy cụ mới, quy cụ gì ? Tôi hy vọng từ nay về sau chúng ta đừng lấy nhiều ngày nghỉ, đừng đi du lịch nhiều, nếu có ngày nghỉ thì lấy sự nghiên cứu Phật pháp làm du lịch, lấy sự nghiên cứu Phật pháp làm ngày nghỉ. Tại sao ? Vì ngày nghỉ đi du lịch quá nguy hiểm. Bạn hãy nhìn xem ! Mỗi kỳ nghỉ, người chết không chỉ là một, chắc hẳn là nhiều lắm, trong số nầy, nếu bạn đi du lịch biết đâu bạn có phần trong đó. Cho nên ở xứ nầy chúng ta phải sửa lại phong khí nầy. Ở xứ nầy ai ai cũng muốn đi chơi, muốn đi du lịch. Phật giáo đồ chúng ta phải cải thiện phong khí nầy. Làm Phật giáo đồ không cần đi du hành, không cần đi du lịch nhiều. Có thời gian thì đến nghiên cứu Phật pháp, đến tụng một thời Kinh, niệm một bài Chú, lễ Phật thì tốt biết mấy !

Lễ Phật công đức vô lượng, “Phật tiền đảnh lễ, tội diệt hà sa.” Nghĩa là bạn thành tâm lạy Phật thì tiêu diệt vô lượng tội lỗi. “Xả tiền nhất văn, tăng phước vô lượng.” Nghĩa là bố thí một đồng được phước vô lượng. Song le, chẳng phải tôi kêu bạn bố thí tiền cho tôi, các bạn phải minh bạch. Các bạn có tiền thì đến các đạo tràng khác cúng dường, như thế thì bạn sẽ tăng phước rất nhiều. Vì chúng tôi nơi đây đều là người khổ sở, không có phước thọ sự cúng dường, nếu cúng dường nhiều thì chúng tôi có thể chết. Nếu chẳng có ai cúng dường thì chúng tôi có thể sống thêm mấy ngày. Bạn thấy đó ! Tuy chúng tôi khổ, chúng tôi cũng muốn sống thêm mấy ngày, không muốn chết bây giờ. Cho nên nếu bạn muốn bố thí thì đến nơi khác bố thí, tôi tuyệt đối hoan nghênh. Vì có rất nhiều nơi để cho các bạn làm phước, không nhất định ở tại Chùa Kim Sơn. Chùa Kim Sơn đều là những người khổ sở, đều là những người chẳng có phước báo, cho nên nếu các bạn cầu phước ở đây thì chẳng có. Các bạn đừng lo lắng, chúng tôi không chết đói đâu !

“Hữu tình giác ngộ”. Bồ Tát là một hữu tình, là bậc giác ngộ trong hữu tình, là bậc minh bạch ở trong sự giác ngộ, là bậc tu hành ở trong sự hiểu biết, là bậc thực hành ở trong sự tu hành, đó là Bồ Tát. Cho nên nói :”Vượt khỏi bụi trần”. Nếu Bồ Tát không minh bạch thì không vượtt ra khỏi bụi trần. Bụi trần nầy quá dày cho nên không vượt ra khỏi được. Nếu giác ngộ rồi thì bụi trần sẽ mỏng dần, sẽ vượt ra khỏi bụi trần.

Sau khi vượt ra khỏi bụi trần thì làm gì ? Phải chăng ăn và ngủ ? Không sai ! Còn phải ăn, còn phải ngủ, còn phải mặc quần áo. Nhưng chẳng phải cứ làm những việc này. Mục đích bạn đi làm việc là vì ngày hai bữa cơm, vì mặc quần áo, vì chỗ ở, ba vấn đề nầy. Khi bạn vượt ra khỏi bụi trần thì không còn lo về ba vấn đề nầy nữa, mà phải tu hành lục độ.

“Lục độ” tức là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Có người nghĩ rằng :”Tôi biết bố thí tức là dạy người bố thí cho mình”. Chẳng phải vậy ! Là chúng ta phải bố thí cho người. Về tiền tài, chúng ta đừng ham nó, vì nó là vật rất dơ bẩn. Nếu bạn gần gũi nó quá nhiều thì đó là dính bụi trần. Bụi trần là gì ? Tiền là bụi trần. Nếu bạn không cần tiền thì sẽ thanh tịnh, sẽ vượt ra khỏi bụi trần. Hiện tại một số trong các bạn đã vượt khỏi bụi trần vì các bạn giữ giới không cất giữ tiền bạc. Bất quá bạn đừng bị nhiễm nó nữa trong tương lai.

“Vạn hạnh”, lại phải tu hành vạn hạnh. “Giờ phút vui bồi” : Chẳng phải hôm nay tu, ngày mai thì không tu; năm nay tu, năm tới thì không tu; tháng này tu, tháng tới thì nghỉ ! đời này tu, đời sau thì chẳng tu nữa ! Hoặc là lúc tu lúc nghỉ. Chẳng phải vậy ! Mà luôn luôn đều phải tu hành lục độ vạn hạnh. Ðừng nói đến luôn luôn mà đời đời kiếp kiếp chúng ta đều phải tu lục độ vạn hạnh. Do đó nếu bạn thực hành được như thế thì bạn là Bồ Tát.

Bạn nói :”Ðó thật chẳng phải dễ !” Bạn nghĩ rằng làm Bồ Tát dễ dàng lắm sao ? Ðâu có dễ dàng như thế. Không những làm Bồ Tát không dễ dàng mà làm Duyên Giác, Thanh Văn cũng chẳng dễ dàng. Làm gì thì dễ dàng ? Làm quỷ ! Làm quỷ dễ nhất, đọa địa ngục dễ nhất, làm súc sinh dễ nhất. Nếu bạn muốn dễ thì làm những thứ đó. Cho nên bạn muốn làm Bồ Tát thì chẳng dễ dàng; Bồ Tát còn gọi là “không dễ dàng”. Dễ dàng tức là quỷ, không dễ dàng tức là Bồ Tát. Bạn nói :”Khó quá”. “Khó” cũng là Bồ Tát, chữ khó tức là một tên khác của không dễ dàng.

Cho nên Bồ Tát thì phải hành khổ hạnh, những gì người làm không được mà làm được, khó nhẫn mà nhẫn được. Ðừng cho rằng khó quá mà không dám làm. Nếu bạn không dám làm thì bạn chẳng phải là Bồ Tát. Hãy tinh tấn tiến về trước !

Bồ Tát thì như thế chẳng có gì xảo diệu. Nếu bạn làm được những gì người không làm được tức là Bồ Tát. Vì ai ai cũng không làm được mà bạn làm được tức là Bồ Tát.

 

Pháp giới của Duyên Giác

Duyên Giác Thánh Hiền
Cô phong độc miên
Xuân hoa thu tạ
Thập nhị liên hoàn.

Tạm dịch :

Duyên giác Thánh hiền
Ngủ trên đỉnh cao
Xuân hoa thu tàn
Mười hai nhân duyên.

