Phật thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh
Hán dịch: Pháp Sư Thi Hộ
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Trích Phật thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh Giảng Ký
Phần Nghĩa
Một thời, đức Phật Thế Tôn ở tại nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà, cùng các vị tỳ-kheo câu hội.
Phật bảo các tỳ-kheo rằng:
Các ông lắng nghe:
Nếu các Thanh Văn tu tập chánh hạnh, muốn đạt được tâm thanh tịnh. Nên dứt năm pháp, nên tu tập bảy pháp sao cho viên mãn.
Một là tham dục; hai là nóng giận; ba là hôn trầm say ngủ; bốn là lao chao, hối hận; năm là ngờ vực. Năm thứ cái chướng này phải nên trừ dứt.
Những gì là bảy pháp? Một là trạch pháp giác chi, hai là niệm giác chi, ba là tinh tấn giác chi, bốn là hỷ giác chi, năm là khinh an giác chi, sáu là định giác chi, bảy là xả giác chi. Hãy nên tu tập bảy pháp như thế.
Này các tỳ-kheo! Nên biết tâm thanh tịnh vừa nói đó chính là nói tâm giải thoát tăng trưởng, huệ giải thoát tăng trưởng.
Do tham nhiễm ô, tâm chẳng thanh tịnh. Do vô minh nhiễm ô, huệ chẳng thanh tịnh.
Nếu các tỳ-kheo đoạn trừ tham nhiễm, tâm liền được giải thoát. Đoạn trừ vô minh, huệ liền được giải thoát.
Nếu các tỳ-kheo lìa tham nhiễm ô, tâm được giải thoát thì gọi là “thân tác chứng”.
Đoạn trừ vô minh, huệ được giải thoát thì gọi là Vô Học.
Vĩnh viễn lìa tham ái, hiểu rõ chánh tri chân thật. Hiện tiền chứng lấy tự quả, hết bờ mé khổ.
Này chư tỳ-kheo! Những điều vừa nói như thế, các ông hãy nên học.
Kinh Phật nói Thanh Tịnh Tâm
hết
Phần Âm
Phật Thế Tôn, nhất thời tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, dữ tỳ-kheo chúng câu.
Phật cáo chư tỳ-kheo ngôn:
Nhữ đẳng đế thính!
Nhược chư Thanh Văn tu tập chánh hạnh, dục đắc thanh tịnh tâm giả.
Đương đoạn ngũ pháp, tu tập thất pháp, nhi linh viên mãn.
Nhất tham dục; nhị sân khuể, tam hôn trầm thùy miên; tứ trạo hối, ngũ nghi. Thử ngũ cái chướng ưng đương trừ đoạn.
Hà đẳng thất pháp? Nhất trạch pháp giác chi, nhị niệm giác chi, tam tinh tấn giác chi, tứ hỷ giác chi, ngũ khinh an giác chi, lục định giác chi, thất xả giác chi.
Như thị thất pháp ưng đương tu tập.
Chư tỳ-kheo! Sở ngôn thanh tịnh tâm giả đương tri tức thị tâm giải thoát tăng ngữ, huệ giải thoát tăng ngữ.
Do tham nhiễm ô, tâm bất thanh tịnh. Do vô minh nhiễm ô, huệ bất thanh tịnh.
Nhược chư tỳ-kheo đoạn trừ tham nhiễm, tức đắc tâm giải thoát; đoạn trừ vô minh tức đắc huệ giải thoát.
Nhược chư tỳ-kheo ly tham nhiễm ô đắc tâm giải thoát giả, thị danh thân tác chứng.
Đoạn trừ vô minh, đắc huệ giải thoát giả, thị danh vô học.
Vĩnh ly tham ái, liễu tri chân thật chánh tri.
Hiện tiền thủ chứng tự quả, tận khổ biên tế.
Chư tỳ-kheo! Như thị sở thuyết, nhữ đẳng ưng học.
Phật thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh
hết