KINH NHỮNG ĐIỀU BỒ-TÁT HẢI Ý HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa-môn Duy Tịnh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
QUYỂN 16
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý! Nếu chư Bồ-tát muốn chứng đắc đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì cần phải tu học. Các chỗ hành dụng của hàng Đại sĩ các ông, tức Bồ-tát không cần chỉ tu với lời nói biện tài mà phải hành dụng đúng như lời chư Phật dạy. Thế nào là Bồ-tát không hành như chỗ thuyết giảng? Nghĩa là Bồ-tát tu đầy đủ Biện tuệ, nhưng không tích tập các pháp phần Bồ-đề mà còn nói như vầy: “Ta sẽ thành Phật rồi thì mời gọi khắp tất cả chúng sinh đến để rộng hành pháp thí, khiến cho họ đều đắc pháp viên mãn”. Nhưng Bồ-tát này không thể siêng hành tu tập về đa văn, cũng không tích tập các pháp phần Bồ-đề, hư dối đối với tất cả chúng sinh, đó là Bồtát không thể hành như chỗ thuyết giảng.
Này Hải Ý! Nếu có Bồ-tát nói như vầy: “Ta thành Phật rồi, tức rộng hành pháp thí cho tất cả chúng sinh, khiến họ đắc pháp đầy đủ”. Lúc ấy, Bồ-tát có thể siêng hành tu tập đa văn, cũng tích tập các pháp phần Bồ-đề, đó là thi hành đúng như lời nói.
Này Hải Ý! Người không thể làm như lời nói cũng ví như ở đời có vị vua hoặc vị quan mời tất cả dân chúng trong nước đến, vì muốn thết đãi một bữa tiệc thịnh soạn, khiến cho tất cả đều no đủ, nhưng lại không chuẩn bị đủ các thức ăn uống cần dùng, dối gạt tất cả dân chúng trong nước, mọi người đã đến lầm nên liền tìm tới nơi khác mà ăn, tâm mang sân hận, trách mắng mà đi ra khỏi chỗ ấy.
Này Hải Ý! Bồ-tát cũng vậy, nguyện vì tất cả chúng sinh chưa độ khiến họ được độ, chúng sinh chưa giải thoát khiến họ được giải thoát, chúng sinh chưa an ổn khiến họ được an ổn, chúng sinh chưa đạt Niết-bàn khiến họ đến Niết-bàn, tuy có nguyện như vậy nhưng Bồ-tát ấy không siêng tu tập đa văn, cũng không tích chứa các pháp phần Bồ-đề, đó là Bồ-tát không làm như điều đã nói. Bồ-tát ấy hư dối hàng trời, người, thế gian bị Hiền thánh, chê trách cũng lại hiềm khích, bày ra sự tranh tụng mà không thể làm bậc Đại trí, rốt cùng không thể viên mãn thệ nguyện.
Này Hải Ý! Nếu muốn phát khởi đại trí tối thượng, sự khó đạt được tột bậc cần phải ở trong pháp Đại thừa vô thượng mà không hề biếng trễ thoái chuyển. Vì thế, nên biết, Bồ-tát không nên dùng lời nói mà dối gạt tất cả hàng trời, người, thế gian.
Lại nữa Hải Ý! Hoặc lúc có người đến cầu xin chư Bồ-tát thuyết pháp, Bồ-tát ấy liền nói: “Ta vì các vị mà giảng nói pháp như vậy, dùng pháp như vậy để giáo hóa”. Cho đến xả bỏ thân mạng của chính mình cũng không hề hối tiếc. Đó là Bồ-tát không dối gạt tất cả chúng sinh, nhân duyên như vậy ông phải nên biết.
Lại nữa, này Hải Ý! Ta nhớ về thời quá khứ vô lượng vô số atăng-kỳ kiếp về trước có một Sư tử chúa các loài thú tên là Bất hoại thân, ở trong rừng sâu động vắng, thường hành tâm Từ, bảo hộ tất cả chúng sinh, chỉ dùng hoa quả, cỏ cây làm thức ăn. Lúc ấy trong động có hai con khỉ cái và đực cùng ở, sau đó, chúng sinh ra hai khỉ con, vì muốn đi nơi khác nên mới đem con mình giao cho Sư tử chúa giữ giúp, gởi rồi cả hai liền đi nơi khác. Khi đó, có một con chim Thứu tên là Lợi kiến đang bay nơi không trung, bỗng nhiên đáp xuống đất bắt hai con khỉ ấy rồi bay lượn trên không. Sư tử vương thấy hai khỉ con bị chim tha đi, liền hướng đến chim Thứu chúa nói kệ:
Lạ thay Thứu vương, ngươi có biết
Nếu buông thả hai khỉ con khỉ này
Ta bảo vệ chúng khiến không sợ
Hãy đem nó về chớ làm hại.
Lúc ấy Thứu vương liền đáp:
Thú vương nếu bỏ được thân mình
Ta sẽ tha hai con khỉ này
Đây là thức ăn của chỗ ta
Trên không lấy gì làm thức ăn.
Sư tử vương liền đáp:
Ta thà bỏ thân cho ngươi ăn
Nay ngươi hãy mau thả khỉ con
Ta nguyện gìn giữ đại Bồ-đề
Kẻ trí không nên nói dối gạt.
Thú vương là Sư tử nói kệ rồi, thâm tâm kiên cố, xả bỏ thân mình không hề hư dối. Thứu vương thấy việc này rồi liền khen ngợi là việc chưa từng có và nói kệ:
Nuôi lớn tánh mạng ở thế gian
Có thể bỏ thân cứu kẻ khác
Nay ta phải thả khỉ con này
Khiến ông tu hành pháp lâu bền.
Này Hải Ý! Ông nên biết, Sư tử vương Bất hoại thân lúc ấy chính là ta; khỉ đực là Đại Ca-diếp; khỉ cái là Bí-sô-ni Hiền Hộ; hai khỉ con nay là La-hầu-la và A-nan, chim Thứu vương Lợi Kiến là Bí-sô Thiện Ái. Vì vậy nên biết, Đại Bồ-tát thà bỏ thân mình chứ không bỏ sự bảo hộ kẻ khác. Đó là làm đúng như lời nói một cách viên mãn.
Lại nữa, này Hải Ý! Thế nào là tướng biểu hiện của việc có thể hành như lời nói. Đó là bố thí như lời nói, tức xả bỏ tất cả sở hữu như chỗ hiện bày, đó gọi là có thể hành như lời nói. Bồ-tát trì giới như lời nói, tức thành tựu tất cả giới học và công đức Đầu-đà như chỗ chỉ bày, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát nhẫn nhục như lời nói, tức đối với các trường hợp giận dữ khiến có lỗi lầm, thảy đều đoạn trừ, như chỗ hiển bày, đó gọi là chỗ có thể hành. Bồ-tát hành tinh tấn như lời nói, tức ở nơi các pháp thiện siêng cầu tu tập, như chỗ hiển bày, đó gọi là chỗ có thể hiển bày. Bồ-tát hành thiền định như lời nói, tức phải tu định giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để như chỗ hiển bày, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát tu tập trí tuệ như lời nói tức phải phân biệt tất cả chương cú, khởi trí thiện xảo, biện tài quyết định như chỗ hiện bày, đó gọi là có thể hành. Tóm lại, cho đến Bồ-tát đoạn trừ tất cả pháp bất thiện như lời nói, tích tập tất cả pháp thiện, tức phải đoạn trừ mọi pháp bất thiện, siêng năng tu tập tất cả pháp thiện như chỗ hiển bày, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát chất trực như lời nói tức là không quanh co, hư dối, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát hành theo phương tiện như lời nói tức mở bày cửa phương tiện, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát dũng mãnh như lời nói tức siêng năng xa lìa các sự biếng nhác thoái chuyển, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát có thâm tâm kiên cố như lời nói tức xa lìa sự vướng mắc nơi chỗ hướng tới Thắng đạo, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát thệ nguyện như lời nói tức sẽ viên mãn rốt ráo các nguyện, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát nghe thọ trì như lời nói tức đã khéo tu tập như điều đã nghe biết, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát tích tập thiện hạnh như lời nói tức thâm tâm thường không biếng trễ, đó là có thể hành. Bồtát xa lìa kiêu mạn như lời nói tức phải viên mãn Thắng trí, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát tích tập giới hạnh như lời nói tức đối với giới không hề thiếu sót, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát mới phát tâm như lời nói tức phải thành tựu thắng hạnh của Bồ-tát, đó gọi là có thể hành Bồ-tát ở quả vị pháp Nhẫn vô sinh như lời nói tức phải tăng tiến hướng đến nơi Địa không thoái chuyển, đó là có thể hành. Bồtát ở quả vị Nhất sinh bổ xứ như lời nói, tức phải tăng tiến hướng đến ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề, đó gọi là có thể hành. Bồ-tát tích tập kiên cố như lời nói tức phải hiện chứng quả Nhất thiết trí, đó gọi là có thể hành. Này Hải Ý! Các pháp như vậy là Bồ-tát có thể hành đúng như lời nói. Lúc Đức Thế Tôn thuyết pháp có thể đúng như lời nói hành trong pháp hội có năm ngàn Bồ-tát đều đắc pháp Nhẫn vô sinh.