Tại sao tôi hỏi các bạn nhiều vấn đề ? Vì bậc Duyên Giác thì chẳng thích có vấn đề. Các bậc ấy thích cô độc, không muốn tụ hội chung với ai. Cho nên hôm nay chúng ta cùng nhau nghiên cứu vấn đề, mọi người cùng tụ hội lại, đừng làm giống như bậc Duyên Giác. Khi có Phật ra đời thì gọi là Duyên Giác, nếu không có Phật ra đời thì gọi là Ðộc Giác, tự mình khai ngộ. Bậc ấy thích gì ? “Cô phong độc miên”, ngủ một mình trên đỉnh cao. Cho nên nói “Duyên Giác Thánh Hiền, ngủ trên đỉnh cao, xuân hoa thu tàn, mười hai nhân duyên”. Ðó là nói về bậc Duyên Giác. Nói đến Duyên Giác thì chúng ta tự mình cũng phải “Duyên Giác”, giác ngộ nhân duyên. Các bậc ấy tu mười hai nhân duyên, còn chúng ta thì mười hai nhân duyên tu.

Mười hai nhân duyên, thứ nhất là “vô minh”. Bậc ấy quán sát vô minh, vô minh từ đâu đến ? Rất quái lạ, làm sao có vô minh ? Bậc ấy quán sát : Vô minh duyên hành, có vô minh rồi thì có hành vi, tức có “hành” rồi thì có sở biểu hiện. Có sở biểu hiện thì có “thức”. Thức tức là phân biệt, hành tức là pháp hữu vi. Khi vô minh thì chẳng thể nói là vô vi cũng chẳng thể nói là hữu vi, lúc đó thì ở giữa hữu vi và vô vi, sau đó có sự phân biệt. Tại sao có sự phân biệt ? Vì có pháp hữu vi. Có pháp hữu vi rồi thì sau đó có tâm phân biệt. Có tâm phân biệt thì sau đó sẽ có phiền não ! Phiền não tức là “Danh sắc”. Có danh sắc rồi, một khi có danh thì có phiền não về danh ; một khi có sắc rồi thì có phiền não về sắc. Danh sắc tức là phiền não, phiền não tức là danh sắc. Vấn đề này nếu nói ra thì càng phiền não, không nói thì chẳng có phiền não, một khi nói ra thì phiền não sẽ đến. Có người nói :”Sao danh sắc là phiền não ? Tôi không hiểu !” Bạn không hiểu thì bạn phiền não nhiều một chút. Vì bạn có phiền não không hiểu, khi tôi không nói thì bạn chẳng có phiền não không hiểu, phải chăng ?

Khi tôi không nói gì thì bạn vốn không biết, thì bạn cũng chẳng có nhiều phiền não. Khi tôi nói ra thì bạn không hiểu, có phiền não không hiểu thì nghĩ muốn hiểu. Ðó tức là có “Lục nhập”. Bạn thấy không, lục nhập tức là nghĩ muốn hiểu, nghĩ muốn minh bạch. Ðã nghe qua chưa ? Chẳng có ai nói Pháp này ! Bây giờ đã có rồi ! Ðó là nghĩ muốn hiểu.

Lục nhập tức là nghĩ muốn minh bạch mới có lục nhập. Nghĩ muốn minh bạch, do đó sinh ra nhãn căn, nhĩ căn, tĩ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn lục nhập. Tại sao lục nhập này phải sinh ra ? Vì muốn minh bạch. Ai không biết càng nghĩ muốn biết thì càng hồ đồ, càng hồ đồ thì càng không biết, đó tức là lục nhập, đã nhập vào. Bạn hãy xem ! Không minh bạch thì sau đó cứ muốn chọi. Chọi tức là “xúc”, đi chọi khắp nơi, chọi đông chọi tây, chọi nam, chọi bắc, chọi trên, chọi dưới, giống như con nhặng (ruồi xanh), chọi vào tường khắp nơi. Tại sao phải chọi vào tường ? Vì muốn minh bạch. Xúc tức là chọi, chọi vào tường khắp nơi. Khắp nơi đều muốn hiểu biết. Khi chọi thì không biết đau là vì muốn hiểu biết. Chọi rồi thì có “thọ”. “Chao ôi ! đau quá”, hay là “ôi ! Tôi rất là tự tại”; hiện tại ta không chọi tường thì hiện tại ta rất thoải mái, một khi chọi tường thì cảm thấy không thoải mái.

Không có ai nói ta không tốt thì ta cảm thấy rất vui vẻ ; khi có người nói ta không tốt thì ta cảm thấy không vui. Ðó là thọ, đều ở tại chỗ này, chẳng phải ở bên ngoài, đừng có đi tìm bên ngoài.

Có sự cảm thọ thì sinh ra một thứ “ái trước”. Ðối với cảnh thuận thì tham ái chấp trước ; còn đối với cảnh nghịch thì sinh ra chán ghét. Chán ghét tức là không thích ! Tại sao có sự không thích ? Vì có thương, có ghét. Ghét tức là không muốn, chán ghét, cho nên phiền não càng ngày càng nhiều.

“Duyên Giác Thánh Hiền, ngủ trên đỉnh cao, xuân hoa thu tàn, mười hai nhân duyên”. Mùa xuân thì vạn vật nảy nở, bậc Thánh nhân Duyên Giác “mùa xuân ngắm trăm hoa nở, mùa thu xem lá vàng rơi”. Các bậc ấy đã giác ngộ được tất cả sự vật đều sinh diệt tự nhiên. Cho nên quán “mười hai nhân duyên” này.

Tại sao chúng ta có sự cảm giác không bình an ? Vì có ái (thương). Có ái thì có ghét, tức cũng có chán ghét. Nếu vật gì bạn mến thích (ái) thì sinh ra “thủ”(giữ lấy). Thế nào là thủ ? Tức là muốn được, muốn chiếm được. Vì bạn mến thích (ái), cho nên muốn đắc được. Khi bạn đắc được rồi thì thỏa mãn dục vọng của mình. Tại sao phải thỏa mãn dục vọng của mình ? Vì muốn giữ nó, cho nên thủ duyên hữu (có). Vì có cái “có”, cho nên bạn muốn thuộc về chính bạn. Khi thuộc về chính bạn thì có sinh. Có sinh thì có lão tử (già chết). Ðó là mười hai nhân duyên pháp tu của bậc Duyên Giác.

 

Pháp giới của Thanh Văn

Thanh Văn chúng Tăng
Bất luận nữ nam
Tứ đế quán hành
Ẩn thật thị quyền.

Tạm dịch :

Thanh văn chúng Tăng
Dù nam hay nữ
Tu pháp bốn Ðế
Ẩn thật hiển quyền.

Bây giờ giảng về pháp giới của bậc Thanh Văn. Thanh Văn gồm có sơ quả, nhị quả, tam quả và tứ quả Thanh Văn. Trong đó lại phân ra sơ quả hướng nghĩa là chưa thật sự chứng được sơ quả, cho nên gọi là sơ quả hướng, sơ quả ; nhị quả hướng, nhị quả ; tam quả hướng, tam quả; tứ quả hướng, tứ quả.

Bậc Thanh Văn còn gọi là A La Hán cũng gọi là La Hán. Bậc La Hán có thần thông phi hành biến hóa. Người chứng quả thì không tùy tiện nói : “Tôi đã chứng quả, tôi là A La Hán !” Không được như thế ! Vì Thánh nhân chứng quả thì đi chân chẳng đụng đất, bạn thấy có vẻ họ đi trên đất, nhưng họ đi ở trong hư không, chân không dính đất cũng không dính bụi, thậm chí đi trong bùn, chân cũng sạch sẽ. Ví như Hòa Thượng Pháp Thuận (sơ Tổ của tông Hoa Nghiêm), đi trong bùn mà giày không dính bùn, đó là một sự biểu hiện của bậc Thánh nhân đã chứng quả. Chẳng phải nói :”Tôi đã chứng quả”, thì chứng được quả.

