KINH NHỮNG ĐIỀU BỒ-TÁT HẢI Ý HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa-môn Duy Tịnh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 10

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hải Ý bạch Phật:

–Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Người tu Đại thừa tạo lợi ích rất nhiều cho tất cả chúng sinh. Nghĩa là các Thiên nhân thọ hưởng niềm vui của trời người mới có thể gần gũi niềm vui tối thắng vi diệu của Niết-bàn. Bạch Thế Tôn! Có bao nhiêu loại pháp để có thể tùy chuyển, nhiếp thọ? Có bao nhiêu pháp có thể thường làm ở trong Đại thừa? Lại có bao nhiêu pháp rất khó làm ở trong Đại thừa? Lại có bao nhiêu pháp làm tăng trưởng Đại thừa? Lại có bao nhiêu pháp là chướng nạn ở trong Đại thừa? Bạch Thế Tôn! Lại vì duyên gì mà gọi là Đại thừa?

Phật bảo Bồ-tát Hải Ý:

–Ông nên nghe kỹ. Nay ta sẽ giảng nói. Hải Ý nên biết! Có một loại pháp Đại thừa thâu nhận. Loại pháp đó là gì? Đó là không quên mất tâm đại Bồ-đề, lại không phóng dật.

Này Hải Ý! Lại có một pháp Đại thừa thâu nhận, đó là tin mọi việc làm đều mang theo nghiệp báo.

Lại có một pháp, đó là phát khởi chánh kiến, đối với pháp duyên sinh không chống trái.

Lại có một pháp, đó là lìa ái, phi ái, đối với tất cả chúng sinh khởi tam bình đẳng.

Lại có một pháp, đó là an trú theo đại Từ để tự cứu độ.

Lại có một pháp, đó là khởi tâm đại Bi, không tham đắm cái vui của mình.

Lại có một pháp, đó là mong cầu Phật thân, tùy niệm nơi Phật.

Lại có một pháp, đó là nương pháp chân tu tùy niệm Pháp.

Lại có một pháp, đó là an trú trong chúng bất thoái chuyển, tùy niệm Chúng.

Lại có một pháp, đó là dứt trừ tất cả phiền não, tùy niệm Xả.

Lại có một pháp, đó là thường không quên mất tâm Bồ-đề nên tùy niệm Giới.

Lại có một pháp, đó là an trú nơi pháp thanh tịnh, tùy niệm Thiên.

Lại có một pháp, đó là tùy trụ lợi lạc khiến người hoan hỷ.

Lại có một pháp, đó là trụ nơi ý kiên cố, vui muốn cực thiện.

Lại có một pháp, đó là khởi tâm hoan hỷ vì tất cả chúng sinh mở bày giải thoát.

Lại có một pháp, đó là từ pháp sâu xa như lý xuất sinh, dốc cầu chánh pháp.

Lại có một pháp, đó là không vì tâm tài lợi mà hành pháp thí.

Lại có một pháp, đó là đối với người nghe pháp, khởi tưởng là bệnh nhân.

Lại có một pháp, đó là đối với pháp đã giảng nói, tưởng như thuốc hay, người đã thuyết pháp tưởng như Y vương.

Lại có một pháp, đó là thường hộ vệ khiến pháp tồn tại lâu dài.

Lại có một pháp, đó là khiến hạt giống Tam bảo không đoạn, không tuyệt.

Lại có một pháp, đó là không tham, tương tục thường xuyên sinh hỷ túc.

Lại có một pháp, đó là xả bỏ các sở hữu, không khởi ái trước.

Lại có một pháp, đó là tự giữ giới và thường ngăn chặn các người phá giới.

Lại có một pháp, đó là đối với người làm ác, không xem xét lỗi của họ, mà an trú nơi nhẫn.

Lại có một pháp, đó là đối với người làm lành, phát khởi giúp đỡ và an trú nhẫn.

Lại có một pháp, đó là đối với người bội ơn, khởi tuệ thương yêu.

Lại có một pháp, đó là đối với người biết ơn, khởi lòng thương cung kính.

Lại có một pháp, đó là đối với người vô trí, không khởi tâm kiêu mạn.

Lại co một pháp, đó là đối với người có trí theo họ thọ học.

Lại có một pháp, đó là với thiện căn sâu bền, tâm không chán bỏ.

Lại có một pháp, đó là đối với các pháp thiện, tâm luôn theo đuổi.

Lại có một pháp, đó là không dua nịnh quanh co nên ba giới thanh tịnh.

Lại có một pháp, đó là đối với người thuyết pháp, ái kính phụng sự tưởng như tôn sư.

Lại có một pháp, đó là bỏ các sách vở ngoại đạo, khéo nghe chánh pháp.

Lại có mot pháp, đó là tu các thiện căn, tuy là gian khổ, ở trong sinh tử, cũng không mệt mỏi.

Lại có một pháp, đó là đối với chư Phật Như Lai hiện trú ở đời và đã nhập Niết-bàn, phụng sự cúng dường không chán nản.

Lại có một pháp, đó là làm bạn không mời thỉnh của các chúng sinh.

Lại có một pháp, đó là dùng tâm không nương, không giữ, không đắm, mà tu bốn Nhiếp pháp.

Lại có một pháp, đó là hiểu rõ các tội lỗi của tại gia, rồi ưa xuất gia.

Lại có một pháp, đó là đối với sự nghiệp Chánh sĩ thường khai triển.

Lại có một pháp, đó là việc làm quyết định, trụ đạo Bồ-đề, tu thêm thắng hạnh.

Lại có một pháp, đó là đối với người đồng trụ Đại thừa, không sinh buồn giận.

Lại có một pháp, đó là dạy trao tâm pháp Bồ-đề, không sinh mệt mỏi.

Lại có một pháp, đó là khéo hộ pháp bí mật, khiến không tan hoại.

Lại có một pháp, đó là thường nên siêng cầu trí pháp thiện xảo.

Lại có một pháp, đó là dùng lời chân thật kiến lập pháp tràng.

Lại có một pháp, đó là đã phát thệ nguyện phải khiến hoàn mãn.

Lại có một pháp, đó là dùng tâm không biến đổi để hành bố thí.

Lại có một pháp, đó là thường nên hiểu rõ việc làm của các ma.

Lại có một pháp, đó là thường phải phát khởi trí nghiệp lìa mạn.

Lại có một pháp, đó là xa lìa bạn be, ưa ở chỗ thanh vắng.

Lại có một pháp, đó là lìa tăng thượng mạn và tâm cao ngạo, không khởi tâm chê bai người.

Lại có một pháp, đó là tuy biết rõ các phiền não rồi nhưng cũng tùy thuận hành tướng thế gian.

Lại có một pháp, đó là sinh họat thanh tịnh để tự nuôi sống, lìa các tham nhiễm.

Lại có một pháp, đó là tương ưng với sự sâu bền thường ngồi nơi vắng vẻ.

Lại có một pháp, đó là tuy đa văn nhưng thường định tĩnh.

Lại có một pháp, đó là như lý chánh tu hành địa Du-già.

Lại có một pháp, đó là như thật quán sát cảnh giới pháp không.

Lại có một pháp, đó là đối với lợi hay suy, tâm không phân biệt.

Lại có một pháp, đó là sợ chỗ ồn ào, một mình ở chốn núi rừng.

Lại có một pháp, đó là nếu được pháp lợi, cùng chia sẻ cho người.

Lại có một pháp, đó là trí khéo hiểu bốn Thánh đế.

Lại có một pháp, đó là đối với các pháp trí không tiếc giấu.

Lại có một pháp, đó là vì người chưa học, thành tựu việc học cho ho, mà tâm không thấy cao hơn.

Lại có một pháp, đó là hoặc được hoặc mất, tin tưởng nghiệp báo, không sinh nhiệt não.

Lại có một pháp, đó là đối với người cung kính nghe pháp thì khéo vì họ giảng nói pháp.

Lại có một pháp, đó là đối với thân hữu, lìa các tham ái, đối với tất cả chúng sinh khởi tâm bình đẳng.

Lại có một pháp, đó là đối với pháp sư thuyết pháp không khởi tâm dua nịnh mà thường tán thán.

Lại có một pháp, đó là dùng tâm điều thuận gánh vác tất cả chúng sinh.

Lại có một pháp, đó là đối với các Ba-la-mật, tương ưng dốc cầu.

Lại có một pháp, đó là tinh tấn trưởng nuôi dưỡng đạo hạnh Bồđề.

Lại có một pháp, đó là kiến lập tín căn, khiến không động chuyển.

Lại có một pháp, đó là ở trong quốc thành không phải không thọ thực.

Lại có một pháp, đó là tích tập bảy thứ Thánh tài không để thiếu thốn.

Lại có một pháp, đó là trong lòng chân thật, mạng căn an ổn vững vàng.

Lại có một pháp, đó là dùng phương tiện khéo léo, thành tựu đầy đủ cho chúng sinh.

Lại có một pháp, đó là vì hành pháp thí nên khéo thâu giữ pháp.

Lại có một pháp, đó là lìa các tranh luận, thuyết pháp tối thượng.

Lại có một pháp, đó là dùng tâm không thủ đắc, nghe thọ chánh pháp.

Lại có mot pháp, đó là xa lìa cấu nhiễm của Sa-môn để thành tựu Sa-môn.

Lại có một pháp, đó là dùng tâm không nhiễm ái vào vương thành, xóm làng.

Lại có một pháp, đó là thường nên quán sát lỗi lầm, khéo hộ trì tất cả chung sinh.