Lúc ấy, có một Bồ-tát tên là Liên Hoa Trang Nghiêm liền bạch Phật:
–Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai nhờ có thể hành trì đúng như lời nói nên liền chứng đắc tất cả pháp Phật tối thượng. Bạch Thế Tôn! Như chỗ Phật nói mà tu hành,đó tức là hành đúng theo lời nói.
Đức Phật bảo:
–Này thiện nam! Ông biết về pháp tu hành chăng?
Bồ-tát thưa:
–Bạch Thế Tôn! Con biết!
Đức Phật nói:
–Này thiện nam! Tùy chỗ ưa thích của ông, ông nay nên nói về pháp tu hành.
Bồ-tát bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Người tu hành y theo lời Phật dạy thì bình đẳng đối với tất cả pháp, đã biết bình đẳng rồi thì ở trong chánh vị dùng trí thiện xảo không thủ chứng Tam-ma-bát-đề, đó chính là chỗ tu hành của Bồ-tát.
Bồ-tát Sơn Vương bạch:
–Bạch Thế Tôn! Con cũng muốn nói về pháp tu hành.
Phật nói:
–Này thiện nam! Ông cứ tùy ý mà nói.
Bồ-tát bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Không chỗ tu, đó là tu hành. Vì sao? Vì Bồ-tát quán tất cả pháp đều không chỗ thủ đắc, nếu có chỗ tu mà chẳng phải là tu hành, đó mới là chánh tu hành.
Bồ-tát Công Đức Quang Chiếu Vương bạch Phật:
–Bach Thế Tôn! Nếu tâm thuận theo dòng chảy thì thức có chỗ chuyển. Vậy cái gì gọi là tu hành? Nếu Bồ-tát biết rõ tâm nơi tất cả pháp, là không trụ tức không một pháp nhỏ nào có thể trụ. Nếu không một pháp nhỏ nào có thể trụ đó mới là chánh tu hành.
Bồ-tát Cao Cự Vương bạch:
–Bạch Thế Tôn! Không chỗ vui, đó là tu hành. Không chỗ chán lìa, đó là tu hành. Bồ-tát ở trong tất cả pháp không cao không thấp, cho nên không có một pháp nhỏ nào có thể là vui hay chán, đó chính là tu hành.
Bồ-tát Nhật Tạng bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có chỗ nương tựa tức là có chỗ chuyển. Nếu không chỗ nương tựa tức không chỗ chuyển. Vì Bồ-tát dùng sự không nương tựa, không động chuyển nên ở trong tất cả pháp không hề dao động, đó tức là chánh tu hành.
Bồ-tát Dũng Mãnh Tâm bạch:
–Bạch Thế Tôn! Tâm là chỗ hành của thế gian nên thế gian giong ruổi theo nó. Nếu Bồ-tát ở nơi tất cả tâm mà vô tâm thì không chỗ suy niệm, cũng không phân biệt, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Ái Kiến bạch:
–Bạch Thế Tôn! Như điều Phật nói, tất cả chỗ nhận thức đều là khổ, nếu Bồ-tát ở nơi tất cả chỗ nhận thức mà được tỉnh ngộ tức là không có chỗ nhận thức, cũng không có chỗ chấp giữ. Cho nên không nhập định Diệt thọ tưởng, không bỏ chúng sinh, không mất đại Bi, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Hương Tượng Vương bạch:
–Bạch Thế Tôn! Hàng phàm phu, ngu tối có các gánh nặng nên khởi kiến chấp sâu nặng về năm uẩn. Nếu Bồ-tát biết rõ về năm uẩn nên được thư thái, đó là buông các gánh nặng. Lại có thể vì các phàm phu mà thuyết giảng pháp buông bỏ gáng nặng của năm uẩn, cho nên không một pháp nhỏ nào có thể khởi tưởng chân thật. Biết rõ các pháp là vô sinh vô diệt, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Trì Thế bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nẻo hành chân chánh là tu hanh, chẳng chẳng phải là chỗ hành tà ác. Bồ-tát cần phải tu chánh phương tiện. Thế nào là chánh phương tiện? Nghĩa là biết tánh của tất cả pháp là bình đẳng, vì trí bình đẳng như hư không, đó là chánh tu hành. Bồ-tát Kiên Cố Ý bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát có trí tuệ phương tiện tức là vô sinh mà sinh, vô khởi mà khởi, ở trong sinh diệt cũng không chỗ trú, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Cát Tường Phong Vương bạch:
–Bạch Thế Tôn! Neu Bồ-tát quán tự tánh của tất cả pháp vốn vắng lặng thì không xả bỏ áo giáp đại Bi, thấy sức của tinh tấn thì biết kết quả không hư dối, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Vô Ngại Quang bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có dấu vết của chỗ hành, đó là việc ma; nếu là việc ma thì chẳng phải là tu hành. Nếu không chỗ hành, cũng không chỗ trú thì các ma ấy không tìm được chỗ sơ hở. Như vậy mới có thể siêu vượt các nẻo ma ác, đó là Bồ-tát tu hành chân thật.
Bồ-tát Cần Tinh Tấn bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có một pháp nhỏ vui muốn nào thành tựu thì sức tinh cần ấy là hư dối, vì tất cả pháp là không chỗ thành tựu. Nếu ở trong ấy có được trí cùng chỗ nhận biết được chẳng phải là không ý, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Diệt Ác Thú bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có các chủng loại phân biệt về chỗ hành thì cái gì gọi là tu hành? Không chủng loại, không phân biệt, đó là tu hành. Không chủng loại, không phân biệt ấy tức là tự tánh của tâm.
Nếu có thể biết rõ tự tánh của tâm, đó là tu hành chân thật.
Bồ-tát Thiện Tư Nhi Tư bạch:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tùy nhập nơi tất cả tâm của chúng sinh, đã tùy nhập rồi tức biết rõ tâm của tất cả chúng sinh mà vô tâm, vì trong đó chỗ nhập của trí là vô tâm, đó là tu hành chân thật.
Bồ-tát Tịch Ý bạch:
–Bạch Thế Tôn! Cận tịch là tu hành, chẳng phải cận tịch là tu hành. Bồ-tát ở nơi đại tịch ấy, các tâm nơi đối tượng duyên là biến tịch, cận tịch, hoặc tăng hoặc giảm đều không tạo tác, vì lìa tăng giảm nên biết rõ về bình đẳng, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Đạo Sư bạch:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát phát khởi thiện căn, đó là chánh tu hành, nếu có chỗ thành tựu tức chẳng phát khởi thiện căn. Vì sao? Vì Bồ-tát phát khởi phước hạnh tức là phát khởi trí hạnh; phước bình đẳng nên trí bình đẳng, trí bình đẳng tức phước bình đẳng, phước trí bình đẳng tức Bồ-đề bình đẳng, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Hy Hý Vương bạch:
–Bạch Thế Tôn! Không phân biệt tất cả pháp, đó là tu hành. Nếu Bồ-tát biết rõ pháp giới đã thâu tóm khắp tất cả pháp thì không một pháp nhỏ nào hoặc lìa, hoặc hợp, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Thiện Tư Nghĩa bạch:
–Bạch Thế Tôn! Các pháp dựa vào nghĩa không dựa vào văn. Nếu Bồ-tát biết rõ về nghĩa tức ở nơi bốn vạn tám ngàn pháp uẩn, tuệ có thể đọc tụng, thọ trì, giải nói. Nhưng ở trong nghĩa chân thật không thể nói không hề động chuyển, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Thanh Tịnh Ý bạch:
–Bạch Thế Tôn! Tâm sâu xa bền chắc, đó là tu hành. Bồ-tát có đầy đủ tâm sâu xa, tức chẳng phải là ngôn ngữ, nghĩ nói ve chỗ đạt được tối thượng, chỉ tu chánh đạo chân thật; quán đạo chân thật ấy cũng không đến không đi, đó là chánh tu hành.
