LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẬP DỊ MÔN TÚC
Tác giả: Tôn giả Xá Lợi Tử
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 16
Phẩm 7: SÁU PHÁP, phần 2
* Sáu tưởng thuận phần minh: 1. Tưởng vô thường. 2. Tưởng vô thường khổ. 3. Tưởng khổ vô ngã. 4. Tưởng chán bỏ ăn uống. 5. Tưởng tất cả thế gian không thể an vui. 6. Tưởng về chết.
Ở đây, năm tưởng như đã nói trong phần Tưởng giải thoát thành thục.
Hỏi: Thế nào là Tưởng tất cả thế gian không thể an vui?
Đáp: Thế gian nghĩa là năm thủ uẩn, tức sắc thủ uẩn cho đến thức thủ uẩn. Như có các Bí-sô, đối với năm thủ uẩn do có xét lường cùng hành tác ý tư duy xác đáng, do có sợ hãi cùng hành tác ý tư duy đúng đắn, do không thể vui thích cùng hành tác ý tư duy xác đáng, do không thể vui mừng cùng hành tác ý tư duy đúng đắn, các Bí-sô kia đối với năm thủ uẩn, lúc tư duy như thế, các tưởng cùng tưởng, hiện tiền cùng tưởng, đã tưởng, sẽ tưởng. Đó gọi là Tưởng tất cả thế gian không thể an vui.
Hỏi: Vì sao gọi là Tưởng thuận phần minh?
Đáp: Minh tức có ba thứ: 1. Vô học túc trụ trí chứng minh. 2. Vô học tử sinh trí chứng minh. 3. Vô học lậu tận trí chứng minh. Do sáu tưởng trước khiến ba minh này chưa sinh thì sinh, đã sinh thì tăng trưởng rộng lớn, nên gọi là Tưởng thuận phần minh.
* Sáu tùy niệm: 1. Tùy niệm Phật. 2. Tùy niệm Pháp. 3. Tùy niệm Tăng. 4. Tùy niệm giới. 5. Tùy niệm xả. 6. Tùy niệm thiên.
1. Thế nào là tùy niệm Phật?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Thánh ở chỗ Đức Thế Tôn, do tướng như thế theo đấy nhớ nghĩ đến chư Phật, như Đức Thế Tôn này là Như Lai A-la-hán, nói rộng cho đến là Phật, Bạc-già-phạm. Hoặc các đệ tử Thánh do tướng như thế, theo đấy nhớ nghĩ đến chư Phật, do kiến văn làm căn bản, cùng với chứng trí tương ưng, các niệm tùy niệm, biệt niệm, ức niệm, là tánh niệm, tánh tùy niệm, tánh biệt niệm, tánh không quên, tánh không quên pháp, tánh ghi rõ tâm sáng. Đó gọi là tùy niệm Phật.
2. Thế nào là tùy niệm Pháp?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Thánh do tướng như thế, theo đấy nhớ nghĩ đến chánh pháp, tức là chánh pháp do Phật đã khéo nêu giảng, cho đến bậc trí đã nội chứng v.v… Hoặc các đệ tử Thánh do tướng như thế, theo đấy nhớ nghĩ đến chánh pháp, do kiến văn làm căn bản, cùng với chứng trí tương ưng v.v…, nói rộng như trước. Đó gọi là tùy niệm Pháp.
3. Thế nào là tùy niệm Tăng?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Thánh do tướng như thế, theo đấy nhớ nghĩ đến chư Tăng, đó là những đệ tử Phật đầy đủ các hành diệu v.v…, nói rộng cho đến là phước điền vô thượng ở thế gian, nên được cúng dường. Hoặc các đệ tử Thánh do tướng như thế, theo đấy nhớ nghĩ đến chư Tăng, do kiến văn làm căn bản, cùng với chứng trí tương ưng v.v…, nói rộng như trước. Đó gọi là tùy niệm Tăng.
4. Thế nào là tùy niệm giới?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Thánh do tướng như thế, theo đấy nhớ nghĩ đến tự giới, nghĩa là giới này thanh tịnh, không hề thiếu sót v.v…, nói rộng cho đến các vị có trí luôn khen ngợi, không quở trách. Hoặc các đệ tử Thánh do tướng như thế, theo đấy nhớ nghĩ đến tự giới, do kiến văn làm căn bản, cùng với chứng trí tương ưng v.v…, nói rộng như trước. Đó gọi là tùy niệm giới.
5. Thế nào là tùy niệm xả?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Thánh do tướng như thế, theo đấy nhớ nghĩ đến chỗ đã xả bỏ của mình, nghĩa là như bảo: Tôi hiện nay đã khéo đạt được không còn tham đắm của cải, lợi dưỡng. Đối với mọi cấu nhiễm của keo kiệt luôn trói buộc mọi người, tôi đã có thể lìa bỏ, tâm tôi không còn vướng chấp, mà mở rộng tay để bố thí những tiền của hiện có, xả bỏ tài sản, tâm không chút luyến tiếc, phân chia ban cho khắp, không thiên vị phe nhóm. Hoặc các đệ tử Thánh do tướng như thế, theo đấy nhớ nghĩ đến chỗ đã xả bỏ của mình, do kiến văn làm căn bản, cùng với chứng trí tương ưng v.v…, nói rộng như trước. Đó gọi là tùy niệm xả.
