TẬP 02
Tiếp theo
130. Hô lam đột tát phạp.
Kệ :
Chúng ái trừ diệt chúng tử khổ
Thiên thần khí trượng uyên tĩnh tùng
Hộ vệ thiện giả tăng phước huệ
Hàng phục bệnh ma hoạch an ninh.
Tạm dịch :
Các ái trừ diệt chúng tử khổ
Thiên thần khí trượng yên lặng theo
Hộ vệ người lành tăng phước huệ
Hàng phục bệnh ma được an ninh.
Giảng giải : Hô Lam dịch là “kính ái”, lại dịch là “tát pháp”. Ðột Tát Phạp dịch là “thiên thần khí trượng”, cũng là bảo trượng. Tức là phía trước thiên thần rất trang nghiêm, nghi trượng rất yên tĩnh. Cho nên nói :‘’ Các ái trừ diệt chúng tử khổ.’’ Hô Lam Ðột Tát Phạp hay trừ chúng tử khổ. Thiên thần ái hộ tất cả chúng sinh cho đến tử khổ cũng trừ cho sạch, đủ thấy oai lực lớn cỡ nào.
‘’ Thiên thần khí trượng yên lặng theo.’’ Phía trước thiên thần oai nghiêm cầm cờ sí, tràng phan, bảo trượng, kêu người đừng nói rầm rì. Thiên binh thiên tướng đều cung kính không thể rầm rì, không thể không giữ quy cụ.
‘’ Hộ vệ người lành tăng phước huệ.’’ Bảo hộ người hiền lành khiến cho họ tăng phước huệ.
‘’ Hàng phục bệnh ma được an ninh.’’ Khiến cho tất cả bệnh đều khỏi, để họ đắc được bình an khoái lạc.
131. Nan giá na xá ni.
Kệ :
Thuỷ thần danh tự diệu vô cùng
Nhâm quý tật dịch tấu kỳ công
Năng trừ sinh lão bệnh tử nạn
Nhất thiết tai ương hoá vi trần.
Tạm dịch :
Tên của Thủy Thần diệu vô cùng
Nhâm quý tật dịch tấu kỳ công
Hay trừ nạn sinh già bệnh chết
Tất cả tai ương hóa thành bụi.
Giảng giải : Ðây là tên của Thủy Thần. ‘’ Danh tự Thủy Thần diệu vô cùng.’’ Bạn niệm tên của Thủy Thần thì sự việc rất áo diệu sẽ hiện ra. Việc gì ?
‘’ Nhâm quý tật dịch tấu kỳ công,’’ thủy độc (nước độc), bệnh về nước đều được giải trừ.
‘’ Hay trừ nạn sinh già bệnh chết.’’ Nạn sinh già bệnh chết đều có thể giải trừ.
‘’Tất cả tai ương hóa thành bụi.’’ Bất cứ tai nạn gì cũng đều hóa giải được, giống như tán thành bụi.
Hiện tại giảng oai lực của Chú, chỉ giảng sơ sơ chút ít, nếu giảng tỉ mỉ thì ý nghĩa mỗi câu Chú, vô cùng vô tận, không dễ gì giải thích hết được. Tôi chỉ giải thích chút ít mà thôi, khiến cho mọi người biết ý nghĩa đại khái. Nếu cung hành thực tiễn, thọ trì đọc tụng, thì chỗ diệu dụng nói không hết được. Thọ trì Chú Lăng Nghiêm giúp cho thế giới bớt đi tai nạn trong vô hình. Như nạn nước, nạn lửa, nạn gió, nạn động đất .v.v., đủ thứ tai nạn. Tụng trì Chú Lăng Nghiêm đừng chỉ vì mình, phải vì toàn thế giới, khiến cho tai nạn tiêu trừ, lớn hóa nhỏ, nhỏ hóa không.
Từ năm 1968, nước Mỹ, các nhà tiên tri, nhà địa chất, nhà khoa học, nhà thiên văn học, đều nói Cựu Kim Sơn (San Francisco) sẽ động đất. Lúc đó, tuy nói thật sẽ động đất, cũng chưa nghiêm trọng như hiện nay. Hiện nay thật là phải động đất, nhưng không phải không thể vãn hồi được, mọi người nếu thành tâm thành ý tụng Chú Ðại Bi, Chú Lăng Nghiêm thì tai nạn sẽ giảm nhẹ, lớn hóa nhỏ, nhỏ hóa không. Chúng ta cầu nguyện thế cho nhân loại thế giới, giảm bớt nghiệp báo của chúng sinh. Từ bây giờ bắt đầu, mỗi ngày niệm Chú Ðại Bi, hoặc niệm Chú Lăng Nghiêm. Chuyên nhất thì linh, đem tâm thành chân chánh vì nhân loại thế giới mà kỳ đảo thì có thể tai kiếp sẽ hóa không trong vô hình, đó là trợ giúp thế giới, lợi ích chúng sinh. Ðó là hành Bồ Tát đạo. Chúng ta nhất cử nhất động đều phải vì lợi ích kẻ khác, hãy quên mình, đừng sợ mình thiệt thòi, phải tồn tâm Bồ Tát để giáo hóa chúng sinh.
132. Bí sa xá.
Kệ :
Hư không diệu dược trị ôn ma
Phong hàn thử thấp táo hoả a
Thời khí lưu hành chuyên nhiễm bệnh
Trì Chú tiêu trừ Ta Bà Ha.
Tạm dịch :
Hư không thuốc hay trị ôn ma
Bệnh phong hàn nắng ướt khô lửa
Thời khí lưu hành truyền nhiễm bệnh
Trì Chú tiêu trừ Ta Bà Ha.
Giảng giải : Bí Sa Xá dịch là “hư không” hoặc dịch là “diệu dược” (thuốc hay), trị được bệnh ôn dịch. Thứ bệnh ôn dịch truyền nhiễm rất mau. Câu Chú này là “trị bệnh ôn dịch”. Cho nên nói :‘’Hư không thuốc hay trị ôn ma.’’ Bệnh ôn dịch lưu hành thì đều có một thứ ma quỷ.
‘’Bệnh phong hàn nắng ướt khô lửa.’’ Bệnh có nội nhân bệnh và ngoại nhân bệnh. Ngoại nhân bệnh là : Phong, hàn, nắng, ướt, khô, lửa là sáu nguyên nhân gây ra bệnh. Phong, hàn, nhiệt, ướt, quá khô đều sinh bệnh. Ướt thuộc về bệnh nước. Lửa quá thạnh cũng sinh bệnh. Ðó là những nguyên nhân bên ngoài đưa đến bệnh hoạn.
‘’Thời khí lưu hành truyền nhiễm bệnh.’’ Phàm là có bệnh đều có ma quỷ. Bệnh ôn dịch chẳng phải có thường, bệnh ôn dịch mà lưu hành thì có rất nhiều ma quỷ.
‘’ Trì Chú tiêu trừ Ta Bà Ha.’’ Nếu bạn trì tụng câu Chú này thì sẽ tiêu trừ tai nạn này mà đắc được cát tường. Trì chú phải thành tâm đừng khởi vọng tưởng, mới có cảm ứng.
133. Tất đát la.
Kệ :
Kiên trì địa thần hộ Ta Bà
Sơn băng thổ liệt tai nạn đa
Tăng tổn bệnh hoạn giai hoạch dũ
Tâm Chú gia bị trừ bách a.
Tạm dịch :
Kiên trì Ðịa Thần hộ Ta Bà
Núi lở đất nứt nhiều tai nạn
Bệnh hoạn tăng tổn đều lành hẳn
Tâm Chú gia bị trừ bách bệnh.
Giảng giải : Tất Ðát La là tên của “Ðịa Thần”. Trong Kinh Ðịa Tạng xưng vị đó là Kiên Lao Ðịa Thần. Ở đây dịch là “kiên trì”. Kiên lao và kiên trì chẳng khác mấy. ‘’ Kiên trì Ðịa Thần hộ Ta Bà.’’ Vị thần đó chuyên bảo hộ chúng sinh ở thế giới Ta Bà.
‘’ Núi lở đất nứt nhiều tai nạn.’’ Vì nghiệp cảm của chúng sinh, cho nên cảm ra núi lở, đất nứt, đủ thứ tai nạn.
‘’ Bệnh hoạn tăng tổn đều lành hẳn.’’ Trên đất bằng hoặc ở đây tăng thêm một chút thì biến thành núi cao, bên kia lại giảm bớt một chút, thì thành đại hải, biển hoặc lại biến thành núi. Những bệnh hoạn tăng tổn như thế đều khỏi hẳn.
‘’Tâm Chú gia bị trừ bách bệnh.’’ Niệm Chú gia trì đại địa, thì đại địa có bách bệnh cũng đều không. Con người có bệnh của con người, đất có bệnh của đất, trời có bệnh của trời. Bất quá chúng ta ở dưới đất, chẳng biết bệnh của trời. Thường tụng Chú Lăng Nghiêm cũng sẽ giúp đỡ trời đất, trị những hung khí và bệnh tật của trời đất. Bạn chỉ tụng trì trong vô hình thì đối với trời đất, đối với tất cả đều có trợ giúp và cảm ứng.
Bất cứ tu pháp môn gì, trước hết phải chú trọng đức hạnh. Nếu đức hạnh không đủ thì sẽ phát sinh ma chướng. Phải lập công lập đức. Lập công thì hộ trì đạo tràng, chịu khổ chịu cực. Lập đức thì đừng đố kỵ chướng ngại người khác, khiến cho người khác sinh phiền não. Bất cứ tu pháp môn gì, nếu nóng giận không sửa đổi, phiền não không dứt thì chẳng được ích lợi gì. Xuất gia rồi, trước phải lập công lập đức. Có công đức rồi sau đó tu pháp môn gì cũng đều dễ dàng. Cho nên :
‘’Thẳng thì căng, chậm thì chùng,
Không thẳng không chùng mới thành công.’’
Tu hành tâm dũng mãnh dễ phát nhưng khó giữ được bền lâu, phải phát tâm lâu bền, tâm không lùi.
Chú Lăng Nghiêm không thể chỉ niệm một câu, một đoạn, một đoạn. Tuy nhiên mỗi một câu đều có ý nghĩa của mỗi câu, nhưng trước sau đều liên kết quan hệ với nhau. Trong Chú Lăng Nghiêm có từng đoạn từng đoạn, phải biết từng đoạn này bắt đầu và kết thúc. Tham thiền an nguy đều có đủ thứ nhân duyên, không phải chỉ có một thứ, có người muốn tu hành nhưng tâm ích kỷ quá nặng, thấy cái ta quá sâu, đều quên không đặng cái ta, đều có tâm tự tư tự lợi, do đó rất dễ dàng vướng ma. Chân chánh hành Bồ Tát đạo, tu hành không có tâm vội tiến, không nghĩ dùng pháp gì để sớm khai ngộ, sớm thành Phật, cứ thích mau hoặc có sự háo kỳ, đều muốn phiêu dị hiện kỳ, hoặc hy vọng được thần thông, hoặc có cảnh giới gì chẳng giống người, do đó dễ dàng vướng ma. Nếu bạn chỉ một lòng tham thiền, không khởi vọng tưởng gì khác, như vậy thì muốn vướng ma cũng chẳng có ma nào có thể vào được, vì bạn chẳng khởi vọng tưởng nhiều như thế, không có tâm tà tri tà kiến. Cho nên vướng ma đều do tà tri tà kiến. Nếu chỉ có tâm đại công vô tư, không muốn mau, không muốn siêu hơn người khác, chỉ chuyên nhất dụng công, thì ma gì cũng chẳng có, chứ chẳng phải tham thiền có nguy hiểm gì.
134. A cát ni.
Kệ :
Hoả thần phát nguyện diệt hoả độc
Nhất thiết nhiệt bệnh tận quyên trừ
Phiền não sân hận vô tông ảnh
Thanh lương cam liệt khánh hữu dư.
Tạm dịch :
Thần Lửa phát nguyện diệt lửa độc
Tất cả bệnh nhiệt trừ khử sạch
Phiền não sân hận không dấu vết
Cam lồ mát mẻ cứu sống lại.
Giảng giải : A Cát Ni là tên của “Thần Lửa”, đại khái tu lửa mà thành Thần. Vị đó phát nguyện diệt trừ tất cả lửa độc. Nếu người bị lửa thiêu cũng là một thứ lửa độc, trên thân nếu sinh bệnh nhiệt cũng có lửa độc.
‘’Tất cả bệnh nhiệt trừ khử sạch.’’ Bệnh nhiệt đều chẳng có.
‘’Phiền não sân hận không dấu vết.’’ Phiền não sân hận đều là lửa, bây giờ đều chẳng còn dấu vết, tông tích.
‘’Cam lồ mát mẻ cứu sống lại.’’ Mát mẻ như cam lồ, nhiệt não hóa thành mát mẻ. Nghĩa là bổn lai đáng chết lại sống lại.
135. Ô đà ca la nhã xà.
Kệ :
Giải trừ thuỷ độc phong thấp chứng
Ung hoán hư nuy thận tràng anh
Bàn thũng bì phu giới lại tiển
Nhất thiết thống khổ hoá cát trưng.
Tạm dịch :
Giải trừ nước độc chứng phong thấp
Tê liệt bại xụi thận ruột bứu
Phù thủng ghẻ lở và cùi hủi
Tất cả thống khổ hóa cát tường.
Giảng giải : ‘’ Giải trừ nước độc chứng phong thấp.’’ Nước độc, phong thấp, gió độc đều có thể giải trừ được.
‘’Tê liệt bại xụi thận ruột bứu.’’ Tê liệt tức là bán thân bất toại, trúng gió không nói được .v.v. Bại xụi là người rất suy nhược, yếu đuối. Thận ruột bứu là tạng thận sinh bứu hoặc là ruột sinh bứu.
‘’Phù thủng ghẻ lở và cùi hủi.’’ Bị phù thủng, bị bệnh ghẻ và bệnh cùi hủi.
‘’Hết thảy thống khổ hóa cát tường.’’ Tất cả thống khổ đều chẳng còn nữa, đều hóa thành cát tường. Cho nên thành tâm niệm Chú Lăng Nghiêm thì bệnh gì cũng đều khỏi, so với Chú Ðại Bi trị bệnh diệu hơn nhiều.
136. A bát la thị đa câu la.
Kệ :
Từ Thị dũng kiện Vô Năng Thắng
Lượng đẳng hư không tổng bao dung
Trang nghiêm Thánh chúng tề ủng hộ
Trữ vọng bồ đề nhật nhật tăng.
Tạm dịch :
Từ Thị dũng kiện Vô Năng Thắng
Lượng như hư không tận bao dung
Thánh chúng trang nghiêm đều ủng hộ
Hy vọng bồ đề ngày ngày tăng.
Giảng giải : A Bát La Thị Ða Câu La dịch là “Vô Năng Thắng”, lại dịch là “dũng kiện” là danh hiệu của Bồ Tát Di Lặc. Câu La dịch là “trầm hương”, là Di Lặc Bồ Tát, cũng là Ðại Thế Chí Bồ Tát, cũng là Hương Nghiêm Ðồng Tử và các vị hộ pháp của các vị ấy. Cho nên nói : ‘’ Từ Thị Dũng Kiện Vô Năng Thắng.’’ Từ Thị tức là Di Lặc Bồ Tát. Sự dũng kiện chẳng có ai thắng hơn Ngài.
‘’Lượng như hư không tận bao dung.’’ Bụng của Ngài lượng đồng như hư không. Do đó có câu :
‘’Bụng lớn hay chứa,
Chứa việc thiên hạ khó chứa.
Mở miệng liền cười,
Cười những người thiên hạ đáng cười.’’
Chẳng có gì mà Ngài không thể không bao dung. Tất cả cây cỏ cũng ở trong hư không, hư không cũng bao dung, tất cả cỏ độc cũng ở trong hư không, hư không cũng bao dung.
‘’Thánh chúng trang nghiêm đều ủng hộ.’’ Tất cả Thánh chúng trang nghiêm đều ủng hộ Di Lặc Bồ Tát.
‘’Hy vọng bồ đề ngày ngày tăng.’’ Ngài ở tại đó đợi chúng ta phát bồ đề tâm, ngày càng lớn lên.
137. Ma ha bát la chiến trì.
Kệ :
Đại đạo tâm giả độ Ta Bà
Nguyệt Quang Bồ Tát tế ái hà
Siêu xuất luân hồi thoát khổ hải
Tứ hoằng thệ nguyện cứu quần ma.
Tạm dịch :
Bậc đại đạo tâm độ Ta Bà
Bồ Tát Nguyệt Quang cứu sông ái
Vượt khỏi luân hồi thoát biển khổ
Bốn thệ nguyện lớn cứu quần ma.
Giảng giải : Câu này dịch là “Bồ Tát Nguyệt Quang”. Ma Ha dịch là “đại đạo tâm”. Cho nên nói :‘’ Bậc đại đạo tâm độ Ta Bà.’’ Ta Bà là tiếng Phạn, dịch là kham nhẫn, là kham nhẫn sự khổ của thế giới này, còn chưa biết chán, chưa sớm cầu ra khỏi, còn cảm thấy vui sướng. Người có đại đạo tâm bèn đến giáo hóa, nói ra thế giới này như thế này như thế kia, có gì đáng lưu luyến, phải sớm giác ngộ.
‘’ Bồ Tát Nguyệt Quang cứu sông ái.’’ Bồ Tát Nguyệt Quang cứu chúng sinh từ trong sông ái ra.
‘’Vượt khỏi luân hồi thoát biển khổ.’’ Khiến cho chúng sinh sớm thoát khỏi biển khổ.
‘’Tứ hoằng thệ nguyện cứu quần ma.’’ Bồ Tát trước tác bốn thệ nguyện lớn :
‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.’’
Ngài đều phải độ tất cả thiên ma ngoại đạo, đều phải khiến cho chúng cải tà quy chánh, bỏ mê về giác. Ðây là nguyện lực của Bồ Tát, nguyện cứu tất cả. Vì Ngài không bỏ tất cả chúng sinh, ma cũng là một loài trong chúng sinh, do đó Bồ Tát đều không phải vì chúng là ma mà không cứu, vẫn nghĩ hết cách để cứu độ chúng.
Hỏi : Rau cải cũng có mạng sống, tại sao chúng ta ăn ?
Ðáp : Rau cải tuy có mạng sống, nhưng chẳng có trí huệ, chẳng thể chạy. Do đó bạn ăn được. Vì rau cải tuy có mạng sống nhưng đều chẳng biết sợ. Tất cả đều là pháp đối đãi, chẳng phải tuyệt đối. Tuyệt đối là một, một này là chân lý, thậm chí một cũng chẳng có. Ðây là nói bạn đã minh bạch tuyệt đối, không thể lại chấp trước chân lý. Nếu bạn còn chấp trước tuyệt đối, chấp trước chân lý, đó vẫn là một thứ chấp trước, bạn phải tu luyện đến tuyệt đối cũng không. Do đó có câu ‘’Vạn pháp quy một, một quy hợp.’’ Tức là cho đến một cũng chẳng có, vậy là gì ? Tức đó là số O. Số O sinh trời đất, sinh vạn vật, sinh tiên, sinh Phật, sinh Thánh nhân. Tất cả đều từ số O sinh ra. số O là vô cùng vô tận. Số một này thêm mười thì thành mười, lại thêm mười thành trăm, cứ thêm đến vạn vạn vạn .v.v., vô cùng vô tận, dù dùng máy điện toán cũng tính không ra. Nếu bạn làm cho số một không có, thì gì cũng chẳng có, vì chỉ số O thì không thành số mục. Có người nói bổn lai chẳng có Phật. Nói như vậy không đúng. Phật là có Phật, nhưng thành Phật thì không còn chấp trước Phật. Chẳng phải nói bổn lai không có, làm ra một pho tượng để chúng ta sùng bái. Lý luận tu hành phải rõ ràng.
Hằng ngày lạy Phật, lạy Bồ Tát, phải gần gũi Phật và Bồ Tát. Ðừng cầu mong may mắn, có sở cầu, có sở tham, nếu không thì sẽ tẩu hỏa nhập ma. Như thấy hồ ly có thần thông bèn kết giao quan hệ với chúng, đó thì không nên. Phải hòa bình tương xứ, không làm phiền phức cho ai. Còn bắt buộc kêu người làm gì cũng không đúng pháp. Cho dù Phật, Bồ Tát đến, cũng đừng có tâm tham, có sở cầu đối với các bậc ấy. Tu hành gặp cảnh giới gì tốt, xấu đừng có lay chuyển. Cảnh giới lành cũng chẳng màng, cảnh giới ác cũng chẳng màng. Phải :
‘’Mắt quán hình sắc trong chẳng có,
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay.’’
138. Ma ha điệp đa.
Kệ :
Hoả Thủ Kim Cang đại tướng quân
Thanh tâm quả dục ly hồng trần
Nhiếp trì chánh niệm hành chân pháp
Vi chúng nghi hình thiện ác phân.
Tạm dịch :
Hỏa Thủ Kim Cang đại tướng quân
Thanh tâm quả dục thoát hồng trần
Nhiếp trì chánh niệm hành chân pháp
Vì chúng làm gương phân thiện ác.