Bồ-tát Tất Cánh Vô Cấu Tư Duy bạch:
–Bạch Thế Tôn! Như chiếc áo bẩn được giặt giũ sạch sẽ, còn áo không bẩn thì giặt làm gì. Bồ-tát cũng lại như vậy, không đem tâm xưa nay thanh tịnh mà quán sát như thật khiến được thanh tịnh. Bồ-tát không chuyển gốc của tất cả tâm cấu uế phiền não, vì tâm ấy vốn thanh tịnh. Nếu biết rõ về thanh tịnh như vậy, đó là tu hành chân thật.
Bồ-tát Hải Ý bạch:
–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát được Thiện tri thức thâu nhận, tức ít trải qua sức cần khổ mà có thể thành chánh hạnh. Vì sao? Nếu sức Bồ-tát không thể vượt qua tất cả các việc ma thì sẽ bị các tri thức ác thâu giữ. Nếu sức của Bồ-tát có thể thắng vượt các việc ma thì nên biết đó là chỗ thâu nhận của Thiện tri thức.
Bạch Thế Tôn! Cho nên Bồ-tát nếu muốn siêu vượt các việc ma thì cần phải gần gũi thừa sự các Thiện tri thức. Bồ-tát nhờ sự thâu nhận dẫn dắt của Thiện tri thức nên ít trải qua sự cần khổ mà có thể thành tựu chánh hạnh.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bồ-tát Hải Ý rằng:
–Thiện nam! Ông có biết việc ma không?
Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con biết về việc ma.
Phật bảo Hải Ý:
–Thiện nam! Ông cứ tùy ý nói, khiến cho các Bồ-tát nghe rồi liền có thể siêu vượt, hàng phục các ma, ngoại đạo, mau chóng chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như điều Thế Tôn dạy, con sẽ nói về các việc ma. Kính xin Đức Thế Tôn kiến lập oai thần. Bạch Thế Tôn! Việc ma có mười hai loại. Những gì là mười hai?
Bồ-tát khi hành Bố thí ba-la-mật-đa, đem vật không ưa thích để bố thí, tâm còn ưa muốn. Nếu đem vật đáng ưa thích để bố thí tâm không còn ưa muốn. Vật người không ưa thích thì cố ý cho. Vật người ưa thích thì không cho. Ở chỗ bố thí dấy khởi vô số tưởng. Ở chỗ cho người cũng dấy khởi vô số tưởng. Đó là việc ma thứ nhất lúc Bồ-tát hành bố thí.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Lúc Bồ-tát hành Trì giới ba-la-mật-đa, nếu gặp các Sa-môn, Bà la môn, đối với phép tắc luật nghi, giới hạnh, pháp thiện đều có thể tròn đủ, cho đến một tội nhỏ cũng lo sợ, ngăn ngừa, nuôi sống thân mạng một cách trong sạch kiên trì giữ giới thì liền thân cận, tôn trọng. Còn gặp kẻ phá giới thì chê trách, giận dữ, ở trước họ luôn tự thị vào giới đức của mình, hủy báng người khác. Đó là việc ma thứ hai của Bồ-tát lúc trì giới.
Bạch Thế Tôn! Lúc Bồ-tát hành Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, muốn thành tựu nhẫn hạnh, thân tuy có thể nhẫn nhưng lời nói lại không thể nhẫn, tâm sinh sân hận. Gặp kẻ mạnh thì có thể nhẫn với họ, còn gặp người yếu thì không thể nhẫn. Lại nữa, trước kẻ mạnh thì tỏ ra có sức nhẫn, nhưng trước kẻ yếu thì hiện tướng giận dữ. Kẻ như vậy thì nhẫn, kẻ như kia thì không nhẫn. Những chỗ nào có thể nhẫn? Những chỗ nào không thể nhẫn? Nếu chỗ hành nhẫn thì khởi tâm kiêu mạn, còn đối với chỗ không nhẫn thì không mau chóng sám hối. Đó là việc ma thứ ba của Bồ-tát khi hành nhẫn nhục.
Bạch Thế Tôn! Lúc Bồ-tát hành Tinh tấn ba-la-mật-đa tức phát khởi tinh tấn, hóa độ hàng theo thừa Thanh văn, Duyên giác, cũng hóa độ cả người trong Đại thừa. Chỉ vì hàng Thanh văn, Duyên giác mà thuyết pháp tương tục, trái lại còn dùng pháp Đại thừa để hóa độ các kẻ ngu [Từ đây trở xuống, dựa vào bảy tiếng Phạm để nêu theo thứ lớp của văn nghĩa. Bồ-tát Hải Ý nói có mười hai loại việc ma lẽ ra ở trên có ba đoạn rưỡi, ở dưới phải có thêm tám đoạn rưỡi nữa. Còn Phật thuyết giảng có mười loại pháp môn phá trừ ma, trong đó chỉ có bốn đoạn sau, còn sáu đoạn trên, bản tiếng Phạm bị mất không thể bổ khuyết được…] Đó là pháp môn pha trừ ma thứ sáu.
Lại nữa, Hải Ý! Tự tánh của tất cả pháp là vô nhiễm, dùng tướng vô nhiễm mà hóa độ sự cấu nhiễm của chúng sinh. Đó là pháp môn phá trừ ma thứ bảy.
Này Hải Ý! Tự tánh của tất cả pháp là vô sinh, vô khởi, dùng tướng vô sinh, vô khởi vì các chúng sinh giảng nói pháp đoạn trừ sinh lão bệnh tử. Đó là pháp môn phá trừ ma thứ tám.
Này Hải Ý! Tự tánh của các pháp cùng ở trong một vị không sai biệt, dùng tướng đồng một vị không sai biệt mà kiến lập ba thừa, đều vì các chúng sinh mà thuyết giảng pháp, khiến chúng cũng không lìa bỏ ý thích Đại thừa, đó là pháp môn phá trừ ma thứ chín.
Lại nữa, này Hải Ý! Nếu tâm ý thức của Bồ-tát tuy không chỗ vướng mắc nhờ dựa nhưng thường không quên mất tâm Đại Bồ-đề, tuy xa lìa các sự sinh khởi nhưng không xa lìa tâm nhằm giải thoát cho tất cả chúng sinh, tuy siêu vượt các hành nhưng cũng thành tựu thắng hạnh của Bồ-tát. Đó là pháp môn phá trừ ma thứ mười.
Này Hải Ý! Mười loại pháp môn phá trừ ma như vậy, nếu các Bồ-tát siêng hành trì tu tập thì sẽ siêu vượt tất cả việc ma.
*********
Lúc Đức Thế Tôn nói Pháp môn phá trừ ma, tất cả cung ma đều trở nên tối tăm đại địa hiện đủ sáu cách chấn động, như lúc Phật mới ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề đang còn ở quả vị Bồ-tát, chưa thành Chánh giác. Bấy giờ, từ giữa đôi chân mày phóng ra hào quang lớn làm cho các cung ma cũng đều bị chìm lấp trong bóng tối như hôm nay không sai khác. Khi đó, chúng ma ác thấy tướng biến dị lạ thường như thế liền vội vàng chỉnh đốn bốn thứ binh chúng, như lúc xưa từng kéo đến đạo tràng Bồ-đề, nay cũng như vậy. Thống lãnh bốn binh chúng dàn rộng tới ba mươi sáu do-tuần đều đầy khắp quân ma rầm rộ đi đến chỗ pháp hội Đại tập Đại bảo trang nghiêm. Của Đức Thế Tôn. Do thần lực của Phật nên tất cả đám quân ma đông đảo ấy đều không thể trở lại cung ma. Lại cũng do thần lực của Phật nên khi chúng ma đến nơi hoặc thấy các cõi nước khác đều có Phật Thế Tôn, cùng với chúng Bồ-tát Bất thoái chuyển hóa độ chúng sinh và các vị A-la-hán đã đoạn các kết sử, hoặc các chúng sinh có đầy đủ chánh kiến.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý! Nay ông có thấy các chúng ma ác ấy tranh nghiêm như thế đi đến chúng hội không?
Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.
Phật bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Các chúng ma ấy đến Pháp hội này muốn khởi làm các chướng nạn nơi chánh pháp của ta, ông nay sẽ làm gì?
Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con nay sẽ chúng ma ác này đạt nên trong thế giới Chư lạc trang nghiêm nơi phương khác.
Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử hiện có mặt trong chúng hội liền nói với Bồ-tát Hải Ý:
–Lành thay, Đại sĩ! Thế giới Chư lạc trang nghiêm ở nơi phương nào? Đức Phật giảng thuyết chánh pháp ở cõi đó danh hiệu là gì?
Bồ-tát Hải Ý nói:
–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Về phương Đông cách cõi Phật này hơn mười hai hằng hà sa số cõi nước, có thế giới tên là Chư lạc trang nghiêm Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tồi Ma Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh giác, hiện tại đang giảng nói pháp. Do nhân duyên gì mà the giới đó được gọi là Chư lạc trang nghiêm? Thưa Tôn giả! Nghĩa là ở thế giới ấy có các sự hỷ lạc, các thứ công đức, các việc trang nghiêm. Nếu nói rộng về các việc thù thắng vi diệu nơi thế giới đó thì dẫu trải qua một kiếp cũng không thể nói hết tận. Do vậy, nên thế giới ấy có tên là Chư lạc trang nghiêm.
Lại nữa, Đức Phật nơi cõi ấy có danh hiệu là Tồi Ma Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nghĩa là lúc Đức Thế Tôn mới ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề, đang còn ở quả vị Bồ-tát, chưa chứng Nhất thiết trí, từ nơi thân phóng ra ánh sáng chiếu khắp các cõi ma, thấy rõ trong cõi ma có trăm câu-chi chúng ma, mỗi một ma lại có một ngàn câu-chi quyến thuộc. Lúc ấy, các ma cùng kéo đến chỗ Bồ-tát muốn khởi tạo các chứơng nạn nhưng nhờ thần lực của bậc Đại sĩ ấy nên chúng ma không thể gây tạo các thứ trở ngại. Khi đó, mỗi ma đều khởi tâm cho là điều ít có nên cùng hướng về Bồ-tát quy y, đảnh lễ. Bồ-tát liền vì họ mà thuyết pháp tương ứng, chúng ma nghe rồi, thân tâm được thanh tịnh, liền phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau đó, Bồ-tát chứng đạo đắc quả Bồ-đề Vô thượng nên mới gọi danh hiệu là Như Lai Tồi Ma. Lại nữa, lúc Đức Phật ấy còn ở quả vị Bồ-tát trong kiếp Trang nghiêm nơi đời quá khứ đã có danh hiệu là Hàng Phục Ma. Nay trong Hiền kiếp này chứng đắc đạo quả Bồ-đề, có thể làm cho các ma phát tâm Bồ-đề thừa sự Phật pháp. Đức Phật ấy vì các chúng Bồ-tát chỉ giảng nói pháp Đại thừa tối thượng không hề nói đến tên gọi của hai thừa. Thưa Tôn giả! Vì vậy nay tôi đem các chúng ma này đặt yên nơi thế giới Chư lạc trang nghiêm, rồi khiến các chúng ma ấy không còn gây tạo các việc ma nữa. Ở cõi Phật ấy, họ sẽ cùng với Bồ-tát Hàng Phục Ma đồng phát tâm Bồ-đề, có thể hành viên mãn các pháp phần Bồ-đề.
Lúc này, các chúng ma nghe như vậy rồi thì sinh tâm kinh sợ, thân sởn gai ốc liền muốn lìa khỏi chúng hội, nhưng do thần lực Phật nên chúng không thể đi được, lại cũng không thể lẫn tránh, nỗi sợ hãi càng tăng nên đều hướng về Phật quy mạng, đảnh lễ, bạch Phật:
–Xin Đức Thế Tôn cứu độ chúng con, xin bậc Thiện Thệ cứu độ chúng con, đừng để Bồ-tát Hải Ý đặt chúng con trong thế giới ấy.
Đức Phật bảo các chúng ma:
–Chư ma các người chớ sinh sợ hãi! Bồ-tát Đại sĩ đối với mọi chúng sinh không hề nhiễu hại. Các ngươi cần phải tự mình đến trước Bồ-tát Hải Ý cầu xin sám tạ, Bồ-tát sẽ vì các ngươi khéo cứu hộ.
Các chúng ma nghe vậy liền chắp tay, hướng về Bồ-tát Hải Ý đảnh lễ, thưa:
–Chúng con nay xin sám tạ Đại sĩ? Chớ đặt chúng con vao nơi thế giới Chư lạc trang nghiêm. Như chỗ chúng con sẽ làm, chúng con xin không dám trở lại chúng hội này lần thứ hai nữa.
Bồ-tát Hải Ý nói:
–Các ngươi nên biết! Ta nay đối với các ngươi đâu lại không thể nhẫn. Vì sao? Vì Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh thường hành nhẫn một cách rốt ráo. Chư ma các ngươi nay hãy đến thế giới Chư lạc trang nghiêm, xem xét các việc trang nghiêm nơi cõi ấy. Như Lai Tồi Ma ấy không hề nhiễu hại các ngươi.
Bấy giờ, Bồ-tát Hải Ý liền duỗi cánh tay phải màu vàng rồng chói lọi xoa trên đảnh đầu các ma để gia trì cho họ và dạy:
–Nếu pháp chân thật thì lời này chân thật. Các Bồ-tát đối với
pháp không hề tiếc lẫn, cũng không hề giấu kín, nên do lời chân thật này như thần lực hiện có của ta như vậy khiến cho chúng ma này đều được lợi ích. Bồ-tát Hải Ý nói như vậy rồi thì các chúng ma liền có thần lực được đủ.
Lúc ấy, tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động sáu cách. Các chúng ma nơi hội này không còn hiện chỉ trong khoảng khắc, nhờ sức gia trì của Bồ-tát Hải Ý nên họ đã đến thế giới Chư lạc trang nghiêm liền đến chỗ Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác Tồi Ma cùng nhau đảnh lễ dưới chân, nhiễu quanh theo phía bên phải bảy vòng rồi lui ra đứng sang một bên.
Khi ấy, trong cõi Phật ấy có một Bồ-tát tên là Hàng Phục Ma, thấy sự việc như vậy rồi liền bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Có chút ít ánh sáng hiện ra với đám chúng sinh kém cỏi, với dung mạo dị thường, có thể là kẻ ác, từ phương nào đến đây?
Đức Phật ấy dạy:
–Này thiện nam! Về phương Tây, cách cõi Phật này hơn mười hằng hà sa số thế giới, có thế giới là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang ngự tại đạo tràng Đại bảo trang nghiêm, tuyên thuyết rộng khắp chánh pháp nơi Đại tập hội. Lại có vô lượng a-tăng-kỳ các Đại Bồ-tát vượt sự tính đếm khắp mười phương thế giới đều vân tập đến, nghe nhận chánh pháp. Trong pháp hội ấy có một Bồ-tát tên là Hải Ý, khéo mặc áo giáp đại kiên cố không thể nghĩ bàn, có thể thỉnh vấn đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai về chánh pháp. Đang lúc sắp nói pháp, thì có chúng ma ác kéo đến chỗ pháp hội ấy muốn khởi tạo các chướng nạn nên Bồ-tát Hải Ý bèn đưa các chúng ma ấy đến cõi này, vì muốn hóa độ khiến họ thành tựu.
Lúc ấy, Bồ-tát Hàng Phục Ma nói với các ma:
–Nay chúng tôi cùng với chư ma các ngươi đồng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì lúc xưa ta cũng đã từng ở nơi loài ma gây tạo các chướng nạn đối với chúng sinh gieo trồng thiện căn. Sau đó, ở trong pháp của Đức Như Lai này, xin phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi đó, thâm tâm các ma đã được bền vững nên tất cả đều pháp tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đã phát tâm rồi cùng nhau nói như vầy:
–Chúng con đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nguyện vĩnh viễn không làm các việc ma nữa.
Bấy giờ, Bồ-tát Hàng Phục Ma liền khiến cho chúng ma ấy cùng ở nơi tòa Sư tử Bảo trang nghiêm của chúng hội ấy và khuyến thỉnh:
–Thưa thiện nam! Thế nào là chánh pháp Đại tập hội mà Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni đã tuyên thuyết? Tùy theo chỗ ưa thích các ngươi nay sẽ diễn nói.