Lại có một pháp, đó là từ bỏ các nghề nghiệp tạp nhạp của thế gian.

Lại có một pháp, đó là đối với Thiện tri thức cần phải thành thật.

Lại có một pháp, đó là tự tâm thanh tịnh rồi, lại khởi trí khiến tat cả tâm chúng sinh được thanh tịnh.

Lại có một pháp, đó là không hư dối nên nội tâm thanh tịnh.

Lại có một pháp, đó là hướng đến đạo tối thắng nên thâm tâm thanh tịnh, rồi dùng pháp này khéo làm cho phương tiện thắng nghiệp thanh tịnh.

Lại có một pháp, đó là phước thanh tịnh rồi thì các tướng thanh tịnh.

Lại có một pháp, đó là trí thanh tịnh rồi, phiền não thanh tịnh.

Lại có một pháp, đó là chúng sinh thanh tịnh rồi thì cõi nước thanh tịnh.

Lại có một pháp, đó là tuy quán vô tướng nhưng khéo hồi hướng.

Lại có một pháp, đó là tu nhẫn tùy thuận.

Lại có một pháp, đó là đối với ba cửa giải thoát, thường nên quán sát tu tập xuất ly.

Lại có một pháp, đó là trụ vô sở trụ.

Lại có một pháp, đó là chứng trí lậu tận thần thông diệu dụng.

Lại có một pháp, đó là trụ chỉ quán, việc làm thành tựu, đắc minh giải thoát.

Lại có một pháp, đó là siêng tu tuệ thuộc về phương tiện.

Lại có một pháp, đó là trụ trong ba cõi chứng đắc Bồ-đề tràng trang nghiêm.

Lại có một pháp, đó là tất cả pháp bình đẳng, hiện thành Chánh giác.

Lại có một pháp, đó là thâu nhận Đại thừa, nghĩa là tự tánh vô tánh của tất cả pháp vô sinh vô khởi. Biết như thế rồi liền đắc pháp Nhẫn vô sinh.

Này Hải Ý! Đó là một pháp có thể thâu giữ Đại thừa. Những pháp của một pháp có thể thâu giữ Đại thừa như vậy rồi, còn các việc nương tựa, thâu giữ khác đều lìa bỏ.

Lại nữa, Hải Ý! Có hai pháp ở trong Đại thừa có thể làm nhiều.

Những gì là hai?

  1. Đối với pháp Phật, sinh tin hiểu thanh tịnh.
  2. Chẳng ưa pháp Thanh văn, Duyên giác thừa.

Lại có hai pháp, ở trong Đại thừa khó làm. Những gì là hai?

  1. Tự mình giải thoát khéo giúp người chưa giải thoát.
  2. Theo họ, vì họ mà thuyết pháp giải thoát.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thường không hoại diệt tâm đại Bồ-đề.
  2. Quán sát chúng sinh, khéo vì họ mà kiến lập.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quán tâm Bồ-đề giống như pháp huyễn.
  2. Quán tất cả chúng sinh đều vô ngã.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tâm không nhàm chán xa lìa.
  2. Phương tiện tu hành không hư giả.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Nội tâm thanh tịnh để làm căn bản.
  2. Vì không tạo tác, không không tạo tác nên tu các phước hạnh.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Siêng tu nơi phương tiện thiện căn.
  2. Phương tiện tu hành khiến cho rốt ráo.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Không hý luận nên tu phương tiện.
  2. Phương tiện tu hành trụ nơi cứu cánh nên tâm thanh tịnh.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thâm tâm hướng đến thắng đạo.
  2. Trong pháp tối thắng tạo chỗ duyên tối thắng.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Nói ra sự ăn năn lỗi mình.
  2. Khiến người hết tội.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Bỏ các sở hữu.
  2. Không cầu quả báo.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Khởi tâm bình đẳng hành bố thí.
  2. Thường khéo hồi hướng.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Giữ giới không khuyết.
  2. Không cầu sinh Thiên.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Đối với người hủy giới khởi tâm thương yêu.
  2. Tự đầy đủ giới đức mà không khởi cao ngạo.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Ưa thích nhẫn nhục.
  2. Hồi hướng Bồ-đề.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Lìa bỏ tâm tự cao.
  2. Tôn kính người nhẫn.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Phát khởi tinh tấn, cầu các pháp lành.
  2. Đối với các căn lành sinh tâm hoan hỷ.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Thân tâm tịch tĩnh.
  2. Tâm lìa nương tựa.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tích tập thiền chi.
  2. Tâm nghiệp tự tại.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Không tham đắm thiền vị.
  2. Không chán Dục giới.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Siêng cầu chánh pháp.
  2. Thường sinh pháp mong muốn.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quán sát pháp.
  2. Ở nơi pháp tịch định.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Gần gũi bạn lành.
  2. Đối với sư trưởng tăng thêm tôn trọng.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Chuyên cần phụng sự.
  2. Khéo nói tùy thuận.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Đúng thời hay phi thời thường thưa hỏi.
  2. Theo nghĩa đạt được ghi nhận vào tâm.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tu trí nghĩa.
  2. Tu trí pháp.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Văn tài không chán.
  2. Văn tuệ không chán.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quán sát pháp sâu bền.
  2. Xa lìa pháp không sâu bền.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Như lý vì người nói pháp.
  2. Đối với người nghe pháp khởi tâm thương yêu.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Không tiếc pháp.
  2. Tâm không vì tài lợi vì người nói pháp.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Đình chỉ nghe việc ngoài.
  2. Thâu giữ các tâm.

Lại có hai việc khó làm:

  1. Dứt trừ năm cái.
  2. Tu bảy Giác phần.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Đạt được hoan hỷ.
  2. Tương ưng hỷ thọ.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Biết pháp biết lượng.
  2. Tự biết cảnh giới mình.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tin ở nghiệp báo.
  2. Khéo tu thắng hạnh.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Biết rõ các nghiệp báo tội lỗi.
  2. Tăng trưởng tất cả pháp thiện.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Nói lời thành thật.
  2. Không dối Thánh nhân.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Có thể làm như lời nói.
  2. Không hoại Phật nhãn.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thân nghiệp thanh tịnh.
  2. Lìa ba điều bất thiện về thân.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quán thân giống như ảnh tượng.
  2. Quán như cỏ cây ngói đá.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Ngữ nghiệp thanh tịnh.
  2. Lìa bốn lỗi về lời nói.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tỏ ngộ pháp bất khả thuyết.
  2. Trí rõ các âm thanh như tiếng vang.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tâm nghiệp thanh tịnh.
  2. Xa lìa tham sân tà kiến.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Nội tâm dừng lặng.
  2. Bên ngoài không giong ruổi.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tu quán tâm Từ.
  2. Đối với các chúng sinh khởi tâm bình đẳng. Lại có hai pháp khó làm:
  3. Tâm như hư không, thanh tịnh vô cấu.
  4. Tự độ độ tha, khéo hồi hướng.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thường không xa lìa tâm đại Bi.
  2. Siêng tu thiện căn không mệt mỏi.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quán sát vô sinh.
  2. Khéo hộ xuất ly.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Du hành nơi vườn pháp.
  2. Trừ tâm chán nản xa lìa.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Viên mãn pháp tịch mặc.
  2. Khiến người chưa đủ pháp luôn tu hành.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Lìa bỏ ái nhiễm.
  2. Dứt các tổn hại.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tu hạnh xả.
  2. Quán sát chúng sinh mà không thấy gian khổ.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tu quán niệm Phật.
  2. Trụ nơi vô niệm mà khởi tâm niệm.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quán Pháp thân.
  2. Thành tựu thân tướng hảo.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tu quán niệm pháp.
  2. Thành tựu các pháp của chúng sinh.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quán sát lìa tham.
  2. Đối với chúng sinh hành tham, khởi tâm đại Bi.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tùy niệm các chúng Bồ-tát.
  2. Quy hướng chúng Bất thoái chuyển.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quán sát vô vi.
  2. Hộ người đắc quả.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tùy niệm giới.
  2. Thường không quên mất tâm đại Bồ-đề.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quán sát giới không gia hạnh.
  2. Thâu giữ ngăn chặn chúng sinh phá giới.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tùy niệm xả.
  2. Xả rồi không sinh hối tiếc.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Dứt trừ phiền não của mình.
  2. Vì chúng sinh thuyết pháp đoạn phiền não cho họ.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tùy niệm thiên.
  2. Không cầu sinh thiên.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Trụ tuệ chánh niệm.
  2. Khiến người tâm tán loạn trụ nơi niệm xứ.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tăng tu phước hạnh.
  2. Tăng tu trí hạnh.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Khéo tu trí vô gia hạnh.
  2. Đối với các phước hạnh không sinh chán nản, xa lìa.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Siêu việt các thứ chấp trước.
  2. Đối với các ái chấp đều có thể giải thoát.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Ưa muốn thiện cao tột.
  2. Không sinh dua nịnh dối trá.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tri ân.
  2. Báo ân.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Đoạn trừ dục tham.
  2. Đối với dục pháp thiện, không chán bỏ.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Nói ra sự hối cải các tội lỗi.
  2. Không gây các tội lỗi.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Không làm ác.
  2. Không khởi tùy miên.

Lại có hai việc thường làm:

  1. Tùy hỷ phước của người.
  2. Không chán phước mình.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Đối với tất cả tội, khởi trí diệt tận.
  2. Đối với tất cả phước khởi trí nuôi dưỡng tăng trưởng.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Khuyến thỉnh chư Phật.
  2. Hộ trì chánh pháp.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Biết pháp giới vốn không phân biệt.
  2. Trí khéo phân biệt nói các cú nghĩa.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Khéo biết hồi hướng.
  2. Tùy theo chỗ hồi hướng, cùng tất cả chúng sinh đều hồi hướng.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quyết trạch tướng vô.
  2. Tu tướng các cõi.