6. Thế nào là tùy niệm thiên?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Thánh do tướng như thế, theo đấy nhớ nghĩ đến các trời, như trời Tứ Đại vương chúng, trời Ba Mươi Ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạcbiến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại. Hoặc có người thành tựu tín giới không điên đảo, đạt được tuệ văn xả, sau khi qua đời được sinh lên các trời ấy. Ta cũng thành tựu được tín giới không điên đảo, đã đạt được tuệ văn xả thiện, vì sao lại không được sinh lên các trời ấy? Hoặc các đệ tử Thánh do tướng như thế, theo đấy nhớ nghĩ đến các trời, do kiến văn làm căn bản, cùng với chứng trí tương ưng, các niệm tùy niệm, biệt niệm, ức niệm, là tánh niệm, tánh tùy niệm, tánh biệt niệm, tánh không quên, tánh không quên pháp, tánh ghi nhớ tâm sáng. Đó gọi là tùy niệm thiên.
*
* Sáu pháp vô thượng: 1. Thấy vô thượng. 2. Nghe vô thượng. 3. Lợi vô thượng. 4. Học vô thượng. 5. Hành vô thượng. 6. Niệm vô thượng.
1. Thế nào là thấy vô thượng?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Như có một loại Bổ-đặc-già-la đi đến quán xem các thứ xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, quan chủ kho báu, quan chủ binh báu của Chuyển luân Thánh vương, hoặc lại đi đến quán xem các Sa-môn, Bà-lamôn đã phát khởi tà kiến, hành tà kiến, Như Lai bảo loại Bổ-đặcgià-la đó, tuy có thấy biết không phải là không thấy biết, nhưng đó là cái thấy của hàng phàm phu bản tánh thấp kém, không phải là cái thấy của bậc Hiền Thánh. Hoặc có những người tu hành gieo trồng tín ái thanh tịnh, đi đến thăm viếng quán xem Như Lai hoặc các đệ tử Phật, Ta bảo loại người ấy là thấy vô thượng, vì có thể tự tạo lợi ích, có thể tự đạt được an lạc, cũng có thể khiến tự thân luôn được sống yên ổn, vượt khỏi các tai nạn sầu lo, diệt trừ hết các thứ khổ não, có thể nhanh chóng chứng đắc các pháp yếu như lý. Đó gọi là thấy vô thượng.
2. Thế nào là nghe vô thượng?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Như có một loại Bổ-đặc-già-la đi đến nghe các thứ tiếng của voi, ngựa, tiếng xe chạy, tiếng bước chân đi, tiếng tù và, tiếng trống lớn bé, tiếng kêu gọi, tiếng ca múa, tiếng âm nhạc đàn hát, hoặc lại đi đến nghe các Sa-môn, Bàla-môn đã phát khởi tà kiến, hành tà kiến, giảng nói các pháp tà, Như Lai bảo loại Bổ-đặc-già-la đó, tuy có nghe biết không phải là không nghe biết, nhưng đó là cái nghe của hàng phàm phu bản tánh thấp kém, không phải là cái nghe của bậc Hiền Thánh. Hoặc có những người tu hành gieo trồng tín ái thanh tịnh, đi đến thăm viếng nghe Như Lai hoặc các đệ tử Phật giảng nói chánh pháp, Ta bảo loại người ấy là nghe vô thượng, vì có thể tự tạo lợi ích v.v…, nói rộng cho đến có thể nhanh chóng chứng đắc các pháp yếu như lý. Đó gọi là nghe vô thượng.
3. Thế nào là lợi vô thượng?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Như có một loại Bổ-đặc-già-la, hoặc có được vợ con, hoặc có nhiều ngọc báu, tiền bạc hay lúa thóc, hoặc có nhiều bạn thân, hoặc đối với các Sa-môn, Bà-la-môn đã phát khởi tà kiến, hành tà kiến, đạt được sự tin ưa sâu xa, Như Lai bảo loại Bổ-đặc-già-la đó, tuy gọi là được lợi không phải là không được lợi, nhưng đó là cái lợi của hàng phàm phu bản tánh thấp kém, không phải là cái lợi của bậc Hiền Thánh. Hoặc có những người tu hành gieo trồng tín ái thanh tịnh, có thể đối với Như Lai và các đệ tử Phật đạt được sự tin ưa sâu xa, Ta bảo loại người ấy có được lợi vô thượng, vì có thể tự tạo lợi ích v.v…, nói rộng cho đến có thể nhanh chóng chứng đắc các pháp yếu như lý. Đó gọi là lợi vô thượng.