Giảng giải : Ma Ha Ðiệp Ða là “Hỏa Thiên chúng”. Thượng thủ là Hỏa Thủ Kim Cang tướng quân. Ngài xuất lãnh mang tất cả Hỏa Thiên chúng đến thế giới giúp đỡ người. Vị Hỏa Thủ Kim Cang này, lúc trước tâm dâm dục rất nặng. Lửa dục thiêu đốt Ngài chịu không thấu, nhưng Ngài vẫn nhẫn chịu. Khó nhẫn mà nhẫn được. Ngài nỗ lực tu hành, sau đó tu thành Hỏa Thủ Kim Cang. Trên đầu của Ngài sức nóng so với mặt trời còn nóng hơn. Cho nên gọi là Hỏa Thủ Kim Cang, là tướng quân trong tướng quân.
‘’Thanh tâm quả dục thoát hồng trần.’’ Không thể nhẫn Ngài cũng nhẫn được, không thể làm Ngài cũng làm được. Lửa dục vốn phải dứt trừ, nhưng Ngài không thể một phen mà dứt sạch, do đó từ ‘’thiểu dục‘’ mà bắt đầu. Có câu rằng:
‘’Biết đủ không nhục,
Biết dừng không nguy.’’
Nguy tức là nguy hiểm. Ngài biết lúc nào sẽ dừng, do đó không đến nỗi nguy hiểm. Ngài muốn vượt khỏi hồng trần, hồng trần này xem ra hoa hòe lòe loẹt, thật ra rất là nguy hiểm.
‘’Nhiếp trì chánh niệm hành chân pháp.’’ Ngài tuy dục niệm nhiều, nhưng thường nhiếp trì chánh niệm, không khởi vọng tưởng, không theo niệm dâm dục, trong tâm chẳng có tà niệm. Hành chân pháp tức là khử dục đoạn ái.
‘’Vì chúng làm gương phân thiện ác.’’ Ngài làm mô phạm cho đại chúng. Tâm dâm dục vốn nặng như thế mà đều tu thành. Vị ấy tu thành rồi bèn đi tuần la quán sát thiện ác của thế giới. Người có công đức lành thì Ngài trợ giúp họ, người làm ác thì Ngài trừng phạt họ, làm việc thưởng thiện phạt ác.
139. Ma ha đế xà.
Kệ :
Đại lượng bao dung Hư Không Tạng
Nhất thiết pháp giới tận bao dung
Thiên nhân tu la ngạ quỷ chúng
Súc sinh địa ngục phóng tịnh quang.
Tạmdịch :
Hư Không Tạng đại lượng bao dung
Tất cả pháp giới bao hết thảy
Trời người Tu la và ngạ quỷ
Súc sinh địa ngục phóng tịnh quang.
Giảng giải : Ðế Xà tức là “hư không thiên chúng”, thượng thủ là Bồ Tát Hư Không Tạng. Vị Bồ Tát này lượng bằng hư không, Ngài đều bao dung tận hư không biến pháp giới, cho nên nói :‘’ Hư Không Tạng đại lượng bao dung – Tất cả pháp giới bao hết thảy.’’ Tất cả chín pháp giới, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, đều bao dung hết.
‘’ Trời, người, Tu la và ngạ quỷ.’’ A tu la có phước trời mà không có quyền trời, ngạ quỷ chịu khổ trong địa ngục.
Súc sinh địa ngục phóng tịnh quang.’’ Vị Bồ Tát này khiến cho cõi súc sinh và cõi địa ngục đều phóng quang minh thanh tịnh, thường chiếu sáng chúng sinh để cho họ lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử. Thời đại mạt pháp này, căn tính con người hạn hẹp. Do đó nếu bạn giảng chánh pháp thì rất ít người tin, nếu giảng tà pháp thì rất nhiều người tin. Ðó là vì căn tính của chúng sinh càng ngày càng đọa lạc, hướng theo hạ lưu. Giảng chánh pháp cho họ, không những họ không tin mà còn sinh đủ thứ hủy báng, nghĩ cách phá hoại. Ðem Chú Lăng Nghiêm ra nói, Chú Lăng Nghiêm này diệu không thể nói, không có cách chi mà nói tỉ mỉ hết được, bất quá chỉ lược giảng một phần trong vạn phần ý nghĩa của mỗi câu Chú. Bạn đừng chấp trước đây là ý nghĩa của câu Chú. Sự giải thích này chỉ là giải thích một khía cạnh. Nếu muốn nói ra hết diệu nghĩa của Chú, thì hết thuở vị lai cũng nói không hết. Nói nhiều quá thì chúng sinh nhàm chán, do đó chỉ nói sơ lược. Các bạn nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm còn phải tự mình đi sâu vào, xét đoán cho rõ, dùng trí huệ của mình để liễu giải. Khắp thế giới này tìm không ra có một nơi nào nữa giảng Chú Lăng Nghiêm, vì sự thật chẳng có ai hiểu được. Bạn hỏi nói tôi làm thế nào hiểu được ? Học ở đâu ? Bạn đừng hỏi điều này. Nếu bạn tin tôi thì học theo tôi. Học pháp phải đứng vững trên mặt đất, hết lòng để nghiên cứu, đừng dụng công phu ngoài da. Như có người hỏi :‘’Phật đáo để sinh vào năm nào ? ‘’ Họ không hỏi Phật tu như thế nào mà thành ? Tức là làm một người học giả, dùng được gì ? Ðiều này chẳng có ích gì cho sự tu đạo.
140. Ma ha thuế đa xà bà la.
Kệ :
Quán quang tự tại Bạch Y Tôn
Biến hoá vô phương diệu thần thông
Phổ độ nhật dạ bất hưu tức
Duy khủng hữu tình đoạ hoả khanh.
Tạm dịch :
Quán Âm Tự Tại đấng Bạch Y
Thần thông biến hóa diệu vô cùng
Phổ độ ngày đêm không ngừng nghỉ
Chỉ sợ chúng sinh đọa hầm lửa.
Giảng giải : Thuế Ða dịch là “bạch”. Xà Bà La dịch là “quán quang tự tại”, ý nghĩa câu này là nói “Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát”, ‘’Quán Âm Tự Tại đấng Bạch Y.’’ Nhân gian thường thấy Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát.
‘’Thần thông biến hóa diệu vô cùng.’’ Ngài có oai lực vi diệu không thể nghĩ bàn.
‘’ Phổ độ ngày đêm không ngừng nghỉ.’’ Vị Bồ Tát này ngày đêm đều không nghỉ. Ban ngày đi giáo hóa chúng sinh, ban đêm cũng đi giáo hóa chúng sinh. Mỗi chúng sinh có duyên thường mộng thấy Ngài mặc y trắng. Ngài không giống như chúng ta cần nghỉ ngơi. Tại sao ? Vì ‘’ Chỉ sợ chúng sinh đọa hầm lửa.’’ Ngài rất sợ chúng sinh đọa vào hầm lửa, cho nên ngày đêm đều độ chúng sinh không ngừng nghỉ.
141. Ma ha bạt la bàn đà la.
Kệ :
Đại lực thiên tướng chúng thần binh
Phổ Hiền Bồ Tát suất lĩnh hành
Châu Lợi Bàn Ưà tiền khai lộ
Trí ngu bình đẳng nhập hoá trung.
Tạm dịch :
Ðại lực thiên tướng binh chúng thần
Phổ Hiền Bồ Tát xuất lãnh quân
Châu Lợi Bàn Ðà trước mở đường
Trí ngu bình đẳng đều giáo hóa.
Giảng giải : Ma Ha là “lớn”. Bạt La tức là “Phổ Hiền Bồ Tát”. Bàn Ðà La là “Châu Lợi Bàn Ðà Già Tôn Giả”.
‘’ Ðại lực thiên tướng binh chúng thần.’’ Ðại lực thiên tướng có sức lực dời núi lấp biển.
‘’ Phổ Hiền Bồ Tát xuất lãnh quân.’’ Phổ Hiền Bồ Tát làm thượng thủ, xuất lãnh những vị đại lực thiên tướng này đi đầu.
‘’ Châu Lợi Bàn Ðà trước mở đường.’’ Tức là Châu Bàn Ðà đọc chữ “quét” thì quên chữ “chổi”, đọc chữ “chổi” thì quên chữ “quét”, so với tôi thông minh không biết dường nào. Ngài đi trước làm tiên phong mở đường.
‘’Trí ngu bình đẳng đều giáo hóa.’’ Bất cứ bạn là người trí huệ hoặc là người ngu si, Ngài đều giáo hóa đồng đều.
142. Bà tất nễ.
Kệ :
Thắng quân hoà duyệt đáp chúng vấn
Long Quang Vương Phật tứ địa cự
Trí huệ biện tài thích nghi nan
Thiện xảo giáo hoá chư hàm linh.
Tạm dịch :
Thắng quân hòa hợp đáp chúng vấn
Long Quang Vương Phật tứ địa thần
Trí huệ biện tài giải nghi nan
Khéo léo giáo hóa các hàm linh.
Giảng giải : Bà Tất Nễ tức là “Ba Tư Nặc”, dịch là “thắng quân”, “hòa duyệt”, “đáp chúng vấn”, “nguyệt quang”.
‘’Thắng quân hòa duyệt đáp chúng vấn.’’ Ai hỏi nghĩa lý gì thì Ngài đều trả lời.
‘’ Long Quang Vương Phật tứ địa thần.’’ Ngài là tứ địa Bồ Tát thời Long Quang Vương Phật.
‘’Trí huệ biện tài giải nghi nan.’’ Ngài có trí huệ biện tài giải đáp được tất cả nghi vấn nan giải của chúng sinh.
‘’ Khéo léo giáo hóa các hàm linh.’’ Ngài dùng phương pháp khéo léo để giáo hóa tất cả hàm linh.
143. A lị gia đa la.
Kệ :
Thánh giả ngữ ngôn hỗ trần đáp
Điều phân lâu tích tế như phát
Trì Địa Bồ Tát vi kiến chứng
Giai đại hoan hỉ lạc vô nhai.
Tạm dịch :
Thánh giả ngôn ngữ hổ tương đáp
Phân tích cặn kẽ nhỏ như tóc
Bồ Tát Trì Ðịa làm chứng kiến
Thảy đều hoan hỷ vui vô ngần.
Giảng giải : A Lị Gia dịch là “Thánh giả”, lại dịch là “ngôn ngữ”. ‘’Thánh giả ngôn ngữ hổ tương đáp.’’ Tất cả các vị Thánh cùng nhau mở hội, đàm luận hổ tương đáp. Có vấn đề gì đều đề ra để mọi người thảo luận, hổ tương trao đổi ý kiến.
‘’ Phân tích cặn kẽ nhỏ như tóc.’’ Các vị ấy không như chúng ta giảng đạo lý thô kệch, cứ phán xét nghĩa lý ngoài da. Các vị ấy rất vi tế, lúc chưa mở lời đã phân tích rõ ràng rành mạch, phân biệt từng ly từng tí. Ðạo lý vi tế như những sợi tóc, các Ngài cũng phân rất rõ ràng rành mạch, nói rất rõ ràng rành mạch, một chút cũng không hỗn tạp.
‘’Bồ Tát Trì Ðịa làm chứng kiến.’’ Bồ Tát Trì Ðịa làm người tài phán nói ai đúng ai sai. Bồ Tát Trì Ðịa đảm đang làm người chứng kiến tại đó. Vì bạn tự mình nói đúng thì không kể, phải có sự chứng kiến, phải có người khác đồng ý mới có thể được.
‘’ Thảy đều hoan hỷ vui vô ngần.’’ Vì đạo lý nói rất chánh quyết, mọi người nghe đều rất vui vẻ, mọi người đều pháp hỷ xung mãn.
Vạn Phật Thành thật là không thể nghĩ bàn, cho đến hoa cỏ cây cối, chim chóc cầm thú đều thuyết pháp tại đó. Có biểu pháp, có thuyết pháp, lại có hành pháp. Biểu pháp như là tất cả hoa cỏ cây cối đều vô ngôn (không lời), đều biểu hiện Phật pháp thật là diệu không thể tả, lìa lời nói tướng, lìa tâm duyên tướng, lìa tướng văn tự. Xuân hạ thu đông, xuân thì trăm hoa đua nở, mùa thu lá vàng rơi. Ðạo lý sinh sinh hóa hóa này, nếu bạn minh bạch thì sẽ khai ngộ. Cho nên bậc Duyên Giác quán mười hai nhân duyên mà khai ngộ. Thuyết pháp như chim, quạ có âm thanh của chim, quạ, bạch hạc có âm thanh của bạch hạc, lại có loài chim xanh như bọn cướp, đi các nơi cắn mổ, nếu bạn cho nó vật gì thì nó giống như bá vương kẻ ăn hiếp, trừng mắt khiến các loài chim khác không dám đến gần, phải đợi nó đem vật đi rồi, thừa lại chút vụn vặt thì chim khác mới dám động thủ. Lại nói về kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu, cách sát sinh. Thỏ có pháp của thỏ, hưu có pháp của hưu, chồn có pháp của chồn. Chúng ở đó sinh sản nuôi dưỡng. Trước kia tôi chưa nói phải bảo hộ động vật thì chúng đều không xuất hiện, khi chúng ta nói phải bảo hộ thì chúng đều xuất hiện, một chút cũng chẳng sợ người, còn hướng người thị oai, vẫy gọi. Chúng ở tại đó đều trợ giúp đạo tràng, hoằng dương Phật pháp. Nói đến đây tôi nhớ lúc trước tôi ở tại Ðông Bắc bên Tàu có hơn tám trăm chồn tiên quy y. Những chồn tiên này đều là màu trắng, cùng đến quy y. Chúng chân thật tu đạo, lại chuyên làm lợi ích người, khám bệnh cho người không lấy tiền. Chúng nương nhờ thân người để trị bệnh cho người tức gọi là khiêu thần.
Vạn Phật Thành thật là Thánh địa, chồn, bạch hạc, hưu, nai đều đang nói pháp. Người xuất gia ở tại đây tức là hành pháp, y giáo phụng hành, mọi người đều sống an lạc với nhau, hòa bình cộng xứ, chẳng ai làm phiền ai, cho đến con muỗi cũng không đánh, mọi người tốt đều trì Bồ Tát giới. Chồn cũng không ăn động vật khác. Vạn Phật Thành mỗi hạt bụi đều có Bồ Tát đang tu hành. Không khí ở đây và không khí bên ngoài chẳng giống nhau, rất thanh tĩnh, có một luồng linh khí, đừng cho rằng ở đây và ở nơi khác đều giống nhau.
144. Tỳ lị câu tri.
Kệ :
Tối thắng lưu ly pháp vương quang
Linh long thấu thể dược thân thường
Nội ngoại oánh triệt tri khổ lạt
Thần nông thị hiện lộ đường đường.
Tạm dịch :
Tối thắng lưu ly pháp vương quang
Trong suốt thấu thể dược thân thường
Trong ngoài thấu triệt biết đắng cay
Thần Nông thị hiện lộ đường đường.
Giảng giải : Câu Chú này là “tối thắng quang vương chúng”, tức là “Lưu Ly Pháp Vương Quang Vương Tử” thống lãnh tất cả Dược Xoa đại tướng .v.v. Cho nên nói “Tối thắng lưu ly pháp vương quang.’’ Tối thù thắng, pháp vương tử thể lưu ly. Ngài là một vị Pháp Vương tử.
‘’Trong suốt thấu thể dược thân thường.’’ Bên trong có thể thấy bên ngoài, ngoài có thể thấy bên trong, đây gọi là trong suốt thấu thể. Cảnh giới này Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai có. Trung Quốc có Thần Nông thị thường bách thảo, bất cứ cỏ thuốc gì uống vào trong bụng, thì trong bụng của y tựa như lưu ly, thấy dược mỗi thứ cỏ thuốc, có sự bổ gì đối với tim gan tỳ vị thận ? có hại gì ? tính thuốc như thế nào ? y đều biết.
‘’Trong ngoài thấu triệt biết đắng cay.’’ Trong ngoài y đều nhìn rất rõ ràng. Trăm thứ cỏ thuốc uống vào thì chua ngọt đắng cay mặn, bất cứ mùi vị gì đều biết được.
‘’ Thần Nông thị hiện lộ đường đường.’’ Thần Nông hoàng đế Trung Quốc là Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dược Thượng hóa hiện. Cho nên Ngài có sức lực này, so với sự nghiên cứu khoa học còn tinh vi hơn, so với sự chiếu điện rõ ràng hơn. Trung Quốc ngày xưa có Thánh nhân như vậy, bây giờ thì chẳng có. Một số học giả vô tri thu thập rác rến, tự mình đem bán văn hóa của mình, tự mình khinh khi hành vi Thánh nhân diệu không thể nghĩ bàn của nước mình. Họ tạo ra tin đồn, nói đó là hoàn toàn thần thoại, phủ định lịch sử truyền thống vĩ đại, hành vi không thể nghĩ bàn của bậc Thánh nhân Trung Quốc. Ðây thật là đáng thương nhất. Ví như Hồ Náo (Hồ Thích) và những người vô tri .v.v., làm những điều lạ để loè mắt thiên hạ, tiêu diệt hết học thuyết cổ đại vĩ đại nhất của Trung Quốc. Ðây là hành vi rất là đau xót. Bây giờ Hồ Náo còn sửa kỷ niệm đường, sửa một thư viện để kỷ niệm y, thật là điên đảo hết mức chẳng phân thị phi.
145. Thệ bà tì xà gia.
Kệ :
Chư bệnh cố hoạt y trung vương
Dược Vương Dược Thượng phóng hào quang
Phần thân cúng Phật chân tinh tấn
Nhất thiết vô trước biến thập phương.
Tạm dịch :
Cứu sống các bệnh bậc y vương
Dược Vương Dược Thượng phóng hào quang
Ðốt thân cúng Phật chân tinh tấn
Hết thảy không chấp khắp mười phương.
Giảng giải : Thệ Bà còn gọi là Ký Bà là một vị thầy thuốc. Ðệ tử của Ngài Mục Kiền Liên, khéo trị bệnh cho người ‘’ Cứu sống các bệnh bậc y vương.’’ Ngài chuyên trị tất cả bệnh nguyên nhân bên trong, và không phải bệnh nguyên nhân bên trong bên ngoài. Nguyên nhân của bệnh có ba thứ : Nguyên nhân bên trong, tức là : tim, gan, tỳ, vị, thận, vui, buồn, lo, nghĩ, tức giận, bi ai, sợ sệt mà sinh bệnh. Nguyên nhân bên ngoài, tức là : gió, rét, nóng, ướt, khô, lửa. Chẳng phải nguyên nhân bên trong bên ngoài, là có một chút nguyên nhân bên trong, một chút nguyên nhân bên ngoài, nhưng cũng không phải nguyên nhân bên trong, cũng không phải nguyên nhân bên ngoài. Bất cứ bệnh gì vị thầy thuốc này đều muốn cho họ sớm được bình phục. Bệnh đáng chết cũng muốn cho họ sống, đây là vua trong loài y.
‘’ Dược Vương Dược Thượng phóng hào quang.’’ Ðây là Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dược Thượng phóng đại quang minh, cứu độ bệnh nhân người thế gian. Bồ Tát Dược Vương trong quá khứ đã phát nguyện đốt thân cúng Phật, đem thân của mình dùng vải hoa, ướp dầu thơm quấn khắp thân, thiêu đốt cúng dường chư Phật. Ðó thật là chân tinh tấn, chân phát tâm đại bồ đề. Cho nên trong Kinh Pháp Hoa nói :‘’ Ðó là chân tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường.’’ Ðó là khó xả mà xả được, khó hành mà hành đuợc. Các bạn nghĩ xem, chẳng phải nói đốt thân thì đốt một ngón tay mà mình cảm thấy xả không đặng, trong tâm đau vô cùng, thế mà Bồ Tát Dược Vương đem thân thể này thiêu đốt để cúng dường Phật.
‘’ Hết thảy không chấp khắp mười phương.’’ Tại sao Ngài có thể làm như thế ? Vì Ngài thật sự minh bạch Phật pháp, thật sự hiểu tu hành như thế nào. Chân chánh hiểu được, nhìn xuyên thủng, buông xả đắc được tự tại. Tức là tại điểm này Ngài thật sự buông xả được. Chúng ta nhìn không thấu, buông xả chẳng đặng. Ngài nhìn thấu, buông xả đặng, tất cả chấp trước đều chẳng có. Cho nên tự tính của Ngài đầy khắp mười phương đồng thể với chư Phật mà ở với nhau.
146. Bạt xà la ma lễ để.
Kệ :
Kim Cang giới trung ngũ bộ Thần
Thôi toái ngoại đạo hiển kỳ năng
Bất không sự nghiệp đại duyệt Ỷ
Chửng tế quần sinh xuất khổ luân.
Tạm dịch :
Năm bộ thần trong Kim Cang giới
Phá dẹp ma ngoại hiển kỳ năng
Bất không sự nghiệp đại duyệt ý
Cứu tế quần sinh thoát khổ luân.