Khi ấy, các ma vâng theo sức oai thần gia trì của Bồ-tát Hải Ý, tức thì ở tại tòa Sư tử, từ miệng và lỗ chân lông phát ra âm thanh thanh tịnh, giống như Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai giảng nói về chánh pháp Đại tập hội với văn tự như vậy, chương cú như vậy, mỗi mỗi đều tuyên nói đầy đủ không thiếu sót, cũng không tăng giảm.
Bồ-tát Hàng Phục Ma, ở nơi chỗ chúng ma ấy được nghe chánh pháp Đại tập hội như vậy, liền sinh tâm hy hữu bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con nay muốn được trông thấy Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai và thế giới Ta-bà, lại muốn thay Bồ-tát Hải Ý và chúng Đại Bồ-tát khắp mười phương thế giới vân tập đến pháp hội đó.
Như Lai Tồi Ma ở thế giới ấy liền phóng ra hào quang lớn từ giữa đôi chân mày gọi là Phổ thiện nhiết thiết sắc tướng, ánh sáng này chiếu tỏa về phương Tây trải qua mười hai hằng hà sa số cõi nước chư Phật đến thế giới Ta-bà, trùm khắp không gián đoạn. Các chúng Bồ-tát trong thế giới Chư lạc trang nghiêm đều thấy Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni đang ở tại đạo tràng Đại bảo trang nghiêm, có trăm ngàn loại sắc tướng tạo uy quang cho tòa Sư tử báu, vì chúng Đại Bồ-tát, từ khắp mười phương thế giới vân tập tới pháp hội, tuyên thuyết rộng lớn chánh pháp Đại tập hội. Lại thấy nơi thế giới Ta-bà này nước lớn dâng đầy khắp giống như biển cả, nhưng trong đó mọi việc không hề bị chướng ngại. Lại thấy các Đại Bồ-tát từ mười phương thế giới, đến dự pháp hội mỗi mỗi vị đều ngồi trên hoa sen lớn gồm các báu trang nghiêm nghe nhận chánh pháp. Hoa sen ấy mỗi mỗi đều dài rộng một câu-lô-xá. Các Đại sĩ nơi cõi này thấy tướng ấy rồi đều sinh hoan hỷ, vui mừng khôn xiết, liền dùng diệu hoa từ xa tung rải cúng dường Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni. Nhờ thần lực của Phật, nên chỗ tung rải hoa đều hội tụ trên đảnh Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni, kết thành một lọng hoa rộng lớn tươi đẹp. Cả đại chúng nơi pháp hội Đại tập thấy lọng hoa lơ lửng trên không nơi đảnh đầu Phật Thích-ca Mâu-ni, thì liền sinh lòng hy hữu cùng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Lọng hoa này từ đâu bay đến?
Phật nói:
–Này chư vị! Lọng hoa này là do đại chúng Bồ-tát ở thế giới Chư lạc trang nghiêm từ xa hướng về pháp hội này tung rải hoa thượng diệu để cúng dường.
Cả chúng hội cùng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con muốn thấy thế giới Chư lạc trang nghiêm và Đức Thế Tôn Như Lai Tồi Ma nơi cõi ấy, cung muốn thấy chỗ đến của các chúng ma và mọi việc làm nơi thế giới đó.
Đức Thế Tôn biết chỗ ưa thích của chúng hội liền bảo Bồ-tát Hải Ý.
–Này thiện nam! Hôm nay chúng hội này muốn trông thấy thế giới Chư lạc trang nghiêm, cũng muốn được thấy Đức Như Lai Tồi Ma nơi cõi đó, vậy ông có thể hiện ra để tất cả chúng hội cùng chiêm ngưỡng.
Bồ-tát Hải Ý vâng theo lời dạy của Phật, liền phóng ra mười ngàn từ giữa mười ngón tay, chiếu tỏa về phương Đông cách đây mười hai hằng hà sa số cõi nước của chư Phật, đến thế giới Chư lạc trang nghiêm, sáng rực trùm khắp không gián đoạn. Tất cả đại chúng nơi chúng hội này đều thấy thế giới Chư lạc trang nghiêm cũng được thấy Đức Như Lai Tồi Ma, lại thấy chúng ma ở nơi pháp tòa tại Phật hội ấy, rộng vì đại chúng giảng nói chánh pháp của Đại tập hội.
Đại chúng trong pháp hội này thấy các sự việc như vậy rồi, liền sinh tâm hy hữu, mỗi một đều từ nơi hoa sen đứng dậy, hướng về Đức Như Lai Tồi Ma chắp tay đảnh lễ, đều nên dùng hoa tươi đẹp tung rải cúng dường. Nhờ thần lực của Phật nên chỗ hoa tung rải đó đều hội tụ trên đảnh Đức Như Lai Tồi Ma, kết thành lầu gác hoa thù thắng, rộng lớn.
Bấy giờ, chúng ma bạch với Như Lai Tồi Ma:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con nay muốn trở lại thế giới Ta-bà nơi chỗ Đức Thích-ca Mâu-ni Phật.
Phật nói:
–Thiện nam! Nay đúng là lúc các ngươi có thể trở lại cõi ấy.
Lúc đó, các ma với năm vóc sát đất đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh từ bên phải bảy vòng. Nhờ thần lực của Bồ-tát Hải Ý họ liền ẩn mất không hiện nơi cõi ấy nữa, chỉ chốc lát, liền trở về thế giới Ta-bà, cùng đảnh lễ nơi chân Phật Thích-ca Mâu-ni, nhiễu quanh theo phía bên phải bảy vòng, lui qua một bên, thâu giữ tâm ý, cung kính, quy hướng.
Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các ma:
–Này chư vị! Các vị đã thấy thế giới Chư lạc trang nghiêm chưa?
Các ma đáp:
–Thưa Tôn giả! Chúng tôi thấy rồi. Cõi ấy thật đẹp đẽ, thanh tịnh ít có, đó chính là nơi thanh tịnh vô cấu tối thắng. Chúng tôi thấy rồi, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác Tôn giả Xá-lợi-phất bảo:
–Này chư vị! Các vị đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì không nên làm các việc ma và nói lời ma nữa?
Chúng ma đáp:
–Thưa Tôn giả! Nếu có người khéo trụ nơi tâm sâu bền như chúng chư Bồ-tát mới có thể hành dụng các việc ma. Vì sao? Vì như chư Bồ-tát là bậc khéo nơi trú tâm sâu bền, tức bậc đầy đủ năng lực có thể tùy theo chỗ cần thiết mà phát khởi việc ma. Do đó, Ton giả nên biết, các Bồ-tát hành dụng việc ma, đó chính là hành hóa Phật sự chứ chẳng phải là làm việc ma.
Lúc các ma ở nơi cõi Phật đó hiện thần biến rồi, nơi chúng hội này có hai vạn người ở trong chúng ma phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại có một vạn Thiên tử phát tâm Bồ-đề Vô thượng cùng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con đều nguyện thọ sinh nơi thế giới Chư lạc trang nghiêm.
Lúc ấy, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai thọ ký:
–Các vị sẽ sinh đến cõi Phật ấy!
Bấy giờ, Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Pháp Bồ-đề của chư Phật Như Lai, các ma và ngoại đạo thường gây tạo nhiều chướng nạn. Kính xin Đức Thế Tôn kiến lập oai thần khiến cho chánh pháp này được trụ lâu dài nơi thế gian, lại ở nơi kinh điển vô cùng thâm diệu như vậy, hộ trì cho họ.
Bạch Thế Tôn! Nếu ai có thể thọ trì, đọc tụng, lưu truyền rộng rãi kinh điền này thì sẽ được chư Phật Như Lai gia trì nên không hề ẩn mất, khiến các chúng ma không thể quấy nhiễu.
Phật bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý! Ta nay kiến lập chánh pháp này, nếu có chúng sinh muốn phát khơi tinh tấn, trồng các thiện căn nhằm đạt thành thục thì vì họ mà hóa độ khiến chúng sinh ấy đối với kinh điển sâu xa như vậy sẽ như pháp thọ trì, vì người khác diễn.