Sơ quả Thanh Văn thì đã đoạn được kiến hoặc, nhị quả thì đã đoạn được tư hoặc, tam quả thì đã đoạn được trần sa hoặc, tứ quả cũng đã đoạn được trần sa hoặc, phá được chút vô minh, chứ chưa hoàn toàn phá sạch. Vô minh phá sạch thì thành Phật. Bậc Ðẳng Giác Bồ Tát vẫn còn một phần sinh tướng vô minh chưa phá, cho nên không thể thành Phật. Bậc Tứ Quả Thánh nhân tu pháp gì ? Các Ngài tu pháp này ai ai cũng đều biết, chúng ta ai ai cũng đã nghe qua, đó là khổ, tập, diệt, đạo Tứ Diệu Ðế.

Ðức Phật sau khi thành đạo, đến vườn Lộc Uyển độ năm vị Tỳ Kheo Kiều Trần Như. Năm vị Tỳ Kheo này vốn là bà con của Phật, song le theo Phật xuất gia tu đạo. Khi Ðức Phật tu khổ hạnh tại núi Tuyết mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, thân hình chỉ còn da bọc xương. Lúc đó năm vị Tỳ Kheo bỏ đi hết ba vị vì chịu khổ hết nổi, còn hai vị. Sau đó, một ngày nọ có vị tín nữ dâng cúng bát sữa cho Ðức Phật, Ðức Phật thọ nhận, hai vị kia cũng bỏ đi. Hai vị này không phải vì chịu khổ không được mà họ nói Phật không còn khả năng tu hành, họ nói :”Tu hành phải tu khổ hạnh, phải hành khổ hạnh, bây giờ Ngài đã uống sữa, không chịu khổ được nữa !” Năm vị này đều bỏ đi đến vườn Lộc Uyển.

Sau khi Ðức Phật thành đạo, trước hết Ngài nói “Kinh Hoa Nghiêm”, chẳng có người nghe hiểu đặng, sau đó “vì thật thí quyền”, Ðức Phật nói “Kinh A Hàm”. Phải nói cho ai nghe ? Phật quán sát thì biết được cơ duyên :”A ! Năm vị cùng tu với ta trước kia, trước hết nên đi đến độ họ. Tại sao trước hết phải đi đến độ họ ? Vì trong quá khứ ta đã phát nguyện : Nếu ta thành Phật thì trước hết đi độ người đã hủy báng ta, giết ta, người đối xử với ta tệ nhất, ta phải đi độ họ trước”. Ai đối với Phật thậm tệ nhất ? Không biết các bạn đã đọc Kinh Kim Cang chưa ? Trong Kinh Kim Cang có nói về vua Ca Lợi. Khi Ðức Phật tại nhân địa thì làm tiên ông nhẫn nhục, bị vua Ca Lợi chặt chân tay. Tại sao vua Ca Lợi chặt chân tay ? Vì trong quá khứ tiền thân của Ðức Phật làm tiên ông tu đạo, tu khổ hạnh ở trong rừng. Một ngày nọ vua Ca Lợi mang theo cung nga, thể nữ, phi tần đi vào rừng săn bắn. Song le những người nữ này thích đi chơi, còn vua thì đi săn. Những người nữ này bèn thấy một vị hình thù quái dị không biết là gì ? Vì lông mày thì dài ba tấc, tóc thì dài hai thước, chưa khi nào tắm rửa, bụi bặm bám dày đầy người, quần áo bụi bặm dính đầy khoảng một tấc. Những người nữ thấy như vậy không nhận ra bèn nói :”Ðây là yêu quái ! Ðây là yêu quái ! Chúng ta hãy đi mau lên !”

Lão tu hành bèn nói :”Các vị không cần đi, ta chẳng phải là yêu quái”. Những người nữ nghe nói thì biết vị này biết nói, do đó có người gan dạ hỏi :”Ông ở đây làm gì ?” Ông ta đáp :”Tôi ở đây tu hành”, họ hỏi :”Thế nào gọi là tu hành ?” Ông ta đáp :”Tôi tu hành vì muốn thành Phật”, rồi ông ta thuyết pháp cho họ nghe. Nói xong rồi, những người này rất có hảo cảm với ông ta, nói :”Ông tu ở đây quá khổ, vậy ông ăn gì để sống ?” Ông ta đáp :”Tôi ăn rễ cây, lá cây, trái cây, có gì ăn nấy, tôi cũng chẳng đi vào xóm khất thực”.

Những người nữ này quây quần vị tiên nhân lâu cũng chẳng còn sợ gì nữa, càng muốn gần gũi ông ta để hỏi đạo. Lúc đó vua Ca Lợi đi săn về, bèn đi khắp nơi tìm thê thiếp phi tần thì thấy họ quây quần chung quanh tiên ông, bèn sinh tâm đố kỵ, nóng giận nói :”Ông ở đây làm gì ?”

– Ông ta đáp :”Tôi ở đây tu đạo”.
– Vua hỏi :”Ông tu đạo gì ?”
– Ông ta đáp :”Tôi tu hạnh nhẫn nhục”
– Vua hỏi :”Nhẫn nhục là gì ?”
– Ông ta đáp :”Tức là ai mắng tôi, đánh tôi, tôi cũng không sinh tâm sân hận”.
– Vua nói :”Ðược rồi để ta thử xem thật hay giả”. Bèn lấy bảo kiếm trên mình ra chặt cánh tay tiên ông, hỏi :”Tôi đã chặt đứt cánh tay nhà ngươi, nhà ngươi có sân hận chăng ?”
– Ông ta đáp :”Tôi không sân hận”
– Vua nói :”Ðược rồi để ta chặt tiếp một tay nữa thử nhà ngươi có sân hận chăng ?” Nói xong bèn chặt tiếp tay thứ hai, bèn hỏi :”Nhà ngươi có sân hận chăng ?”
– Ông ta đáp :”Cũng chẳng sân hận”.
– Vua nói :”Nhà ngươi có bản lãnh lắm, song le ta sẽ chặt nốt hai chân, xem thử nhà ngươi có sân hận chăng ?” Do đó vua chặt đứt hai chân của tiên ông, lại hỏi :”Nhà ngươi có sân hận chăng ?”

– Tiên ông đáp :”Ta cũng không sân hận”.

– Vua nói :”Nhà ngươi nói láo, lấy gì để chứng minh là sự thật ?”

– Tiên ông nói :”Nếu thật sự ta không sân hận thì tứ chi của ta sẽ hoàn phục lại như cũ, còn nếu ta sân hận thì sẽ không hoàn phục lại”. Vừa nói xong thì tứ chi của tiên ông hoàn phục lại như cũ. Lúc đó Thiên Long Bát Bộ Hộ Pháp thiện thần thấy vua độc ác quá đỗi, nóng giận bèn mưa đá xuống chỗ nhà vua. Tiên ông thấy vậy bèn nói :”Xin các vị Hộ Pháp thiện thần đừng mưa đá hại nhà vua”. Do đó vua thoát nạn bèn sinh tâm sám hối, đến trước vị tiên ông cầu sám hối. Tiên ông bèn phát nguyện rằng :”Nếu tương lai ta thành Phật thì trước hết ta sẽ độ nhà vua”. Do đó, sau khi Phật thành đạo thì đi đến vườn Lộc Uyển để độ Kiều Trần Như. Vị tiên ông đó là tiền thân của Ðức Phật Thích Ca, còn vua Ca Lợi là tiền thân của Kiều Trần Như. Vì nguyện lực của Phật trong quá khứ cho nên phải độ họ, dù họ đối xử với Ngài thậm tệ nhất.