Giảng giải : Câu này là “Kim Cang phá dẹp”. Khi Kim Cang Bồ Ðề Hải (tờ báo của Vạn Phật Thành) xuất hiện, thì tất cả thiên ma ngoại đạo đều kinh sợ. Ai thấy được thì kẻ ấy đau đầu, chúng không dám mở mắt nhìn, vì quá lợi hại. Hình bìa ra mắt của Kim Cang Bồ Ðề Hải là kiếm chém yêu, kỳ thứ hai là chùy hàng ma, kỳ thứ ba là lưới bắt hết thảy thiên thần, kỳ thứ tư là Bạt Xà La nhốt thiên ma ngoại đạo vào trong giam ngục. Bạn thấy Kim Cang Bồ Ðề Hải nhiều lợi hại chăng !
‘’ Năm bộ thần trong Kim Cang giới.’’ Bạt Xà La là tổng các vị thần năm bộ trong Kim Cang giới.
‘’ Dẹp phá ma ngoại hiển kỳ năng.’’ Ngài hay dẹp phá thiên ma ngoại đạo, hàng phục chúng, lại khiến cho chúng cải ác hướng thiện, chứ chẳng phải nói là tiêu diệt chúng, mà là giống như trải qua tác dụng hóa học, khiến cho bản tính ác của chúng cải thành thiện. Ðó là tác dụng động tĩnh biến hóa. Ðộng tức biến, biến tức hóa.
‘’ Bất không sự nghiệp đại duyệt ý.’’ Ma Lễ Ðể dịch là “bất không sự nghiệp”, lại dịch là “đại duyệt ý”. Cho nên nói ‘’ Cứu tế quần sinh thoát biển khổ.’’ Cứu độ tất cả chúng sinh ra khỏi biển khổ.
147. Tỳ xá lô đa.
Kệ :
Động tĩnh biến hoá ác hướng thiện
Đại dã hồng lư luyện tinh chân
Tỳ Lô Giá Na kim Cang chủ
Vi giáo chúng đẳng tác thiết hán.
Tạm dịch :
Ðộng tĩnh biến hóa ác hướng thiện
Lò lớn hồng lô luyện tinh chân
Tì Lô Giá Na chủ Kim Cang
Vì cứu chúng sinh làm thiết hán.
Giảng giải : ‘’ Ðộng tĩnh biến hóa ác hướng thiện.’’ Phật và Bồ Tát đều đến để cảm hóa chúng sinh. Trong sự nhất động, nhất tĩnh, nhất biến, nhất hóa, khiến cho họ cải ác hướng thiện, đi về hướng tốt không đi theo hướng xấu.
‘’ Lò lớn hồng lô luyện tinh chân.’’ Giống như lò lớn luyện vàng ròng.
‘’Tỳ Lô Giá Na chủ Kim Cang.’’ Phật Tỳ Lô Giá Na là Bộ chủ Kim Cang Bộ. ‘’Vì cứu chúng sinh làm thiết hán.’’
148. Bột đằng võng ca.
Kệ :
Phật Đà Thế Tôn hộ thần danh
Vệ đạo bảo đức chí công bình
Hàng phục nhất thiết tà ma quái
Quy y chánh giáo tuân lệnh hành.
Tạm dịch :
Phật Ðà Thế Tôn Hộ Pháp thần
Giữ đạo gìn đức chí công bình
Hàng phục tất cả tà yêu quái
Quy y chánh giáo vâng làm theo.
Giảng giải : Câu này có oai lực gì ? Bột Ðằng là “Phật Ðà”. Võng Ca là “Thế Tôn”. Hợp lại tức là thần Hộ Pháp hộ trì Phật Ðà, hộ trì Thế Tôn. Vị thần Hộ Pháp này thấy ai có đạo thì bảo hộ người đó, ai có đức hạnh thì hộ trì người đó, rất công bình. Nếu không có đức hạnh, muốn kêu Ngài bảo hộ, thì Ngài cũng không bảo hộ. Ðức hạnh của mình phải sung mãn. Căn bản làm người mục đích chủ yếu là phải sung mãn đạo đức. Ðạo đức không đủ, vọng tưởng tham cầu thì cầu chẳng được, dù cầu được cũng là giả, đồ hư danh ham giả tốt, chẳng phải chân thật. Bất cứ trong trường hợp nào, đều muốn có lợi, tức là căn bản không cần làm mà bạn làm. Lúc này cũng đừng tồn tại một móng tâm hy vọng tương lai thu hoạch được gì, có ích lợi gì. Cho nên :
‘’ Thi ân không cầu đền đáp,
Cho người không hối tiếc.’’
Có một câu nói rằng : ‘’Người lành gặp nguy hiểm quỷ thần hộ.’’ Nhưng, có phải như thế chăng ? Ðừng tồn tại thứ tâm như thế, cũng đừng nói : ‘’Tôi không mong quả báo tốt, tại sao phải làm việc thiện !’’ Ðó là quá ích kỷ. Thế giới này, tại sao xấu xa ? Là vì ai ai cũng đều có sự xí đồ, làm gì cũng đều muốn mình có lợi, vì có thứ tâm tham như thế, cho nên làm cho thế giới này ngày càng xấu xa tệ hại thêm, mỗi ngày chẳng như mỗi ngày. Có câu rằng :
‘’Ðiều thiện mà muốn người biết,
chẳng phải là chân thiện,
Ðiều ác mà sợ người biết, đó là đại ác.’’
Làm việc thiện mà muốn mọi người ca ngợi, thì chẳng phải là chân thiện. Chân thiện thì chẳng mong người biết, không cần phải đi các nơi tuyên truyền chính mình. Nếu làm việc ác mà sợ người biết thì là cực ác. Cho nên nói : ‘’ Giữ đạo gìn đức chí công bình.’’ Ðó là hộ pháp công bình nhất, tuyệt đối không thiên vị, chẳng nói nhân tình, chẳng nói thể diện.
‘’ Hàng phục tất cả tà yêu quái.’’ Ngài chuyên hàng phục tất cả những tà ma không chánh đáng. Tà ma là gì ? Tâm lượng của chúng sanh rất hẹp hòi, không tha thứ cho người khác. Tà ma cũng có thần thông. Tâm địa của chúng rất hẹp hòi, chẳng có độ lượng.
‘’Quy y chánh giác vâng làm theo.’’ Tất cả bàng môn tả đạo, yêu ma quỷ quái, có linh tính đều quy y chánh giáo, đều vâng lời, cũng đều tôn mạng phụng hành, kêu chúng làm gì thì chúng làm cái đó.
149. Bạt xà la chế hắc na a giá.
Kệ :
Mẫn khổ chúng sinh sử xuất ly
Trừ thiền định cấu tẩy trần mê
Tức ma chướng ngại đoạn dục mạn
Hộ niệm tế độ chư bệnh khư.
Tạm dịch :
Thương chúng sinh khổ cứu thoát khỏi
Thiền định trừ nhơ tẩy trần mê
Phục ma chướng ngại đoạn dục mạn
Hộ niệm tế độ các bệnh khổ.
Giảng giải : Bạt Xà La là “Kim Cang”. Chế Hắc Na A Giá nghĩa là “thương chúng sinh khổ”. Vì thương xót tất cả chúng sinh khổ, nghĩ muốn chúng sinh lìa khổ được vui, ra khỏi ba cõi, cho nên muốn cứu độ chúng, từ từ giáo hóa chúng, khiến cho tất cả tự phát bồ đề tâm, thoát khỏi dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
‘’ Thiền định trừ nhơ tẩy trần mê.’’ A Giá tức là thiền định trừ nhơ. Vì bị trần mê hoặc, cho nên phải tẩy bụi trần cho thật sạch. Những gì là trần mê hoặc ? Tức là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ.
‘’ Phục ma chướng ngại đoạn dục mạn.’’ Phục là chế phục, đoạn là đoạn dâm dục và kiêu mạn.
‘’Hộ niệm tế độ các bệnh khổ.’’ Kim Cang Tạng Bồ Tát hộ niệm người tu hành, tế độ họ, khiến cho họ từ bờ sinh tử bên này qua dòng sông phiền não, đạt đến bờ bên kia Niết Bàn, khiến cho tất cả phiền não và bệnh khổ của họ chẳng còn nữa, rốt ráo lìa khổ được vui.
150. Ma la chế bà.
Kệ :
Đoạn ma dục chướng kim cang chử
Kiến đại pháp tràng độ chúng sinh
Thành tựu đức tướng diệt ác tập
Quán đảnh hộ thần thường hộ hữu.
Tạm dịch :
Chùy Kim Cang đoạn chướng ma dục
Lập pháp tràng lớn độ chúng sinh
Thành tựu đức tướng diệt ác nghiệp
Quán đảnh hộ thần thường gia bị.
Giảng giải : Ma La Chế Bà dịch là “đoạn chướng ma dục”. Ðoạn cũng phải đoạn, không đoạn cũng phải đoạn. Chướng ma dục là gì ? Tức là tiền tài sắc đẹp danh vọng ăn uống ngủ nghỉ. Thiên binh thiên tướng thiện thần hộ pháp đều cầm chùy Kim Cang báu.
‘’ Lập pháp tràng lớn độ chúng sinh.’’ Kiến lập đại pháp tràng, cứu độ chúng sinh.
‘’Thành tựu đức tướng diệt ác nghiệp.’’ Diệt trừ ác nghiệp trong quá khứ.
‘’ Quán đảnh hộ thần thường gia bị.’’ Thần quán đảnh bộ đến bảo hộ.
151. Bát la chất đa.
Kệ :
Vô năng thắng trí thôi quần ma
Hồng liên hoa thủ kiến Phật Ưà
Thanh bạch tử sắc Quán Tự Tại
Túng nhiên tử giả biến thành hoạt.
Tạm dịch :
Trí vô năng thắng phá quần ma
Hồng liên hoa thủ thấy Phật đà
Sắc xanh trắng tía quán tự tại
Cứu đặng kẻ chết biến sống lại.
Giảng giải : Bát La Chất Ða dịch là “vô năng thắng”, hoặc là “trí huệ”, hoặc là “phá hủy”. Phá hủy tất cả ma quân.
‘’Hồng liên hoa thủ thấy Phật đà.’’ Tu hồng liên hoa thủ thì thường thấy Phật.
‘’Sắc xanh trắng tía quán tự tại.’’ Tu hồng liên hoa thủ, bạch liên hoa thủ, thanh liên hoa thủ, tử liên hoa thủ, thì thường thường đắc được tự tại.
Cứu đặng kẻ chết biến sống lại.’’ Bổn lai phải chết, nhưng nếu thành tâm tu pháp này cũng sẽ biến thành người sống lại, thật là oai lực cảm ứng lớn vô cùng. Nhưng phải có tín tâm. Nếu nửa tin nửa nghờ thì sẽ không đạt được thứ cảm ứng này.
152. Bạt xà la thiện trì.
Kệ :
Kim cang bảo kiếm khí xung thiên
Thụ cùng hoành biến doanh đại thiên
Trảm yêu trừ tà hộ chánh pháp
Giải thoát vô sinh vạn ức niên.
Tạm dịch :
Kiếm báu kim cang khí xung thiên
Tung hoành ngang dọc khắp đại thiên
Chém yêu trừ tà hộ chánh pháp
Giải thoát vô sinh vạn ức niên.
Giảng giải : Ðây là một câu rất quan trọng. Vì câu này thuộc về “kiếm thần kim cang”. Kiếm thần kim cang tức cũng là một cây kiếm khí. Cây kiếm khí này, bạn phải tu hành mới có thể đắc được. Tu hành đắc được kiếm khí này để làm gì ? Kiếm khí này không có vật cứng gì mà không phá được, không có lỗ nào mà không vào được. Cây kiếm khí này là tận hư không biến pháp giới. Chỉ cần chỗ nào có yêu ma quỷ quái thì kiếm khí sẽ tìm đến, không cần bạn giá ngự nó. Công năng luyện thành kiếm thần này chẳng phải dễ. Nó có diệu gì ? Nói không được. Ðây là kim cang thần kiếm. Bồ Tát Văn Thù dùng Chú Lăng Nghiêm đi cứu Ngài A Nan, tức cũng dùng kiếm này. Kiếm thần này hàng phục ngoại đạo Hồng Phát Già Tỳ Lư phải lão lão thực thực. Vì nó không có vật cứng gì mà không phá được, không gì mà không làm được, hàng phục được tất cả thiên ma ngoại đạo. Cho nên trong toàn bộ Chú Lăng Nghiêm, câu này có thể nói là rất quan trọng.
Có một phương pháp luyện kiếm này. Bạt Xà La Thiện Trì, dịch là “giải thoát vô sinh”.
‘’ Kiếm báu kim cang khí xung thiên.’’ Kiếm khí xung thiên này, bạn thấy lợi hại biết chừng nào.
‘’Tung hoành ngang dọc khắp đại thiên.’’ Dọc cùng tam tế ; quá khứ tế, hiện tại tế, vị lai tế; ngang khắp mười phương. Mười phương là đông, tây, nam, bắc, lại gọi là tứ duy, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc đây là tám phương, thêm trên, dưới cộng thành mười phương.
‘’Chém yêu trừ tà hộ chánh pháp.’’ Kiếm này dùng làm gì ? Dùng để chém yêu trừ tà, nhưng cũng không thể tùy tiện dùng. Bạn chém yêu rồi, tà cũng trừ rồi, lúc này vẫn phải dùng tâm từ bi nghĩ tưởng tức là bạn phải dùng kiếm từ bi, nghĩa là nhìn chúng thì chúng sẽ lão thực, không nhất định phải chém chúng, và nói với chúng ‘’Bạn biết chăng ? bạn có pháp thuật, tôi cũng có pháp thuật, pháp thuật của tôi cao hơn so với pháp thuật của bạn.’’ Yêu ma quỷ quái nhìn thì sẽ lão thực, sẽ hộ trì chánh pháp.
‘’Giải thoát vô sinh vạn ức niên.’’ Ðắc được giải thoát thì thành Phật, chứng quả vô sinh, thành Phật vạn ức niên tức là ý nghĩa vĩnh viễn.
Hỏi : Làm thế nào để luyện pháp kiếm báu kim cang này ?
Ðáp : Pháp này có thể nói là kình thiên địa, khốc quỷ thần. Bạn muốn tu pháp này thì thiên ma ngoại đạo đều kinh hãi tán đảm. Thứ pháp này chẳng phải có thể hỏi trước mặt đại chúng. Chỉ có thể đơn truyền, không thể dùng song truyền (truyền cho cả hai). Ðiều mà pháp không thể truyền qua sáu lỗ tai. Nếu có sáu lỗ tai thì không nói lời này, hoặc là có hai người đều thật đủ tư cách, hoặc là hai người có thể học với nhau, đồng thời tu. Nghĩ muốn tu pháp này thì trước phải lập công lập đức. Trước phải thọ khí, ai chưởi mắng bạn cũng không lên tiếng, ai đánh bạn cũng không trả đũa. Trước phải tu rèn luyện công phu không có nóng giận. Nếu không, mà học pháp này cũng như cọp thêm cánh, muốn giết ai thì giết, muốn chém ai thì chém, như vậy không thể được. Cho nên trước hết, muốn học thì phải nhẫn nhục, chịu đánh, chịu chưởi, chịu thiệt thòi, không chiếm tiện nghi, không có tâm ích kỷ. Rèn luyện một thời kỳ rồi mới nói.
Kim Cang quyền thành công rồi thì có thể cách núi đánh yêu. Cách tám vạn bốn ngàn dặm có yêu quái gì, chỉ một quyền thì có thể đập tan nát, nhưng cũng đừng nổi nóng như thế. Phàm là tu pháp này, phải tồn tâm từ bi. Chỉ kêu người xem thì chẳng dùng được. Phải có tu tâm nhẫn nhục vĩ đại, thì dù cho ai đánh chết tôi, tôi cũng không dùng quyền này đánh lại người. Phải có thứ tâm nhẫn nhục như thế. Bạn nói học pháp này có hữu dụng gì ? Một chút hữu dụng cũng chẳng có. Nếu có người tu pháp này thành công rồi, khi y chưa dùng quyền để đánh, chỉ một động niệm thì đối phương sẽ chết. Một động niệm :‘’ tôi đánh chết bạn ’’ thì đối phương liền mất mạng. Tức là lợi hại như thế ! Cho nên nói :
‘’Niệm động trăm việc có,
Niệm bặc vạn sự không.’’
‘’Tâm ngừng niệm bặc giàu sang thật
Tư dục đoạn sạch thật ruộng phước.’’
Cho nên Nhẫn Nhục Tiên Ông tại sao không sinh tâm sân hận ? Vì nếu Ngài sinh tâm sân hận thì đối phương chịu không nổi.
Hỏi : Y khiến cho người chết, phải chăng cũng có thể khiến cho họ sống lại ?
Ðáp : Nếu trước động niệm khiến cho họ chết, làm sống lại được chăng thì tôi không biết. Nếu khiến cho họ sống lại, tức là biến thành pháp hí luận, chẳng phải là thật.
Hỏi : Chú Lăng Nghiêm có thể khiến người chết, cũng có thể khiến người sống chăng ?
Ðáp : Ðó là lúc chưa chết thì khiến cho họ sống lại được. Ðã chết rồi, khiến cho họ sống lại thật chẳng phải dễ.
153. Tỳ xá la giá.
Kệ :
Thiên thần lực sĩ đại oai đức
Hàng phục chúng ma trấn sơn hà
Ngũ cốc phong đăng dân an lạc
Tứ thời thuận tự nhân ái bác.
Tạm dịch :
Thiên thần lực sĩ oai đức lớn
Hàng phục chúng ma trấn sơn hà
Ngũ cốc phong phú dân an lạc
Bốn thời thuận hòa do bác ái.
Giảng giải : Tỳ Xá La Giá tức là “thiên thần lực sĩ”. Ðại lực sĩ thiên thần rất có oai lực. Ngài cũng có đại oai đức và đại thần thông.
‘’Hàng phục chúng ma trấn sơn hà.’’ Ngài hay hàng phục tất cả ma, ma gì Ngài cũng đều hàng phục được. Trấn sơn hà là thường bình định sơn hà không có chiến tranh.
‘’Ngũ cốc phong phú dân an lạc.’’ Ngũ cốc tức là lúa mùa, lúa dê, lúa tắc, lúa tẻ, đậu. Ngũ cốc phong phú tức là thu hoạch dồi dào, trúng mùa. Dân an lạc là nhân dân rất sung sướng.
‘’Bốn thời thuận hòa do bác ái.’’ Tứ thời rất thuận lợi : Vua hoặc là tổng thống tâm lượng nhân ái cũng rộng lớn, biết thương yêu đất nước và nhân dân, đó đều là có mối tương quan với nhau.
154. Phiến đa xá.
Kệ :
Thiên tài lực sĩ tức hoành tai
Thuỷ hoả đao binh đạo tặc bài
Bất như ý sự sinh hoan hỉ
Cát tinh cao chiếu tiếu nhan khai.
Tạm dịch :
Thiên tài lực sĩ trừ tai ương
Diệt trừ nước lửa đao binh cướp
Việc bất như ý sinh hoan hỷ
Sao tốt cao chiếu cười vui vẻ.
Giảng giải : ‘’Thiên tài lực sĩ trừ tai ương.’’ Vị thiên tài lực sĩ trên trời này, tài năng rất phi thường và rất thông minh, ngoài ra còn có đại oai lực. Câu này thuộc về “pháp tiêu tai”. Bất cứ tai ương hoạnh tử gì, nếu thường niệm câu này thì sẽ tiêu trừ.
‘’Diệt trừ nước lửa đao binh cướp.’’ Ngoài ra còn bài trừ phi tai hành họa như nạn nước, nạn lửa, nạn đao binh, nạn giặc cướp, đều chẳng có. Tại sao bị chết chìm, lửa thiêu, đao thương, giặc cướp ? Ðó đều là do kiếp trước đã trồng nghiệp ác, đời nay phải thọ quả báo.
‘’Việc bất như ý sinh hoan hỷ.’’ Thường niệm câu Chú này thì những việc không như ý cũng biến thành hoan hỷ như ý, và còn có sự thay đổi.
‘’Sao tốt cao chiếu cười vui vẻ.’’ Sao cát tường thường chiếu soi bạn, khiến cho bạn thường cười tươi vui vẻ không sinh ưu sầu lo lắng.
155. Tì đề bà.
Kệ :
Câu triệu thiện ngữ cảnh cáo tiên
Thuận ngự giáo mệnh xá tội khiên
Như năng cải tà tu chánh đạo
Ma Ha Bát Nhã tự hiện tiền.
Tạm dịch :
Câu triệu lời khéo cảnh cáo trước
Phụng hành giáo mạng tha tội khiên
Nếu như cải tà tu chánh đạo
Bát Nhã trí huệ sẽ hiện tiền.
Giảng giải : Câu Chú này là “pháp câu triệu”. Câu triệu chứ chẳng phải bắt người giam vào ngục, mà là dùng lời khéo léo để giáo hóa họ. Cho nên :‘’ Câu triệu lời khéo cảnh cáo trước.’’ Dùng lời lẽ khéo léo khuyên họ đừng phạm pháp, phải giữ quy cụ.
‘’Phụng hành giáo mạng tha tội khiên.’’ Nếu họ nghe lời hàng phục rồi, chịu giáo huấn mạng lệnh của bạn, thì tà ma quỷ quái có tội nghiệt gì cũng đều được tha thứ, tai nạn của kẻ bệnh cũng đều miễn trừ.