4. Thế nào là học vô thượng?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Như có một loại Bổ-đặc-già-la, hoặc học cỡi voi, cỡi ngựa, cỡi xe, hoặc học giương cung, phóng tên, hoặc học cầm móc sắt, hoặc cầm dây, cầm thẻ bài, hoặc học lên xe xuống xe, hoặc học chạy nhanh hay nhảy xa, nhảy cao, hoặc học về thư số, tính toán, in ấn v.v…, hoặc học với các Sa-môn, Bà-la-môn đã phát khởi tà kiến, hành tà kiến, giảng nói các Học xứ, Như Lai bảo loại Bổ-đặc-già-la đó, tuy có cầu học không phải là không cầu học, nhưng đó là cái học của hàng phàm phu bản tánh thấp kém, không phải là cái học của bậc Hiền Thánh. Hoặc có những người tu hành gieo trồng tín ái thanh tịnh, có thể học các Học xứ của Như Lai và các đệ tử Phật đã giảng nói, Ta bảo loại người ấy là học vô thượng, vì có thể tự tạo lợi ích v.v…, nói rộng cho đến có thể nhanh chóng chứng đắc các pháp yếu như lý.
Đó gọi là học vô thượng.
5. Thế nào là hành vô thượng?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Như có một loại Bổ-đặc-già-la, hoặc làm việc điều phục, luyện voi, luyện ngựa, hoặc làm việc luyện người, luyện trâu bò, hoặc làm các việc như thờ lửa, hoặc thờ mặt trăng, thờ mặt trời, thờ thuốc, thờ ngọc báu, thờ tinh tú, thờ cung điện v.v…, hoặc đi đến chỗ các Sa-môn, Bàla-môn đã phát khởi tà kiến, hành tà kiến xin thọ trì hành theo, Như Lai bảo loại Bổ-đặc-già-la đó, tuy có hành tác không phải là không hành tác, nhưng đó là việc hành tác của hàng phàm phu bản tánh thấp kém, không phải là hành tác của bậc Hiền Thánh. Hoặc có những người tu hành gieo trồng tín ái thanh tịnh, có thể hành trì những việc làm của Như Lai và các đệ tử Phật đã làm, Ta bảo loại người ấy là hành vô thượng, vì có thể tự tạo lợi ích v.v…, nói rộng cho đến có thể nhanh chóng chứng đắc các pháp yếu như lý. Đó gọi là hành vô thượng.
6. Thế nào là niệm vô thượng?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Như có một loại Bổ-đặc-già-la, hoặc nhớ nghĩ vợ con hay tiền của, lúa thóc, hoặc nhớ nghĩ bạn thân, hoặc nhớ nghĩ các Sa-môn hay Bà-la-môn đã phát khởi tà kiến, hành tà kiến và pháp tà của họ, Như Lai bảo loại Bổđặc-già-la đó, tuy có nhớ nghĩ không phải là không nhớ nghĩ, nhưng đó là sự nhớ nghĩ của hàng phàm phu bản tánh thấp kém, không phải là sự nhớ nghĩ của bậc Hiền Thánh. Hoặc có những người tu hành gieo trồng tín ái thanh tịnh, có thể nhớ nghĩ đến Như Lai và các đệ tử Phật, Ta bảo loại người ấy là niệm vô thượng, vì có thể tự tạo lợi ích, có thể tự đạt được an lạc, cũng có thể khiến tự thân luôn được sống an ổn, vượt khỏi các tai nạn sầu lo, diệt trừ hết các thứ khổ não, có thể nhanh chóng chứng đắc các pháp yếu như lý. Đó gọi là niệm vô thượng.
Đức Thế Tôn nói kệ:
Nếu được lìa, tương ưng
An ổn, thấy vô thượng
Nghe, lợi, học, hành, niệm
Tất đạt đến không lo.
*
* Sáu pháp quán đối: 1. Quán đối sắc. 2. Quán đối thanh. 3. Quán đối hương. 4. Quán đối vị. 5. Quán đối xúc. 6. Quán đối pháp.
1. Thế nào là quán đối sắc?
Đáp: Nếu sắc hữu lậu, có thủ, đối với các sắc ấy nơi các thời, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc có dục, hoặc tham, hoặc sân, hoặc si, hoặc tùy theo mỗi mỗi thứ tâm sở, tùy phiền não đúng lúc sinh ra, đó gọi là quán đối sắc.
2, 3, 4, 5. Các thứ quán đối thanh, hương, vị, xúc: Cũng như thế.
6. Thế nào là quán đối pháp?
Đáp: Nếu pháp hữu lậu, có thủ, đối với các pháp ấy nơi các thời, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc có dục, hoặc tham, hoặc sân, hoặc si, hoặc tùy theo mỗi mỗi thứ tâm sở, tùy phiền não đúng lúc sinh ra, đó gọi là quán đối pháp.
