SỐ 287
KINH THẬP ĐỊA
Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Thi-la-đạt-ma
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 1: ĐỊA CỰC HỶ

Tôi nghe như vầy:

–Một thuở nọ, vào ngày cuối của tuần thứ hai, sau khi thành đạo, Đức Phật lên điện Ma-ni bảo tạng, thuộc cung Tự tại Thiên vương của cõi trời Tha hóa tự tại cùng vô số Bồ-tát cũng tới đây. Những Bồ-tát này, đều từ các cõi Phật khác đến, đều đạt không thoái chuyển trong đạo Vô thượng Bồ-đề, là những vị còn một đời nữa sẽ thành Phật, nghĩa là đã an trụ trong cảnh giới Trí sở hành (đối tượng hành động của trí) thuộc Bồ-tát, hướng đến cảnh giới Trí sở hành của Như Lai, luôn siêng năng, giỏi thị hiện thần thông, tùy thời không ngăn ngại, hóa độ tất cả chúng hữu tình, luôn đem lợi ích cho mọi loài, phát khởi hạnh nguyện của Bồ-tát, trải qua nhiều đời, ở khắp mọi nơi, tu tập không ngừng nghỉ; đầy đủ hành trang phước trí của Bồ-tát, chúng sinh đều được nương nhờ; đạt sự giải thoát, đủ trí tuệ phương tiện đến bờ kia của Bồ-tát, thị hiện việc vào cửa sinh tử và Niết-bàn, không bỏ việc tu tập hạnh Bồ-tát; tự tại đi đến nơi tất cả chúng hội đạo tràng của Như Lai, làm người đứng đầu, thỉnh Phật thuyết pháp, thọ trì tạng pháp của Như Lai, phụng sự cúng dướng các Đức Phật, siêng năng tu tập hạnh nguyện của Bồ-tát, hiện thân khắp chốn, diễn thuyết không bị chướng ngại, thấu triệt pháp giới, tâm trí sáng suốt, thấy tất cả cảnh giới trong ba đời, đầy đủ hạnh chân chánh, công đức sâu kín nhiệm mầu của Bồ-tát. Cho dù trải qua vô số kiếp, để khen ngợi công đức của những vị này cũng không thể hết được. Những Bồtát đó là Kim Cang Tạng, Bảo Tạng, Liên Hoa Tạng, Đức Tạng, Nhật Tạng, Liên Hoa Đức Tạng, Diệu Tạng, Địa Tạng, Vô Cấu Nguyệt Tạng, Thị Nhất Thiết Trang Nghiêm Quang Minh Tạng, Trí Tuệ Phổ Chiếu Minh Tạng, Chiên-đàn Đức Tạng, Diệu Cát Tường Tạng, Hoa Đức Tạng, Câu-tô-ma Đức Tạng, Ưu-bát-la Đức Tạng, Thiên Đức Tạng, Phước Đức Tạng, Vô Ngại Tịnh Trí Tạng, Công Đức Thắng Tạng, Na-la-diên Đức Tạng, Vô Cấu Tạng, Ly Cấu Tạng, Chủng Chủng Biện Tài Trang Nghiêm Tạng, Đại Quang Minh Võng Chiếu Tạng, Ly Cấu Oai Đức Quang Minh Vương Tạng, Vô Ngại Diệu Âm Mỹ Hưởng Tạng, Tổng trì Công Đức Năng Độ Nhất Thiết Hữu Tình Nguyện Tạng, Đại Hải Trang Nghiêm Tạng, Tô-mê-lô Đức Tạng, Thị Hiện Nhất Thiết Công Đức Thanh Tịnh Tạng, Như Lai Đức Tạng, Phật Đức Tạng, Thuần Kim Vi Diệu Đại Oai Đức Vương Quang Minh Tạng, Nhất Thiết Tướng Trang Nghiêm, Tịnh Tạng Tinh Tú Vương Quang Chiếu Tạng, Hư Không Khố Vô Ngại Trí Tạng, Giải Thoát Nguyệt. Có vô số, vô lượng Bồ-tát như vậy, từ vô số các cõi Phật khác đến đây. Bồ-tát Kim Cang Tạng là người đứng đầu.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng, nương theo thần lực của Phật, nhập Tam-ma-địa vi diệu của Bồ-tát, tên là Đại thừa quang minh. Ngay khi đó, có vô số Phật, cùng một hiệu Kim Cang Tạng, ở vô số cõi nước khắp mười phương hịên ra, đồng nói:

–Lành thay! Lành thay! Phật tử! Ông nay có thể nhập Tam-muội Đại thừa quang minh của Bồ-tát, vô số chư Phật hiện ở mười phương đều gia hộ ông. Nhờ oai lực nơi bản nguyện của Thế Tôn Tỳ-lô-giá-na gìn giữ, tất cả Bồ-tát đều thâm nhập, hiển thị pháp sáng không thể nghĩ bàn của Phật, ở trong cảnh trí đó, gìn giữ tất cả căn lành, phân biệt pháp theo phương tiện thiện xảo của chư Phật, rộng biết pháp, diễn thuyết đúng, khéo thành tựu pháp, đạt thanh tịnh bằng trí không phân biệt, không nhiễm pháp ma, đạt căn lành theo pháp xuất thế thanh tịnh, chứng cảnh hạnh nghiệp bằng trí không thể nghĩ bàn, cho đến chứng đắc cảnh giới của trí Phật, đạt trụ mười địa Bồ-tát, thuyết giảng như thật về phương tiện an lập Bồ-tát địa, suy xét đúng Phật pháp, tu pháp vô lậu sai biệt, phân biệt rõ phương tiện thiện xảo, trí tuệ quyết định sáng suốt, thâm nhập nơi trí môn vững chắc, đủ tài biện luận đến đâu cũng không sợ, đạt trí hiểu biết rộng lớn không bị ngăn ngại, không làm hao mất tâm niệm Bồ-đề, hóa độ thành tựu các loài chúng sinh, thông đạt phân biệt rõ ràng ở khắp mọi nơi chốn.

Song này, Phật tử! Ông hãy phân biệt giảng thuyết về pháp môn phương tiện thiện xảo sai khác này. Đó là do sức thần và trí sáng của Phật gia hộ, đủ căn lành thanh tịnh, soi sáng pháp giới chân thật, tạo lợi ích cho tất cả chúng hữu tình, được chứng Pháp thân làm nơi nương tựa của trí, được chư Phật dùng nước trí rưới nơi đỉnh đầu, hiện thân to lớn hơn tất cả thế gian, vượt qua các cõi thế gian, làm thanh tịnh chánh pháp xuất thế gian, đầy đủ trí Nhất thiết trí.

Lúc ấy, các Đức Phật ở mười phương, trao cho Bồ-tát Kim Cang Tạng thân sáng, cùng biện tài diễn thuyết vô ngại, cùng nhập biện tài trí tuệ thanh tịnh vi diệu, cùng giúp đỡ sự nhớ kỹ, cùng phương tiện thiện xảo nơi trí tuệ vững chắc đầy đủ hành trí, có sức hiểu biết chân chánh không ai bẽ gẫy được, cùng pháp vô úy của Như Lai để không khiếp nhược, dùng trí Nhất thiết trí giữ gìn sự an ổn, biện tài giảng thuyết kiên cố không ngại, khéo phân biệt thân, khẩu, ý trang nghiêm của tất cả các Đức Phật. Vì sao? Vì Bồ-tát này được Tam-muội Đại thừa quang minh bảo hộ, vì pháp thường như vậy, do sự dẫn phát của sức nơi bản nguyện, ý vi diệu thanh tịnh tăng thượng, trí thanh tịnh sáng suốt, đầy đủ hành trang, tôi luyện hạnh nghiệp, dùng vô lượng niệm làm khí cụ, hiểu rõ thanh tịnh, thông đạt pháp Tổng trì thuần nhất, được dấu pháp nơi trí pháp giới ấn chứng.

Khi đó, các Đức Phật không rời chỗ ngồi, đều dùng thần lực đưa tay phải xoa đầu Bồ-tát Kim Cang Tạng. Được chư Phật nơi mười phương xoa đầu, Bồ-tát Kim Cang Tạng ra khỏi định, nói với tất cả các Bồ-tát:

–Này Phật tử! Chỉ có hạnh nguyện của Bồ-tát bền chắc và thuần tịnh, tánh rộng lớn như pháp giới, không thể soi chiếu, cùng tận như hư không mới mãi mãi cứu độ tất cả các loài hữu tình. Các Phật tử, Bồ-tát an trụ hạnh nguyện này, mới nhập được trí địa của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Phật tử! Tất cả Bồ-tát có mười Trí địa mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã nói, đang nói, sẽ nói. Vì ý sâu kín này, nên nay tôi thuyết giảng. Mười Trí địa đó là gì? Đó là:

  1. Cực hỷ.
  2. Ly cấu.
  3. Phát quang.
  4. Diệm tuệ.
  5. Nan thắng.
  6. Hiện tiền.
  7. Viễn hành.
  8. Bất động.
  9. Thiện tuệ.
  10. Pháp vân.

Phật tử! Đó là mười Trí địa của Bồ-tát mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã nói, đang nói, sẽ nói.

Phật tử! Tôi không thấy Đức Phật ở cõi nào lại không khen ngợi giảng thuyết mười Địa này. Vì sao? Vì đây là pháp môn sáng tỏ, thắng diệu tăng thượng có thể làm, thanh tịnh tất cả đạo Bồ-tát, đều từ sự an lập thông hiểu mười Địa này. Phật tử nên biết, cảnh giới không thể nghĩ bàn ấy chính là Trí được chứng đắc của chính mình trong pháp an lập các địa.

Nêu bày danh hiệu của mười Địa Bồ-tát, mà không nghe giải thích, các Bồ-tát đều nghĩ: Vì sao Bồ-tát Kim Cang Tạng chỉ nói danh hiệu của mười Địa rồi im lặng không giải thích. Trong các Bồ-tát đó, có Bồ-tát tên Giải Thoát Nguyệt, biết tâm niệm của đại chúng, Bồ-tát bèn nói kệ hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng:

Vì sao vị Chánh giác
Bậc đủ trí công đức
Nói tên Địa vi diệu
Im lặng không giải thích?
Đại danh xưng Bồ-tát
Tất cả đều kiên định
Cớ sao nói danh hiệu
Mà không diễn thật nghĩa?
Tất cả các Phật tử
An ổn đều muốn nghe
Xin phân biệt đúng đắn
Giảng thật nghĩa các Địa
Đại chúng đều thanh tịnh
Nghiêm chỉnh không lười nhác
Trong sạch và kiên cố
Đầy đủ trí công đức
Tất cả đều cung kính
Đều chuyên tâm chiêm ngưỡng
Chờ nghe pháp cam lồ
Như ong nhớ mật hoa
Nghe xong, Kim Cang Tạng
Bậc trí lớn không sợ
Muốn làm vui đại chúng
Nên dùng kệ đáp lại.
Dù là tối thắng rất hiếm có
Hiển hiện tất cả hạnh Bồ-tát
Làm cho thông đạt thật vi diệu
Nhờ đó tu chứng đạt Phật địa
Sâu xa khó thấy, lìa phân biệt
Xa rời tâm địa, khó chứng ngộ
Cảnh giới người trí toàn thanh tịnh
Thế gian nghe được đều mê, nghi
Tâm an bất động như Kim cang
Tin hiểu trí Phật rất thù thắng
Hiểu rõ không ngã chỉ do tâm
Người này nghe được trí vi tế
Như dùng màu sắc vẽ hư không
Tựa gió và như đường chim bay
Trí Phật thanh tịnh cũng như vậy
Cho dù phân biệt vẫn khó thấy
Vì thế tôi thuyết giảng trí này
Thế gian khó ai hiểu biết được
Phải thật tin tưởng thắng pháp ấy
Vì vậy nên không giải thích rộng.

Nghe thế, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói với Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Phật tử! Đại chúng này đều thanh tịnh. Đó là các Bồ-tát đều có tâm ý an lạc trong lành thuần khiết, quán sát, suy nghĩ, khéo tu tập các hành; phụng sự vô số trăm ngàn câu-chi Phật; đầy đủ hành trang, thành tựu vô lượng công đức, dứt hẳn nghi hoặc, không còn cấu nhiễm, tâm ý vui vẻ, hiểu biết tăng thượng; ở trong giáo Phật pháp không tùy thuận pháp khác. Cao cả thay! Nếu Đại sĩ diễn thuyết về thật nghĩa thì các Bồ-tát này sẽ an trụ, chứng đắc.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nhằm lập lại nghĩa trên, nên nói kệ rằng:

Xin nói hạnh vô thượng,
An ổn của Bồ-tát
Phân biệt các trụ địa
Tịnh trí thành Chánh giác
Đại chúng không cấu nhiễm
Chí thông hiểu trong sạch
Phụng sự vô lượng Phật
Hiểu được nghĩa các Địa.
Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Đại chúng này tuy đều thanh tịnh, các Bồ-tát có tâm ý trong sạch, suy nghĩ thuần khiết, tu tập các hạnh; phụng sự vô số Phật; đầy đủ hành trang, thành tựu vô lượng công đức, dứt hẳn nghi hoặc, không còn cấu nhiễm, tâm ý vui vẻ, hiểu biết tăng thượng; ở trong Phật pháp không tùy thuận pháp khác; nhưng vẫn còn những chúng sinh yếu kém, nếu nghe pháp sâu xa này sẽ sinh nghi ngờ, mãi mãi chịu khổ đau không được lợi ích; vì thương xót họ, nên tôi im lặng.

Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lập lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Chúng này tuy tịnh, trí tuệ lớn
Sâu xa sáng suốt khéo phân biệt
Tâm ý bền vững như núi chúa
Như biển lớn sâu khó lấp đổ
Có kẻ sơ cơ chưa chứng đạt
Luôn hành theo thức, không theo trí
Nghe được sinh nghi, đọa đường ác
Vì thương chúng đó nên không nói.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt lại nói:

–Thật cao cả thay! Phật tử, xin hãy giảng thuyết, chớ nghi ngờ. Nhờ thần lực và sự hộ niệm của chư Phật, đại chúng sẽ tin pháp không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì khi Phật tử diễn giải mười Địa này, pháp thường là như vậy. Nghĩa là tất cả các Đức Phật đều ủng hộ, các Bồtát vì bảo vệ Trí địa này nên phát tâm dũng mãnh. Vì sao? Vì đó là hạnh chân chánh đầu tiên của Bồ-tát và cũng là sự tu chứng tất cả pháp của chư Phật. Phật tử! Ví như văn tự, chữ cái là đầu mà cũng là cuối, không có văn tự nào mà ở ngoài chữ cái. Phật tử, giáo pháp của Phật cũng như thế. Trụ địa là pháp đầu tiên để tu hành mà cũng là pháp cuối cùng để chứng đạt trí Phật. Vì vậy, xin Bồ-tát diễn thuyết, tất cả các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác đều gia hộ. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nhằm lập lại ý nghĩa ấy nên nói kệ rằng:

Lành thay! Phật tử xin diễn nói
Các địa hành hướng nhập Bồ-đề
Hết thảy bậc Tự tại mười phương
Đều cùng hộ niệm Trí căn bản
Đây là điều chánh hành, trí cuối
Tất cả Phật pháp từ đấy khởi
Như nơi văn tự từ chữ cái
Phật pháp dựa Địa cũng như vậy.

Để hiểu về thật nghĩa này, các Bồ-tát đồng thanh nói kệ, thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng giảng thuyết:

Trí thượng diệu trong sạch
Biện tài giỏi giảng thuyết
Tuyên dương lời vi diệu
Nghĩa lý đều hợp nhau
Luôn niệm tuệ thanh tịnh
Đủ mười lực ý lạc
Trí vô ngại kiên cố
Giảng mười Địa thù thắng
Đại chúng không kiêu mạn
Không tạp nhiễm kiến nghi
Ý vui trong giới định
Đều muốn được nghe giảng
Như khát nghĩ uống nước
Đói tìm cầu thức ăn
Bệnh nhân cần thuốc tốt
Ong tìm hút mật hoa
Đại chúng này cũng thế
Mong nghe pháp cam lồ
Hay thay! Trí thanh tịnh
Giảng trụ địa trong sạch
Hiển mười lực tương ưng
Đạo Thiện Thệ vô ngại.

Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, từ nơi tướng lông trắng, phóng ra ánh sáng tên Chiếu Bồ-tát lực, cùng với vô số ánh sáng khác. Ánh sáng ấy chiếu khắp các cảnh giới ở mười phương không sót một chỗ nào, dứt trừ mọi thứ khổ đau ở cõi ác, che lấp hết thảy cung điện của ma; chiếu đến vô lượng chúng hội của các cõi Phật, hiển hiện cảnh giới, hành tướng, oai lực, thần thông không thể nghĩ bàn của chư Phật trong các thế giới ở mười phương. Nơi các chúng hội của tất cả chư Phật đều dùng thần lực của Phật gia hộ cho người thuyết pháp; chiếu đến thân Bồ-tát rồi chiếu lên hư không, thành đài lưới mây ánh sáng lớn. Tất cả các Đức Phật khác, cũng làm như Phật Thích-ca Mâuni, từ nơi tướng lông trắng, phóng ra ánh sáng tên Chiếu Bồ-tát lực cùng với vô số ánh sáng khác. Ánh sáng ấy chiếu khắp các cảnh giới ở mười phương không sót một chỗ nào, dứt trừ mọi thứ khổ đau ở cõi ác, che lấp hết thảy cung điện của ma; chiếu đến vô lượng hội chúng của các cõi Phật, hiển hiện cảnh giới, hành tướng, oai lực, thần thông, không thể nghĩ bàn của chư Phật trong các thế giới ở mười phương. Nơi các chúng hội của chư Phật đều dùng thần lực của Phật gia hộ cho người thuyết pháp; chiếu đến thân Bồ-tát, hiện ra diệu dụng bất khả tư nghì của chư Phật, rồi chiếu lên thân Bồ-tát Kim Cang Tạng và các chúng hội lớn của cõi Phật Thích-ca, chiếu tới đại chúng, pháp tòa, thân Bồ-tát của tất cả cảnh giới kia, nên đại chúng ở đây đều được thấy rõ. Và cũng do ánh sáng của các Đức Phật ở các cõi khác, chiếu khắp tam thiên đại thiên cảnh giới, chiếu khắp đại chúng của Phật Thích-ca, thân và pháp tòa của Bồ-tát Kim Cang Tạng nên đại chúng ở các cõi đều được thấy rõ.

Khi đó, từ đài lưới mây ánh sáng phát ra lời kệ:

Chư Phật cao tột như hư không
Mười Lực, tự tại, vô số chúng
Trong pháp vi diệu của Thích-ca
Đấng Thiên Nhân Tôn luôn gia hộ
Ông hãy nương theo thần lực Phật
Khai diễn tạng pháp tột vi diệu
Hiển bày hạnh lớn cao cả ấy
Phân biệt giảng thuyết các Trí địa
Những ai nghe pháp thù thắng này
Được các Đức Phật thường gia hộ
Tất cả chư Phật ở mười phương
Đều đến ủng hộ và giữ gìn
Những ai tu tập hạnh chân chánh
Tuần tự thành tựu Địa vô cấu
Chứng được công đức và mười Lực
Ngộ pháp Vô thượng Chánh đẳng giác
Cho dù ở trong kiếp nước lửa
Không nghi, nghe được pháp môn này
Những kẻ nghi ngờ không tin tưởng
Vĩnh viễn chẳng được nghe nghĩa ấy
Hãy nói Trí địa đạo thù thắng
Chứng nhập, an trụ và tăng tiến
Thứ tự thuyết giảng pháp tu hành
Tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng, quán sát khắp mười phương, muốn cho đại chúng Tăng trưởng lòng tin thanh tịnh, nên nói kệ rằng:
Đạo cao cả sâu xa khó biết
Không thể phân biệt, lìa phân biệt
Khó chứng cảnh giới tuệ thanh tịnh
Tánh luôn vắng lặng, không sinh diệt
Rỗng lặng yên tịnh, tận không hai
Ly thú bình đẳng đạt Niết-bàn
Trong vô biên duyên, không chỗ chứng
Vượt qua ba đời như hư không
Niết-bàn vắng lặng, cảnh Phật chứng
Khó thể dùng lời giảng thuyết được
Trí địa, hạnh nguyện, cũng như vậy
Diễn giải còn khó, huống chi nghe
Xa rời suy nghĩ và tâm đạo
Trí này dần đạt cảnh tịch diệt
Chẳng phải chỗ hiện uẩn xứ, giới
Tâm ý chẳng có chỗ lường suy
Như dấu chân chim trong hư không
Bậc trí khó nói, khó hiển hiện
Các Trụ địa này cũng như vậy
Nói còn rất khó, huống chi nghe
Nay chỉ giảng thuyết một phần nhỏ
Do sức thệ nguyện Từ bi lớn
Rồi cũng dần tới phi tâm cảnh
Do trí đủ đầy như ý lạc
Những cảnh giới ấy rất khó thấy
Khó nêu chỉ trụ, tự ý vui
Nhưng nương Phật lực tôi sẽ nói
Các ông một lòng, cung kính nghe
Trí địa hạnh nguyện chân chánh này
Trải qua nhiều kiếp khó nói hết
Tôi nay lược nói các ông nghe
Pháp nghĩa chân thật tận như lý
Các ông chuyên tâm cung kính đợi
Tôi nương lực Phật sẽ giảng thuyết
Tuyên dương lời chánh pháp vi diệu
Thí dụ tương ưng hợp câu nghĩa
Dùng lời nói khó bề hiển thị
Chỉ nhờ thần lực của chư Phật
Ánh sáng tụ chiếu vào thân tôi
Vì thế tôi nay xin thuyết giảng.

Các Phật tử! Những chúng sinh khéo tích tụ căn lành, chuẩn bị đủ hành trang, khéo tu hành các hạnh, phụng sự chư Phật, tu tập pháp giải thoát, được bạn tốt giúp đỡ, tâm ý thanh tịnh, tùy thuận ý lạc tăng thượng rộng lớn, đủ trí hiểu biết vi diệu, thương yêu chúng sinh, mong cầu trí Phật, mong chứng sức của mười Lực, mong đạt pháp không sợ và pháp Bất cộng bình đẳng của Phật, cứu độ tất cả thế gian làm thanh tịnh tâm Từ bi, đạt trí hiểu rõ mười phương, dùng pháp vô ngại làm thanh tịnh cõi Phật, trong một sát-na biết được ba đời, chuyển bánh xe chánh pháp lớn dứt mọi sợ hãi luôn phát khởi những tâm như vậy. Bồtát phát tâm, đều lấy đại Bi làm gốc, phải gồm đủ trí tuệ tăng thượng, phương tiện quyền biến; gìn giữ tâm niệm và ý vui tăng thượng, được vô số lực Phật, sức bền vững, sức trí tuệ, trí khéo phân biệt rõ ràng không ngại; trước mắt tùy thuận Phật trí, trí thọ trì tất cả Phật pháp, dạy dỗ, chỉ dẫn tánh rốt ráo như pháp giới, rộng lớn như hư không, cùng tận đời vị lai. Vừa phát tâm như vậy, Bồ-tát sẽ vượt khỏi địa phàm phu, chứng nhập chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, sinh trong nhà Như Lai, thuộc dòng cao quý, không ai chê trách, xa lìa cõi tục, nhập đạo xuất thế, trụ trong pháp tánh căn bản của Bồ-tát, an trụ nơi cảnh giới Bồ-tát, tùy thuận pháp ba đời bình đẳng, tiếp nối Phật pháp, vững chãi hướng đến giác ngộ.

Các Phật tử! Bồ-tát trụ nơi như vậy, gọi là dùng tâm bất động an trụ trong địa Cực hỷ.

Các Phật tử! Bồ-tát trụ nơi địa Cực hỷ này, luôn vui vẻ, vững tin; hân hoan, mạnh mẽ, không tranh chấp, không làm hại, không sân hận.

Bồ-tát ấy luôn nghĩ về chư Phật, về Phật pháp, về Bồ-tát, về hạnh Bồtát, về pháp giải thoát Niết-bàn thanh tịnh, về các địa thù thắng của Bồ-tát, về các Bồ-tát không còn bị tán thất trí quang minh, luôn truyền dạy chỉ dẫn chánh pháp, tạo lợi ích cho chúng sinh, hướng nhập trí gia hành của Phật một cách vui vẻ. Bồ-tát này biết mình đã xa lìa cảnh giới thế gian, gần gũi chư Phật, xa địa phàm phu, gần địa chánh trí, vĩnh viễn không đọa cõi ác, làm chỗ nương tựa cho chúng sinh, gần gũi các Đức Phật, an trụ cảnh giới Phật, nhập trong tánh bình đẳng của Bồ-tát, xa lìa những nỗi kinh sợ nên được vui vẻ. Vì sao? Phật tử, vì Bồ-tát vừa chứng địa Cực hỷ, tức là xa lìa hết mọi lo sợ, như sợ không sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ cõi ác, sợ đại chúng… Vì sao? Vì Bồ-tát không còn ngã tưởng, không yêu mến ngã và nguyên nhân đưa đến ngã, thì làm gì sinh khởi các ý tưởng về ngã, vì thế Bồ-tát chẳng sợ không sống; vì không mong muốn vật của người khác, luôn thích ban bố vật cần dùng cho tất cả chúng sinh, nên không sợ tiếng xấu. Vì bỏ kiến chấp về ngã, không có ý tưởng mất ngã, nên không sợ chết; vì biết mình sau khi chết, ở đời sau không rời Phật, Bồ-tát, nên không sợ cõi ác. Vì vui vẻ, thấy tất cả thế gian không ai bằng mình, huống gì là hơn mình nên không sợ đại chúng.

Phật tử! Bồ-tát này không còn kinh sợ, kiêu mạn, lấy tâm đại Bi làm gốc, không ghét bỏ, không ham thế tục, tu tập tất cả căn lành, siêng năng gia hạnh, tăng trưởng lòng tin, đạt thanh tịnh, hiểu rõ và tin tưởng, phát tâm Từ bi, đầy đủ đại Từ, tâm không mệt mỏi, trang sức bằng hổ thẹn, luôn cùng nhau nhu hòa nhẫn nhục, luôn cung kính tôn trọng giáo pháp Như Lai, ngày đêm siêng năng tu tập căn lành, phụng thờ bạn lành, thích pháp, siêng năng học hỏi, quán sát đúng đắn pháp đã nghe, tâm không tham vướng, không tham danh lợi, sự cung kính, không tham luyến vật chất, luôn phát tâm bình đẳng vững chắc như ngọc báu, chỉ mong cầu địa Nhất thiết trí, nương nhờ lực vô úy, pháp Bất cộng của Như Lai, cầu Ba-la-mật không chấp trước, bỏ dua nịnh, làm đúng chánh pháp, nói thật, khuyên dạy người không làm nhơ uế nhà Phật, không bỏ học pháp của Bồ-tát, tâm Nhất thiết chủng trí vững chãi như núi chúa, không bỏ việc thế gian nhưng cố gắng thành tựu đạo xuất thế, siêng tu pháp Giác phần là hành trang mong cầu pháp thù thắng về sau. Phật tử, vì tương ưng pháp địa thanh tịnh nên Bồ-tát này được gọi là an trụ nơi địa Cực hỷ.

Lại nữa, Bồ-tát trụ ở địa này, phát nguyện lớn, dũng mãnh, xa lìa, cúng dường Như Lai mọi vật cần dùng, mọi việc cần làm, thành tựu tất cả hành tướng vi diệu, trí thông hiểu tối thượng, thanh tịnh rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ luôn được gặp Phật ra đời, được cúng dường, nên phát nguyện lớn thứ nhất.

Vì muốn thọ trì tất cả tạng pháp của Như Lai; muốn gìn giữ trí tuệ của Phật, hộ trì giáo pháp của bậc Chánh đẳng giác, rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ, luôn thọ trì pháp vi diệu, nên phát nguyện lớn thứ hai.

Vì muốn gặp Phật ra đời, dù ở đâu cũng muốn thấy Phật, từ cung trời Đổ-sử-đa xuống trần, vào thai, ở trong thai, chào đời, lớn lên xuất gia, thành đạo, nhận lời thỉnh cầu của Phạm vương thuyết pháp, thị hiện nhập Niết-bàn, Bồ-tát đến cúng dường, thọ trì pháp gia hạnh làm đầu, cùng lúc đi khắp mọi nơi, rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ, luôn được gặp Phật ra đời, đến chỗ Phật nên phát nguyện lớn thứ ba.

Vì muốn phát khởi hạnh rộng lớn vô biên của Bồ-tát, muốn thọ trì giữ gìn vô lượng Ba-la-mật-đa không phân biệt, làm thanh tịnh các địa; biết rõ tướng chung, riêng, giống, khác, thành, hoại, biết hạnh của Bồ-tát chân thật không điên đảo, hiện ra đạo trí địa của Bồ-tát, trang sức bằng pháp giải thoát, phát tâm ủng hộ, thọ trì, chỉ dạy; rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp luôn tu tập các hạnh chân chánh của Bồ-tát không ngừng nghỉ, nên phát nguyện lớn thứ tư.

Vì muốn độ thoát tất cả chúng sinh không loại trừ loại có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, không phải có tưởng, không phải không có tưởng, loài sinh từ trứng, thai, ẩm thấp; cả trong ba cõi, sáu đường tất cả nơi thọ sinh có đủ danh sắc, để giáo hóa, khiến cho chúng vào trong Phật pháp, đoạn trừ tất cả các cõi ác, ở an nơi trí Nhất thiết trí, rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ, luôn độ thoát chúng sinh nhằm thành tựu đầy đủ cho chúng hữu tình nên phát nguyện lớn thứ năm.

Vì muốn độ chúng sinh là những kẻ đang sống trong sự tán loạn, mê mờ, khát ngưỡng, nhiều như mắt lưới của Đế Thích, trong các cõi nước ở mười phương, với đủ loại hình tướng sai khác; nên tùy thuận hạnh nghiệp, thị hiện sự thông đạt rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ, luôn đi vào trong các cõi nên phát nguyện lớn thứ sáu.

Vì muốn nhập một cõi Phật vào trong tất cả cõi Phật; làm thanh tịnh vô số cõi Phật, trang nghiêm với mọi thứ tốt đẹp, lìa các phiền não, thành tựu đạo thanh tịnh, đầy đủ vô lượng trí tánh; làm cho tất cả chúng sinh nhập vào cảnh giới rộng lớn của Phật, tùy sở thích của chúng sinh mà thị hiện, làm cho chúng vui vẻ; rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp không ngừng nghỉ, luôn vào trong các cõi Phật, trang nghiêm cõi Phật nên phát nguyện lớn thứ bảy.

Vì muốn cùng tâm ý hạnh nguyện với tất cả Bồ-tát, không còn oán thù, chứa nhóm căn lành, tạo mọi duyên với tất cả các Bồ-tát, đạt tánh bình đẳng, luôn được gặp Phật, Bồ-tát; tùy sở thích mà thị hiện Phật ra đời; tùy tâm niệm, hiểu rõ oai lực của Phật, đời đời luôn được đầy đủ, không thoái lui; tùy hành thần thông, đi khắp các cõi, hiện diện trong tất cả chúng hội; tùy nơi được thọ sinh mà hành đạo, luôn thành tựu thật nghĩa không thể nghĩ bàn của Đại thừa, tu hành hạnh chân chánh của Bồ-tát; rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp luôn hành hạnh chân chánh không ngừng nghỉ, vì thần thông lớn ấy nên phát đại nguyện thứ tám.

Vì ngưỡng phục muốn thừa hành hạnh không thoái chuyển của Bồ-tát, để nghiệp thân, khẩu, ý không luống uổng, vừa thấy là thông đạt tánh pháp của Phật, vừa nghe tiếng là tùy trí tuệ chứng đạt; vừa phát khởi tín tâm thanh tịnh là trừ hết phiền não; thân như thuốc hay, tâm như ngọc Như ý, tu tập hạnh lớn của Bồ-tát; rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp luôn hành hạnh chân chánh không ngừng nghỉ, vì không để luống uổng nên phát nguyện lớn thứ chín.

Vì ở khắp các cõi, chứng đạt Vô thượng Bồ-đề, không khác phàm phu, thị hiện thọ sinh, xuất gia, ngồi nơi đạo tràng, thành Phật, thuyết pháp, nhập Niết-bàn; thị hiện chứng đạt oai lực trí tuệ rộng lớn của Phật, tùy sự vui thích của chúng sinh mà thị hiện Phật ra đời, hóa độ chúng sinh, sớm chứng giác ngộ. Trong khoảnh khắc hòa nhập tánh chánh giác với tánh tịch diệt của các pháp, dùng một thứ tiếng diễn nói pháp giải thoát, làm cho chúng sinh vui mừng, thị hiện Niết-bàn mà hạnh lực không đứt, thị hiện trí địa lớn, kiến lập tất cả pháp, dùng pháp trí thị hiện sức thần thông biến hóa; rộng lớn như pháp giới, tánh rốt ráo như hư không, tận cùng đời vị lai, trải qua vô số kiếp luôn tu chánh giáo không ngừng nghỉ, vì Bồ-tát Đại thừa nên phát đại nguyện thứ mười.

Các Phật tử! Bồ-tát ở Địa thứ nhất phát những thệ nguyện lớn, những dũng mãnh lớn, những xa lìa lớn như vậy. Bồ-tát trụ ở địa Cực hỷ này, coi mười nguyện lớn là điều cốt yếu, để phát khởi vô số hạnh nguyện. Những nguyện lớn này được phát sinh từ mười pháp cùng tận. Mười pháp cùng tận đó là gì? Cõi chúng sinh tận, thế giới tận, hư không tận, pháp giới tận, cảnh giới Niết-bàn tận, cảnh giới Phật tận, nhập cảnh giới trí tuệ của Phật tận, cảnh của đối tượng duyên tận, trí nhập hạnh Phật tận, trí thuyết pháp ở thế gian tận. Nếu cõi chúng sinh cùng tận thì nguyện này mới cùng tận… Nhưng cõi chúng sinh không cùng tận nên căn lành nơi thệ nguyện này cũng không cùng tận cho đến trí thuyết pháp không cùng tận nên căn lành cũng không cùng tận.