Phật lại bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Ông nay hãy lắng nghe và phải khéo tác ý! Như Lai sẽ vì ông mà nói về chương cú bí mật mời gọi Tứ đại Thiên vương. Với chương cú này có thể mau chóng triệu tập Tứ đại Thien vương chỗ có chánh pháp này chư vị sẽ đến hộ trì, cùng sẽ hộ trì pháp sư thuyết giảng.
Lúc đó, Thế Tôn liền nói Đà-la-ni:
Đát ninh đà tam di, tam ma tán để, tát la ni, ta la phược để, đạt nê, đạt na phược để, độ độ di, độ độ ma để, a phược lý đa nê, a mạt lý, vĩ mạt lý, vĩ la nhĩ, cát cát lý, cát cát ni, hỗ lỗ, hỗ lỗ phược để, hỗ lỗ tán đề, nhĩ lý già, tát nhĩ, a phược trí vĩ phược trí, mạt mạt khô mạt để, ma la nhĩ đế, vĩ thú đề vĩ thú đà phược để, di di lý, mạt nổ hạ la sa hạ.
Này Hải Ý! Chương cú bí mật như vậy có thể mau chóng mời gọi Tứ đại Thiên vương đến hộ trì chánh pháp thâm diệu này và có thể hộ trì pháp sư nêu giảng. Lại nữa, chương cú này có thể khiến cho pháp sư khéo giảng nói pháp này, như chỗ đã làm, quán sát kỹ về bốn phương khởi tâm đại Bi. Lúc ấy, nhờ sự gọi mời của chương cú bí mất này mà Tứ đại Thiên vương đều đến thâu giữ các pháp sư thuyết giảng.
Bấy giờ, Tứ đại Thiên vương hiện có trong chúng hội này, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Đức Phật chắp tay đảnh lễ, bạch:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh ở nơi chánh pháp thâm diệu tối thượng này mà biết rõ như thật lại có thể vì người khác giảng nói như lý, bốn Thiên vương chúng con cùng các quyến thuộc thường đến bảo vệ hộ trì chánh pháp, lại hộ trì các bậc pháp sư nêu giảng khiến không còn chướng nạn và không có sự suy não.
*********
Lại nữa, này Bồ-tát Hải Ý! Ta nay vì ông mà tuyên thuyết về chương cú bí mật triệu thỉnh Đế Thích Thiên chủ, Chương cú này có thể mau chóng mời gọi Đế Thích Thiên chủ đến hộ chánh pháp. Lúc ấy, Thế Tôn liền nói Đà-la-ni:
Đát ninh tha, nhạ duệ, nhạ dã phược để a chi, ma cô rị, tất đà mạt để, thú tỳ phiến để cát rị, na nỉ nhĩ, nan đế, nan đa mạc để, đát rị cát rị, xoa duệ, xoa dã mục khế, a phược trá nhĩ, vĩ phược trá nhĩ, ba rị phược trá nhĩ, ba rị thế nỉ, tất mật rị để, tất mật rị để tán đề, a nga tha kiều thi ca, nhĩ rị nhĩ đa, a tô la nhạ dương đê nỉ phược, tam ma du đế, a bán nỗ đạt rị ma đát rị nhĩ đô la ma sí, sa tất đa dã nang bộ đa nam, ma la xoa đạt rị ma tả rị niễn.
Này Hải Ý! Chương cú bí mật như vậy có thể mời gọi Đế Thích Thiên chủ đến để hộ trì nơi có chánh pháp này và có thể hộ trì cho Pháp sư thuyết giảng. Nhưng Pháp sư ấy cần phải dùng chương cú bí mật này trì tụng, thân tâm trong lặng, tắm rửa đúng pháp, mặc áo tinh sạch, ở nơi pháp tòa, hướng về phương Đông, tung rải hoa tươi đẹp cúng dường, dốc cầu chư Phật rũ lòng thâu nhận, đối với chúng sinh luôn khởi tâm đại Bi. Kính nghĩ là, Đế Thích Thiên chủ luôn thương yêu nên vì ta mà đến chỉ dẫn chúng nghe pháp, khiến cho tất cả đều được nghiem túc, lại khiến cho văn cú của Đà-la-ni này được hoà hợp. Những việc làm hiện tiền như vậy, nếu Pháp sư kia nội tâm thanh tịnh, giới hạnh trong lành tức có thể khiến cho Đế Thích Thiên chủ đến thâu giữ, sắp xếp chúng hội, luôn khéo gia hộ.
Lúc ấy, Đế Thích Thiên chủ hiện đang ở chúng hội này liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như điều Thế Tôn nói, vào đời vị lai, nếu có pháp sư có thể thọ trì chánh pháp này, con sẽ đến đó chỉ dẫn sắp xếp chúng hội, hoà hợp văn cú để gia gia hộ. Lại nữa, chỗ nào hiện có Chánh pháp này thì con sẽ đến đó mà tạo sự thâu giữ khiến cho pháp được trụ lâu dài. Lại nữa, chánh pháp này vào đời vị lai, con sẽ vì chúng Thiên tử của cõi trời Ba mươi ba thường tuyên thuyết rộng rãi. Vì sao? Vì chánh pháp này là pháp Bồ-đề mà chư Phật Thế Tôn quá khứ, hiện tại, vị lai luôn tán dương. Đối với pháp Bồ-đề của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai này con luôn khởi tâm tôn trọng, nên con sẽ thuyết giảng chánh pháp ấy.
Lúc này, Đức Thế Tôn khen ngợi Đế Thích Thiên chủ:
–Lành thay, lành thay! Kiều-thi-ca! Ông có thể gầm lên tiếng Sư tử nen phát ra lời: “Vào đời vị lai xin sẽ hộ trì chánh pháp” Lời ông nói ra nên như thế mà hành trì. Này Kiều-thi-ca! Nhờ sức thâu giữ của chánh pháp này nên có thể khiến cho chư Thiên thường được sự tối thắng theo chỗ nguyện cầu, còn uy lực của chúng A-tu-la phải thoái chuyển hao tổn.
Lại nữa, này Bồ-tát Hải Ý! Ta sẽ vì ông mà nêu bày chương cú bí mật nhằm hàng phục chúng Thiên ma, có thể khiến cho chúng mau chóng thâu phục và đến hộ trì chánh pháp. Khi đó, Đức Thế Tôn liền nói Đà-la-ni:
Đát ninh tha, thiết di, thiết ma phược để, thiết di đa thiết ngật la, ánh cô rị, mâu cô rị, ma la nhĩ đế, cát la nhị, chỉ du rị, đế dã chuyển để, ô lộ dã nhĩ, vĩ thiết xá, nhĩ rị ma lê, ma la bát na duệ, khô khô rị, kha nga, nga la tế, nga la tát nê, ô mục khế, bát la mục khế, a mục khế, thiết di đa nhĩ, tát rị phược nga la hạ mãn đà na nhĩ, nhĩ ngật rị hệ đa tát rị phược ba ra bát ra phược nỉ na, vĩ mục ngật đa ma la bá xá, đắc đà tất đa một đà, mẫu nại la, a nậu nại già trí đa tát rị phược ma lại, tô tả rị đa bát rị thú đình, vĩ nga tha đổ tát rị chuyể ma la cát rị ma ni.
Này Hải Ý! Chương cú bí mật như vậy co thể thu phục chúng Thiên ma, lại có thể tiêu trừ tất cả phiền não. Vị Pháp sư nêu giảng ấy dùng chương cú bí mật này trì tụng, ở nơi pháp tòa, quán xét khắp chúng hội đều trú nơi đạo tràng, vận dụng rộng tâm đại Tư vô lượng, với bản thân mình khởi tưởng y vương, xem giáo pháp như thuốc hay, với các người nghe khởi tưởng như bệnh nhân, đối với Phật Như Lai, khởi tưởng Chánh sĩ, với Pháp nhãn không lỗi lầm khởi tưởng an trụ lâu dài. Các việc như vậy là đều nhờ sức gia trì của chương cú bí mật này, rộng vì tất cả mà thuyết giảng pháp tương ưng, hành dụng hiện tiền. Lúc ấy trong khoảng vòng quanh một trăm do-tuần, các chúng Thiên ma không thể đến nhiễu hại. Giá như chúng ma có đến Pháp hội cũng không thể gây tạo chướng nạn.
