KINH LÃO NỮ NHÂN
Dịch sang cổ văn: Thanh Tín Nam Chi Khiêm ở Thế Kỷ 3
Dịch sang tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Dịch nghĩa: 15/8/2014 ◊ Cập nhật: 3/6/2018

 

TÔI NGHE NHƯ VẦY:

Một thuở nọ, Đức Phật đến thành Quảng Nghiêm và dừng nghỉ ở trong vườn Nhạc Âm, cùng với 800 vị Bhikṣu [bíc su] và 10.000 vị Bồ-tát.

Bấy giờ có một bà lão nghèo khổ đến chỗ của Phật, cúi đầu sát đất và đảnh lễ Đức Phật, rồi bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con có việc muốn thưa hỏi. [Kính mong Như Lai cho phép.]”

Đức Phật bảo:

“Lành thay! Hãy cứ hỏi.”

Bà lão thưa rằng:

[“Thưa Thế Tôn!]

– Sanh từ nơi nào đến và sẽ đi về đâu?
– Già từ nơi nào đến và sẽ đi về đâu?
– Bệnh từ nơi nào đến và sẽ đi về đâu?
– Chết từ nơi nào đến và sẽ đi về đâu?
– Sắc thọ tưởng hành thức từ nơi nào đến và sẽ đi về đâu?
– Mắt tai mũi lưỡi thân ý từ nơi nào đến và sẽ đi về đâu?
– Đất nước gió lửa với hư không từ nơi nào đến và sẽ đi về đâu?”

Đức Phật bảo:

“Lành thay! Câu hỏi rất hay.

– Sanh chẳng từ nơi nào đến và cũng chẳng đi về đâu.
– Già chẳng từ nơi nào đến và cũng chẳng đi về đâu.
– Bệnh chẳng từ nơi nào đến và cũng chẳng đi về đâu.
– Chết chẳng từ nơi nào đến và cũng chẳng đi về đâu.
– Sắc thọ tưởng hành thức chẳng từ nơi nào đến và cũng chẳng đi về đâu.
– Mắt tai mũi lưỡi thân ý chẳng từ nơi nào đến và cũng chẳng đi về đâu.
– Đất nước gió lửa với hư không chẳng từ nơi nào đến và cũng chẳng đi về đâu.

Các pháp đều như vậy. Ví như khi hai que củi cọ xát phát ra lửa, và lửa trở lại đốt cháy củi. Khi củi đã cháy hết, lửa liền tắt.”

Đức Phật hỏi bà lão:

“Lửa này vốn từ nơi nào đến và khi tắt nó sẽ đi về đâu?”

Bà lão thưa rằng:

“Thưa Thế Tôn! Khi nhân duyên tụ hợp thì liền phát lửa. Khi nhân duyên ly tán thì lửa liền tắt.”

Đức Phật bảo:

“Các pháp đều như vậy. Khi nhân duyên tụ hợp thì mới hình thành. Khi nhân duyên ly tán thì liền diệt mất. Các pháp chẳng từ nơi nào đến và cũng chẳng đi về đâu. Mắt thấy sắc tức là ý. Ý tức là sắc. Cả hai thảy đều không và không chỗ có. Diệt mất cũng như thế.

Các pháp ví như cái trống. Nó không phải chỉ do một yếu tố mà được. Nếu có người cầm dùi đánh vào cái trống, cái trống sẽ vang ra âm thanh. Tuy nhiên, âm thanh đang vang ra từ cái trống đó cũng là không, âm thanh sẽ vang ra cũng là không, và âm thanh đã vang ra cũng là không. Âm thanh đó cũng chẳng phải vang ra từ gỗ, da, dùi, hay tay người đánh. Do hội đủ nhân duyên nên mới vang ra tiếng trống. Âm thanh từ không và tiêu tan về không.

Tất cả vạn vật cũng lại như thế. Bổn nguyên đều thanh tịnh và không chỗ có. Do nhân duyên mà từ không chỗ có sanh ra các pháp. Các pháp cũng là không chỗ có. Ví như mây đen kéo đến thì sẽ liền mưa. Mưa cũng chẳng từ thân rồng tuôn ra, và cũng chẳng từ tâm rồng lưu xuất. Đó đều là do nhân duyên việc làm của rồng nên mới có mưa này.

Các pháp chẳng từ nơi nào đến và cũng chẳng đi về đâu. Ví như họa sĩ trước tiên chuẩn bị bản vẽ trắng, rồi sau đó hòa hợp các màu sắc và vẽ theo ý muốn. Bức họa đó chẳng phải từ bản vẽ trắng mà hiện ra, và cũng chẳng phải từ tay người mà hiện ra. Nó tùy theo ý của họa sĩ mà mỗi chi tiết được vẽ ra.

Sanh tử cũng lại như vậy. Mỗi loài tùy theo nghiệp của mình tạo mà ứng hiện quả báo. Địa ngục, thiên thượng, hay nhân gian cũng thế. Ai có thể liễu giải tức là bậc trí tuệ, và không chấp trước cảnh hiện hư vọng.”

Khi nghe Phật dạy, bà lão vui mừng khôn xiết và liền tự nói rằng:

“Nhờ ân đức của Phật mà con đắc Pháp nhãn. Tuy thân con đã già yếu, nhưng nay cũng được khai ngộ và liễu giải.”

Bấy giờ ngài Khánh Hỷ sửa sang y phục, rồi quỳ hai gối và thưa với Phật rằng:

“Thưa Thế Tôn! Khi vừa nghe lời Phật dạy, bà lão này liền hiểu rõ. Nhân duyên gì mà bà lão có trí tuệ dường ấy?”

Phật bảo ngài Khánh Hỷ:

“Khi ta phát tâm học Đạo ở đời trước, bà lão đó chính là mẹ của ta.”

Ngài Khánh Hỷ hỏi Phật rằng:

“Thưa Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà bà lão này phải chịu bần cùng khốn khổ như thế?”

Đức Phật bảo:

“Vào thuở xa xưa ở nơi của Đức Phật Sở Ưng Đoạn, bấy giờ ta muốn làm Đạo Nhân, nhưng mẹ ta thuở đó do quá thương luyến nên không cho phép ta đi xuất gia. Thế là ta rất buồn bã và đã bỏ ăn một ngày. Bởi nhân duyên ấy mà suốt 500 đời sanh ra ở thế gian về sau, bà ấy phải chịu bần cùng.

Sau khi thọ mạng ở hiện đời chấm dứt, bà lão này sẽ sanh về quốc độ của Đức Phật Vô Lượng Thọ và ở cõi nước kia cúng dường chư Phật. Trải qua 68 ức kiếp về sau, bà lão ấy thành Phật, hiệu là Bodhyaṅgapuṣpakara [bô đi ân ga bu sờ ba ca ra]. Quốc độ tên là Hóa Hoa. Nhân dân trong cõi nước ấy sẽ có y phục và ẩm thực để dùng như ở trên trời Tam Thập Tam, và đều sống lâu đến một kiếp.”

Khi Phật thuyết Kinh này xong, bà lão và ngài Khánh Hỷ, chư Bồ-tát, các vị Bhikṣu, cùng chúng quỷ thần, trời, rồng, người và phi thiên đều rất vui mừng. Họ cúi đầu đảnh lễ sát đất ở trước Phật, rồi cáo lui.

Kinh Lão Nữ Nhân

☸ Cách đọc âm tiếng Phạn
Bhikṣu: bíc su
Bodhyaṅgapuṣpakara: bô đi ân ga bu sờ ba ca ra