Chúng ta nghe chuyện này rồi thì bất cứ ai đối với chúng ta không tốt, chúng ta phải phát nguyện khi thành Phật thì độ họ, chứ đừng nói : “Ngươi đối với ta không tốt, đợi khi ta thành Phật thì nhất định sẽ làm cho ngươi rơi vào địa ngục!” Ðừng phát nguyện như thế.

Phật đến vườn Lộc Uyển vì năm vị Tỳ Kheo mà chuyển bánh xe pháp Tứ Diệu Ðế. Lần thứ nhất nói :”Ðây là khổ, tính bức bách ; đây là tập, tính chiêu cảm ; đây là đạo, tính có thể tu ; đây là diệt, tính có thể chứng”.

Lần thứ hai nói :”Ðây là khổ, ta đã biết ; đây là tập, ta đã đoạn ; đây là đạo, ta đã tu ; đây là diệt, ta đã chứng.

Lần thứ ba Phật nói :”Ðây là khổ, ông nên biết; đây là tập, ông nên đoạn ; đây là đạo, ông nên tu ; đây là diệt, ông nên chứng”.

Sau khi Ðức Phật nói ba lần, pháp Tứ Diệu Ðế, bèn nói với Kiều Trần Như :”Hiện tại các ông bị khách trần quấy nhiễu nên không đắc được giải thoát”. Kiều Trần Như khi nghe hai chữ “khách trần” thì lập tức khai ngộ. Khách là gì ? Khách tức chẳng phải là chủ nhân. Trần là gì ? Tức là bụi bặm, không thanh tịnh. Tự tính của chúng ta tức là chủ nhân, tự tính vốn thanh tịnh. Cho nên lúc đó ông ta khai ngộ. Khai ngộ thì gọi “giải bốn tế”, tức là minh bạch nguồn gốc đạo lý, trở thành “giải không đệ nhất”.

Pháp Tứ Diệu Ðế vô cùng vô tận. Hôm nay chúng ta giảng “Thanh Văn chúng Tăng”, “Dù nam hay nữ”. Nói về chứng quả thì bất cứ nam hay nữ đều có thể chứng quả, chứng quả tức là Thanh Văn, tức là A La Hán. Vínhư mẹ của Pháp Sư Cưu Ma La Thập chứng được tam quả A La Hán.

“Tu pháp Tứ Ðế”. Tức là tu pháp Tứ Diệu Ðế : Khổ, tập, diệt, đạo ; biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo. Phải tu pháp môn Tứ Diệu Ðế này.

“Ẩn thật hiển quyền”. Bạn thấy những vị này là Thanh Văn, nhưng kỳ thật là đại Bồ Tát phương tiện thị hiện làm Thanh Văn, cho nên đây gọi là “ẩn thật”. Ẩn tức là ẩn náu công đức thật sự của các Ngài. Hiển quyền : Hiển tức là hiển hiện, quyền tức là quyền xảo phương tiện. Bạn đừng cho rằng các Ngài là Thanh Văn, là tiểu thừa mà xem thường, đừng như thế. Các Ngài đều là Bồ Tát thị hiện ; không phải hoàn toàn đều là Bồ Tát, nhưng ở trong đó nhất định có các đại Bồ Tát đó hiện thân tiểu thừa để tiếp dẫn người tiểu thừa hướng về đại thừa, cho nên gọi là “ẩn thật hiển quyền”. Ðó là pháp giới của bậc Thanh Văn.

 

Pháp giới của trời

Lục dục Phạm Thiên
Ngũ giới thập thiện
Chủng hữu lậu nhân
Luân hồi nan đoạn.

Tạm dịch:

Lục dục Phạm Thiên
Năm giới mười thiện
Trồng nhân hữu lậu
Luân hồi khó dứt.

Hôm nay chúng ta giảng về “Lục dục Phạm Thiên”.

Thứ nhất là sáu cõi trời dục giới, sáu cõi trời dục giới gọi là trời dục giới. Trời dục giới, trời sắc giới, trời vô sắc giới đó gọi là tam giới.

Hiện tại chúng ta ở trong phạm vi trời Tứ Thiên Vương thuộc trời dục giới. Chúng ta chịu sự cai quản của Tứ Ðại Thiên Vương. Cõi trời này nằm ở giữa núi Tu Di. Núi Tu Di có một nửa ở tại nhân gian, phần nửa trên là chỗ ở của Tứ Thiên Vương. Tứ Thiên Vương ở bốn hướng đông tây nam bắc của núi Tu Di, đồng thời cai quản tứ thiên hạ đó là Ðông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lưu Châu. Nếu nói tỉ mỉ thì rất nhiều nói không hết được.

Tuổi thọ của chư Thiên ở cõi trời Tứ Thiên Vương này bao lâu ? Năm trăm tuổi ! Năm trăm tuổi của họ chẳng phải là năm trăm tuổi ở nhân gian, một ngày một đêm ở đây, bằng năm mươi năm ở nhân gian. Bạn hãy tính xem năm trăm tuổi ở cõi trời Tứ Thiên Vương là bao nhiêu năm ở nhân gian? Tuổi thọ ở cõi trời này là năm trăm tuổi mà ở nhân gian năm mươi năm thì một ngày một đêm ở cõi trời Tứ Thiên Vương, bạn hãy tính xem, nếu 365 ngày thì ở nhân gian bao nhiêu năm ? Nếu bạn biết tính thì sẽ tính được số mục, đây là trời Tứ Thiên Vương.

Thứ hai là trời Ðao Lợi. Trời Ðao Lợi là Tiếng Phạn, dịch ra gọi là gì ? Không biết. Không biết dịch ra là gì thì gọi là “trời không biết”. Trời không biết tức là trời Tam Thập Tam, Tiếng Phạn gọi là Ðao Lợi, dịch ra là trời Tam Thập Tam. Sao gọi là trời Tam Thập Tam ? Vì trời Ðế Thích ở chính giữa. Trời Ðế Thích ở trong Chú Lăng Nghiêm tức là “Nhân Ðà La Gia”, tức cũng là Chúa của Thiên Chúa giáo, Gia Tô giáo. Người Tàu gọi y là Ngọc Hoàng đại đế, hoặc là Thượng đế.