Khi đó, chúng Thiên ma hiện đang ở nơi pháp hội này liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con nhờ thần lực gia trì của Bồ-tát Đại Sĩ Hải Ý đã đưa chúng con đến nơi thế giới Chư lạc trang nghiêm ấy. Trước hết, chúng con đã bỏ hẳn các nghiệp ma, nên chúng con thường phải hộ trì nơi chánh pháp này. Vào đời vị lai sau này, nếu trong các thành ấp, làng xóm, hoặc tăng phòng nào có người tuyên thuyết chánh pháp ấy thì chúng con xin sẽ đến đó, lìa tâm kiêu mạn, hết lòng cung kính tôn trọng, chuyên chú lắng nghe.
Đức Thế Tôn khen ngợi chúng ma:
–Lành thay, lành thay! Chúng ma các ngươi có thể tôn trọng chánh pháp như thế, trước tiên đã bỏ hết các việc làm của ma, nay các ngươi ở trong pháp như vậy sẽ được nhiều lợi lạc, đó là nhờ thần lực của Bồ-tát Hải Ý dẫn đến.
Lại nữa, này Bồ-tát Hải Ý! Ta nay vì ông mà nêu rõ về chương cú bí mật gọi mời Đại phạm Thiên vương chủ thế giới Ta-bà. Chương cú này có thể gọi mời Đại phạm Thiên vương một cách mau chóng đến chỗ Pháp sư để hộ trì.
Đức Thế Tôn liền nói Đà-la-ni:
Đát ninh tha, muội đát la dã ca rị, cát lỗ noa ca rị, mẫu nỉ đa ca rị, ô bế xoa ca rị, một đà ca rị, đạt rị ma ca rị, tăng già ca rị, tô ngật rị đa vĩ tả duệ, ma ha vĩ đa nê, nhĩ sắt ba rị na kỳ, ô nhạ bát để, ô nho nga di, đạt rị ma na nại nhĩ, tát đa bát la để sắt xá na, ô ba bát để vĩ thú đề, sa tức đổ bát thiết dị, tường phược lộ cát dã một la hạ ma mạt du để sắt xá, tam ma địa a phệ xoa, đạt rị ma tả la niễn cô lỗ, tát đạt rị ma ba rị nga la, kháng ngật rị đa ma nậu bá la dã, một đà nê đế linh ma tường phược thân na, sa ma la đa đạt rị ma tác cát la bát la phược rị đa nam cô lỗ, tát đỏa vĩ du đạt nam bát la để ngật rị hạ noa, đạt rị ma na nga la bá la đảm, một đà đề sắt xá nam ma vĩ cô bát dã.
Này Hải Ý! Chương cú bí mật này có thể gọi mời Đại phạm Thiên vương. Pháp sư nêu giảng, trì tụng chương cú bí mật này cần phải nương vào phạm hạnh, trú tâm vô ngại, các căn ẩn mật, khéo hộ các niệm, nói lời quyết định, khéo làm cho thân nghiệp đuợc thanh tịnh, chân thật thâu giữ ngữ nghiệp, khéo giữ vững tâm tuệ, tu hạnh nhẫn, làm thanh tịnh giới uẩn, phát khởi sức tinh tấn, nắm giữ đa văn, khéo quán tưởng khiến tâm thông suốt, tuệ căn thuận hợp, tu tập chánh hạnh, giữ tâm Bồ-đề, khéo tu quán từ, an lập đại Bi khiến cho khắp chúng sinh hoàn toàn thoát khỏi mọi thứ khổ não, đạt được lợi lạc. Pháp sư ấy khởi tâm như vậy rồi phải ở nơi tòa Sư tử, dốc cầu Đại phạm Thiên vương, nguyện xin thâu nhận, sau đó vì người khác thuyết pháp tương ưng, Đại phạm Thiên vương cùng Phạm chúng sẽ đến chỗ Pháp sư hộ trì.
Lại nữa, Hải Ý! Pháp sư giảng pháp cần phải biết rõ, lúc Đại phạm Thiên vương đến pháp hộ thì có các tướng lành, nghĩa là tất cả các chúng hội đều khởi tâm Từ, hoặc các căn của chúng hội không hề thiếu sót, hoặc cũng giúp nhau an trú trong pháp Bồ-đề, hoặc ưa thích giáo pháp và Pháp sư, khởi tưởng tôn trọng, hoặc chuyên chú nhất tâm, xa lìa ý tán loạn, hoặc buộc niệm nơi các pháp thiện, hoặc kím giữ các niệm, dứt tuyệt mọi liên hệ bên ngoại, một lòng nghe pháp, hoặc ở chỗ Pháp sư nghe các pháp môn vi diệu xưa nay chưa từng nghe, chưa từng gặp, nghe rồi thì có thể nói. Nếu khi các tướng lành hiện ra như vậy thì chính là lúc Đại phạm Thiên vương đến pháp hội.
Bấy giờ, Đại phạm Thiên vương hiện có nơi pháp hội liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Ở mọi nơi, mọi chốn, nếu có người tuyên thuyết chánh pháp thâm diệu như vậy, dẫu con đang ở coi Phạm, có vô lượng pháp lạc thiền định, con cũng đều xả bỏ, liền đến chỗ Pháp sư thuyết giảng kia để hộ trì.
Bạch Thế Tôn! Pháp gia hộ ấy có tám loại. Những gì là tám?
- Gia hộ về niệm, khiến pháp được nghe không hề quên mất.
- Gia hộ về tuệ, khiến không trái mất đối với pháp thậm thâm.
- Gia hộ về hành khiến hiểu rõ nơi nghĩa lý.
- Gia hộ về biện tài, khiến đoạn dứt các nghi hoặc.
- Gia hộ về ký thuyết, khiến người nghe tất cả âm thanh, ngôn ngữ đều hoan hỷ.
- Gia hộ về pháp hóa độ, khiến người ấy siêu vượt tất cả chúng hội.
- Gia hộ về hiện pháp được sáng tỏ, khiến không bị ám độn.
- Gia hộ về môn được xuất ly, khiến người ấy nương pháp tu chứng.
Bạch Thế Tôn! Con dùng tám pháp như vậy để gia hộ cho Pháp sư thuyết giảng. Chúng con thường ở chỗ pháp sư âm thầm tìm cách hộ vệ khiến pháp được trụ lâu dài, các ma oán đều được diệt trừ. Những việc như vậy đều là chỗ kiến lập oai thần của Như Lai, khiến chánh Pháp được ban rải rộng khắp.
Bấy giờ, Bồ-tát Hải Ý lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Xin Đức Thế Tôn kiến lập oai thần khiến cho chánh pháp này, an trụ lâu, vào đời vị lai sau này khi chư Phật Như Lai đã nhập Niết bàn, nếu có chúng sinh trồng căn lành sâu dày thì khiến cho họ có được kinh điển thâm diệu như vậy, hoặc trao tận tay, hoặc có những nơi chốn cất giữ, lần lượt lưu hành khiến không ẩn mất.
Lúc này, Đức Thế Tôn nhận sự khuyết thỉnh của Bồ-tát Hải Ý rồi, liền phóng ra nhiều luồng ánh sáng nhiều màu sắc từ giữa chặng mày, chiếu khắp tam thiên thế giới, bao trùm sáng rỡ. Tất cả các thứ dược thảo, cây rừng, cát đá nhờ tiếp xúc ánh sáng, đều biến thành hình tượng Như Lai. Các hình tượng biến hóa ấy đều ở trong đạo tràng Đại bảo trang nghiêm để cúng dường. Nhờ sự kiến lập oai thần của Phật nên mỗi mỗi hình tượng Như Lai biến hóa đều cùng nói như vầy:
–Vì chánh pháp này mà Như Lai Thích-ca Mâu-ni kiến lập oai thần, tức tất cả Như Lai mười phương cũng cùng kiến lập oai thần. Nếu oai thần của chư Phật được kiến lập thì các chúng ma không thể tạo các chướng nạn được. Bạch Thế Tôn! Dẫu cho số lượng của chúng ma giống như cát sông Hằng, dốc hết sức lực hùng mạnh thì rốt cuộc cũng không thể dấy khởi các chướng nạn đối với chánh pháp này. Vì sao? Giả sử đại địa này tan hoại, tất cả biển lớn đều khô kiệt, các núi Tu-di đều bị nghiền như vi trần, có thể buộc gió lại, mặt trăng mặt trời đều rơi xuống đất, trong không hiện các sắc tượng, nơi lửa có nước, trong nước có lửa, trong bốn đại chủng đều có tính khác, như tất cả chúng sinh đều cùng một tâm, hư không và đất cùng tương hợp, giả sử nếu có các việc như vậy thì sức gia trì của Như Lai cũng không hề có chút động chuyển.