*Lại nữa, Bồ-tát đã phát mười nguyện lớn; đạt được tâm gắng sức thọ nhận, dịu dàng, hòa nhã; thành tựu được lòng tin thanh tịnh, tin chư Phật xưa luôn hội nhập các hành, tu chứng các địa thù thắng, thành tựu Oai lực, Vô sở úy, pháp Bất cộng cao tột và pháp tánh không thể nghĩ bàn của Phật. Cảnh giới của Như Lai sâu xa khó lường, tùy thuận thâm nhập hạnh quả của Phật. Nói tóm lại, phải tin chánh hạnh của tất cả các Bồ-tát, cho đến thông hiểu sự gìn giữ Phật địa. Bồ-tát lại nghĩ rằng: Pháp của chư Phật sâu xa, thanh tịnh, vắng lặng như vậy. Tánh rỗng lặng, không tướng, không nguyện, không giới hạn, bao la rộng lớn, khó chứng đạt. Chúng sinh vì luôn sống trong tà kiến, bị vô minh ngu tối trói buộc ý thức, tâm kiêu mạn cao ngạo tính toán, khát ái trùm phủ tâm ý tìm cầu, chạy theo dua nịnh ý vui thích nơi phiền não, do tham lam keo kiệt, nên mãi mãi thọ sinh. Do tham, sân, si được tích tập, sân hận luôn thiêu đốt tâm, tạo nghiệp điên đảo.Vì hạt giống dục, hữu, vô minh hữu lậu trói buộc tâm ý, ý thức tạo mầm cho ba cõi. Tức là có danh sắc tương tục, danh sắc tăng trưởng thành sáu nhập, sáu nhập sinh xúc, xúc sinh thọ, thọ phát triển nên có ái, từ ái có thủ, thủ tăng trưởng có hữu, có sinh già chết ưu sầu, khổ uẩn của chúng sinh cứ thế phát sinh. Nó không có ngã, ngã sở, không thật, hư giả, trống không, không tác dụng, tăm tối không động, tựa như cỏ cây, như bóng hiện; nhưng chúng sinh không hề hay biết. Bồ-tát thấy chúng sinh vì khổ uẩn nên không được giải thoát. Vì muốn dứt trừ khổ uẩn của chúng sinh nên Bồ-tát phát tâm Bi lớn; vì muốn chúng sinh trụ trong Niết-bàn an lạc rốt ráo nên phát tâm Từ lớn.

Lại nữa, các Phật tử! Bồ-tát trụ nơi Địa thứ nhất, tùy thuận đại Từ bi, tăng trưởng ý chí, làm việc tâm không tham tiếc, dùng tuệ lực mong cầu trí vi diệu của Phật quyết tu pháp xả lớn, phàm cái gì mình có đều đem cho hết. Nghĩa là Bồ-tát các vật như tiền tài, lúa gạo, vàng bạc, ma-ni, châu báu, lưu ly, san hô, xa cừ, mã não, các thứ vật báu trang sức, vườn quán, nhà cửa, sông suối, tôi tớ, đất nước, xóm làng, ngôi vua, vợ con, đầu, mắt, tay, chân, thân thể đáng yêu, đều đem bố thí tất cả mà không tham tiếc. Vì cầu trí tuệ vi diệu của Phật nên tu bố thí. Đó là sự thành tựu đại Xả của Bồ-tát ở Địa thứ nhất.

Bồ-tát đã thành tựu pháp từ bi lớn, bố thí lớn lại vì muốn độ chúng sinh, nên luôn làm việc lợi ích cho thế gian và xuất thế gian. Khi tâm cầu không mỏi mệt thì đạt tánh không mỏi mệt. Không mỏi mệt nghĩa là không khiếp sợ trước những những việc luận nghị. Bồ-tát này thành tựu, thông hiểu các luận nghị. Với những luận nghị đó, Bồtát biết cái nào nên, cái nào không nên; suy xét kỹ, trí kém vừa hơn, có ở trong chúng sinh để tùy thuận tu hành chánh hạnh, thành tựu Thế trí. Đã đạt Thế trí rồi thì tùy thời gian, tùy phân lượng mà tu hành, trang sức bằng tâm hổ thẹn, liên tục siêng hành lợi mình, lợi người, nên Bồ-tát thành tựu hổ thẹn. Từ đó Bồ-tát vượt lên đạt sức bền vững, tánh không lay động, kiên trì nên phát sinh tánh lực kiên trì. Đạt tánh lực kiên trì rồi, Bồ-tát phụng sự, cúng dường chư Phật và tu hành chân chánh trong giáo Phật pháp. Do đó Bồ-tát thành tựu mười pháp thanh tịnh trụ địa. Tức là, lòng tin thanh tịnh, từ bi, trí tuệ, bố thí không chán mệt, thông hiểu luận nghị, biết rõ thế gian, trang sức bằng hổ thẹn, tánh lực kiên trì, cúng dường chư Phật. Bồ-tát trụ nơi địa Cực hỷ, nhờ sự hiểu biết và nguyện lực rộng lớn, nên thấy được trăm ngàn, vô số a-tăng-kỳ Phật. Thấy hết rồi, Bồ-tát dùng tâm rộng lớn, cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường các thứ y phục, thức ăn, đồ ngồi, nằm, thuốc men, mọi vật cần dùng. Bồ-tát vui vẻ cung kính tăng chúng, hồi hướng căn lành lên đạo Vô thượng Bồ-đề. Nhờ cúng dường chư Phât, Bồ-tát thành tựu phương tiện độ sinh, hóa độ chúng sinh bằng Ái ngữ, Bố thí; sau lại thông đạt cả hai Nhiếp pháp, luôn tu hành bằng trí hiểu biết. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Thí ba-la-mật, những Ba-la-mật khác thì tùy sức, tùy phần mà tu tập. Bồ-tát cúng dường chư Phật đúng pháp, tu tập hạnh độ sinh, thọ trì thực hành pháp thanh tịnh nơi các địa, hồi hướng căn lành về Nhất thiết trí, dần dần được thanh tịnh an ổn, hữu dụng. Này Phật tử! Ví như thợ vàng nung quặng ở trong lửa, càng tôi luyện, vàng càng sáng đẹp. Phật tử nên biết! Bồ-tát cũng thế! Cúng dường chư Phật, tu tập hạnh độ sinh, thọ trì thực hành pháp thanh tịnh nơi các địa, hồi hướng căn lành về Nhất thiết trí, thanh tịnh an ổn, hữu dụng càng được nhiều hơn.

Lại nữa, các Phật tử! Bồ-tát trụ ở địa Cực hỷ, phải theo Phật, Bồ-tát và bạn lành tri thức để học hỏi về hành tướng và sự chứng đắc đẳng lưu của Địa thứ nhất mà không cho là đủ chán cho đến Địa thứ mười cũng vậy. Bồ-tát phải tu tập theo các phương tiện khéo léo về cách đối trị, về sự thành hoại, về chứng đắc, về thanh tịnh, về an ổn, về thù thắng, về không thoái chuyển của các địa. Đã làm thanh tịnh các địa của Bồ-tát rồi thì phải tu tập theo các phương tiện khéo về sự thâm nhập Trí địa của Như Lai.

Các Phật tử! Bồ-tát phát khởi những phương tiện khéo léo về hành tướng của các địa, bắt đầu từ Địa thứ nhất tiến mãi đến Địa thứ mười. Nhờ trí sáng suốt của các địa mà đạt trí sáng của Phật.

Phật tử! Ví như nhà buôn tài giỏi, khôn khéo dắt những thương buôn khác đến thành phố lớn. Trước lúc ra đi, phải hỏi biết sự thuận lợi, trắc trở trên đường đi, những hành trang nên mang theo. Tuy chưa đi nhưng đã thông tỏ tất cả, như vậy mới có thể đến được thành phố lớn. Thương chủ này, dùng trí khôn suy xét, tính toán, cùng các thương buôn qua những nơi nguy hiểm vắng vẻ, sẽ không hề bị tai nạn, an ổn đến thành phố lớn.

Phật tử! Trí tuệ phương tiện của Bồ-tát này cũng như thế. Thông đạt tất cả pháp đối trị, các hành tướng đẳng lưu, vận chuyển, an ổn, thù thắng, không thoái chuyển, chỗ thanh tịnh của các địa cho đến Trí địa của Như Lai rồi, lúc này Bồ-tát nên thọ trì hành trang Thánh đạo, phước đức thù thắng rộng lớn, trí tuệ bền vững, dẫn dắt vô số kẻ buôn là chúng sinh, đến thành lớn Nhất thiết trí. Lúc chưa ra đi, thì đến chỗ chư Phật, Bồ-tát và bạn để hỏi rõ công đức Thánh giả đạo của các địa và sự thuận lợi, trắc trở trên đường đi, chuẩn bị hành trang Thánh đạo, phước trí rộng lớn. Tuy chưa đi, nhưng đã thông đạt như thế, mới có thể đến được thành lớn Nhất thiết trí. Nhờ dùng trí tuệ, suy xét đầy đủ hành trang Thánh đạo, nên đưa được số chúng sinh, những nhà buôn lớn, đi qua đường hiểm sinh tử mà cả mình lẫn người đều an ổn, đều đến thành trí Nhất thiết trí.

Phật tử! Vì thế các Bồ-tát nên siêng năng tu tập làm trang nghiêm các địa. Phật tử, đó là lược nói về pháp môn nhập địa Cực hỷ thứ nhất của Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở địa này, khi thọ sinh thường làm vua nơi Thiệm bộ châu, đầy uy lực lớn, luôn hộ trì chánh pháp, an ủi thâu giữ chúng sinh bằng pháp bố thí. Dùng phương tiện khéo léo làm cho chúng sinh trừ bỏ tham lam bỏn sẻn, biết bố thí. Làm mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời niệm Phật, Pháp, Tăng, Bồ-tát, hạnh Bồ-tát, giải thoát, các trụ địa, pháp không sợ, pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng, vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường; là tướng soái; cho đến nguyện chỗ làm nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu siêng năng vui vẻ phát khởi như vậy, bỏ gia nghiệp thế tục, nương tựa Phật pháp, phát khởi lòng tin thanh tịnh, xuất gia, thì chẳng bao lâu đạt trăm pháp Tam-muội của Bồ-tát, gặp trăm Đức Phật, được chư Phật gia hộ, thông hiểu tất cả, làm chuyển động trăm thế giới, đi khắp trăm cõi nước, soi chiếu trăm cảnh giới, thành tựu trăm loại chúng sinh, sống trăm kiếp, trước sau đều vào trong trăm kiếp, suy xét rõ trăm pháp, thị hiện trăm thân, mỗi thân hiện trăm Bồ-tát bạn làm quyến thuộc vây quanh. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông, ánh sáng, thân tướng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, sự trang nghiêm, hiểu biết, gìn giữ, tạo tác dù trải qua trăm ngàn câu-chi kiếp cũng không thể nói hết.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại ý nghĩa trên bèn nói kệ rằng:

Nếu ai tu pháp lành
Và các pháp giải thoát
Cúng dường Thiên nhân tôn
Chí lớn tịnh ý lạc
Thành tựu trí liễu ngộ
Tùy thuận đạo từ bi
Vì cầu trí tuệ Phật
Phát tâm vô thượng này
Vì đạt mười Lực Phật
Và pháp Vô sở úy
Thành tựu pháp Bất cộng
Cứu độ các chúng sinh
Đầy đủ Từ bi lớn
Nghiêm tịnh các cõi Phật
Chuyển bánh xe pháp lớn
Phát tâm ý thù thắng
Một niệm biết ba đời
Không hề có phân biệt
Trong mọi lúc mọi nơi
Thị hiện ở thế gian
Lược nói sự tìm cầu
Công đức Phật thù thắng
Phát tâm ý rộng lớn
Ngang bằng với hư không
Bi Trí là trên hết
Bao gồm tuệ phương tiện
Gìn giữ ý thanh tịnh
Vô lượng lực của Phật
Trí vô ngại hiện tiền
Tùy thuận trí tự nhiên
Thọ trì pháp của Phật
Phát tâm tối thắng ấy
Phật tử vừa phát khởi
Tâm vi diệu như vậy.
Vượt khỏi hàng phàm phu
Nhập chánh tánh Bồ-tát
Sinh ở nhà Như Lai
Dòng họ không tỳ vết
Nối dòng giống chư Phật
Thành tựu Vô thượng giác
Vừa phát tâm như vậy
An trụ Địa thứ nhất
Chí vui thật bền vững
Siêng tu mọi hạnh nghiệp
Luôn vui vẻ yêu thích
Niềm tin rất thanh tịnh
Tâm hết mực dũng mãnh
Và tâm đầy hoan hỷ
Trừ bỏ sự tranh chấp
Làm hại và sân hận
Thành kính lại ngay thật
Khéo giữ gìn các căn
Cứu đời không ai bằng
Xứ này ta sẽ đạt.
Công đức và trí tuệ
Nghĩ vậy nên vui vẻ
Mới trụ Địa thứ nhất
Liền vượt năm lo sợ:
Không sống, chết, tiếng xấu
Cõi ác và các chúng
Vì không tham chấp ngã
Và sở hữu của ngã
Do vậy Phật tử này
Không còn những lo sợ.
Luôn tin tưởng cung kính
Thực hành đại Từ bi
Đủ công đức hổ thẹn
Ưa dạo vườn chánh pháp
Dốc cầu học hiểu rộng
Suy xét pháp đã nghe
Trừ bỏ hành chấp trước
Không tham cầu lợi dưỡng
Chỉ khởi tâm bình đẳng
Chuyên tâm cầu trí Phật
Và suy xét mười Lực
Tu hành đạt giải thoát
Trừ bỏ tâm dua, dối
Thực hành đúng giáo pháp
Luôn giữ lời chân thật
Không làm bẩn nhà Phật
Chẳng bỏ pháp Bồ-tát
Tâm trí Nhất thiết trí
Vững chãi như núi chúa
Chẳng bỏ việc thế gian
Mà nhập đạo xuất thế
Tâm luôn không chán đủ
Hành trang tu giác phần
Không có những vọng niệm
Dần cầu đạo thù thắng
Tương ưng với giáo pháp
Khéo trụ Địa thứ nhất.
Phát khởi thệ nguyện lớn
Hạnh nghiệp lớn dũng mãnh
Nguyện sẽ luôn cúng dường
Phụng sự các Đức Phật
Hộ trì giáo Phật pháp
Giữ gìn đạo Thế Tôn
Gần gũi phụng sự Phật
Tu tập hạnh tối thắng
Thành tựu các chúng sinh
Qua lại mọi cảnh giới
Trang nghiêm các cõi Phật
Đầy đủ trí hiểu biết
Cùng các Đại Bồ-tát
Nhất tâm mà tu tập
Thân, khẩu, ý tạo nghiệp
Không lỗi lầm, luống uổng
Ở trong cõi phàm phu
Sớm thành tựu chánh giác
Những nguyện lớn như vậy
Không lường, không ngằn mé
Tất cả cõi chúng sinh
Thế giới và hư không
Cõi pháp, cõi Niết-bàn
Cõi Đức Phật hiện ở
Trí địa của Như Lai
Và cõi tâm duyên kết
Nhập cõi trí tuệ Phật
Trí chuyển pháp thế gian
Những pháp trên cùng tận
Nguyện ta mới cùng tận
Pháp ấy không cùng tận
Nguyện ta cũng chẳng tận.
Phát nguyện lớn như vậy
Tâm hòa nhã thuận hợp
Tin công đức của Phật
Quán sát các chúng sinh
Biết từ nhân duyên sinh
Phát tâm Từ bi lớn
Ta nguyện sẽ cứu vớt
Chúng sinh đang khổ não
Vì cứu độ chúng sinh
Mà hành pháp bố thí
Ngôi vua cùng châu báu
Voi ngựa và xe cộ
Đầu, mắt, tay cùng chân
Cho đến máu, thịt, thân
Bố thí hết tất cả
Tâm không buồn luyến tiếc
Tâm không hề chán mệt
Cầu học các luận nghị
Hiểu rõ nơi văn nghĩa
Tùy thế gian mà hành
Trang nghiêm bằng hổ thẹn
Tu hành thêm vững bền
Cúng dường vô lượng Phật
Luôn cung kính, tôn trọng
Cứ thế mà tu tập
Ngày đêm không lười mỏi
Căn lành càng thanh tịnh
Như vàng đã luyện kỹ
Bồ-tát trụ địa này
Tu tập các địa khác
Hành không chướng ngại
Đầy đủ chẳng gián đoạn
Ví như đại thương chủ
Dẫn dắt các nhà buôn
Biết rõ đường khó dễ
An ổn đến thành lớn
Bồ-tát Địa thứ nhất
Sự hiểu biết cũng thế
Dũng mãnh không chướng ngại
Đến được Địa thứ mười
Trụ ở Địa thứ nhất
Làm vua đủ công đức
Dạy chúng sinh bằng pháp
Tâm từ, không tổn hại
Thống lãnh châu Thiệm bộ
Hành hóa khắp các cõi
Khiến người trụ pháp thí
Thành tựu trí tuệ Phật
Vì cầu đạo thù thắng
Bỏ cả nước, ngôi vua
Xuất gia trong Phật pháp
Dũng mãnh dốc tu tập
Đạt trăm Tam-ma-địa
Gặp được trăm Đức Phật
Chấn động trăm thế giới
Đi lại và chiếu soi
Thành tựu trăm chúng sinh
Biết việc trong trăm kiếp
Thâm nhập trăm pháp môn
Thị hiện trăm thần tướng
Và hiện trăm Bồ-tát
Làm quyến thuộc của mình
Với nguyện lực tự tại
Hơn đây cả vô lượng
Tôi đã lược nói qua
Nghĩa thú của địa này
Nếu phân biệt đầy đủ
Ức kiếp cũng không hết
Đạo Bồ-tát tối thắng
Là lợi ích chúng sinh
Tôi nay đã giảng xong
Pháp Sơ địa như thế.

*********

Phẩm 2: ĐỊA LY CẤU

Các Bồ-tát đã nghe
Pháp vi diệu tối thắng
Tâm ý rất thanh tịnh
Tất cả đều vui mừng
Từ chỗ ngồi đứng dậy
Bay lên trên hư không
Rải các hoa thượng diệu
Đồng thời cùng khen ngợi:
Hay thay Kim Cang Tạng
Bậc trí lớn không sợ
Giảng nói về địa này
Pháp Bồ-tát thực hành.
Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt
Biết tâm chúng thanh tịnh
Thích nghe các hành tướng
Của trụ Địa thứ hai
Nên thưa Kim Cang Tạng
Xin đại trí diễn thuyết
Phật tử đều thích nghe
Về trụ Địa thứ hai.

Bồ-tát Kim Cang Tạng bảo các Bồ-tát:

–Phật tử, Bồ-tát đã an trụ nơi Địa thứ nhất, muốn cầu trí Địa thứ hai, phải phát mười tâm ý lạc. Mười tâm đó? Đó là:

  1. Ngay thật.
  2. Dịu dàng.
  3. Gắng nhận.
  4. Điều phục.
  5. Tịch diệt.
  6. Hiền thiện.
  7. Không tạp loạn.
  8. Không tham luyến.
  9. Thù thắng.
  10. Rộng lớn.

Đã phát mười tâm này, tất cả sẽ an trụ địa Ly cấu thứ hai.

Phật tử, khi Bồ-tát trụ địa Ly cấu, thì tự tánh thành tựu mười nghiệp lành. Từ bỏ sát sinh, vứt dao gậy, không mang hiềm hận, biết hổ thẹn, hiện bày tâm nhân từ, bao dung, luôn có tâm lợi ích, thương yêu chúng sinh, Bồ-tát luôn suy xét, với loài có mạng sống còn không làm hại, huống chi tự thân giết hại chúng sinh, chúng sinh có thân nghiệp, có suy xét đúng đắn!

Không trộm cướp, phải biết đủ với tài vật địa của mình, thương yêu, không hại danh vị tài vật người khác, không sinh tâm trộm cắp vật của người hoặc vật tưởng của người, ngay cọng cỏ, lá rau, người ta không cho thì không lấy, huống là những vật nuôi sống khác.

Bỏ tà dâm, là biết đủ với vợ mình, không hành dâm với vợ người, không có tâm ô nhiễm với vợ người, hoặc người đã được bà con thân thuộc cưới hỏi, hoặc người nữ đứng đắn, huống gì hai thân giao phối.

Bỏ lời nói dối, là luôn nói lời chân thật, hợp thời, cho đến trong giấc mộng cũng không có ý dối người bằng cách che giấu hay thích nói lời hư dối, huống gì cố ý. Bỏ lời nói chia rẽ, là không hủy hoại chúng sinh, không làm hại; là tu tập hạnh chân chánh. Không vì hại người này mà đem lời người kia nói cho người này. Những người chưa hại nhau, thì làm cho họ không hại nhau; những người đã hại nhau thì không cho phát triển; không vui thích và không nói lời chia rẽ, cho dù là thật hay không thật. Bỏ lời thô ác, tức là những lời nói độc ác, thô lỗ, khiêu khích người khác; làm cho họ sân hận sau lưng, trước mặt âu sầu; những lời cộc cằn không vui tai, khiến họ tức giận như lửa thiêu đốt, sinh ra oán kết khổ não, hại cả mình lẫn người… Phải từ bỏ tất cả những lời nói như vậy. Luôn nói lời êm dịu, hòa nhã, vui lòng, thích nghe; để nghe người vui vẻ nhớ mãi; lời nhã nhặn hợp pháp, làm nhiều người yêu thích, vui vẻ thanh tịnh cả mình lẫn người. Bỏ lời ô tạp, suy xét lời chân thật hợp thời, đúng nghĩa, đúng pháp; lời thuận đạo lý, điều phục, lời mạch lạc, tùy lúc suy xét, có duyên hợp mới nói, cho dù là lời đùa cũng suy xét kỹ, huống gì là cố ý nói lời tạp loạn.

Không tham dục lạc, tài vật của người, không sinh tâm tham cầu; tâm không sân hận, luôn phát tâm Từ bi, tạo lợi ích, yêu thương, ban ân cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn dứt trừ phẫn nộ, giận dữ, ganh ghét, luôn suy xét, tùy thuận thực hành tánh từ bi lợi ích; hiểu đúng và tùy thuận chánh đạo; bỏ việc xem bói, tốt xấu, và các giới tà vạy. Thấy biết đúng đắn, không dua nịnh dối trá, ý bền vững đối với Phật, Pháp, Tăng.

Phật tử, Bồ-tát khi hộ trì mười nghiệp lành liên tục, không thiếu sót, thì phát những tâm như vạy. Thấy chúng sinh, sở dĩ bị khổ não trong đường ác chìm sâu, đều do làm mười việc ác; cho nên ta phải an trụ nơi hạnh chân chánh để khuyên chúng sinh cũng an trụ nơi hạnh này. Vì sao? Vì không thể có việc: Mình không tu chân chánh mà dạy người tu chân chánh! Lại suy xét: vì làm mười việc ác nên có địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ; do làm mười việc lành mà có cõi người, cõi trời… Trên những cõi này, đều là do tu tập hành tướng của trí tuệ. Nghĩa là, do tâm tu mười nghiệp lành còn yếu kém, sợ ba cõi, thiếu đại Bi, nghe người giảng dạy mới hiểu rõ. Thực hành lời dạy, thành tựu Thanh văn thừa. Lại từ đây tiến tu, làm thanh tịnh mười nghiệp lành, không do người chỉ dạy, tự mình giác ngộ; thiếu phương tiện đại Bi; hiểu sâu pháp duyên sinh, thành tựu Độc giác thừa. Rồi từ đấy, tiến tu thanh tịnh mười nghiệp lành, tâm rộng lớn bao la, đủ từ bi, gồm cả phương tiện quyền biến, phát nguyện lớn, không bỏ chúng sinh, hiện quán vô lượng trí của Phật, thành tựu pháp giải thoát, làm thanh tịnh các địa Bồ-tát, hành hạnh chân chánh thanh tịnh rộng lớn. Rồi cũng từ đấy tiến tu, làm thanh tịnh mười nghiệp lành, cho đến thành tựu mười lực của Phật, tu chứng tất cả Phật pháp. Ta nay đã xuất ly, nhưng lại ở trong tất cả hành tướng thanh tịnh của Niết-bàn mà tu tập. Phật tử, Bồ-tát dần dần học những việc như vậy.

Lại nữa, mười nghiệp ác nếu vào hạng nặng thì làm nhân của địa ngục, hạng vừa thì làm nhân của súc sinh, hạng nhẹ thì làm nhân của quỷ đói. Giết chúng sinh thì bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói.

Nếu sinh trong cõi người chịu hai quả báo:

-Nghèo khổ.

-Của cải bị phân tán.

Tà hạnh bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Vợ không trinh thuận.

-Không nhờ vả được bà con.

Nói dối thì bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Luôn bị phỉ báng.

-Bị người dối gạt.

Nói hai lưỡi thì bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh

trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Bà con chống trái.

-Thường bị chê bai.

Nói lời ác thì bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Nghe lời trái tai.

-Luôn bị tranh kiện.

Nói tạp loạn thì bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Nói năng không ai nghe. -Nói năng không rõ ràng.

Tham dục thì bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Tâm không biết đủ.

-Tham lam không chán.

Sân hận thì bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Luôn bị người khác vạch chỗ hay dở.

-Luôn bị người làm hại.

Tà kiến thì bị đọa vào địa ngục, súc sinh, quỷ đói. Nếu sinh trong cõi người, chịu hai quả báo:

-Thấy hiểu không ngay thẳng.

-Tâm luôn dối trá.

Do mười nghiệp ác này mà tạo ra khổ uẩn lớn vô lượng, vô biên. Vì thế, ta phải đoạn trừ hẳn mười nghiệp ác; để được ở trong vườn pháp, thọ hưởng niềm vui của pháp. Bồ-tát luôn an trụ trong mười nghiệp lành, khuyên dạy người an trụ. Đối với chúng sinh, Bồtát luôn phát khởi những tâm lợi ích, an lạc, Từ bi, bao dung, gìn giữ, bảo hộ, khiêm tốn, làm gương, làm thầy dẫn dắt, xem chúng sinh như mình.

Lại nghĩ: Thật khổ thay! Chúng sinh bị đọa trong tà kiến, chạy theo hiểu biết sai lầm, thuận ý sai lạc, đi trong rừng rậm phiền não, đường hẹp; ta nên khiến chúng sinh quay về đường chánh, hiểu biết đúng, an trụ trong pháp như thật. Chúng sinh nào chống trái, tranh tụng, lăng nhục nhau, luôn bị phẫn nộ giận dữ thiêu đốt; ta nên khiến chúng an trụ trong pháp nuôi sống bằng nghề chân chánh, thanh tịnh thân, ngữ, ý. Chúng sinh nào chạy theo các nhân tham, sân, si, luôn bị lửa phiền não đốt mà không tìm cách ra khỏi; ta nên khiến chúng dập tắt lửa phiền não, an trụ trong Niết-bàn thanh tịnh, mát mẻ, không tai họa. Chúng sinh nào bị vô minh tăm tối che lấp, vào trong rừng rậm phiền não tối tăm, xa cách ánh sáng tuệ, rơi trong chốn mịt mù, đi vào đường hiểm, chấp chặt sự hiểu biết của mình; ta nên khiến chúng sinh đạt mắt tuệ thanh tịnh không chướng ngại, biết tánh như thật của các pháp, không tùy thuận giáo pháp khác. Chúng sinh nào chạy trong đường hiểm sinh tử vắng vẻ, sắp rơi vào hố sâu cõi ác địa ngục, súc sinh, quỷ đói, hoặc bị nhốt trong lưới tà kiến ác độc hại, bị ngu si che lấp, đi trong đường hẹp tà kiến, mất mắt tuệ, thiếu bậc thầy dẫn đường, có tưởng không muốn xuất ly, đi vào cảnh giới của ma Ba-tuần, bị giặc cướp bắt bớ giam cầm, xa lìa người dẫn dắt có tâm đại Bi với phương tiện quyền xảo, chạy theo nẻo rừng rậm phiền não thuộc ý lạc của các ma, cách biệt hoàn toàn với ý lạc của Phật, đối với các chúng sinh ấy, ta nên tạo sự thuận hợp để chỉ rõ về đường hiểm sinh tử đó nhằm cứu vớt, để các chúng sinh đó an trụ trong thành lớn không lo sợ của trí Nhất thiết trí. Chúng sinh nào trôi nơi dòng thác lớn, chìm trong sóng to, bị cuốn theo dòng dục, hữu, vô minh kiến, men theo sinh tử, nổi chìm trong sông ái, bôn ba rong ruổi, không ngừng nghỉ để quán sát, thuận theo tham, sân, si, kiêu mạn, bị La-sát thân kiến giữ chặt, qua lại tới lui trong tập khí dục, đắm chìm vui thích trong bùn nhơ sóng dữ, vào trong thác ngã mạn, không nơi nương tựa, không vượt khỏi sáu xứ xóm làng, xa cách bậc tài trí cứu độ; ta nên dùng sức nơi căn lành đại Bi để cứu vớt, làm cho các chúng sinh đó an trụ nơi đảo Nhất thiết trí, không tai họa, không nhơ uế, tịch tĩnh, không còn lo sợ. Chúng sinh nào bị đóng kín nơi ưu sầu khổ não, bị xiềng trong gông cùm khát ái, trong rừng rậm vô minh ngu tối, bị nhốt nơi ngục ba cõi; ta nên khiến chúng vĩnh viễn ra khỏi ba cõi, an trụ trong Niết-bàn rốt ráo không chướng ngại. Chúng sinh nào chấp trước ngã, chấp giữ năm uẩn không thể tiến triển, làm theo bốn loại điên đảo, nương tựa vào xóm làng là sáu xứ trống không, bị rắn độc bốn đại chủng rượt đuổi, oán giặc năm uẩn vây hại, chịu vô lượng khổ; ta nên khiến chúng trụ trong chỗ thù thắng, không còn tham vướng, tức là Vô dư Niết-bàn lìa chướng ngại. Chúng sinh nào nghe giảng về tâm Nhất thiết trí vô thượng mà hiểu biết hẹp hòi kém cỏi, phải cầu pháp giải thoát, phát tâm Thanh văn và Độc giác; ta nên khiến chúng quán pháp vi diệu của Phật trụ trong tâm đạo Vô thượng rộng lớn.

Phật tử! Bồ-tát tùy thuận vào sức gìn giữ giới thanh tịnh, làm mọi việc bằng phương tiện khéo léo, trụ trong địa Ly cấu. Do hiểu biết và nguyện lực rộng lớn nên gặp được trăm trăm ngàn ngàn ngàn ức na-do-tha Phật. Đã gặp Phật, Bồ-tát này dùng tâm rộng lớn tăng thượng, cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường các thứ y phục, thức ăn, đồ ngồi, thuốc men, các vật cần dùng, phụng hiến cho Bồ-tát các thứ tạo an lạc vi diệu, cung kính đối với tăng chúng, hồi hướng căn lành lên đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Với tâm tôn trọng, Bồ-tát ở chỗ Phật, thọ trì mười nghiệp lành cho đến pháp Bồ-đề không hề quên sót. Nhờ vậy, Bồ-tát trải qua vô số, vô số kiếp, dứt trừ được tham lam bỏn sẻn và sự phạm giới, thành tựu đầy đủ bố thí, trì giới thanh tịnh.

Phật tử! Ví như vàng được tôi luyện đúng cách, trừ hết tạp nhơ thì càng rực rỡ. Bồ-tát trụ nơi địa Ly cấu cũng thế trải qua vô số kiếp, trừ bỏ tham lam keo kiệt và sự phạm giới, thành tựu đầy đủ bố thí, trì giới thanh tịnh. Song trong bốn Nhiếp pháp, Bồ-tát này tu nhiều về ái ngữ. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát này tu nhiều về giới Ba-la-mật, còn các Ba-la-mật khác thì tùy sức tùy phần mà tu tập.

Phật tử! Đó là lược nói về địa Ly cấu thứ hai của Bồ-tát. Bồ-tát trụ địa này, thường sinh làm Chuyển luân thánh vương, đạt pháp tự tại đầy đủ uy lực, có đủ bảy báu, đủ sức mạnh trừ sạch các thứ nhơ uế, phạm giới của chúng sinh, đủ phương tiện hay, làm cho chúng sinh an trụ trong mười nghiệp lành. Hành trì việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về giải thoát, về các trụ địa, về pháp không sợ, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về hình tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện, ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng vi diệu vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí, phải siêng năng phát tâm như vậy; xả bỏ nhà cửa quyến thuộc, tài sản, xuất gia tin theo Thánh giáo của Phật; đã xuất gia thì trong khoảnh khắc tu tập, đạt ngàn Tam-muội, gặp ngàn Đức Phật, được Phật gia hộ, làm cho thông hiểu tất cả, làm chuyển động ngàn thế giới, đi khắp ngàn cõi nước, soi chiếu ngàn cảnh giới, thành tựu ngàn loại chúng sinh, sống ngàn kiếp, nơi ngằn métrước sau đều vào trong ngàn kiếp, suy xét rõ ngàn pháp, thị hiện ngàn thân, mỗi thân hiện bày ngàn Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông, ánh sáng, thân tướng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, hiểu biết, gìn giữ, tạo tác, cho dù trải qua ngàn ngàn câu-chi kiếp, cũng không thể nói hết.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại nghĩa trên bèn nói kệ rằng:

Ngay thật, nhu hòa và gắng nhận
Điều phục, vắng lặng cùng Hiền thiện
Không tạp, không luyến, thắng, rộng lớn
Nhờ mười ý lạc nhập Hai địa
Ở đây thành tựu công đức giới
Xa lìa sát sinh, không làm hại
Trừ tâm trộm cướp và tà hạnh
Lừa dối, thô, tạp cùng chia rẽ
Không tham của vị, luôn thương yêu
Chánh kiến chân thật, không dua nịnh
Dứt bỏ kiêu mạn, tâm hòa nhã
Thực hành đúng pháp, không buông lung
Địa ngục, súc sinh chịu khổ não
Quỷ đói luôn bị lửa thiêu đốt
Tất cả đều do tội đưa đến
Ta nên trừ bỏ, trụ vườn pháp
Tùy ý thọ sinh trong cõi người
Cho đến hỷ lạc trời Hữu đảnh
Thanh văn, Độc giác và Phật thừa
Từ mười nghiệp lành được thành tựu
Suy xét như thế, không buông lung
Tự giữ tịnh giới, dạy người giữ
Lại thấy chúng sinh chịu khổ não
Phát khởi tâm bi càng mạnh mẽ
Phàm phu ngu si hiểu sai lệch
Luôn mang sân hận, thường tranh chấp
Tham cầu cảnh giới không biết chán
Ta nên khiến chúng trừ ba độc
Ngu si tăm tối luôn che lấp
Rơi trong đường hiểm, lưới tà kiến
Trói buộc trong vòng sinh tử khổ
Ta nên khiến chúng đuổi giặc ma
Trôi nổi chìm đắm theo bốn dòng
Nhốt trong ba cõi chịu khổ não
Xem uẩn là nhà, chấp trước ngã
Vì cứu chúng sinh, siêng hành đạo
Cầu pháp giải thoát, tâm yếu kém
Bỏ trí tối thượng của chư Phật
Ta nên khiến chúng trụ Đại thừa
Siêng năng tu tập không chán mệt
Bồ-tát ở đây tu công đức
Gặp vô lượng Phật lại cúng dường
Trải qua ức kiếp gắng tu tập
Như đem vàng quặng luyện vàng ròng
Người trụ địa này làm Luân vương
Giáo hóa chúng sinh hành mười thiện
Tu tập tất cả các pháp lành
Thành tựu mười lực cứu thế gian
Muốn bỏ ngôi vua và tài sản
Xuất gia hành hóa trong Phật pháp
Dũng mãnh, tinh tấn chẳng bao lâu
Đạt ngàn Tam-muội, thấy ngàn Phật
Bồ-tát địa này thị hiện hết
Bao nhiêu thần thông, sức biến hóa
Nếu dùng nguyện lực thì hơn đây
Vô lượng tự tại cứu chúng sinh
Tu hạnh tối thắng của Bồ-tát
Đem lợi ích cho cả thế gian
Đã vì Phật tử diễn thuyết xong
Địa thứ hai, công đức là vậy.