Thời xưa người Tàu không biết có Phật, cũng chẳng biết có Thượng đế. Cho nên vào thời vua Thang khi tế trời thì nhà vua dùng con bò đen để tế trời, khấn rằng :”Bẩm ! Tôi tiểu tử tên Lý, dám dùng bò đực đen, dám bẩm với hoàng hoàng hậu đế”. Hoàng hoàng ý nghĩa là lớn ; Hoàng hoàng hậu đế. “Thân trẩm có tội chứ chẳng phải lão bá tánh ; nếu lão bá tánh có tội tức là tội tại thân của Trẩm”. Vua Thang nói :”Tôi tiểu tử tên Lý”, vua Thang tên gọi là Lý, vua coi mình như đứa trẻ, rất khiêm nhường nói :”Con là một tiểu tử vô dụng”, giống như một đứa trẻ. “Dám dùng bò đực đen”, con dám dùng bò màu đen, “dám khải bẩm với Hoàng hoàng hậu đế”, con rất chí thành khẩn thiết bẩm với Thượng đế. Nói gì ? Nói : “Nếu trẩm có tội”, nói có tội thì chỉ mình trẩm có tội, chẳng dính dáng gì đến lão bá tánh. “Nếu lão bá tánh có tội thì tội đó ở tại thân trẩm. Nếu một số lão bá tánh có tội thì đừng trách họ, vì con không dạy họ cho tốt, cho nên tội của họ tức là tội của con”.

Bậc Thánh nhân thời xưa là như thế, tự mình trách phạt mình, chẳng phải như người thời nay, biết rõ là mình có tội, thế mà cứ nói :”Ồ ! lỗi đó chẳng quan hệ gì đến tôi, đó là lỗi của anh ta, là anh ta không đúng, sao lại trách tôi ?”, hoặc là “Ông trời thật không công bằng, tại sao họ giàu có ? còn tại sao tôi nghèo ? Tại sao họ lại sang còn tôi thì quá hèn ?” Luôn luôn oán trời trách người mà việc gì cũng chẳng trách mình không đúng ; đều tìm sự không đúng của người, trái hẳn với Thánh nhân thời xưa là trách mình không đúng.

Trên cõi trời Ðao Lợi thì trời Ðế Thích ở chính giữa, hướng đông có tám trời, hướng tây có tám trời, hướng nam có tám trời, hướng bắc có tám trời, cộng hết thảy là ba mươi ba trời.

Thứ ba là trời Dạ Ma. Trời Dạ Ma cũng là Tiếng Phạn, dịch là gì ? Chư Thiên cõi trời này khoái lạc vô cùng, suốt ngày đến tối đều ca hát. Ca hát gì? Họ đặc biệt vui mừng ca hát “sung sướng, sung sướng ! Tôi rất sung sướng vô cùng ! Tôi rất sung sướng vô cùng !” Ngày đêm sáu thời đều sung sướng, cho nên dịch là “thời phần” nghĩa là thời khắc đều sung sướng.

Thứ tư là trời Ðâu Suất. Trời Ðâu Suất, Tiếng Phạn gọi là Tushita dịch là “Hỷ túc”. Họ luôn luôn đều hoan hỉ, luôn luôn đều đầy đủ, đó tức là tri túc thường lạc. Vì họ biết tri túc cho nên luôn luôn vui vẻ, do đó gọi là trời “Tri Túc”, nghĩa là suốt ngày đến tối chẳng sầu, chẳng lo, chẳng có phiền não, chẳng có sự lo âu.

Thứ năm là trời Hóa Lạc. Họ biến hóa ra sự khoái lạc. Cõi trời Tri Túc họ chẳng biến hóa mà cũng hoan hỉ biết đủ, thậm chí không khoái lạc họ cũng biết đủ. Trời Hóa Lạc này biến hóa ra sự khoái lạc.

Thứ sáu là trời Tha Hóa Tự Tại. Sao gọi là Tha Hóa ? Tức là họ vốn chẳng có sự khoái lạc, cho nên họ đem sự khoái lạc ở các cõi trời khác làm sự khoái lạc cho chính mình, cho nên gọi là Tha Hóa Tự Tại. Ở cõi trời này có rất nhiều thiên ma, dùng thiên ma làm quyến thuộc. Tại sao họ phải đem sự khoái lạc ở cõi trời khác về làm sự khoái lạc cho chính mình ? Vì họ sống chẳng đếm xỉa gì đến đạo lý. Giống như kẻ trộm cướp ở nhân gian, đa số đều là những chư thiên Trời Hóa Lạc bị đọa lạc, họ đến nhân gian còn thói trộm cắp tiền của người, làm tiền của chính mình. Trên đây là sáu cõi trời dục giới.

Phạm Thiên tức là Ðại Phạm Thiên, Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên. Lục dục Phạm Thiên, “Năm giới Mười thiện”. Họ đắc được phước báu sinh về cõi trời là nhờ tu năm giới, làm mười điều lành. Song le năm giới mười điều lành đều là căn lành hữu lậu, cho nên nói “trồng căn hữu lậu” : tức là trồng căn lành hữu lậu. Hoặc có người biên “trồng nhân hữu lậu”, chữ “nhân” thay thế chữ căn cũng được, trồng nhân hữu lậu. “Khải hữu tha yên” (câu cuối này vốn ở trong pháp giới của loài người), người khác chẳng quản được, đều do tự mình tạo.

Giảng Kinh thuyết pháp thật không dễ dàng, tôi chẳng chuẩn bị trước khi giảng, có người nói :”Sư phụ giảng sai !” Ðó là trong tâm nghĩ như thế chứ không dám nói ra, song le con người tôi cũng lạ thật, một khi bạn nghĩ trong tâm của bạn thì tôi nhận được điện báo của bạn, cho nên tôi phải đổi lại câu sau :”Luân hồi khó dứt” phải chăng ? Lần này tôi đúng phải chăng ? Có phải trong tâm của bạn nói tôi giảng sai, phải chăng ? (đệ tử nói :”phải”), chẳng phải một người nghĩ như thế, còn bao nhiêu người phải mau nói ra, ai tưởng như thế ? Phải thành thật, nếu không thành thật thì vĩnh viễn sẽ không thành đạo.

 

Pháp giới của loài người

Nhân đạo hòa hợp
Công tội tương gian
Ðức thăng nghiệt đọa
Khởi hữu tha yên.

Tạm dịch:

Con người hòa hợp
Phước tội lẫn lộn
Ðức thăng nghiệt đọa
Do mình làm nên.

Ðường A tu la nguy hiểm như thế, vậy loài người thì sao ? Người cũng có thiện, cũng có ác, cho nên nói :”Con người hòa hợp, phước tội lẫn lộn ; đức thăng nghiệt đọa, do mình làm nên”. Con người tính tình ôn hòa, đều hòa hợp với mọi người, cho nên nói : “Con người hòa hợp”.

Ðược làm người cũng chẳng phải hoàn toàn thiện, cũng chẳng phải hoàn toàn ác. Hoàn toàn thiện thì được thăng lên trời, hoàn toàn ác thì đọa làm súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Cho nên con người vừa có chút công vừa có chút tội, hoặc là công nhiều tội ít, hoặc là tội nhiều công ít. Công nhiều tội ít, hoặc là tội nhiều công ít. Công nhiều tội ít thì sinh vào gia đình giàu có, công ít tội nhiều thì sinh vào gia đình nghèo khổ.

“Công tội lẫn lộn” vừa có chút công vừa có chút tội, chẳng phải thuần âm cũng chẳng phải thuần dương. Thuần âm thì sẽ biến thành quỷ, không được làm người, thuần dương thì thăng lên trời, không được làm người. Cho nên chúng ta làm người vừa có thể lên trời lại có thể đọa địa ngục.
“Ðức thăng nghiệt đọa”. Bạn làm công đức thiện thì thăng đi lên, nếu bạn tạo tội nghiệt thì đọa đi xuống.