Lại có hai việc thường làm:

  1. Quán không.
  2. Quán chiếu chúng sinh.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tuệ khởi, không có sự vui mừng.
  2. Theo phương tiện mà có niềm vui.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Mong cầu thiện căn.
  2. Vì các chúng sinh thành tựu thiện căn.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tu tập vô nguyện.
  2. Tích tập trí sở sinh.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Không chấp trước.
  2. Không động.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Không kiêu mạn.
  2. Ưa thích an lạc.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Ưa ở chỗ tịch tĩnh.
  2. Lãnh nạp công đức tịch tĩnh.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tu hạnh tịch tĩnh.
  2. Tự độ và độ tất cả chúng sinh.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thiểu dục.
  2. Tri túc.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tỉnh táo quán sát phiền não của mình.
  2. Quán xét, đoạn trừ phiền não của tất cả chúng sinh.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thường cảnh tỉnh lỗi mình.
  2. Không quán lỗi người.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tự xa lìa cao ngạo.
  2. Không hủy báng.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quán ngã là vô ngã.
  2. Quán chúng sinh là vô chúng sinh.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. An định.
  2. Quán sát.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thường tự hành bố thí.
  2.  Nhận của người bố thí.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Xuất ly luân hồi.
  2. Cứu độ tất cả chúng sinh trong luân hồi.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Siêng cầu Ba-la-mật.
  2. Tùy theo các Ba-la-mật-đa đã cầu, trụ như đã nói.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Đắc trí hiện lượng.
  2. Thành tựu trí khác.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Không cầu danh vọng, lợi dưỡng thế gian.
  2. Siêng cầu chánh pháp.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Vì người không có lợi ích, làm cho họ lợi ích.
  2. Người đã là lợi ích rồi khiến tăng thêm mãi.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thực hiện đại Từ không giới hạn.
  2. Thực hành đại Bi không gián đoạn.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Người đã được độ thoát làm cho chứng ngộ.
  2. Người chưa được độ vì họ mà cứu độ.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Vì các chúng sinh thành tựu công đức.
  2. Đối với chúng sinh vô đức, khởi tâm đại Bi.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Người không có lợi ích, làm hạnh lợi ích.
  2. Đã làm lợi ích rồi, không khởi tưởng nào khác.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thường khởi quán Thân niệm xứ.
  2. Thân trụ thanh tịnh.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tác quán tùy niệm thân trong thân.
  2. Không cùng thân đồng khởi tầm từ và đạo tầm tứ.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thường tác quán Thọ niệm xứ.
  2. Đối với cảm thọ khổ lạc… không lãnh nạp.

Lại có hai việc khó làm:

  1. Tác quán tùy niệm thọ trong thọ.
  2. Không cùng thọ đồng khởi tầm tứ và đạo tầm tứ.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thường tác quán Tâm niệm xứ.
  2. Tâm trụ thanh tịnh.

Lại có hai việc khó làm:

  1. Tác quán tùy niệm tâm trong tâm.
  2. Không cùng tâm đồng khởi tầm tứ và đạo tầm tứ.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thường tác quán Pháp niệm xứ.
  2. Thường khởi trí quyết trạch pháp.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tác quán niệm xứ pháp trong pháp.
  2. Không cùng pháp đồng khởi tầm tứ và đạo tầm tứ.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Đoạn trừ tất cả pháp bất thiện đã sinh.
  2. Có thể giữ gìn tất cả pháp thiện đã sinh.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Các pháp bất thiện chưa sinh phòng hộ khiến không sinh.
  2. Tất cả pháp thiện chưa sinh, phải làm cho sinh khởi.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Thường tu bốn thứ Thần túc là dục cần tâm tuệ.
  2. Nên dùng thần túc độ được chúng sinh mà khéo độ họ.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Đạt được thần biến vô gia hạnh.
  2. Pháp giới bất động có thể ở trong tất cả cõi Phật hiển hiện thần biến.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Niềm tin đã đạt được không lay chuyển.
  2. Đối với người chưa tin khiến đầy đủ lòng tin.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tự tâm không tạp nhiễm.
  2. Khiến chúng sinh tâm nhiễm được thanh tịnh.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Phát khởi các tinh tấn căn.
  2. An trú niệm căn, không sinh tán loạn.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quyết trạch khéo quán các tinh tấn căn.
  2. Không chấp trước tướng không mà khởi niệm.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Đối với định tuệ căn, siêng năng tu các hạnh.
  2. Các hạnh đã tu, không sinh mệt mỏi.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tu trí không chỗ hành.
  2. Thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, có chốn hành.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Quán các phiền não, lìa phiền não.
  2. Phiền não đã sinh, dốc cầu ra khỏi.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tất cả pháp không hòa hợp, vì vốn lìa phiền não.
  2. Ba cõi hòa hợp vì đoạn các phiền não của tất cả chúng sinh.

********

Lại nữa, này Đại Bồ-tát Hải Ý! Lại có hai pháp ở trong Đại thừa có thể thường làm:

  1. Tinh tấn tu bảy Giác chi.
  2. Thâm tâm thuyết giảng pháp Giác chi.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Không trú tận trí.
  2. Đạt Trí nhẫn vô sinh.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Khéo hành chánh đạo.
  2. Khéo biết phi đạo mà không làm.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Tu hướng Đạo trí.
  2. An lập chánh đạo.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Tùy thuận pháp duyên sinh.
  2. Lìa kiến nhị biên.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Khéo biết nhân nhiễm, duyên nhiễm của tất cả chúng sinh.
  2. Khéo biết nhân tịnh, duyên tịnh của tất cả chúng sinh.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Biết rõ việc của ma.
  2. Xa lìa việc ma.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Xa lìa các ma.
  2. Khiến các ma quy phục.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Pháp đã tận lại không chỗ tận.
  2. Pháp vô tận mà không thể tận.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Hiểu rõ xưa nay vô tận.
  2. Quán rõ sát-na hoại diệt của các pháp.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Từ mới phát tâm liền quán sát Đại Bồ-đề tràng.
  2. Quán sát Bồ-đề tràng nên không thích thừa khác.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Lúc mới phát tâm là lien xuất sinh nhân Bồ-đề tràng.
  2. Trí khởi các tâm thiện mà không chấp giữ.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Đoạn các kết sử cho kẻ sinh tử tương tục.
  2. Người có thiện căn tương tục khiến họ phát tâm không sinh chán nản.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Hoặc có phương phần hoặc không phương phần, tất cả đều đem hồi hướng về Bồ-đề vô thượng.
  2. Tuy hồi hướng Bồ-đề mà luôn khởi tâm quán rõ đều như pháp huyễn.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Khiến khap chúng sinh quán Bồ-đề.
  2. Chúng sinh đã quán Bồ-đề thì khiến họ quán giải thoát.

Lại có hai pháp khó làm:

  1. Quán sát Bồ-đề là bình đẳng nên chúng sinh cũng bình đẳng.
  2. Thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, tinh tấn không mỏi mệt.

Lại có hai pháp thường làm:

  1. Phát tâm như lý mà quyết trạch tất cả các pháp thiện.
  2. Phát tâm đại Bi, đem chúng sinh vào đạo Niết-bàn.

Này Hải Ý! Đó là hai pháp ở trong Đại thừa mà thường làm.

Lại có hai pháp ở trong Đại thừa rất khó làm:

  1. Vô sinh mà sinh.
  2. Vô khởi mà khởi.

Đó là hai pháp ở trong Đại thừa rất khó làm.

Lại nữa, này Hải Ý! Có ba pháp làm tăng trưởng Đại thừa.

Những gì là ba?

  1. Phát tâm Bồ-đề tăng tu thiện căn.
  2. Được Thiện tri thức thâu nhận không hề sinh chán mệt.
  3. Kiến lập đại Bi mà không thoái chuyển.

Lại có ba pháp làm tăng trưởng Đại thừa:

  1. Siêng tu thắng hạnh.
  2. Quán sát các hành.
  3. Ở trong thắng hạnh vì các chúng sinh mà khéo thành thục.

Lại có ba pháp:

  1. Dừng chỉ tâm xan tham.
  2. Hành thí xả rộng lớn.
  3. Hồi hướng Bồ-đề.

Lại có ba pháp:

  1. Tự tích tập tịnh giới.
  2. Theo hộ người phá giới.
  3. Hồi hướng Bồ-đề.

Lại có ba pháp:

  1. Tâm không chướng ngại.
  2. Chúng sinh sân hận khiến họ được thanh tịnh.
  3. Hồi hướng Bồ-đề.

Lại có ba pháp:

  1. Tinh tấn không mệt.
  2. Có thể hộ trì chúng sinh biếng nhác.
  3. Hồi hướng Bồ-đề.

Lại có ba pháp:

  1. Sinh theo thiền định.
  2. Không đắm chấp nơi thiền định.
  3. Hồi hướng Bồ-đề.

Lại có ba pháp:

  1. Siêng cầu đa văn.
  2. Như đa văn mà quán sát.
  3. Hồi hướng Bồ-đề.

Lại có ba pháp:

  1. Khởi tâm Từ nơi duyên chúng sinh.
  2. Khởi tâm Từ nơi duyên pháp.
  3. Khởi tâm Từ nơi không duyên.

Lại có ba pháp:

  1. Khởi tâm Bi nơi việc làm của chính mình.
  2. Khởi tâm Bi vì việc làm của người khác.
  3. Khởi tâm Bi vì lìa nhị biên.