*********

Phẩm 3: ĐỊA PHÁT QUANG

Phật tử đã nghe hạnh địa ấy
Cảnh giới Bồ-tát khó nghĩ bàn
Thảy đều hoan hỷ tâm cung kính
Rải hoa cúng dường từ hư không
Khen ngợi: Lành thay! Đại tiên chủ Tâm
Từ thương xót các chúng sinh
Bậc Đại trí giảng pháp nghi
Hành tướng an trụ Địa thứ hai
Là hạnh vi diệu của Bồ-tát
Chân thật, không đổi, không sai khác
Vì muốn lợi ích các chúng sinh
Diễn thuyết hạnh nghiệp thanh tịnh nhất
Tất cả trời, người đều cúng dường
Xin hãy giảng thuyết Địa thứ ba
Các nghiệp trí tương ưng cùng pháp
Xiển dương đầy đủ cảnh giới ấy
Thí, giới, thanh tịnh của Đại tiên
An ổn, siêng năng, tuệ, thiền định
Các pháp Từ bi và phương tiện
Xin hãy thuyết đại thanh tịnh Phật Bồ-tát
Giải Thoát Nguyệt lại thưa:
Kim Cang Đại sư, bậc Vô úy
Xin hãy giảng thuyết các công đức
Nhập Địa thứ ba, tâm nhu hòa

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với chúng Bồ-tát:

–Phật tử, Bồ-tát ở đại thứ hai đã tinh tấn, thanh tịnh, tâm ý, tăng thượng muốn nhập trụ Địa thứ ba của Bồ-tát thì phải phát mười loại tâm. Mười tâm ấy là gì? Đó là:

  1. Tâm thanh tịnh.
  2. An trụ.
  3. Xa lìa.
  4. Bỏ dục.
  5. Không thoái lui.
  6. Kiên cố.
  7. Mạnh mẽ.
  8. Dũng mãnh.
  9. Thù thắng.
  10. Rộng lớn.

Nhờ mười tâm này, Bồ-tát nhập Địa thứ ba. Phật tử, lúc Bồ-tát trụ ở Địa thứ ba, quán sát tất cả hạnh hữu vi đều là vô thường, khổ bất tịnh, không thể nương tựa, cuối cùng bị hư hoại, không tồn tại lâu, sinh diệt trong từng sát-na, không từ quá khứ đến, chẳng đi về vị lai, hiện tại không dừng. Bồ-tát không điên đảo khi quán sát tất cả các hành. Lại quán sát thân này không ai cứu giúp, không chỗ nương tựa, luôn bị buồn lo khổ não, yêu ghét trói buộc, khổ đau buồn chán hoài không dứt bị lửa tham, sân, si thiêu đốt, các bệnh thêm nhiều. Thấy như vậy, Bồ-tát tu tập tất cả hạnh, khiến thăng tiến đến trí ấn của Phật. Bồ-tát thấy trí Như Lai là không thể nghĩ bàn, chẳng gì sánh bằng, không thể xét lường, khó đạt được, không tạp loạn, không tai họa, khổ não, đến thành vô úy cũng chẳng thoái lui, cứu độ vô số chúng sinh khổ não. Bồ-tát thấy trí Như Lai, có vô số lợi ích, mà các hành thì có vô số tai họa. Vì thế ở trong chúng sinh, Bồ-tát phát khởi mười loại tâm nhằm cứu độ. Mười tâm đó là gì? Đó là:

  1. Thấy chúng sinh cô độc không nơi nương tựa (dốc tâm cứu độ).
  2. Luôn nghèo khổ.
  3. Bị lửa dữ tham, sân, si thiêu đốt.
  4. Bị nhốt trong lao ngục.
  5. Luôn bị rừng rậm phiền não che lấp tâm.
  6. Không thể quán sát.
  7. Không thích pháp lành.
  8. Quên Phật pháp.
  9. Trôi theo dòng sinh tử.
  10. Mất đạo giải thoát.

Phát mười tâm nhằm cứu độ như thế, Bồ-tát thấy cõi chúng sinh đầy dẫy tai họa, nên phát khởi sự tinh tấn lớn, suy nghĩ: Đối với các chúng sinh, nay ta phải cứu độ khiến họ được giải thoát, khiến họ được thanh tịnh, được ra khỏi, được hướng nhập, được an trụ, được hoan hỷ, được vui thích, được điều phục, được vắng lặng. Bồ-tát chán lìa các hành, phát tâm thương yêu chúng sinh, thấy lợi ích thù thắng của trí Phật, nương tựa trí Như Lai; vì cứu chúng sinh mà siêng tu tập. Lại nghĩ: ta phải dùng pháp gì để cứu độ chúng sinh: Những kẻ đang ở trong đau khổ, phiền não, nhiễm ô, để chúng sinh được an trụ nơi Niết-bàn rốt ráo an lạc. Bồ-tát lại nghĩ: Pháp đó không ngoài trí vô ngại và sự giải thoát. Trí giải thoát không chướng ngại này, không ngoài sự hiểu biết như thật về các pháp. Sự hiểu biết này, không ngoài việc thực hành tuệ không hành, không sinh. Tuệ sáng này, không ngoài sự quán sát diệu tuệ, Thiền định phương tiện chắc thật. Sự quán sát đó, không ngoài sự học rộng khéo léo, tinh xảo. Bồ-tát dùng trí khéo quán sát, chuyên tâm tìm cầu, thực hành pháp chân chánh; luôn thích nghe pháp; vui vẻ nương tựa pháp; an trụ, tu tập, quy y và tùy thuận thực hành pháp. Bồ-tát khi mong cầu Phật pháp, tu hạnh chân chánh, bố thí tất cả mọi vật cần dùng dù nhỏ, hoặc tiền của, lúa gạo, kho lẫm. Xem những vật ấy không khó tìm, chỉ thấy khó gặp người thuyết pháp. Vì Phật pháp mà bố thí tất cả mọi vật bên ngoài và cả thân mạng, nguyện phụng sự Thầy tổ, trừ bỏ kiêu mạn, quá mạn, khiêm nhường, gắng hành trì, nguyện chịu đựng tất cả khổ đau của thân. Nếu nghe được một bài kệ bốn câu Phật pháp, thì vui vẻ hơn là được kho châu báu tràn đầy trong Tam thiên đại thiên. Nghe ai giảng pháp chân chánh thì vui sướng hơn được làm Đế Thích, Phạm thiên hay ngàn kiếp ở ngôi vị tối cao. Nếu có ai nói: Ta có một bài kệ Phật pháp, có thể đạt quả Phật, thanh tịnh hạnh nghiệp của Bồ-tát; nếu ông chịu nhảy vào hầm lửa lớn, chịu nhiều khổ đau, thì ta sẽ giảng thuyết cho. Nghe vậy, Bồ-tát nghĩ: Vì nghe một câu Phật pháp để đạt quả Phật, thanh tịnh hạnh nghiệp của Bồ-tát; cho dù phải ở từ cõi Phạm thiên nhảy vào hầm lửa lớn, bằng Tam thiên đại thiên cõi cũng làm được, huống gì hầm lửa nhỏ! Lại nữa, ta vì cầu Phật pháp, cho dù phải ở mãi trong địa ngục, chịu khổ não lớn cũng được, huống gì khổ nhỏ trong cõi người mà không chịu được sao? Bồ-tát phát tâm siêng năng cầu chánh pháp rồi, quán sát đúng lý những gì đã nghe; chánh pháp đã nghe phải tìm chỗ vắng tự tâm dũng mãnh suy nghĩ. Vì tùy pháp mà tu hành đúng chánh pháp, nên gọi là tùy thuận Phật pháp, chứ chẳng phải chỉ vì thuần giảng thuyết mà được thanh tịnh.

Bồ-tát khi trụ địa Phát quang này, luôn tùy pháp mà tu hành đúng pháp thì phải bỏ dục, bỏ các pháp ác, có tầm, có tứ, đạt ly sinh hỷ lạc, an trụ đầy đủ ở Thiền thứ nhất.

Tầm, tứ đều vắng, bên trong bình đẳng, thanh tịnh, chuyên nhất; không tầm, không tứ, đạt định ly sinh hỷ lạc, an trụ đầy đủ ở Thiền thứ hai.

Bỏ vui hỷ dục, an trụ xả, chánh niệm, chánh tri, thọ nhận lạc của thân; ở đó dùng trí biết đúng theo chỗ nêu bày của các Thánh, đầy đủ xả niệm cùng chánh tri, trụ thân thọ lạc, nhập thiền thứ ba.

Dứt hết vui khổ mừng lo; không khổ, không vui đạt xả niệm thanh tịnh, an trụ đầy đủ, nhập Thiền thứ tư.

Bồ-tát lại phải vượt tất cả vọng tưởng về sắc, dứt hết tưởng có đối, vì không vọng tưởng, nên biết về hư không vô biên, an trụ đầy đủ nhập Không vô biên xứ.

Vượt hết thảy Không vô biên xứ, biết thức vô biên, an trụ đầy đủ, nhập Thức vô biên xứ.

Vượt hết thảy Thức vô biên xứ, biết về không sở hữu, an trụ đầy đủ nhập Vô sở hữu xứ.

Vượt hết thảy Vô sở hữu xứ, biết về Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ đầy đủ nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Tùy thuận thực hành đúng pháp, không vì tham chấp, nơi đầy đủ sự an ổn. Bồ-tát tu tâm Từ bi rộng lớn, không hai, không hạn lượng, không oán giận, không chướng ngại, làm hại, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, an trụ trong tất cả thế gian để che chở chúng sinh, đều bằng tâm Từ, tu tâm Bi, Hỷ, Xả cũng như vậy; đều rộng lớn, không hai, không hạn lượng, không oán giận, không chướng ngại, làm hại, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, an trụ trong tất cả thế gian để che chở chúng sinh đều bằng tâm xả. Bồ-tát được sử dụng vô số sự biến hóa thần thông chấn động các cõi. Biến một thân thành nhiều thân; nhiều thân thành một thân; hoặc ẩn hiện nhanh lẹ không chướng ngại, xuyên qua cả tường vách đá núi, như đi trong hư không. Ở trong hư không, an tọa qua lại như chim bay; ra vào đất như ra vào nước; đi trên nước như đi trên đất; thân phóng lửa lớn; tuôn nước như mưa lớn; dùng oai thần công đức lớn chạm tay đến mặt trời, mặt trăng, tự tại đi lại đến cõi Phạm thiên. Dùng tai nghe xa, nghe cả tiếng cõi trời, người, dù xa hay gần cho đến nghe cả tiếng ruồi muỗi vo ve, các loài côn trùng… Dùng Tha tâm trí, biết đúng như thật về tâm chúng sinh: Có tâm tham, tâm không tham; có sân, không sân; có si, không si; có nhiễm ô, không ô nhiễm, nhỏ hẹp, rộng lớn, vô lượng, tán, tụ, trụ định, xuất định, đã giải thoát, chưa giải thoát, có cố gắng, không cố gắng, thô, tế tất cả đều biết đúng như thật. Với Tha tâm trí, Bồ-tát còn biết những suy nghĩ trong tâm của các loại hữu tình khác nữa. Bồ-tát dùng túc trụ trí tùy niệm; nghĩa là tùy niệm biết được vô số việc ở quá khứ, biết rõ việc của mình, của người trong một, hai, ba, bốn, năm cho đến mười, hai mươi, ba, bốn, năm mươi cho đến trăm ngàn đời, biết kiếp thành, kiếp hoại, kiếp thành hoại, cho đến tùy niệm biết rõ về vô số, vô số kiếp thành hoại. Biết mình từng sinh ở đó, tên họ đó, dòng họ đó, hình dáng, ăn uống, đời sống, thọ mạng dài lâu khổ vui như vậy. Ở đó chết, sinh về đây; chết ở đây, sinh về chỗ kia; có hình dáng, có ngôn ngữ biết hết mọi việc lớn nhỏ ở quá khứ đều tùy niệm. Dùng Thiên nhãn thông, thấy chúng sinh lúc sống, lúc chết, đẹp xấu, ở cõi ác, ở cõi lành, yếu mạnh, đều hành động theo nghiệp… Biết chúng tạo hành động do thân, khẩu, ý ác; đọa vào cõi ác địa ngục. Chúng sinh nào hành động bằng thân, khẩu, ý lành, khen ngợi Hiền thánh, thành tựu chánh kiến. Nhờ nghiệp chánh kiến, sau khi chết, được sinh lên cõi trời, thọ hưởng diệu lạc. Bồ-tát tùy ý ra vào thiền định, giải thoát, không do oai lực thọ sinh. Thấy nơi nào sớm viên mãn pháp Bồ-đề thì dùng nguyện lực sinh ra ở đó. Với sự hiểu biết và sự thệ nguyện rộng lớn.

Bồ-tát trụ địa Phát quang này gặp vô số trăm ngàn câu-chi Phật. Gặp Phật rồi, Bồ-tát dùng tâm rộng lớn, thanh tịnh, tăng thượng mà cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường các thứ y phục, thức ăn, đồ ngồi, thuốc men, những vật cần dùng, trổi nhạc cúng dường Bồ-tát, cung kính chúng Tăng, hồi hướng căn lành về đạo Vô thượng Bồ-đề, ân cần tôn trọng phụng sự Như Lai. Còn ở chỗ Phật thì cung kính nghe pháp, nghe rồi tùy thuận tu tập. Bồ-tát quán tất cả pháp không dời đổi, cũng không hoại diệt, do nhân duyên mà có; Bồ-tát phải dần dần trừ diệt các thứ dục, sắc, hữu, vô minh đang trói buộc; trước phải đoạn trừ kiến chấp. Bồ-tát trụ nơi địa này, trải qua trăm trăm ngàn vô vô lượng vô số kiếp, chẳng những không chứa nhóm mà phải đoạn trừ tà kiến, tham dục, sân hận, ngu si, thì những căn lành đã có mới dần dần thanh tịnh.

Phật tử! Ví như vàng, được người thợ giỏi tôi luyện, trừ bỏ tạp cấu mà không giảm lượng. Bồ-tát trụ nơi địa này cũng thế, trải qua vô số kiếp, vì không chứa nhóm nên đoạn trừ hết tham, sân, si, và căn lành có được lại càng thanh tịnh. Bồ-tát lại thành tựu tâm gắng nhận, hòa nhã, vui vẻ, không sân, chẳng động, trong sạch, không cao thấp, chẳng thấy chúng sinh thấp kém, không mong báo đáp, không dua dối, mê mờ. Trong bốn Nhiếp pháp, Bồ-tát tu nhiều về lợi hành. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về nhẫn, các Ba-la-mật khác thì tùy sức tùy phần mà tu tập.

Phật tử! Đó là lược nói về địa Phát quang thứ ba. Bồ-tát an trụ ở đấy, thọ sinh thường làm Đế Thích, có đủ uy lực giáo hóa chúng sinh, khiến chúng lìa tham dục; cứu vớt những kẻ chìm trong bùn dục. Làm mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời sự suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về giải thoát, về các trụ địa, về pháp không sợ, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời hình tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện, ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng, vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu xuất gia, thì không bao lâu chứng được trăm ngàn Tam-muội của Bồ-tát; gặp trăm ngàn Đức Phật, được Phật gia hộ khiến thông hiểu tất cả; làm chuyển động trăm ngàn thế giới, đi khắp trăm ngàn cõi nước, soi chiếu trăm ngàn cảnh, thành tựu cho trăm ngàn loại chúng sinh, sống trăm ngàn kiếp, nơi ngằn mé trước sau đều vào trong trăm ngàn kiếp; suy xét rõ trăm ngàn pháp, thị hiện trăm ngàn thân, mỗi thân hiện trăm ngàn Bồtát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông, ánh sáng thân tướng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, gìn giữ, tạo tác cho dù trải qua trăm ngàn câuchi kiếp cũng không thể nói hết.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại ý nghĩa trên bèn nói kệ rằng:

Thanh tịnh, an trụ, tâm chán lìa
Rời dục, vững chắc không thoái lui
Mạnh mẽ, thù thắng, lớn, vi diệu
Nhờ mười tâm này nhập ba địa
Bồ-tát an trụ trong địa ấy
Quán hành vô thường, khổ, bất tịnh
Không bền, hư hoại, chẳng tồn tại
Thay đổi không ngừng chẳng đến đi
Xét thân khổ não, không chỗ tựa
Đau buồn sầu khổ do ghét thương
Lửa khổ hừng hực không ngừng đốt
Sống trong bệnh hoạn chẳng nghỉ ngơi
Chán xa ba Hữu cầu trí Phật
Trí đó vi diệu không nghĩ bàn
Cao tột, khôn lường, khó chứng ngộ
Không loạn, chẳng hoạn, chẳng khổ não
An trụ vắng lặng, không thoái chuyển
Cứu độ vô số chúng sinh khổ
Thấy trí Phật rồi thương chúng sinh
Cô độc, bơ vơ, không người cứu
Ba độc thiêu đốt, thường nghèo thiếu
Ở trong địa ngục, luôn chịu khổ
Phiền não che đậy, mắt không trí
Tâm chí yếu kém, mất pháp bảo
Tùy thuận sinh tử, sợ Niết-bàn
Vì cứu chúng sinh, ta siêng năng
Mong cầu trí tuệ lợi chúng sinh
Xét tìm phương tiện khiến giải thoát
An trụ trí Phật, không chướng ngại
Nhờ hiểu thật lý, giáo Phật pháp
Trí tuệ vô sinh từ vô hành
Tuệ sinh từ định, định từ nghe
Suy xét như thế tự tinh tấn
Ngày đêm tu tập tôn trọng pháp
Phát tâm cung kính, nghe chánh pháp
Bố thí đất nước cùng trân bảo
Vợ con, quyến thuộc và ngôi vua
Đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi và răng
Tay, chân, xương, tùy, tim, máu, thịt
Bố thí tất cả mọi vậy ấy
Nhưng chẳng xem đó là khó làm
Chỉ thấy khó được gặp Pháp sư
Giả sử có người bảo Bồ-tát
Tự nhảy vào trong hầm lửa lớn
Ta sẽ thuyết giảng pháp báu Phật
Nghe thế nhảy vào không kinh sợ
Dù cho lửa đốt ba ngàn cõi
Từ cõi Phạm thiên nhảy vào lửa
Vì cầu chánh pháp không thấy khó
Huống gì tí khổ của thế gain
Từ lúc phát tâm đến giác ngộ
Dù phải chịu khổ não vô gián
Vì nghe chánh pháp nên cam nhận
Huống gì tí khổ của cõi người
Nghe rồi suy xét đúng thật lý
Đạt bốn Thiền định, bốn Tam-muội
Bốn Tâm vô lượng, năm Thần túc
Không theo uy lực mà thọ thân
Bồ-tát địa này gặp nhiều Phật
Cúng dường, nghe pháp, tâm bền vững
Đọan trừ tà hoặc được thanh tịnh
Như vàng tôi luyện thể không giảm
Bồ-tát địa này làm Đế Thích
Giáo hóa vô lượng, vô số chúng
Khiến bỏ tâm tham, trụ pháp lành
Tất cả đều cầu công đức Phật
Nếu siêng tu tập chẳng bao lâu
Đạt được trăm ngàn môn Tam-muội
Gặp trăm ngàn Phật, thân tướng đẹp
Nếu đủ nguyện lực thì hơn đây
Lợi ích tất cả các chúng sinh
Là hạnh tối thượng của Bồ-tát
Tất cả hành tướng Địa thứ ba
Tôi theo thật nghĩa đã giải bày.

 

Phẩm 4: ĐỊA DIỆM TUỆ

Phật tử đã nghe hạnh rộng lớn
Giáo pháp thắng diệu thật nhiệm mầu
Ai nấy vui mừng khôn xiết kể
Rải các hoa thơm cúng dường Phật
Trong lúc diễn thuyết diệu pháp này
Trời đất, biển lớn, đều chấn động
Tất cả Thiên nữ cùng vui mừng
Âm thanh hòa nhã tán thán Phật
Tự Tại Thiên vương cũng sung sướng
Mưa báu ma-ni cúng dường Phật
Khen Phật cứu đời, nên xuất thế
Diễn thuyết công đức hạnh cao tột
Thật nghĩa các địa của bậc trí
Trăm ngàn muôn kiếp thật khó gặp
Ta nay hốt nhiên lại được nghe
Thắng hạnh Bồ-tát, diệu pháp âm
Xin hãy diễn thuyết trí tuệ sáng
Các địa quyết định đạo rốt ráo
Lợi ích tất cả các đại chúng
Phật tử nơi đây đều thích nghe
Tâm lớn dũng mãnh Giải Thoát Nguyệt
Thưa với Bồ-tát Kim Cang Tạng
Xin hãy giảng thuyết các hành tướng
Từ đây an nhập Địa thứ tư.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với chúng Bồ-tát:

–Phật tử! Bồ-tát đã đạt thanh tịnh, thông suốt ở Địa thứ ba, muốn nhập Địa thứ tư, phải nhờ nơi mười pháp sáng. Mười pháp đó là gì?

  1. Suy xét cõi chúng sinh.
  2. Suy xét thế giới.
  3. Suy xét cõi pháp chân thật.
  4. Suy xét cõi hư không.
  5. Suy xét Thức giới.
  6. Suy xét cõi Dục.
  7. Suy xét cõi Sắc.
  8. Suy xét cõi Vô sắc.
  9. Suy xét cõi tâm chí vui vẻ thù thắng.
  10. Suy xét cõi tâm chí rộng lớn.

Nhờ mười pháp này, Bồ-tát nhập Địa thứ tư.

Phật tử! Bồ-tát đạt địa Diệm tuệ là do mười trí là pháp thành thục, làm tăng trưởng nhà Như Lai để đạt pháp thể đó. Mười trí ấy là gì?

  1. Tâm không thoái chuyển.
  2. Vững tin Tam bảo để đạt rốt ráo.
  3. Quán sát các hành thuộc tánh sinh diệt.
  4. Quán sát, lý giải tánh của các pháp không sinh khởi.
  5. Quán sự thành hoại của thế gian.
  6. Quán vì nghiệp mà có sinh tử.
  7. Quán sinh tử, Niết-bàn.
  8. Quán nghiệp nơi cõi của chúng sinh.
  9. Quán quá khứ, vị lai.
  10. Quán không tánh, không cùng tận.

Bồ-tát thành tựu mười trí là pháp thành thục, làm tăng trưởng nhà Như Lai, đạt được pháp thể.

Lại nữa, Phật tử, Khi Bồ-tát trụ ở địa này, tùy ở nội thân trụ quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian; Tùy ở ngoại thân trụ quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian.

Tùy ở nội ngoại thân trụ quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian.

Đối với cảm thọ bên trong, bên ngoài, cả trong lẫn ngoài, tâm bên trong, tâm bên ngoài, tâm cả trong lẫn ngoài, đều cũng như vậy. Tùy nội pháp trụ quán toàn pháp, quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian.

Tùy ngoại pháp trụ quán toàn pháp, quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian.

Tùy nội ngoại pháp trụ quán toàn pháp, quán toàn thân; khơi dậy ngọn lửa tinh tấn biết đúng để đoạn trừ ưu não, tham lam của thế gian.

Bồ-tát siêng ngăn chận pháp ác chưa sinh, luôn cảnh giác tâm mình, đoạn trừ pháp ác đã sinh và luôn cảnh giác tâm mình, phát sinh pháp lành chưa sinh, luôn nhắc nhở tâm mình; giữ gìn và phát triển pháp lành đã sinh, luôn nhắc nhở tâm mình.

Bồ-tát tu Dục đẳng trì đoạn hành, thành tựu thần thông, nương tựa vào sự xa lìa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Tu cần, tâm quán trì đoạn hành, thành tựu thần thông, nương tựa vào sự xa lìa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Bồ-tát tu các căn Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ nương tựa vào sự xa lìa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Tu các lực Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ nương tựa vào sự xa lìa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Bồ-tát tu các đẳng giác chi: Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, Xả, nương tựa vào sự xa lìa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Tu chánh kiến, chánh niệm, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh định, chánh tuệ, nương tựa vào sự xa lìa, vào không nhiễm ô, vào tịch diệt, và hồi hướng bằng Xả.

Bồ-tát tu tập các pháp Bồ-đề này, chỉ vì thương yêu tất cả chúng sinh, mà phát nguyện lớn để cứu độ, lấy đại Bi làm gốc, thành tựu đại Từ, suy xét Nhất thiết trí, phát nguyện trang nghiêm cõi Phật, phát lực, pháp không sợ, pháp Bất cộng, tiếng tốt, tiếng hay của Như Lai, mong cầu pháp thù thắng lâu dài, tùy thuận pháp giải thoát sâu xa của Phật mà thực hành, quán sát phương tiện khéo léo rộng lớn.

Phật tử! Khi Bồ-tát trụ địa Diệm tuệ này đoạn trừ tất cả các hoặc, vi tế như thân kiến, chấp ngã, chứa nhóm, tham vướng. Trừ bỏ mọi tạp nhiễm không nên làm mà các Đức Phật chê trách, thực hành hạnh chân chánh của Bồ-tát và việc được chư Phật khen ngợi. Nhờ đó dần dần đầy đủ đạo Bồ-tát, phát khởi trí tuệ phương tiện, như thật tu tập các pháp, đạt các tâm nhu hòa, nhẫn nhục, gắng nhận, lợi ích, không tạp nhiễm, mong cầu pháp thù thắng lâu dài, tâm trí cao thượng, tâm cứu độ chúng sinh, tâm tôn trọng tùy thuận Thầy Tổ, tâm thực hành đúng pháp, tâm biết ân đức; các tâm ấy thuận hợp, sống chung an lạc, ngay thật, nhu hòa, không mê mờ, không dua nịnh, kiêu mạn, khéo tùy thuận lời dạy dỗ.

Bồ-tát thành tựu nhẫn nhục, điều phục, vắng lặng; theo những thành tựu đó mà suy xét, thực hành, làm thanh tịnh hạnh nghiệp của địa này, luôn siêng năng, không nhiễm ô, chẳng thoái lui, rộng lớn, dũng mãnh không ai bằng hay hơn được; tinh tấn thành tựu chúng sinh, phân biệt rõ đạo, phi đạo. Tâm chí Bồ-tát càng thanh tịnh, tăng thượng, nhớ kỹ, thù thắng, sáng suốt, nhạy bén, căn lành trong sạch, đoạn trừ nhơ uế, nghi hoặc của thế gian, hiển hiện tánh không nghi, chứng đạt hỷ, khinh an, nhờ Như Lai gia hộ nên thành tựu tâm ý vui vẻ vô lượng.

Bồ-tát trụ ở địa này, dùng kiến kiến giải và nguyện lực rộng lớn để gặp được vô số trăm ngàn vạn ức Phật. Gặp Phật, Bồ-tát dùng tâm thanh tịnh rộng lớn, cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường các thứ y phục, thức ăn, đồ ngồi, thuốc men, các vật cần dùng, phụng hiến cho Bồ-tát các thứ tạo an lạc vi diệu, cung kính đối với chúng Tăng, hồi hướng căn lành lên đạo Vô thượng Bồ-đề, ân cần phụng sự các Đức Như Lai. Còn ở chỗ Phật, thì cung kính nghe pháp, nghe rồi thọ trì, tùy khả năng tu tập, vững tin, xuất gia trong giáo Phật pháp. Bồ-tát dàn dần có tâm thanh tịnh tăng thượng, tánh tin hiểu bình đẳng, căn lành đã có càng thù thắng thanh tịnh.

Phật tử, ví như thợ vàng khéo léo, làm các đồ trang sức bằng vàng, thì những thứ khác sẽ không sánh bằng. Phật tử, Bồ-tát này cũng thế, có các căn lành mà tất cả căn lành của các Bồ-tát nơi địa dưới không hơn được. Phật tử, ví như ngọc ma-ni ánh sáng rực rỡ mà các vật báu khác không hơn được, cho dù mưa, gió, nước trong khắp thế gian cũng không thể làm mất ánh sáng ấy. Ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát này, tất cả ma oán, phiền não hiện hành đều không che lấp được. Trong bốn Nhiếp pháp, Bồ-tát tu nhiều về đồng sự, trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Tinh tấn ba-la-mật, các Ba-la-mật khác thì tùy sức tùy phần mà tu tập.

Phật tử! Đó là lược nói về địa Diệm tuệ thứ tư của Bồ-tát. Bồ-tát trụ nơi địa này, thọ sinh thường làm Thiên vương Dạ-ma, đầy đủ uy lực giáo hóa chúng sinh, khiến chúng sinh đoạn trừ tà kiến, an trụ chánh kiến. Làm những việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về giải thoát, về các trụ địa, về diệu lực của Phật, về pháp không sợ, pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về hình tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu siêng năng phát khởi sự tu tập, thì sớm đạt câu-chi Tam-muội của Bồ tất, gặp câu-chi Đức Phật, và được Phật gia hộ, khiến thông hiểu tất cả, làm chuyển động câu-chi thế giới, đi khắp câu-chi cõi nước, soi chiếu câu-chi, thành tựu câu-chi loài chúng sinh, sống câu-chi kiếp; mỗi thân hiện câu-chi Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông án sáng thân tướng, mắt cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, hiểu biết gìn giữ, tạo tác, dù đủ trải qua câu-chi kiếp cũng không thể nói hết.

Bất giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghĩa trên bèn nói kệ rằng:

Bồ-tát thanh tịnh Địa thứ ba
Quán sát chúng sinh cảnh pháp giới
Không, thức, dục, sắc và vô sắc
Tâm ý thù thắng an nhập
Trụ địa Diệm tuệ của Bồ-tát
Ở nhà Như Lai không thoái chuyển
Tin Phật, Pháp, Tăng không hoại
Quán pháp sinh diệt, không sinh khởi
Quán đời thành hoại, do nghiệp sinh
Sinh tử Niết-bàn và các nghiệp
Quá khứ, vị lai tánh không cùng
Tu hành như thế ở nhà Phật
Đã đạt giáo pháp, Từ bi tăng
Chuyên cần tu tập bốn Niệm trụ
Thân, thọ, tâm, pháp; quán trong ngoài
Trừ sạch tham ái của thế gian.
Bồ-tát tu tập bốn Chánh đoạn
Trừ diệt pháp ác, tăng pháp lành
Lại tu Thần túc và Căn, Lực
Với bảy Giác phần, tám Thánh đạo
Vì độ chúng sinh tu giác phần
Thệ nguyện gìn giữ gốc Từ bi.
Cầu Nhất thiết trí nghiêm cõi Phật.
Lại duyên mười Lực của Như Lai
Bốn Vô úy, pháp Bất cộng
Tướng tốt thù thắng, giọng nói hay
Cầu đạo vi diệu, pháp giải thoát
Tìm phương tiện lớn, tu Giác phần
Sáu hai kiến chấp, thân kiến: Gốc
Ngã cùng ngã sở, vô số loại
Uẩn giới và xứ, các chấp trước
Ở Địa thứ tư trừ sạch hết
Những loại phiền não mà Phật quở
Những nghiệp vô ích đều từ bỏ
Các nghiệp thanh tịnh được Phật khen
Vì độ chúng sinh nên tu tập
Bồ-tát siêng tu không lười mỏi
Đạt được đầy đủ mười tâm pháp
Chuyên cầu Phật đạo không chán mệt
Mong được quán đỉnh độ chúng sinh
Cung kính thầy tổ tu pháp thành
Biết ân, sám hối, không sân hận
Trừ bỏ kiêu mạn tâm nhu hòa
Ngày đêm tinh tấn không thoái chuyển
Tâm ý cảnh giới luôn thanh tịnh
Chí nguyện tăng trưởng quyết không quên
Thông hiểu vững chắc, căn lành lớn
Trừ sạch trần cấu và lưới nghi
Vì không nghi hoặc được an ổn
Nhờ Phật gia hộ chí không lường
Bồ-tát an trụ địa Diệm tuệ
Cúng dường vô số Đức Như Lai
Nghe thọ chánh pháp rồi xuất gia
Vững chắc mạnh mẽ như vàng ròng
Bồ-tát địa này đủ công đức
Dùng chí phương tiện tu hành đạo
Không bị tâm ma làm thoái chuyển
Ví như ngọc báu không gì hoại
Thường làm Thiên vương cõi Dạ-ma
Đầy đủ quyền lực mọi người tôn
Hóa độ chunsg sinh trừ ác kiến
Chuyên cầu chsi Phật tu nghiệp lành
Bồ-tát tăng trưởng sức tinh tấn
Đạt được câu-chi Tam-ma-địa
Nếu dùng nguyện lực và chí lực
Vượt hơn số này nhiều vô kể
Do vậy Bồ-tát Địa thứ tư
Siêng năng tu tập đạo vi diệu
Công đức tương hợp chí biết đúng
Tôi vì Phật tử giảng thuyết xong

*********

Phẩm 5: ĐỊA NAN THẮNG

Bồ-tát nghe hạnh Nan thắng địa
Hiểu rõ chánh pháp tâm vui mừng
Hư không tuôn hoa khen ngợi Phật
Hay thay! Kim Cang Tạng
Tự Tại Thiên vương, vìng thiên chúng
Nghe pháp vui mừng, ở hư không
Phóng ra vô số mấy trắng rực
Vui vẻ cúng dường Phật khắp nơi
Ngọc nữ cõi trời trổi Thiên nhạc
Dùng tiếng vi diệu khen ngợi Phật
Chính nhờ oai thần của Bồ-tát
Trong không phóng ra âm thanh lớn
Nguyện Phật lâu xa nay thành tựu
Phật pháp lâu xa giờ đạt được
Đức Phật Thích-ca đến cõi trời
Lợi ích chư Thiên nay mới gặp
Biển lớn từ lâu nay chấn động
Ánh sáng Phật-đà nay rọi soi
Chúng sinh nhiều kiếp giờ vui sướng
Âm thanh đại Bi lại được nghe
Công đức giải thoát đều đã đến
Kiêu mạn tối tăm đều đã diệt
Cao lớn thanh tịnh như hư không
Chẳng những pháp trần tựa hoa sen
Mâu-ni tôn kính hiện ở đời
Ví như Tu-di giữa biển lớn
Cúng dường, chấm dứt mọi khổ đau
Cúng dường sẽ được ý của Phật
Phật là nơi cúng, không gì bằng
Thế nên vui vẻ mà cúng dường
Cứ thế vô số các Thiên nữ
Cất tiếng vi diệu khen ngợi Phật
Cung kính tôn trọng càng vui vẻ
Chiêm ngưỡng Như Lai ngồi im lặng
Lúc ấy, Bồ-tát Giải Thoát Nguyện
Lại thưa Kim Cang Tạng
Xin ngài diễn thuyết cho Phật tử
Hành tướng an trụ Địa thứ năm

Bấy giờ, Kim Cang Tạng nói với chúng Bồ-tát:

–Phật tử, Bồ-tát đã khéo viên mãn Địa thứ tư, muốn thập Địa thứ năm phải dùng mười tâm bình đẳng thanh tịnh. Mười tâm đó là gì?