“Do mình làm nên”. Người khác chẳng kêu bạn đọa địa ngục, chẳng kêu bạn đọa ngạ quỷ, chẳng kêu bạn biến làm súc sinh mà đều do bạn tự mình tạo, do đó “mình làm mình chịu”.

 

Pháp giới của A Tu La

Tu la tính bạo
Hữu phước vô quyền
Hiếu dũng đấu lang
Phù trầm nghiệp khiên.

Tạm dịch:

Tu la tính dữ
Có phước không quyền
Ưa thích đấu tranh
Trôi nổi theo nghiệp.

A tu la là tiếng Phạn dịch là “vô đoan chính”, vô đoan chính tức là xấu xí. Song le chỉ là nam A tu la tướng mạo xấu xí, ngược lại nữ A tu la tướng mạo rất xinh đẹp. Tính của nam A tu la rất thích đấu tranh, đấu tranh bên ngoài, tính của nữ A tu la cũng thích đấu tranh nhưng đấu tranh bên trong, chẳng phải đấu tranh bên ngoài. Thế nào là đấu tranh bên trong ? Tức là dùng vũ khí tâm để đấu tranh, đó là đố kị, chướng ngại, vô minh, phiền não.

Loài chúng sinh này có khi được liệt vào trong ba đường lành tức là trời, người, A tu la ; có khi liệt vào bốn đường ác đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la.

Ở trong loài súc sinh cũng có A tu la, trong loài người cũng có A tu la, trên trời cũng có A tu la ; loài ngạ quỷ cũng có A tu la. Riêng A tu la đã có một pháp giới, song vẫn thông với ba pháp giới khác, cho nên ở trong bốn loài này đều có A tu la. Nói tóm lại, bất cứ ở trong loài nào mà chúng thích đấu tranh, tính nóng giận lớn, muốn làm ông chủ, muốn làm chỉ huy người khác mà không muốn họ chỉ huy mình, muốn quản lý người mà không muốn người quản lý mình, đó đều là biểu hiện của A tu la. Nếu bạn chưa thấy A tu la thì tôi có thể nói cho bạn biết. A tu la gồm có A tu la thiện và A tu la ác. A tu la thiện tức là quân đội, binh, tướng của quốc gia, đó đều là A tu la. A tu la ác là đảng cướp, trộm cướp, giết người, đánh người, đó đều là A tu la. Ðó đều ở trong loài người chúng ta đều thấy.

Trên trời cũng có A tu la. A tu la trên trời thì đánh với binh trời tướng trời, suốt ngày đến tối cứ muốn chiếm ngôi vị trời Ðế Thích, muốn lật đổ trời Ðế Thích để cho y làm Ðế Thích. Nhưng đánh đi đánh lại chúng cũng đều thua. Tại sao ? Vì chúng có phước trời mà không có quyền lực ; chúng có thể ở trên trời hưởng phước trời nhưng chẳng có quyền lực, cho nên tuy đánh với binh trời tướng trời nhưng trước sau vẫn thua.

Trong loài súc sinh cũng có A tu la sao ? Phải đó ! Súc sinh A tu la như là cọp, sư tử, sói lang, đó đều là A tu la ở trong loài súc sinh. Loài A tu la này tự phụ những loài súc sinh khác. Sói, cọp, sư tử đều bắt những súc sinh khác ăn thịt. Tại sao chúng phải ăn loài súc sinh khác ? Vì chúng có tính A tu la. Ngoài ra rắn, chim ưng cũng là A tu la.

Nói tóm lại, A tu la tức là không nói về đạo lý, nóng giận hung hăng, bất cứ đối với ai cũng luôn luôn nổi nóng. Trong loài quỷ cũng có A tu la, thứ A tu la này cũng tự phụ những quỷ khác.

Trong loài quỷ cũng có quỷ thiện và quỷ ác. Quỷ ở trong quỷ ác cũng không nói đạo lý. Bổn lai quỷ thì không nói đạo lý, song quỷ A tu la càng không nói đạo lý ! Cho nên nói “Tu la tính dữ”, tính của chúng rất hung dữ tàn bạo.

“Có phước không quyền”. Chúng chỉ có phước trời mà chẳng có quyền lực. Chúng muốn tranh quyền đoạt lợi, song vẫn tranh không được.

“Chuyên thích đấu tranh”. Chúng thích đấu tranh với người. Bây giờ bạn thấy trên thế giới này đều là A tu la giới, đều nói về đấu tranh, đấu tranh về vấn đề này, đấu tranh về vấn đề kia, đánh giết với nhau.

Ông Lâm Bưu (kế thừa Mao Trạch Ðông) của Trung Quốc là sói lang tái sinh, cho nên ác vô cùng, y có thể chỉ huy trăm vạn đại quân, y có phương pháp khiến cho họ đều phục tùng vâng theo. Chu Ân Lai kiếp trước là người, y là người rất thông minh vô cùng, có thể thông minh hơn Gia Cát Lượng, cho nên thế giới suy sụp mà y vẫn lập vững lên được.

Tôi đã nói những bí mật này khoảng năm sáu năm về trước, nhưng các bạn không chú ý. Bây giờ có người hỏi :”Hòa Thượng biết ông Lâm Bân là sói lang, còn Chu Ðức (phó chủ tịch đảng cộng sản Trung Quốckhi Mao Trạch Ðông làm chủ tịch). Chu Ðức là sư tử. Lại có người hỏi :”Còn tôi là gì?” Bạn là bạn, tôi là tôi. Tôi chỉ nói những người nổi tiếng trên thế giới, người không nổi tiếng thì miễn nói.

Cho nên đó đều là A tu la, chúng chuyên thích đấu tranh, đấu tranh một trăm năm, hai trăm năm, ba trăm năm, năm trăm năm, một ngàn năm mà không biết mệt ! Cho nên Phật pháp đến thời kỳ đấu tranh kiên cố là thời đại mạt pháp này.

Song, chúng ta mọi người phải phát nguyện :”Chúng ta không muốn mạt pháp, chúng ta phải chánh pháp ! Chúng ta đi đến đâu thì nơi đó biến thành chánh pháp” ! Nếu chúng ta phát nguyện này thì dù thời mạt pháp, nhưng chúng ta đi đến đâu thì nơi đó sẽ biến thành chánh pháp. Nếu ai ai cũng phát nguyện này thì ai ai cũng đều thành tựu nguyện này. Ðến thời đại mạt pháp mà làm cho biến thành chánh pháp, đó gọi là trời đất đảo ngược, làm cho trời đất chuyển mình.

“Chìm nổi theo nghiệp”. A tu la hoặc sinh cõi trời, hoặc ở trong loài người, loài súc sinh, loài ngạ quỷ đều do nghiệp lực dắt dẫn, mới khởi hoặc tạo nghiệp, thọ báo, cho nên nói chìm nổi theo nghiệp, do nghiệp lực dẫn dắt. Người tu hành nên nhớ đừng tranh với ai, đừng có nóng giận thì lìa khỏi sự quan hệ với A tu la.