‘’ Nếu như cải tà tu chánh đạo.’’ Nếu như họ cải tà quay về chánh tu chánh pháp thì : ‘’Bát Nhã trí huệ sẽ hiện tiền.’’ Ðại trí huệ tự nhiên sẽ hiện tiền. Tại sao họ làm nhiều việc ác ? Vì ngu si. Bây giờ có trí huệ thì không còn làm ác nữa, cải ác hướng thiện.
156. Bổ thị đa.
Kệ :
Giáo hoá khai đạo trí ngu manh
Tăng ích thành tựu cửu phế hoang
Nhất tâm canh vân bất kỳ hoạch
Cần tu giới định huệ thu tàng.
Tạm dịch :
Giáo hóa khai đạo trí ngu manh
Tăng ích thành tựu bỏ hoang lâu
Một lòng trồng trọt không cầu được
Siêng tu giới định huệ cất giữ.
Giảng giải : Câu Chú này thuộc về “pháp tăng ích”. Dịch là “giáo hóa khai đạo”. Cho nên tôi thêm ba chữ nữa thành câu thứ nhất :‘’Giáo hóa khai đạo trí ngu manh.’’ Giáo là nói Phật đến giáo hóa, hóa tức là sinh ra một thứ biến hóa. Biến hóa là gì ? Biến hóa khí chất của chúng ta. Vốn khí chất rất lớn, nhưng bây giờ không còn nữa. Vốn không muốn thiệt thòi, nhưng bây giờ chịu thiệt thòi. Trước kia vốn không muốn tu hành nhưng bây giờ chịu tu hành. Ðó đều gọi là ‘’ hóa,’’ có sự biến hóa. Biến hóa thì so với lúc trước khác nhau nhiều lắm. Cũng là cái miếu đó, nhưng chẳng phải thần đó. Miếu thì giống nhau nhưng đã đổi thần. Trước kia là thần thổ địa nhưng bây giờ đổi thành thần thành hoàng. Nói về thần thổ địa thì những người Mỹ chẳng hiểu. Thần Thổ địa thì quản một xã hoặc là một thôn, giống như xã Talmage thì có thần thổ địa xã Talmage, Thị trấn Ukiah thì có thần thành hoàng thị trấn Ukiah. Các vị thần ấy âm thầm cai quản các việc thiện ác của con người. Chứ chẳng phải nói họ sai khiến các bạn đi làm thiện ác, hoặc khống chế người, mà là bạn làm thiện hoặc làm ác họ đều ghi nhớ. đây có thể nói là quản nhân sự. Bây giờ thần thổ địa thăng chức làm thần thành hoàng. Nhưng vẫn quản nhân sự giống nhau. Vậy còn làm Bồ Tát ! Bồ Tát việc gì cũng chẳng quản, việc nhàn cũng không quản, việc bận rộn cũng không quản. Cho nên :
‘’ Ma ha Tát bất quản tha,
Di Ðà Phật các cố các ’’
Nghĩa là :
‘’ Bồ Tát chẳng quản ai,
Phật Di Ðà ai làm gì mặc.’’
Tự mình lo chính mình, chẳng màng đến đến kẻ khác.
Thế nào là khai đạo ? Khai là khai mở, khai hóa, khai mở nó ra đừng có đóng. Ðạo là bổn lai không thông, bây giờ làm cho nó thông, khiến cho điện hổ tương thông đạt. Làm thế nào để thông đạt ? Tức là vốn là người có trí huệ, Ngài bèn dùng phương pháp trí huệ, khiến cho bạn tăng thêm trí huệ. Bổn lai là ngu si, Ngài bèn dùng dầu trí huệ quang minh thoa vào thì sẽ rỉ ngu si ra, khiến cho bạn phát sinh trí huệ. Do ngu này sẽ biến thành trí, có trí thì sinh thêm trí. Manh tức là lưu manh. Chúng ta đều là lưu manh. Chúng ta tại thế giới này hồ hồ đồ đồ, chạy đông chạy tây, đó chẳng phải lưu manh thì là gì ! Nói thẳng là giống như kẻ lưu manh.
‘’ Tăng ích thành tựu bỏ hoang lâu.’’ Phật ở tại đó làm gì ? Ðang giúp chúng ta khai hoang ! Ðất Phật và ruộng Phật của chúng ta đã hoang phế từ lâu, không biết làm thế nào để khai khẩn. Ðại khái là vì chẳng có máy móc để làm. Bây giờ Phật dạy chúng ta làm pháp tăng ích, khiến cho trí huệ của chúng ta tăng thêm, thì có thể đi khai khẩn đất hoang. Trồng cây bồ đề, tương lai sẽ kết quả bồ đề. Ruộng bồ đề hoang phế đã lâu đều có cách để khai khẩn !
‘’ Một lòng trồng trọt không cầu được.’’ Gieo giống xuống đất hoang phế không chắc chắn sẽ thu hoạch được. Bạn đừng tham tâm như thế nói : ‘’ Tôi niệm một câu Nam mô A Di Ðà Phật, sao chưa thành Phật ?‘’ Nếu một câu A Di Ðà Phật mà khiến bạn thành Phật thì thế giới chẳng còn loài người nữa ! Ruộng hoang của bạn bỏ lâu như thế, không từ từ vun bồi tưới mầm bồ đề thì quả bồ đề làm sao sớm thành thục ? Cho nên đừng mong sẽ thu hoạch, chỉ hết lòng canh tác, từ từ tu hành, do đó :‘’ Một lòng trồng trọt không cầu được.’’ Ðừng nói tôi làm biết bao nhiêu việc tốt, sao bây giờ chưa khai trí huệ, vẫn ngu như thế ! Trí huệ có dễ đắc được chăng ? Không. Phải chân chân thật thật khổ công tu hành. Bạn thấy hai vị tam bộ nhất bái đã lạy đến Vạn Phật Thành, còn phải tiếp tục lạy. Hai vị đó đều muốn tự tính thanh tịnh, đắc được trí huệ chân chánh. Hai vị đó cũng không nói năng tùy tiện, không cười cũng không khóc, không nóng giận. Nếu tôi không đi trước một bước, làm sao làm sư phụ của họ ! Nếu tôi không lấy thân làm khuôn phép, thì họ đang lạy tam bộ nhất bái, ngóc đầu lên nói : ‘’ Sư phụ đang ở đó nóng giận với người khác ! Chúng ta không lạy.’’ Phải chăng ! Tôi thấy hai vị rất thành tâm, tại sao tôi vẫn có tập khí mao bệnh với một số người ! Cho nên tôi nhất định phải sửa đổi. Ðồ đệ nhận chân như thế, nếu tôi không nhận chân thì đâu có mặt mũi làm sư phụ !
‘’ Siêng tu giới định huệ cất giữ.’’ Bạn phải nhất tâm canh tác, đến khi làm xong rồi thì thu vào trong kho. Bạn siêng tu giới định huệ cũng phải đem cất đi, đừng tùy tiện vứt đi, tùy ý chà đạp, tùy ý phơi bày làm lòe loẹt bên ngoài. Nghĩa là kêu bạn phải giữ giới luật, tu định huệ, đem trí huệ cất đi, đừng phô trương bên ngoài, đừng đến nơi nào cũng muốn biểu thị : ‘’ Bạn biết chăng ? Tôi là người có danh tiếng đệ nhất thiên hạ, ông tổng thống nào đó là bạn của tôi, ông thủ tướng kia là bạn học của tôi.’’ Các bạn đừng có phô trương lộ ra bên ngoài. Ðừng có tư tưởng kiêu ngạo, khinh mình. Phải tồn bản lai diện mục chân chánh, không tăng không giảm, không đến không đi, một chút cũng không thêm tạo tác. Ðừng nói : ‘’ Bạn biết tôi chăng ? Tôi một ngày ăn một bữa.’’ ‘’ Người xuất gia tôi chẳng giống với người khác, tôi không giữ tiền bạc, người khác chẳng ai thực hành.’’ Vậy thì như thế nào ! Tức là chỉ mình bạn thực hành ! Vậy thế giới này chỉ có mình bạn phải chăng ? Tức là bạn độc nhất người tu hành. Giống như độc nhất Thiên Chúa không khác. Ai cũng không thể làm Chúa được, chỉ có mình y có thể làm được. Chúng ta với y chẳng có chút gì quan hệ. Vậy tại sao kêu tôi tin y ? Tin y để làm gì ? Tin y cũng là thần, không tin y cũng là thần. Y là ‘’ Thần gọi là thần ‘’ liền được, tại sao vẫn kêu người tin y, kêu người sùng bái ? Kẻ khác cũng không thể làm Chúa được, vậy tại sao vẫn kết giao với kẻ khác ! Một số người vốn chẳng quan hệ gì với y. Tôi biết tôi là người, cho nên tôi không muốn ở với Chúa. Tại sao tôi tin Phật ? Vì tin Phật tương lai ai ai cũng đều có thể thành Phật. Nếu nói ai ai đều có thể thành Phật thì vẫn có hy vọng. Giống như ai ai cũng có thể làm tổng thống, cho nên mới đi học, làm người tốt, tương lai mọi người có hảo cảm với y, bèn bầu y làm tổng thống. Ðó đều là có hy vọng. Cho nên tôi không muốn làm Chúa, vì không có phần. Ðây là ý nghĩa đại khái ‘’ Bổ Thị Ða.’’ Nếu nói tỉ mỉ thì hết thuở vị lai, cũng nói không hết. Ý nghĩa của Chú diệu không thể nói. Bây giờ bất quá lược nói cho quý vị nghe một trong vạn phần.
157. Tô ma lô ba.
Kệ :
Ái nhân bất thân cố kỳ nhân
Lễ bỉ phất đáp kính vị chân
Hồi quang phản chiếu cầu chư kỷ
Cảm ứng đạo giao mạc mê thần.
Tạm dịch :
Thương người không thân xem tâm mình
Lễ người không đáp chưa thật kính
Hồi quang phản chiếu cầu nơi mình
Cảm ứng đạo giao chớ mê thần.
Giảng giải : ‘’ Thương người không thân xem tâm mình.’’ Bạn thương một người nhưng người chẳng gần gũi bạn, cảm thấy bạn là giả. Lúc này phải ‘’ xem lại tâm mình.’’ Thương ở đây chẳng phải là nói thứ tình thương nam nữ, mà là một thứ hảo cảm trên tinh thần đó đây giữa người với người, hổ tương cung kính, hổ tương không chướng ngại. Khi bạn từ bi thương người mà người chẳng có phản ứng gì đối với bạn thì phải suy nghĩ lại, phản cầu nơi mình, hồi quang phản chiếu, tự suy nghĩ : ‘’ Ta chẳng thật sao ? Ðại ước ta là giả dối ? Tôi không thành tâm hết lòng ? ’’ Tự hỏi mình như thế, xem tâm mình có đủ từ bi nhân ái chăng.
‘’ Lễ người chẳng đáp kính chưa thành.’’ Bạn thấy người đến bèn hướng họ hành lễ, mà họ nhìn cũng chẳng nhìn hoặc là vì bạn chẳng đối diện với họ, bạn hành lễ thì họ vốn không nhìn thấy, đó thì không kể. Nếu bạn nhìn thấy họ, họ cũng nhìn thấy bạn, thì nên hổ tương hành lễ. Rõ là bạn hành lễ họ mà họ không đáp lại, tựa giống như Quan Ðế Công, băng mặt lại, trừng mắt tức cũng giống muốn thăng lên hư không, không nhìn bạn. Lúc này bạn phải suy nghĩ lại : ‘’ Phải chăng trong tâm tôi là giả dối, tôi làm lễ nghi là giả ? Phải chăng tôi thật cung kính họ ? (chưa thật kính), tôi cung kính họ đại khái không chân thật ? ‘’ Nên hồi quang phản chiếu.
‘’ Hồi quang phản chiếu cầu nơi mình.’’ Nếu bạn hành có chỗ không được nên phải cầu nơi mình. Phàm là những hoàn cảnh gặp nhau đều có những chỗ không được viên mãn, nên hồi quang phản chiếu, tự hỏi mình : ‘’Có phải tôi sai chăng ? ‘’ Phải nghĩ như thế thì vấn đề gì cũng đều chẳng có.
‘’ Cảm ứng đạo giao chớ mê thần.’’ Kính người thì người kính mình, đánh người thì người đánh mình, mắng người thì người mắng mình, giết người thì người giết mình, hại người thì người hại mình. Ðó là chân lý. Bạn đừng mê tín thần nói : ‘’ Thần chúa tể của tôi, thần cho tôi trí huệ.’’ Nếu thần cho bạn trí huệ, vậy thì thần quá thiên vị với kẻ ngu si ! Tại sao không cho họ trí huệ ? Tại sao y đối với bạn tốt mà không cho họ trí huệ ? Thật là quá bất công ! Nên biết trí huệ của bạn là do tự bạn tu. Bạn có cảm ứng gì cũng là tự bạn làm. Thần chẳng có cách chi không chế bạn, bằng không thì bạn sớm biến thành người máy ! Người máy mới chịu người khống chế.
158. Ma ha thuế đa.
Kệ :
Nhật nguyệt tinh cung thiên chúng cư
Bạch y Thánh giả độ quần mê
Thuận nghịch cảnh giới giai bất động
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.
Tạm dịch :
Cung nhật nguyệt tinh chúng trời ở
Bạch Y Quan Âm độ quần mê
Cảnh giới thuận nghịch đều bất động
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.
Giảng giải : Ma Ha Thuế Ða dịch là ‘’ Cung nhật nguyệt tinh chúng trời ở.’’ Thiên chúng cư ngụ ở trên trời. Họ ở trên đó rất sung sướng khoái lạc, cho nên không niệm Phật, cũng không tu, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, đó là mao bệnh của chư thiên mắc phải. Cho nên chúng ta đừng phát nguyện sinh về thiên đường, vì ở đó rất dễ bị mê, nhân gian cũng như thế. Cho nên :
‘’ Bần cùng khó bố thí,
Giàu sang khó học đạo,
Lúc chết không bệnh là khó.’’
‘’Bạch Y Quan Âm độ quần mê.’’ Câu này lại dịch là “Bạch Y Quan Âm”. Trong quá khứ xa xưa vị Bạch Y Quan Âm này, phát nguyện muốn độ quần mê. Làm thế nào để độ ? Ngài đi làm mẹ của Chúa, kêu mọi người tin Thiên Chúa. Nhưng người tin Thiên Chúa thăng lên thiên đường, ở đó quá vui sướng thì chẳng biết tu hành. Bổn lai Bạch Y Quan Âm cho rằng trước độ họ thăng lên trời, sau đó sẽ phát bồ đề tâm. Không ngờ họ không những không phát bồ đề tâm, ngược lại mà còn làm trái ngược. Quan Âm Bồ Tát cũng tự nhận sai, không nên dẫn người đến thiên đường. Cho nên mẹ của Chúa là Bồ Tát Quan Thế Âm. Ngài từ xưa đến nay chỉ có làm việc này là sai. Thực ra cũng không kể là sai, vì tất cả các pháp đều là Phật pháp, đều bất khả đắc, cho nên cũng chẳng có cái sai không sai. Nhưng là hạnh khổ của Quán Âm Bồ Tát ! Ngài phí rất nhiều tinh thần đi độ người, kết quả họ chạy đến thiên đường, hưởng thụ khoái lạc. Tại sao chúng sinh lại như thế ? Vì chẳng có trí huệ.
‘’Cảnh giới thuận nghịch đều bất động.’’ Bồ Tát Quán Âm gặp cảnh giới thuận tâm đều chẳng động, đối với cảnh giới nghịch tâm cũng chẳng động. Như như bất động, liễu liễu thường minh. Tuy nhiên Ngài phí rất nhiều tinh thần, phí nhiều thời gian làm mẹ của Chúa, nhưng Ngài không hề gì, bắt đầu làm lại. Chúng ta tu đạo cũng nên như thế, thuận cảnh đến, tâm chẳng động, nghịch cảnh đến tâm vẫn không động. Như như bất động, liễu liễu thường minh. Tâm sinh vạn pháp, vạn pháp duy tâm. Tâm bất động, kể cả dục niệm đều chẳng có. Chứ chẳng phải người chết rồi thì tâm không động, tức là một niệm chẳng động. Do đó :
‘’Một niệm không sinh toàn thể hiện,
Sáu căn hốt động bị mây che.’’
Làm thế nào mới không thể động ? Tức phải có đại trí huệ. Có đại trí huệ mới đến được bờ kia, mới có định lực bất động. Tin hay không do bạn ! Bạn không tin, tôi cũng nói như thế ; bạn tin tôi vẫn nói như thế. Bạn tin không tin tôi đều nói như thế, vì tôi thì tâm bất động.
159. A lị gia đa la.
Kệ :
Nhật Quang Thiên Tử chiếu đại thiên
Tứ phương tứ ngung tứ bô biên
Nguyệt cung thường nga thanh lương tản
Nhị thập bát tú thị hậu tiền.
Tạm dịch :
Nhựt Quang Thiên Tử chiếu các cõi
Bốn phương bốn hướng bốn vô biên
Nguyệt Cung Hằng Nga rất thanh lương
Nhị Thập Bát Tú hầu trước sau.
Giảng giải : ‘’ Nhựt Quang Thiên Tử chiếu các cõi.’’ Bạn xem đây là mặt trời, không nhất định là chỉ mặt trời. Nhưng có một vị Bồ Tát gọi là Nhựt Quang Bồ Tát. Có một bài Chú Nhựt Quang Ðà La Ni, chuyên môn trị tất cả bệnh, Chú này hộ trì Chú Ðại Bi. Chú Nguyệt Quang Ðà La Ni cũng ủng hộ Chú Ðại Bi. Hai bài Chú này rất linh nghiệm. Ðại Bi Ðà La Ni Kinh có ghi rất nhiều, diệu không thể nghĩ bàn. Nhựt Quang Thiên Tử chiếu sáng đại thiên. Ðại thiên đây là bao quát bốn phương đông, tây, nam, bắc ; bốn hướng là đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc lại bao quát trên và dưới, cũng bao quát Bốn Vô Biên Xứ : Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Những nơi này đều chiếu khắp. Cho nên nói :‘’ Bốn phương bốn hướng bốn vô biên.’’
‘’ Nguyệt cung Hằng Nga rất thanh lương.’’ Trong cung trăng có mỹ nữ, ở đó rất là thanh lương mát mẻ.
‘’ Nhị Thập Bát Tú hầu trước sau.’’ Nhị Thập Bát Tú là hai mươi tám vì sao, hầu trước sau. Hai mươi tám vì sao có thể dùng hai mươi tám chữ để biểu thị, đó là : Giác kháng thị phòng tâm vĩ ky, đẩu ngưu nữ hư nguy ốc bích ; khuê lâu vị lão tất tuy sâm, tỉnh quỷ liễu tinh trương dực chẩn.
160. Ma ha bà la a bát la.
Kệ :
Nhật nguyệt tinh tú phóng hà quang
Thụ cùng hoành biến nan độn tàng
Phổ Hương Thiên Tử thí hiệu lệnh
Yêu ma quỷ quái các viễn dương.
Tạm dịch :
Nhựt nguyệt tinh tú phóng hào quang
Khắp cùng ngang dọc khó ẩn núp
Phổ Hương Thiên Tử ra hiệu lệnh
Yêu ma quỷ quái đều ẩn trốn.
Giảng giải : Chú Lăng Nghiêm vốn chẳng có cách chi giảng được. Nhưng nếu không giảng thì một số người căn bản không tụng niệm, cho rằng không hiểu thì tụng niệm để làm gì ? Cho nên bất đắc dĩ phải lược giảng. Lược giảng cũng là giảng không hết, chỉ tiết lộ một trong vạn phần, giảng một câu, thì lộ ra vạn câu. Câu này bao quát “nhật nguyệt tinh”, bao quát “kim mộc thủy hỏa thổ ngũ hành tinh” ; mặt trời, mặt trăng, sao là ba thứ ánh sáng, đó là nói tổng quát. Tú là chỉ nhị thập bát tú. Lại có chín vì sao sáng, lại có tám vạn bốn ngàn vì sao, nói không thể hết. Người không hiểu Phật pháp thì nói Phật giáo không nói về trời, không nói về ngũ hành. Thực ra thế gian có một pháp nào mà chẳng phải là Phật Pháp ? Do đó :
‘’ Vô bất tùng thử pháp giới lưu,
Vô bất hoàn quy thử pháp giới.’’
Nghĩa là :
‘’ Chẳng có gì chẳng phải từ pháp giới này mà ra,
Chẳng có gì mà chẳng trở về pháp giới này.’’
Pháp của pháp giới, sự rộng lớn của pháp giới, có một pháp nào mà chẳng phải là Phật pháp ? Một pháp nào lại là Phật pháp ? Chẳng có. Bạn minh bạch thì một pháp cũng chẳng lập, liễu ngộ rồi thì vạn pháp y nhiên, có mà chẳng có, không mà chẳng không. Cho nên chẳng có một pháp nào mà chẳng phải là Phật pháp, cũng chẳng có một pháp nào là Phật pháp. Nói đây không phải đùa không chăng ? Nếu đạt được cảnh giới này, thì đồng thể với vạn vật, hợp làm một với pháp giới, đồng dụng với hư không. Nếu không thể thì hãy dụng công tu hành.
Tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng là số một, chẳng có pháp số hai. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, có tám vạn bốn ngàn số một. Tám muôn bốn ngàn pháp số một này, chuyên môn đối trị tám muôn bốn ngàn thứ bệnh. Dùng pháp nào tương ưng thì pháp đó là số một. Vậy dùng không tương ưng thì là số hai chăng ? Không phải. Chỉ là không có công hiệu mà thôi. Cho nên tôi thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn nào cũng số một. Ba ngàn sáu trăm bàng môn ngoại đạo, đạo nào cũng quay về chân. Ðạo nào tương lai cũng đều phải quy về chân như tự tánh Phật. Cho nên nói :
‘’ Vô bất tùng thử pháp giới lưu,
Vô bất hoàn quy thử pháp giới.’’
Do đó, Nhị Thập Bát Tú này cho đến tất cả các vì sao đều bao quát trong Phật giáo.
Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tác dụng trong hư không thật là không thể nghĩ bàn. Nhị Thập Bát Tú là giác kháng thị phòng tâm vĩ ky, đẩu ngưu nữ hư nguy ốc bích, khuê lâu vị mão tất tuy sâm, tỉnh quỷ liễu tinh trương dực chẩn. Họ có vạn đạo hào quang, nghìn luồng đoan khí.
‘’ Nhựt nguyệt tinh tú phóng hào quang.’’ ‘’ Khắp cùng ngang dọc khó ẩn núp.’’ Thứ hào quang này dọc cùng ba đời, ngang khắp mười phương. Giống như đèn sáng chiếu soi thì phía dưới, gì cũng đều thấy được, yêu ma quỷ quái gì cũng chẳng có chỗ ẩn núp.
‘’ Phổ Hương Thiên Tử ra hiệu lệnh.’’ Trong đó có vị Phổ Hương Thiên Tử phát ra hiệu lệnh.
‘’ Yêu ma quỷ quái đều ẩn trốn.’’ Yêu ma quỷ quái đều chạy tán. Có kẻ núp trong hạt bụi, có kẻ trốn trong lá cây, có kẻ trốn trong hang chuột. Chúng đều lão thực, không dám tác quái. Cho nên binh trời tướng trời cũng chẳng quản chúng.
Có một lối nói khác, Nhị Thập Bát Tú là : ‘’Nhựt nguyệt kim mộc thủy hỏa thổ, giao long hạc thố hồ hổ báo, giải ngưu bức thử yến trư thâu, lang trĩ kê ô hầu viên, ngạn dương kính mã lộc xà dẫn.’’ Nhị Thập Bát Tú này là trị nhật thần (thần ban ngày). Mỗi ngày đều có một vị trị nhật thần đến quản. Ngày này hoặc là thuộc về thủy, hỏa, kim mộc, thổ .v.v. Xem tên thì biết ngay. Mỗi tháng ba mươi ngày, Nhị Thập Bát Tú này luân phiên, một lần là một vòng, luân phiên hết lại bắt đầu lại. Mỗi ngày có bốn trị công tào. Các vị ấy là năm trị, tháng trị, ngày trị. Mỗi một thời thần là ai quản, mỗi một ngày, mỗi một tháng, mỗi một năm là ai quản đều có nhất định. Nhị Thập Bát Tú này là quản thiện ác, phàm là người làm thiện ác, các Ngài đều ghi nhớ hết, so với máy điện toán còn rõ hơn. Ðây là máy điện toán trên trời, cho nên người tu đạo, tu hay không tu đều có ghi chép. Bạn mỗi ngày tu được bao nhiêu công, đều tồn tại trong máy điện toán. Bạn tạo bao nhiêu nghiệp, cũng tồn tại trong máy điện toán, tơ hào đừng có khinh thường, chẳng phải bạn thích cho ai phiền não thì cho người đó phiền não. Bạn cho người một phiền não thì ghi vào trong máy điện toán, tơ hào không sai. Bạn đố kỵ chướng ngại người khác, khiến cho người không thể tu hành, tự cho rằng đắc ý. Nhưng tương lai sẽ có người đến chướng ngại bạn, nhân như thế nào thì quả như thế đó, quả báo không thể nghĩ bàn. Do đó nhân quả tơ hào không thể sai, nhân quả một khi sai thì tương lai không thể tưởng tượng được. Các vị chú ý ! Bốn trị công tào này rất công bình không a dua, dù bạn mua gà mua vịt cúng các vị ấy, họ cũng không nghe lời của bạn, họ chẳng ăn hối lộ.
Trên thế gian mỗi ngày có bốn trị công tào, chuyên môn quản nhân sự, các vị ấy cũng giống như cảnh sát đi tuần. Xem bạn tu đạo, mỗi ngày ngồi thiền được bao lâu, ngủ bao lâu, ăn bao nhiêu, người đó hôm nay bớt ăn ba hạt gạo, bớt ăn hai miếng rau, tuyệt đối không thể sai. Nhị Thập Bát Tú này cũng là hộ pháp của người tu hành, bảo hộ bạn tu đạo. Bạn phát sinh vấn đề gì, thì các vị đó đều phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Các bạn xem ! Lúc trời mưa to gió lớn, hai vị tam bộ nhất bái trước sau phải trái đều chẳng có gió, cũng chẳng có mưa. Ðó đều là vì Nhị Thập Bát Tú hộ trì. Trời mưa to thì phía trên hai vị tam bộ nhất bái có một vòng tròn, trời không mưa thì giống như cái doughnut.
Nhị Thập Bát Tú thần thông diệu dụng, đặc biệt hộ vệ hai vị tam bộ nhất bái, vì thấy hai vị đó kiền thành lạy, cho nên thật tu hành thì có thật cảm ứng. Nhưng nếu cứ đố kỵ, chướng ngại, suốt ngày đều nhìn người không phải, cứ nói người không tốt, thì hộ pháp tuyệt đối không hộ trì bạn. Tại sao ? Vì bạn giống như máy chụp hình, chỉ chụp bên ngoài, chứ không chụp bên trong, lại giống như cái máy giặt đồ, cứ giặt đồ cho người khác, mà bên trong của mình dơ bẩn mà không biết !
Vẫn có các vị nhìn ra được chăng ? Mỗi lần tôi đều dùng cục phấn nhỏ biên trên bảng đen. Tại sao ? Vì trên thế giới này vật gì còn có thể dùng được thì dùng nó, đừng phí bỏ, chẳng phải tôi bỏ không được một chút phấn viết, mà vì nó còn dùng được, thì không nên bỏ đi. Vật có thể dùng mà chúng ta không dùng, vứt bỏ nó, đó gọi là lãng phí vật chất. Vật chất trên thế giới đã sớm chẳng còn nữa, chúng ta không biết tiết kiệm, thì tương lai sẽ rất nguy hiểm, tuy nhiên chỉ là một chút phấn viết, tôi cũng không muốn lãng phí nó. Ðây là tông chỉ của tôi. Có người nói sư phụ Ngài quá hẹp hòi, tôi quyết không học với Ngài. Năm nay khoảng tháng giêng tôi cho các bạn xem qua một cái khăn giấy mà tôi đã dùng qua bốn ngày vẫn chưa dùng xong ! Bạn nói trên thế giới vẫn có người cô hàn như thế. Không chỉ thế, mà vật gì tôi cũng không lãng phí. Tuy nhiên đây chẳng phải là việc lớn, tôi hy vọng các vị chú ý một chút, đừng lãng phí tài nguyên của thế giới.
161. Bạt xà la thương yết la chế bà.
Kệ :
Kim cang khải giáp nhãn nan tĩnh
Chí đức nguy nguy lực vô cùng
Thôi toái quần tà tuyệt tông tích
Ngũ cốc phong thu khánh khang ninh.
Tạm dịch :
Mặc giáp kim cang sáng chói mắt
Oai đức vô biên lực vô cùng
Phá tan quần tà tuyệt dấu vết
Ngũ cốc phong túc khánh khang ninh.
Giảng giải : Câu Chú này rất là lợi hại, chuyên phá tan thiên ma ngoại đạo, cho nên không thể tùy tiện niệm, nếu niệm thì chúng chịu chẳng thấu.
‘’ Mặc giáp Kim Cang sáng chói mắt.’’ Những vị đại lực sĩ này là Bồ Tát thị hiện, mặc giáp kim cang phủ kín, đầu đội mũ bằng thép, thì dù đạn nguyên tử, đạn khinh khí đều bắn không vào được. Vì các Ngài chẳng có vật cứng gì mà không phá được, thứ quang (minh) này so với tử quang bây giờ còn lợi hại hơn, khiến cho người nhìn mắt mở không lên. Tử quang khiến cho người không biết mà chết. Quang (minh) này thì người biết được, nhưng nó không làm cho người vì thế mà chết. Tuy nhiên là hàng phục, nhưng vẫn có từ bi nguyện lực bao hàm trong đó.
‘’ Oai đức vô biên lực vô cùng.’’ Những vị ấy đều là đại Bồ Tát thị hiện, hoặc là Phật thị hiện. Các Ngài thị hiện Kim Cang lực sĩ, bưng núi, cầm chùy khắp cõi hư không, oai đức của các Ngài vô biên, oai lực cũng vô tận, bao nhiêu núi các Ngài đều nâng lên để vào lòng bàn tay.
‘’ Phá tan quần tà tuyệt dấu vết.’’ Khi niệm câu Chú này thì yêu ma quỷ quái, đều không hình không bóng chẳng biết đi đến đâu, đều bị phá tan. Các bạn nghe qua rồi, đừng gặp chỗ nào cũng cho rằng ở đây có tà, để cho tôi niệm một niệm. Phàm việc gì đều phải tồn tâm từ bi, đừng khởi tâm đối đãi.
‘’Ngũ cốc phong túc khánh khang ninh.’’ Lúc này yêu ma quỷ quái không tồn tại nữa thì phong hòa gió thuận, chẳng có ai gây phiền não, ai ai cũng chẳng có bệnh, đều mạnh khoẻ an lạc.
162. Bạt xà la câu ma lị.
Kệ :
Kim cang đồng nam thậm thiên chân
Bất giả tư tác thiện ác phân
Sát na biến du tam thiên giới
Nhất niệm chiếu liễu chúng sinh tâm.
Tạm dịch :
Kim Cang đồng nam rất thuần chân
Không cần suy tư rõ thiện ác
Khoảnh khắc du khắp ba ngàn cõi
Một niệm chiếu rõ tâm chúng sinh.
Giảng giải : ‘’ Kim Cang đồng nam rất thuần chân.’’ Ðây giống như Tiểu Quả Ðà, nói phải thọ năm giới, y giữ không được bèn khóc lên, rất thuần chân không tà, y chưa bao giờ nói dối.
‘’ Không cần suy tư rõ thiện ác.’’ Ngài cũng không cần suy nghĩ người này là thiện hay là ác thì tự nhiên phân biệt rõ ràng, không cần làm bộ làm tịch thì minh bạch, cũng giống như tấm gương, đó là vì Ngài rất là thuần khiết, thanh tịnh.
‘’ Khoảnh khắc du khắp ba ngàn cõi.’’ Tức là trong khoảng thời gian ngắn nhất, thần thông của Ngài du khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bất tất đi xe, đi máy bay, cũng chẳng cần bay mà đến.
‘’ Một niệm chiếu rõ tâm chúng sinh.’’ Trong khoảng một niệm thì Ngài đều minh bạch tâm của chúng sinh. Bất cứ chúng sinh có tâm niệm gì Ngài Kim Cang đồng nam đều biết đều thấy. Ngài không chỉ có bản lãnh này mà thần thông của Ngài lớn vô cùng. Tại sao Ngài có thần thông lớn như thế ? Vì Ngài là đồng nam, một chút tâm nhiễm ô cũng chẳng có, một chút hành vi nhiễm ô cũng chẳng có, một chút niệm đầu nhiễm ô cũng chẳng có, đều hoàn toàn thanh tịnh. Những bài kệ mà tôi tả rất là thiển cạn, nhưng hy vọng các bạn do cạn vào sâu, đây gọi là bỏ đá tìm ngọc, do kiến giải thô thiển này của tôi làm cho trí huệ cao siêu của bạn phát sinh.
163. Câu lam đà lị.
Kệ :
Viễn ly kết phược cận hữu đức
Kim cang La Sát hoá Ta Bà
Trang nghiêm đạo tràng thành thù thắng
Thiên mẫu công đức Bát Nhã Đa.
Tạm dịch :
Xa lìa trói buộc gần người có đức
Kim Cang La Sát hóa Ta Bà
Trang nghiêm đạo tràng thành thù thắng
Thiên mẫu công đức Bát Nhã Ða.
Giảng giải : Câu này dịch là “lìa trói buộc”, ‘’ Xa lìa trói buộc gần người có đức.’’ Xa lìa tất cả nghiệp chướng, trói buộc tức nghiệp chướng. Thân cận người có đức, trốn xa người hung ác.
‘’ Kim Cang La Sát hóa Ta Bà.’’ Vị đồng nữ này gọi là Kim Cang nữ, lại kêu là Kim Cang La Sát nữ. Ngài đến thế giới Ta Bà giáo hóa chúng sinh.
‘’Trang nghiêm đạo tràng thành thù thắng.’’ Trang nghiêm tất cả đạo tràng thành mảnh đất tu hành thù thắng.
Trong Phật giáo Chú Lăng Nghiêm là một bộ Chú quan trọng nhất. Bộ Chú này là toàn thể đại dụng, có thể nói là bao quát tất cả giáo nghĩa Phật giáo. Chú Lăng Nghiêm phân làm năm bộ tức Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ, Yết Ma bộ thuộc về năm phương. Phương đông Phật A Súc, Kim Cang bộ, phương nam Bảo Sinh Phật, Bảo Sinh bộ, chính giữa Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật bộ, phương tây Phật A Di Ðà, Liên Hoa bộ, phương bắc Phật Thành Tựu, Yết Ma bộ. Nếu như trên thế giới không có người nào tụng Chú Lăng Nghiêm thì thiên ma ngoại đạo sẽ xuất hiện. Nếu có một người đọc tụng Chú Lăng Nghiêm thì yêu ma quỷ quái đều phải ẩn trốn. Vì chúng chỉ sợ nhất là Chú Lăng Nghiêm, chúng tưởng hết phương pháp muốn diệt mất Chú Lăng Nghiêm này. Cho nên thời kỳ Phật pháp diệt, thì Chú Lăng Nghiêm diệt trước nhất, đồng thời Kinh Lăng Nghiêm cũng diệt trước nhất. Lúc đó yêu ma quỷ quái xuất hiện ra đời, muốn gì được nấy muốn làm gì thì làm, không trời không đất không thần không Phật, hoành hành chẳng sợ gì. Do đó tôi chủ trương mỗi vị Phật giáo đồ, đều phải học thuộc Chú Lăng Nghiêm, mỗi ngày tụng trì Chú Lăng Nghiêm, đó là bảo trì chánh pháp không bị diệt, thì chánh pháp trụ thế. Mạt pháp thì chẳng có ai niệm Chú Lăng Nghiêm. Do đó hôm nay giảng Chú Lăng Nghiêm chẳng phải là nhân duyên nhỏ. Ðừng cho rằng chỉ có mấy mươi người nghe. Dù mấy mươi người, thiên ma ngoại đạo ở tại đó đã kinh hãi sợ sệt. Chú Lăng Nghiêm trụ thế, thì chánh pháp sẽ trụ thế, không có Chú lăng Nghiêm thì chánh pháp chẳng tồn tại.
Tôi nghiên cứu Phật giáo mấy chục năm, không dám nói đã minh bạch, nhưng có thể nói hơi có tâm đắc. Sự hiểu biết của tôi đối với Chú Lăng Nghiêm và Chú Ðại Bi hai Chú này không nhiều lắm, cũng không quá ít. Do đó đem những gì tôi hiểu biết giới thiệu các bạn. Các bạn đừng nửa nghe nửa ngủ, nhất định phải đặc biệt chú ý, phấn chấn tinh thần lại!
164. Bạt xà la hát tát đa giá.
Kệ :
Kim cang cự thủ ngũ chỉ luân
Hà nhĩ yêu phần tận độn hình
Hộ trì hữu tình thành đại đạo
Toại tâm mãn nguyện hướng tiền trình.
Tạm dịch :
Kim Cang tay lớn diệu vô cùng
Yêu khí xa gần ẩn trốn hết
Hộ trì hữu tình thành đại đạo
Toại tâm mãn nguyện hướng về trước.
Giảng giải : Kim Cang bộ thuộc về pháp hàng phục. Bất cứ thiên ma ngoại đạo, lỵ mị vọng lượng, trâu quỷ xà thần đều sợ Kim Cang lực sĩ. Khi thấy Kim Cang lực sĩ thì tất cả yêu ma quỷ quái đều phải lão lão thực thực, ẩn trốn vào trong bóng tối, không dám xuất hiện. Hơn nữa là Kim Cang tay lớn, bất cứ chúng chạy đến đâu, có thể duỗi tay một cái thì bắt chúng lại. Cho nên nói :‘’ Kim Cang tay lớn diệu vô cùng – Yêu khí xa gần ẩn trốn hết.’’ Bất cứ xa gần có tà khí, yêu khí đều phải ẩn trốn. Vậy phải chăng Kim Cang lực sĩ chẳng biết ? Chẳng phải. Nhưng vì chúng đã bị hàng phục, sinh tâm sợ sệt thì bất tất phải giết chúng. Bạn đừng xem Ngài là Kim Cang lực sĩ, các Ngài đều đầy đủ đại từ bi, đều là đại quyền thị hiện, hiện tướng có uy đáng sợ, để hàng phục yêu ma quỷ quái.
‘’ Hộ trì hữu tình thành đại đạo.’’ Kim Cang lực sĩ bảo hộ chi trì tất cả hữu tình đều tu hành, thành tựu đạo nghiệp của họ.
‘’ Toại tâm mãn nguyện hướng tiền trình.’’ Bạn muốn tu pháp môn gì thì tu pháp môn đó, nhất định sẽ thành công, toại tâm mãn nguyện, nhưng bạn đừng thối lui, chỉ hướng về trước dũng mãnh tinh tấn.
165. Tỳ địa gia.
Kệ :
Phổ giác thế gian chư chúng sinh
Thiện ngữ giáo hoá viễn ly trần
Dũng mãnh tinh tấn đăng bỉ ngạn
Đảo giá từ thuyền cứu khổ luân.
Tạm dịch :
Giác khắp các chúng sinh thế gian
Lời lành giáo hóa sạch bụi trần
Dũng mãnh tinh tấn lên bờ giác
Từ bi trở lại cứu khổ luân.
Giảng giải : Tỳ Ðịa Gia dịch là “giác khắp”, tức không có lựa chọn, khiến cho hết thảy chúng sinh đều giác ngộ, đều minh bạch, không hồ đồ, cho nên nói :
‘’ Giác khắp các chúng sinh thế gian.’’ Khiến cho hết thảy chúng sinh bỏ mê về giác, đắc được bồ đề.
‘’ Lời lành giáo hóa sạch bụi trần.’’ Dùng lời khéo léo giáo hóa chúng sinh, xa lìa tất cả pháp nhiễm ô, mà tu tất cả pháp thanh tịnh, đắc được vô thượng bồ đề.
‘’ Dũng mãnh tinh tấn lên bờ giác.’’ Tự mình lựa chọn một con đường tốt, dũng mãnh tinh tấn hướng về trước, nếu không giải đãi thì nhất định sẽ thành công. Từ bờ sinh tử bên này qua dòng sông phiền não, mà đạt được bờ bên kia Niết Bàn, đắc được thường lạc ngã tịnh bốn đức. Lúc đó thì :‘’ Từ bi trở lại cứu khổ luân.’’ Không quên chúng sinh khổ ở thế gian, phát tâm đại từ bi đến cứu độ chúng sinh thọ khổ. Họ đều đọa lạc trầm luân không giác ngộ, tôi muốn khiến họ đều giác ngộ, đồng ra khỏi biển khổ mà đạt đến cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ thanh lương tự tại.
166. Kiền giá na.
Kệ :
Tứ đại Thiên Vương hộ chánh quy
Thái tử quyến thuộc các sính oai
Tam giới thiện ác ký công quá
Nhật dạ tuần du thời khắc thôi.
Tạm dịch :
Bốn vị Thiên Vương hộ chánh quy
Thái tử quyến thuộc oai lẫm liệt
Ba cõi thiện ác ghi nhớ hết
Tuần du ngày đêm không sao lãng.
Giảng giải : Trước câu này nói về Hộ Pháp Kim Cang bộ, tức là hộ giáo thiện thần. Câu này bao quát “Bốn vị Thiên Vương và thái tử của họ và các quyến thuộc”. Những vị Kim Cang thiện thần này đều thuộc về Phật A Súc, Kim Cang bộ thống lãnh. Chú Lăng Nghiêm đến đây là bộ chúng Kim Cang bộ. Do đó đoạn Chú này đa số thuộc về pháp hàng phục, dùng Kim Cang lực sĩ hàng phục thiên ma ngoại đạo.