Lại có ba pháp:

  1. Siêng cầu trí tự lợi.
  2. Siêng cầu trí lợi tha.
  3. Siêng phát khởi tinh tấn, tự lợi và lợi tha đều viên mãn.

Lại có ba pháp:

  1. Biết trí quá khứ đã qua.
  2. Biết trí vị lai chưa đến.
  3. Trí hiện tại trú pháp giới.

Lại có ba pháp:

  1. Khởi Từ phương tiện với chúng sinh chánh định.
  2. Khởi Từ giải thoát với chúng sinh bất định.
  3. Khởi Từ đại cứu độ với chúng sinh tà định.

Lại có ba pháp:

  1. Đắc lạc thọ nên thân nghiệp thong dong.
  2. Khéo hộ người khác nên lời nói dịu dàng.
  3. Hành dụng chánh nghiệp nên tâm nghiệp bao dung.

Lại có ba pháp:

  1. Tuy tu quán bất tịnh nhưng đối với chúng sinh hành tham không hề sinh lòng chán ghét.
  2. Tuy tu quán từ tâm nhưng đối với chúng sinh hành sân không sinh lòng chán xa.
  3. Tuy tu quán duyên sinh nhưng đối với chúng sinh hành si không hề sinh lòng chán ghét.

Lại có ba pháp:

  1. Vì lợi ích mà tu thắng hạnh.
  2. Hoan hỷ thường biết đủ.
  3. Luôn luôn trong lặng không hề nhiệt não.

Lại có ba pháp:

  1. Giữ gìn chỗ nghe.
  2. Đạt văn cú Tổng trì.
  3. Nhập trí Thánh đoạn dứt việc trước sau.

Lại có ba pháp:

  1. Vì thâu giữ bảy Thánh tài nên không hề thiếu thốn.
  2. Vì pháp thí vô ngại nên có thể hành đại Xả.
  3. Tất cả tài lợi vì chia nhiều phần để thí Xả nên thường đắc đại phú.

Lại có ba pháp:

  1. Vì Thánh đế nên nhập Thắng nghĩa đế.
  2. Vì chân thật nên không hư dối.
  3. Vì chân thường nen không biến đổi.

Lại có ba pháp:

  1. Tự biết nay mình phải làm gì.
  2. Biết chúng sinh sẽ phải làm gì.
  3. Biết thời, hiểu rõ các phần vị của thời và phi thời.

Lại có ba pháp:

  1. Uẩn và pháp uẩn đều bình đẳng.
  2. Giới và pháp giơi bình đẳng.
  3. Quán xứ như hư không.

Lại có ba pháp:

  1. Không hủy hoại nhân quả.
  2. Khéo trưởng dưỡng các duyên.
  3. Cùng nhau hòa hợp thể nhập.

Lại có ba pháp:

  1. Không trái nghịch với Phật.
  2. Không hủy báng Pháp.
  3. Không khinh mạn chúng Tăng mà thường tôn trọng, cung kính, thừa sự.

Lại có ba pháp:

  1. Dừng chỉ tâm tham.
  2. Xa lìa nơi sân.
  3. Hiểu rõ về si.

Lại có ba pháp:

  1. Nhập thế tục đế.
  2. Nói tướng chân thật.
  3. Hiểu rõ Thắng nghĩa đế vô trụ.

Lại có ba pháp:

  1. Đối với chúng sinh không khởi khinh mạn.
  2. Đối với A-la-hán thường sinh tôn kính.
  3. Không bị sự ràng buộc của phiền não.

Lại có ba pháp:

  1. Không nhiễm Dục giới.
  2. Không thích Sắc giới.
  3. Không tham đắm Vo sắc giới.

Lại có ba pháp:

  1. Đối với suy, chê, trách, khổ, tâm không tự ty.
  2. Đối với lợi, khen, đề cao, vui tâm không tự tôn.
  3. Không nhiễm tám pháp của cõi đời, giống như núi Tu-di an trú bất động.

Lại có ba pháp:

  1. Các căn ẩn mật.
  2. Khéo hiểu các kết sử.
  3. Khéo điều phục tâm.

Lại có ba pháp:

  1. Kiến lập phần vị công đức.
  2. Có thể xa lìa phần vị lầm lỗi.
  3. Ở nơi mọi phần vị luôn khéo thắng tấn.

Lại có ba pháp:

  1. Nội tâm khởi trí thắng thượng.
  2. Thâm tâm khởi trí sai biệt.
  3. Theo phương tiện khởi trí an lập.

Lại có ba pháp:

  1. Định thanh tịnh rồi đắc giới học thắng thượng.
  2. Tuệ viên mãn rồi đắc tâm học tăng thượng.
  3. Giải thoát viên mãn rồi đắc tuệ học tăng thượng.

Lại có ba pháp:

  1. Lạc thọ đoạn trừ tham ái.
  2. Khổ thọ đoạn trừ sân hận.
  3. Không khổ không lạc đoạn trừ vô minh.

Lại có ba pháp:

  1. Tuy chuyển nhân mà vô gia hạnh.
  2. Tuy chuyển phiền não mà vô phân biệt.
  3. Tuy chuyển ba cõi mà không nguyện.

Lại có ba pháp:

  1. Quyết trạch nơi Không, xa lìa các kiến.
  2. Quyết trạch về Vô tướng, dừng chỉ tầm tứ.
  3. Quyết trạch về Vô nguyện ba cõi tịch diệt.

Lại có ba pháp:

  1. Nhãn không.
  2. Cảnh sắc lìa tánh.
  3. Nhãn thức vô trú.

Lại có ba pháp:

  1. Nhĩ không.
  2. Cảnh thanh lìa tánh.
  3. Nhĩ thức vô trú.

Lại có ba pháp:

  1. Tỷ không.
  2. Cảnh hương lìa tánh.
  3. Tỷ thức vô trú.

Lại có ba pháp:

  1. Thiệt không.
  2. Cảnh vị vô tánh.
  3. Thiệt thức vô trú.

Lại có ba pháp:

  1. Thân không.
  2. Cảnh xúc lìa tánh.
  3. Thân thức vô trú.

Lại có ba pháp:

  1. Ý không.
  2. Cảnh pháp lìa tánh.
  3. Ý thức vô trú.

Lại có ba pháp:

  1. Mật tu nơi giới.
  2. Khéo hộ nơi định.
  3. Quyết trạch ở tuệ.

Lại có ba pháp:

  1. Tu niệm gìn giữ chánh pháp.
  2. Tu tuệ quán sát lâu bền.
  3. Tu hành biết rõ nghĩa hành.

Lại có ba pháp:

  1. Tùy trú trong Thánh đế của Thanh văn mà nói pháp giải thoát.
  2. Tùy trú nơi pháp duyên sinh của Duyên giác mà nói pháp giải thoát.
  3. Tùy trú nơi các thắng hạnh của sáu Ba-la-mật của Bồ-tát mà nói pháp giải thoát.

Lại có ba pháp:

  1. Xả: Nghĩa là xả thí tất cả châu báu.
  2. Đại xả, nghĩa là xả vợ con, tôi tớ, quyến thuộc.
  3. Cực xả, nghĩa là xả đầu, mắt, chân, tay… của thân.

Lại có ba pháp:

  1. Hộ trì chánh pháp.
  2. Hộ trì các pháp sư thuyết pháp.
  3. Hộ trì pháp Đại thừa.

Lại có ba pháp:

  1. Không lam cho sinh tử tương tục.
  2. Giác ngộ lỗi lầm của sinh tử.
  3. Xa lìa nghiệp tội của sinh tử.

Lại có ba pháp:

  1. Tâm không bị ngăn che mà nghe nhận chánh pháp.
  2. Tâm không tùy niệm mà thường an tọa.
  3. Dùng tâm xuất ly mà tu hành chân chánh.

Lại có ba pháp:

  1. Chỗ nghe nương nơi nghĩa.
  2. Quán sát dựa vào trí.
  3. Giải thoát dựa vào pháp.

Lại có ba pháp:

  1. Bậc đa văn thích ở vắng lặng.
  2. Trú trong vắng lặng rồi tác ý sâu bền.
  3. Tác ý tương ưng sâu bền mà có thể thấu đạt các pháp bình đẳng.

Lại có ba pháp:

  1. Cung kính bậc Trí.
  2. Thỉnh vấn bậc đa văn.
  3. Hộ trì bậc tu định.

Lại có ba pháp:

  1. Không dùng tâm đắc lợi mà hành pháp thí.
  2. Đối với người thính pháp dùng tâm Từ thâu nhận.
  3. Khởi chỗ làm hiện tiền của tâm Nhất thiết trí.

Lại có ba pháp:

  1. Tâm bình đẳng nên chúng sinh bình đẳng.
  2. Không có chủng chủng tính nên các pháp bình đẳng.
  3. Trí bình đẳng nên chư Phật bình đẳng.

Lại có ba pháp:

  1. Trí biết ba đời bình đẳng.
  2. Tuệ rõ tâm giải thoát bình đẳng.
  3. Tỏ ngộ ba cõi bình đẳng.

Lại có ba pháp:

  1. Khéo quán sát các hành là vô thường, là khổ.
  2. Khéo quán sát các pháp vô ngã.
  3. Khéo quán Niết-bàn vắng lặng.

Lại có ba pháp:

  1. Vì thệ nguyện chân thật nên trú rốt ráo.
  2. Chỗ nghe chân thật, như lý tu hành.
  3. Tam-ma-địa chân thật nên phát sinh Thắng tuệ.