Đó là:

  1. Pháp Phât quá khứ bình đẳng thanh tịnh.
  2. Vị lai Phật pháp bình đẳng thanh tịnh.
  3. Hiện tại Phật pháp bình đẳng thanh tịnh.
  4. Giới bình đẳng thanh tịnh.
  5. Định bình đẳng thanh tịnh.
  6. Trừ tà kiến nghi hoặc bình đẳng thanh tịnh.
  7. Trí đạo, trí phi đạo bình đẳng thanh tịnh.
  8. Đoạn trí bình đẳng thanh tịnh.
  9. Bình đẳng thanh tịnh quán sát kỹ các pháp Bồ-đề phần.
  10. Bình đẳng thanh tịnh thành tựu tất cả chúng sinh.

Nhờ mười tâm bình đẳng thanh tịnh này mà Bồ-tát thập Địa thứ năm.

Phật tử, Bồ-tát đã nhập Địa thứ năm nhờ tu tập pháp giải thoát, nhờ tâm thanh tịnh tăng thượng, lại mong cầu đạo thù thắng đời sau, nên làm mọi việc chân chánh, giữ bằng nguyện lực, yêu thương, không bỏ chúng sinh vàluôn tích tụ phước trí, đó là hai hành trang không thể, dừng bỏ, từ đó tạo phương tiện khéo léo, quán sát trí sáng các địa sau. Nhờ luôn cầu Phật gia hộ, giữ gìn bằng sức hiểu biết nên đạt tâm chân chánh không thoái chuyển, biết đúng như thật về khổ, tập, diệt, đạo Thánh đế. Từ thế tục đế, Bồ-tát đạt phương tiện khéo léo về thắng nghĩa đế, về tướng đế, về sai biệt đế, về an lập đế, về sự đếm về sinh đế, về tận vô sinh trí đế, về thú nhập đạo trí đế, về hết thảy địa của Bồ-tát; thành tựu tuần tự trước sáu, cho đến đạt phương tiện khéo léo trong Như Lai trí Tập đế. Bồ-tát luôn làm cho chúng sinh vui vẻ. Vì biết thế tục đế nên chứng nhập tất cả thật nghĩa. Vì biết thắng nghĩa đế nên biết tướng riêng, tướng chung của các pháp. Vì biết tướng đế nên ngộ được sự sai biệt của các pháp và an thật nghĩa. Vì biết sai biệt đế nên hiểu rõ sự an lập của uẩn xứ giới. Vì biết an lập đế nên thông đạt khổ não của thân tâm. Vì biết sự đế nên hiểu rõ sự tiếp nối của các cõi. Vì biết sinh đế nên trừ sạch phiền não. Vì biết tận trí đế và vô sinh trí đế nên đưa đến vô nhị. Vì biết nhập đạo trí đế nên thông suốt tất cả hành tướng. Đã tuần tự thành tựu được các địa của Bồ-tát cho đến biết được trí Tập đế của Như Lai đều do sự thông hiểu không phải do trí cứu cánh.

Bồ-tát nhờ thiện xảo đế mà phát sinh trí tuệ chân chánh biết đúng như thật các pháp hữu vi là hư, dối, lừa gạt, mê hoặc kẻ phàm ngu. Vì thế ở trong chúng sinh, Bồ-tát hiển hiện ánh sáng từ bi lớn, để phát sinh sức giữ gìn của trí, thương yêu chúng sinh, mong cầu trí Phật. Quán sát tất cả hành tướng hữu vi ở quá khứ, vị lai, hiện tại, là đều do vô minh khát ái mà có chúng sinh, rồi trôi nổi trong dòng sinh tử; rồi từ chấp chặt uẩn, lại không siêng năng nên càng thêm nhiều khổ não của uẩn.

Bồ-tát biết đúng không có ngã, không thọ mạng, không người nuôi dưỡng, không nơi hướng đến, lìa ngã, ngã sở; nên đoạn trừ và ra khỏi ngu si ái dục của đời sau, biết đúng như thật về có không. Bồ-tát nghĩ: Chúng sinh, mê mờ, điên đảo này thật đáng thương; có vô số thân đã diệt, đang diệt, sẽ diệt, tất cả đều mất, vậy mà chúng sinh không chán ghét thân này, lại tạo thêm nhiều khổ não, trôi theo dòng sinh tử mà không tỉnh ngộ, không bỏ chấp trước uẩn, không ghét và xa loài rắn độc lớn; không nhổ được mũi tên sắc tà kiến, kiêu mạn; không dập tắt lửa tham, sân, si; không xua tan bóng tối vô minh, không làm khô cạn biển lớn khát ái, không cầu bậc Thánh mười lực, đi trong rừng rậm ma quỷ, luôn ở trong biển sinh tử không bờ, đủ các sóng dữ tầm tư; trôi nổi bồng bềnh không dứt trong sự nhiễu loạn. Ta nay vì vô số chúng sinh đầy khổ não bức bách, cô độc, không nơi nương tựa, không ai cứu vớt, không nhà cửa, không hướng đi, ngu tối đui mù; trói buộc chúng sinh trong lớp mê mờ mà dày cứng; ta một mình không bạn bè siêng tu tập hành trang phước trí rồi nhờ hành trang đó, làm cho chúng sinh rớt ráo thanh tịnh, cho đến được trí vô ngại, mười lực của Như Lai.

Bồ-tát này dùng trí quán sát phát khởi trí tuệ tu tập căn lành, đều vì cứu hộ, vì lợi ích an lạc, vì thương yêu chúng sinh; khiến chúng sinh không bị tai họa, được giải thoát; dắt dẫn chúng sinh; muốn chúng sinh phát khởi lòng tin thanh tịnh, muốn điều phục cứu độ chúng sinh nên mới tu tập vậy.

Bồ-tát khi an trụ địa Nan thắng này, được gọi là người đầy đủ chánh niệm vì không quên chánh pháp; người đầy đủ trí tuệ vì đạt trí thông hiểu; người biết rõ phương hướng vì tu các pháp bí mật; người hổ thẹn vì biết bảo vệ mình, người; người kiên trì vì không bỏ luật nghi và giới hạnh; người giác ngộ vì đạt quyền biến nhờ quán xứ, phi xứ; người hành động bằng trí vì không theo người khác; người hành động bằng tuệ vì đạt quyền biến trong pháp có không; người phát khởi thần thông vì đạt quyền biến trong tu tập, người đầy đủ phương tiện khéo léo vì tùy thuận thế gian mà chuyển; người không mệt mỏi vì tu tập tất cả hành trang phước đức; người siêng năng không ngừng vì cần cầu hành trang trí tuệ; người vui vẻ không chán nản vì tu tập hành trang đại Từ bi; là người bảo hộ chúng sinh vì cứu độ chúng sinh; là người không cao ngạo vì cầu lực, pháp vô úy, bất cộng của Phật; là người khéo tác ý như hành vì tu tập hạnh trang nghiêm cõi Phật; người tạo các nghiệp lành vì tu tập tướng tốt; người luôn siêng tu tập vì càu thân, ý, ngữ trang nghiêm của Phật; người tôn trọng, phụng sự vì tu tập đúng các pháp của Bồ-tát dạy; người tâm không ngại vì có đầy đủ phương tiện khéo léo để nhập thế gian; là người ngày đêm bỏ vọng tưởng vì tu tập các hạnh đều để giáo hóa chúng sinh.

Bồ-tát thường siêng tu bố thí để thành thục chúng sinh; lại tu Ái ngữ, Lợi hành và Đồng sự; lại hiện thân xinh đẹp, thuyết pháp chỉ dạy hạnh Bồ-tát, lại hiển hiện đại ngã của Như Lai, tội lỗi của sinh tử, khen ngợi người trí thù thắng của Phật, phát khởi du hý thần thông rộng lớn, dùng đủ mọi phương tiện để tác động sự tu hành của chúng sinh để thành thục chúng hữu tình. Bồ-tát siêng năng tu tập, hóa độ chúng sinh, tâm luôn luôn hướng về trí Phật, tăng nhiều căn lành, bền bỉ cầu pháp thù thắng, để đem lợi ích cho chúng sinh. học biết tất cả các loại sách toán học, địa chất, y học để trị bệnh khô gầy, điên đảo, bị ma quỷ tổn hại, bị trùng độc, học chú thuật, văn học, thi ca, kỹ nhạc, kịch. Đi vào xóm làng, thành ấp, cung đình, vườn quán, sông suối, ao hồ, rừng cây để tìm thuốc men, vàng bạc, trân châu, lưu ly, ngọc quý; lại học xem trời, sao, đất, chim muông, mộng tướng tốt xấu, thọ thân đầy đủ hoặc từng phần; lại học luật nghi, giới hạnh, thiền định, thần thông, bốn tâm chúng sinh làm lành, thương yêu mọi loài, làm cho chúng sinh an trụ trong pháp vô thượng của Phật. Nhờ trí hiểu biết và nguyện lực rộng lớn, Bồ-tát này gặp được trăm trăm ngàn vạn ức câu-chi Phật. Gặp Phật, Bồ-tát dùng tâm rộng lớn, tăng thượng, cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường, y phục, thức ăn, đồ ngồi, thuốc men, các vật cần dùng, trổi nhạc cúng dường Bồ-tát, cung kính chúng Tăng, hồi hướng căn lành lên đạo Bồ-đề vô thượng. Cung kính phụng sự các Đức Phật, thiết tha nghe chánh pháp. Nghe xong thì thọ trì rồi tùy khả năng tu tập, lòng tin thanh tịnh xuất gia, đã xuất gia thì có thể làm Pháp sư thông thái. Nhờ nghe các hành tướng, nên đạt được pháp Tổng trì. Bồ-tát trụ địa Nan thắng này, trải qua vô số kiếp căn lành càng sáng rực đạt đến minh tịnh. Trải qua vô số vô số câu-chi kiếp, các căn lành ấy vẫn thù thắng sáng rực, đạt đến minh tịnh.

Phật tử, ví như thợ vàng, luyện vàng thành các đồ trang sức, nếu có xen lẫn xà cừ, ngọc quý càng sáng đẹp. Phật tử, căn lành của Bồtát tát trụ địa Nan thắng này cũng vậy dùng trí tuệ phương tiện suy xét quán sát thì căn lành càng minh tịnh, đó là nhờ sự dẫn dắt của trí gia hành và công đức cùng xem xét suy nghĩ mà ánh sáng ấy khó bị chiếm đoạt.

Lại nữa, Phật tử, ví như ánh sáng mặt trời, trăng, sao, cung điện rực rỡ, thì tất cả những phong luân không thể khiếm lấy được cũng chẳng cùng tồn tại.

Phật tử! Các căn lành của Bồ-tát trụ địa này cũng vậy; dùng phương tiện trí tuệ suy xét sự thực hành; các Thanh văn, Độc giác không thể chiếm đoạt cũng chẳng phải giống với căn lành thế gian. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát này tu nhiều về Thiền ba-la-mật, các Ba-la-mật khác thì tùy sức tu hành.

Phật tử! Đó là lược nói về Trí địa Nan thắng thứ năm. Bồ-tát trụ địa này, thọ sinh sẽ được làm Thiên vương trời Đâu-suất, đủ uy lực, khéo giáo hóa chúng sinh, khiến chúng bỏ tà pháp ngoại đạo, tu pháp chân thật. Làm mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời sự suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về giải thoát, về các trụ địa, về Phật lực, về pháp không sợ, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái; cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu dùng nguyện lực siêng năng tu tập, thì chẳng bao lâu, đạt được trăm câu-chi Tam-muội của Bồtát, gặp được trăm câu-chi Đức Phật và được Phật gia hộ nên thông hiểu tất cả; làm chuyển động trăm câu-chi thế giới, đi khắp trăm câu-chi cõi nước, soi chiếu trăm câu-chi cảnh giới, thành tựu trăm câu-chi loại chúng sinh; sống trăm câu-chi kiếp, nơi biên vực trước sau đều vào trong trăm câu-chi kiếp; suy xét rõ trăm câu-chi pháp; thị hiện trăm câu-chi thân, mỗi thân hiện trăm câu-chi Bồ-tát bạn. Bồ-tát nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, ánh sáng, thần thông, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, gìn giữ, tạo tác dù có trải qua trăm câu-chi, ngàn câu-chi kiếp, cũng không thể nói hết.

Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại ý nghĩa trên bèn nói kệ rằng:

Bồ-tát an trụ địa Diệm tuệ
Tu tập đầy đủ hạnh thanh tịnh
Biết rõ ba đời Phật bình đẳng
Nhờ tu giới, định, trừ kiến, nghi
Tu hành chân Chánh đạo, phi đạo
Dày công quán sát trí giác phần
Bình đẳng hóa độ các chúng sinh
Thông đạt an nhập Địa thứ năm
Niệm xứ là cung, căn: Tên nhọn
Chánh cần là ngựa, xe: Thần túc
Năm Lực: Giáp sắt phá thù địch
Mạnh mẽ an nhập Địa thứ năm
Mặc áo hổ thẹn, hoa giác phần
Tịnh giới hương thơm, định hương xoa
Phương tiện thiện xảo vật trang sức
Dạo vườn Đẳng trì rừng Tổng trì
Thân túc là chân, cổ: Chánh niệm
Từ bi: Mắt sáng; trí tuệ: Răng
Sư tử cõi người gầm vô ngã
Diệt sạch thú “hoặc”, vào năm Địa
Bồ-tát trụ Địa thứ năm này
Tu tập tăng trưởng đạo thanh tịnh
Chí cầu Phật pháp không chùn bước
Siêng năng suy xét pháp Từ bi
Tu tập phước trí, đức thù thắng
Tìm đủ phương tiện quán Địa trên
Được Phật gia hộ đủ niệm tuệ
Pháp Tứ đế thông hiểu như thật
Biết rõ Thế đế, Thắng nghĩa đế
Sự đế, Sinh, Tận và Đạo đế
Cho đến Trí đế Phật không ngại
Quán sát các đế tuy tinh diệu
Chưa đạt vô ngại thắng giải thoát
Nhưng đã phát sinh công đức lớn
Siêu vượt trí tuệ của thế gian
Quán sát đế rồi, biết hữu vi
Thể tánh hư dối không bền chắc
Đạt được ánh sáng từ bi Phật
Lợi ích chúng sinh cầu trí Phật
Quán sát hữu vi dù trước sau
Vô minh che lấp, ái trói buộc
Xoay vần trôi nổi trong chốn khổ
Không ngã, chúng sinh và thọ mạng
Ái thủ là nhân khổ về sau
Muốn cầu giới hạn, không thể được
Mê mờ trôi dạt chẳng tỉnh ngộ
Chúng sinh đáng thương ta nên cứu
Uẩn: Nhà, Giới: Rắn, mũi tên Kiến
Lửa dục hừng hực, vô minh che
Nổi trôi sông ái không quán sát
Phiêu bạt biển khổ chẳng người đưa
Biết rõ tất cả nên tinh tấn
Làm mọi việc lành độ chúng sinh
Là người đầy đủ niệm và tuệ
Lại thông đạt mọi phương tiện hay
Tu tập phước, trí không chán đủ
Cung kính học rộng, không lười, mỏi
Trang nghiêm cõi nước và tướng tốt
Tất cả đều vì độ chúng sinh
Vì nhằm giáo hóa các thế gian
Học hiểu luận nghị và số thuật
Cũng khéo hiểu biết về phương dược
Chữa trị mọi bệnh đều an lành
Giỏi đủ văn từ, ca múa nhạc
Xây dựng cung đình, vườn ao cảnh
Trang sức đầy đủ các châu báu
Lợi ích vô số loại chúng sinh
Trăng, trời, sao, đất mọi chấn động
Quán sát tất cả các thân hình
Thiền định Tam-muội và thần thông
Lợi ích cho chúng sinh, hiện tất cả
Bậc trí an trụ địa Nan thắng
Cúng dường Đức Phật nghe giáo pháp
Như đính xa cừ vào vàng ròng
Căn lành Bồ-tát ngày đêm sáng
Ánh sáng cung điện và trăng sao
Tất cả các thứ không sánh được
Như sen trong bùn không ô uế
Bồ-tát ở đời cũng như vậy
Thường làm Thiên vương trời Đâu-suất
Trừ bỏ ngoại đạo, các tà kiến
Tu tạp căn lành cầu trí Phật
Mong đạt mười Lực cứu chúng sinh
Nếu như Bồ-tát càng siêng năng
Sớm gặp được trăm câu-chi Phật
Đạt được Tam-muội, thân cũng thế
Nguyện lực đã làm vượt hơn đây
Trụ địa Nan thắng thứ năm này
Là đạo chân thật, trời người kính
Ta đã dùng đủ mọi phương tiện
Vì các Phật tử mà thuyết giảng.

 

Phẩm 6: ĐỊA HIỆN TIỀN

Bồ-tát đã nghe hạnh thù thắng
Tâm đều vui mừng rải hoa thơm
Phóng ánh sáng đẹp, mưa châu báu
Cúng dường Như Lai và xưng tán
Trăm ngàn thiên chúng cùng vui vẻ
Ở trong hư không rải bảo vật
Vòng hoa anh lạc và cờ phướn
Hương xoa, lọng báu cúng dường Phật
Thiên vương Tự Tại và quyến thuộc
Vui mừng an trụ trong hư không
Cúng dường vô số các vật báu
Khen ngợi Phật tử đã thuyết giảng.
Vô số Thiên nữ nơi không trung
Trỗi nhạc ca hát tán thán Phật
Cất tiếng êm dịu ca ngợi rằng:
Phật pháp trừ sạch bệnh phiền não
Tánh pháp vắng lặng không hình tướng
Ví như hư không, lìa phân biệt
Vượt khỏi chấp trước, dứt ngôn từ
Bình đẳng, chân thật, luôn thanh tịnh
Những ai thông đạt các tánh các pháp
Tâm ý kiên định trước có không
Vì độ chúng sinh siêng tu tập
Khẩu Phật sinh Phật tử chánh chân
Không chấp các tướng tu bố thí
Dắt hẳn pháp ác, giữ tịnh giới
Hiểu pháp không sinh luôn an nhẫn
Tánh pháp xa lìa, nên tinh tấn
Đoạn trừ phiền não, an trụ định
Thông đạt tánh không pháp phân biệt
Đầy đủ trí lực rộng độ sinh
Trừ sạch nghiệp ác thành Bồ-tát
Thiên nữ dùng đủ lời vi diệu
Khen xong im lặng, chiêm ngưỡng Phật
Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt thưa hỏi:
Làm sao an nhập Địa thứ sáu?

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với chúng Bồ-tát:

–Phật tử! Bồ-tát ở Địa thứ năm, đã tu tập đầy đủ đạo lành, muốn nhập Địa thứ sáu, phải dùng mười pháp tánh bình đẳng. Mười pháp ấy là gì? Đó là tất cả pháp không tướng, không tự tướng, không phát khởi; không sinh; không vắng lặng; xưa nay thanh tịnh; không hý luận; không lấy; không bỏ; như mộng, như bóng, như tiếng vang, như trăng trong nước, như cảnh trong gương, như sóng nắng, như huyễn hóa; có không chẳng hai.

Bồ-tát tùy thuận, quán sát tánh bình đẳng của các pháp đó mà thông đạt địa Hiện tiền thứ sáu. Bồ-tát dùng tâm lợi ích, dũng mãnh tu chứng, nhưng chưa đạt Vô sinh pháp nhẫn. Khi Bồ-tát tùy thuận thực hành tự tánh của các pháp bình đẳng, phải lấy từ bi làm gốc, đi đầu để làm tăng trưởng đại Từ; vì muốn đủ đại Từ bi, thì phải quán thế gian hợp tan sinh diệt. Lúc quán sự sinh diệt của thế gian, Bồ-tát nghĩ: Tất cả sự thọ sinh của chúng sinh đều do chấp ngã mà ra. Nếu bỏ chấp ngã thì không có thọ sinh ở thế gian.

Bồ-tát lại nghĩ: Chúng sinh vì ngu si, không trí, chấp trước ngã, bị vô minh che lấp, tìm kiếm có không, tùy thuận pháp giả, vọng tâm giong ruổi, bôn ba trong đường tà, tích tụ các việc phước, phi phước nơi các hành bất động. Chúng sinh gieo hạt giống hữu lậu, chấp thủ, đưa đến sự sinh già chết ở đời sau, chứa giữ trong ruộng nghiệp Trung hữu Hậu hữu, bị vô minh che lấp, trôi dạt trong sông ái, tưới mát ngã mạn, rộng lưới tà kiến, tạo mầm danh sắc. Danh sắc càng lớn, năm căn trôi dạt lưu chuyển, hợp cùng thức có xúc, từ xúc có thọ, vui say thọ có ái, ái nặng thành thủ, thủ đă đến hữu, từ hữu có năm uẩn. Năm uẩn phát sinh ở trong năm cõi, dần dần suy yếu, hoại diệt. Vì hoại diệt nên có khổ não, từ đó đưa đến sầu than, đủ thứ buồn đau. Những ưu khổ ấy đều tập hợp lại; nếu không có tập thì diệt cũng chẳng có. Bồtát phải tùy thuận vào hành tướng mà quán sát pháp duyên sinh.

Bồ-tát lại nghĩ: Vì không hiểu biết thật nghĩa nên gọi là vô minh, vô minh tạo nghiệp quả gọi là hành, hành là chỗ nương để sinh thức, bốn uẩn cùng sinh với thức là danh sắc, danh sắc tăng trưởng thành sáu xứ, căn cảnh cùng thức, ba sự ấy hòa hợp gọi là xúc hữu lậu, rồi cùng sinh ra thọ, tham đắm nơi thọ là khát ái, khát ái lắm thì có thủ, từ thủ tạo nghiệp hữu lậu là hữu. Do nghiệp hữu đẳng lưu các uẩn khởi lên là sinh, uẩn suy yếu là già, uẩn hoại diệt là chết. Lúc sắp chết, kẻ mê tham luyến buồn khổ là sầu, vì sầu đau nên cất tiếng buồn than, năm căn không vui là khổ, ý thức không vui là ưu. Từ ưu khổ đưa đến đau buồn là não. Trong khổ đau ấy không có người tạo khổ và người chịu khổ. Vì chấp có người tạo khổ nên có công dụng.

Đã không có người tạo khổ thì về phương diện thật nghĩa nó không có công dụng.

Bồ-tát lại nghĩ: Gọi là ba cõi ấy hoàn toàn từ tâm sinh. Đức Phật đã dùng tâm diễn thuyết phân biệt mười hai chi, tất cả đều dựa vào một tâm ấy mà ra, cớ sao lại tham đắm nó?

Từ tâm thức có hành động, hành động mê mờ là vô minh. Hành thức, vô minh hòa hợp có danh sắc. Danh sắc tăng trưởng là sáu nhập, sáu nhập phân biệt là xúc, sinh với xúc là thọ, tham thọ không chán là ái, ái thọ không bỏ là thủ, từ thủ có hữu, hữu có sinh, sinh suy yếu là già, già hoại diệt là chết. Trong đó vô minh có hai cách tạo tác:

–Do đối tượng duyên làm mê hoặc chúng sinh.

–Các hành phát khởi làm nhân.

Hành cũng có hai loại tạo tác:

–Sinh quả ở đời sau.

–Làm nhân cho thức phát sinh.

Thức cũng có hai hoạt động:

–Tạo nghiệp liên tục.

–Làm nhân cho sự phát sinh danh sắc.

Danh sắc cũng có hai hoạt động: –Giúp đỡ nối kết nhau; –Nhân của sáu nhập.

Sáu nhập cũng có hai hoạt động:

–Hiển hiện cảnh giới sai khác của chính mình; –Nhân của xúc.

Xúc cũng có hai hoạt động:

–Tiếp xúc cảnh nơi đối tượng duyên; –Nhân của thọ.

Thọ cũng có hai hoạt động:

–Nhận sự khổ vui, không khổ vui; –Nhân của ái.

Ái cũng có hai hoạt động: –Tham đắm cảnh ưa thích; –Nhân của thủ.

Thủ cũng có hai hoạt động:

–Tạo tạp nhiễm liên tục; –Nhân của hữu.

Hữu cũng có hai hoạt động:

–Làm phát sinh cảnh giới đời sau; –Nhân của sinh.

Sinh cũng có hai hoạt động: –Tạo ra uẩn;

–Nhân của già.

Già cũng có hai hoạt động:

–Làm các căn suy yếu, thay đổi; –Nhân của chết.

Chết cũng có hai hoạt động:

–Hoại các hành;

–Chẳng phải là đoạn biến tri.

Lại nữa, vô minh duyên hành là điều kiện để hành không đoạn.

Hành duyên thức là điều kiện để thức không đoạn.

Thức duyên danh sắc là điều kiện để danh sắc không đoạn.

Danh sắc duyên sáu nhập là điều kiện để sáu nhập không đoạn.

Sáu nhập duyên xúc là điều kiện để xúc không đoạn.

Xúc duyên thọ là điều kiện để thọ không đoạn.

Thọ duyên ái là điều kiện để ái không đoạn.

Ái duyên thủ là điều kiện để thủ không đoạn.

Thủ duyên hữu là điều kiện để hữu không đoạn.

Hữu duyên sinh là điều kiện để sinh không đoạn.

Sinh duyên già là điều kiện để già, chết không đoạn.

Vô minh diệt thì hành diệt, nghĩa là không có điều kiện cho vô minh, thì hành hoại diệt.

Hành diệt thì thức diệt, nghĩa là không có điều kiện cho hành, thì thức diệt. Thức diệt thì danh sắc diệt, nghĩa là không có điều kiện cho thức, thì danh sắc diệt.

Danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, nghĩa là không có điều kiện cho danh sắc, thì sáu nhập diệt.

Sáu nhập diệt thì xúc diệt, nghĩa là không có điều kiện cho sáu nhập, thì xúc diệt.

Xúc diệt thì thọ diệt, nghĩa là không có điều kiện cho xúc, thì thọ diệt.

Thọ diệt thì ái diệt, nghĩa là không có điều kiện cho thọ, thì ái diệt.

Ái diệt thì thủ diệt, nghĩa là không có điều kiện cho ái, thì thủ diệt.

Thủ diệt thì hữu diệt, nghĩa là không có điều kiện cho thủ, thì hữu diệt.

Hữu diệt thì sinh diệt, nghĩa là không có điều kiện cho hữu, thì sinh diệt.

Sinh diệt thì già chết diệt, nghĩa là không có điều kiện của sinh thì già chết bị đoạn diệt.

Vô minh, ái, thủ làm cho dòng phiền não không đoạn tuyệt; hành, hữu làm cho dòng nghiệp chảy mãi không đoạn tuyệt; còn những chi khác làm cho dòng khổ không đoạn tuyệt. Vì sai biệt, cho nên diệt cả trước lẫn sau, thì đoạn tuyệt tất cả dòng ấy. Trong ba dòng đó, không có ngã, lìa ngã và sở hữu của ngã. Tự tánh sinh diệt giống như lau cỏ bó lại vậy. Vô minh đến hành là xét về quá khứ; thức đến thọ là xét về hiện tại; ái đến hữu là xét về vị lai; cứ vậy lưu chuyển liên tục về sau. Vô minh diệt thì hành diệt, sự quán xét cũng không còn. Mười hai chi này có ba khổ: Hành đến sáu nhập là hành khổ; xúc, thọ là khổ khổ; các chi khác còn lại là hoại khổ.

Vô minh diệt thì hành diệt nghĩa là ba khổ diệt. Vô minh duyên hành, nghĩa là có điều kiện để hành hiện bày, từ nhân từ duyên phát sinh. Các chi khác cũng thế. Vô minh diệt thì hành diệt, đấy là làm rõ: Hành không có tự tánh; những chi khác cũng vậy. Vô minh duyên hành là sinh khởi sự trói buộc liên tục. Các chi khác cũng thế. Vô minh diệt thì hành diệt, nghĩa là chấm dứt sự trói buộc liên tục; các chi khác cũng vậy. Vô minh duyên hành là quán tùy thuận hữu. Các chi khác cũng vậy. Vô minh diệt thì hành diệt là quán tùy thuận tận diệt. Các chi khác cũng vậy.

Bồ-tát dùng mười hành tướng, quán sát thuận nghịch về các pháp duyên khởi nghĩa là các chi liên tục nên nhập thành một; nghiệp sai khác nên không rời nhau. Ba dòng không đoạn nên quán đời quá khứ, hiện tại, vị lai theo đúng như lý. Ba khổ tập hợp đều do nhân duyên, sinh diệt trói buộc liên tục nên quán có chấm dứt.

Bồ-tát dùng mười thứ hành tướng này để quán các duyên khởi. Nhờ dùng không ngã, không thọ mạng, không chúng sinh, tự tánh rỗng lặng, không người tạo tác, không người thọ nhận để quán pháp duyên sinh; nên hiển hiện môn giải thoát Không. Vì quán tự tánh của chúng là diệt, nên Bồ-tát trụ chứng hiện tiền giải thoát rốt ráo, không còn một pháp nhỏ nào tiếp tục sinh khởi nữa. Do đó môn giải thoát vô tướng hiển hiện. Lại Bồ-tát này đã an lập nơi Không, Vô tướng, các nguyện cầu đã rốt ráo nhưng vì tâm đại Bi, Bồ-tát phải làm người chỉ dạy tạo mọi thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, từ đó hiển hiện môn: Vô nguyện. Khi Bồ-tát tu tập ba môn giải thoát, thì bỏ vọng tưởng mình người, người tạo tác, người thọ nhận; có không; lấy đại Bi làm đầu để tu chứng những pháp Giác phần chưa chứng. Lại tiếp tục tu hành và nghĩ: Vì hòa hợp tương ưng nên pháp hữu vi lưu chuyển. Vì không hòa hợp tương ưng nên không lưu chuyển. Ta đã hiểu rõ, pháp hữu vi đầy tội lỗi, nhiễm ô, nên ta đoạn trừ sự hòa hợp liên tục. Nhưng vì phải hóa độ chúng sinh, nên không dứt hẳn pháp hữu vi.

Phật tử! Bồ-tát quán sát pháp hữu vi có nhiều tội lỗi, nhiều nhiễm ô, không có tự tánh; tánh vốn chẳng sinh diệt, nên khi quán sát phải khởi tâm đại Bi, không bỏ chúng sinh; gọi là trụ nơi Trí không chấp trước Bát-nhã ba-la-mật hiện tiền. Bồ-tát thành tựu trí như vậy rồi, trụ trong Tuệ Bát-nhã mà soi chiếu khắp, tạo điều kiện cho các pháp giác khác sinh khởi. Song an trụ mà không trụ. Quán tự tánh của pháp hữu vi là vắng lặng, không trụ, đối với các pháp Bồ-đề phần thì chưa viên mãn. Bồ-tát trụ ở địa Hiện tiền này, hiển hiện những Tammuội Tánh không như: Nhập, Tự tánh, Thắng nghĩa, Tối thượng, Lớn, Tương ưng, Dẫn phát, Như lý không phân biệt, có gắn bó, lìa không lìa. Tất cả đều được hiện ra. Bồ-tát là người đứng đầu trong pháp môn tánh không đó. Có trăm ngàn Tam-muội về pháp về pháp môn không tướng, không nguyện cũng đều hiển hiện.

Phật tử! Bồ-tát trụ địa Hiện tiền, tâm ý không hoại, luôn đầy đủ; ý tâm kiên định, hiền thiện sâu xa, không thoái chuyển, không dừng nghỉ, không nhơ, không hạn lượng, cầu trí tuệ, trí tuệ tương ưng phương tiện, tất cả đều viên mãn. Từ tâm như vậy, Bồ-tát tùy thuận pháp giác ngộ của Phật, đối trị các dị luận, siêng năng không chùn bước, thân nhập Trí địa; bỏ địa vị Thanh văn, Độc giác, một lòng hướng về trí Phật; phiền não, ma oán hiện hành không thể hại được; khéo trụ trong trí ánh sáng của Bồ-tát, khéo tu tập các pháp không, vô tướng, vô nguyện, trí tuệ luôn hợp với phương tiện, phát khởi các pháp giác ngộ. Bồ-tát này khi trụ địa Hiện tiền, thì phát triển Trí tuệ ba-lamật và chứng “thuận nhẫn thứ ba”, mạnh mẽ, nhanh nhẹn, tùy thuận thật nghĩa của các pháp không chút sai trái. Bồ-tát trụ nơi địa Hiện tiền, nhờ trí và lực rộng lớn nên gặp được trăm ngàn vạn ức câu-chi Phật. Gặp được Phật, Bồ-tát dùng ý lạc tăng thượng, cung kính, tôn trọng, phụng sự, cúng dường các thứ y phục, thứ ăn, đồ ngồi, thuốc men, những vật cần dùng, phụng hiến cho Bồ-tát các thứ tạo an lạc vi diệu, cung kính chúng Tăng, hồi hướng căn lành lên đạo Vô thượng Bồ-đề. Cung kính phụng sự Phật, thiết tha nghe chánh pháp, nghe rồi thọ trì, tu tập bằng trí sáng suốt, không điên đảo, giữ vững chánh hạnh, nhớ lâu, dần dần thâm nhập tạng pháp Như Lai. Bồ-tát trụ nơi địa Hiện tiền thứ sáu này, trải qua vô số kiếp căn lành càng sáng rực, càng minh tịnh; càng trải qua vô số trăm ngàn câu-chi kiếp, căn lành càng thêm sáng trong.

Phật tử! Ví như thợ vàng, luyện vàng làm đồ trang sức, nếu xen

lẫn ngọc báu lưu ly thì càng đẹp hơn. Cũng thế, căn lành của Bồ-tát trụ nơi địa này nhờ suy xét bằng trí tuệ nên càng thanh tịnh, vắng lặng không ai hơn được.

Lại nữa, Phật tử! Ví như ánh sáng mặt trăng có thể làm cho chúng sinh vui thích mà bốn loại gió không thể hủy hoại được. Cũng thế, căn lành của Bồ-tát trụ nơi địa này, dập tắt vô số lửa phiền não của chúng sinh mà bốn loại ma đạo không thể hoại được. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Tuệ ba-la-mật, các Ba-la-mật khác thì tùy sức mà tu tập.

