Lời tựa sách Thích Giáo Tam Tự Kinh
(viết thay cho Xuy Vạn Lão Nhân Thích Quảng Chân[1] chùa Tụ Vân ở Trung Châu, Thục Đông, thời Thiên Khải nhà Minh)
Con người có cùng một cái tâm, tâm có cùng một lý ấy, phàm – thánh chẳng hai, chúng sanh và Phật như một, do mê – ngộ sai khác đến nỗi thăng – trầm thật khác biệt. Đại Giác Thế Tôn xót thương, thị hiện thành Chánh Giác, chuyển đại pháp luân. Vốn từ nhất tâm mà tạo dựng bè báu trong bến mê, muốn cho khắp đời vị lai đều lên bờ đạo. Do vậy, đem những gì đã giảng trong Ngũ Thời Giáo[2] và ý chỉ “truyền riêng ngoài Giáo” giao cho các đệ tử, sai lưu thông rộng rãi. Do vậy, chư Tổ các tông nối tiếp nhau hưng khởi, hoằng Tông diễn Giáo, thay Phật hoằng dương, giáo hóa. Đến nay lâu đời nhiều năm, sự nhiều nghĩa rộng, nếu chẳng đọc thấu hiểu Đại Tạng diệu ngộ tự tâm, sẽ không thể nào suy lường đầu mối, nắm được cương yếu. Tôi thường muốn tóm lược đại khái để chỉ bảo hàng hậu tấn, do nghĩ đến tiên sinh Vương Bá Hậu[3] thời Tống Nho soạn sách Tam Tự Kinh để tóm tắt đạo luân thường, xử thế hằng ngày và những chuyện tích thái bình hay loạn lạc của các đời, khiến cho người học trước là biết được đại lược, về sau sẽ dần dần hiểu rộng. Tuổi thơ học đến, lớn lên thực hành, lập thân hành đạo, thờ vua, giúp dân, khôi phục điều thiện sẵn có trong tâm tánh con người.
Do vậy bèn phỏng theo ý đó, thuật đại lược chuyện Như Lai giáng sanh, thành đạo, thuyết pháp độ sanh, chư Tổ tiếp nối huệ mạng Phật, tùy cơ lập giáo, cũng như những lời hay hạnh đẹp tự lợi, lợi người của chư cổ đức, đặt tên là Thích Giáo Tam Tự Kinh, để khi còn làm sa-di[4], đọc tụng, tu tập, biết những nghĩa trọng yếu của kinh Phật, hiểu rõ cương tông của đạo Tổ. Lớn lên, xem khắp Tam Tạng, tham học khắp năm tông, diệu ngộ tự tâm, thầm hợp Phật ý, mới biết: “Sắc núi, tiếng khe đều chỉ bày Đệ Nhất Nghĩa Đế; quạ kêu, sẻ hót cùng nói vô thượng tâm tông”. Chẳng đồng, chẳng khác, chẳng có, chẳng không, vừa là Quyền, vừa là Thật, vừa là Tục, vừa là Chân. Rộng thì tột cùng hư không chẳng thể chứa đựng được, gọn thì tìm lấy một chữ cũng không thể được. Sau đấy, nương đại nguyện luân, xiển dương pháp hóa, khiến cho pháp giới chúng sanh quy y Nhất Thể Tam Bảo, khôi phục mặt mũi vốn có, truyền vô tận tâm đăng. Đấy chính là điều tôi thường mong mỏi hàng hậu tấn phát tâm tu tập vậy!
***
[1] Xuy Vạn Lão Nhân Thích Quảng Chân (1582-1639), pháp hiệu Tụ Vân, người xứ Tứ Xuyên, đắc pháp nơi Thụy Trì Nguyệt hòa thượng, thuộc pháp hệ đời thứ hai mươi tám của ngài Nam Nhạc. Thiên Khải là một niên hiệu của Minh Hy Tông kéo dài từ năm 1621 đến năm 1627.
[2] Ngũ thời giáo là năm giai đoạn thuyết pháp của đức Phật: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, và Pháp Hoa – Niết Bàn.
[3] Vương Bá Hậu là tên tự của Vương Ứng Lân (1223-1296), hiệu là Thâm Ninh Cư Sĩ. Ông sống vào thời Nam Tống, vốn quê quán tại Khai Phong, sau đổi sang sống tại Khánh Nguyên (nay thuộc Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ, làm đến chức Thái Thường Tự Chủ Bạ, nhưng do nói lời thẳng nên bị cách chức. Sau được bổ làm Thông Phán Thai Châu, rồi làm Thị Giảng kiêm Bí Thư Thiếu Giám. Vì Giả Tự Đạo đố kỵ, ông lại bị đổi đi Huy Châu, đến khi Giả Tự Đạo mất chức mới chuyển về giữ chức Lễ Bộ Thượng Thư kiêm Cấp Sự Trung. Ông rất tinh thông kinh sử, địa lý, thông thuộc các điển chế, khảo cứu tỉ mỉ, tác phẩm có những cuốn nổi tiếng như Ngọc Hải, Ngọc Đường Loại Cảo, Thi Địa Lý Khảo, Thâm Ninh Tập v.v…, nhưng tác phẩm nổi tiếng hơn cả vẫn là Tam Tự Kinh.
[4] Sa-di: Tiếng Phạn là Sramanekara hoặc Sramanera; phiên đủ âm là Thất La Ma Noa Lạc Ca, hoặc Thất La Mạt Ni La. Dịch ý là Cầu Tịch, Pháp Công, Tức Ác (dứt sự ác), Cần Sách (siêng năng, gắng công), nói chung có nghĩa là: Dứt ác, hành thiện, cầu chứng viên tịch. Trong Tăng đoàn, Sa-di là người thọ mười giới, chưa thọ Cụ Túc Giới, ít nhất từ bảy tuổi trở lên. Nữ gọi là Sa-di-ni. Ngoài mười giới căn bản, Sa-di phải vâng giữ 14 sự và 72 oai nghi. Riêng ở Nhật Bản, do giới luật suy bại, còn có cái gọi là “tại gia Sa-di”, tức là kẻ tu hành đã xuống tóc, thọ giới nhưng vẫn có vợ con. Trong một số tông phái như Nhật Liên Tông, Tịnh Độ Chân Tông, những hòa thượng, đại đức của họ thậm chí còn không cạo đầu, không mặc áo tu. Chỉ khi nào làm lễ mới mặc pháp y. Đa số tăng sĩ Nhật Bản có vợ con.