‘’ Bốn vị Thiên Vương hộ chánh quy.’’ Tứ đại Thiên Vương là : Trì Quốc Thiên Vương, Tăng Trưởng Thiên Vương, Quảng Mục Thiên Vương, Ða Văn Thiên Vương. Bốn vị đại Thiên Vương này bảo hộ chánh nhân quân tử, chúng sinh giữ quy cụ.
‘’ Thái tử quyến thuộc oai lẫm liệt.’’ Những vị thái tử của các vị Thiên Vương và tất cả quyến thuộc đều oai phong lẫm liệt, chứ chẳng phải sát khí đằng đằng. Mà là khiến cho tất cả chúng sinh có uy phải sợ, để hàng phục thiên ma ngoại đạo.
‘’ Ba cõi thiện ác ghi nhớ hết.’’ Các Ngài tuần tra xem việc thiện ác trong tam giới : Dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Bất cứ ai làm việc thiện, việc ác các Ngài đều ghi nhớ. Vọng niệm của bạn chánh, hay bất chánh đều nhớ hết. Ai có ý nghĩ khinh khi trời, hại người cũng ghi nhớ hết thảy. Ở nhân gian có máy thu để thu, các vị ấy chẳng dùng máy thu, nhưng trong hư không có máy thu hiện thành, so với máy thu của chúng ta còn diệu hơn, không cần dùng tiền để mua. Bổn lai đã có, cho nên gọi là diệu hữu. Diệu hữu ở tại đâu ? Ở trong chân không. Chân không không ngại diệu hữu, diệu hữu không ngại chân không. Chân không chẳng không, cho nên có diệu hữu. Diệu hữu chẳng có, cho nên không ngại chân không, hổ tương viên dung vô ngại. Không giống như nhân gian, có vật này thì chướng ngại vật kia. Người này ngăn cản chỗ này, thì người kia qua chẳng được. Hư không gì cũng chẳng có, nhưng gì cũng đều có. Nếu minh bạch thì gì cũng đều có. Nếu không minh bạch thì gì cũng chẳng có. Chân không là chân không, diệu hữu là diệu hữu. Nếu minh bạch thì trong chân không tức là diệu hữu. Nếu không minh bạch, thì trong diệu hữu cũng không minh bạch có chân không, không minh bạch chân không diệu hữu hỗ tương vô ngại. Nếu dùng nhục nhãn của phàm phu để dò chân lý chân không diệu hữu, thì không khi nào đắc được đáp án viên mãn. Thái tử của tứ đại Thiên Vương ngày đêm quán sát điều tra, xem người thiện nhiều hay người ác nhiều. Thiện nhiều thì mời họ lên trời, ác nhiều thì phạt họ đọa làm ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục. Do đó bốn vị đại Thiên Vương này cũng rất bận rộn, hằng ngày tính sổ với thái tử, đại khái họ đã học qua toán số, so với máy điện toán còn rõ hơn.
167. Ma lị ca.
Kệ :
Tam quang Thiên Vương quyến thuộc đa
Dương diệm nhật chiếu mật ba la
Đại Lực Kim Cang trừ uế tích
Hộ trì hành giả xuất ái hà.
Tạm dịch :
Tam quang Thiên Vương nhiều quyến thuộc
Dương diệm nhựt chiếu Mật Ba La
Kim Cang Ðại Sĩ trừ quần ma
Hộ trì hành giả thoát biển ái.
Giảng giải : Câu này là “quyến thuộc của tam quang là nhật, nguyệt, tinh”. Mặt trời có quyến thuộc của mặt trời, mặt trăng có quyến thuộc của mặt trăng, sao có quyến thuộc của sao. Mỗi một quyến thuộc lại có quyến thuộc của họ.
‘’ Dương diệm nhật chiếu Mật Ba La.’’ Dương diệm bị mặt trời chiếu thì chẳng còn, tức cũng đến được bờ bên kia, khôi phục lại thanh tịnh. Dương diệm cũng như vọng tưởng, nếu bạn có trí huệ chân chánh, chiếu một chiếu thì nó tiêu diệt mất, đắc được quang minh.
‘’ Kim Cang lực sĩ trừ quần ma.’’ Oai lực của Kim Cang lực sĩ lớn vô cùng, có thể bưng núi cầm chùy, biến khắp hư không giới, trừ thiên ma ngoại đạo yêu ma quỷ quái.
‘’ Hộ trì hành giả thoát biển ái.’’ Bảo hộ người tu hành thoát khỏi biển ái dục, khôi phục lại thanh tịnh. Kim Cang đại lực sĩ có sự hộ trì rất lớn đối với người tu hành. Hộ trì người tu hành vượt khỏi biển ái chẳng phải dễ.
168. Khuất tô mẫu.
Kệ :
Nguyệt quang biến chiếu chúng sinh tâm
Thanh lương tự tại tịnh vô trần
A Di Đà Phật vi pháp chủ
Quán Âm Thế Chí thân thượng thân
Tạm dịch
Nguyệt quang chiếu khắp tâm chúng sinh
Mát mẻ tự tại sạch bụi trần
A Di Ðà Phật làm pháp chủ
Quán Âm Thế Chí thân lại thân.
Giảng giải : Câu này là “nguyệt thần”, “thần nguyệt quang”, nguyệt thần có đại quang minh, cho nên nói : ‘’Nguyệt quang chiếu khắp tâm chúng sinh.’’ Chiếu vào trong tâm thành của mỗi người.
‘’ Mát mẻ tự tại sạch bụi trần.’’ Chúng sinh mát mẻ tự tại, không có một chút tư tưởng nhiễm bụi trần.
‘’ A Di Ðà Phật làm pháp chủ.’’ Ðây là Tây Phương Liên Hoa bộ, A Di Ðà Phật làm pháp chủ. Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, chúng ta và chúng sinh thân lại thân, thân lại càng thân, cho nên đừng quên tại thế giới Ta Bà, cho rằng đây là quyến thuộc của ta, đây là anh em chị em của ta, thực ra họ không nhất định quá thân. Quán Âm Bồ Tát và Ðại Thế Chí Bồ Tát mới là chí thân. A Di Ðà Phật là pháp thân phụ mẫu của chúng ta. Cho nên nói :
‘’ Phật như vầng trăng sáng,
Lơ lững trên không trung,
Tâm thủy chúng sinh tịnh,
Bóng bồ đề hiện ở trong.’’
169. Bà yết la đa gia.
Kệ :
Khúc tâm vi trực đạo tâm chân
Thành tựu đạo tràng đức vi lân
Bắc phương chúng Thánh đồng ủng hộ
Thuỷ Quang đồng tử nhật nhật tân.
Tạm dịch :
Tâm cong dũa thẳng đạo tâm chân
Thành tựu đạo tràng đức là gốc
Phương bắc Thánh chúng đều ủng hộ
Thủy Quang đồng tử ngày ngày mới.
Giảng giải : ‘’ Tâm cong dũa thẳng đạo tâm chân.’’ Ðem tâm dua vạy, biến thành tâm thẳng thì đạo tâm mới chân.
‘’ Thành tựu đạo tràng đức là gốc.’’ Ðây là phương bắc Phật Thành Tựu, cũng là Yết Ma bộ. Thành tựu đạo tràng, bạn cần phải có đức hạnh. Nếu bạn không có đức hạnh thì bất cứ làm gì, thành tựu gì cũng chẳng có ý nghĩa. Hơn nữa là người tu đạo nhất định phải có đức hạnh. Gì gọi là đức hạnh ? Ðức hạnh tức là chịu thiệt thòi, chịu nhẫn nại, không chiếm tiện nghi, thường lợi người.
Ý nghĩa lợi người, tức là tài bồi phước của bạn, tài bồi huệ của bạn, tài bồi đạo của bạn, tài bồi đức của bạn. Nếu bạn cứ chiếm tiểu tiện nghi của người, không chịu thiệt thòi, đó là biểu thị đức hạnh chẳng đủ. Chúng ta người tu đạo càng nên tài bồi đức hạnh, không có đức hạnh thì giống như trên thân chẳng có khí huyết, người sẽ khô héo. ‘’ Ðức là gốc, tài là ngọn.’’ Ðức hạnh là gốc rễ, tiền tài là ngọn ngành. Bây giờ một số người cứ tìm bên ngoài, theo ngọn mà bỏ gốc, quên mất gốc rễ đức hạnh, không nói gì đến đạo đức, không nói lời của con người, cứ nói lời của quỷ ma. Người thì phải nói lời của con người, trời, đất quân, thân, sư, đó là lời của con người, đừng nói lời quỷ ma.
‘’ Phương bắc Thánh chúng đồng ủng hộ.’’ Phương bắc thành tựu đạo tràng Yết Ma bộ, tất cả Bồ Tát Thánh chúng đồng đến ủng hộ bạn.
‘’ Thủy Quang đồng tử ngày ngày mới.’’ Thủy Quang đồng tử ngày ngày tẩy rửa, làm cho sạch bụi trần. Nếu không tẩy sạch bụi trần, thì thật là quá lười biếng. Thủy Quang đồng tử chẳng phải thế, Ngài ‘’ Ngày mới ngày ngày mới, ngày càng mới.’’ Mỗi ngày bạn phải bớt đi vọng tưởng, đừng khởi vọng tưởng mãi, đừng nhiều tham sân si như thế.
Chúng ta tu Phật pháp chủ yếu là thân phải thực hành. Nếu chỉ nói mà không làm, làm một chút cũng chẳng có, thì chẳng có ý nghĩa gì hết. Cho nên học Phật pháp mà không hành Phật pháp, đều là lãng phí thời gian, lãng phí tinh thần, làm cho thời gian trôi qua không, đó là việc hết sức thiếu sót. Tôi dạy các bạn Phật pháp đã hơn mười năm, mà các bạn chân chánh minh bạch Phật pháp, không thể nói là không có nhưng rất ít. Có gì để chứng minh ? Ðó là sự nóng giận của mỗi người các bạn vẫn lớn như thế, hỏa khí vẫn cao như thế, hoàn toàn chẳng có sự biến hóa khí chất. Ðó là chứng minh không hiểu Phật pháp chân chánh. Người chân chánh hiểu được Phật pháp, thì bất cứ người khác không đúng như thế nào, cũng không nóng giận. ‘’ Họ không nể nang đối với tôi, thậm chí áp bức tôi, đánh tôi, mắng tôi, hủy báng tôi, những gì không đúng, tôi đều phải dùng tâm nhẫn nại lớn nhất để nhẫn nại.’’ Như vậy mới không lãng phí thời gian, lãng phí tinh thần. Muốn qua được sông không cần thuyền, thì phải thoát trừ phiền não, đừng có hỏa khí lớn như thế, đừng có vô minh lớn như thế, phải triệt để cải biến nóng giận của mình. Tập khí mao bệnh nếu không sửa, thì đến lúc nào cũng đều là sự trói buộc bám níu, đừng nói chi đến vượt qua bờ bên kia.
Các bạn nghĩ xem, tại thế giới này, hiện tại quá nhiều nguy hiểm, chúng ta còn không phát bồ đề tâm, cứu thế giới nhân tâm còn đợi gì nữa ? Chúng ta không có cách mới chờ đợi, cho nên nhất định phải cung hành thực tiễn. Phải hành lục độ : Thứ nhất phải bố thí, bố thí chẳng phải cứ kêu người bố thí, người ta có công đức, mình thì chẳng có công đức. Người ta bố thí cho bạn, bạn có công đức gì mà nhận sự bố thí của người ? Có người cưỡng từ đoạt lý nói :‘’ Tôi là người xuất gia, nên nhận người cúng dường.’’ Bạn là người xuất gia chẳng có đức hạnh mà nhận người cúng dường, vậy là đã lỗ vốn lại thêm nợ. Cho nên nói :
‘’ Hạt gạo thí chủ cho,
Nặng bằng núi Tu Di,
Ăn xong chẳng tu đạo,
Ðội sừng mang lông trả.’’
Chẳng phải đơn giản như thế thì có thể nhận sự cúng dường của người.
170. Ti lô giá na.
Kệ :
Chúng quang củng chiếu đại oai đức
Tấn lôi phong liệt biến hoá thuyết
Hàng phục ngoại đạo quy chánh pháp
Ngũ uẩn vĩnh ly xuất võng la.
Tạm dịch :
Chúng quang chiếu quanh đại oai đức
Sấm sét gió mạnh biến hóa thuyết
Hàng phục ngoại đạo quy chánh pháp
Vĩnh lìa năm trược thoát lưới La.
Giảng giải : Câu này dịch có ba nghĩa là “chúng quang”, “nhựt quang”, và “dũng quân”. Ðây đều là oai lực của pháp hàng phục. Cho nên kệ nói rằng : ‘’ Chúng quang chiếu quanh đại oai đức.’’ Ðây là quang minh của mặt trời, mặt trăng, sao, quang minh của Phật, quang minh của thần, và tất cả quang minh, chiếu quanh người có đại oai đức, có đại pháp lực. Ai có đức hạnh thì người đó được chúng quang gia bị hộ trì. Thiên Long bát bộ, Hộ Pháp thiện thần thường hiện ra cảnh giới không thể nghĩ bàn. Có khi thuận độ, có khi nghịch độ, triết, nhiếp hai môn xử dụng với nhau.
‘’ Sấm sét gió mạnh biến hóa thuyết.’’ Sấm sét không kịp bịt tai, gió bão thổi một giờ năm trăm dặm, một ngàn dặm, vô cùng lợi hại. Ðó đều là một thứ biến hóa thuyết, dùng pháp không thể nghĩ bàn để thuyết pháp.
‘’ Hàng phục ngoại đạo quy chánh pháp.’’ Không những người phải quy chánh pháp mà yêu ma quỷ quái đều phải quy chánh pháp.
‘’ Vĩnh lìa năm trược thoát lưới La.’’ Ngũ trược là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược. Trong Kinh Di Ðà nói rất rõ ràng.
‘’ Thế giới Ta Bà là lưới La.’’ Lục đạo luân hồi cũng là lưới La. Chợt trên trời, chợt dưới đất, chợt làm ngạ quỷ, chợt làm A tu la. Bạn muốn tìm chút tự do cũng chẳng có, cho nên phải vượt khỏi lưới La sáu đường luân hồi này.
171. Câu lị gia.
Kệ :
Tối thượng thắng sinh pháp lực toàn
Nhất thiết chủng loại tận bao hàm
Trang châu cổ bồn thành đại đạo
Khán phá phóng hạ đăng từ thuyền.
Tạm dịch :
Tối thượng thắng sinh đại pháp lực
Tất cả giống loài tận bao dung
Trang Chu gõ bồn thành đại đạo
Nhìn thủng buông đặng lên thuyền từ.
Giảng giải : ‘’ Tối thượng thắng sinh đại pháp lực.’’ Câu Lị Gia dịch là “tối thượng”, lại dịch là “thắng sinh”, là pháp lực rất diệu, không thể nghĩ bàn.
‘’ Hết thảy giống loài tận bao dung.’’ Bao dung tất cả giống loài. Ai ai tu pháp này thì ai ai cũng đều lìa khổ được vui.
‘’ Trang Chu gõ bồn thành đại đạo.’’ Có một câu chuyện nay kể cho các bạn nghe : Tại Trung Quốc vào thời chiến quốc nước Sở có một vị Trang Chu (Trang Tử), giỏi về văn chương ông ta nói :
‘’ Ðời tôi thì có giới hạn, nhưng sự hiểu biết vô cùng vô tận, dùng hữu hạn để biết vô hạn, đến chết cũng không hết được.’’ Sinh mạng của tôi có thời hạn mà trí huệ tri thức chẳng có bờ mé. Dùng sinh mạng hữu hạn của tôi truy cầu tri thức vô cùng vô tận, đến chết cũng truy cầu chẳng xong. Ðương thời học vấn của ông ta rất cao siêu, do đó rất nhiều học sinh, học đạo với ông ta, ông ta là một vị học giả, không những học vấn rất giỏi mà đạo đức cũng chẳng kém. Rất nhiều học trò, học với ông ta cách thức làm người. Một ngày nọ ông ta từ bên ngoài đi về nói với vợ của ông : ‘’ Hôm nay tôi thấy được một việc rất là kỳ quái.’’ Vợ ông ta hỏi việc gì. Trang Tử nói : ‘’ Tôi trên đường về thấy một phụ nữ, dùng hai tay cầm cây quạt lớn quạt mồ. Ðất mồ là đất mới đào lên còn ướt. Tôi cảm thấy rất quái lạ, người đã chết rồi, chôn dưới mồ còn sợ nóng chăng ? Tại sao còn phải quạt.’’ Bèn hỏi bà ta : ‘’ Làm như vậy là nghĩa gì ? ‘’ Bà ta nói : ‘’ Ông không biết, hỏi chuyện này để làm gì ? Trong mồ này là chồng tôi, tôi và y ân ân ái ái, tôi rất thương chồng tôi, nhưng y hốt nhiên bệnh mà qua đời, song, tôi thương y nhưng y đã chết không thể thương y được nữa, tôi phải cải giá. Tuy là cải giá nhưng không nhẫn tâm khi đất chưa khô mà đi cải giá. Nếu đợi đến đất mồ khô thì phải đợi đến mấy ngày, cho nên tôi dùng quạt, quạt đất cho mau khô để tôi sớm cải giá, như vậy thì tình cũng hết mà nghĩa cũng dứt, tâm của tôi hết thương y, cho nên phải quạt mồ.’’
Vợ ông Trang Chu nói : ‘’ Người đàn bà đó rất là đê tiện, chỉ mấy ngày mà đợi không được phải quạt mồ, nếu là tôi, tôi sẽ thủ tiết suốt đời, vĩnh viễn không cải giá.’’ Trang Chu nói : ‘’ Thật chăng ?‘’ Vợ của y nói : ‘’Tôi gạt ông làm gì, đó còn có giả chăng ? ‘’ Rất kỳ quái, Trang Tử nói xong thì bệnh té ngã, chẳng bao lâu thì chết. Vợ của y thấy chồng chết rồi bèn đi mua một cái quan tài bỏ y vào. Ðương lúc liệm thi thể của y vào trong quan tài, thì người cháu của vua Sở đến, đến bằng chiếc xe rất quý giá, trên xe nạm đá quý, ngọc ngà, châu báu, rất là sang trọng quý giá, thoáng nhìn thì biết là một vương tử giàu có. Anh ta đến đây tìm Trang Chu. Vợ Trang Chu nói : ‘’Cậu tìm y để làm gì ? ‘’ Anh ta nói : ‘’ Tôi nghe nói Trang Chu là học giả nổi tiếng, đến đây muốn học với y.’’ Vợ Trang Tử nói : ‘’Thật quá muộn, phải chi đến sớm mấy ngày thì tốt, bây giờ y đã chết rồi.’’ Anh ta nói : ‘’ Y đã chết nhất định y để lại rất nhiều sách, tôi có thể ở đây đọc được chăng ? ‘’
Vợ của Trang Chu nhìn xem cháu của Sở vương, vừa khôi ngô vừa tuấn tú, thật là một chàng trai đẹp, trong tâm bỗng giao động bèn nói : ‘’ Tốt ! Tôi hoan nghênh cậu ở đây đọc sách.’’ Do đó cậu ta lưu lại. Vợ Trang Chu chịu không được bèn sinh lòng thương cháu Sở vương nói : ‘’ Thầy của anh đã chết rồi, tôi còn rất trẻ, anh cũng rất trẻ, hay là chúng ta kết hôn với nhau.’’ Cháu Sở vương nói : ‘’ Cô muốn kết hôn với tôi có thể được, nhưng tôi không biết cô là thật hay là giả, có gạt tôi chăng ? Nếu lời của cô là thật tâm, thầy của tôi Trang Chu ở trong quan tài thì cô hãy mở nắp quan tài ra cho tôi xem mặt của thầy, sau đó tôi có thể kết hôn với cô.’’ Vợ Trang Chu nói : ‘’ Ðâu có vấn đề gì ! ‘’ Do đó cầm búa mở nắp quan tài ra. Trang Chu bỗng ở trong quan tài nói : ‘’ Bà phải thủ tiết một đời, sao bây giờ mở quan tài của tôi ra ? ‘’ Nói xong Trang Chu đi ra khỏi quan tài, vợ Trang Chu quay lại thì cũng chẳng thấy cháu Sở vương đâu cả. Cho nên Trang Chu bèn nói mấy lời : ‘’ Sự độc hại của loài rắn độc và loài ong vàng, cả hai không bằng sự độc hại của tâm đàn bà.’’
Nói xong mấy câu này, sau đó y gõ một cái bồn, vừa gõ bồn vừa hát : ‘’ Nhìn thấu buông xả, đi mau lên ! ‘’ Cũng không biết y đi về đâu. Ðây gọi là : ‘’Trang Chu gõ bồn thành đại đạo, nhìn thấu buông xả lên từ thuyền.’’ Hết thảy đều nhìn thấu buông xả. Tôi nói câu chuyện này, nữ giới đều không phục : ‘’Ðều nói người nữ chúng ta, sao không nói bên nam giới các vị ! Sư phụ ! Nói thẳng ra là không thể làm sư phụ.’’ Vậy tôi sửa nó lại : ‘’ Sự độc hại của loài rắn độc và sự độc hại của loài ong vàng, cả hai đều độc, nhưng độc ác nhất là tâm của con người, kể cả người nam lẫn người nữ.’’