Phật tử! Đó là nói tóm lược về địa Hiện tiền thứ sáu. Bồ-tát trụ nơi địa này, thọ sinh thường làm Thiên vương cõi trời Diệu hóa, đủ uy lực giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng chấm dứt tăng thượng mạn, trả lời thông suốt khi bị Thanh văn cật vấn, khiến chúng sinh hiểu thấu về duyên sinh sẽ tạo nghiệp. Hành trì mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về giải thoát, về các trụ địa, về Phật lực, về pháp không sợ, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời sự suy nghĩ về hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, là thù thắng, vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu tinh tấn tu tập, thì chẳng bao lâu, chứng được trăm ngàn câu-chi Tam-muội của Bồ-tát, gặp được trăm ngàn câu-chi Đức Phật, được Phật gia hộ khiến thông hiểu tất cả, có thể chuyển động trăm ngàn câu-chi thế giới, đi khắp trăm ngàn câu-chi cõi nước, soi chiếu trăm ngàn câu-chi cảnh giới, thành tựu cho trăm ngàn câu-chi loại chúng sinh, sống trăm ngàn câuchi kiếp, trước sau đều vào trong trăm ngàn câu-chi kiếp, suy xét rõ trăm ngàn câu-chi pháp, thị hiện trăm ngàn câu-chi thân, mỗi thân hiện trăm ngàn câu-chi Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông, ánh sáng, thân tướng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, giữ gìn, tạo tác, dù có trải qua trăm ngàn câu-chi kiếp, cũng không thể nói hết.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Bồ-tát thanh tịnh Địa thứ năm
Thấy pháp không tướng, không tự tánh
Không khởi, chẳng sinh, luôn vắng lặng
Bản tánh thanh tịnh, không hý luận
Cũng không lấy bỏ, như huyễn hóa
Có không, chẳng hai, lìa phân biệt
Tùy thuận pháp tánh, xét như vậy
Trí đó vào được Địa thứ sáu
Thuận nhẫn, mạnh nhanh, đầy đủ trí
Xét tướng sinh diệt của thế gian
Chỉ vì chấp ngã, thế gian hiện
Trừ khử ngã chấp, chẳng thế gian
Thông đạt như lý duyên khởi không
Không hoại, giả lập, do hòa hợp
Không làm, không nhận, không thọ mạng
Các hành như mây nổi khắp nơi
Không hiểu thật Đế là vô minh
Nghiệp quả do si gọi là hành
Tâm sinh đầu tiên gọi là thức
Các uẩn sinh khởi là danh sắc
Năm uẩn lớn mạnh là sáu nhập
Căn, trần, thức, xúc, thọ sinh ra
Nghiệp hữu lậu phát sinh các uẩn
Uẩn suy gọi già, hoại gọi chết
Từ đó có đủ khổ não lớn
Hiểu rõ ba cõi đều từ tâm
Mười hai duyên sinh từ tâm có
Sống chết qua lại do tâm tạo
Diệt trừ vọng tâm, sống chết tận
Vô minh cũng có hai tạo tác
Ngu si mê hoặc, nhân của hành
Cứ thế cho đến già hoại diệt
Do vậy khổ đau nào hết được
Vô minh là nhân sinh ra hành
Không đoạn, lại giúp sức tạo thành
Vô minh không còn, hành hoại diệt
Hết giúp, pháp khác cũng như vậy
Si, ái, thủ là dòng phiền não
Hành, hữu là nghiệp, chi khác: Khổ
Vô minh và hành, thuộc quá khứ
Thức cho đến thọ là hiện tại
Ái, thủ là nhân, khổ đời sau
Quán xét đoạn trừ nguồn gốc khổ
Xúc, thọ phát triển là khổ khổ
Tất cả còn lại là hoại khổ
Thấy pháp không ngã, diệt ba khổ
Chỉ vì nhân duyên các pháp sinh
Duyên hết, pháp diệt, tánh là không
Vô minh là duyên bị trói buộc
Nơi duyên được lìa trói buộc
Thuận theo vô minh, có các hữu
Nếu không thuận theo, các hữu đoạn
Do đây kia có không, cũng thế
Suy xét mười cách, tâm không chấp
Các chi tương tục, thuộc một tâm
Không lìa tự nghiệp và ba dòng
Ba đời, ba khổ do duyên sinh
Sinh diệt liên tục không cùng tận
Quán sát tất cả pháp duyên sinh
Không làm, chẳng nhận, không tự tánh
Như mộng như huyễn, như ánh chớp
Lại như kẻ ngu đuổi sóng nắng
Quán rồi nhập môn: giải thoát Không
Biết tánh xa lìa, nhập Vô tướng
Thấy chúng giả dối, Vô sở nguyện
Chỉ vì thương yêu cứu chúng sinh
Xuất gia tu học pháp giải thoát
Tăng trưởng tâm Từ cầu Phật pháp
Biết pháp hữu vi do duyên sinh
Tâm chí vững chãi lại tinh tấn
Chứng đạt trăm vạn Tam-muội Không
Vô tướng, Vô nguyện cũng như vậy
Bát-nhã, thuận nhẫn, đều tăng thượng
Trí tuệ giải thoát đều thành, đầy
Luôn vui cúng dường vô số Phật
Tu tập đạo hạnh trong Phật pháp
Thông đạt tạng pháp tăng căn lành
Như vàng trang sức ngọc lưu ly
Như trăng nước lặng soi mọi vật
Bốn gió nào có hoại được đâu
Bồ-tát vượt qua bốn ma oán
Dập tắt lửa hừng của thế gian
Bồ-tát thường làm vua Thiện Hóa
Chỉ dạy chúng sinh trừ ngã mạn
Làm việc chỉ cầu Nhất thiết trí
Vượt trên đạo hạnh của Thanh văn
Bồ-tát siêng năng sẽ đạt được
Trăm ngàn câu-chi môn Tam-muội
Gặp được trăm ngàn câu-chi Phật
Như mặt trời sáng giữa mùa hè
Sâu xa vi diệu khó thấy biết
Thanh văn, Duyên giác không thể hiếu
Tôi đã diễn thuyết cho các ông
Địa thứ sáu Bồ-tát, là vậy.

*********

Phẩm 7: ĐỊA VIỄN HÀNH

Lúc ấy, đại chúng tâm hoan hỷ
Trong hư không rải báu thành mây
Phát ra vô số âm thanh diệu
Thưa bậc Tối thắng thật thanh tịnh
Thông hiểu thật nghĩa trí tự tại
Thành tựu trăm ngàn ức công đức
Tựa như hoa sen không ô nhiễm
Lợi ích chúng sinh dạy hạnh sâu
Thiên vương Tự Tại ở hư không
Phóng ánh sáng lớn chiếu thân Phật
Lại rải mây hương thật vi diệu
Cúng dường bậc trừ ưu phiền não
Lúc ấy, đại chúng đều vui mừng
Cùng nhau hết lời xưng tán nêu
Chúng con nghe công đức địa này
Nghe rồi đạt được lợi ích lớn
Thiên nữ cõi trời cũng vui thích
Hòa tấu ngàn vạn thứ âm nhạc
Nhờ nơi thần lực của Như Lai
Trong không vang ra tiếng vi diệu
Oai nghi, vắng lặng không gì sánh
Điều phục thế gian nên cúng dường
Vượt qua tất cả các cõi nước
Trở lại thế gian dạy đạo mầu
Tuy hiện vô số loại hình tướng
Biết rõ thân này không sở hữu
Khéo dùng ngôn ngữ diễn nói pháp
Không chấp văn tự, tướng âm thanh
Qua lại vô số trăm ngàn cõi
Dùng vật quý báu cúng dường Phật
Trí tuệ tự tại không chấp trước
Không còn vọng tưởng Phật hay ta
Tuy là siêng năng độ chúng sinh
Nhưng không phân biệt mình và người
Dù đã thành tựu trí rộng lớn
Nhưng không chấp vướng các pháp lành
Vì thấy tất cả các cõi nước
Lửa tham, sân, si luôn thiêu đốt
Diệt trừ hết thảy các vọng niệm
Phát tâm đại Bi, sức tinh tấn
Chư Thiên, Thiên nữ ở khắp nơi
Cúng dường mọi vật và khen ngợi
Thảy đều an trụ trong yên lặng
Chiêm ngưỡng Thế Tôn mong nghe pháp
Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt lại thưa
Đại chúng ở đây tâm thanh tịnh
Xin hãy thương xót diễn giảng cho
Hành tướng an trụ Địa thứ bảy.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với chúng Bồ-tát:

–Phật tử! Bồ-tát đã tu tập đầy đủ pháp lành Địa thứ sáu, muốn nhập Địa thứ bảy, phải dùng mười trí tuệ phương tiện vi diệu. Mười pháp ấy là gì?

  1. Khéo tu tập Tam-muội Không, Vô tướng, Vô nguyện để chuẩn bị đầy đủ hành trang phước đức rộng lớn.
  2. Chứng nhập pháp không ngã, không thọ mạng, không nơi hướng đến, nhưng không bỏ việc tu hành bốn Tâm vô lượng.
  3. Tu tập phước đức rộng lớn và thực hành hạnh giải thoát tăng thượng, nhưng đối với các pháp không hề chấp trước.
  4. Đã vượt khỏi ba cõi nhưng phát nguyện làm trang nghiêm ba cõi.
  5. Đã đạt vắng lặng rốt ráo, xa lìa hết thảy lửa phiền não, nhưng vì muốn hóa độ tất cả chúng sinh nên nguyện dập tắt lửa tham, sân, si.
  6. Biết rõ các pháp như mộng huyễn, bóng, tiếng vang, trăng trong nước, ảnh trong gương, tự tánh không hai, nhưng vẫn dùng nghiệp hạnh làm vô số việc.
  7. Biết các cõi hư không nhưng vẫn nguyện thực hành làm trang nghiêm các cõi.
  8. Biết rõ Pháp thân Phật, tánh như hư không nhưng vẫn phát nguyện trang nghiêm thân bằng các tướng tốt.
  9. Biết rõ âm thanh chư Phật vốn vắng lặng, không thể nói năng nhưng vẫn phát nguyện trang nghiêm tất cả tiếng vần sai biệt.
  10. Biết chư Phật trong một niệm hiểu rõ về ba đời nhưng vẫn phát nguyện tùy thuận an nhập, để chỉ bày các loại tướng về kiếp số quán xét tâm ý chúng sinh.

Phật tử! Nhờ mười tuệ phương tiện vi diệu này, Bồ-tát từ Địa thứ sáu nhập Địa thứ bảy. Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy này, vào trong vô số cõi chúng sinh, vô số cõi Phật, thành tựu hạnh nghiệp hóa độ của chúng sinh. Vào trong vô số cõi trói buộc, cõi Phật thanh tịnh, cõi tánh sai khác của các pháp, nhập vào trí Chánh đẳng giác của Phật, nhập vào vô lượng kiếp số sai khác, nhập vào sự thông hiểu ba đời của Phật, nhập vào tướng giải thoát sai khác của chúng sinh, nhập vào vô số Phật thị hiện sắc thân danh hiệu, nhập vào sự sai khác về trình độ của chúng sinh, nhập vào vô số âm thanh của Phật làm cho chúng sinh vui vẻ, nhập vào vô lượng tâm hành sai khác của chúng sinh, nhập vào vô lượng trí hạnh rộng lớn của Phật, nhập vào vô số sự tin hiểu hóa độ của Thanh văn, sự diễn thuyết nhập đạo của Phật, sự tu chứng thành tựu của Độc giác; nhập vào vô lượng pháp, thâm nhập nơi trí sâu xa của Phật thuyết giảng, nhập vào vô lượng hạnh nguyện của Bồ-tát, nhập vào sự tu tập pháp Đại thừa của Phật đã nêu bày. Bồ-tát suy xét như vậy với vô số cõi Phật cho dù trải qua vô số kiếp cũng không thể tính đếm được. Ở nơi cảnh giới của Phật ấy, Ta sẽ tạo vô số cõi Phật bằng tâm không phân biệt, không khác với phân biệt, không công dụng sẽ làm cho đầy đủ. Do vậy, Bồ-tát siêng năng tu tập không gián đoạn, không thiếu sót, quán trí thông đạt. Vì không loạn động nên gọi là an trụ trí tuệ phương tiện siêu vượt. Bồ-tát trong nháy mắt hiện khởi đạo mầu mà không rời định, luôn phát khởi chánh trí, dù đi đứng nằm ngồi, cả khi nằm mộng cũng xa lìa các triền cái (trói buộc, ngăn che) chướng ngại, oai nghi hợp ý, nghĩ đúng, chẳng bao lâu thành tựu mười pháp Ba-la-mật. Vì sao? Vì Bồ-tát phát tâm đều lấy đại Bi làm gốc, hồi hướng sự tu chứng Phật pháp để cầu đạt trí Phật.

Tu tập các căn lành, như bố thí cho chúng sinh, để cầu trí Phật là Bố thí ba-la-mật.

Lấy tâm Từ bi làm gốc, không tổn hại chúng sinh là An Nhẫn ba-la-mật.

Siêng năng phát triển pháp lành là Tinh tấn ba-la-mật.

Nhất thiết trí hiển hiện, không tán loạn là Thiền định ba-la-mật.

Hiển hiện pháp nhẫn, biết tánh của các pháp không sinh diệt là Bát-nhã ba-la-mật.

Phát khởi vô lượng trí là Phương tiện ba-la-mật.

Phát khởi hậu trí là Nguyện ba-la-mật.

Tất cả ngoại đạo ma chướng không thể hủy hoại được là Lực bala-mật.

Kiến lập các pháp như thật là Trí ba-la-mật.

Phật tử! Bồ-tát an trụ nơi địa Viễn hành, sớm có đầy đủ mười Ba-la-mật, lại đạt bốn Nhiếp pháp, bốn gia hạnh, ba mươi bảy phẩm Bồ-đề, ba môn giải thoát, như vậy là Bồ-tát sớm đầy đủ tất cả pháp Giác phần.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Phật tử! Chỉ có Bồ-tát Địa thứ bảy mới đầy đủ tất cả pháp Giác phần hay là Bồ-tát ở các địa khác cũng đều đầy đủ?

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Trong mười Địa, Bồ-tát đều đầy đủ các pháp Giác phần, nhưng Bồ-tát Địa thứ bảy thì thù thắng nhất. Vì sao? Phật tử! Vì Bồ-tát ở đây đạt đầy đủ hành nghiệp gia hạnh, lại dần dần nhập trí hạnh thần thông. Còn Bồ-tát ở Địa thứ nhất có đầy đủ nguyện nhưng chỉ là một phần giác; Địa thứ hai chỉ trừ sạch cấu uế; Địa thứ ba thì chánh nguyện phát triển, đạt được pháp sáng; Địa thứ tư thì đi vào cõi đạo; Địa thứ năm tùy thuận hạnh nghiệp của chúng sinh; Địa thứ sáu thì hội nhập nơi Phật pháp; Bồ-tát Địa thứ bảy thì mới đầy đủ các pháp Giác phần. Vì sao? Vì Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy mới phát khởi phần trí gia hạnh; Bồ-tát Địa thứ tám mới thành tựu hạnh vô công dụng.

Phật tử! Ví như có hai cõi: Thuần tịnh, Nhiễm tịnh. Người ở hai cõi này khó qua lại được, trừ những bậc có sức thần thông. Cũng vậy, nẻo hành hóa của Bồ-tát còn xen tạp nhiễm tịnh thì không thể vượt được, trừ bậc có thệ nguyện lớn, có sức của trí tuệ phương tiện, thần thông lớn.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Hành nghiệp của Bồ-tát ở bảy địa trước bị phiền não nhiễm ô sao?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Bồ-tát từ Địa thứ nhất đã hành trì xa lìa hẳn phiền não, hồi hướng về đạo Bồ-đề bằng sức tăng thượng. Song nói một cách bình đẳng thì Bồ-tát Địa thứ bảy vẫn chưa được gọi là vượt khỏi phiền não.

Phật tử! Ví như Chuyển luân thánh vương, cỡi voi sáu cõi trời, đi khắp mọi nơi chốn, hiểu rõ về mọi sự nghèo khổ, tạp nhiễm, không hề bị các thứ họa hoạn cấu nhiễm nhưng chưa được gọi là vượt địa vị người. Nếu bỏ thân đó, sinh vào cõi Phạm thiên, đi xe cõi Phạm thiên, dạo khắp ngàn cõi, thị hiện oai đức rộng lớn của Phạm thiên, mới được gọi là vượt địa vị người.

Phật tử! Bồ-tát cũng thế. Từ Địa thứ nhất, ngồi xe Bồ-tát Ba-lamật-đa, đi khắp mọi nơi, biết rõ về mọi thứ lỗi lầm nhiễm ô của chúng sinh nhưng không bị cấu nhiễm là vì đi theo chánh pháp. Song đến Địa thứ bảy, vẫn chưa được gọi là vượt khỏi phiền não khổ đau. Chỉ khi nào không còn dụng công, từ Địa thứ bảy nhập Địa thứ tám, ngồi xe thanh tịnh của Bồ-tát, đi khắp các cõi, biết rõ vế các thứ lỗi lẫm nhiễm ô của chúng sinh nhưng không bị cấu nhiễm. Nhờ siêu vượt mà Bồ-tát an trụ ở đấy. Bồ-tát ở Địa thứ bảy, phần nhiều đều vượt khỏi các phiền não như tham. Bồ-tát tu tập ở địa Viễn hành này không thể nói là có hay không có phiền não. Vì sao? Vì tất cả phiền não không còn hiện khởi nên không thể nói là có phiền não. Do mong cầu Trí Phật vẫn chưa đạt được nên không thể nói là không có phiền não. Bồtát trụ ở địa này đã thành tựu Định tăng thượng, làm thanh tịnh thân, ngữ, ý, nghiệp, vượt tất cả nghiệp ác mà Như Lai đã hủy bỏ, luôn tu tập mười nghiệp lành mà Như Lai đã nêu dạy. Tất cả nghiệp của thế gian như đã nói ở Địa thứ năm, thì Bồ-tát ở Địa thứ bảy dùng vô công dụng, tự nhiên chuyển được, làm thầy cho tam thiên đại thiên thế giới cùng noi theo. Ngoài Như Lai và các Bồ-tát Địa thứ tám ra, các Đại Bồ-tát nơi ý lạc gia hạnh đều không ai sánh bằng.

Tất cả Thiền định, Tam-muội, thần thông, giải thoát, đều được hiện khởi. Đó là do tu tập đạt được chứ không do quả dị thục mà có, giống như Bồ-tát ở Địa thứ tám. Bồ-tát này khi trụ nơi địa Viễn hành thứ bảy, trong tâm niệm đã thành tựu đầy đủ trí tuệ phương tiện nhiệm mầu hành trì viên mãn các pháp giác ngộ; Bồ-tát này lại được các Tam-muội như: Khéo phân biệt, Tư duy thật nghĩa, Trí tuệ thù thắng, Phân biệt tạng thật nghĩa, Hiểu rõ nghĩa lý, Khởi trụ căn lành kiên cố, Pháp môn trí thần thông, Pháp giới sáng tỏ, Lợi ích thù thắng của Như Lai, An trụ tạng thật nghĩa về sinh tử, Niết-bàn. Lúc này, Bồ-tát lấy thần thông nơi trí lớn làm gốc, nhập đủ cả trăm vạn Tam-muội, làm thanh tịnh địa này. Vì tu tập Tam-muội bằng trí tuệ phương tiện vi diệu gồm đủ đại Bi, vượt địa Thanh văn, Độc giác nên hiển hiện trí tuệ quán sát. Bồ-tát hành hóa nơi thân, khẩu, ý nghiệp, luôn tùy thuận lưu chuyển nhưng không chấp tướng; thanh tịnh rốt ráo, hiển Vô sinh pháp nhẫn.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Vô lượng thân, ngữ, ý nghiệp của Bồ-tát khởi lên ở Địa thứ nhất, không vượt Thanh văn, Độc giác thừa sao?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Tuy những vị ấy có hành động, nhưng đều do oai lực tăng thượng của Phật pháp chứ chẳng phải do tự quán sát bằng trí giác ngộ của mình. Vì Bồ-tát ở Địa thứ bảy, quán xét cảnh giới bằng trí giác ngộ của mình nên không thể sánh được.

Phật tử! Ví như con của vua vừa sinh nơi hoàng cung, có đầy đủ tướng của vua, vượt hơn các quan lại, nhưng đó là do có quyền lực của vua cha, chẳng phải do khả năng của mình. Đến khi lớn khôn, thành tựu mọi học thuật, mới dùng trí lực của mình để hiện bày, thâu phục, vượt hơn quan lại.

Phật tử! Bồ-tát cũng thế mới phát tâm vượt hơn Thanh văn, Độc giác là do trí tăng thượng rộng lớn, chẳng phải là do trí tuệ giác ngộ của chính mình. Bồ-tát Địa thứ bảy, an trụ bằng trí tuệ, mới vượt hạnh nghiệp Thanh văn, Độc giác.

Phật tử! Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy này, tuy đạt thân, ngữ, ý nghiệp sâu xa, vắng lặng, vô hành, đã không lìa bỏ lại luôn siêng năng, mạnh mẽ hành trì mọi việc.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Bồ-tát địa nào có thể nhập Diệt định?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Bồ-tát ở Địa thứ sáu đã có thể nhập Diệt định. Bồ-tát trụ Địa thứ bảy thì tâm luôn ở trong Diệt định nhưng không thể nói là đã tác chứng Diệt định. Vì vậy, Bồ-tát này gọi thành tựu nơi thân, ngữ, ý nghiệp là rất khó, rất lạ quý, nghĩa là luôn an trụ trong thực tế mà không tác chứng tịch diệt.

Phật tử! Ví như có người đi thuyền lớn vào biển cả, thuyền đã tốt mà người ấy còn biết rõ các hình trạng ở dưới nước, theo thủy lộ nên hoàn toàn không bị tại nạn.

Phật tử! Bồ-tát Địa thứ bảy cũng thế, đi thuyền đến bờ giải thoát, an trụ trong thực tế mà không tác chứng tịch diệt. Bồ-tát đạt trí ấy rồi, tu tập bằng trí Tam-muội nên phát sinh trí mầu nhiệm; dùng diệu lực của phương tiện lớn, khéo léo thị hiện sinh tử, mà tâm ý luôn an trụ Niết-bàn; quyến thuộc luôn vây quanh nhưng thường ưa thích xa lìa. Dùng sức của thệ nguyện thọ sinh trong ba cõi, nhưng không bị nhiễm pháp thế gian. Tuy luôn an trụ nơi vắng lặng, nhưng thường tạo đủ phương tiện quyền biến. Dù ở trong lửa, vẫn không bị thiêu đốt. Luôn tùy thuận trí Phật, thị hiện ở trong cảnh giới ma, đi trong đường ma, thực hành pháp của ma và làm việc của ngoại đạo, nhưng tâm không bỏ Phật pháp. Tùy thuận hạnh nghiệp của thế gian, mà luôn vui thích an trụ trong pháp xuất thế, làm mọi việc trang nghiêm, vượt hàng trời, người, rồng, thần, Dạ-xoa, quỷ, Đế Thích, Phạm thiên, hộ thế Thiên vương, nhưng luôn vui thích pháp giải thoát.

Phật tử! Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, an trụ nơi địa Viễn hành, nhờ sự hiểu biết và nguyện lực rộng lớn, nên được gặp vô số trăm ngàn câu-chi Phật. Gặp được Phật, Bồ-tát dùng tâm ưa thích tăng thượng rộng lớn, cung kính, tôn trọng, phụng hành, cúng dường những thứ y phục, thức ăn, ngọa cụ, y dược và dụng cụ sinh hoạt, dâng lên các Bồ-tát những vật diệu lạc, cung kính với đại chúng Tăng già, đem thiện căn này hồi hướng đến đạo quả Vô thượng Bồ-đề, tôn trọng chư Phật, luôn cung kính, tán thán; nghe chánh pháp rồi thọ trì, nhờ vào trí tuệ của đẳng trì không điên đảo, sáng suốt mà tu hành, nhằm thành tựu và hộ trì Thánh giáo của chư Phật. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác nếu có vấn nạn vẫn không bị khuất phục; đạt pháp nhẫn thanh tịnh, đem lại lợi ích cho chúng sinh. Bồ-tát trụ địa này, trải qua vô số kiếp, căn lành càng thêm thanh tịnh.

Phật tử! Ví như thợ vàng làm đồ trang sức, đính thêm ngọc ma-ni thì càng sáng đẹp. Phật tử! Bồ-tát trụ ở địa Viễn hành thứ bảy này, các căn cũng thế, nhờ trí tuệ phương tiện nên căn lành của Bồ-tát địa này càng thanh tịnh; tất cả căn lành của Thanh văn, Độc giác không thể sánh được.

Phật tử! Cũng như ánh sáng mặt trời, không bị ánh sáng của trăng, sao che lấp, còn làm khô cạn các thứ bùn lầy nhơ bẩn ở châu Thiệm bộ.

Phật tử! Căn lành của Bồ-tát này cũng thế, tất cả căn lành của hàng Thanh văn, Độc giác không sánh được, còn làm khô hết mọi thứ phiền não cấu uế của chúng sinh. trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Phương tiện ba-la-mật, còn các Ba-la-mật khác thì tùy sức mà tu tập.

Phật tử! Đó là lược nói về hành tướng của Bồ-tát địa Viễn hành thứ bảy. Bồ-tát khi trụ ở địa này, thọ sinh thường làm Thiên vương cõi Tha hóa tự tại, dạy pháp phương tiện quán cho Thanh văn, Độc giác, khiến chúng sinh an nhập vào chánh tánh ly sinh. Làm các việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về bờ giải thoát, về các trụ địa, về pháp không sợ, về Phật lực, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng, vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường; là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu siêng năng tu tập, thì sớm đạt trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa thế giới, đi khắp trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa cõi nước, soi chiếu trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa cảnh giới, thành tựu trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa loại chúng sinh, sống trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, nên biên vực trước sau đều vào trong trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, suy xét rõ trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa pháp, thị hiện trăm ngàn câu-chi na-dữuđa thân, mỗi thân hiện trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, ánh sáng thần thông, thân tướng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, giữ gìn, tạo tác… dù trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp cũng không thể nói hết.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lập lại ý nghĩa trên, bèn nói kệ rằng:

Đầy đủ hạnh lành Địa thứ sáu
Tu tập phương tiện, ấn trí tuệ
Hạnh thù thắng, bất cộng, đạo tiên
Do đấy hội nhập Địa thứ bảy
Đủ ba giải thoát chứa phước đức
Thông đạt vô ngã, tu Từ bi
Phước đức và pháp thường sung mãn
Hành Ba-la-mật, không chấp trước
Xa lìa ba cõi nhưng trang nghiêm
Vắng lặng tịch diệt, không phiền não
Biết pháp như huyễn, phân biệt nghiệp
Hiểu cõi như không, vui trang nghiêm
Biết thân không tướng, tu tướng tốt
Rõ tiếng không lời, luôn diễn thuyết
Sớm đạt giác ngộ hiện các tướng
Người trí đạt được Địa thứ bảy
Quán sát thông đật các pháp này
Lợi ích an lạc mọi Hữu tình
Đi vào tất cả các cõi nước
Hóa độ vô số loại chúng sinh
An nhập kiếp số, pháp, cõi, nước
Thấu rõ tâm ý và tâm hành
Giảng pháp ba thừa không hạn lượng
Cứ thế giáo hóa các chúng sinh
Nhanh chóng phát khởi đạo song hành
Đi đứng nằm ngồi luôn tu tập
Hồi hướng cả về đạo Bồ-đề
Luôn nghĩ đủ mười Ba-la-mật
Ban cho chúng sinh là Bố thí
Dứt hoặc là Giới, không hại:
Nhẫn Luôn cầu pháp lành là Tinh tấn
An trụ đạo pháp là Thiền định
Đạt Vô sinh nhẫn: Tuệ rốt ráo
Khởi trí vô lượng là Phương tiện
Không ai hàng phục được là
Lực Hâu trí phát sinh đó là: Nguyện
Như thật trụ pháp chính là Trí
Thành tựu đầy đủ các pháp này
Sơ địa đầy đủ nguyện giác phần
Nhị địa xa lìa tâm cấu nhiễm
Tam địa nguyện lớn pháp sáng suốt
Trụ Địa thứ tư an lập đạo
Thứ năm tùy thuận nghiệp thế gian
Thứ sáu an nhập pháp sâu xa
Trụ Địa thứ bảy luôn phát sinh
Đầy đủ pháp giác của chư Phật
Nhờ đó khiến nhập Địa thứ tám
Thanh tịnh tất cả mọi hành nghiệp
Địa này khó vượt trừ bậc trí
Dùng trí nguyện lớn mới vượt khỏi
Như hai cõi nước tịnh và nhiễm
Phải nhờ thần thông mới qua lại
Lại như Luân vương không nhiễm vướng
Nhưng chưa gọi là vượt loài người
Những ai an trụ Địa thứ tám
Mới vượt cảnh giới của tâm thức
Như sinh Phạm thế vượt làm người
Tựa sen trong bùn không nhiễm ô
Đại này tuy vượt những hoặc nghiệp
Chẳng được gọi có hay không Hoặc
Vì không phiền não hiện khởi ra
Mong cầu trí Phật mà chưa đạt
Tất cả học thuật của thế gian
Kinh sách luận nghị đều thông tỏ
Thiền định, Tam-muội cùng thần Thông
Vì nhờ tu tập nên thành tựu
Bồ-tát an trụ Địa thứ bảy
Vượt qua hết thảy hạnh Nhị thừa
Sơ địa nhờ nguyện, đây nhờ trí
Ví như con vua đủ oai lực
Thành tựu sâu xa vẫn tu đạo
Luôn nhập diệt định mà không chứng
Như người đi thuyền vào biển lớn
Giữa nước không bị nước nhận chìm
Đủ phương tiện tuệ hành công đức
Tất cả thế gian không biết được
Cúng dường chư Phật tâm sáng suốt
Như dùng ngọc báu đính vàng ròng
Bồ-tát địa này trí tuệ sáng
Như nắng mặt trời khô nước ái
Được làm Thiên vương cõi Tự tại
Giáo hóa chúng sinh tu chánh trí
Do sức tinh tấn và mạnh mẽ
Đạt được trăm ngàn câu-chi na
Tam-muội, gặp Phật, cũng như vậy
Nguyện lực tự tại sẽ hơn đây
Đó là trí tuệ và phương tiện
Thanh tịnh của địa Viễn hành này
Tất cả chư Thiên và loài người
Thanh văn, Độc giác không lường được.

*********

Phẩm 8: ĐỊA BẤT ĐỘNG

Khi ấy Thiên vương cùng Thiên chúng
Nghe thắng hạnh này đều vui mừng
Vì muốn cúng dường Đức Như Lai
Vô số vô biên Đại Bồ-tát
Mưa hoa vi diệu, cờ phướn lọng
Vòng hoa, anh lạc và y báu
Vô số trăm ngàn vạn ức loại
Đều dùng ma-ni để trang sức
Thiên nữ cùng nhau trổi nhạc trời
Khắp nơi cất đủ tiếng vi diệu
Cúng dường chư Phật và Bồ-tát
Cùng hợp thành lời để xưng tán
Tất cả thấy Bậc Lưỡng Túc Tôn
Thương xót chúng sinh hiện thần lực
Khiến vô số âm nhạc cõi trời
Vang tiếng vi diệu xa khắp chốn
Mỗi đầu sợi lông trăm ngàn ức
Vô số vô biên cõi chúng sinh
Vô lượng chư Phật cũng nhiều vậy
An tọa ở đó giảng pháp mầu
Mỗi lỗ chân lông vô lượng cõi
Đủ cả bốn châu và biển lớn
Nào là Tu-di, nào Thiết vi
Nằm trọn bên trong không chướng ngại
Mỗi đầu sợi lông đủ sáu nẻo
Ba đường xấu ác, trời và người
Các loài rồng, thần, A-tu-la
Đều theo nghiệp mình chịu quả báo
Ở trong mỗi nước đều có Phật
Diễn giảng chỉ bày pháp sâu xa
Tùy thuận tâm ý của chúng sinh
Chuyển xe pháp mầu, tối thượng tịnh
Mỗi cõi có đủ thân chúng sinh
Mỗi thân cũng gồm bao cõi nước
Trời người, các cõi đều sai khác
Phật biết tất cả để nói pháp
Cõi lớn theo ý biến làm nhỏ
Cõi nhỏ theo ý biến thành lớn
Thần thông như thế không thể lường
Thế gian cùng nói không hết
Chư Thiên dùng lời vi diệu đó
Khen ngợi công đức của Như Lai
Đại chúng vui mừng và im lặng
Nhất tâm chiêm ngưỡng được nghe pháp
Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt lại thưa:
Đại chúng hiện giờ đều thanh tịnh
Xin tuần tự nói các hành tướng
An ổn trụ nhập Địa thứ tám.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng bảo chúng Bồ-tát:

–Phật tử! Bồ-tát ở Địa thứ bảy quyết định tu tập làm thanh tịnh đạo nghiệp bằng trí tuệ phương tiện, tích tập hành trang, kết thành nguyện lớn, mong được ở yên trong sự gia trì của Như Lai, đạt căn lực mầu nhiệm; tùy thuận lực, pháp vô úy, bất cộng của Như Lai; suy xét bằng tâm ý tăng thượng thanh tịnh. Từ oai lực của phước trí phát khởi dùng đại Từ bi luôn thương yêu chúng sinh, tùy thuận vô lượng trí đạo mà tu hành. Nhập tánh xưa nay không sinh khởi, không hình tướng, không thành hoại, không đoạn tận, không lưu chuyển, không dừng nghỉ của tất cả các pháp; trước, giữa, sau đều bình đẳng do trong chân như không có phân biệt nên nhập Nhất thiết trí. Bồ-tát trừ bỏ vọng tưởng phân biệt của tâm, ý, thức, làm cho nó không còn chỗ bám víu, để nhập tánh bình đẳng sáng tỏ như hư không, được gọi là đạt Vô sinh pháp nhẫn.

Phật tử! Người đạt Vô sinh pháp nhẫn mới chứng nhập địa bất động của Bồ-tát, được an trụ sâu xa khó biết hết, không còn sai khác, dứt tất cả hình tướng, ngừng ngay những vọng tưởng và bám víu; hàng Thanh văn, Độc giác không đạt được; luôn ở trong tịch tĩnh.

Phật tử! Ví như Tỳ-kheo có đầy đủ thần thông, tâm tự tại, tạm nhập vào định tưởng thọ diệt thứ chín, dứt hết vọng tưởng, phân biệt, tán loạn. Cũng thế, Bồ-tát đạt địa Bất động không còn dụng công, tự tại đạt tánh không dùng sức, an trụ quả báo nhưng xa lìa hết thảy thân, ngữ, ý, nghiệp.

Phật tử! Ví như có người mơ thấy mình rơi xuống sông, vì muôn thoát nạn nên phải dùng lực mạnh bơi qua. Vì dùng sức quá mạnh, nên tỉnh giấc, thì không còn việc ấy nữa. Phật tử! Bồ-tát cũng thế, thấy chúng sinh rơi trong bốn dòng thác phiền não. Vì muốn độ sinh, Bồ-tát phải mạnh mẽ siêng năng hành động. Nhưng khi đạt địa Bất động, thì không còn dụng công. Tất cả sự hiện hành của hai Thủ hay tướng của nó không còn hiện khởi.

Phật tử! Ví như chư Thiên tiên sinh nơi cõi Phạm thiên, không còn phiền não của cõi Dục. Phật tử! Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa bất động tất cả tâm, ý, thức không còn hiện khởi, cũng chẳng còn hiện khởi Phật, Bồ-đề, Bồ-tát, Niết-bàn, huống gì là hiện hành pháp thế gian?

Phật tử! Bồ-tát khi tu hành ở địa Bất động thứ tám này, an trụ trong sự gìn giữ nguyện lực, mau chóng học hỏi Phật pháp, mong cầu sự chỉ dạy của Như Lai, được Phật thọ ký nên phát sinh trí vi diệu của Như Lai. Được chư Phật khen ngợi:

–Hay thay! Hay thay! Thiện nam! Đó là pháp nhẫn tùy thuận thật nghĩa của Phật pháp. Song thiện nam! Chư Phật chúng ta có mười Lực, bốn pháp Vô úy, mười tám pháp Bất cộng tự tại mà ông chưa thành tựu; hãy thành tựu pháp tự tại của chư Phật và siêng năng an trụ nơi pháp nhẫn này.