Lại có ba pháp:

  1. Tội đã tạo không hề che giấu.
  2. Tội chưa tạo ngăn ngừa không khởi.
  3. Tất cả nghiệp tội hiện có đều sám hối diệt trừ.

Lại có ba pháp:

  1. Xa lìa việc làm ác.
  2. Xa lìa tùy miên.
  3. Xa lìa nghi hoặc.

Lại có ba pháp:

  1. Thích ở chốn vắng lặng.
  2. Xa lìa tham ái.
  3. Phát khởi pháp thiện.

Lại có ba pháp:

  1. Trú pháp nhẫn sâu.
  2. Thuyết vô lượng pháp.
  3. Thông đạt biện tài tất cả xứ.

Lại có ba pháp:

  1. Chỗ nghe quyết định Tổng trì.
  2. Được Phật gia trì biện tài.
  3. Các chỗ thuyết pháp được Thánh hiền thâu giúp.

Lại có ba pháp:

  1. Mới phát tâm bình đẳng như mặt đất.
  2. Các hành rốt ráo, các hành tương tục.
  3. Tuy chuyển các tưởng mà trú nơi Bất thoái chuyển.

Lại có ba pháp:

  1. Chỗ nghe vien mãn thành tựu pháp nhẫn.
  2. Nghĩ về sự thành tựu pháp nhẫn mà không đổi mất.
  3. Đạt được pháp Nhẫn vô sinh.

Lại có ba pháp làm tăng trưởng Đại thừa:

  1. Tuệ cùng với phương tiện hòa hợp, tu các đạo hạnh.
  2. Đại Từ, đại Bi hòa hợp, thành thục cho chúng sinh.
  3. Tinh tấn, không phóng dật hòa hợp hộ trì chánh pháp. Này Hải Ý! Đó là ba pháp làm tăng trưởng Đại thừa.

Lại nữa, này Hải Ý! Có bốn pháp làm chướng ngại ở trong Đại thừa. Những gì là bốn?

  1. Lãnh hội đều xấu ác, nghĩa là tìm học các sách vở của ngoại đạo.
  2. Không nghe nhận tạng chánh pháp, sáu Ba-la-mật của Bồ-tát.
  3. Tâm mạn tăng thượng khởi các nghiệp ma.
  4. Nghiệp chướng đeo đuổi, hủy báng chánh pháp.

Lại có bốn pháp làm chướng ngại ở trong Đại thừa:

  1. Tham ái.
  2. Sân hận.
  3. Ngu si.
  4. Phiền não đầy dẫy, không cầu công đức của pháp thiện.

Lại có bốn pháp:

  1. Đố kỵ kẻ khác để mình được lợi.
  2. Dua nịnh để gần gũi với các pháp sư.
  3. Khởi tuệ thông lợi, làm việc lợi ích theo kiểu cuồng vọng.
  4. Dùng tâm không thật làm chuyện hư dối.

Lại có bốn pháp:

  1. Đối với bạn lành mà nghĩ tưởng là bạn ác.
  2. Đối với bạn ác mà tưởng là bạn lành.
  3. Ở trong phi pháp mà nghĩ tưởng là chánh pháp.
  4. Ở trong chánh pháp mà nghĩ tưởng là phi pháp.

Lại có bốn pháp:

  1. Thường khởi tâm keo kiệt.
  2. Thấy người ăn xin liền khởi tâm tổn hại lầm lỗi.
  3. Bố thí rồi sinh tâm luyến tiếc.
  4. Khởi tâm trái nghịch với Nhất thiết trí.

Lại có bốn pháp:

  1. Theo tâm dục hành thí.
  2. Tâm lỗi lầm hành thí.
  3. Bố thí tâm sợ hãi. 4. Bố thí tâm ngu si.

Lại có bốn pháp:

  1. Vì cầu danh tiếng mà bố thí.
  2. Vì cầu lời khen tốt mà bố thí.
  3. Cầu tiếng thơm mà bố thí.
  4. Vì cầu khen ngợi mà bố thí.

Lại có bốn pháp:

  1. Vì tình nghĩa mà bố thí.
  2. Vì có lý do mà bố thí.
  3. Bố thí vì sự mờ ám.
  4. Không tự tay bố thí.

Lại có bốn pháp:

  1. Dùng vật thô bố thí.
  2. Bố thí mà không trân trọng.
  3. Bố thí không cung kính.
  4. Bố thí mà khởi tăng thượng mạn.

Lại có bốn pháp:

  1. Dùng dao bén bố thí.
  2. Dùng độc dược bố thí.
  3. Pháp thí không có phép tắc.
  4. Bố thí với tâm tổn hại.

Lại có bốn pháp:

  1. Đối với người trì giới mà sinh lòng sân hận.
  2. Đối với người phá giới không hề giúp đỡ mà khởi tâm tổn hại họ.
  3. Sự tu giới của mình thường bị tạp loạn.
  4. Đối với người thuyết giới mà khởi lòng sát hại.

Lại có bốn pháp:

  1. Thích cầu tài lợi dầu cho gian khổ.
  2. Nếu được tài lợi mà không chia phần đồng đều cho kẻ khác.
  3. Không muốn người đạt được lợi dưỡng.
  4. Chính mình được lợi mà không hề biết đủ.

Lại có bốn pháp:

  1. Thân luồn cúi, không có đạo hạnh oai nghi.
  2. Lời nói quanh co không thật.
  3. Tâm khúc mắc tạo tác các tội.
  4. Tất cả chỗ khúc mắc là vì không nuôi dưỡng thân mạng một cách thanh tịnh.

Lại có bốn pháp:

  1. Đối với người đồng trú Đại thừa khởi tâm sân nhuế.
  2. Vì tăng thượng mạn nên không thể hiểu rõ các việc ma.
  3. Nghe điều chẳng chân chánh thì liền vui làm.
  4. Nghe các điều thiện công đức, thì sinh phiền não.

Lại có bốn pháp:

  1. Vì kiêu mạn nên không thể gần gũi chánh pháp.
  2. Đối với pháp sư thuyết pháp không khởi lòng tôn trọng.
  3. Đối với phụ mẫu, sư trưởng, thân giáo sư không sinh lòng quy kính.
  4. Thân tâm hung dữ, các chỗ khởi làm thường sinh lòng trái nghịch.

Lại có bốn pháp:

  1. Xiển dương đức hạnh của mình.
  2. Che giấu đức hạnh người khác.
  3. Bị ngã mạn thiêu đốt.
  4. Hung dữ, sân giận.

Lại có bốn pháp:

  1. Biếng nhác.
  2. Hôn trầm.
  3. Không chánh thuận.
  4. Chấp trước.

Lại có bốn pháp:

  1. Không điều phục.
  2. Không tịch tĩnh.
  3. Không ẩn mật.
  4. Không nhu thiện.

Lại có bốn pháp:

  1. Còn cạn cợt mà đi vào quốc thành, xóm làng.
  2. Không đủ giới Uẩn mà cầu lợi dưỡng.
  3. Không giữ gìn oai nghi mà vào nhà nữ nhân.
  4. Không trú định tâm Đẳng dẫn để thể nhập căn tánh chúng sinh.

Lại có bốn pháp:

  1. Không thể siêng tu bốn Nhiếp pháp.
  2. Xả bỏ sự thành tựu đầy đủ cho chúng sinh.
  3. Hủy báng chánh pháp, không hề hộ trì.
  4. Đối với người thuyết pháp lại sinh lòng quấy nhiễu.

Lại có bốn pháp:

  1. Ngu si, thường sinh đa dục.
  2. Sân hận, thích làm các việc lỗi lầm.
  3. Tham ái, không sinh lòng biết đủ.
  4. Cầu lợi, tâm thường không chán.

Lại có bốn pháp:

  1. Bất tín nên thường trạo cử.
  2. Thân cận bạn ác, không chán bỏ nghiệp tội.
  3. Biếng trễ, làm giảm mất pháp thiện.
  4. Phóng dật nên việc làm thiện căn đều tiêu mất.

Lại có bốn pháp:

  1. Không thể quán sát bên trong nên thường không hổ.
  2. Tuệ giải không sáng tỏ nên thường không thẹn.
  3. Ngang bằng với nghiệp vô gián nên không biết tri ân.
  4. Tuy đối với tha nhân đã không làm lợi ích mà chính mình còn đánh giết họ, lại còn vu khống cho kẻ khác.

Lại có bốn pháp:

  1. Sân.
  2. Phẫn.
  3. Hận.
  4. Hại.

Lại có bốn pháp:

  1. Thân nghiệp không thể thanh tịnh.
  2. Ngữ nghiệp không thể khéo giữ gìn.
  3. Tâm nghiệp tạp nhiễm.
  4. Ở trong Đại thừa mà sinh lòng chán mệt.

Lại có bốn pháp:

  1. Lừa dối chư Thánh.
  2. Không hộ chư Thánh.
  3. Khinh mạn thí chủ.
  4. Đối với A-la-hán khởi tăng thượng mạn.

Lại có bốn pháp:

  1. Ở nơi chúng hội mà nói lời hai lưỡi.
  2. Ở nơi sư trưởng, A-xà-lê mà phát ra ngôntừ thô ác.
  3. Đối với người đến cầu xin thì nói lời thêu dệt.
  4. Lừa dối trời, người.

Lại có bốn pháp:

  1. Không giữ gìn giới uẩn.
  2. Không vượt khỏi đời khác.
  3. Đánh mất thiện căn.
  4. Phá hoại sự trưởng dưỡng thắng hạnh.