*
* Sáu loại sinh: Những gì là sáu? 1. Loại Bổ-đặc-già-la sinh đen sinh khởi pháp đen. 2. Loại Bổ-đặc-già-la sinh đen sinh khởi pháp trắng. 3. Loại Bổ-đặc-già-la sinh đen sinh khởi pháp Niết-bàn không đen không trắng. 4. Loại Bổ-đặc-già-la sinh trắng sinh khởi pháp trắng. 5. Loại Bổ-đặc-già-la sinh trắng sinh khởi pháp đen. 6. Loại Bổ-đặc-già-la sinh trắng sinh khởi pháp Niết-bàn không đen không trắng. Đó gọi là sáu loại sinh.
Ở đây:
1. Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la sinh đen sinh khởi pháp đen?
Đáp: Như có một loại hữu tình, sinh vào nhà bần tiện, như là nhà Chiên-đồ-la v.v…, nói rộng cho đến như các nhà nghèo thiếu ăn, thiếu mặc. Người này sinh vào chốn ấy, dung mạo xấu xí, không ai thích nhìn, nhiều người cùng chê trách khinh thị, phần nhiều đều phải làm thuê cho kẻ khác để kiếm sống, nên gọi là đen. Từ loại đen như thế, họ lại tạo ra các hành ác nơi thân, ngữ, ý. Do nhân duyên hành ba thứ hành ác ấy, nên sau khi qua đời, bị đọa vào các nẻo ác, sinh trong địa ngục chịu nhiều khổ não cùng cực. Đó gọi là loại Bổ-đặc-già-la sinh đen sinh khởi pháp đen.
2. Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la sinh đen sinh khởi pháp trắng?
Đáp: Như có một loại hữu tình, sinh vào nhà bần tiện, như là nhà Chiên-đồ-la v.v…, nói rộng cho đến như các nhà nghèo thiếu ăn, thiếu mặc. Người này sinh vào chốn ấy, dung mạo xấu xí, không ai thích nhìn, nhiều người cùng chê trách khinh thị, phần nhiều đều phải làm thuê cho kẻ khác để kiếm sống, nên gọi là đen. Từ loại đen như thế, họ lại tạo ra các hành diệu nơi thân, ngữ, ý. Do nhân duyên hành ba thứ hành thiện ấy, nên sau khi qua đời, được sinh vào các nẻo thiện, ở trong các trời thọ hưởng diệu lạc. Đó gọi là loại Bổ-đặc-giàla sinh đen sinh khởi pháp trắng.
3. Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la sinh đen sinh khởi pháp Niếtbàn không đen không trắng?
Đáp: Như có một loại hữu tình sinh vào nhà bần tiện, như là nhà Chiên-đồ-la v.v…, nói rộng cho đến như các nhà nghèo thiếu ăn, thiếu mặc. Người này sinh vào chốn ấy, dung mạo xấu xí, không ai thích nhìn, nhiều người cùng chê trách khinh thị, phần nhiều đều phải làm thuê cho kẻ khác để kiếm sống, nên gọi là đen. Từ loại đen như thế, người này nghe nói có Đức Như Lai vì các chúng giảng nói các pháp Tỳ-nại-da đã chứng đắc như thật liền đi đến lắng nghe, lãnh hội. Nghe xong sinh tâm tin tưởng thanh tịnh, do thành tựu tâm như vậy nên khởi suy nghĩ: Đời sống tại gia luôn bị bức bách khác nào chốn lao ngục có nhiều thứ cấu uế. Cuộc sống xuất gia thì rộng lớn cũng như hư không, tất cả pháp thiện nhân đấy được sinh trưởng. Lại khởi suy niệm: Tham vướng đời sống tại gia hãy còn không thể luôn tu pháp thiện thế gian, huống hồ là cả đời có thể tinh tấn tu học thuần nhất viên mãn phạm hạnh thanh bạch. Vì thế ta nên cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp phục, chánh tín xuất gia, siêng tu phạm hạnh. Đã suy nghĩ kỹ rồi, sau đấy từ bỏ gia đình, người thân, cạo sạch râu tóc, mình mặc cà sa, tâm tin chân chánh, hành trì cuộc sống xuất gia, thọ giữ tịnh giới, tinh tấn giữ gìn luật nghi biệt giải thoát, phép tắc hành tác luôn đầy đủ, đối với một lỗi nhỏ cũng khởi sợ hãi lớn, thọ học các Học xứ không hề hủy phạm. Dựa nơi giới uẩn ấy, lần lượt siêng năng, cho đến chứng đắc tĩnh lự thứ tư. Do tâm định nên nói rộng cho đến các lậu dứt hết, chứng được tâm tuệ giải thoát vô lậu, nói rộng cho đến không còn thọ thân sau. Đó gọi là loại Bổ-đặc-già-la sinh đen sinh khởi pháp Niết-bàn không đen không trắng.
4. Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la sinh trắng sinh khởi pháp trắng?