Phật tử! Ông tuy đạt giải thoát vắng lặng nhưng phàm phu chúng sinh chưa được vắng lặng, luôn chạy theo phiền não, bị tầm tứ xâm hại. Ông hãy thương yêu chúng sinh và hãy nhớ hạnh nguyện của mình là làm cho chúng sinh được lợi ích và trí tuệ không thể nghĩ bàn.

Thiện nam! Tất cả pháp tánh của các pháp là như thế. Dù Phật ra đời hay không thì pháp giới vẫn vậy, không thay đổi. Không phải chỉ chư Phật mới đạt được; Thanh văn, Độc giác cũng chứng được pháp tánh không phân biệt này.

Thiện nam! Ông hãy quán sát chư Phật với vô lượng thân tướng, trí tuệ, cõi nước, hào quang, trí phát khởi, âm vận thanh tịnh cũng không có số lượng, ông nên phát khởi như vậy. Thiện nam! Hiện giờ ông chỉ đạt được một pháp sáng, đó là Tuệ không phân biệt trong các pháp. Song thiện nam nên biết, vì muốn đạt pháp sáng này mà chư Phật đã khởi vô biên hạnh nguyện, vô biên nẻo tạo tác, vô biên nẻo nối kết. Thiện nam! Ông hãy quán sát tất cả pháp sai khác: Chúng sinh, cõi nước trong vô lượng mười phương mà thông đạt thật lý.

Phật tử! Chư Phật đã khuyên dạy, nhắc nhở Bồ-tát, trao cho trí phát khởi vô số vô biên, để không còn trí phân biệt, từ đó mà thành tựu tất cả hạnh nghiệp.

Phật tử! Ta sẽ nói cho các ông hiểu. Nếu lúc ấy, chư Phật không chỉ dạy cho Bồ-tát, an nhập nơi pháp nọ, thì Bồ-tát sẽ nhập Niết-bàn rốt ráo, bỏ hết việc lợi ích chúng sinh. Vì thế, chư Phật mới trao cho trí nghiệp phát khởi vô số ấy. Chỉ trong một niệm, trí nghiệp của Bồ-tát đó, phát khởi gấp trăm ngàn vạn ức lần trí nghiệp của Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy, cho dù tính đếm ví dụ thế nào cũng không thể hơn được. Vì sao? Phật tử! Vì các Bồ-tát nơi địa trước, dùng một thân hành nghiệp, còn Bồ-tát ở địa này thì dùng vô số thân sai khác tu hạnh Bồ-tát; dùng vô số âm thanh, trí tuệ, thọ vô lượng thân, trang nghiêm thanh tịnh vô số cõi Phật, hóa độ vô số chúng sinh, phụng sự vô số Phật, hiểu rõ thật nghĩa của vô số pháp, hiện vô số uy lực thần biến, làm chỗ nương tựa cho vô số chúng hội khác nhau, làm vô số việc bằng thân, lời, ý; thành tựu hạnh chân chánh của Bồ-tát. Tất cả đều thành tựu đầy đủ mà không động.

Phật tử! Ví như thuyền chưa ra đến biển cả, thì thủy thủ phải dùng sức chèo đi. Nhưng khi ra đến biển thì để mặc thuyền đi mà không cần dùng sức. Ra đến biển, gió lớn thổi buồm căng, nên chỉ đi trong một ngày. Nếu dùng sức như lúc trước thì dù trải qua trăm năm, cũng không thể đến nơi.

Phật tử! Bồ-tát cũng thế, đã tu tập đầy đủ hành trang căn lành, đạt Đại thừa, ra đến biển lớn chánh hạnh của Bồ-tát, chỉ trong khoảnh khắc, dùng trí không dụng công của Bồ-tát mà nhập trí Nhất thiết trí. Nếu dùng sức như trước thì trải qua vô số kiếp cũng không thể đạt được.

Phật tử! Bồ-tát đã nhập ở Địa thứ tám này, làm mọi việc mà không dụng công, là do trí tuệ phương tiện rộng lớn. Bồ-tát khi quán sát trí Nhất thiết trí bằng chánh tuệ, quán sát sự thành hoại của thế giới và hiểu rõ nó; hiểu rõ nguyên nhân của sự thành hoại, hiểu rõ thời gian của sự thành hoại ấy, hiểu rõ thời gian thế giới thành rồi dừng trụ, hoại rồi dừng trụ, hiểu rõ tướng sai khác của đất, nước, gió, lửa; lại biết tướng thô tế của vi trần; tướng vô lượng, tướng sai biệt. Biết mỗi thế giới có bao nhiêu vi trần tích tụ, vi trần sai biệt và bao nhiêu vi trần về đất, nước, gió, lửa, chúng sinh, cõi nước. Biết tướng thô tế sai khác của thân chúng sinh; biết số vi trần của thân địa ngục, quỷ, súc sinh, A-tu-la, trời, người. Bồ-tát hội nhập trí biết số vi trần sai biệt rồi; thì sẽ biết sự thành hoại của cõi Dục, Sắc, Vô sắc và biết tướng sai biệt, lớn, nhỏ của những cõi ấy. Quán sát ba cõi bằng trí, phát ánh sáng trí, khéo đạt trí hiểu rõ thân chúng sinh, thân mình, thị hiện thọ sinh bằng trí. Bồ-tát tùy thuận loài chúng sinh mà thọ thân, tùy nơi thọ thân cùng loài để hóa độ chúng sinh.

Lại nữa, Bồ-tát ở trong một Tam thiên đại thiên giới, tùy thuận vào thân tướng, trình độ của chúng sinh mà thọ thân, hành động bằng trí, cho đến hai, ba… vô số Tam thiên đại thiên giới, cũng đều tùy thuận thân tướng, trình độ sai khác của chúng sinh mà thọ thân, cũng hành động bằng trí. Bồ-tát thành tựu trí như vậy rồi, ở một cõi Phật, thân bất động mà hiển hiện trong vô số không thể nói cõi Phật. Bồ-tát tùy thuận thân tướng, trình độ của chúng sinh trong vô số cõi Phật, trong vô số chúng hội đạo tràng mà hiện thân. Nghĩa là ở trong chúng Sa-môn thì hiện thân Sa-môn; ở trong chúng Bà-la-môn, trong chúng Sát-lợi, Phệ-xá, Trưởng giả, Cư sĩ, Tứ Thiên vương, Tam thập tam thiên, Dạ-ma, Đổ-sử-đa, Lạc biến hóa, Tha hóa tự tại, Ma vương, Phạm thiên đều tùy thuận đúng loại mà thọ thân. Người nên dùng thân Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai để điều phục thì đều tùy thuận thị hiện.

Phật tử! Cứ thế, Bồ-tát ở trong vô số cõi Phật cứ tùy thuận thân tướng trình độ của chúng sinh mà thọ nhận thân như vậy như vậy.

Lại nữa, Phật tử! Bồ-tát bỏ hết sự phân biệt về thân tướng, đạt tánh bình đẳng của thân. Biết thân của chúng sinh, thân cõi nước, thân nghiệp quả, thân Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai, thân trí, pháp, hư không; biết rõ tâm mong cầu của chúng sinh, hoặc biến thân chúng sinh thành thân mình, cứ thế cho đến biến thân cõi nước, thân nghiệp quả, thân Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai, thân trí, pháp, hư không thành thân mình; hoặc biến thân mình thành thân chúng sinh, cõi nước, nghiệp quả, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai, trí, pháp, hư không. Bồ-tát hiểu rõ về thân nghiệp, thân nhân quả, thân phiền não, thân có sắc, không sắc. Đối với các thân trong cõi nước; Bồ-tát biết rõ tướng lớn nhỏ, tướng vô lượng, tướng tạp nhiễm, tướng thanh tịnh, tướng loạn trụ, tướng ngưỡng trụ tướng… Đối với thân nghiệp quả, Bồ-tát biết sự sai khác, sự giả lập. Đối với thân Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát có thể biết sự sai biệt, sự kiến lập. Đối với thân Như Lai Bồ-tát biết thân Chánh đẳng Chánh giác, thân hóa hiện, gia trì, thân tướng tốt, trang nghiêm vi diệu, thân ánh sáng, thân ý sinh, thân phước đức, trí, pháp. Với trí thân, Bồ-tát biết rõ tướng suy xét, tướng quán sát đúng, tướng nghiệp quả và gia hành, tướng sai biệt của thế gian; tướng an lập ba thừa, tướng cộng và bất cộng; tướng xuất ly, không xuất ly; tướng Hữu học, Vô học. Với Pháp thân, Bồ-tát biết tướng của tánh bình đẳng, tướng không hủy hoại, tướng tùy phần vị và sự giả tạm của thế tục mà an lập; tướng pháp an lập của hữu tình, vô tình; tướng pháp an lập của Phật, Tăng. Với thân hư không; Bồ-tát biết vô lượng căn tướng rộng lớn cùng khắp; tướng không hình chất; tướng không sai khác, không hạn lượng; tướng do giữ lấy sắc mà hiển hiện tất cả đều biết hết. Bồ-tát tự tại trong sự sống, hiểu biết sự phát khởi của thân nên trải qua không thể nói vô số kiếp giữ tuổi thọ, đạt được tâm tự tại, nên tu vô số định, quán sát thâm nhập trí, được vật nuôi sống tự tại, nên thị hiện vô số vật để trang nghiêm và giữ gìn cõi nước; đạt được nghiệp tự tại, nên tùy thời gian mà hiện nghiệp quả; được mạng sống tự tại nên thị hiện thọ sinh khắp nơi; đạt được thắng giải tự tại, nên thị hiện khắp thế giới nơi nào cũng có Phật; đạt được nguyện tự tại nên tùy thời giân, trình độ chúng sinh của các cõi Phật mà thị hiện giác ngộ; đạt được thần thông tự tại, nên thị hiện bao la pháp sáng; đạt được trí tự tại nên thị hiện mười Lực, pháp Vô úy, Bất cộng, tướng tốt, vô thượng giác ngộ của Phật. Nhờ đạt được mười tự tại, Bồ-tát được gọi là người có trí tuệ bất tư nghì, người có trí rộng lớn, người có trí không ai đoạt được. Do đó Bồ-tát không còn tội lỗi; thân, khẩu, ý nghiệp tùy biến mà hành nên không tội lỗi. Mọi việc làm đều bằng trí, tùy trí tuệ mà chuyển đến bờ giải thoát, tăng trưởng đại Bi làm đầu, khéo phân biệt rõ phương tiện thiện xảo, được chư Phật gia hộ, thành tựu thệ nguyện, luôn vì lợi ích của chúng sinh, tùy từng nơi trong vô biên thế giới mà hành động không ngừng nghỉ. Phật tử! Tóm lại, mọi hành động về thân, ngữ, ý nghiệp của Bồ-tát trụ nơi địa Bất động này, đều tích tập từ Phật pháp.

Lại nữa, Phật tử! Bồ-tát ở địa Bất động này; an trụ hoàn toàn bằng sức ý lạc để xa lìa hết thảy phiền não hiện hành; đạt sự an trụ trong ý lạc tăng thượng để không lìa đạo; an trụ bằng sức đại Bi, không bỏ lợi ích của chúng sinh; an trụ bằng sức đại Từ để cứu độ hết thảy các thế gian; an trụ bằng sức Tam-muội để không quên chánh pháp; an trụ bằng sức biện tài để phân biệt, tuyển chọn khéo léo Phật pháp; an trụ bằng sức thần thông để đi khắp mọi nơi, làm đủ mọi việc; an trụ bằng sức của đại nguyện để không bỏ những việc làm của Bồtát; an trụ bằng sức Ba-la-mật để hành trì tất cả Phật pháp; an trụ bằng sức gia trì của Như Lai để hiển hiện hành tướng và trí Nhất thiết trí. Nhờ những oai lực như vậy mà Bồ-tát làm tất cả mọi việc không hề mắc lỗi lầm.

Phật tử! Trí địa Bồ-tát thứ tám được gọi là Bất động vì không ai đạt hơn được còn gọi là Địa Bất thoái vì trí tuệ vững chắc, gọi là Địa khó được vì cả thế gian không lường được, gọi là Đồng chân vì không lỗi lầm; gọi là Sinh địa vì tự tại thay đổi theo ý muốn; gọi là Địa thành tựu vì không còn tạo tác, gọi là Địa cứu cánh vì dùng trí phân biệt rõ ràng, gọi là Địa Niết-bàn vì phát khởi sức thệ nguyện; gọi là Địa Trụ trì vì không bị ai hủy hoại; gọi là Địa Vô công dụng vì làm mọi việc bằng sức vốn có. Phật tử! Nhờ trí đó, Bồ-tát vào dòng dõi Phật, được ánh sáng công đức của Phật soi rọi, tùy thuận oai nghi chánh hạnh của Như Lai, cảnh Phật hiển hiện liên tục không thiếu; được oai lực Như Lai gia hộ; được Đế Thích, Phạm thiên, Hộ thế Thiên vương cung phụng, lực sĩ Kim Cang luôn bảo vệ, thường không rời sức Tam-muội, làm mọi việc, hiện vô số thân, uy lực tương ưng, thành tựu quả báo thần thông rộng lớn, tự do ra vào trong Tam-muội không bờ bến, được thọ ký vô lượng Bồ-đề, tùy việc mà hóa độ chúng sinh, hiện thành Chánh giác. Nhờ thông đạt như vậy, Bồ-tát nhập chúng Đại thừa, được quán sát bằng trí lớn thần thông, phóng ra ánh sáng trí tuệ vi diệu, khéo nhập pháp giới chân thật không chướng ngại, biết các đạo sai khác của thế gian, thị hiện công đức lớn, tùy ý chuyển hóa; biết rõ việc làm ở quá khứ, vị lai, thông đạt trí hàng phục ma đạo; chứng nhập cảnh giới tu hành của Phật, ở khắp mọi nơi thực hành hạnh Bồtát, thành tựu sự kiên định. Vì vậy được gọi là Bồ-tát đạt địa Bất động.

Bồ-tát khi trụ ở địa Bất động, luôn được gặp Phật không rời, không gián đoạn, là do sức của Tam-muội. Gặp Phật, Bồ-tát luôn phụng sự cúng dường; cho nên dù ở đâu, Bồ-tát cũng được gặp vô số, vô số trăm ngàn vạn ức câu-chi Phật; gặp được rồi là cúng dường bằng nhiều cách, lãnh thọ Phật pháp và biết được vô lượng pháp sáng với thật nghĩa, dần dần ở trong Tạng pháp của Như Lai; không sợ những hỏi đáp của thế gian; trải qua vô số kiếp căn lành càng thanh tịnh.

Phật tử! Ví như thợ vàng, luyện vàng làm đồ trang sức, trang sức trên đầu, dưới cổ vua châu Thiệm bộ, tất cả đồ trang sức của quan dân nơi châu Thiệm bộ đều không thể so sánh được. Phật tử! Căn lành của Bồ-tát trụ địa Bất động này cũng thế; hàng Thanh văn, Độc giác cho đến Bồ-tát Địa thứ bảy, những căn lành có đều được không thể sánh. Vì trụ ở địa này là dùng ánh sáng trí lớn phá tan màng tối phiền não của chúng sinh, để khéo khai phát môn trí tuệ.

Phật tử! Ví như Đại phạm Thiên vương, Thiên chủ của ngàn cõi

với tâm Từ, vua phóng ra ánh sáng chiếu khắp ngàn cõi. Bồ-tát trụ địa Bất động cũng vậy, có thể phóng ra ánh sáng đến khắp mọi nơi, phá tan mọi phiền não chúng sinh, làm cho chúng được vui. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Nguyện ba-la-mật, các Ba-la-mật khác thì tùy sức tu hành.

Phật tử! Đó là nói sơ lược về trí địa Bất động thứ tám. Nếu nói đủ thì trải qua vô số kiếp cũng không thể nói hết được. Bồ-tát trụ địa này, thọ sinh thường làm Đại phạm Thiên vương, cai trị ngàn cõi nước, oai đức thù thắng, không ai sánh bằng, hiểu rõ thật nghĩa, đủ oai lực, khéo giảng thuyết về đạo giải thoát của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, đạt đến bờ giải thoát. Tất cả chúng sinh vấn nạn, đều không hề vướng mắc. Làm mọi việc, với các hành động Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự, đều không rời tác ý với Phật, Pháp, Tăng, hạnh Bồ-tát, đạt đến bờ giải thoát, chư địa, Phật lực, pháp Vô sở úy, pháp Bất cộng, cho đến không rời tác ý với tất cả hành tướng thắng diệu, thường tương ưng tác ý với trí Nhất thiết trí; thường phát nguyện: Đối với tất cả hữu tình ta sẽ là người dẫn đầu, là thắng, là thù thắng, là diệu, là vi diệu, là thượng, vô thượng, là không ai bằng, là không gì hơn, là bậc hướng đạo, tướng soái cho đến nguyện được làm chỗ dựa của trí Nhất thiết trí. Người nào ưa phát khởi sự tinh tấn như vậy, thì trong khoảng nháy mắt; sẽ chứng đắc các Tam-ma-địa, nhiều như số vi trần ở trong trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; sẽ thấy được vô số Đức Phật như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới, được năng lực của Phật gia trì nên vị ấy có thể hoạt động khắp các cõi, nhiều như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; sẽ chiếu sáng các cõi nhiều như vi trần của trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; tạo sự thành tựu đầy đủ cho vô số hữu tình, nhiều như vi trần trong trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; sẽ sống lâu vô số kiếp, như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; ở vào giai đoạn trước và sau đều được sống trong vô số kiếp như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; khéo suy tư, chọn lựa rõ ràng vô số pháp môn, như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới; sẽ thị hiện vô số thân, như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới, mỗi thân thị hiện vô số Bồ-tát như vi trần nơi trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới, làm quyến thuộc vây quanh. Từ đây trở lên là các Bồ-tát có nguyện lực, nhờ nguyện lực thù thắng nên mọi việc làm như đi lại, thân, ánh sáng, thần thông, nhãn căn, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, thắng giải, tạo tác dù có trải qua vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp cũng không thể đếm hết hết.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lặp lại nghĩa trên, nên nói kệ rằng:

Thứ bảy đã tu tuệ phương tiện
Chuẩn bị hành trang phát nguyện lớn
Được Phật gia hộ đủ oai lực
Thuận công đức Phật tâm ý tịnh
Đầy đủ phước trí luôn thương yêu
Trí tuệ rộng lớn như hư không
Vì cầu thắng trí lên tám Địa
Hiểu rõ tịch diệt, Vô sinh nhẫn
Biết tánh các pháp không sinh khởi
Không tướng, chẳng thành, chẳng hoại diệt
Không đoạn, không đổi, hay dừng nghỉ
Vô tánh, là tánh, luôn bình đẳng
Nhờ không phân biệt, nhập trí Phật
Vượt tâm ý thức, tưởng phân biệt
Chứng được nhẫn này trụ thanh tịnh
Sâu xa bất động thường vắng lặng
Tất cả chúng sinh không thể lường
Tâm tướng trước giữ, thảy đều lìa
An trụ địa này không phân biệt
Ví như Tỳ-kheo nhập Diệt định
Như mơ qua sông gắng hết sức
Tĩnh dậy thản nhiên không chướng ngại
Bồ-tát vì độ giới hữu tình
Địa này công dụng cũng tự ngừng
Như người Phạm thiên dứt trần dục
Bồ-tát địa này dứt hai tướng
Nương theo dòng pháp nhờ ân Phật
Giác ngộ chỉ dạy lần đạt nhẫn
Chư Phật chỉ rõ: Công đức Phật
Nay ông chưa đạt, hãy siêng năng
Tuy ông đã dập lửa phiền não
Lửa hoặc thế gian vẫn còn hừng
Hãy nhớ hạnh nguyện độ chúng sinh
Dạy chúng tu tập hướng giải thoát
Tánh pháp thường hằng lìa phân biệt
Chẳng phải chỉ Thế Tôn hiển đạt
Hàng Nhị thừa cũng được pháp này
Hãy nên phát khởi các hạnh nguyện
Đáng được trời người tôn cúng dường
Trao truyền trí tuệ để quán sát
Thành tựu vô biên giáo Phật pháp
Nhanh chóng vượt qua các hạnh nghiệp
Bồ-tát trụ trí địa vi diệu
Đạt sức thần thông thật rộng lớn
Nháy mắt phân thân khắp mọi nơi
Như thuyền vào biển nhờ gió đẩy
Ta không dụng công mặc sức trí
Biết được thế gian hoại hay trụ
Tất cả cõi nước đều sai khác
Hiểu rõ lớn nhỏ hay mênh mông
Bốn đại làm nên ba ngàn cõi
Chúng sinh sáu nẻo thân sai khác
Đầy đủ vô số các vật báu
Dùng trí quán sát biết tất cả
Bồ-tát biết được mọi thân tướng
Vì độ chúng sinh hiện đúng hình
Bồ-tát hiện thân khắp mọi nơi
Đủ thứ sai khác trong các cõi
Như nhật nguyệt trụ ở hư không
Hiển hiện bóng hình trong mặt nước
Trụ trong pháp giới không chốn động
Tùy nơi tâm niệm đều không đồng
Đều hiện thân trong tất cả chúng
Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát
Kể cả thị hiện thân tướng Phật
Hiện thân nghiệp báo, cõi chúng sinh
Hiện đủ các thân Trí và Pháp
Thân tướng hư không luôn bình đẳng
Vì các chúng sinh mà thị hiện
Dùng mười Thánh trí quán sát khắp
Lại vì từ bi hành mọi việc
Thành tựu đầy đủ giáo Phật pháp
Tịnh giới kiên cố như Tu-di
Thành tựu mười lực không lay động
Tất cả chúng ma không thể chuyển
Chư Phật gia hộ, trời người kính
Mật tích Kim Cang luôn bảo vệ
Công đức địa này thật khôn lường
Trăm ngàn vạn kiếp nói không hết
Càng cúng dường Phật trí càng sáng
Như đồ trang sức trên đầu vua
Bồ-tát an trụ Địa thứ tám
Thường làm Phạm vương chủ ngàn cõi
Diễn thuyết ba thừa không cùng tận
Ánh từ chiếu khắp, phá các hoặc
Chỉ trong một niệm đạt Tam-muội
Nhiều như số bụi trăm vạn cõi
Những việc làm khác đều như vậy
Dùng sức thệ nguyện thì hơn đây
Bồ-tát địa Bất động thứ tám
Ta đã lược nói cho các ông
Nếu phải tuần tự phân biệt giảng
Trải qua ức kiếp cũng không cùng
Địa Bất động thứ tám của Bồ-tát.

*********

Phẩm 9: ĐỊA THIỆN TUỆ


Nói Địa thứ tám của Bồ-tát
Như Lai hiện sức thần thông lớn
Chấn động cõi nước ở mười phương
Vô lượng ức số khó nghĩ bàn
Thấy Nhất thiết trí, Vô thượng tôn
Từ thân phóng ra ánh sáng lớn
Soi chiếu vô số các cõi nước
Khiến cho chúng sinh được an vui
Vô số trăm ngàn ức Bồ-tát
Vui vẻ an trụ trong hư không
Đem vật vi diệu hơn cõi trời
Cung kính cúng dường Đấng Tối thắng
Tự tại Thiên vương, trời Tự tại
Thảy cùng một lòng vui vô lượng
Đều đem vô số các vật phẩm
Cúng dường biển công đức sâu xa
Lại có trăm ngàn ức Thiên nữ
Thân tâm vui mừng không gì sánh
Trỗi đủ các loại âm nhạc hay
Cúng dường Đạo sư cõi trời người
Lúc ấy, vô số trăm ngàn ức
Âm nhạc hòa tấu tiếng vi diệu
Đều nhờ oai lực Đấng Thiện Thệ
Hiện tiếng vi diệu mà ngợi khen
Vắng lặng nhu hòa, không nhơ, hại
Tùy địa đã nhập siêng tu tập
Tâm như hư không biến mười phương
Giảng Phật pháp cho chúng sinh ngộ
Cõi trời, cõi người khắp mọi nơi
Thị hiện trang nghiêm không gì bằng
Đều từ công Đức Như Lai sinh
Khiến người vui thấy được trí Phật
Không rời cõi nước của chúng sinh
Như trăng soi sáng khắp thế gian
Âm thanh, tâm niệm đều diệt hết
Ví như hang động bặc tiếng vang
Những chúng sinh nào tâm yếu kém
Giảng thuyết hạnh nghiệp của Thanh văn
Người tâm nhanh nhẹn thích Độc giác
Giảng thuyết đạo nghiệp của Trung thừa
Ai đủ Từ bi làm lợi ích
Giảng thuyết hạnh nghiệp của Bồ-tát
Những người tâm trí được thù thắng
Chỉ rõ pháp vô thượng Như Lai
Như nhà ảo thuật làm mọi việc
Đủ các hình tướng nhưng đều giả
Trí huyễn Bồ-tát cũng như vậy
Tuy hiện tất cả, lìa có không
Ngàn vạn âm thanh thật vi diệu
Khen ngợi Phật xong, đều im lặng
Giải Thoát Nguyệt thưa: Nay chúng tịnh
Xin giảng đạo hạnh Địa thứ chín.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Phật tử! Bồ-tát đạt đủ vô số công đức trí tuệ, lại siêng năng suy xét pháp giải thoát vắng lặng tối thượng, lại quán xét, trí tuệ rốt ráo tột bậc, hướng nhập pháp bí mật của Như Lai, đúng lý phân biệt, trí không thể nghĩ bàn, tánh đại ngã, lựa chọn các pháp Đà-la-ni Tammuội; phát khởi thần thông rộng lớn; suy xét tất cả sự sai khác của cõi nước; trang sức bằng Lực, pháp Vô úy, pháp Bất cộng của Như Lai, tánh bền vững, nương Phật chuyển xe pháp, nhập tánh dũng kiện, không bỏ sức đại Bi đã được gia hộ, thì chứng nhập Địa thứ chín của Bồ-tát.

Bồ-tát trụ ở địa này, biết đúng sự vận hành của các pháp thiện, ác, vô ký, hữu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế gian, suy xét được, không suy xét được, quyết định, không quyết định, Thanh văn, Độc giác, hạnh Bồ-tát, Địa Như Lai, hữu vi, vô vi. Dùng trí hành biết đúng sự vận hành dày đặc của tâm, phiền não, nghiệp, căn, sự hiểu biết, chủng tánh, ý thức mê mờ, sự thọ sinh, tập khí liên tục, tam Tụ an lập của chúng sinh… tất cả đều biết như thật.

Bồ-tát biết đúng như thật các loại tánh của tâm chúng sinh: Tánh của tạp tâm; tánh của tâm chuyển đổi, hoại không hoại; tánh của tâm không thật; tánh của tâm không hạn lượng, hiện đầy khắp mọi nơi; tánh của tâm vốn thanh tịnh; tánh của tâm có tạp nhiễm, không tạp nhiễm; tánh của tâm trói mở; tánh của tâm ảo; tánh của tâm an trụ theo cảnh giới, cho đến biết đúng vô số trăm ngàn các loại tánh của tâm sai khác.

Bồ-tát biết rõ tánh xa tùy hành phiền não, tánh gia hành vô biên; tánh đầy đủ, không rời nhau; tánh luôn bị trói buộc trong mê mờ; tánh hợp không hợp với tâm; tánh thọ sinh liên tục theo cảnh giới; tánh sai khác của ba cõi; tánh khát ái, vô minh; tánh chấp chặt nhân duyên, ba nghiệp không dứt; cho đến biết rõ được tánh của tám vạn bốn ngàn phiễn não sai khác.

Bồ-tát lại biết tánh của các nghiệp thiện, không thiện, vô ký; tánh hữu biểu, vô biểu, cùng với tánh luôn sinh khởi với tâm; tánh liên tục có nhân không mất quả; tánh có báo, không báo; tánh nghiệp trắng, đen, vừa trắng, vừa đen; tánh không thọ sai biệt không trắng, không đen; tánh vô lượng của ruộng nghiệp; tánh nghiệp sai khác của Thánh, phàm, chúng sinh; tánh hiện pháp sinh khởi ở đời sau; tánh thừa, không thừa, định, không định, cho đến vô lượng vô số tánh nghiệp sai khác, cũng đều biết như thật.

Bồ-tát biết rõ các tánh yếu, vừa, giỏi; Tánh trước, sau, có sai khác, không sai khác; Tánh thượng, trung, hạ; tánh không thể lìa phiền não với sự sinh, tánh nơi thừa không thừa, định không định, tánh đã thành thục, chưa thành thục; tánh của tướng chấp giữ lưới căn biến chuyển hư hoại, tánh không hư hoại vì căn tăng thượng; tánh sai biệt của các căn thoái lui, không thoái lui; tánh từ xưa theo hạnh nghiệp sinh khởi sai khác. Tóm lại, là biết rõ vô số trăm ngàn tánh của các căn sai khác.

Bồ-tát lại biết rõ đúng như thật về tánh của sự hiểu biết cao, thấp, vừa; tánh trước, sau, sai khác, không sai khác; tánh thượng, trung, hạ, tánh cùng với phiền não không lìa nhau, tánh thừa, không thừa, định, không định; tánh đã thành thục, chưa thành thục, tánh của tướng chấp giữ lưới căn dần suy hoại; nhờ sự hiểu biết tăng thượng nên tánh không suy hoại, thoái chuyển, không thoái chuyển, hiểu biết sai khác, từ xưa theo hạnh nghiệp thọ sinh. Tóm lại, biết đúng như thật về vô số trăm ngàn sự hiểu biết sai khác.

Bồ-tát biết rõ tánh của các chủng cao, thấp, vừa; tánh trước, sau, sai khác, không sai khác; tánh thượng, trung, hạ, tánh phiền não và sự sinh không xa lìa, tánh thừa, không thừa, định, không định; tánh đã thành thục, chưa thành thục, tánh của tướng chấp giữ các lưới căn dần suy hoại; nhờ chủng tánh tăng thượng nên tánh không suy hoại, tánh thoái lui, không thoái lui; tánh sai khác, tánh từ xưa theo hạnh nghiệp thọ sinh. Tóm lại, biết đúng về vô số trăm ngàn đủ các chủng tánh sai khác.

Bồ-tát biết rõ tánh của các ý lạc cao, thấp, vừa; tánh trước, sau, sai khác, không sai khác, tánh thượng, trung, hạ; tánh không xa lìa của phiền não và sự sinh không lìa nhau; tánh thừa, không thừa, định, không định; tánh đã thành thục, chưa thành thục; tánh của tướng chấp giữ lưới căn dần suy hoại; nhờ ý lạc tăng thượng nên tánh không suy hoại; tánh thoái lui, không thoái lui; sai khác; tánh từ xưa theo hạnh nghiệp thọ sinh. Tóm lại, biết đúng về vô số trăm ngàn ý lạc sai khác.

Bồ-tát lại biết rõ tánh cộng sinh của “tùy miên” với ý lạc, với tâm; Tánh bất tương ly của tâm tương ưng, không tương ưng; tánh từ xưa theo hạnh nghiệp; tánh từ xưa đến nay chưa từng nói ra; Tánh thiền định, giải thoát Tam-muội, thần thông khó điều phục; tánh liên tục bị trói buộc trong ba cõi luôn phải thọ sinh; tánh từ vô thỉ tâm buộc hiện hành, tánh hiểu rõ về uẩn xứ tập; tánh đạt chỗ đối trị sự thật; tánh hòa hợp không hòa hợp với cái khác; tánh chỉ dùng Thánh đạo mới bỏ ra được… tất cả đều biết như thật.

Bồ-tát lại biết rõ tánh thọ sinh với đủ loại sai khác; tánh tùy nghiệp thọ sinh; tánh an lập trong địa ngục; súc sinh; quỷ, A-tu-la, trời, người; tánh thọ sinh có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng. Tánh nẩy mầm từ các nghiệp là ruộng, khát ái là nước tưới thấm vô minh che lấp, thức là hạt giống nên có mầm về sau; tánh chẳng lìa nhau của danh sắc cùng sinh khởi; tánh mong cầu si khát ái nên cứ tiếp tục thọ sinh; tánh vô thỉ chung của chúng sinh luôn tham dục, ái dục; tánh cùng thoát ra khỏi chấp thọ trong ba cõi.

Bồ-tát lại biết rõ tánh hành, không hành của tập khí, tánh tùy cõi mà huân tập liên tục; tánh tuy hành nghiệp chúng sinh mà huân tập; tánh tùy nghiệp phiền não mà có thói quen huân tập; tánh tùy pháp thiện, không thiện, vô ký mà có thói quen huân tập; tánh huân tập cho hạnh nghiệp đời sau; tánh huân tập theo thứ lớp; tánh từ xưa do hành, hoặc, không đoạn, không diệt mà huân tập; tánh huân tập về sự thật của thể; tánh huân tập nhờ gần gũi các bậc Thanh văn, Độc giác, Bồtát, Như Lai mà học hỏi được.

Bồ-tát biết rõ tánh của chúng sinh ở trong Tụ chánh định, tà định cùng bất định. Nhờ chánh kiến được tánh chánh định. Do tà kiến rơi vào tánh tà định. Không thuộc chánh định, tà định là tánh bất định. Tạo một tội trong năm tội vô gián thì rơi vào tánh tà định. Tu năm căn trên nên có tánh chánh định; không thuộc hai thứ ấy là tánh bất định. Tu tập bằng tám pháp tà nên rơi vào tánh tà định. Tu tập tám pháp bát chánh đạo nên có tánh chánh định; không thuộc hai thứ trên là tánh bất định. Luôn keo kiệt, ganh ghét, không thương yêu nên rơi vào tánh tà định. Chỉ dạy tu tập Thánh đạo vô thượng nên có tánh chánh định, không thuộc hai thứ trên là tánh bất định. Tất cả đều biết như thật.

Phật tử! Bồ-tát tùy thuận nhận biết tất cả như vậy gọi là Bồ-tát trụ địa Thiện tuệ. Bồ-tát khi trụ nơi địa này, hiểu đúng những sai khác về hành nghiệp của tất cả chúng sinh, từ đó mà chỉ dạy phương tiện giải thoát thích hợp. Biết chúng sinh nào đã thành thục, đã điều phục, để giảng diễn nói pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và địa Như Lai.

Đã biết như vậy rồi, nhưng vì muốn cho chúng sinh đạt tánh chân như, nên Bồ-tát phải thuyết pháp mầu. Tùy sở thích, trình độ cao thấp, sự hiểu biết, hành nghiệp sai khác mà phân biệt tất cả chủng tánh hiện hành theo trí; tùy thuận vô số chủng tánh dày đặc mà hành; tùy thuận phiền não nghiệp thọ sinh, tập khí, dứt hẳn; tùy chỗ ở mà hành động. Tùy sức hiểu biết để được giải thoát mà thuyết pháp.