Lại có bốn pháp:

  1. Ở trong đại chúng khởi tâm ương bướng.
  2. Ở chỗ chúng hội giữ tâm cao ngạo.
  3. Thường nói ra lời ác, muốn trốn chạy tội lỗi.
  4. Dùng lời tạp loạn mà cho là kinh điển thế gian.

Lại có bốn pháp:

  1. Không đem tâm siêng hành ở chỗ vắng lặng.
  2. Tâm nhiều tổn hại ở nơi chỗ náo nhiệt.
  3. Không trồng thiện căn mà tưởng mình có phước đức.
  4. Trộm danh Bồ-tát để cầu lợi nuôi thân.

Lại có bốn pháp:

  1. Tâm không nhu thuận.
  2. Tâm ấy thô bạo.
  3. Tâm không điều phục.
  4. Đối với chúng sinh khởi tâm phiền khổ.

Lại có bốn pháp:

  1. Ỷ lại vào sự trì giới.
  2. Ỷ lại vào đa văn.
  3. Ỷ vào chỗ trú A-lan-nhã.
  4. Ỷ lại vào công đức khổ hạnh.

Lại có bốn pháp:

  1. Cho ngã là thù thắng.
  2. Cho pháp là thù thắng.
  3. Chỉ một chút thiện căn mà cho la tối thắng, không hồi hướng Bồ-đề.
  4. Đầu tiên thì tu hạnh Đại thừa nhưng giữa đường thì thích pháp Thanh văn, Duyên giác.

Lại có bốn pháp:

  1. Chấp trước vào thân
  2. Chấp trước vào tâm.
  3. Chấp trước vào giới.
  4. Không hướng đến Thắng đạo.

Lại có bốn pháp:

  1. Thân hữu đến xin chỗ thì chẳng cho.
  2. Chạy theo lợi dưỡng mà tự cho là thanh tịnh, lại còn vui mừng khi thấy kẻ phá giới.
  3. Mê đắm nhà thế.
  4. Đối với người giới luật tròn đủ mà lại sinh lòng sân hận, sinh khởi các sự ràng buộc bằng các việc làm gian khổ.

Lại có bốn pháp:

  1. Làm nhiều việc.
  2. Cầu lợi nhiều.
  3. Nói năng nhiều.
  4. Tri kiến nhiều.

Lại có bốn pháp:

  1. Ngã kiến, chấp trước nơi ngã.
  2. Chúng sinh kiến, chấp trước chúng sinh.
  3. Đoạn kiến, chấp trước nơi vô tác.
  4. Thường kiến, chấp trước nơi thân mạng.

Lại có bốn pháp:

  1. Ở nơi một việc mà sinh khởi trùng trùng muôn việc.
  2. Đã sinh khởi rồi thì không thể làm chủ.
  3. Không thể làm chủ nên sinh mệt mỏi.
  4. Vì mệt mỏi nên mới sợ hãi.

Lại có bốn pháp:

  1. Không tu trí tuệ để thăng tiến lên các địa.
  2. Không thể khéo tu thiền định.
  3. Bỏ quên không hành thắng tuệ của chúng sinh.
  4. Tu nguyện và phương tiện mà khởi chỗ thủ đắc.

Lại có bốn pháp:

  1. Tùy miên chướng pháp mà căn tánh độn.
  2. Tùy miên chướng nghiệp nên không siêng hành các thiện căn.
  3. Tùy mien chướng phiền não, ba uẩn tùy chuyển.
  4. Chạy theo việc ma bỏ quên tâm Bồ-đề.

Này Hải Ý! Những loại bốn pháp như vậy làm chướng ngại ở trong Đại thừa.

*********

Lúc Đức Thế Tôn giảng nói Đại thừa thâu giữ các pháp, trong chúng hội có bốn vạn bốn ngàn chúng sinh và một ngàn trời, người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có hai vạn tám ngàn Bồ-tát đắc pháp Nhẫn vô sinh. Khi ấy, tam thiên thế giới chấn đủ động sáu cách, có ánh sáng lớn tỏa chiếu khắp mười phương, một ngàn chúng trời, người ở trong hư không cùng phát lời khen ngợi và vui mừng vây quanh; lại có mưa xuống vô số hoa trời vi diệu, nhạc trời tấu vang, tiếng trống lời ca diệu mầu cúng dường, tất cả đều dùng diệu kệ khen ngợi:

Đại pháp tạng vô thượng như vậy
Hôm nay Như Lai tự mở bày
Đã lâu an trú đại Từ bi
Vì các chúng sinh soi tỏ rõ.

Nói kệ này rồi, họ liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Đại pháp bảo tạng này của Như Lai có thể thọ trì dẫu chỉ một phần rất nhỏ thì người ấy mau chóng giải thoát mọi sư sợ hãi của địa ngục, dần dần sẽ có thể chuyển pháp luân vô thượng.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người đi đến một châu thành, làng xóm kia không xa lắm thấy kho chứa châu báu nơi lòng đất nhiều vô kể. Vì người này có tâm lợi ích nên liền đến nơi châu thành ấy nói với mọi người: “Các ngươi hãy khéo đến đó, nếu muốn tìm các châu báu thì ta biết nơi ấy, ta sẽ chỉ cho các ông vô số châu báu đang ẩn giấu”. Bạch Thế Tôn! Trong châu thành ay có một loại người tuy nghe lời nói ấy mà không chịu tin nhận; lại có một loại người, thì tin

vào lời nói ấy nên liền cùng với người kia đến chỗ đến chỗ cất giấu vật báu tùy theo sức và trí của mỗi người tha hồ lấy cac châu báu đem về, nhưng chỗ chỗ chứa này thì vô tận, cũng không phân biệt người này ta cho người kia, ta không cho người này được lấy người kia không được lấy. Vì sao? Vì chỗ cất chứa vật báu ấy không hề phân biệt.

Bạch Thế Tôn! Chư Phật Thế Tôn thuyết đại pháp bảo tàng cũng lại như vậy. Đức Phật ở trong a-tăng-kỳ câu-chi na-do-tha kiếp đã tích chứa Bảo tạng diệu pháp quảng đại vô thượng như vậy. Đã tích chứa rồi đến đạo tràng Bồ-đề thành đạo quả Chánh giác; sau đó chuyển đại pháp luân ở vườn Lộc uyển thuộc nước Ba-la-nại. Hôm nay, Đức Thế Tôn lại chuyển chánh pháp trong đại hội này, mở bày Đại pháp bảo tạng vô thượng. Nhưng Phật Thế Tôn dùng tâm không chấp trước, luôn khởi tâm đại Bi làm các việc lợi lạc cho mọi chúng sinh nhưng họ không hề hay biết. Đức Phật Thế Tôn đã dùng Phạm âm nhiệm mầu khuyến dụ cùng khắp cả Trời, Người, A-tu-la: “Các ngươi nên đến đây để thọ trì Pháp bảo quảng đại vô thượng, pháp này có thể đoạn tận nguồn cội của sinh, lão, bệnh, tử, có thể ban phát tất cả niềm vui vi diệu vô tận.”

Bạch Thế Tôn! Hoặc có một loại người ngu si, không đủ niềm tin, nên đối với chánh pháp này không sinh thắng giải, lại không thuận theo nẻo chánh không thể phân biệt nên không sinh tín tâm. Hoặc có một loại người đủ niềm tin, đối với chánh pháp này có thể khéo phân biệt nên sinh thắng giải, lại khởi sự thuận hợp chân chánh có thể phân biệt rõ nên sinh lòng tin thanh tịnh sâu xa. Người đó mới có thể đối với đại pháp bảo tạng của Như Lai tùy sức nhận lãnh pháp bảo ấy. Tự lấy pháp báu rồi, lại khiến cho người khác ở trong pháp giải thoát của các thừa sinh tâm tin, hiểu. Hoặc có kẻ tính thích trú ở thừa Thanh văn, hoặc tánh thích trú thừa Duyên giác, hoặc có người thích trú Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng đại pháp bảo tạng tối thắng vô thượng của Như Lai thì không cùng tận, cũng không phân biệt.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nay Đại pháp bảo tạng vô thượng này đã khai mở, chỉ bày rộng lớn như vậy, nhưng các chúng sinh đối với pháp tổng lược này không thể nắm lấy dẫu cho một phần rất nhỏ. Những người đó vì không được pháp báu nên hành ba nẻo ác trong cõi sinh tử không cùng tận.

Bạch Thế Tôn! Nếu lại có người đối với Đại pháp bảo tạng vô thượng tóm lược này, cho đến hoặc chỉ có thể thọ trì một bài kệ bốn câu, thì người ấy đầy đủ bảy Thánh tài, không bao giờ thiếu thốn, huống hồ là có thể tín phụng, thọ trì một phẩm chánh pháp tóm lược của pháp hội rộng lớn này; hoặc lại thọ trì hai, ba, bốn, năm, mười, hai mươi, bảy mươi phẩm, cho đến có thể thọ trì trọn vẹn thì người ấy đạt được công đức không thể tính đếm. Vì sao? Vì pháp môn này không lìa tâm Bồ-đề, vì sự bức xúc đối với tất cả chúng sinh mà khởi tâm đại Bi. Cho nên, nếu người nào có thể khởi tịnh tâm và thọ trì, đọc tụng, vì người khác giảng nói, nên biết người ấy sẽ được thọ ký Vô thượng Chánh đẳng, Chánh giác, sẽ được ngồi đạo tràng, hàng phục quân ma, ở trong Đại thừa đắc đại thần thông.