Đáp: Như có một loại hữu tình sinh vào nhà giàu sang, như các tộc họ lớn Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Hoặc sinh vào một gia đình giàu sang khác, nhiều tiền của, châu báu, kho tàng đầy ắp. Người này sinh vào chốn ấy, dung mạo đẹp đẽ, uy nghiêm, ai cũng thích ngắm nhìn, nhiều người cùng khen ngợi, nên gọi là trắng. Từ loại trắng như thế, họ lại tạo ra các hành diệu nơi thân ngữ ý. Do nhân duyên hành ba thứ hành thiện ấy, nên sau khi qua đời, được sinh vào các nẻo thiện, ở trong các trời thọ hưởng diệu lạc. Đó gọi là loại Bổ-đặc-già-la sinh trắng sinh khởi pháp trắng.
5. Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la sinh trắng sinh khởi pháp đen?
Đáp: Như có một loại hữu tình sinh vào nhà giàu sang, như các tộc họ lớn Sát-đế-lợi, Bà-la-môn v.v…, nói rộng như trước. Người này sinh vào chốn ấy, dung mạo đẹp đẽ, uy nghiêm, ai cũng thích ngắm nhìn, nhiều người cùng khen ngợi, nên gọi là trắng. Từ loại trắng như thế, họ lại tạo ra các hành ác nơi thân ngữ ý. Do nhân duyên hành ba thứ hành ác ấy, nên sau khi qua đời, bị đọa vào các nẻo ác, sinh trong địa ngục chịu nhiều khổ não cùng cực. Đó gọi là loại Bổ-đặc-già-la sinh trắng sinh khởi pháp đen.
6. Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la sinh trắng sinh khởi pháp Niết-bàn không đen không trắng?
Đáp: Như có một loại hữu tình sinh vào nhà giàu sang, như các tộc học lớn Sát-đế-lợi, Bà-la-môn v.v…, nói rộng như trước. Từ loại trắng như thế, người này nghe nói có Đức Như Lai vì các chúng giảng nói các pháp Tỳ-nại-da đã chứng đắc như thật liền đi đến lắng nghe, lãnh hội. Nghe xong sinh tâm tin tưởng thanh tịnh, do thành tựu được tâm như vậy nên khởi suy nghĩ: Đời sống tại gia luôn bị bức bách khác nào chốn lao ngục có nhiều thứ cấu uế. Cuộc sống xuất gia thì rộng lớn cũng như hư không, tất cả pháp thiện nhân đấy được sinh trưởng. Lại khởi suy niệm: Tham vướng đời sống tại gia hãy còn không thể luôn tu pháp thiện thế gian, huống hồ là cả đời tinh tấn tu học thuần nhất viên mãn phạm hạnh thanh bạch. Vì thế ta nên cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp phục, chánh tín xuất gia, siêng tu phạm hạnh. Đã suy nghĩ kỹ rồi, sau đấy từ bỏ gia đình, người thân, cạo sạch râu tóc, mình mặc cà sa, tâm tin chân chánh, hành trì cuộc sống xuất gia, thọ giữ tịnh giới, tinh tấn giữ gìn luật nghi biệt giải thoát, phép tắc hành tác luôn đầy đủ, đối với một lỗi nhỏ cũng khởi sợ hãi lớn, thọ học các Học xứ không hề hủy phạm. Dựa nơi giới uẩn ấy, tu tập luật nghi căn bản, đủ niệm chánh tri, diệt hết mọi thứ ngăn che, chứng đắc bốn thứ tĩnh lự. Do đó dần dần nói rộng cho đến các lậu dứt hết, đạt được tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ở trong hiện pháp tự chứng thông tuệ, hiểu biết đầy đủ: Nẻo sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau. Đó gọi là loại Bổ-đặc-giàla sinh trắng sinh khởi pháp Niết-bàn không đen không trắng.
***
Phẩm 8: BẢY PHÁP, phần 1
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-tử lại nói với đại chúng: Các Cụ thọ nên biết! Đức Phật đối với bảy pháp đã tự khéo thông đạt, hiện Đẳng giác rồi, vì các đệ tử tuyên thuyết khai thị. Nay chúng ta nên hòa hợp kết tập, để sau khi Đức Phật diệt độ chớ nên có tranh cãi, chống đối. Nên khiến cho pháp luật thuận theo phạm hạnh được trụ lâu, tạo lợi ích cho vô lượng hữu tình. Nên thương xót các chúng trời, người nơi thế gian, khiến họ đạt được nghĩa lợi an lạc thù thắng.
Những gì là bảy pháp?
Tụng nêu tổng quát:
Chi, số, cụ, tài, lực
Diệu, phi diệu đều hai
Thức trụ cùng tùy miên
Sự dứt tranh đều bảy.
Gồm có: Bảy giác chi, bảy loại Bổ-đặc-già-la, bảy định cụ, bảy tài, bảy lực, bảy pháp không tốt, bảy pháp tốt, lại có bảy pháp không tốt, lại có bảy pháp tốt, bảy thức trụ, bảy tùy miên, bảy sự không lầm lỗi, bảy pháp ngăn dứt tranh cãi.
*
* Bảy giác chi: 1. Niệm giác chi. 2. Trạch pháp giác chi. 3. Tinh tấn giác chi. 4. Hỷ giác chi. 5. Khinh an giác chi. 6. Định giác chi. 7. Xả giác chi.