Người tu đạo thời xưa đều có thần thông, thiên biến vạn hóa, có thể dời núi lấp biển, tung đậu thành binh. Lấy một hạt đậu tung lên không trung, thì biến thành quân đội thiên binh vạn mã. Gọi gió kêu mưa, gọi gió đến thì gió đến, kêu mưa thì mưa xuống. Vợ Trang Chu không biết Trang Chu là một cao nhân đắc đạo. Không biết tức là trước mắt không nhận ra, bỏ qua cơ hội. Số là ý của Trang Chu muốn độ vợ của y tu hành, nhưng vợ của y không tin lời của ông ta. Nói gì cũng đều không tin, cho nên chỉ có thể gõ bồn xướng bài Tá Giang Nguyệt :
“Phú quý năm canh xuân mộng
Công danh một đám mây trôi
Cốt nhục trước mắt đã chẳng thật
Ân ái trở thành cừu hận.
Chớ lấy gông vàng cùm cổ
Ðừng dùng vòng ngọc trói thân
Thanh tâm quả dục thoát hồng trần
Khoái lạc tiêu dao tự tại”.
Ðó mới là chân chánh giải thoát, chân chánh khoái lạc, chân chánh bổn địa phong quang, là bộ mặt thật của mỗi người.
172. Dạ la thố.
Kệ :
Vô lượng quang tịnh chư Như Lai
Thiên Vương bộ chúng hộ liên đài
Ta thán vô kiến đảnh tướng diệu
Bồ Tát Đại Sĩ tiếu nhan khai.
Tạm dịch :
Vô lượng tịnh quang các Như Lai
Thiên Vương bộ chúng hộ đài sen
Khen ngợi vô kiến đảnh tướng diệu
Bồ Tát Ðại Sĩ cười hoan hỷ.
Giảng giải : Dạ La Thố dịch là “vô lượng tịnh quang”. ‘’ Vô lượng tịnh quang các Như Lai.’’ Vô lượng tịnh quang này là tất cả các đức Phật phóng ra.
‘’ Thiên Vương bộ chúng hộ đài sen.’’ Tứ đại Thiên Vương thống lãnh tất cả bộ chúng đến bảo hộ Phật, đến hộ trì chánh pháp.
‘’ Khen ngợi vô kiến đảnh tướng diệu.’’ Tất cả đều tán thán khen ngợi tướng vô kiến đảnh của Phật diệu không thể nói.
‘’ Bồ Tát Ðại Sĩ cười hoan hỷ.’’ Ðại Bồ Tát đều sinh đại hoan hỷ, cười thỏa thích.
173. Sắt ni sam.
Kệ :
Nhục kế đảnh tướng bách bảo quang
Thiên diệp liên hoa toạ Pháp Vương
Diễn thuyết vô tận chủng chủng nghĩa
Tỳ Lô Giá Na cam lộ tương.
Tạm dịch :
Ðảnh tướng nhục kế trăm quang báu
Hoa sen ngàn cánh Pháp Vương ngồi
Diễn nói vô tận đủ thứ nghĩa
Tỳ Lô Giá Na rưới cam lồ.
Giảng giải : ‘’ Ðảnh tướng nhục kế trăm quang báu.’’ Tức là trong kệ Chú Lăng Nghiêm nói : ‘’ Bấy giờ từ trong nhục kế của Ðức Thế Tôn phóng ra trăm luồng quang minh báu, trong quang minh vọt ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa Như Lai ngồi trong hoa sen báu, trên đỉnh phóng ra mười đạo trăm quang minh báu ’’.
‘’ Pháp Vương ngồi hoa sen ngàn cánh.’’ Trên đài hoa sen ngàn cánh có đức Phật ngồi trên đó.
‘’Diễn nói vô tận đủ thứ nghĩa.’’ Giảng giải đủ thứ đạo lý Phật pháp, không cùng tận.
‘’ Tỳ Lô Giá Na rưới cam lồ.’’ Phật rưới cam lồ khắp hết thảy chúng sinh, khiến họ đều thấm nhuần nước pháp cam lồ.
174. Tỳ triết lam bà ma ni giá.
Kệ :
La Sát thần quỷ thiện hựu ác
Chiết nhiếp nhị môn hoá nhẫn trược
Cang cường chúng sinh nan điều phục
Thị cố hốt ma diệc hốt Phật.
Tạm dịch :
Quỷ thần La Sát thiện và ác
Triết hóa hai môn độ nhẫn trược
Chúng sinh cang cường khó điều phục
Khi thì hiện ma khi hiện Phật.
Giảng giải : Câu này dịch là “Thần La Sát”, cũng là “quỷ La Sát”, hoặc là “dân chúng La Sát”. Quỷ mẹ con La Sát không việc ác nào mà chẳng làm, còn Thần La Sát thì không việc thiện nào mà chẳng làm. Không việc ác nào mà chẳng làm thì dùng pháp môn triết phục để giáo hóa chúng sinh. Không việc thiện nào mà chẳng làm thì dùng pháp môn nhiếp thọ để nhiếp thọ chúng sinh. Cho nên nói : ‘’ Quỷ thần La Sát thiện và ác.’’ Tuy nhiên có thiện có ác, đều là làm đại Phật sự. Sự tầm nhìn thông thường của con người, thì không việc ác nào mà chẳng làm, thực tế là triết phục chúng sinh, khiến cho chúng sinh cang cường phát bồ đề tâm. Quỷ La Sát làm việc thiện tức là nhiếp thọ chúng sinh, khiến cho họ cũng phát bồ đề tâm. Cho nên mới dùng triết, nhiếp hai môn để hóa độ đời ác năm trược. Chúng sinh thế giới này kham chịu đựng được sự thống khổ ác trược, cho nên gọi là thế giới kham nhẫn. ‘’ Chúng sinh cang cường khó điều phục.’’ Căn tính của chúng sinh rất đặc biệt. Bạn nói phương tây tốt thì họ chạy về phương đông. Bạn nói phương đông tốt thì họ chạy về phương tây. Tóm lại, họ cứ làm ngược lại với bạn. Bạn dạy họ làm lành, thì họ muốn làm ác. Bạn dạy họ hiếu thảo, thì họ muốn giết cha giết mẹ, giết A La Hán, phá hòa hợp Tăng, làm Phật chảy máu. Chuyên môn làm việc trái đạo. Nếu không có tâm nhẫn nại, muốn giáo hóa chúng sinh, đừng nói đến giáo hóa không thành mà mình tức muốn chết được. Cho nên nói : ‘’ Khi thì hiện ma khi hiện Phật.’’ Vì vậy có lúc ma hiện tiền, khiến cho bạn phát bồ đề tâm, có lúc Phật hiện tiền, làm cho bạn phát bồ đề tâm. Phật và ma vốn không thể hợp tác, nhưng vì giáo hóa chúng sinh, có lúc đổi ngôi vị mà dạy, hổ tương thay đổi địa vị.
175. Bạt xà la. Ca na. Ca ba la bà.
Kệ :
Kim Cang Tạng Vương oai phục hành
Vô ngôn thuyết tướng giác hữu tình
Công đức diệu trí pháp luân chuyển
Đồng nhập Niết Bàn tức phân tranh.
Tạm dịch :
Kim Cang Tạng Vương oai lực hành
Không lời nói tướng giác hữu tình
Công đức diệu trí chuyển pháp luân
Ðồng vào Niết Bàn dứt phân tranh.
Giảng giải : Câu này dịch là “Kim Cang Tạng”, lại gọi là “oai lực hành”. ‘’ Kim Cang Tạng Vương oai lực hành.’’ Ngài dùng oai đức để hàng phục tất cả ngoại đạo.
‘’ Không lời nói tướng giác hữu tình.’’ Lìa tướng văn tự, lìa tướng nói năng. Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng. Cho nên :‘’ Không lời nói tướng giác hữu tình – Công đức diệu trí chuyển pháp luân.’’ Dùng không lới nói tướng. “Vô Ngôn Ðường” của Vạn Phật Thành diễn nói diệu pháp không lời. Giác ngộ tất cả hữu tình. Dùng gì để giác ngộ ? Dùng công đức và diệu trí huệ. Nếu không có công đức và trí huệ thì không thể chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Vì không có công đức thì người khác không tin pháp của bạn nói. Nếu không có diệu trí thì thuyết pháp không thể khế lý khế cơ.
‘’ Ðồng vào Niết Bàn dứt phân tranh.’’ Niết là không sinh, Bàn là không diệt. Không sinh không diệt thì đắc được thường lạc ngã tịnh bốn đức, chứng được Vô Dư Niết Bàn, đắc được vĩnh viễn không thối chuyển vô thượng chánh đẳng chánh giác. Phân tranh gì, phiền não gì đều chẳng còn nữa. Tôi mỗi ngày tả những bài kệ này chỉ là bỏ đá dẫn dụ ngọc, hy vọng mỗi người các bạn đều dẫn phát ra trí huệ chân chánh, tương lai hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sinh.
176. lô xà na.
Kệ :
Quang minh biến chiếu mãn tam thiên
Cử tâm động niệm hào phát gian
Tức diệt tích tập phá hắc ám
Hữu tình viễn ly điên đảo điên.
Tạm dịch :
Quang minh chiếu khắp đầy các cõi
Cử tâm động niệm bằng sợi tóc
Tức diệt nghiệp xưa phá đen tối
Hữu tình xa lìa điên đảo điên.
Giảng giải : Câu này tức là “Lô Xá Na Phật”. Lại gọi “tịnh mãn” tức là thanh tịnh lại viên mãn. Cho nên nói : ‘’ Quang minh chiếu khắp đày các cõi.’’ Chiếu khắp tức là không có chỗ nào mà chẳng chiếu đến, kể cả chiếu triệt tâm niệm của chúng sinh. Cho nên nói : ‘’ Cử tâm động niệm bằng sợi tóc.’’ Chúng sinh khởi tâm động niệm chỗ vi tế nhất, chỗ chẳng ai biết, thì quang minh này đều có thể chiếu đến. Cho đến chỗ đó vi tế nhỏ bằng sợi tóc cũng đều không thể bỏ xót được.
‘’ Tức diệt nghiệp xưa phá đen tối.’’ Tức diệt tập khí của chúng sinh tích lũy đời đời kiếp kiếp. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến bây giờ, tích lũy những tập khí này không biết là bao nhiêu, có thể cao như núi Tu Di, sâu như biển Hương Thủy. Thứ tập khí này, nếu tội nghiệp có hình tướng thì tập khí của một người có thể đầy khắp hư không, không có chỗ chứa đựng. Vì nó chẳng có hình tướng, cho nên không cần tìm kho chứa đựng, nhưng bạn không thể nói nó chẳng có. Thế mà một tia quang minh chiếu khắp, thì phá trừ những tích tập đen tối này.
‘’ Hữu tình xa lìa điên đảo điên.’’ Hữu tình là tên khác của chúng sinh. Quang minh này có tác dụng gì ? Tức là khiến cho chúng ta lìa khỏi điên đảo tập khí, đừng có điên đảo tập khí tồn tại nhiều như thế.
177. Bạt xà la đốn trĩ giá.
Kệ :
Kình sơn trì chử chúng Kim Cang
Thiên ma ngoại đạo các viễn dương
Hàng phục ma quỷ quy Tam Bảo
Oai đức cảm hoá nhật dạ mang.
Tạm dịch :
Chúng Kim Cang bưng núi cầm chùy
Thiên ma ngoại đạo đều trốn thoát
Hàng phục quỷ thần quy Tam Bảo
Oai đức cảm hóa bận ngày đêm.
Giảng giải : Bạt Xà La là “Kim Cang”. Ðốn Trĩ Giá là “Kim Cang bưng núi”. Trong đó cũng kể cả “Kim Cang cầm chùy”. Kim Cang bưng núi hiện đại oai tướng, cho nên :‘’ Thiên ma ngoại đạo đều trốn thoát.’’ Thiên ma ngoại đạo khi thấy Kim Cang bưng núi cầm chùy thì đều sợ hãi bỏ chạy trốn.
‘’ Hàng phục quỷ thần quy Tam Bảo.’’ Các Ngài có uy đáng sợ, có đức đáng kính. Tất cả quỷ thần đều ngưỡng vọng quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng.
‘’ Oai đức cảm hóa bận ngày đêm.’’ Những vị Kim Cang hiện tướng đại oai đức để cảm hóa chúng sinh, là dùng pháp môn triết phục. Các Ngài rất bận rộn, không kể ngày đêm, tùy thời tùy lúc, thấy chúng sinh nào cơ duyên thành thục, thì liền đi giáo hóa chúng sinh đó, khiến cho họ cải tà quy chánh, bỏ mê về giác, sớm thành quả giác bồ đề.
178. Thuế đa giá.
Kệ :
Bạch sắc bạch quang bạch liên hoa
Chiếu thiên chiếu địa chiếu ảnh tà
Sơn diêu hải khiếu thanh oai viễn
Tâm duyệt thành phục quy chánh pháp.
Tạm dịch :
Màu trắng quang trắng hoa sen trắng
Chiếu trời chiếu đất chiếu đen tối
Núi động biển gào tiếng vang xa
Tâm duyệt thành thục quy chánh pháp.
Giảng giải : Chú Lăng Nghiêm là một linh văn trong Phật giáo. Sao gọi là linh văn ? Tức là câu Chú linh diệu không thể nghĩ bàn. Chú Lăng Nghiêm là Chú dài nhất trong Phật giáo. Diệu dụng của nó chỉ có Phật mới rõ được, cho đến Ðẳng Giác Bồ Tát cũng không thể liễu giải hết hoàn toàn. Vậy tôi là một Tỳ Kheo bình thường, làm sao giải thích Chú Lăng Nghiêm ? Vốn không thể giải thích, nhưng tôi có một chứng bệnh, không làm được vẫn cứ muốn làm, giải thích không được vẫn muốn giải thích, bất chấp mọi khó khăn, những gì tôi biết như giọt nước trong biển. Tôi nói cho mọi người nghe, hy vọng các bạn thâm nhập hơn, nhiều hơn sự hiểu biết của tôi, đây là tông chỉ giải thích Chú Lăng Nghiêm của tôi. Tuy nhiên, không thể giải thích, nhưng vẫn muốn giải thích, hy vọng các vị có sự hứng thú đối với Chú Lăng Nghiêm, có tín tâm, hiểu rõ Chú Lăng Nghiêm, ít nhất cũng hiểu nhiều hơn so với tôi.
Câu Thuế Ða Giá này dịch là “trắng”. Tức là không đen tối, quang minh chiếu khắp, bạch tịnh pháp trắng khiết không nhiễm. Cho nên nói : ‘’ Màu trắng quang trắng hoa sen trắng.’’ Trong Kinh Di Ðà chẳng nói màu xanh quang minh xanh, màu trắng quang minh trắng, màu vàng quang minh vàng, màu đỏ quang minh đỏ chăng ? Hoa sen màu trắng tức có quang minh màu trắng. Quang minh này chiếu trời chiếu đất, trên đến trời hữu đỉnh, dưới đến địa ngục vô gián, đều chiếu khắp hết, tất cả bóng tối đều diệt mất.
‘’ Núi động biển gào tiếng vang xa.’’ Thần Kim Cang hộ trì Thần Chú ở phương tây, chỉ một cái cất tay giở chân, thì đều khiến cho núi lay đất động, tiếng tăm oai phong của các Ngài, khiến cho thiên ma ngoại đạo đều kinh hãi sợ sệt.
‘’ Tâm duyệt thành thục quy chánh pháp.’’ Cũng khiến cho chúng phát tâm bồ đề, trong tâm sinh hoan hỷ, xả bỏ tà tri tà kiến, quy y chánh pháp. Bạn thấy thiện thần hộ pháp trong Phật giáo, các Ngài giống như là hung ác không hiền, cho nên nói nộ mục (trợn mắt) Kim Cang, nhưng đều làm cho yêu ma quỷ quái kính sợ, khiến cho chúng hàng phục, khiến cho chúng cải tà quy chánh, nhưng thần hộ pháp không nhất định đánh người, giết người, chỉ là hiện ra tướng mạo hung ác khiến cho người phát bồ đề tâm, cải ác hướng thiện. Ý của bạn ác chăng ? Tôi so với bạn còn ác hơn ! Bạn lợi hại chăng ? Tôi so với bạn còn lợi hại hơn ! Ðây đều là phương tiện pháp môn để hàng phục chúng sinh.
179. Ca ma la.
Kệ :
Liên hoa toà thượng đại Pháp Vương
Đông tây nam bắc thủ trung ương
Nhất thiết hộ giới thần nỗ lực
Ngũ phương ngũ bộ ngũ Phật quang.
Tạm dịch :
Ðại Pháp Vương ngồi trên tòa sen
Ðông tây nam bắc giữa trung ương
Tất cả hộ giới thần nỗ lực
Năm phương năm bộ năm Phật quang.
Giảng giải : Ca Ma La dịch là “tòa hoa sen”, trên tòa hoa sen tất phải có Phật, nếu chỉ có tòa hoa sen đâu có ý nghĩa gì ! Trên tòa hoa sen lớn báu có đấng đại Pháp Vương ngồi thẳng ngay ngắn. Ðại Pháp Vương tức là Phật.
‘’ Ðại Pháp Vương ngồi trên tòa sen.’’ Phương đông có tòa sen, phương tây, phương bắc, phương nam, chính giữa cũng đều có tòa sen, mười phương chư Phật ngồi ở trên. Giới bên trong của mỗi vị Phật đều có Kim Cang thiện thần hộ giới. Cho nên nói :‘’ Tất cả hộ giới thần nỗ lực.’’ Tất cả Kim Cang thiện thần hộ giới rất chú ý giữ gìn bảo vệ đạo tràng.
‘’ Năm phương năm bộ năm Phật quang.’’ Ðông tây nam bắc và chính giữa. Phương đông là Kim Cang bộ, quang minh phóng ra là màu xanh quang xanh. Phương nam là Bảo Sinh Bộ, quang minh phóng ra là màu đỏ quang đỏ. Chính giữa là Phật bộ, quang minh phóng ra là màu vàng quang vàng. Phương Tây là Liên Hoa bộ, quang minh phóng ra là màu trắng quang trắng. Phương bắc là Yết Ma bộ, quang minh phóng ra là màu đen quang minh đen. Năm bộ năm phương năm vị Phật này cai quản năm đại ma quân trên thế giới. Cho nên pháp môn Chú Lăng Nghiêm, nói đi nói lại là án chiếu theo năm hướng năm bộ năm vị Phật mà nói. Hôm nay là nói về phương tây Liên Hoa bộ. Mỗi phương có thần hộ giới của mỗi phương. Giới tức là giới hạn, trong giới hạn này thì vị thần đó phải chịu trách nhiệm. Giống như các quốc gia trên thế giới đều có phân chia ranh giới, trong Phật giáo cũng thế. Mỗi địa phương có một vị Phật đến quản lý. Phương đông Kim Cang Bộ là Phật A Súc, đây là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Phương nam là Bảo Sinh bộ Phật Bảo Sinh. Chính giữa là Phật bộ Tỳ Lô Giá Na Phật. Phương tây là Liên Hoa bộ Phật A Di Ðà. Phương bắc là Yết Ma bộ Phật Thành Tựu. Bộ đó thì vị Phật đó đến quản lý, chúng ta phải biết.
Tu tập pháp môn Lăng Nghiêm phải đem chân tâm thành tâm ra tu tập. Gì gọi là chân tâm ? Tức là tu trì Chú Lăng Nghiêm, cho đến thời gian cũng quên, không gian cũng chẳng có, là ngày là đêm đều chẳng biết, ăn cơm không ăn cơm cũng chẳng biết, ngủ không ngủ cũng chẳng biết, gì cũng đều quên hết, gì cũng chẳng có. Một niệm dài giống như vô lượng kiếp, vô lượng kiếp làm một niệm. Phải có tinh thần như thế. Ăn cơm ngủ nghỉ gì cũng đều quên hết. Chỉ nhất tâm tu hành Chú Lăng Nghiêm, nhất định thành tựu Lăng Nghiêm tam muội. Không được như thế thì đừng nói đến chân chánh tu pháp môn Lăng Nghiêm. Không chỉ tu pháp Lăng Nghiêm như thế mà tu pháp gì cũng đều như thế. Ði chẳng biết đi, ngồi chẳng biết ngồi, khát chẳng biết khát, đói chẳng biết đói. Vậy chẳng phải là người biến thành ngu si nhất chăng ? Tức là phải như thế ! Ðó mới gọi là :
‘’Dưỡng thành khờ khạo mới là khéo,
Học đến như ngu mới thấy kỳ.’’