Lúc ấy, Thế Tôn khen ngợi các Thiên tử:

–Lành thay, lành thay! Các chúng Thiên tử! Các ngươi đã khéo giảng nói. Nên biết người khéo có thể thọ trì, đọc tụng chánh pháp này và sinh khởi thắng giải, như lý tu hành tức người ấy đã kiến lập tất cả ngôn ngữ, công đức thắng diệu, người ấy cũng đạt đến đỉnh cao của Nhất thiết trí. Lại biết người ấy rộng vì tất cả thế gian tạo ra ánh sáng trí tuệ tỏa chiếu rộng khắp, đến đạo tràng Bồ-đề và không lâu sẽ thành đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì người ấy có thể cỡi xe Đại thừa này.

Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại bằng kệ tụng:

Kiến lập đạo Tối thắng
Các Phật thừa rộng lớn
Như ánh sáng hư không
Vượt hơn các thế gian.
Ra khỏi ba cõi rồi
Lại đến Bồ-đề tràng
Không khởi tâm vướng mắc
Và lìa các ràng buộc.
Tích tập câu-chi kiếp
Thuyết rộng lớn, thanh tịnh
Môn bố thí, thiền định
Khiến nội tâm sâu bền.
Nhờ giới dứt các tội
Thân tâm được thanh tịnh
Lìa các tâm sợ hãi
Đi đến Bồ-đề tràng.
Tâm và ý bình đẳng
Bao dung hết chúng sinh
Thắng vượt các thừa khác
Là các thừa tạm lập.
Hướng đến pháp Đại thừa
Khiến chúng sinh hoan hỷ
Dựng cao cờ đại pháp
Thần túc như thuần ngựa.
Văn, tinh tấn tương tục
Thiền định làm tòa ngồi
Sức nhẫn nhục tùy đắc
Đại trí tuệ quán đảnh.
Hàng phục các ngoại đạo
Phá xong các quân ma
Đến đạo tràng Bồ-đề
Hướng về pháp Đại thừa.
Tâm từ là áo giáp
Oán, ác không thể hủy
Hành đại Bi kiên cố
Hướng lý pháp thâm diệu.
Bốn Thiền, bốn Thần túc
Cỡi bốn Vô lượng hạnh
Hằng có tâm Bồ-đề
Không lìa bỏ Chánh đạo.
Mười phương cõi vô biên
Tất cả chúng sinh giới
Đều ở Đại thừa này
An trú mà tiến tu.
Không khổ cũng không vui
Không giảm cũng không tăng
Trong Phật thừa tối thượng
Đủ thần lực như vậy.
Tu hành bốn Niệm xứ
Cùng với bốn Chánh đoạn
Bốn Thần túc cũng vậy
Năm Căn và năm Lực
Như chỗ Phật khen ngợi
Đủ bảy Giác chi báu
Du hành tám Chánh đạo
Đi đến Bồ-đề tràng.
Dừng dứt các phiền não
Tròn đầy ánh sáng pháp
Phá tất cả trần ám
Vượt ra khỏi ba cõi.
Thần lực có thể gọi
Đế Thích và Phạm vương
Các ngươi khéo ngự tọa
Nơi Đại thừa vô tỷ.
Các Ba-la-mật-đa
Nghĩa là thí và nhẫn
Tinh tấn cùng thiền định
Trí thần lực thắng tuệ.
Và phương tiện quyền biến
Nguyện chân thật thâu giữ
Dẫu trăm ngàn quân ma
Đều có thể hàng phục.
Các chúng sinh hủy giới
Ưa tạo các nghiệp tội
Các Bồ-tát thù thắng
Tích tập nhiều công đức.
Hoặc các tâm phát khởi
Tâm Bồ-đề rộng lớn
Bậc Điều ngự Đại thừa
Đều có thể quán sát.
Mọi điển tịch thế gian
Vô vàn nghĩa và hành
Cho đến xuất thế gian
Các pháp thiện chân thật.
Hữu học và Vô học
Duyên giác, các Thánh nhân
Người trú nơi Phật thừa
Vào khắp nơi, mọi cửa.
Hoặc đủ các phiền não
Và vô số tâm hành
Các chúng sinh khổ não
Luân chuyển cõi hữu vi.
Người trú nơi Phật thừa
Bồ-tát đều quán thấy
Khiến họ đều dứt khổ
Hướng về thừa rốt ráo.
Hoặc các kẻ biếng nhác
Nhu nhược, thiếu năng lực
Mà không thể vận tâm
Dứt bỏ khổ chúng sinh.
Được nghe Đại thừa rồi
Tâm họ không sợ hãi
Chỉ tìm nhân tự vui
Không làm việc lợi người.
Như đại lực sáng rỡ
Có Bồ-tát đại trí
Sức tinh tấn viên mãn
Thường lợi ích chúng sinh.
Hành phương tiện đại
Bi Nội tâm, tánh thanh tịnh
Do hành thừa tối thượng
Nên tâm ấy hoan hỷ.
Khắp cả mọi thế gian
Vô biên đủ loại hạnh
Thượng, trung, hạ sai khác
Căn tánh cùng ý thích.
Hành thừa tối thượng này
Bồ-tát đủ đại trí
Trong sát-na biết khắp
Tâm hành các chúng sinh.
Thân đắc tướng vi diệu
Các thân phần trang nghiêm
Phát ra lời hay đẹp
Tất cả nghe đều vui.
Tâm ý được thanh tịnh.
Đủ thần thông thiền định
Do hành thừa tối thượng
Được công đức rộng lớn.
Phật thừa tối thượng ấy
Được nghe khắp ba cõi
Cho đến tất cả Phật
Không đoạn thánh Phật nhãn.
Tăng trưởng tối thượng nhãn
Là Pháp nhãn bừng sáng
Siêu vượt chúng ba cõi
Tức các A-la-hán.
Thừa này tịnh, vi diệu
Không rơi trong cõi uế
Bồ-tát hành thừa này
Sát-na gặp chư Phật.
Đã đến mười phương cõi
Không mệt, cũng không giảm
Quán thừa hơn hết này
Có thần biến như vậy.
Đại sĩ hành Phật thừa
Đi khắp các thế gian
Siêu vượt hay sánh cùng
Tìm cầu không thể được.
Sức dũng mãnh thế gian
Đại oai thần Bồ-tát
Do hành thừa tối thượng
Khiến quân ma khiếp sợ.
Đạt sắc lực, uy lực
Cùng đạt bậc đại phúc
Hoặc Đế thích, Phạm vương
Luân vương cùng Hộ thế.
Cho đến trời và người
Đạt an vui ba cõi
Do hành thừa tối thượng
Diệu lạc đều tròn đủ.
Bồ-tát không tự cao
Cũng không hề tự ty
Bố thí điều yêu mến
Thí rồi không cầu quả.
Dùng từ tâm hoan hỷ
Cũng thí cả đầu mắt
Vì hồi hướng Bồ-đề
Do hành thừa tối thượng.
Bồ-tát trì tịnh giới
Hoặc đầy đủ phạm hạnh
Giới cấm tịnh quang minh
Ánh sáng vượt nhật nguyệt.
Sắc tướng và giàu đủ
Đều không hề mong cầu
Vì cứu độ chúng sinh
Do hành thừa tối thượng.
Bồ-tát nghe lời ác
Không tức cũng không giận
Dẫu nghiền nát thân ấy
Cũng nguyện giúp quần sinh.
Thân này còn dễ được
Pháp vương khó gặp hơn
Do hành thừa tối thượng
Đắc pháp Nhẫn thanh tịnh.
Bồ-tát nơi vô biên
Trăm ngàn kiếp đến nay
Qua lại trong cõi ác
Chốn sinh tử lưu chuyển.
Phát sức đại tinh tấn
Vì cứu độ chúng sinh
Do hành thừa tối thượng
Sức tinh tấn thành tựu.
Bồ-tát đắc tịch tĩnh
Pháp lạc mầu thù thắng
Biết pháp định công đức
Mắt từ nhìn chúng sinh.
Trong đó không ít phần
Vướng mắc vị thiền định
Chỉ nhớ nghĩ cầu mong
Được duyên gặp chư Phật.
Bồ-tát biết các pháp
Nhân duyên sinh khởi, không
Ngã, pháp và chúng sinh
Thảy đều vô sở đắc.
Các kiến khéo thanh tịnh
Thắng tuệ điều phục tâm
Diệu tuệ ấy thanh tịnh
Do hành thừa tối thượng.
Tất cả bốn Thánh đế
Bốn Vô lượng, Tứ định
Và năm loại Trí thông
Bốn Vô ngại giải thoát…
Ở trong bốn Nhiếp pháp
Pháp thí là tối thượng
Cửa công đức như vậy
Đều từ Phật thừa ra.
Tất cả mười Lực Phật
Pháp chư Phật vô biên
Phật gầm tiếng Sư tử
Thuyết pháp cho cõi người.
Giữa chân mày, kim khẩu
Phóng quang Vô kiến đảnh
Do hành thừa tối thượng
Bồ-tát không khó đạt.
Đại thần thông chư Phật
Có ba loại tối thắng
Điều phục khắp thế gian
Chiếu sáng mọi tâm ý.
Pháp chư Phật nêu giảng
Quả lợi lạc chân thật
Do hành thừa tối thượng
Đều mau chóng thành tựu.
Ngữ, nghĩa Phật tương ưng
Không nhiễm, không lỗi lầm
Phạm âm Khẩn-na-la
Hòa nhã, lại vừa lòng.
Gồm thâu cả thế gian
Mọi ngôn âm chúng sinh
Nghe diệu âm chư Phật
Tất cả đều hoan hỷ.
Bồ-tát không lâu nữa
Đắc ngôn âm như Phật
Cõi Phật như hư không
Tất cả đều hiện rõ.
Bình đẳng nghe cùng khắp
Lời pháp, nghĩa tương ưng
Chúng sinh nghe đều vui
Phiền não thảy dứt sạch.
Giả sử dùng thần lực
Đến bờ cõi hư không
Nước biển trong mười phương
Cũng có thể lường được.
Vô biên hành chúng sinh
Sát-na tâm còn biết
Chỉ Phật thừa Tối thượng
Nói công đức không cùng.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Hải Ý:

–Này Hải Ý! Vì vậy nên biết, nếu có Bồ-tát muốn ở nơi chánh pháp rộng lớn như vậy, âm thầm hộ trì, khiến chánh pháp trụ lâu ở đời, lúc tự tâm trong lắng rồi thì đối với chúng sinh khác và Bổ-đặcgià-la, tất cả căn trí thượng, trung, hạ của họ đều có thể biết rõ. Phải nên thọ trì cú nghĩa như vậy đó là môn cú, an cú và Kim cang cú. Thọ trì rồi sẽ được biết rõ như nghĩa dùng tuệ tương ưng, phương tiện tối thắng mà quan sát như lý.