1. Thế nào là Niệm giác chi?
Đáp: Các đệ tử Phật, đối với khổ tư duy về khổ, đối với tập tư duy về tập, đối với diệt tư duy về diệt, đối với đạo tư duy về đạo vô lậu, tác ý tương ưng với các niệm tùy niệm v.v…, nói rộng cho đến tâm tánh luôn sáng suốt ghi nhớ. Đó gọi là Niệm giác chi.
2. Thế nào là Trạch pháp giác chi?
Đáp: Các đệ tử Phật, đối với khổ tư duy về khổ, đối với tập tư duy về tập, đối với diệt tư duy về diệt, đối với đạo tư duy về đạo vô lậu, tác ý tương ưng với pháp cần lựa chọn nên lựa chọn thật kỹ lưỡng v.v…, nói rộng cho đến hành Tỳ-bát-xá-na. Đó gọi là Trạch pháp giác chi.
3. Thế nào là Tinh tấn giác chi?
Đáp: Các đệ tử Phật, đối với khổ tư duy về khổ, đối với tập tư duy về tập, đối với diệt tư duy về diệt, đối với đạo tư duy về đạo vô lậu, tác ý tương ưng với các thứ siêng năng tinh tấn v.v…, nói rộng cho đến tâm ý luôn cố gắng hết sức. Đó gọi là Tinh tấn giác chi.
4. Thế nào là Hỷ giác chi?
Đáp: Các đệ tử Phật, đối với khổ tư duy về khổ, đối với tập tư duy về tập, đối với diệt tư duy về diệt, đối với đạo tư duy về đạo vô lậu, tác ý tương ưng với tâm vui vẻ, rất vui vẻ, luôn vui tánh của vui, thuộc loại vui, vừa ý, thích ý, hoan hỷ, tánh hoan hỷ. Đó gọi là Hỷ giác chi.
5. Thế nào là Khinh an giác chi?
Đáp: Các đệ tử Phật, đối với khổ tư duy về khổ, đối với tập tư duy về tập, đối với diệt tư duy về diệt, đối với đạo tư duy về đạo vô lậu, tác ý tương ưng với thân khinh an, tâm khanh an, tánh khinh an, loại khinh an. Đó gọi là Khinh an giác chi.
6. Thế nào là Định giác chi?
Đáp: Các đệ tử Phật, đối với khổ tư duy về khổ, đối với tập tư duy về tập, đối với diệt tư duy về diệt, đối với đạo tư duy về đạo vô lậu, tác ý tương ưng với tâm trụ cùng trụ v.v…, nói rộng cho đến tâm tánh một cảnh. Đó gọi là Định giác chi.
7. Thế nào là Xả giác chi?
Đáp: Các đệ tử Phật, đối với khổ tư duy về khổ, đối với tập tư duy về tập, đối với diệt tư duy về diệt, đối với đạo tư duy về đạo vô lậu, tác ý tương ưng với tánh tâm bình đẳng, tánh tâm ngay thẳng, tánh tâm không thức biết, luôn trụ nơi tịch tĩnh. Đó gọi là Xả giác chi.
*
* Bảy loại Bổ-đặc-già-la: 1. Bổ-đặc-già-la tùy tín hành. 2. Bổđặc-già-la tùy pháp hành. 3. Bổ-đặc-già-la tín thắng giải. 4. Bổ-đặcgià-la kiến chí. 5. Bổ-đặc-già-la thân chứng. 6. Bổ-đặc-già-la tuệ giải thoát. 7. Bổ-đặc-già-la câu phần giải thoát.
1. Thế nào là Bổ-đặc-già-la tùy tín hành?
Đáp: Bổ-đặc-già-la (Hữu tình) tùy tín hành này trước đây khi ở phần vị phàm phu bẩm tánh có nhiều tin tưởng, yêu mến, thanh tịnh, thắng giải, thương xót, nhưng lại có ít về tư duy, lường xét, quan sát, lựa chọn, suy tìm. Người ấy do có nhiều tin tưởng, yêu mến, thanh tịnh, thắng giải, thương xót nên được gặp Đức Như Lai hoặc hàng đệ tử Phật giảng nói chánh pháp, dạy khuyên, truyền trao, dùng vô lượng pháp môn phân biệt chỉ bày: Khổ nêu đúng là khổ, tập nêu đúng là tập, diệt nêu đúng là diệt, đạo nêu đúng là đạo. Người ấy suy nghĩ: Hay thay! Những điều giảng nói đều đúng thật, không hư vọng, khổ tập diệt đạo đúng thật là khổ tập diệt đạo. Ta nay nên ân cần quan sát các hành là vô thường, hành hữu lậu là khổ, tất cả các pháp là không, vô ngã. Nghĩ như thế rồi, càng siêng năng quan sát các pháp vừa nói, nên về sau tu tập đạt được pháp Thế đệ nhất, từ đó luôn không gián đoạn, sinh khởi trí khổ pháp nhẫn tương ưng với Thánh đạo, quan sát các hành ở cõi Dục là vô thường, khổ, không, vô ngã v.v…, tùy theo mỗi thứ đều hiện tiền, cho đến khi chưa khởi trí đạo loại hiện tiền. Bấy giờ gọi là tùy tín hành. Đó gọi là Bổ-đặcgià-la tùy tín hành.