Nếu phân tích tỉ mỉ về A tu la thì trong chín pháp giới có năm pháp giới đều có A tu la. Ở trong pháp giới súc sinh, loài biết bay thì có A tu la biết bay, loài biết đi thì có A tu la biết đi, ở trong nước thì có A tu la ở trong nước như cá sấu. Ngựa cũng có A tu la, do đó “ngựa hại bầy”, có thứ ngựa này ở đâu thì bầy ngựa chẳng được yên, luôn luôn quấy nhiễu. Còn bò ? Bò đa số cũng là A tu la, bạn thấy trên đầu bò có hai cái sừng, đó là biểu thị tính ương ngạnh, dùng để chọi vật khác, đó là tính A tu la. Còn chó càng là A tu la ! Cho nên ai thích nuôi chó tức là gần gũi với A tu la ; bạn gần gũi A tu la thì tương lai sẽ gần gũi A tu la, gần gũi thì sẽ có nguy hiểm ; e rằng sẽ đi vào con đường A tu la. Các bạn phải đặc biệt chú ý, coi chừng đừng đi vào đường A tu la.

 

Pháp giới của ngạ quỷ

Quỷ loại hỉ sân
Muội quả mê nhân
Vô minh điên đảo
Nhật tích nguyệt thâm.

Tạm dịch:

Ngạ quỷ thích giận,
Mê muội nhân quả
Vô minh điên đảo,
Ngày càng chồng chất.

Hầu hết ai cũng đều biết quỷ, có người tin có quỷ, có người nói chẳng có quỷ, thậm chí là Phật giáo đồ cũng chẳng tin có quỷ. Quỷ là gì ? Quỷ thuộc về âm khí, có bóng mà chẳng có hình, có hình mà chẳng có bóng. Hoặc bạn thấy chúng một bóng đen, bạn nghiên cứu kỹ thì chúng biến mất, hoặc nhìn thấy chúng tựa như người, nhưng nháy mắt thì chúng chẳng còn nữa. Hiện tượng này không dễ gì hiểu được.

Trong mười pháp giới, bây giờ chúng ta giảng đến pháp giới của ngạ quỷ. Quỷ có bao nhiêu loại ? Cũng có nhiều loại như cát sông Hằng, vô cùng vô tận. Quỷ gồm có tài quỷ và vô tài quỷ. Tài quỷ là quỷ có thế lực, làm quỷ vương trong loài quỷ. Quỷ vô tài là quỷ chẳng có thế lực, tức cũng là quỷ nghèo. Vì chúng nghèo cho nên chúng quấy phá nhiễu loạn người, đến khắp nơi gây nhiễu loài người. Nếu bạn muốn biết quỷ có bao nhiêu loại thì bạn hãy tu đạo, khi nào bạn khai mở ngũ nhãn lục thông thì sẽ biết quỷ có bao nhiêu loại.

Có người nói chẳng có quỷ, tôi nói với y, nếu không có quỷ thì cũng chẳng có Phật, cũng chẳng có người, cũng chẳng có loài súc sinh nào. Vì súc sinh cũng là quỷ biến thành, người cũng là quỷ biến thành, A tu la cũng đều là quỷ biến thành, cho đến chư Thiên, A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật đều từ quỷ mà ra. Tại sao ? Vì “mười pháp giới không lìa một tâm niệm”. Một tâm niệm này tạo thành mười pháp giới.

Bạn làm việc quỷ thì đọa vào đường ngạ quỷ; làm việc người thì đầu thai vào loài người; làm việc A tu la thì tái sinh vào loài A tu la. Bạn làm việc A La Hán thì sinh vào pháp giới A La Hán; Bạn làm việc Duyên Giác thì sinh vào pháp giới Duyên Giác, bạn làm việc Bồ Tát thì làm quyến thuộc của Bồ Tát; Nếu bạn làm việc Phật thì thành Phật, nếu bạn làm việc địa ngục thì đọa vào địa ngục, đó đều do một tâm niệm hiện tiền của bạn tạo thành, cho nên mới nói mười pháp giới không lìa khỏi một niệm này.

“Ngạ quỷ thích giận”. Phàm là loài quỷ thì thích nóng giận, sinh tâm sân hận. Người đối với chúng tốt, chúng cũng sinh tâm sân hận; đối với chúng không tốt chúng cũng sinh tâm sân hận. Chúng thích nhất là gì ? Là nhiễu loạn người khác. Bạn đối với chúng tốt, chúng cũng nhiễu loạn bạn, bạn đối với chúng không tốt, chúng cũng nhiễu loạn bạn, cho nên mới nói ‘đốt hương dẫn chúng đến’. Bổn lai bạn đốt hương là cung kính chúng. Bạn không cung kính chúng thì chúng không nhiễu loạn bạn; khi bạn cung kính chúng thì chúng nhiễu loạn bạn, khiến cho bạn sinh bệnh. Cho nên Khổng Tử nói :”Cung kính quỷ thần phải xa chúng”. Bạn cung kính quỷ thần thì nên cung kính nhưng đừng gần gũi chúng, phải lìa xa chúng, cho nên nói ngạ quỷ thích giận.

“Mê muội nhân quả”. Chúng chẳng hiểu gì là nhân, gì là quả, mê muội nhân quả, cho nên chúng chẳng biết tốt xấu. Bổn lai trồng nhân tốt thì kết quả tốt, trồng nhân thiện thì kết quả thiện, trồng nhân không thiện thì kết quả ác; trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Chúng chẳng hiểu đạo lý này, cũng chẳng hiểu gì là trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Chúng trồng hành lại muốn ăn ớt, trồng ớt lại muốn ăn dưa. Cho nên chúng chẳng hiểu đạo lý này, cho nên gọi là mê muội nhân quả, không hiểu nhân quả.

Chúng “vô minh điên đảo”, “ngày càng chồng chất”, càng ngày càng tích tụ nhiều vô minh điên đảo, càng ngày càng sâu dày, càng sâu dày thì chúng càng tạo nghiệp, cho nên nói ngày càng chồng chất.

 

Pháp giới của súc sinh

Súc sinh hiếu tham
Ða nhi vô yểm
Tương hắc tác bạch
Thị phi mạc biện.

Tạm dịch:

Súc sinh tham lam
Nhiều chẳng biết chán
Lấy đen làm trắng
Không biết phải trái.

Ở trên đã giảng qua bảy pháp giới đều là pháp giới tốt, có thể đi thử xem. Nhưng ba pháp giới này đừng đi thưởng thức, đừng đi xem thử. Một khi bạn đi thử xem, thì e rằng thoát ra không khỏi, do đó có câu : “Một khi mất thân người, vạn kiếp khó được lại”. Khi bạn mất đi thân này thì ngàn vạn kiếp sợ rằng cũng không được làm thân người, cho nên rất là nguy hiểm, không nên đi du hí thử. Song, có người nói : “Có vẻ tựa như du hí”. Nhưng y chưa nhận thức sự du hí này ra sao, sự thấy hiểu vô minh của y không rõ ràng, nhận thức không rõ ràng.

Súc sinh chẳng phải là một loại súc sinh, súc sinh cũng có trăm ngàn vạn ức giống loài khác nhau, có loài thì bay, loài thì đi, loài ở dưới nước, loài ở dưới đất, loài ở trên hư không. Riêng loài súc sinh biết bay có hàng trăm ngàn vạn ức loại khác nhau. Còn loài súc sinh đi cũng không ít, có lớn có nhỏ; nhỏ thì như chuột, lớn thì như voi, ngựa, nai, gấu, bò. . . . Súc sinh ở trên mặt đất cũng có trăm ngàn vạn ức loại. Súc sinh ở trong nước như chó nước, trâu nước, ngựa nước, heo nước, cũng có trăm ngàn vạn ức loại.