Này Hải Ý! Sao gọi là môn cú? Đó là các môn được nêu bày biểu thị nghĩa tất cả pháp phân biệt; Mon chữ A: Bằng biểu thị nghĩa tất cả pháp vô sinh; Môn chữ Ba: Biểu thị Thắng nghĩa đế nơi tất cả pháp; Môn chữ Na: Biểu thị nghĩa biết rõ danh sắc tất cả pháp; môn chữ Nại: Biểu thị nghĩa tịch tĩnh, điều phục tất cả pháp. Môn chữ Sa: Biểu thị nghĩa vượt qua các sự vướng mắc của tất cả pháp. Môn chữ Đa: Biểu thị nghĩa chân như tùy trú của tất cả pháp. Môn chữ Ca: Biểu thị nghĩa thấu đạt nghiệp báo nơi tất cả pháp. Môn chữ Xoa Sa:

Biểu thị nghĩa bình đẳng không sai biệt của tất cả pháp. Môn chữ Ma: Biểu thị nghĩa đại Bi của tất cả pháp. Môn chữ Nga: Biểu thị nghĩa tất cả pháp là vô cùng thâm diệu, khó thấu triệt nguồn cội. Môn chữ Nha: Biểu thị nghĩa siêu việt sinh, lão, bệnh tử nơi các pháp. Môn chữ Đà Biểu thị nghĩa pháp giới vô sai biệt nơi tất cả pháp. Môn chữ Thiết: Biểu thị nghĩa Xa-ma-tha, viên mãn tất cả pháp. Môn chữ Khư: Biểu thị nghĩa hư không sáng tỏ tất cả pháp. Môn chữ Xoa: Biểu thị nghĩa tất cả pháp thảy đều là vô sinh. Môn chữ Nghê dã: Biểu thị nghĩa trí không chấp trước nơi tất cả pháp. Môn Tha: Biểu thị nghĩa khéo biết rõ về xứ, phi xứ ở tất cả pháp. Môn chữ Cơ ca: Biểu thị nghĩa biết rõ các uẩn của tất cả pháp. Môn chữ Sá: Biểu thị nghĩa rốt ráo không biên vực của tất cả pháp. Môn thân Tịch tĩnh: Biểu thị nghĩa không tham nhiễm nơi tất cả pháp. Môn tâm tịch tĩnh: Biểu thị nghĩa điều phục sân si nơi tất cả pháp. Môn Chỉ tức: Biểu thị nghĩa quy hướng không vướng mắc nơi tất cả pháp. Môn Thâm cố: Biểu thị nghĩa xuất ly ba cõi của tất cả pháp. Môn Trú thật tánh: Biểu thị nghĩa trú pháp giới của tất cả pháp; môn Vô thủ: Biểu thị nghĩa tướng giải thoát tất cả pháp; môn Vô chấp trước: Biểu thị nghĩa xa lìa tranh luận của tất cả pháp; môn Vô tạp nhiễm: Biểu thị nghĩa tướng thanh tịnh tất cả pháp; môn Pháp tự tánh: Biểu thị nghĩa xưa nay vốn sáng sạch của tất cả pháp; môn Diệu quang minh: Biểu thị nghĩa sáng rực của tất cả pháp; môn Quán tưởng: Biểu thị nghĩa ly tán của tất cả pháp; môn Vô nhiếp tạng: Biểu thị nghĩa không hòa hợp của tất cả pháp; môn Bồ-đề: Biểu thị nghĩa bình đẳng nhất vị của tất cả pháp; môn Niết-bàn: Hiện bày nghĩa xa lìa các phiền não của tất cả pháp.

Này Hải Ý! Người có thể thọ trì các môn cú như vậy thì tự tâm được lắng trong, đối với các chúng sinh khác và Bổ-đặc-già với căn tánh thượng, trung, hạ vị ấy đều có thể biết rõ.

Lại nữa, này Hải Ý! Sao gọi là Ấn cú? Đó là ấn chứng, làm rõ tất cả pháp giải thoát, vì pháp vốn không hai, không hai sự thanh tịnh; ấn chứng tất cả pháp nhị biên là vô biên, vì đoạn và thường đều thanh tịnh; ấn chứng tất cả pháp thảy đều lìa tham, vì trong môn tận và cõi tận đều vô tận, không biên vực; ấn chứng tất cả pháp không cao không hạ, vì tánh của thực tế vốn bình đẳng thanh tịnh; ấn chứng tất cả pháp như hư không, vì vượt ngoài nẻo quán sát của năm mắt; ấn chứng tất cả pháp trụ nơi hư không, vì pháp giới tức hư không giới; ấn chứng tất cả pháp là không phân biệt, vì đều hội nhập nơi pháp giới; ấn chứng tất cả pháp vì pháp không có tướng phân biệt; ấn chứng tất cả pháp chân như, vì đời trước sau đều như thật; ấn chứng về thực tế tất cả pháp, vì xưa nay vốn thanh tịnh; ấn chứng tất cả pháp là không, vì các pháp hữu vi đều đồng đẳng; ấn chứng tất cả pháp là vô tướng, vì xa lìa mọi đối tượng duyên sai biệt; ấn chứng tất cả pháp là vô nguyện, vì xa lìa các chốn mong cầu; an chứng tất cả pháp là vô thường, vì tự tánh là vô tánh, vô tướng; ấn chứng tất cả pháp là khổ, vì tướng của năm uẩn khéo tích tập; ấn chứng tất cả pháp là vô ngã, vì tự tánh là vô ngã; ấn chứng tất cả pháp là vắng lặng, vì rốt ráo là bất động; ấn chứng tất cả pháp thành thật, vì thắng nghĩa đế thâu tóm cùng khắp; ấn chứng tất cả pháp là bất động, vì chủng tử vô trú; ấn chứng tất cả pháp là bất hoại, vì quyết định rốt ráo; ấn chứng tất cả pháp là như như, vì mọi lãnh vực trước sau đều không đoạn dứt; ấn chứng tất cả pháp ba đời bình đẳng, vì ở trong tất cả xứ đều cùng một vị; ấn chứng tất cả pháp là vô sinh, vì tự tánh là vô sở hưu; ấn chứng tất cả pháp là vô diệt, vì tự tánh là vô sinh; ấn chứng tất cả pháp là không đối đãi, vì lìa tăng thượng mạn; ấn chứng tất cả pháp không có hý luận, vì tất cả tầm và tứ đều không tích tập; ấn chứng tat cả pháp sáng rõ, vô tướng, vì chỗ hiện ra không có các sắc tướng; ấn chứng tất cả pháp là vô nhiễm, vì đoạn dứt sự nương trú; ấn chứng tất cả pháp không thành tựu, vì sự đối trị không thể thủ đắc; ấn chứng tất cả pháp là phi nghiệp báo, vì tất cả là không tạo tác; ấn chứng tất cả pháp là vô vi, vì đều xa lìa các phần vị sinh diệt; ấn chứng tánh của tất cả pháp là bình đẳng, vì các pháp bình đẳng như hư không, đều không sai biet.

Này Hải Ý! Đó là Ấn cú, các ấn cú như vậy mới là ấn Bồ-đề của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Ấn cú như vậy sinh ra từ trong bốn vạn tám ngàn pháp uẩn. Ấn cú như vậy thâu khắp trí ấn tối thượng của chư Phật và Bồ-tát, mau chóng chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh.

Này Hải Ý! Với các ấn cú như vậy, các chúng sinh không trồng căn lành sẽ không được duyên nghe lãnh hội. Lại nữa, pháp môn này có thể khéo hàng phục hết thảy nghiệp ma.

Này Hải Ý! Tất cả tạng báu Tổng trì vô tận có thể chứa giữ tất cả pháp, pháp đó đều lưu xuất từ trong Ấn cú. Lại nữa, tám vạn bốn ngàn môn Tam-ma-địa môn cùng nhập khắp nơi tám vạn bốn ngàn tâm hành của chúng sinh; một ngàn môn Ba-la-mật đều từ Ấn cú như vậy mà lưu xuất ra, nhưng Ấn cú ấy vẫn tùy nhập nơi mọi pháp môn đó.

Trang: 1 2 3 4 5 6