PHẬT THUYẾT ĐẠI KHỔNG TƯỚC MINH VƯƠNG
HỌA TƯỢNG ĐÀN TRÀNG NGHI QUỈ
Tam Tạng sa môn Bất Không
Phụng chiếu dịch chữ Hán.
Thích Thiện Phước dịch Việt ngữ.

 

Kinh Đại Khổng Tước Minh Vương Họa Tượng Đàn Tràng Nghi Quỉ

Đức Phật bảo A Nan rằng: Nếu như ở thế gian, có nơi nào gặp tai ương họa hoạn, nạn đao binh đói khát hạn hán tật dịch xảy ra, phát sanh bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh làm ưu sầu khổ não. Nhẫn đến bị tám vạn bốn ngàn loài quỉ mị nhiễu hại, làm khổ não chúng hữu tình, những đều mong cầu ở thế gian và xuất thế gian bị chướng ngại, tất cả đều do những nghiệp nhân tham ái vô minh từ vô lượng kiếp đến nay, lại do hư vọng phân biệt vướng vào phiền não ba độc, không rõ thật tướng của các pháp, chất chứa các điều bất thiện, vì thế mà chiêu cảm đến những thứ họa hoạn như vậy.

Nầy A Nan! Ta nay vì các chúng hữu tình ấy nói kinh Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương, đồng thời chỉ dạy phương pháp đọc tụng, để tiêu trừ tất cả các tai ách của chúng sanh. Lại chỉ dạy phương pháp họa tượng và cách thức kiến lập đàn nghi để cúng dường.

Nếu có ai nương theo lời dạy của Như lai, đúng như pháp mà chuyển đọc kinh nầy, thì tất cả tai nạn đều được tiêu trừ, mong cầu điều chi cũng được toại ý.

Nầy A Nan! Nếu có nơi nào khi gặp tai nạn khổ não phát sanh, hoặc Quốc Vương, vương tư, đại thần, hoàng hậu, cung phi, cho đến Tỳ kheo Tỳ kheo ni, thiện nam tử thiện nữ nhơn vân vân…… vì muốn tiêu trừ tai nạn, mà ở trong cung vua, hoặc nơi thù thắng, chốn chùa chiền thanh tịnh trang nghiêm, trú xứ nhà cửa, đúng như pháp mà chọn nơi đất sạch đào sâu một khủy tay, lựa bỏ ngói gạch và những tạp vật không thanh khiết, sau đó dùng đất sạch san lấp cho bằng phẳng, nếu đất có dư thì chọn nơi thù thắng, kiến lập pháp đàn vuông vức chừng 5 khủy tay, cao 4 ngón tay, dùng 3 lớp vải trải lên, hoặc dùng màu ngũ sắc họa vẽ, ở ngay nơi nội viện họa một hoa sen tám cánh, trong hoa sen ấy họa hình tượng Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát màu trắng, mặt hướng phương Đông, phục sức vải lụa màu trắng, trên đầu đội mão anh lạc, đeo hoa tai, cổ tay đeo các thứ trang sức đẹp đẽ, ngồi kết già ở hoa sen trắng, hoặc trên hoa sen xanh, trên lưng con Khổng Tước Minh Vương màu vàng ròng.  Phật mẫu hiện ra tướng từ bi có bốn cánh tay: Tay thứ nhất bên phải cầm hoa sen xòe nở, tay thứ hai cầm qủa Câu Duyên; tay thứ nhất bên tay trái để ngay ngực cầm quả Kiết Tường, tay thứ hai cầm lông Khổng Tước, để xuôi theo vòng bên phải của Phật Mẫu. Xung quanh hoa sen họa hình tượng bảy vị Phật: Từ Tỳ Bà Thi Như Lai, cho đến Phật Thích Ca, Bồ tát Từ Thị vân vân…  mặt hướng ra ngoài tòa, đều trụ trong tướng định. Trên cánh sen thứ 8 góc Tây Bắc họa Bồ tát Từ Thị, tay trái cầm tịnh bình tay phải hướng ra ngoài kết  ấn thí vô úy.

Lại nữa, ở bên ngoài cánh hoa sen, bốn hướng ở nội viện họa bốn vị Bích Chi Phật, đều thị hiện tướng thiền định trên đảnh có nhục kế.

Ngoài ra nơi bốn góc còn họa bốn đại Thanh Văn, góc Đông Bắc họa tượng A Nan Đà, góc Đông Nam họa tượng La Hầu La, góc Tây Nam họa tượng Xá Lợi Phất, góc Tây Bắc họa tượng Đại Mục Kiền Liên, đều mặc ca sa lộ bày vai phải.

