Lời tựa cho cuốn Vạn Niên Bạ chùa Pháp Vũ
(viết thay Khai Như Hòa Thượng)
Có được cuộc đất tối thắng mới hoằng dương được đạo tối thắng. Tạo lập chuyện phi thường ắt phải đợi người phi thường. Bậc tông tượng xuất hiện thì gốc lập, đạo sanh. Triết nhân mất thì pháp tàn, giáo suy. Tuy bỉ cực thái lai thuộc vào vận trời, nhưng sửa cũ đổi mới quả thật phải nhờ vào sức người. Pháp Vũ thường trụ do Đại Trí lão nhân sáng lập[1], do Thống Tổ ở Biệt Am trung hưng, quy mô lớn lao, pháp đạo hưng long. Từ đấy Trụ Trì các đời tuy không thành tựu lớn lao, nhưng ai nấy đều tận lực giữ quy củ đã thành lập, gia phong chẳng suy đồi. Sau cơn binh hỏa, Trụ Trì chẳng tìm được người đến nỗi suy bại sát đất. Điện đường, liêu xá hư sụp, đổ nát, pháp khí trang nghiêm, trăm thứ chẳng còn được một. Pháp quyến các phòng thấy cảnh tượng ấy đều bó tay, chẳng dám gánh vác.
Vào năm Đồng Trị thứ 11 (1872), đại chúng ép tiên sư công Lập Sơn lão nhân làm Trụ Trì, tận lực tu bổ tường sụp, nhà rách, siêng năng, chăm chút, trải hơn mười năm. Từ điện Thiên Vương cho đến Tàng Kinh Các thảy đều sửa mới. Những công trình khác tuy chưa hoàn toàn khôi phục lại quy mô cũ, nhưng nhìn vào đại cuộc đã khả quan. Đến năm Quang Tự thứ 11 (1885), do già bệnh, lão nhân bèn thoái ẩn, sai tiên sư là Văn Lão Nhân[2] kế vị trụ trì. Tiên sư kế thừa đầu mối cũ, phát tâm rộng lớn. Phàm đối với những gì sư ông (chỉ ngài Lập Sơn) chưa đủ sức lo đến, hết thảy điện đường, liêu xá đều dựng mới hoặc tu bổ, không chỗ nào chẳng sửa chữa mới. Quy mô chế độ chẳng kém thời trung hưng. Phàm những vườn đào, ruộng rẫy bị cưỡng ép lấy mất vào thời Hàm Phong đều tận lực chuộc lại. Lại vì muốn chuyển pháp luân thì phải nhờ vào pháp khí trang nghiêm; hơn mười mấy năm qua, hoằng Tông xiển Giáo, những vật dụng sắm sửa trên là Càn Long Đại Tạng kinh, tượng Phật, dưới là bàn ghế, giường chõng, phàm vật gì cần đến thảy đều đầy đủ.
Nhưng lão nhân đại nguyện như mây nhóm, hận chẳng nhóm được thập phương Tăng chúng trong cùng một nhà để Kỳ Viên xưa kia lại được thấy trong ngày nay. Tâm vì pháp, vì người, vì thường trụ, vì đại chúng như chôn cha mẹ[3], như cứu đầu cháy, ngày đêm suy tư, lo nhọc đến nỗi thành bệnh. Đến mùa Đông năm Quang Tự 23 (1897), công trình xây dựng chưa xong, lão nhân quyết chí về Tây. Khai Như tôi tự thẹn đức bạc, lại không có bản lãnh. Do được ghé dự vào hàng đồ đệ, nên Ngài giao cho coi sóc sự vụ trong chùa, gắng gượng vâng lệnh thầy, tận lực phụ giúp. Tuy là hạt bụi nhẹ, giọt sương bé, chẳng giúp ích gì cho núi, cho sông, nhưng luận trên sức mình, cũng có thể nói là đã cúc cung tận tụy, dốc cạn lòng ngu muội. Nương theo những công trình chưa hoàn thành của thầy, chỉ tận lực gánh vác, vâng theo di mạng của tiên sư, xin các pháp quyến công cử Định Công kế nhiệm làm trụ trì. Khai Như vẫn giữ chức vụ cũ, trông nom việc chùa.
Đến khi Định Công thoái ẩn, nhờ ơn pháp quyến ủy thác trách nhiệm nặng nề này, tuy biết mình chẳng xứng gánh vác, nhưng chẳng thể từ khước vì kế hoạch công trình của tiên sư vẫn chưa hoàn thành. Do vậy, đêm ngày lo liệu, chẳng dám bê trễ. Dốc cạn thân tâm này để kính cẩn hoàn thành chí nguyện của thầy. Trong vòng ba năm, những chuyện gì nên làm thảy đều hiểu rõ, chuyện gì có thể giao phó được, chẳng làm phiền cho người. Vì thế, nay kính thưa cùng pháp quyến, sẽ đem hết tất cả những đồ vật thường trụ lớn nhỏ, nhất nhất ghi chép, để vị Trụ Trì sau này, hễ đảm nhận chức vụ ắt biết tiền nhân vì chuyển pháp luân đã sắm sửa đồ đạc, một phen khổ tâm, thật chẳng dễ dàng. Ai nấy đều càng thêm mến tiếc, không đến nỗi phí phạm, vâng giữ công lao đã thành, tươi đẹp công nghiệp khai sáng, nối tiếp đức hạnh, theo gót bậc khai sơn cả ức vạn năm, vĩnh viễn không phế bỏ, ngõ hầu pháp luân lẫn nguyện luân đều thường chuyển, ngàn đời tuân giữ nếp gia phong cũ, ân nước lẫn ân Phật đều báo, cả cõi đời thường đượm ơn mưa móc thì pháp môn may mắn, thường trụ may mắn lắm thay!
***
[1] Chùa Pháp Vũ là một trong ba ngôi chùa lớn nhất ở Phổ Đà, nằm ngay bên cạnh đỉnh núi Bạch Hoa, dưới ngọn núi Quang Hy, thường được gọi là chùa sau. Năm Vạn Lịch thứ tám (1580), ngài Đại Trí Chân Dung từ Tây Thục đến lễ Phổ Đà Sơn, thích vẻ đẹp của dòng suối dưới ngọn Phổ Đà bèn kết am tranh để ở, đặt tên là Hải Triều Am, lấy ý từ câu “pháp hải triều âm tùy cơ phổ ứng”. Năm Vạn Lịch 22 (1594), được quận thú (người đứng đầu một quận thời Minh) là Ngô An Quốc đổi tên thành Hải Triều Tự. Năm Vạn Lịch 26 (1598), chùa bị hỏa hoạn. Đến năm Vạn Lịch 33 (1605), mới được xây dựng lại. Năm Vạn Lịch 34 (1606), được sắc tứ là Hộ Quốc Trấn Hải Thiền Tự. Sau mấy cơn binh hỏa, chùa gần như sụp nát hoang tàn. Đến năm Khang Hy 26 (1687), hòa thượng Biệt Am Tánh Thống lên trụ trì, trùng hưng Pháp Vũ. Đến năm Khang Hy hai mươi tám (1689), cùng với chùa Phổ Tế được triều đình ban tiền trùng tu. Năm Khang Hy 38 (1699), được ban các biển ngạch Thiên Hoa Pháp Vũ và Pháp Vũ Thiền Tự. Chùa mang tên Pháp Vũ từ đó đến nay. Đợt trùng tu quy mô nhất là vào năm Ung Chánh thứ 9 (1731).
[2] Tức pháp sư Hóa Văn.
[3] Ý nói thiết tha, chí thành như con làm đám ma cho cha mẹ.