Chúng ta e rằng không cách chi biết hết được, dù tiến bộ về vật lý, hóa học, sinh vật học, động vật học, bác sĩ hoặc chuyên gia cũng không cách chi biết hết được. Cho nên trên thế gian này, bạn thấy có phải trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng chăng ?

Những súc sinh này do đâu mà biến làm súc sinh ? Chỉ do một chữ “tham” mà biến làm súc sinh ! “Súc sinh tham lam”, tham lam tức là bất cứ thứ gì cũng đều tham nhiều, ít thì không chịu. Cho nên nói “nhiều chẳng biết chán”, vì tham nhiều mà không chán, cho nên “lấy đen làm trắng”. Ðen chúng cũng chẳng biết là đen, chúng nói “Ồ ! đây là trắng”. Lấy đen làm trắng, đó là biểu hiện chúng chẳng có lý tính. Chẳng có lý tính thì tham nhiều; bất cứ gì cũng tham nhiều, thậm chí phân, chó cũng tham nhiều. Giống như chó ăn phân, chúng càng ăn càng thích nhiều, càng ăn càng ngon. Ðó là đồ dơ bẩn, người trông thấy thì :”Ồ ! sao mà ăn được hay ?” Chúng càng ăn thì cảm thấy càng thơm, càng ngon ngọt, đó là như thế, nhiều mà chẳng biết chán. Lấy đen làm trắng, không tốt mà chúng cho rằng tốt, gì chúng cũng tham nhiều, thậm chí bệnh hoạn, chúng cũng tham nhiều, một chứng bệnh chúng hiềm không đủ, phải hai chứng bệnh, uống thuốc chúng cũng muốn uống nhiều, đó là tham nhiều.

“Chẳng biết phải trái”, chúng cũng chẳng biết đúng, cũng chẳng biết sai, trái phải cũng chẳng biết, không rõ ràng, đó tức là chẳng có lý tính. Sao chúng chẳng có lý tính ? Vì có chữ “tham”, có chữ tham này thì hồ đồ, vô minh che đậy, vô minh che đậy cho nên gì chúng cũng chẳng biết.

Cho nên chúng ta đừng tham, đừng nói :” Người xuất gia không tham tiền tài, nhưng càng nhiều càng tốt”. Bạn tham nhiều thì có nguy hiểm. Tham nhiều thì dễ biến làm súc sinh. Bạn nói :”người xuất gia không thể đọa lạc”. Nếu bạn không y theo giới luật của Phật tu hành thì sẽ đọa lạc càng nhanh. Cho nên người xưa có câu nói : “Ðịa ngục môn tiền tăng đạo đa.” Nghĩa là trước cửa địa ngục Tăng và Ðạo sĩ nhiều vô số. Những người xuất gia và đạo sĩ tâm tham lam đều ở trước cửa địa ngục nói :”Mau đưa tôi vào địa ngục ! mau để cho tôi vào trước ! Vào đó có nhiều trò chơi lắm ! Họ cảm thấy nơi đó là nơi chơi lý tưởng lắm, cho nên họ muốn vào. Khi vào rồi thì mới biết chẳng phải là chỗ chơi.

 

Pháp giới của địa ngục

Ðịa ngục ưu khổ
Vô môn tự toàn
Khởi hoặc tạo nghiệp
Thọ báo tuần hoàn.

Tạm dịch:

Ðịa ngục thống khổ
Không cửa tự vào
Khởi hoặc tạo nghiệp
Quả báo xoay vòng.

“Ðịa ngục thống khổ”. Ðiạ ngục là nơi khổ nhất, vậy các bạn ai muốn đến nơi đó du lịch thì tùy lúc đều có thể đến, tôi có thể bảo chứng thì các bạn tức khắc sẽ đến, sao thế nào ?

Do đó có câu :

“Hễ sầu muộn thì dạo chơi cõi điạ ngục,
Hễ vui cười thì già thành trẻ trung,
Hễ khóc lóc thì ở phòng tối chốn âm ti”.

Bạn thấy đó ! Nếu bạn sầu muộn thì trồng xuống hạt giống dưới địa ngục. Nếu bạn cười thì trồng xuống hạt giống chốn Thiên đàng.

“Tự cổ thần tiên vô biệt pháp”: Thuở kia thần tiên chẳng có phép gì lạ. “Chỉ sinh hoan hỉ bất sinh sầu”: Luôn luôn vui cười mà chẳng bao giờ buồn rầu. Cho nên nói : “Hễ sầu muộn thì dạo chơi chốn địa ngục”, đi du lịch dưới địa ngục. Nếu bạn luôn luôn vui cười thì đã già cũng giống như còn trẻ. Nếu bạn khóc lóc cũng chỉ là phiền não.

Tóm lại, địa ngục chẳng có gì sung sướng, mà là nơi thống khổ, song, địa ngục chẳng có cửa, cửa địa ngục là do mình tự mở, do mình tự đóng. Cho nên nói :”Không cửa tự vào”. Bổn lai địa ngục chẳng có cửa, chẳng giống như ngục tù ở nhân gian, dùng sức người làm thành, ai phạm pháp thì nhốt vào ! Ở dưới địa ngục chẳng có cửa, song, cửa vào địa ngục là do bạn mở ra, đóng vào, bạn cứ đâm mình lao vào, vào không được cũng cứ lao vào.

“Khởi hoặc tạo nghiệp”. Tại sao đến địa ngục ? Vì vô minh, phiền não. Bạn ngu si rồi thì chẳng hiểu biết. Vì không hiểu biết cho nên tạo ra biết bao nghiệp ác, không tạo nghiệp thiện mà cứ tạo nghiệp ác.

“Quả báo xoay vòng”. Bạn tạo ra biết bao nghiệp ác thì phải đọa địa ngục, phải thọ quả báo. Thọ quả báo thì xoay vòng không dứt. Bạn tạo nghiệp gì thì thọ quả báo đó, tơ hào không sai mảy may, cho nên gọi là quả báo xoay vòng.

 

Thập giới Nhất Tâm

Thập Giới Nhất Tâm
Bất Ly Đương Niệm
Năng Giác Thử Niệm
Huyền Đăng Bỉ Ngạn

Tạm dịch:

Một tâm mười pháp giới
Không lìa niệm hiện tiền
Nếu ngộ tâm niệm tại này
Lập tức lên bờ kia.

Mười pháp giới : Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, đây là bốn pháp giới của bậc Thánh. Trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, đây là sáu pháp giới của phàm phu, hợp lại là mười pháp giới. Mười pháp giới này từ đâu sinh ra ? Là từ một niệm tâm hiện tiền của chúng ta sinh ra. Cho nên nói : “Một tâm niệm mười pháp giới, không lìa một niệm hiện tiền”. Mười pháp giới này không lìa khỏi một niệm hiện tiền của bạn.

Một niệm hiện tiền nầy của bạn, nếu bạn minh bạch, cho nên nói :”Nếu ngộ niệm hiện tại này”, nếu bạn giác ngộ niệm này, “thì lập tức lên bờ kia”, tức khắc liền đến bờ kia ! Bờ kia là bờ gì ? Tức là bờ giác ngộ. Giác ngộ thì chẳng mê hoặc, phá trừ vô minh. Phá được vô minh thì pháp thân hiển hiện ra, cho nên nói lập tức lên bờ kia, lập tức thì đến bờ bên kia, thì “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật”.