Nếu bạn học đến ngu si được như thế, thì bất cứ bạn tu pháp môn nào, cũng đều đắc được tam muội, đều sẽ thành tựu. Tức vì bạn không thể ngu si, không thể chân chánh thâm nhập cảnh giới tam muội, cho nên tu đi tu lại cũng chẳng tương ưng. Bạn tu được tự mình sống chết đều chẳng biết. Có người nhận rằng pháp môn này đáng sợ quá. Nếu bạn sợ thì hãy mau thối lùi, đừng học. Trên thế gian chẳng có việc gì không mệt nhọc mà hoạch được. Cho nên :
‘’ Không chịu một phen lạnh thấu xương,
Sao được hoa mai thơm ngát mũi.’’
Bạn ngửi được hương thơm của hoa mai như thế, là do sự hun đúc lạnh mà ra, nó chịu lạnh sau đó mới tỏa ra hương thơm. Người tu đạo cũng phải như thế.
Bên ngoài nói người Vạn Phật Thành khổ tu, tôi tuyệt đối phủ nhận tin đồn này. Chúng ta chẳng phải là khổ tu, là lạc tu. Ai tu hành chịu khổ đều là cam tâm tình nguyện, chẳng phải miễn cưỡng. Chúng ta đều muốn buông bỏ cái giả, lượm nhặt cái thật. Có câu rằng :
‘’ Bỏ không được cái giả,
Không thành được cái thật.
Bỏ không được cái chết,
Ðổi không được cái sống.’’
Tu hành chẳng phải như pháp thế gian, dùng thủ đoạn thì không đắc được tam muội. Tu hành thì thủ đoạn gì cũng không thể dùng. Tức là phải thành thật hết lòng dụng công tu hành, đó mới kể. Nếu bạn có chút giả dối, cũng không thể mong được thành tựu. Luôn luôn phải thành thật dụng công. Nhẫn những gì người không thể nhẫn, nhường những gì người không thể nhường. Phải ngày đêm sáu thời thường tinh tấn như thế mới đắc được cảm ứng. Mười phương chư Phật đánh điện tín cho bạn nói : ‘’ Thiện tai ! Thiện tai ! Bạn là một Phật tử trong Phật giáo.’’ Ðiện tín mà mười phương chư Phật đánh cho bạn không giống như điện tín nhân gian phải dùng chữ, mà là dùng tâm ấn tâm, quang quang tương chiếu, tâm tâm tương ấn, khiến cho bạn khai đại trí huệ, đắc đại biện tài, đắc được đại an lạc. Ðiều mà đại trượng phu làm được thì làm xong, việc mà đại trượng phu nên làm đều hoàn thành.
180. Sát xa thi.
Kệ :
Oai đức thị hiện chư Đại Sĩ
Tràng phan bảo cái các kình trì
Hoá đạo chúng sinh tu giác đạo
Đồng thừa viên mãn pháp thuyền trì.
Tạm dịch :
Các Ðại Sĩ oai đức thị hiện
Ðều cầm giữ tràng phan lọng báu
Giáo hóa chúng sinh tu giác đạo
Ðồng ngồi pháp thuyền lên bờ giác.
Giảng giải : Sát Xa Thi dịch là “phan”, lại dịch là “can”. Can là một thứ dùng để chống đỡ lọng báu, những thứ này đều là Hộ Pháp thiện thần Kim Cang lực sĩ, cũng là đại quyền thị hiện. Ðại quyền nghĩa là quá khứ đã thành Phật, hoặc là chứng đắc quả vị Ðẳng Giác Bồ Tát. Bây giờ ẩn lớn hiện nhỏ để làm Hộ Pháp Kim Cang. Các Ngài đều có đại oai đức. Cho nên nói : ‘’ Các đại lực sĩ oai đức thị hiện.’’ Kim Cang lực sĩ đều là đại Bồ Tát.
‘’ Ðều cầm giữ tràng phan lọng báu.’’ Các Ngài mỗi người đều cầm tràng, phan, lọng báu. Mỗi vị Kim Cang lực sĩ đều cầm những thứ cúng dường cụ này để trang nghiêm đạo tràng.
‘’ Giáo hóa chúng sinh tu giác đạo.’’ Các Ngài giáo hóa tất cả chúng sinh phát bồ đề tâm, tu vô thượng bồ đề đạo.
‘’ Ðồng ngồi pháp thuyền lên bờ giác.’’ Các Ngài đều ngồi đại pháp thuyền để cứu độ chúng sinh trong biển khổ, khiến họ đạt đến bờ bên kia giác ngộ.
181. Ba la bà.
Kệ :
Hằng sa lực sĩ hiện đại thân
Quang minh viễn chiếu diệu vô luân
Thủ hộ giám sát nam phương giới
Ác giả tất đoạ thiện giả thăng.
Tạm dịch :
Hằng sa lực sĩ hiện thân lớn
Quang minh chiếu xa diệu vô ngần
Giám sát thủ hộ cõi phương nam
Kẻ ác bị đọa thiện thăng lên.
Giảng giải : ‘’ Hằng sa lực sĩ hiện thân lớn.’’ Có các Kim Cang lực sĩ nhiều như số các sông Hằng hiện thân vàng.
‘’Quang minh chiếu xa diệu vô ngần.’’ Trên thân của các Ngài đều phóng quang chiếu xa, rất vi diệu. Chẳng có thiên ma ngoại đạo nào có thể so sánh phỏng theo các Ngài.
‘’ Giám sát thủ hộ cõi phương nam.’’ Câu này là chỉ giám sát hộ pháp ở phương nam.
‘’ Kẻ ác bị đọa thiện thăng lên.’’ Người làm ác nhất định bị đọa lạc, người làm lành thì nhất định được thăng đi lên, hoặc thăng lên trời hoặc làm sự việc họ cần làm.
182. Ê đế di dế.
Kệ :
Giải thoát tinh cần hộ thập phương
Tam tai bát nạn miễn hại thương
Thế giới hải bình dân an lạc
Đồng tu cộng chứng bồ đề đường.
Tạm dịch :
Giải thoát tinh tấn hộ mười phương
Ba tai tám nạn không làm hại
Thế giới thanh bình dân an lạc
Ðồng tu cùng chứng quả bồ đề.
Giảng giải : Ê Ðế dịch là “giải thoát”, Di Ðế dịch là “tinh tấn”. Ðây là Hộ Pháp Bồ Tát, đến hộ trì đạo tràng. Cho nên nói :‘’ Giải thoát tinh tấn hộ mười phương.’’ Hộ trì đạo tràng trong mười phương.
‘’ Ba tai tám nạn không làm hại.’’ Ba tai là nước, lửa, gió. Tám nạn là : Nạn sinh ra trước Phật hoặc là sau Phật, nạn sinh vào Bắc Câu Lưu Châu (Bắc Câu Lưu Châu không nghe đến Phật pháp), nạn thế trí biện thông, nạn điếc đui câm ngọng, nạn địa ngục, nạn ngạ quỷ, nạn súc sinh, nạn sinh vào trời trường thọ.
‘’ Thế giới thanh bình dân an lạc.’’ Nếu thế giới thanh bình thì nhân dân đắc được an lạc.
‘’ Ðồng tu cùng chứng quả bồ đề.’’ Mọi người đồng tu cùng chứng đạo quả bồ đề.
183. Mẫu đà la.
Kệ :
Trí ấn Tam muội định trung vương
Diệu phổ thành tựu đại đạo tràng
Chúng sinh tâm trung các câu túc
Kiền thành cầu chi tự phóng quang.
Tạm dịch :
Trí ấn Tam muội vua trong định
Diệu phổ thành tựu đại đạo tràng
Trong tâm chúng sinh đều có đủ
Kiền thành cầu chi tự phóng quang.
Giảng giải : Mẫu Ðà La dịch là “ấn”, tức là trí ấn. ‘’ Trí ấn tam muội vua trong định.’’ Trí ấn tam muội có thể nói là vua trong định.
‘’ Diệu phổ thành tựu đại đạo tràng.’’ Lại dịch là “diệu phổ”, thành tựu kiến lập đại đạo tràng.
‘’ Trong tâm chúng sinh đều có đủ.’’ Mỗi chúng sinh đều đầy đủ trí ấn Tam muội.
‘’ Kiền thành cầu chi tự phóng quang.’’ Phàm là người tu hành, nếu có tâm thành thì nhất định sẽ có cảm ứng, nhất định phóng đại quang minh.
184. Yết noa.
Kệ :
Tác pháp biện sự trí huệ phong
Duy hộ bắc phương giới thần minh
Kim Cang Tỳ Lô tâm sở hiện
Y giáo tu hành bất giảm tăng.
Tạm dịch :
Tác pháp biện sự trí huệ phong
Thần minh duy hộ cõi phương bắc
Kim Cang Tỳ Lô tâm sở hiện
Y giáo tu hành không tăng giảm.
Giảng giải : Yết Noa dịch là “tác pháp biện sự”, lại gọi là “sám ma” nghĩa là ăn năn hối cải. Nghiệp mà chúng ta tạo ra, phải biết hối cải. Nếu không biết hối cải, thì tội lỗi ngày càng nhiều, ngày càng sâu dày. Cho nên cổ nhân có nói :
‘’ Lỗi mà biết sửa thì sẽ tiêu sạch
Nếu che dấu thì tăng tội khiên.’’
Có lỗi nếu ăn năn hối cải thì chẳng còn nữa. Nếu che dấu tội lỗi của mình cho rằng người không biết thì tội lỗi ngày càng gia tăng. Tại sao ? Vì tội nghiệp vốn sửa đổi được, sám hối trước đại chúng là hành vi của đại trượng phu. Cho nên nói :‘’ Lỗi của quân tử như nhật nguyệt thực, ai ai cũng thấy, nếu ăn năn hối cải thì ai ai cũng tán thán.’’ Cho nên lại nói :‘’ Có lỗi thì chớ nãn lòng sửa đổi.’’ Có lỗi đừng sợ sửa đổi. Nếu bạn sợ sửa đổi, sợ người biết, chứa chấp che đậy, thì tội lỗi ngày càng tăng thêm. Bổn lai chỉ một tội, lại thêm tồn tâm che đậy thì biến thành hai tội. Nếu bạn tiếp tục che đậy, thì biến thành vô lượng số. Cho nên bất cứ chúng ta phạm tội lớn gì nên lập tức sửa đổi, không thể kéo dài ! Như đức Khổng Tử, Ngài đạo đức học vấn như thế, Ngài cũng không sao tránh khỏi lỗi lầm, mặc dù lỗi lầm ít. Chúng ta là những chúng sinh ngu si, làm sao không thể không có lỗi ? Sám ma tức là hối quá, tức là sám hối. Cho nên thiện trí thức tác pháp biện sự, làm pháp yết ma, pháp sám hối, làm tốt việc hối quá. Người có đại trí huệ, mới biện lý được việc sám hối. Cho nên nói :‘’ Tác pháp biện sự trí huệ phong.’’ ‘’Thần minh duy hộ cõi phương bắc.’’ Ðây là thần chúng Yết Ma, phương bắc Yết Ma bộ chuyên môn quản vấn đề người sám hối. Kim Cang Bồ Tát duy hộ thần chúng phương bắc Yết Ma.
‘’Kim Cang Tỳ Lô tâm sở hiện.’’ Hộ pháp Kim Cang này tức là Kim Cang thượng sư, tức là tu pháp Niết Bàn, trong tâm Tỳ Lô hiện ra tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát. Những vị Bồ Tát này biến hiện ra.
‘’ Y giáo tu hành không tăng giảm.’’ Bạn phải y chiếu pháp môn này tu hành, thì bồ đề chỉ có tăng chứ không có giảm. Ðó là nhân duyên Yết Ma.
Nói đến sám hối tự tân, tạo tội đừng che dấu, đừng cho rằng người chẳng biết. Người đương nhiên không biết, nhưng Phật Bồ Tát và tất cả hộ pháp thiện thần đều biết. Bạn dối được người, nhưng dối không được Phật, dối không được Bồ Tát, dối không được hộ pháp thiện thần. Hộ pháp thiện thần biết bạn giả dối gạt người, Ngài tuyệt đối không bảo hộ bạn. Tại sao hộ pháp xa bạn ? Vì bạn tạo tội nghiệp quá lợi hại, hộ pháp thiện thần không dám gần gũi bạn, cho nên làm bất cứ việc gì, cũng không có cảm ứng, cũng không thành tựu. Chúng ta người tu hành :‘’ Cử chỉ hành vi đều quán xét chính mình, đi đứng nằm ngồi đừng rời nhà.’’ Trong chúng xuất gia, Tỳ Kheo không được mắng Tỳ Kheo, vậy có thể mắng Tỳ Kheo Ni chăng ? Cũng không thể được. Tỳ Kheo ác miệng mắng người tương lai sẽ đọa địa ngục. Tỳ Kheo không có tư cách lại mắng Tỳ Kheo, cũng không có tư cách mắng Tỳ Kheo Ni. Phàm là sân tâm mắng người đều tạo tội nghiệp. Không những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni không thể mắng người, mà người tại gia cũng không thể mắng người, tuỳ tiện mắng người là phạm giới ác thuộc về miệng, phạm giới ác thuộc về miệng thì ba nghiệp không thanh tịnh.
185. Sa tì la sám.
Kệ :
Cầu chứng sám hối thân khẩu ý
Tam nghiệp thanh tịnh vô hà tỳ
Trì giới tinh nghiêm như mãn nguyệt
Sát na cảm ứng siêu Thập địa.
Tạm dịch
Cầu chứng sám hối thân miệng ý
Ba nghiệp thanh tịnh không lầm lỗi
Trì giới tinh nghiêm như trăng tròn
Khoảnh khắc cảm ứng lên Thập địa.
Giảng giải : Sa Tì La Sám tức là “tổng kết lại Chú đã nói ở trên”, đến đây tổng kết lại, tổng kết cầu chứng minh. Cho nên nói :‘’ Cầu chứng sám hối thân miệng ý.’’ Bất cứ tu diệu pháp gì, nếu thân miệng ý ba nghiệp, không thanh tịnh thì sẽ không thành tựu. Nghĩa là Chú Ðại Bi dù có linh cảm nhất, bạn tu cũng không linh. Tại sao ? Vì thân miệng ý không thanh tịnh. Cho nên phải sám hối, khiến cho thân không có sát sinh, trộm cắp, tà dâm, cho đến trong ý niệm của bạn cũng không có niệm sát sinh, niệm trộm cắp, niệm dâm dục. Miệng cũng không nói lời sát sinh, lời dạy người ăn cắp, lời dạy người gian dâm. Phải đem thân miệng ý sám hối hối cho thanh tịnh.
‘’ Ba nghiệp thanh tịnh không lỗi lầm.’’ Thanh tịnh là gì ? Tức là một niệm cũng chẳng có. Thân không phạm sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Miệng không có ác miệng, nói dối, hai lưỡi, thêu dệt. Ác miệng tức là mắng người, nói dối tức là nói lời giả, hai lưỡi tức là làm cho ly gián, thêu dệt là những lời không thanh tịnh, nhiễm ô, không hợp lý, lời vô nghĩa. Trong tâm tham sân si cũng chẳng có. Ðó gọi là ba nghiệp thanh tịnh không lỗi lầm. Giống như ngọc không có vết, một chút mao bệnh cũng chẳng có.
’’Trì giới tinh nghiêm như trăng tròn.’’ Tinh nghiêm là gì ? Tinh là vi tế nhất, lỗi lầm nhỏ nhất cũng không phạm. Nghiêm là đặc biệt chú ý, tơ hào cũng không phạm. Bạn không tu hành mà kêu người khác tu, thì người cũng chẳng tu. Mình không dụng công, không giữ giới, sẽ ảnh hưởng đến người khác cũng phạm giới. Ðó là chỗ trì giới không tinh nghiêm. Trì giới phải tinh nghiêm như vầng trăng tròn, tròn đầy không khuyết. Bây giờ mình không tu hành, đọa lạc, cũng lôi kéo người khác đọa lạc. Như vậy thì không những không có trăng mà hình ảnh mặt trăng cũng chẳng có !
Nếu trì giới thanh tịnh như trăng tròn thì lúc này :‘’ Khoảnh khắc cảm ứng lên Thập địa.’’ Rất nhanh, thời gian rất ngắn bèn có đại cảm ứng, đốn siêu thập địa chẳng việc gì khó.
Chúng ta phải thể hội sâu xa, xuất gia đã lâu, ba năm, năm năm, mười năm, trong thời gian này phản tỉnh rằng tạo nghiệp nhiều ? Hay là tu hành nhiều ? Các vị phải biết ! Phàm là trong đạo tràng đều có ma. Ma này chẳng phải từ trên trời xuống, hoặc là từ dưới đất lên, mà là đến từ trong tâm của các vị. Trong tâm của một người không chánh đáng, không có trí huệ chân chánh, chuyên làm việc ngu si, gây phiền não cho người khác, nhiễu loạn người khác tu hành, đó đều gọi là ma. Ma này ở tại trong người mà không nhận thức, khắp các nơi đều có. Ví như trong đạo tràng, như đi nghe pháp, ngồi tại đó đều ngồi không yên, đứng không ổn, tay cũng phải động đậy, chân cũng phải động đậy, đầu cũng lúc lắc. Ngồi nghe pháp đều cảm thấy không thoải mái, hơn nữa trong tâm đều nổi giận. Ðó là nghiệp chướng, đức hạnh của mình không đủ, cho nên nghe pháp vô minh cũng đến, thần ngủ cũng đến. Tóm lại tâm cầu pháp một chút cũng chẳng có, miễn cưỡng đến nghe pháp, tức là tồn một thứ tư tưởng cống cao ngã mạn. Cho rằng tôi giảng hay hơn bạn, tại sao phải nghe bạn nói pháp. Có thứ tư tưởng này còn tu được pháp gì nữa ? Bị nghiệp chướng của mình che lấp hoàn toàn ! Thứ người này nghiệp chướng nặng nề cho nên đối với Kinh điển đại thừa không thể vào được, bất cứ nói thế nào họ cũng không hiểu.
186. Khuất phạm đô.
Kệ :
Chư Phật Thế Tôn đại từ bi
Phương tiện quyền xảo độ luân hồi
Xả tà quy chánh hằng tinh tấn
Thuỷ tri lai giả chi khả truy.
Tạm dịch :
Chư Phật Thế Tôn đại từ bi
Phương tiện quyền xảo độ luân hồi
Bỏ tà về chánh luôn tinh tấn
Ăn năn lỗi xưa làm người mới.
Giảng giải : Khuất Phạm Ðô dịch là “Phật”, “Như Lai” hoặc “Thế Tôn”. Cho nên nói : ‘’Chư Phật Thế Tôn đại từ bi.’’ Phật là từ bi nhất, không nhớ lỗi lầm của chúng sinh. Bạn có tội lỗi gì, Ngài đều tha thứ cho bạn, chỉ cần bạn sửa lỗi thì được.
‘’ Phương tiện quyền xảo độ luân hồi.’’ Phật dùng đủ thứ phương tiện, đủ thứ quyền xảo pháp môn độ chúng sinh. Bạn thích ăn ngọt thì cho bạn ăn một chút đường, bạn thích ăn cay thì cho bạn ăn một chút ớt. Chua ngọt đắng cay mặn, bạn thích gì thì cho bạn thứ đó, khiến cho trong tâm của bạn vui vẻ, sau đó mới nói Phật pháp cho bạn nghe, khiến cho bạn hiểu rõ thế gian là vô thường.
‘’ Bỏ tà quy chánh hằng tinh tấn.’’ Chúng sinh vốn chẳng muốn giữ quy cụ, tà tri tà kiến. Bây giờ minh bạch rồi thì bỏ tà về chánh. Luôn tinh tấn tức là thường tu hành, thường tinh tấn.
‘’ Ăn năn lỗi xưa làm người mới.’’ Mới biết dĩ vãng là đi sai, bây giờ phải luôn tinh tấn, tương lai còn có thể thành tựu, còn có thể tu thành Phật.
187. Ấn thố na ma ma toả.
Kệ :
Ấn khả chứng minh ngã sở vi
Quang âm không quá nan tái truy
Tùng thử cẩn thận tu Thánh đạo
Khác tuân giới luật thủ thanh quy.
Tạm dịch :
Ấn khả chứng minh điều tôi làm
Thời gian trôi qua khó tìm lại
Từ đây cẩn thận tu Thánh đạo
Kính trọng giới luật giữ thanh quy.
Giảng giải : Ấn Thố Na dịch là “ấn khả”, “minh chứng” hoặc là “chứng minh”. Ma Ma là “tôi” hoặc là “điều tôi làm”. Những gì tôi làm, chư Phật Bồ Tát đều chứng minh cho tôi. Tôi làm việc tốt thì chư Phật Bồ Tát ấn chứng cho tôi. Tôi làm việc không tốt thì chư Phật Bồ Tát an ủi. Chúng ta nhất cử nhất động đều phải giữ quy cụ đừng để thời gian không qua.
‘’ Thời gian trôi qua khó tìm lại.’’ Quá khứ thì không thể tìm lại. Cho nên :‘’ Từ đây cẩn thận tu Thánh đạo.’’ Bắt đầu từ hôm nay chúng ta phải cẩn thận chú ý tu đạo mà Thánh nhân đã tu. Tu đạo mà Thánh nhân tu phải như thế nào ?
‘’ Kính trọng giới luật giữ thanh quy.’’ Phải cung kính giữ gìn giới luật, giữ quy cụ thanh tịnh của Phật.
Hết tập 2