Phật tử! Bồ-tát khi trụ nơi địa này, làm Pháp sư giỏi, giữ gìn tạng pháp của Như Lai, đầy đủ hạnh Pháp sư. Dùng vô số trí làm phương tiện tốt, tùy nghi hành động. Dùng âm từ của bốn sự hiểu biết vô ngại mà thuyết pháp. Lúc này Bồ-tát đầy đủ bốn Vô ngại giải. Bốn pháp ấy là gì? Đó là:

  1. Pháp vô ngại giải.
  2. Nghĩa vô ngại giải.
  3. Từ vô ngại giải.
  4. Biện thuyết vô ngại giải.

Dùng pháp vô ngại giải, hiểu được tự tướng của các pháp; dùng nghĩa vô ngại giải hiểu được sự sai khác của các pháp; dùng từ vô ngại giải khéo diễn nói pháp không tạp loạn; dùng biện thuyết vô ngại giải biết được tánh tuần tự tiếp nối không gián đoạn của các pháp. Dùng pháp vô ngại giải, biết được thể của các pháp là vô tánh; dùng nghĩa vô ngại giải, biết đúng sự sinh diệt của các pháp; dùng từ vô ngại giải, tùy thuận được sự giả có của các pháp mà thuyết giảng chánh pháp không ngừng; dùng biện thuyết vô ngại giải là để diễn nói pháp yếu giải thoát theo sự không phải đã có của các pháp. Dùng pháp vô ngại giải, biết sự sai khác của các pháp hiện tại; dùng nghĩa vô ngại giải biết sự sai khác của pháp quá khứ, vị lai; dùng từ vô ngại giải, diễn nói pháp quá khứ, vị lai, hiện tại không tạp loạn; dùng biện thuyết vô ngại giải, trải qua nhiều đời diễn nói pháp bằng vô biên pháp sáng. Dùng pháp vô ngại giải, biết sự sai khác của các pháp; dùng nghĩa vô ngại giải biết sự sai khác của nghĩa lý; dùng từ vô ngại giải, tùy thuận ngôn ngữ mà diễn thuyết chánh pháp; dùng biện thuyết vô ngại giải, tùy thuận trình độ, sở thích mà diễn nói pháp giải thoát. Dùng pháp vô ngại giải, nương trí pháp trực tiếp, hiểu biết khéo léo sự sai khác, không tạp loạn; dùng nghĩa vô ngại giải, nương trí so sánh, biết tánh vốn vậy của các pháp; dùng từ vô ngại giải, nương trí thế tục, chỉ dạy giải thích, dùng biện thuyết vô ngại giải nương trí thắng nghĩa để khéo giảng pháp. Dùng pháp vô ngại giải, biết tánh không hư hoại của nghĩa lý chân thật; dùng nghĩa vô ngại giải, biết phát khởi phương tiện đi vào đến uẩn, xứ, giới; dùng từ vô ngại giải, tùy thuận ngôn ngữ văn chương mà thế gian hiểu được để thuyết pháp; dùng biện thuyết vô ngại giải, nương dần dần vào vô số tuệ sáng mà giải thích đúng lý. Dùng pháp vô ngại giải, biết sự sai biệt của pháp Nhất thừa; dùng nghĩa vô ngại giải, biết sự sai biệt của các thừa; dùng từ vô ngại giải, giảng thuyết các thừa không tạp loạn; dùng biện thuyết vô ngại giải, nương pháp sáng mà giải thích được tất cả. Dùng pháp vô ngại giải, có thể nhập vào hết thảy các hạnh của Bồ-tát bằng trí hành rồi tùy trí mà hành; dùng nghĩa vô ngại giải, thâm nhập vào sự sai biệt của việc an trụ mười Địa; dùng từ vô ngại giải, tùy thuận diễn thuyết không tạp loạn, chỉ dạy đạo pháp của các địa; dùng biện thuyết vô ngại có thể nương vô số hành tướng để giải thích các trí địa. Dùng pháp vô ngại giải, biết chư Phật thành đạo Chánh đẳng giác chỉ trong nháy mắt; dùng nghĩa vô ngại giải, biết sự sai khác của đủ loại thời, sự tướng; dùng từ vô ngại giải, diễn thuyết mà chư Phật đã phân biệt giải thích; dùng biện thuyết vô ngại giải, trai qua vô số kiếp giải thích mỗi một câu pháp, không cùng tận. Dùng pháp vô ngại giải, biết oai lực, vô sở úy, pháp Bất cộng của Phật, đại Từ bi, biện tài, gia hạnh chuyển đại pháp luân, tùy thuận thực hành trí Nhất thiết trí; dùng nghĩa vô ngại giải, biết Như Lai tùy thuận nhập vào tám vạn bốn ngàn loài chúng sinh sai khác để sở thích, trình độ mà thuyết pháp; dùng từ vô ngại giải, tùy thuận hạnh nghiệp sai khác mà dùng ngôn từ diễn nói Phật pháp; dùng biện thuyết vô ngại, tùy trí, hạnh thanh tịnh, sự hiểu biết của Như Lai mà thuyết pháp.

Phật tử! Bồ-tát trụ địa Thiện tuệ thứ chín này, thành tựu trí vô ngại giải như vậy; đạt tạng pháp Như Lai; làm Pháp sư giỏi; đạt các Tam-muội thật nghĩa, thật pháp, trí phát khởi, ánh sáng, trí khéo léo, chúng tài, oai đức, môn vô ngại, không ngằn mé, đủ các loại nghĩa,… đạt nhiều như vậy, có tới vô số tám vạn Tam-muội viên mãn, rồi dùng vô số ngôn ngữ, phương tiện, biện tài, phân tích giảng pháp cho người khác. Nương vào những vô số Tam-muội đó, Bồ-tát được nghe vô số diệu pháp của Phật, nghe rồi nhớ mãi và diễn thuyết cho mọi người. Ở chỗ một Đức Phật, dùng vô số pháp Tam-muội để lãnh thọ chánh pháp. Ở chỗ vô số Phật cũng thế. Chỉ trong khoảnh khắc, Bồ-tát lãnh thọ vô số pháp vi diệu của chư Phật, mà hàng Thanh văn tài giỏi, dù phải trải qua trăm ngàn kiếp, cũng không thể lãnh thọ được. Thành tựu những Tam-muội này rồi Bồ-tát đầy đủ biện tài, ngồi ở pháp tòa, đi khắp mọi nơi, tùy sở thích khác nhau của chúng sinh mà thuyết pháp. Pháp tòa ấy thật thù thắng, ngoài Phật và Bồ-tát thọ Quán đỉnh ra, các Bồ-tát khác có oai đức ánh sáng cũng không sao sánh kịp. Bồtát tự tại ngồi trên pháp tòa; dùng một ngôn ngữ, diễn thuyết diệu pháp nhưng chỉ cho mọi loài đều hiểu được; hoặc dùng vô số ngôn ngữ, phân tích giảng thuyết khiến mọi loài đều tỏ ngộ; hoặc tự tại phóng ra ánh sáng lớn theo đó phát ra vô số pháp môn; hoặc từ trên thân, ở mỗi lỗ chân lông, đều phát ra tiếng thuyết pháp; hoặc tùy chúng sinh trong vô số cõi, hiện cùng sắc tướng để có thể cùng thuyết pháp mầu; hoặc dùng một ngôn ngữ mà diễn đủ hết tất cả âm pháp; hoặc làm cho tất cả ngôn ngữ đều thành tiếng nói pháp vi diệu; hoặc dùng tiếng ca nhạc, ngâm vịnh của thế gian mà diễn nói pháp; hoặc dùng một ngôn ngữ diễn thuyết tất cả âm pháp sai biệt; hoặc làm cho tất cả vi trần trong bốn đại của vô số cõi nước, mà ở mỗi vi trần đều phát ra pháp không thể nói. Cho dù vô số chúng sinh trong một, hai… cho đến vô số cõi nước, cùng một lúc, dùng vô số ngôn ngữ, vấn nạn sai khác thì Bồ-tát này vẫn lãnh thọ hết và chỉ dùng một ngôn ngữ giải thích mà tất cả đều vui vẻ. Cho dù có vô số không thể nói chúng sinh vấn nạn… thì Bồ-tát cũng vậy. Tóm lại, Bồ-tát tùy thuận vào sở thích, trình độ của vô số chúng sinh mà diễn nói pháp mầu. Bồ-tát thông hiểu luận pháp, cầu Phật gia hộ, dốc sức thuyết pháp, làm việc Phật, làm chỗ nương tựa cho chúng sinh. thọ trì pháp sáng ấy, Bồ-tát phát nguyện: Giả sử mỗi mỗi sợi lông có vô số cõi nước, mỗi cõi nước có một Đức Phật đang thuyết pháp cho đại chúng; tất cả các Đức Phật khác cũng tùy thuận sở thích chúng sinh mà thuyết pháp, truyền trao pháp môn. Hội chúng của một Như Lai cũng giống như hội chúng tất cả các Đức Như Lai. Một cõi nước như vậy, tất cả các cõi nước cũng đều như thế. Ta phải phát khởi niệm lực để lãnh thọ tất cả pháp môn của Phật thuyết giảng. Bồ-tát trụ ở địa này, ngày đêm không ngoài suy nghĩ là được vào cảnh giới Phật, gần gũi Như Lai, đạt pháp giải thoát sâu xa của Bồ-tát. Bồ-tát dùng trí như vậy, luôn ở trong định để được gặp Phật; nguyện ấy không hề bỏ. Trong mỗi kiếp, Bồ-tát được gặp vô lượng vô số trăm ngàn Đức Phật; dùng vật quý báu để cúng dường, phụng sự Phật, ở chỗ Phật học hỏi, đạt pháp Tổng trì lại tập diễn nói pháp. Lúc này căn lành của Bồ-tát càng thù thắng, không ai sánh được.

Phật tử! Ví như thợ vàng, luyện vàng thành các đồ trang sức; đem trang điểm trên đầu hoặc trên cổ vua Chuyển luân thì tất cả vật trang sức của vua, quan, dân trong bốn châu đều không thể so sánh được.

Phật tử! Ví như Đại phạm Thiên vương cai trị hai ngàn cõi, thân phóng ra ánh sáng chiếu khắp mọi nơi. Khiến cho những u tối dày đặc trở nên sáng rực. Cũng vậy, ánh sáng căn lành của Bồ-tát này, soi rọi tâm ý phiền não dày đặc của chúng sinh, rồi cũng thâu lại. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Lực ba-la-mật, các Ba-la-mật khác thì tùy thuận mà hành trì.

Phật tử! Đó là nói sơ lược về trụ địa Thiện tuệ thứ chín của Bồtát. Nếu nói rộng, thì trải qua vô số kiếp cũng không thể hết. Bồ-tát ở địa này, thọ sinh thường làm Đại phạm Thiên vương, đầy đủ uy quyền, cai trị hai ngàn cõi, mạnh mẽ không ai sánh bằng; luôn làm việc lợi ích, được tự tại lớn vì chúng hữu tình mà diễn thuyết hạnh Ba-la-mật cho Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát; chúng sinh tùy thích vấn nạn không bị khuất phục. Làm mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về bờ giải thoát, về các trụ địa, về pháp không sợ, về lực, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng vi diệu, vô thượng; là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu siêng tu tập, trong khoảnh khắc sẽ đạt trăm vạn atăng-kỳ-da Tam-muội sẽ gặp trăm vạn a-tăng-kỳ-da Đức Phật, sẽ được Phật gia hộ cho thông hiểu tất cả; làm chuyển động trăm vạn atăng-kỳ-da thế giới; sẽ đi khắp trăm vạn a-tăng-kỳ-da cõi nước, sẽ soi chiếu trăm vạn a-tăng-kỳ-da cảnh giới; sẽ thành tựu trăm vạn a-tăngkỳ-da loại chúng sinh; sẽ sống trăm vạn a-tăng-kỳ-da kiếp; trước sau đều vào trong trăm vạn a-tăng-kỳ-da kiếp; sẽ suy xét rõ trăm vạn atăng-kỳ-da pháp; sẽ thị hiện trăm vạn a-tăng-kỳ-da thân, mỗi thân hiện trăm vạn a-tăng-kỳ-da Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng ở trên, nên mọi việc đi lại, thần thông, thân tướng, mắt, ánh sáng, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, gìn giữ, tạo tác dù có trải qua trăm vạn a-tăng-kỳ-da câu-chi kiếp, cũng không thể nói hết.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Vô trí tuệ sâu xa trước
Chẳng thích, chỉ cầu thắng giải thoát
Nhập định của Phật xét trí Phật
Lựa chọn diệu trí khó nghĩ bàn
Tổng trì thanh tịnh, cùng các định
Đạt thần thông lớn vào các cõi
Tu lực, vô úy pháp Bất cộng
Tùy thuận đại Bi nhập tuệ địa
Bồ-tát an trụ trí địa này
Biết pháp thiện, ác, không thiện ác
Hữu lậu, vô lậu, thế, xuất thế
Suy xét hay không thể suy xét
Các pháp quyết định, không quyết định
Hạnh nghiệp ba thừa và Phật địa
Các hành sai khác hữu, vô vi
Biết đúng như vậy lúc nhập thế
Sẽ hiểu rõ tâm tánh chúng sinh
Phiền não, nghiệp báo cùng kiến giải
Tâm tánh sở thích và tùy miên
Tập khí, thọ sinh, tụ, phiền não
Biết tánh thay đổi của tâm ý
Các tướng không chất, khó hạn lượng
Vô số phiền não nương nhau sinh
Trói buộc liên tục vào các cõi
Bao nhiêu tánh nghiệp của chúng sinh
Đủ nhân thành quả đều biết rõ
Các căn đủ loại thượng, trung, hạ
Trước sau vô số sự sai biệt
Chủng tánh, hiểu biết và sở thích
Đều là như vậy thảy nhận biết
Tùy miên, hoặc, nghiệp, các vọng kiến
Vô thỉ mịt mù chưa trừ khử
Luôn luôn sinh khởi cùng tâm ý
Trói buộc lẫn nhau chẳng đoạn dứt
Chỉ do vọng tưởng Thể không thật
Không rời tâm ý, chẳng chỗ nương
Tuy tu tập định, nhưng khó trừ
Chỉ Kim Cang đạo mới dứt hết
Chúng sinh sáu cõi đều sai khác
Ruộng nghiệp, nước ái, vô minh che
Thức là hạt giống, danh sắc mầm
Vô thỉ nối liền trong ba cõi
Phiền não hành nghiệp luôn tu tập
Tuần tự sinh khởi, không lìa hoặc
Chúng sinh đều ở trong ba tụ
Kẻ đắm tà kiến, người hành đạo
Bồ-tát địa này quán sát khắp
Tùy thuận sở thích và trình độ
Đều dùng biện tài vô ngại giải
Thích hợp căn cơ mà thuyết pháp
Ngồi trên pháp tòa như Sư tử
Lại như trâu chúa, núi báu chúa
Tợ như rồng chúa bủa mây kín
Tuôn mưa mát lành khắp biển lớn
Biết rõ pháp tướng cùng thật nghĩa
Tùy thuận ngôn từ phân biệt giảng
Gồm thâu trăm vạn a-tăng-kỳ
Ví như biển lớn chứa nước mưa
Tam-muội thần thông đều thanh tịnh
Chỉ trong nháy mắt gặp nhiều Phật
Ở chỗ chư Phật nghe chánh pháp
Lại dùng diệu âm để diễn thuyết
Tùy ý chúng sinh ba ngàn cõi
Giáo hóa, cứu độ cho tất cả
Như mây giăng bủa khắp mọi nơi
Tùy thuận sở thích đều vui vẻ
Vô số chúng sinh ở mười phương
Đều đến ngồi gần nghe pháp mầu
Ai nấy đặt ra nhiều câu hỏi
Một lời đối đáp đều vừa lòng
Mỗi mỗi sợi lông vô số Phật
Tâm ý chúng sinh cũng vô cùng
Tâm đó thích hợp trao chánh pháp
Tất cả pháp giới đều như vậy
Bồ-tát càng tăng sức tinh tấn
Đạt vô số công đức thù thắng
Nghe nhớ tất cả các pháp môn
Như đất dung nạp hết mọi vật
Bồ-tát trụ địa: Ngôi thái tử
Tùy căn cơ khuyên dạy không mỏi
Ngày đêm luôn được gặp chư Phật
Thâm nhập tịch diệt trí giải thoát
Cúng dường chư Phật căn lành sáng
Như vật trang sức ở vương miện
Làm cho chúng sinh dứt phiền não
Ví như ánh sáng Phạm vương soi
Trụ địa này làm Đại phạm vương
Dùng pháp ba thừa độ chúng sinh
Thực hành nghiệp lành, lợi ích khắp
Cho đến thành tựu Nhất thiết trí
Chỉ trong một niệm nhập trăm vạn
A-tăng-kỳ số các Tam-muội
Gặp Phật… các việc đều như vậy
Nếu dùng nguyện lực thì hơn đây
Đó là Thiện tuệ Địa thứ chín
Nơi Bồ-tát tu hành đại trí
Sâu xa vi diệu khó thấy được
Tôi đã lược giảng cho các ông

*********

Phẩm 10: ĐỊA PHÁP VÂN

Vô số chư Thiên cõi Tịnh cư
Nghe hạnh thù thắng của địa này
Nơi hư không vô cùng hoan hỷ
Cùng nhau thành kính cúng dường Phật
Vô số, vô lượng các Bồ-tát
Cũng ở hư không rất vui mừng
Cùng nhau đốt hương thơm dịu nhất
Xông khắp đạo tràng thêm thanh tịnh
Tự tại Thiên vương và thiên chúng
Vô số trăm ngàn ở hư không
Rải trăm vạn áo trời rực rỡ
Thành kính cúng dường Đức Như Lai
Vô số ngọc nữ ở cõi trời
Vui vẻ cùng nhau cúng dường Phật
Trỗi đủ âm nhạc vi diệu nhất
Lại cùng các tiếng khen ngợi Phật
Như Lai an tọa trong một cõi
Nhưng lại hiện thân ở khắp nơi
Vô số thân tướng thật trang nghiêm
Tất cả pháp giới đề có Phật
Từ các chân lông phóng ánh sáng
Diệt trừ bóng tối của phiền não
Số bụi trong đời còn đếm biết
Làm sao biết được ánh sáng này?
Hiện thân Như Lai đủ các tướng
Chuyển nơi chánh pháp luân vô thượng
Hoặc hiện thân đi khắp cõi Phật
Hoặc hiện tịch nhiên không lay động
Hoặc hiện trụ nơi cung Hỷ túc
Hoặc là hạ sinh vào thai mẹ
Hoặc trụ thai, hoặc ra khỏi thai
Khiến cho vô số cõi đều thấy
Thị hiện xuất gia tu Thánh đạo
Ngồi ở đạo tràng, thành Chánh giác
Thuyết giảng chánh pháp, nhập Niết-bàn
Chúng sinh mười phương đều thấy được
Như nhà ảo thuật biết mọi cách
Ở trước mọi người biến hóa đủ
Trí tuệ Như Lai cũng như vậy
Hiện thân ở khắp thế gian
Phật trụ pháp tánh thật sâu xa
Tịch diệt, vô tướng, như hư không
Ngay trong thật nghĩa chân chánh đó
Thị hiện hành trì mọi Phật sự
Chỗ trụ việc lợi ích chúng sinh
Đều từ pháp tánh mà có được
Có tướng, không tướng nào sai khác
Vào nơi rốt ráo đều không tướng
Những ai muốn chứng trí Như Lai
Phải lìa vọng chấp, cùng phân biệt
Thông đạt có không đều bình đẳng
Sớm làm Đạo sư cõi trời người
Vô lượng vô số các Thiên nữ
Dùng đủ âm thanh xưng tán Phật
Thân tâm tịch tĩnh cùng an lạc
Chiêm ngưỡng Như Lai, im lặng đứng
Khi ấy Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt
Biết được đại chúng đều thanh tịnh
Thưa với Bồ-tát Kim Cang Tạng:
Bậc đại vô úy, đệ tử Phật
Từ Địa thứ chín đến thứ mười
Bao nhiêu công đức và hành tướng
Tất cả thần thông việc biến hóa
Xin Ngài giảng thuyết cho chúng tôi.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Phật tử! Bồ-tát dùng vô số trí hiểu biết để quán sát tuệ, đến khi đạt Địa thứ chín xong, phân biệt rõ ràng, đầy đủ pháp giải thoát, chuẩn bị đầy đủ hành trang, chứa đủ phước trí rộng lớn, chứng được vô số đại Từ bi, hiểu rõ sự sai biệt tách chia của thế giới, thâm nhập hạnh nghiệp dày đặc của chúng sinh, luôn suy nghĩ tùy thuận nhập vào cảnh giới Phật, nương oai lực, pháp vô úy và pháp Bất cộng của Phật, được gọi là Nhất thiết chủng trí và trí Nhất thiết trí, thọ địa Quán đỉnh.

Phật tử! Bồ-tát đã tùy thuận thực hành trí tuệ như vậy, chuẩn bị cho địa vị quán đỉnh của Bồ-tát, đạt được ngay các định không nhơ, đó là pháp giới tách chia sai biệt; đó là trang nghiêm Bồ-đề đạo tràng; đó là định gồm đủ các loại ánh sáng và hoa; đó là hải tạng trang nghiêm; đó là định hải ấn, định hư không giới rộng lớn, định phân biệt tự tánh các pháp, định tùy thuận tâm hành chúng sinh, định an trụ ngay ở chỗ các Đức Phật. Bồ-tát đạt vô số Tam-muội cao tột, tự ra vào trong Tam-muội, đạt quyền biến, làm mọi việc bằng định. Sau đó Bồ-tát đạt trí Nhất thiết trí thù thắng; hiển hiện ra Tam-muội quán đỉnh rộng lớn. Lúc Tam-muội này hiện khởi, có hoa sen bằng ngọc báu lớn xuất hiện. Hoa này lớn bằng trăm vạn cõi Đại Thiên, được trang sức bằng các vật báu, hơn hẳn cảnh giới nơi thế gian; được sinh khởi từ căn lành xuất thế gian, tự tánh như huyễn, cảnh giới được tạo thành từ sự khéo dựa vào pháp giới lành hiện khởi, cõi trời cũng không có được. Cọng hoa sen bằng ngọc báu Ma-ha phệ-lưu-ly ma-ni, đài bằng ngọc chiênđàn, tua bằng mã não, lá bằng vàng Diêm-phù-đàn, vô số hoa quý phản chiếu ánh sáng, chứa đủ tất cả vật báu, lưới báu rộng lớn che bên trên. Có vô số hoa sen nhiều như bụi trong vô số cõi nước bao quanh. Lúc đó, thân Bồ-tát lớn đẹp tương xứng với hoa. Như vậy, Bồtát này đã đạt trí Nhất thiết trí thù thắng hiển hiện Tam-muội quán đỉnh rộng lớn. Nhờ đạt Tam-muội đó nên Bồ-tát thị hiện ngồi nơi tòa sen báu lớn này. Khi Bồ-tát ngồi trên tòa sen này, trên các hoa sen khác cũng có các Bồ-tát vây quanh Bồ-tát này, cung kính chiêm ngưỡng thân Bồ-tát. Các Bồ-tát kia đều đạt trăm ngàn vạn Tam-muội, đều là bạn của Bồ-tát này. Lúc các Bồ-tát nhập định này, tất cả cõi nước đều chấn động, tất cả cõi ác đều dừng nghỉ, ánh sáng chiếu khắp nơi, đâu đâu cũng đều trang nghiêm, thanh tịnh, nghe được tiếng nói của các Đức Phật. Tất cả các Bồ-tát ở chỗ khác đều đến đây, hết thảy nhạc cụ của cõi trời, người đều trổi lên, chúng sinh được an lạc, cùng lúc thực hiện sự cúng dường, phụng sự các Đức Phật, tất cả chúng hội của chư Phật ở mười phương đều chứng biết. Vì sao? Phật tử! Vì Bồtát ngồi trên hoa sen báu lớn đó; dưới hai chân, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến tới ngục vô gián, trừ hết khổ não. Nơi hai đầu gối, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến các loài súc sinh, dứt trừ khổ não. Từ nơi rốn, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến loài quỷ đói, dứt hẳn khổ não. Hai bên hông phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến cõi người, dứt trừ khổ não. Tâm bàn tay phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến các cung điện chỗ ở của chư Thiên và A-tu-la. Hai vai, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến các Thanh văn. Sau cổ, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến các thân Độc giác. Từ mặt, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương đến các Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín. Từ lông trắng giữa chặng mày, phóng ra vô số ánh sáng, soi khắp mười phương, che lấp cung điện của ma; rồi chiếu đến các Bồ-tát đạt địa quán đỉnh. Từ đỉnh đầu, phóng ra vô số ánh sáng, chiếu đến đạo tràng chúng hội của chư Phật khắp mười phương, xoay mười vòng bên phải trụ trong hư không, thành vòng ánh sáng lớn, cúng dường chư Phật. Ánh sáng đó gọi là Xí nhiên quang diệu. Tất cả sự cúng dường của hàng Bồ-tát, từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín, đều không so sánh được một phần trong trăm ngàn vạn ức phần, dù tính đếm thí dụ thế nào cũng không được. Từ vòng ánh sáng lớn, tuôn ra các loại trang sức như: Hương thơm, hương đốt, hương xoa, hương bột, phấn xoa, y phục, cờ phướn, lọng báu, tựa như mây lớn tuôn mưa to. Những sự siêu việt ấy đều phát sinh từ căn lành cao tột hiện ra trước các Như Lai ở khắp mười phương, để cúng dường tất cả Đức Phật ở đấy. Những ai biết được sự cúng dường lớn này, đều là người đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đạt được không thoái chuyển. Sau khi cúng dường Phật, ánh sáng ấy chiếu đến đạo tràng Phật, soi khắp mười loài nơi thế gian, rồi nhập vào chân Phật.

Lúc này các Đức Phật, Bồ-tát đều biết ở nơi đó, có Bồ-tát thành tựu hạnh chân chánh rộng lớn, đạt địa vị quán đỉnh. Phật tử! Khi đó, từ vô lượng, vô biên các cõi, các Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín đều đến vây quanh Bồ-tát này, bày sự cúng dường lớn và một tâm chiêm ngưỡng, mỗi vị đều đạt trăm vạn Tam-muội. Bấy giờ, các Bồtát đạt ngôi vị quán đỉnh ở mười phương, đều từ đức tướng nơi ngục Kim cang trang nghiêm, phóng ra ánh sáng lớn gọi là Hàng phục ma oán và vô số thần thông biến hóa. Sau đó, ánh sáng nhập về chỗ cũ, nhờ đấy các Bồ-tát này trí tuệ tăng trưởng, oai lực gấp trăm ngàn lần trước.

Phật tử! Khi ấy, các Đức Phật ở mười phương, cũng từ tướng lông trắng ở chặng mày, phóng ra ánh sáng tên Đầy đủ thần thông tánh nhất thiết trí và vô số ánh sáng khác vây quanh, chiếu khắp mười phương không bỏ sót, vòng quanh theo phía bên phải khắp các thế gian mười cách, rồi hiển bày thần thông diệu dụng lớn của Như Lai khai ngộ vô lượng, vô biên, vô số Bồ-tát. Các cõi Phật đều có sáu cách chấn động, chấm dứt tất cả sự luân chuyển của sinh tử hiểm ác nơi các cõi dữ; che lấp hết thảy cung điện của ma, hiện rõ các tòa Bồđề, các chúng hội đạo tràng trang nghiêm oai đức rực rỡ, cho đến tận hư không pháp giới. Sau đó, ánh sáng lại chiếu xoay quanh ở trên đầu các Bồ-tát. Thị hiện mọi việc xong, ánh sáng ấy lại nhập vào đỉnh đầu của Bồ-tát. Các ánh sáng khác cũng nhập vào đỉnh đầu của các Bồ-tát bạn. Lúc ánh sáng nhập vào, các Bồ-tát đều làm đạt trăm vạn muội mà trước đây chưa đạt. Khi ánh sáng này nhập vào đỉnh dầu rồi, Bồtát sẽ được ở trong cõi Phật thọ lãnh quả vị quán đỉnh. Nếu đầy đủ mười Lực, sẽ được dự vào hàng Chánh đẳng, Chánh biến tri, Chánh giác.

Phật tử! Ví như thái tử, con của vua Chuyển luân và hoàng hậu; sinh ra là đầy đủ tướng vua Chuyển luân vương sẽ cho thái tử ngồi xe voi báu, che lưới màn báu; cờ phướn lọng, y phục đều thơm mùi hoa, đốt các thứ hương, rải hoa, trổi nhạc; cho người lấy nước bốn biển đựng trong bình báu, tự tay vua rưới nước lên đỉnh đầu thái tử. Vừa được rưới nước là thái tử đã được dự vào hàng Sát-lợi vương. Nếu đầy đủ mười nghiệp lành nữa sẽ được gọi là Chuyển luân thánh vương.

Phật tử! Bồ-tát cũng vừa được chư Phật rưới nước lên đỉnh đầu là đạt quả vị quán đỉnh, gọi là đã thọ pháp quán đỉnh nước Trí. Nếu đủ mười lực được dự vào hàng Chánh đẳng Chánh giác. Phật tử! Đó là Bồ-tát quán đỉnh Đại thừa. Bồ-tát này sẽ phát nguyện làm vô số việc khó làm, vô lượng công đức trí tuệ được tăng trưởng được gọi là an trụ nơi địa Pháp vân.

Phật tử! Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân này, tập nhân của các cõi:

dục, sắc, vô sắc, tập nhân của các cảnh giới, hữu tình, thức, hữu vi, vô vi, hư không, pháp, Niết-bàn. Bồ-tát này thấy biết tập hành của phiền não, của sự thành hoại của thế giới. Tập hành của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Lực, pháp Vô úy, pháp Bất cộng của Phật, sắc thân, Pháp thân; dùng Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí hiển hiện thành Phật, thuyết pháp, nhập diệt độ phân biệt rõ ràng các pháp. Tóm lại, Bồ-tát dùng Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí biết đúng về tất cả. Từ trí tuệ ấy, Bồ-tát lần lần biết rõ sự biến đổi của chúng sinh, của nghiệp phiền não, của hạnh nghiệp, của thế giới, pháp giới, của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai; biết rõ tất cả sự biến đổi sai khác đó, tánh không phân biệt. Bồ-tát này biết rõ sự gia trì của Phật, Pháp, Tăng, nghiệp phiền não, thời gian, hạnh nguyện, cúng dường, hạnh chân chánh, kiếp số, trí. Lại biết rõ trí vi tế của Phật như xuống trần, thọ sinh, sinh ra, vui chơi, xuất gia, thành Phật, thuyết pháp, hỗ trợ suy xét, nhập diệt, an trụ chánh pháp. Bồ-tát biết rõ tất cả những nơi khó biết của Phật như thân, lời nói, tâm, hợp thời, trái thời, thọ ký cho Bồtát, hàng phục chúng sinh, vận hành mọi sự sai khác, căn tánh hạnh nguyện sai khác của chúng sinh, công dụng của nghiệp, tự tánh giác ngộ thành đạo. Lại biết trí hòa nhập kiếp số của chư Phật như từ một kiếp nhập thành vô số kiếp, vô số kiếp nhập thành một kiếp, có kiếp số nhập vào không kiếp số, không kiếp số nhập vào có kiếp số, một sát-na thành một kiếp, một kiếp thành một sát-na, kiếp nhập vào không phải kiếp, không phải kiếp nhập vào kiếp, kiếp có Phật nhập vào kiếp không Phật, kiếp không Phật nhập vào kiếp có Phật, hoặc nhập vào không có cõi Phật, hoặc nhập có cõi Phật, hoặc kiếp quá khứ nhập vị lai hiện tại, kiếp hiện tại nhập quá khứ vị lai, kiếp vị lai nhập quá khứ hiện tại; hoặc kiếp dài nhập kiếp ngắn, kiếp ngắn nhập kiếp dài; hoặc kiếp ngắn nhập không phải kiếp ngắn, không phải kiếp ngắn nhập kiếp ngắn, biến tất cả kiếp nhập trong tướng hành động, tất cả đều biết như thật. Bồ-tát này còn biết trí tuệ nhập của Phật, như nhập trí ngu đạo, hoặc nhập trí vi trần, hoặc nhập trí chánh giác cõi thân, hoặc nhập trí chánh giác thân tâm chúng sinh, hoặc nhập trí chánh giác tùy thuận mọi nơi chốn; hoặc nhập trí thị hiện hạnh tán loạn, hạnh thuận nghịch, hạnh nghĩ bàn, không nghĩ bàn; trí thế gian biết dược; hoặc nhập trí thị hiện về đối tượng nhận biết hạnh Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai.

Phật tử! Trí rộng lớn của Phật không lường, trí của Bồ-tát ở địa này cũng không lường được.

Phật tử! Bồ-tát tùy thuận hạnh nghiệp ở địa này rồi, tức đã đạt được giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, không chướng ngại, thanh tịnh, bền vững, hiển hiện phát khởi tất cả pháp môn giải thoát. Như Lai tạng, tùy thuận không ngại, chuyển tùy hạnh ba đời, tùy thuận pháp giới tạng, ánh sáng giải thoát rực rỡ, mọi cảnh giới rốt ráo.

Phật tử! Bồ-tát trụ địa Pháp vân, lấy mười pháp giải thoát này làm đầu, để mau đạt vô số trăm ngàn môn giải thoát. Cứ thế cho đến khi đạt được vô lượng vô số trăm ngàn Tam-muội, Đà-la-ni, thần thông biến hóa.

Phật tử! Bồ-tát thành tựu mọi hạnh nghiệp bằng trí tuệ và vô số sức nghĩ khéo léo; thì chỉ trong khoảnh khắc, Bồ-tát có thể lãnh nạp nhận lấy, thu giữ vô số mây pháp, vô số ánh sáng chiếu rực của pháp mà vô lượng Phật ở mười phương có được.

Phật tử! Ví như mưa lớn, tuôn nước xuống, ngoài biển ra, không nơi nào chứa hết được. Tất cả chúng Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín không thể nào nhận lãnh gìn giữ được pháp bí mật sáng suốt của vô lượng Phật. Đó là mây (vô số) đại pháp, là ánh sáng rực rỡ của đại pháp ánh sáng. Bồ-tát trụ ở địa Pháp vân này mới làm được những việc ấy.

Phật tử! Ví như biển lớn chứa được nước mưa của một vua rồng lớn. Cho dù hai, ba… cho đến vô số vua rồng lớn, cùng lúc tuôn mưa, biển vẫn chứa hết được. Vì sao? Vì biển rộng mênh mông.

Phật tử! Bồ-tát trụ địa này cũng vậy, chỉ trong khoảnh khắc sẽ nhận lãnh, thâu tóm, giữ gìn tất cả tạng pháp vân, pháp minh, pháp chiếu của một Đức Phật. Cho dù hai, ba, vô số Đức Phật cùng lúc thuyết giảng vô lượng pháp minh, pháp chiếu, pháp vân, thì Bồ-tát cũng đều lãnh thọ hết, chỉ trong khoảnh khắc. Vì vậy địa này được gọi là địa Pháp vân.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt thưa:

–Phật tử! Có thể tính đếm được tạng pháp Đại vân, Quang minh. Chiếu diệu mầu nhiệm mà Bồ-tát địa này có thể nhận lãnh, thâu tóm, giữ gìn trong sát-na ấy không?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Không thể nào dùng toán số mà tính đếm được. Song tôi sẽ vì hiền giả mà nêu ví dụ về tạng pháp mầu nhiệm Đại vân, Quang minh, chiếu diệu mà Bồ-tát nhận lãnh, thâu giữ ở bao nhiêu Đức Phật.