Ở trong viện thứ 2, họa Thiên Vương ở tám phương và các quyến thuộc:

– Phương Đông họa hình Đế Thích Thiên Vương, cầm chày kim cang và các chúng vây quanh. Góc Đông Nam họa hình Hỏa Thiên, tay trái cầm tịnh bình tay phải kết ấn thí vô úy cùng với tiên chúng khổ hạnh ngũ thông vây quanh.

– Phương Nam họa hình Diệm Ma Thiên Vương, cầm Diệm Ma tràng, cùng với các chúng quỉ thần ở cõi trời Diệm Ma vây quanh. Góc Tây Nam họa hình La Sát Vương, tay cầm dao cùng với các chúng La Sát vây quanh.

– Phương Tây họa hình Thủy Thiên, tay cầm dây lụa cùng với các chúng rồng vây quanh. Góc Tây Bắc họa hình Phong Thiên Vương, tay cầm tràng cùng với các Trì Minh Tiên chúng vây quanh.

– Phương Bắc họa hình Đa Văn Thiên Vương,  tay cầm gậy cùng với các chúng Dạ Xoa vây quanh. Góc Đông Bắc họa hình Y Xá Na Thiên, tay cầm cây kích ba ngạnh cùng với các Bộ Đa Quỉ chúng vây quanh.

Ở trong viện thứ ba, theo vòng bên phải góc Đông Bắc họa hình 28 vị Dược Xoa Đại Tướng cùng với các chúng quỉ thần vây quanh. Cho đến họa hình 12 tú diệu cung thần.

Giáp vòng bên ngoài viện thứ ba dùng hương bột hương thoa, hoa sen rải đất. Trên cánh hoa sen để các thứ thức ăn cháo sữa cơm nước hoa trái, tụng đọc A Ba La Nhỉ Đa Minh Vương, gia trì trong nước thơm sau đó đem rưới khắp nơi để cúng dường. Lại dùng đường cát, đường phèn, mật…ong cúng dường phụng hiến.

Trên đàn rải hoa màu trắng, ở bốn góc để bốn ngọn đèn dầu. Bốn cửa ra vào đều để hai chậu đựng đầy nước hoa.

Ở phía Đông đàn an trí tượng Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương, tượng pháp họa giống y như đàn tràng trên.

Ở giữa viện thánh chúng vây quanh, dùng các thứ hoa hương cúng dường.

Thiên chúng ở phương Đông nên đốt hương bạch giao để cúng dường. Thiên chúng ở Phương Nam dùng hương hoa cỏ thơm để cúng dường. Thiên chúng Phương Tây dùng váng sữa và hương an tức cúng dường. Thiên chúng ở phương Bắc nên đốt hương huân lục để cúng dường. Người trì tụng xoay mặt về phía Tây đàn, ngồi trên bồ đoàn hoặc trên giường chân thấp. Để kinh trên án trước đàn, dùng hương hoa cúng dường kinh quyển, phải nên sắp xếp đàn nghi như thế. Từ ba cho đến bảy người, ngày đêm thay nhau tụng đọc lời kinh không gián đoạn, phải dứt hẳn việc đàm tiếu, trừ khi giải nói rõ pháp mầu. Người gia trì tác pháp kết ấn thỉnh hiền thánh, còn các người khác phải nên dốc lòng đọc kinh, chỉ cần đọc nhiều biến, ân trọng phát nguyện nương theo 37 tôn lễ sám, 3 thời hoặc 6 thời, đạo tràng ấy trải qua từ một cho đến bảy ngày, thì tất cả các tai họa đều tiêu diệt trừ khi người ấy không nhất tâm.

Kinh nầy người tại gia hay xuất gia đều đọc được, mỗi ngày tắm gội cho sạch sẽ thay y phục đối trước đàn tràng, kiền thành nhất tâm đảnh lễ chư tôn hiền thánh. Trước hết ấn khế chơn ngôn, y theo lời dạy phụng thỉnh tất cả chư Phật Bồ tát và các thiên chúng, như pháp mà cúng dường, ân cần tha thiết nói ra đều mong cầu, nguyện Phật thùy từ gia hộ.

Nguyện khắp vì tất cả chúng sanh khổ não, phát lời thệ nguyện rộng lớn, sau đó ngồi kết già lấy nước thơm thoa tay đọc tụng chơn ngôn:

TRƯỚC HẾT KẾT ẤN TAM MUỘI DA. (1)

Bàn tay phải đặt lên bàn tay trái dựng đứng hai ngón giữa. Khi kết ấn thầm tụng chơn ngôn Tam Muội Da 7 lần:

Án Tam Ma Dã Sa Đát Noan. (7 lần)

Sau đó dùng ấn nầy gia trì 4 chỗ trên thân: Ngay ngực, yết hầu, trán và trên đảnh đầu rồi xả ấn.