2. Thế nào là Bổ-đặc-già-la tùy pháp hành?
Đáp: Bổ-đặc-già-la tùy pháp hành này trước đây khi ở phần vị phàm phu bẩm tánh có nhiều tư duy, lường xét, quan sát, lựa chọn, suy tìm, nhưng lại có ít về tin tưởng, yêu mến, thanh tịnh, thắng giải, thương xót. Người ấy do có nhiều tư duy, lường xét, quan sát, lựa chọn, suy tìm nên được gặp Đức Như Lai hoặc hàng đệ tử Phật giảng nói chánh pháp, dạy khuyên, truyền trao, dùng vô lượng pháp môn phân biệt chỉ bày: Khổ nêu đúng là khổ, tập nêu đúng là tập, diệt nêu đúng là diệt, đạo nêu đúng là đạo. Người ấy suy nghĩ: Hay thay! Những điều giảng nói đều đúng thật, không hư vọng, khổ tập diệt đạo đúng thật là khổ tập diệt đạo. Ta nay nên ân cần quan sát các hành là vô thường, hành hữu lậu là khổ, tất cả các pháp là không, vô ngã. Nghĩ như thế rồi, càng siêng năng quan sát các pháp vừa nói, nên về sau tu tập đạt được pháp Thế đệ nhất, từ đó luôn không gián đoạn, sinh khởi trí khổ pháp nhẫn tương ưng với Thánh đạo, quan sát các hành ở cõi Dục là vô thường, khổ, không, vô ngã v.v…, tùy theo mỗi thứ đều hiện tiền, cho đến khi chưa khởi trí đạo loại hiện tiền. Bấy giờ gọi là tùy pháp hành. Đó gọi là Bổ-đặc-giàla tùy pháp hành.
3. Thế nào là Bổ-đặc-già-la tín thắng giải?
Đáp: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la tùy tín hành đã được trí đạo loại, nên xả bỏ tánh tùy tín hành, nhập vào số loại của tín thắng giải. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la tín thắng giải.
4. Thế nào là Bổ-đặc-già-la kiến chí?
Đáp: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la tùy pháp hành đã được trí đạo loại, nên xả bỏ tánh tùy pháp hành, nhập vào số loại của kiến chí. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la kiến chí.
5. Thế nào là Bổ-đặc-già-la thân chứng?
Đáp: Nếu Bổ-đặc-già-la tuy đối với tám giải thoát thân đã chứng đắc an trụ đầy đủ, nhưng chưa dùng tuệ để dứt trừ hết các lậu. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la thân chứng.
6. Thế nào là Bổ-đặc-già-la tuệ giải thoát?
Đáp: Nếu Bổ-đặc-già-la tuy đối với tám giải thoát thân chưa chứng đắc an trụ đầy đủ, nhưng đã dùng tuệ để dứt trừ hết các lậu. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la tuệ giải thoát.
7. Thế nào là Bổ-đặc-già-la câu phần giải thoát?
Đáp: Nếu Bổ-đặc-già-la đối với tám giải thoát thân đã chứng đắc an trụ đầy đủ, lại dùng tuệ để dứt trừ hết các lậu. Đó gọi là Bổđặc-già-la câu phần giải thoát.
Vì sao gọi là Bổ-đặc-già-la câu phần giải thoát? Có hai phần chướng: a. Phần chướng phiền não. b. Phần chướng giải thoát, nên gọi là câu phần. Cả hai phần chướng ấy, Bổ-đặc-già-la này tâm đều được giải thoát, giải thoát tột cùng, giải thoát vĩnh viễn. Vì vậy gọi là Bổ-đặc-già-la câu phần giải thoát.
*
– Bảy định cụ: 1. Chánh kiến. 2. Chánh tư duy. 3. Chánh ngữ. 4. Chánh nghiệp. 5. Chánh mạng. 6. Chánh cần. 7. Chánh niệm.
Bảy thứ như thế tức là bảy chi đạo. Nên như tướng ấy mỗi mỗi đều được nói riêng, đó gọi là định cụ.
Hỏi: Vì sao gọi là định cụ?
Đáp: Định nghĩa là chánh định, do bảy chi đạo vây quanh hỗ trợ khiến định tăng thạnh, gồm đủ uy lực lớn, vận hành tự tại, viên mãn rốt ráo, nên gọi là định cụ.
*
– Bảy tài (Tài sản): 1. Tín tài. 2. Giới tài. 3. Tàm tài. 4. Quý tài. 5. Văn tài. 6. Xả tài. 7. Tuệ tài.
1. Thế nào là Tín tài?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Phật ở chỗ Đức Như Lai tu hành gieo trồng tịnh tín, sinh căn, an trụ, không bị các Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc Thiên ma, Phạm, hay các thế gian khác dẫn dụ chiếm đoạt. Đó gọi là Tín tài.