Lúc ấy, Thế Tôn liền đưa bàn tay phải xoa đầu Tôn giả A-nan, bảo:
–Này A-nan! Ông phải thọ trì chánh pháp này, vào đời vị lai hãy nêu giảng lưu truyền rộng rãi làm cho chúng sinh đều được thọ trì, đọc tụng, diễn thuyết, khiến chánh pháp của Phật an trụ lâu ở thế gian.
Bấy giờ, Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Do ý nghĩa gì mà phó chúc chánh pháp thậm thâm như vậy cho Tôn giả A-nan về trí tuệ của Tôn giả A-nan hiện còn hạn lượng? Trong pháp hội này có các Đại Bồ-tát niệm tuệ sâu rộng giống như biển lớn không biết được độ sâu cùng bến bờ sao không giao phó cho chư vị ấy?
Phật nói:
–Này Hải Ý! Chẳng phải chỉ mỗi tuệ lực của Tôn giả A-nan mà có thể thọ trì chánh pháp như vậy, đó là do oai thần của Như Lai kiến lập. Ông nay nên phải biết, vào đời vị lai về sau này có các chúng sinh ở chỗ Tôn giả A-nan nghe nhận chánh pháp sâu xa như vậy, nghe rồi liền tin vui, sinh đại hoan hỷ, phát tâm hy hữu nên nói như vậy: “Đều là sự kiến lập oai thần không thể nghĩ bàn của Như Lai. Như hàng Thanh văn có thể thọ trì kinh điển thâm diệu quảng đại như vậy, đó là nhờ sức gia trì nơi oai thần cua Như Lai.”
Khi đó, trong chúng hội, hoặc có hàng trời, người nghĩ như vầy: “Diệu lực tư niệm về Tổng trì của Bồ-tát Hải Ý có gián đoạn chăng sao Đức Thế Tôn chỉ nói Tôn giả A-nan đa văn bậc nhất?”
Lúc ấy, Tôn giả Đại Ca-diếp biết trong chúng hội có sự nghi hoặc nên quán khắp đại hội rồi bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Sức tư niệm về Tổng trì của Bồ-tát Hải Ý có sự gián đoạn chăng, vì sao Đức Thế Tôn chỉ cho Tôn giả A-nan là đa văn bậc nhất?
Phật nói:
–Giả sử trong hằng hà sa số cõi nước của chư Phật đều gồm thâu chúng sinh đầy khắp, ý ông thế nào? Chúng sinh giới ấy có nhiều chăng?
Tôn giả đại Ca-diếp bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.
Phat bảo:
–Giả sử các chúng sinh như vậy, cùng một lúc đều được làm thân người, không trước không sau, mỗi mỗi đều đầy đủ sức tư niệm về Tổng trì, đều giống như Tôn giả A-nan không khác. Nếu đem sức tư niệm về Tổng trì của tất cả chúng sinh kể trên so với sức tư niệm về Tổng trì của Bồ-tát Hải Ý thì trăm phần không bằng một, cho đến Ô-ba-ni-sát-đàm phần cũng không bằng một.
Này Tôn giả đại Ca-diếp! Bồ-tát Hải Ý này có thể nhận lãnh pháp được thuyết giảng của mười phương chư Phật mà không hề bị chướng ngại, chẳng phải chỉ ở nơi pháp được thuyết giảng của một Phật, hai Phật mà không bị chướng ngại. Ví như trời mưa, biển cả không chỉ dung chứa một giọt mưa, hai giọt mưa không bị chướng ngại, mà có thể dung chứa tất cả các trận mưa, không hề bị chướng ngại, biển cả ấy cũng không tăng không giảm. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, đều có thể thọ trì pháp, thuyết giảng pháp của chư Phật Thế Tôn, chẳng phải ở nơi pháp được thuyết giảng của một Phật, hai Phật mà không chướng ngại, nhưng sức tư niệm về Tổng trì của Bồ-tát không tăng cũng chẳng giảm.
Lúc thuyết pháp này, trong chúng hội có tám ngàn chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và cùng nói như vầy:
–Mỗi một chúng con đều nguyện sẽ đạt được sức từ niệm về Tổng trì như Bồ-tát Hải Ý. Bấy giờ, chư Thiên, người trong hội, mỗi một đều dùng diệu hoa tung rải cúng dường Phật và Bồ-tát Hải Ý.
Lúc ấy, trong pháp hội có một Bồ-tát tên là Liên Hoa Trang Nghiêm liền bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe pháp môn thậm thâm này, nghe rồi lại tin hiểu, thọ trì đọc tụng, quán sát như lý, y pháp tu hành thì người ấy đạt được bao nhiêu phước?
Đức Thế Tôn nói kệ đáp Bồ-tát Liên Hoa Trang Nghiêm:
Giả sử như trong tam thiên thế giới
Chân kim đầy khắp dùng cúng Phật
Lúc nghe pháp tạng liền tin hiểu
Phước này so trước là tối thắng.
Giả sử trong mười ngàn thế giới
Châu báu đầy khắp cúng Như Lai
Có người trì tụng kinh diệu này
Phước ấy so trước không thể tính.
Lại nếu trong mười ngàn thế giới
Đầy mọi châu báu dùng hành thí
Nếu nêu giảng kinh thâm diệu này
Phước ấy hơn trước không thể tính.
Giả sử ngàn câu-chi cõi nước
Châu báu trong ấy chứa đầy khắp
Cúng khắp chư Phật – thế gian Tôn
Tu hành pháp này hơn phước ấy.
Số lượng hằng hà sa mười phương
Châu báu cõi Phật cúng Như Lai
Tu học chân thật nơi pháp này
Phước ấy so trước không thể tính.
Bốn loại Pháp đủ vô biên phước
Phật cũng không thể nói hết được
Phát tâm Bồ-đề và hộ pháp
Khởi tâm đại Bi, tu hành pháp
Bốn loại pháp đủ vô lượng phước
Bậc trí nghe rồi không sinh nghi
Hư không giới và Chúng sinh giới
Tâm Bồ-đề cùng trí chư Phật.
Chánh pháp báu ta tuyên nói này
Chấn động mười phương câu-chi cõi
Phóng quang minh tịnh và mưa hoa
Không tấu tự vang trăm loại nhạc.
Tất cả Bồ-tát, Đại trí sĩ
Phát tâm tối thắng nói kệ tán
Nghe diệu pháp môn được thuyết này
Tất cả lợi lạc, quả chân thật.
Theo ta được nghe pháp như vậy
Khắp cả chúng sinh được lợi lạc
Đều nhờ được Như Lai gia hộ
Khiến tâm Bồ-đề không quên mất.
Số ngàn câu-chi mười phương Phật
Mỗi một chắp tay và đảnh lễ
Khen ngợi biển đức bậc Đại thánh
Khéo trụ gia trì của Như Lai.
Thiên Long, Tu-la, Khẩn-na-la
Càn-thát-bà và chúng Dạ-xoa
Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế thiên
Ở trong không trung nói như vầy:
Nguyện Thích Sư Tử trụ đời lâu
Chánh pháp tối thượng không diệt mất
Bồ-tát dũng mãnh vượt các chúng
Gia trì pháp thâm diệu như vậy.
Có người thọ trì Pháp nhãn này
Chúng con sẽ hiện thân đến đó
Ở đó tôn trọng và chuyên chú
Âm thầm hộ trì không phiền nhiễu.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bồ-tát Hải Ý:
–Này Hải Ý! Chánh Pháp này là mắt pháp vĩ đại, là pháp ấn vi diệu, là cờ pháp thù thắng, quyết định lựa chọn các pháp, phân biệt các pháp, chư Phật Thế Tôn nói quá khứ, hiện tại, vị lai đều giảng nói pháp ấy. Này Hải Ý! Như trước ta đã nói, các Ông cần phải tôn trọng, cung kính, chí thành kiên cố, tu hành như lý.
Phật giảng nói kinh này rồi, Bồ-tát Hải Ý, chúng Đại Bồ-tát cùng với hàng, Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà ở thế gian, tất cả các đại chúng nghe Phật giảng nói rồi, đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
KINH NHỮNG ĐIỀU BỒ-TÁT HẢI Ý HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN
HẾT