Phật tử! Giả sử trong cõi chúng sinh của vô số, vô lượng, vô biên cõi Phật nơi mười phương, có một chúng sinh, đã đạt pháp Văn trì, Tổng trì cao tột, vì làm thị giả cho Phật, là bậc tài giỏi nhất trong hàng Thanh văn, như Tỳ-kheo Đại Thắng của cõi Phật Kim Cang Liên Hoa Thượng. Một chúng sinh thành tựu diệu lực Đà-la-ni đa văn như vậy, tất cả chúng sinh ở vô số cõi kia, cũng thành tựu giống như thế. Song pháp mà một chúng sinh này lãnh thọ thì chúng sinh khác không lãnh thọ lại.

Phật tử! Nhân giả nghĩ sao? Diệu lực của phương tiện trí tuệ đó có nhiều không?

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt đáp:

–Rất nhiều, vô lượng.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Phật tử! Bây giờ tôi sẽ nói rõ để Nhân giả hiểu. Tạng pháp mầu mà Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân nhận lãnh, thâu giữ ở một Đức Phật, gọi là Ba đời pháp giới tạng đại pháp quang minh pháp chiếu pháp vân; gấp trăm ngàn vạn vô số lần diệu lực của phương tiện trí tuệ nơi một chúng sinh đạt được kia. Cho dù tính đếm, ví dụ như thế nào cũng không thể sánh được một phần. Pháp của một Đức Phật đã thế, pháp của vô số, vô lượng Đức Phật khắp mười phương lại hơn cả vô lượng, vô biên số, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, Bồ-tát này đều có thể nhận lãnh, thâu giữ được hết. Vì vậy, địa này được gọi là Pháp vân.

Phật tử! Bồ-tát đã an trụ nơi địa Pháp vân, dùng sức thệ nguyện nổi mây đại Bi, vang sấm pháp lớn, thần thông không sợ, ánh sáng rực rỡ, soi khắp mười phương, dùng phước trí lớn che rợp muôn nơi, hiện đủ loại thân hình, qua lại trong mây mù, rền tiếng pháp vĩ đại, đánh bại ma quân. Nháy mắt đã đi khắp mọi nơi, mưa pháp lành lớn, dập tắt ngọn lửa mê mờ của chúng sinh, nhờ đó mọi sở thích, căn lành của họ thêm lớn và thành thục. Vì thế, địa này gọi là Pháp vân.

Lại nữa, Phật tử! Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân, lúc đầu ở cùng trời Đổ sử đa, xuống trần, vào thai mẹ, thọ sinh, xuất gia, thành đạo, nhận lời thỉnh cầu thuyết pháp, rồi nhập Niết-bàn. Tùy sở thích của chúng sinh mà thị hiện làm mọi việc Phật. Ở một thế giới như vậy nơi hai, ba, cho đến vô số cõi nước cũng đều thị hiện những việc như trên. Bồtát đạt trí tự tại, sẽ phân biệt được rõ ràng, đủ trí lớn thần thông, tự tại tùy theo ý muốn. Có thể làm cho thế giới nhỏ thành lớn, lớn thành nhỏ, tạp nhiễm thành thanh tịnh, thanh tịnh thành tạp nhiễm. Cứ thế, dùng sức tự tại tùy ý muốn, Bồ-tát thị hiện vô số sự thô, tế, loạn, chánh, cúi, ngước. Lại dùng sức mình đem một thế giới rộng lớn đủ sông núi, đặt vào trong một hạt bụi, mà hạt bụi không to lên, thế giới không nhỏ lại, vẫn đầy đủ mọi tác dụng của nó; hoặc đem hai, ba vô số cõi nước đặt vào trong một hạt bụi nhưng nó vẫn đủ mọi tác dụng như trên; hoặc tùy ý, thị hiện việc trang nghiêm, hai cõi nước trong một cõi nước, cho đến trang nghiêm vô số cõi nước; hoặc thị hiện việc trang nghiêm một cõi nước trong hai cõi nước, thị hiện chúng sinh trong vô số cõi nước vào trong một cõi nước nhưng chúng sinh không bị ngột ngạt; hoặc thị hiện chúng sinh trong một cõi nước vào trong vô số cõi nước nhưng vẫn không ngại nhau. Tùy ý thị hiện trong mỗi chân lông có một cảnh giới Phật trang nghiêm, cho đến thị hiện vô số cõi Phật trang nghiêm. Trong nháy mắt, hóa hiện vô số thân, ở trong vô số cõi nước, mà ở mỗi thân lại thị hiện vô số tay để cung kính cúng dường Đức Phật nơi mười phương. Mỗi tay lại cầm vô số đồ trang sức như hương hoa, hương xoa, hương đốt, hương bột, lọng, cờ phướn, y phục. Mỗi thân thị hiện vô số đầu, mỗi đầu có vô số lưỡi, khen ngợi công đức của chư Phật nơi mười phương; chỉ trong tích tắc, Bồ-tát đi khắp mười phương, thị hiện thành Phật, nhập Niết-bàn… ủng hộ việc trang nghiêm cõi nước. Trong ba đời, thị hiện vô số thân, hoặc từ thân mình thị hiện vô số thân Phật, vô số cõi Phật, vô số sự thành hoại của cõi nước. Từ mỗi chân lông phát ra phong luân nhưng không làm hại chúng sinh, rồi ở trong vô số cõi nước, thị hiện một biển lớn. Trong biển hiện hoa sen lớn, ánh sáng chiếu khắp vô số cõi nước. Trong hoa sen lại có cây Bồ-đề đẹp, đủ mọi việc trang nghiêm, cho đến mọi việc hiện ra đều hợp với tánh Nhất thiết trí. Hoặc từ trong thân phóng ra vô số ánh sáng, nào là ánh sáng của ngọc ma-ni, nào là ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, sao, chớp điện, soi khắp cõi nước mười phương; hoặc dùng miệng thổi hơi, chấn động vô số cõi nước, nhưng không làm cho chúng sinh kinh sợ; hoặc lại thị hiện những tai nạn như từ nơi nước, gió, lửa; hoặc tùy ước muốn thị hiện thân hình chúng sinh đều tốt đẹp; hoặc từ thân mình thị hiện thân Phật, từ thân Phật thị hiện thân mình; hoặc từ thân Phật hiện ra cõi nước, từ cõi nước hiện ra thân Phật. Phật tử! Bồ-tát an trụ nơi địa Pháp vân, có thể thị hiện vô số những thần thông biến hóa như vậy.

********

Lúc ấy, trong hội chúng, các Bồ-tát, Tám chúng Trời, Rồng, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc-mâuhô lạc-già, các vị Đế Thích, Phạm thiên, Hộ thế Thiên vương, Ma-hêthủ-la, chư Thiên cõi Tịnh cư, đều nghĩ: Bồ-tát mà đã có cảnh giới thần thông, diệu lực trí tuệ như vậy thì các Đức Phật ra sao? Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, biết tâm niệm của đại chúng, nên thưa với Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Phật tử! Đại chúng hôm nay nghe nói về thần thông, sức trí tuệ của Bồ-tát địa Pháp vân, đều nghi ngờ; xin Hiền giả dứt trừ nghi, thị hiện một việc nhỏ về thần thông biến hóa của Bồ-tát.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng liền nhập Tam-muội thị hiện nhất thiết Phật sát thể tánh Bồ-tát; nhập xong, tất cả chúng trời, rồng, Dạ-xoa… cho đến chư Thiên cõi Tịnh cư đều thấy thân mình ở trong thân Bồ-tát Kim Cang Tạng, thấy cõi Phật có đầy đủ hành tướng trang nghiêm tốt đẹp, cho dù họ trải qua vô số kiếp, cũng không thể nói hết được; lại thấy cây Bồ-đề to bằng trăm vạn cõi nước, cành lá cao rộng khôn lường, che rợp khắp nơi nơi; hợp với cây có tòa Sư tử, ở trên thấy có Phật hiệu là Nhất Thiết Thần Thông Tuệ Vương Như Lai an tọa nơi cội cây là Bồ-đề đạo tràng, ở đây thấy đầy đủ mọi việc trang nghiêm, cho dù trải qua vô số kiếp, cũng không thể nói hết được. Thị hiện xong, Bồ-tát Kim Cang Tạng thâu thần, đưa đại chúng và hàng trời, rồng… trở về như cũ. Tất cả đều ngạc nhiên cho là kỳ lạ chưa từng có, nên im lặng chiêm ngưỡng Bồ-tát Kim Cang Tạng.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt thưa với Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Phật tử! Thật là kỳ lạ và ít có, định này thật đầy đủ oai lực trang nghiêm như vậy. Phật tử! Vậy tên của Định này là gì?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Định này là tên Thị hiện thể tánh của tất cả cõi Phật.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Cảnh giới hoạt động của định này như thế nào?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Bồ-tát tu tập định này có thể thị hiện mọi việc như vừa thấy ở trên, có vô số cõi Phật trong thân mình. Phật tử! Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân này, đạt trăm ngàn Tam-muội. Vì thế tất cả các Bồ-tát, từ Địa thứ nhất đến địa Thiện tuệ không thể suy xét biết được thân, hành động của thân; lời nói hành động của lời nói; ý, hành động của ý. Bồ-tát đạt đầy đủ thần thông tự tại, quán sát ba đời, tùy cảnh giới trí tuệ mà an trụ nơi Tam-muội, vui vẻ qua lại nơi tất cả pháp môn giải thoát, không ai có thể lường biết được việc làm của Bồ-tát này, cho là việc cất chân lên, đặt chân xuống.

Phật tử! địa Pháp vân của Bồ-tát không lường như vậy, nên chỉ có thể nói sơ lược, nếu nói rộng thì dù trải qua vô số kiếp cũng không thể nói hết được.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Cảnh giới chánh hạnh, sức gia trì của Bồ-tát là vô lượng như vậy, thì cảnh giới nơi đối tượng hành hóa chứng nhập của Phật ra sao?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Ví như có người, lấy một viên sỏi vụn hoặc hai, ba viên lớn bằng hạt táo mà nói: Đất trong vô số cõi nước kia là nhiều hay số sỏi đất ở đây là nhiều? Tôi xét câu hỏi của Nhân giả cũng vậy. Trí tuệ của Phật là không lường, tánh pháp thì không thể so sánh được, sao Nhân giả lại so sánh trí tuệ của Bồ-tát với trí tuệ của Phật.

Phật tử! Sỏi đá lấy trong bốn cõi kia thật là ít ỏi. Số còn lại mới là không thể lường. Phật tử! Trí của Bồ-tát địa Pháp vân cũng thế. Giả sử chúng ta diễn nói trải qua vô số kiếp, cũng chỉ có thể nói được một phần nhỏ về Bồ-tát này, huống gì là địa Như Lai.

Phật tử! Nay tôi sẽ nói để ông rõ, Đức Phật đang ở đây sẽ chứng minh cho tôi. Phật tử! Giả sử trong mười phương, mỗi phương đều có vô số cõi Phật, trong mỗi cõi, có vô số người đạt địa Pháp vân; với trí tuệ hạnh nghiệp của họ thì dù trải qua vô số kiếp để nói, cũng không thể sánh được một phần trong trăm ngàn vô số phần của trí tuệ hạnh nghiệp của Phật. Cho dù tính đếm, ví dụ thế nào cũng không thể được.

Phật tử! Bồ-tát tùy thuận trí hạnh như vậy, không khác với hạnh nghiệp của Phật, không bỏ sức Tam-muội của Bồ-tát, lại được gặp Phật, cúng dường phụng sự mỗi kiếp, đều dùng các vật trang sức quý lạ để cúng dường chư Phật, được chư Phật hộ trì nên ngày càng tiến triển. Giải thích rõ ràng những câu hỏi về pháp giới, trải qua vô số trăm ngàn kiếp cũng không ai khuất phục được.

Phật tử! Ví như thợ vàng, luyện vàng làm đồ trang sức, xen lẫn ngọc ma-ni, trang sức ở đầu, cổ của vua trời Tự tại, thì các đồ trang sức của cõi trời, người không sao sánh được.

Phật tử! Cũng thế, trí hạnh của Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân không ai bằng được. Trí hạnh có được của tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín, cũng không sao sánh được. Ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát có thể giúp cho chúng sinh nhập trí Nhất thiết trí mà những trí sáng khác không sao sánh bằng.

Phật tử! Ví như ánh sáng của vua trời Đại tự tại, soi khắp chúng sinh ở mọi nơi, khiến cho ai nấy đều vui vẻ. Phật tử! Cũng thế, ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát trụ ở địa này hơn hẳn ánh sáng của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín, và còn làm cho chúng sinh an trụ trong pháp tánh của trí Nhất thiết trí.

Phật tử! Bồ-tát đã tùy thuận trí tuệ mà hành động; chư Phật còn nói về trí thông ba đời; trí biết hết sự sai khác của pháp giới; trí hiện hữu đầy khắp tất cả cõi nước; trí soi sáng che chở tất cả cõi nước; trí biết khắp tất cả loài chúng sinh, về cảnh giới, về pháp. Tóm lại, chư Phật là nói cả về trí Nhất thiết trí. Trong mười Ba-la-mật, Bồ-tát tu nhiều về Trí ba-la-mật, các Ba-la-mật khác thì tùy phần tùy sức mà tu tập.

Phật tử! Đó là lược nói về địa Pháp vân thứ mười. Nếu nói rộng, dù trải qua vô số kiếp cũng không sao nói hết. Bồ-tát trụ địa này, thọ sinh thường làm vua cõi rời Đại tự tại. Tự tại trong mọi pháp, để chỉ dạy hạnh Ba-la-mật cho chúng sinh, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát. Trả lời rõ ràng về pháp giới sai khác mà không ai khuất phục được; làm mọi việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ-tát, về hạnh Bồ-tát, về bờ giải thoát, về các trụ địa, về pháp không sợ, về Phật lực, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về hành tướng thắng diệu tương ưng với trí Nhất thiết trí. Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng vi diệu vô thượng, là người dẫn đường, là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương dựa để đạt trí Nhất thiết trí. Nếu siêng tu tập trong khoảnh khắc sẽ đạt được trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói Tam-muội của Bồ-tát, sẽ gặp trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói Đức Phật, sẽ được Phật gia hộ khiến thông hiểu tất cả; sẽ làm chuyển động trăm vạn a-tăngkỳ-da không thể nói thế giới; sẽ đi khắp trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói cõi nước; sẽ soi chiếu trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói cảnh giới; thành thục đầy đủ cho trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói loại chúng sinh; sẽ sống trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói kiếp; trước sau đều vào trong trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói kiếp; suy xét rõ trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói pháp; thị hiện trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói thân; mỗi thân hiện trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói Bồ-tát bạn. Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, thần thông, thân tướng, ánh sáng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, gìn giữ, tạo tác dù trải qua trăm vạn a-tăng-kỳ-da không thể nói câu-chi kiếp, cũng không thể nói hết.

Phật tử! Bồ-tát tất phải tùy thuận đủ mười trí địa, thì Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí sẽ dần dần hiện khởi. Phật tử! Ví như dòng nước từ ao Vô nhiệt chảy ra bốn con sông, thấm ướt cả châu Thiệm bộ nhưng không bao giờ cạn mà lại thêm nhiều, cho đến chảy đầy ra biển cả.

Phật tử! Cũng thế, từ tâm Bồ-đề sẽ phát khởi căn lành; từ nguyện lớn thể hiện bằng bốn nhiếp pháp; tạo đầy đủ lợi ích cho tất cả chúng sinh, nhưng không bao giờ hết mà còn tăng thêm, cho đến khi làm cho chúng sinh hội nhập vào biển Nhất thiết trí.

Phật tử! Đó là nhờ vào trí Phật hiện mười Địa Bồ-tát. Phật tử! Ví như nhờ vào mặt đất mà có mười ngọn núi lớn hiện ra. Mười ngọn núi ấy là gì? Đó là:

  1. Núi Tuyết.
  2. Núi Hương túy.
  3. Núi Liệt cùng. 4. Núi Thần tiên.
  4. Núi Trì song.
  5. Núi Mã nhĩ.
  6. Núi Trì ngư.
  7. Núi Luân vi.
  8. Núi Tràng tướng.
  9. Núi Diệu cao.

Phật tử! Ví như núi Tuyết, có nhiều cỏ thuốc, hái không bao giờ hết. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Cực hỷ là nơi nương tựa cho thơ luận, văn tụng, chú thuật phát triển, mà trong thế gian những điều này không bao giờ nói hết.

Phật tử! Ví như núi Hương túy, có đủ loại hương phát sinh không bao giờ hết. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Ly cấu, là nơi nương tựa cho hương tịnh giới luật nghi mà điều này thì Bồ-tát hành không bao giờ hết.

Phật tử! Ví như núi Liệt cùng, toàn bằng vật báu không bao giờ dùng hết. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Phát quang là nơi nương tựa cho thiền định, thần thông, giải thoát, Tam-muội, mà những việc này trong thế gian hỏi đáp không bao giờ hết.

Phật tử! Ví như núi Thần tiên, toàn bằng vật báu, là chỗ ở của các vị tiên đạt năm thần thông, không bao giờ vắng. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Diệm tuệ là nơi nương tựa cho trí tuệ thù thắng, chánh đạo hay tà đạo, mà những việc này hỏi đáp bao giờ cho hết.

Phật tử! Ví như núi Trì song, toàn bằng vật báu, là nơi ở của thần Dược-xoa, không bao giờ vắng. Bồ-tát trụ nơi địa Nan thắng là nơi phát sinh oai lực thần thông biến hóa, mà những việc này hỏi đáp bao giờ cho hết.

Phật tử! Ví như núi Mã nhĩ, toàn bằng vật báu, là nơi có đủ các

loại trái hái hoài không hết. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Hiện tiền là nơi nương tựa để thâm nhập diễn giảng pháp duyên khởi, chứng được quả vị Thanh văn hỏi đáp bao giờ cho hết.

Phật tử! Ví như núi Trì ngư toàn bằng vật báu, là nơi ở của thần rồng sức lớn, không bao giờ hết. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Viễn hành là nơi nương tựa để diễn giảng trí tuệ phương tiện, chứng được quả vị Độc giác, việc hỏi đáp bao giờ cho hết.

Phật tử! Ví như núi Thiết luân vi, toàn bằng vật báu, là nơi ở của chúng Tự tại, không bao giờ vắng. Cũng vậy, Bồ-tát trụ nơi địa Bất động là nơi để tất cả Bồ-tát học hỏi, mà trong thế gian việc phân tích giải đáp là không cùng tận.

Phật tử! Ví như núi Tràng tướng, toàn bằng vật báu, là nơi ở của chúng A-tu-la oai đức, không bao giờ vắng họ. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Thiện tuệ, là nơi để chúng sinh lưu chuyển, dừng nghỉ, nương tựa hành động; mà việc này thu khắp thế gian an trụ học hỏi không bao giờ hết.

Phật tử! Ví như núi Diệu cao, toàn bằng vật báu, là nơi ở của chư Thiên uy đức, không bao giờ vắng. Cũng thế, Bồ-tát trụ nơi địa Pháp vân, là nơi phát sinh uy Lực, pháp Vô úy, Bất cộng của Như Lai; chỉ dạy mọi việc chánh pháp không bao giờ hết.

Phật tử! Mười núi báu lớn này đều từ biển cả hiển hiện. Cũng thế, mười Địa Bồ-tát đều từ nơi trí Nhất thiết trí, cũng là sự hiển hiện của trí Nhất thiết trí.

Phật tử! Ví như biển lớn có mười hành tướng, nên không bị chiếm đoạt. Mười hành tướng đó là gì?

  1. Từ cạn đến sâu.
  2. Không chứa xác chết.
  3. Nước từ các sông chảy vào đều mất tên cũ.
  4. Chỉ có một vị mặn.
  5. Nhiều vật báu.
  6. Sâu xa khó đến đáy.
  7. Rộng mênh mông.
  8. Nơi ở của những loài có thân hình to lớn.
  9. Nước dâng nhưng không tràn.
  10. Chứa tất cả nước mưa.

Phật tử! Cũng thế, Bồ-tát có mười hành tướng, ở trong hạnh lớn, không bị chiếm đoạt. Mười hạnh đó là gì?

  1. Địa Cực hỷ, phát nguyện từ cạn đến sâu.
  2. Địa Ly cấu, không dung nạp xác chết của kẻ phá giới.
  3. Địa Phát quang, chúng sinh vào đó không còn tên tuổi địa vị cũ.
  4. Địa Diệm tuệ, tin Phật pháp không hoại, chỉ có một vị.
  5. Địa Nan thắng, phát khởi vô lượng phương tiện thần thông biến hóa, đem lại nhiều trâu báu cho thế gian.
  6. Địa Hiện tiền, quán sát lý duyên khởi sâu xa.
  7. Địa Viễn hành, dùng vô số trí tuệ phân biệt khéo léo.
  8. Địa Bất động, thị hiện phát khởi những việc trang nghiêm.
  9. Địa Thiện tuệ, thông đạt đúng lý pháp giải thoát sâu xa và mọi việc thế gian không bao giờ vượt giới hạn.
  10. Địa Pháp vân, lãnh thọ, tất cả mưa pháp sáng lớn của Phật không bao giờ biết đủ.

Phật tử! Ví như ngọc ma-ni quý hơn mười thứ quý báu khác, người thợ giỏi sẽ mài dũa thật tròn khéo, không tỳ vết, trong suốt, kết thành dây đeo, đính trên đỉnh cờ cao, phát ra đủ loại ánh sáng đẹp, và có thể làm rơi xuống các vật báu khác, chúng sinh theo sở thích muốn giữ lấy để có thể thỏa nguyện.

Phật tử! Tâm Bồ-đề của Bồ-tát cũng thế, chủng tánh cao vượt hơn mười hàng Thánh, phát sinh nhiều công đức, khéo léo điều phục kẻ hủy giới, đầy đủ thiền định, Tam-muội; đầy đủ hành tướng, đạo chi thanh tịnh, quán triệt thần thông phương tiện, quán pháp duyên sinh, xâu dây phương tiện tuệ, đặt trên ngọn cờ tự tại, phóng ra ánh sáng trí tuệ, quán sát hành nghiệp của chúng sinh, được tưới nước trí Chánh đẳng giác, nên được gọi là bậc Nhất thiết trí, có thể làm mọi Phật trong thế gian. Phật tử nên biết! Vị này có thể tích tập đầy đủ hạnh Bồ-tát, pháp phần vi diệu, Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí, chúng sinh nào chưa có căn lành thì không sao nghe được.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt thưa:

–Nếu có chúng sinh nghe được pháp phần vi diệu, Nhất thiết chủng trí, trí Nhất thiết trí thì đạt bao nhiêu công đức?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Phật tử! Phước đức uy lực tự tại được phát khởi từ trí Nhất thiết trí của Bồ-tát; có được bao nhiêu, thì phước đức nơi người nghe pháp vi diệu này cũng đạt bấy nhiêu. Vì sao? Phật tử nên biết; pháp phần vi diệu nơi trí Nhất thiết trí này, không phải là Bồ-tát thì không thể nghe được, không thể tin hiểu, thì làm sao tu tập, siêng năng gia hành?

Phật tử! Vì thế nên biết, nếu có chúng sinh nào chuyên tâm nghe pháp môn này, nghe rồi tin hiểu, hiểu rồi thọ trì, tu hành liên tục thì chúng sinh ấy tùy thuận pháp môn Nhất thiết trí.

Lúc ấy, do oai lực của Phật nên vô số cõi nước ở mười phương đều có mười tám tướng biến động theo sáu cách. Đó là:

  1. Động, biến động cùng khắp.
  2. Nổi, nổi lên, nổi khắp mọi nơi.
  3. Vọt, vọt lên, vọt lên cùng khắp.
  4. Rung, rung lên, rung cùng khắp.
  5. Gầm, gầm lên, gầm vang cùng khắp.
  6. Vỗ, vỗ vang, vỗ vang cùng khắp.

Lại do oai lực của Phật nên có nhiều loại mưa pháp hiện ra, như mưa hoa trời, vòng hoa, y phục, báu vật, đồ trang sức, lọng báu, cờ phướn nhạc hay, rền vang tiếng ca ngợi đấng Nhất thiết trí của chư Thiên. Đó là ở thế giới của bốn đại châu, còn như ở cung trời Tha hóa tự tại, đang diễn nói pháp này, nhờ Phật lực, ngoài vô số cõi nước ở mười phương, còn có vô số Bồ-tát ở khắp nơi cũng đều đến nơi đây. Đến nơi rồi, ai nấy đều khen: Hay thay! Hay thay! Phật tử! Đại sĩ đã khéo chỉ rõ pháp tánh của Bồ-tát.

Phật tử! Chúng tôi đều cùng một hiệu là Kim Cang Tạng; cõi nước của chúng tôi tên Kim Cang Thắng; các Đức Phật ở đó đều có tên Kim Cang Tạng. Chúng tôi từ những nơi đó đến đây, nhờ thần lực Phật nên nơi tất cả cõi ấy đều rền vang tiếng pháp này, văn tự âm nghĩa đều không khác ở đây. Chúng tôi nương vào thần lực Phật đến đây, để chứng minh cho Đại sĩ. Tất cả các cõi nước nơi bốn đại châu trong khắp cả mười phương, đều đến điện ma-ni bảo tạng thuộc cung trời Tha hóa tự tại, đều là để chứng minh.

Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng quán sát chúng hội trong khắp mười phương pháp giới; vì muốn khen ngợi người phát tâm Bồ-đề; muốn thị hiện cảnh giới Bồ-tát; muốn làm thanh tịnh nẻo hành trì hạnh lực của Bồ-tát; muốn giảng nói việc gìn giữ đạo Nhất thiết chủng; muốn thị hiện việc trang nghiêm bằng trí không thể nghĩ bàn; muốn hiển hiện công đức thù thắng của Bồ-tát; muốn làm rõ thật nghĩa của các địa nên nương vào thần lực Phật, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói kệ rằng:

Tâm tánh vắng lặng luôn điều thuận
Bình đẳng, không ngại, như hư không
Vứt bỏ nhơ uế, trụ trong đạo
Các ông nên nghe thắng hạnh này.
Trăm ngàn ức kiếp tu pháp lành
Cúng dường vô số, vô lượng Phật
Thanh văn, Độc giác cũng như thế
Lợi ích chúng sinh phát tâm lớn
Siêng tu tịnh giới luôn hòa nhẫn
Phước trí, hổ thẹn, thường đầy đủ
Chí cầu trí Phật tu tuệ rộng
Phát tâm rộng lớn, đạt mười lực
Cúng dường chư Phật trong ba đời
Trang nghiêm tất cả các cõi nước
Biết rõ các pháp đều bình đẳng
Lợi ích chúng sinh phát tâm lớn
Sơ địa phát khởi tâm Bồ-đề
Dứt hết ác nghiệp luôn hoan hỷ
Nguyện lực rộng lớn tu pháp thiện
Vì lòng từ bi nhập nhị địa
Đầy đủ giới hạnh, nghĩ chúng sinh
Dứt trừ nhơ uế tâm sáng suốt
Quán lửa ba độc thiêu thế gian
Hiểu rộng biết lớn nhập ba địa
Tất cả ba cõi đều vô thường
Như người trúng tên không ai cứu
Chán bỏ hữu vi, cầu Phật pháp
Trí lớn hội nhập địa Diệm tuệ
Đầy đủ niệm tuệ đạt đạo trí
Cúng dường trăm ngàn vô số Phật
Luôn quán công đức bậc Tối thắng
Sẽ được an trụ địa Nan thắng
Trí là phương tiện quán sát tốt
Thị hiện mọi cách cứu chúng sinh
Cúng dường chí tôn đủ mười lực
Sẽ được an trụ địa Hiện tiền
Biết việc khó biết của thế gian
Không chấp ngã sở, lìa không, có
Pháp tánh vốn lặng, theo duyên chuyển
Nhờ trí vi diệu đạt bảy địa
Trí tuệ phương tiện tâm rộng lớn
Khó làm, khó phục, khó hiểu biết
Tuy chứng tịch diệt, siêng tu tập
Đạt địa Bất động như hư không
Nhờ Phật khuyên dạy bỏ tịch diệt
Tu tập tất cả nghiệp trí tuệ
Đủ mười tự tại xét thế gian
Nhờ vậy được lên địa Thiện tuệ
Dùng trí vi diệu quán chúng sinh
Tâm, hoặc, nghiệp giống như rừng rậm
Vì độ chúng sinh hướng chánh đạo
Diễn thuyết tạng Thắng nghĩa của Phật
Tuần tự tu hành đủ pháp thiện
Đạt Địa thứ chín, đủ phước tuệ
Luôn cầu pháp mầu của chư Phật
Được nước trí Phật tưới đỉnh đầu
Đạt được vô số pháp Tam-muội
Biết rõ tất cả các hạnh nghiệp
Về sau chứng được vị quán đỉnh
Ở cõi mênh mông không lay động
Sau khi đạt được quả vị này
Hoa sen báu lớn tự nhiên hiện
Thân ngồi pháp tòa rất tương xứng
Các Bồ-tát bạn luôn vây quanh
Phóng trăm ngàn ức hào quang lớn
Dứt trừ khổ não của chúng sinh
Từ trên đỉnh đầu phóng ánh sáng
Hòa nhập cõi Phật khắp mười phương
Trụ trong hư không thành lưới sáng
Cúng dường Phật xong, nhập nơi chân
Lúc ấy, chư Phật sẽ biết được
Có Phật tử đạt vị quán đỉnh
Bồ-tát mười phương đều đến đó
Chiêm ngưỡng Bồ-tát, đạt các định
Giữa mày chư Phật phóng ánh sáng
Chiếu soi tất cả, nhập đỉnh đầu
Mười phương thề giới đều chấn động
Tiêu trừ tất cả khổ các cõi
Lúc này chư Phật tưới đỉnh đầu
Như Chuyển luân vương tưới thái tử
Ai được chư Phật tưới đỉnh đầu
Là đã chứng đạt địa Pháp vân
Trí tuệ tăng trưởng không hạn lượng
Khai ngộ tất cả các thế gian
Cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc
Pháp giới, thế giới, cõi hữu tình
Hữu vi, vô vi, không, Niết-bàn
Thông đạt hết thảy các pháp ấy
Oai lực biến hóa thật lớn lao
Trí lực vi tế của chư Phật
Thần chú, kiếp số, cõi chúng sinh
Tất cả đều được quán như thật
Thọ sinh, xuất gia, thành Chánh giác
Diễn thuyết chánh pháp, nhập Niết-bàn
Cho đến pháp tịch diệt, giải thoát
Hiểu rõ mọi Phật pháp thuyết giảng
Bồ-tát an trụ địa Pháp vân
Đầy đủ niệm lực giữ Phật pháp
Như biển lớn chứa nước rồng mưa
Địa này thọ pháp cũng như vậy
Giả sử chúng sinh vô số cõi
Ở khắp mọi nơi trong mười phương
Đều được nghe thọ pháp Tam-muội
Mỗi người thọ từng pháp khác nhau
Bồ-tát an trụ địa Pháp vân
Lãnh thọ pháp nơi một Đức Phật
Là tạng pháp lớn của ba đời
Hơn hẳn số kia không lường được
Nhờ thần lực xưa cùng trí nguyện
Tích tắc đi lại khắp mười phương
Rưới pháp cam lồ diệt phiền não
Vì vậy địa này tên Pháp vân
Thần thông hiển hiện khắp mười phương
Vượt hết cảnh giới của trời, người
Hơn hẳn số kia không lường được
Dùng trí thế gian không thể biết
Thân nghiệp… Bồ-tát ở mười Địa
Ngay cả vô số trí công đức
Ngay cả chứng pháp ngôi Thái tử
Bồ-tát chín địa không thể lường
Huống gì tất cả các chúng sinh
Cùng với Thanh văn và Độc giác
Bồ-tát địa này đi khắp nơi
Cúng dường khắp mười phương chư Phật
Cúng dường Thánh chúng đang hiện tiền
Đầy đủ trang nghiêm công đức Phật
Chư Phật vì người trụ địa này
Giảng pháp ba đời trí không ngại
Soi khắp thế giới các chúng sinh
Cho đến nêu bày Nhất thiết trí
Bồ-tát địa này có trí sáng
Chỉ đường chứng pháp cho chúng sinh
Như ánh sáng vua trời Tự tại
Trừ tối, còn khiến chúng sinh vui
Ánh sáng trí này trừ tối tăm
Khiến thế giới vui cũng như vậy
Trụ địa này làm vua ba cõi
Giỏi diễn nói pháp của ba thừa
Nháy mắt chứng trăm ức Tam-muội
Vô số không thể nêu bày hết.
Các Tam-muội nhiều như vi trần
Thấy Phật… các việc khác cũng thế
Tôi đã lược nói trụ địa này
Nếu nói đầy đủ không thể biết
Mười trụ địa này từ trí Phật
Như mười núi lớn trên mặt đất
Hành nghiệp sơ địa không cùng tận
Như các cỏ thuốc trong núi Tuyết
Giới hương hai địa như núi Hương
Thứ ba vật báu như Liệt cùng
Đạo mầu Diệm tuệ không cùng tận
Như các thần tiên ở núi Tiên
Thần thông năm địa như Trì song
Sáu như Mã nhĩ đủ các quả
Trí tuệ bảy địa như Trì ngư
Thứ tám tự tại tựa Luân vi
Chín vô ngại giải như Tràng tướng
Mười như Diệu cao đủ các đức.
Sơ địa nguyện: đầu, hai: tịnh giới
Thứ ba Thiền định các công đức
Thứ tư chuyên tu những pháp giác
Thứ năm tuệ phương tiện vi diệu
Thứ sáu quán pháp duyên sinh sâu
Bảy xét tuệ lớn, tám trang nghiêm
Thứ chín phân biệt nghĩa vi diệu
Vượt hơn tất cả đạo thế gian
Mười Địa thọ trì các Phật pháp
Biển lớn hạnh nguyện không cùng tận
Thứ nhất vượt đời khởi mười hạnh
Thứ hai tịnh giới, ba tu thiền
Thứ tư tịnh hạnh, năm thành tựu
Thứ sáu duyên sinh, bảy xuyên suốt
Thứ tám đặt tại Kim cang tạng
Thứ chín quán sát các phiền não
Thứ mười Pháp vương tưới đỉnh đầu
Công đức báu dần dần thanh tịnh
Mười Lực cõi nước nghiền thành bụi
Trong một niệm biết được số lượng
Hư không li ti có thể lượng
Ức kiếp không sao nói hết được.

Bấy giờ, nhờ thần lực của Phật, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng nói xong kinh này; các Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Chánh đẳng Chánh giác đều khen ngợi ấn chứng; các Bồ-tát trong đại chúng và tám chúng hộ pháp trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tố-lạc,… Đế Thích, Phạm thiên, Hộ thế Thiên vương, Ma-hê-thủ-la, chúng trời Tịnh cư đều hết sức vui mừng, tín thọ phụng hành.

Lúc này, Đức Phật thành đạo chưa bao lâu, vào ngày thứ mười bốn, ở điện ma-ni Bảo Tạng thuộc cung trời Tha hóa tự tại đã tùy hỷ với những gì mà Bồ-tát Kim Cang Tạng đã giảng thuyết.