2. Thế nào là Giới tài?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Phật lìa bỏ việc đoạn dứt sinh mạng, lìa bỏ không cho mà lấy, lìa bỏ dâm dục tà hạnh, lìa bỏ nói dối, lìa bỏ uống các thứ rượu. Đó gọi là Giới tài.
3. Thế nào là Tàm tài?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Người có đủ tàm (Hổ) đối với các pháp ác bất thiện đáng xấu hổ, vì có những thứ tạp nhiễm khiến có thể chiêu cảm thân đời sau nhận chịu quả dị thục vô cùng khổ sở, lại có thể dẫn đến các pháp sinh, già, chết ở đời sau, luôn sinh tâm xấu hổ sâu xa. Đó gọi là Tàm tài.
4. Thế nào là Quý tài?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Những người trụ nơi quý (Thẹn) đối với các pháp ác bất thiện đáng hổ thẹn, vì có những thứ tạp nhiễm khiến có thể chiêu cảm thân đời sau nhận chịu quả dị thục vô cùng khổ sở, lại có thể dẫn đến các pháp sinh, già, chết ở đời sau, luôn sinh tâm hổ thẹn sâu xa. Đó gọi là Quý tài.
5. Thế nào là Văn tài?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Phật đa văn luôn lắng nghe, thọ trì, tích tập. Nghĩa là các pháp yếu vô thượng do Đức Phật giảng nói đầu giữa sau đều thiện, văn nghĩa xảo diệu thuần nhất viên mãn, phạm hạnh trong trắng. Người ấy đối với các pháp yếu vô thượng như thế đã đa văn đầy đủ, có thể giữ lấy ngữ nghĩa khéo thông suốt tinh tường, tâm không tán loạn, nên mọi kiến giải đều thấu đáo. Đó gọi là Văn tài.
6. Thế nào là Xả tài?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Phật đối với số đông luôn bị các thứ cấu uế của keo kiệt trói buộc, đã có thể lìa bỏ, tuy ở tại gia đình nhưng tâm không tham chấp, lại có thể hành Huệ thí, bố thí rộng khắp, luôn ưa thích việc xả thí và cúng tế, tuệ xả đầy đủ, phân chia bình đẳng. Đó gọi là Xả tài.
7. Thế nào là Tuệ tài?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Phật có thể nhận biết đúng như thật đây là khổ Thánh đế, đây là khổ tập Thánh đế, đây là khổ diệt Thánh đế, đây là hướng đến khổ diệt đạo Thánh đế. Đó gọi là Tuệ tài.
Ở đây, Đức Thế Tôn nói kệ:
Thiện nam hoặc thiện nữ
Đủ, tín, giới, tàm, quý
Văn, xả, tuệ tài ấy
Nên biết thật giàu sang.
Ta bảo Đại sĩ kia
Nhất định qua một đời
Thường sinh trong trời, người
Thọ giàu sang diệu lạc.
*
* Bảy lực: 1. Tín lực. 2. Tinh tấn lực. 3. Tàm lực. 4. Quý lực. 5. Niệm lực. 6. Định lực. 7. Tuệ lực.
1. Thế nào là tín lực?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Phật ở chỗ Đức Như Lai tu hành gieo trồng tịnh tín v.v…, cho đến nói rộng. Đó gọi là tín lực.
2. Thế nào là tinh tấn lực?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Vì khiến cho các pháp ác bất thiện đã sinh được đoạn trừ, nên dấy khởi mong muốn v.v…, cho đến nói rộng về bốn thứ chánh thắng. Đó gọi là tinh tấn lực.
3. Thế nào là tàm lực?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Người có đủ đức tàm (hổ) đối với các pháp ác bất thiện đáng xấu hổ v.v…, cho đến nói rộng. Đó gọi là tàm lực.
4. Thế nào là quý lực?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Người trụ nơi đức quý (thẹn) đối với các pháp ác bất thiện đáng hổ thẹn v.v…, cho đến nói rộng. Đó gọi là quý lực.
5. Thế nào là niệm lực?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Đối với nội thân này trụ nơi tuần tự quán thân v.v…, cho đến nói rộng về bốn thứ niệm trụ. Đó gọi là niệm lực.
6. Thế nào là định lực?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Lìa pháp bất thiện dục ác, có tầm có tứ, đạt ly sinh hỷ lạc, an trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ nhất, nói rộng cho đến an trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ tư. Đó gọi là định lực.
7. Thế nào là tuệ lực?
Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Có các đệ tử Phật có thể nhận biết đúng như thật đây là khổ Thánh đế v.v…, cho đến nói rộng. Đó gọi là tuệ lực.
Ở đây, Đức Thế Tôn nói kệ:
Nếu có các Bí-sô
Đủ tín, cần, tàm, quý
Cùng niệm, định, tuệ lực
Mau dứt hết các khổ.
HẾT – QUYỂN 16