KẾ ĐẾN KẾT KIM CANG CÂU BỒ TÁT ẤN. (2)

Căn cứ theo Tam Muội Da ấn trên, dùng hai đầu ngón tay co lại như hình lưỡi câu để phụng thỉnh, đọc chơn ngôn 7 lần không gián đoạn để phụng thỉnh chư Phật Bồ tát chư thiên quỉ thần và tất cả thánh chúng.

An Phạ Nhật Lang Củ Thi A Yết Trà Vi Yết Trà Sa Phạ Ha. (7 lần)

Kết ấn tụng chơn ngôn nầy phụng thỉnh tất cả thánh chúng không quên lời thệ nguyện mà quang lâm đến Pháp hội.

KẾ ĐẾN KẾT A BÀ LA NHỈ ĐA MINH VƯƠNG ẤN. (3)

Dùng để kết giới phận các nơi ở đàn tràng. Bàn tay phải áp vào lòng bàn tay trái và xoa nhau, dựng đứng hai ngón giữa, dùng ấn nầy chuyển 3 vòng theo chiều bên phải trên đảnh đầu, tùy theo tâm nghĩ đến địa phận xa gần mà trở thành việc kết giới.

An Hổ Rô, Hổ Rô Chiến Noa Lý Ma Đăng Kỳ Bà Phạ Ha. (7 lần)

KẾ ĐẾN KẾT PHỔ CÚNG DƯỜNG TẤT CẢ HIỀN THÁNH ẤN. (4)

Tay phải xoa vào tay trái rồi chắp lại mười ngón giao nhau một lóng trên của bàn tay. Kết ấn để ngay ngực tụng 7 chơn ngôn xong rồi xả trên đảnh.

Nẳng Mồ Tam Mãn Đa Bột Đà Nẫm Tát Phạ Tha Khiếm On Na Nghiệt Đế Sa Pha Ra Tư Hàm Nga Nga Nẳng Kiếm Sa Phạ Ha. (7 lần).

Do kết ấn và tụng Chơn ngôn nầy hay ở trước tất cả chư Phật Bồ tát, thánh chúng và ở trong vô lượng cõi nước chư Phật, thành tựu tất cả sự cúng dường rộng lớn.

KẾ ĐẾN KẾT PHẬT MẪU ĐẠI KHỔNG TƯỚC MINH VƯƠNG ẤN. (5)

Bàn tay phải áp vào lòng bàn tay trái xoa nhau hai ngón cái và hai ngón út của hai bàn tay dựng đứng).

Kết ấn tụng chơn ngôn và gia trì 4 chỗ và xả ấn trên đảnh như trên.

An Ma Sưu Ra Ngật Lan Đế Sa Phạ Ha. (7 lần)

Sau đó dâng hương khải thỉnh cáo bạch thánh chúng nói rõ việc mong cầu. Y theo pháp cung thỉnh cúng dường xong, khởi lòng thương xót để cứu giúp tất cả chúng sanh khổ nạn. Khi chuyển đọc kinh nầy, mỗi ngày phẩm vật cúng dường phải thay đổi. Nên tụng chơn ngôn A Ba La Nhỉ Đa Minh Vương và kết ấn xoay một vòng theo chiều bên phải trên đảnh đầu, để tạm thay các món cúng dường, rồi sau đó thứ lớp nghinh thỉnh kết giới như trước. Nương theo lời dạy chuyển đọc kinh nầy thì nơi nào có tai nạn, hạn hán tật dịch quỉ mị yếm đối ác độc, tất cả những chướng duyên khổ não như thế đều được trừ diệt, nếu như có mong cầu đều chi thì được thành tựu như ý nguyện.

Nầy A Nan! Ta đã nói rõ về phương pháp họa tượng nghi thức kiến lập đàn tràng để cúng dường xong.

Nếu nơi nào có tai nạn ụp đếp mà hoàn cảnh không cho phép sắp đặt họa vẽ hình tượng kiến lập đạo tràng như thế, thì tùy theo khả năng của mình chọn chỗ thanh tịnh, dùng đất Cù Ma Di, đắp thành một đàn vuông vức chừng  một khủy tay, đem hương hoa, váng sữa để cúng dường thánh chúng. Chỉ cần kiền thành nhất tâm chuyển đọc kinh nầy từ 1 lần cho đến 7 lần, hoặc 1 ngày cho đến 2 ngày thì tất cả các ách nạn thảy đều tiêu trừ, nếu mong cầu việc gì thì đều được thành tựu như ý.

Bấy giờ A Nan nghe Thế Tôn vì tất cả những khổ nạn của chúng hữu tình ở đời sau mà nói về cách thức đọc tụng Kinh Đại Khổng Tước Minh Vương xong. A Nan cùng đại chúng đứng dậy đảnh lễ rồi lui ra.

 Phật nói Kinh Đại Khổng Tước Minh Vương Họa Tượng Đàn Tràng Nghi Quỉ.

 

Ghi chú của Tạng thư Phật Học

(1) và (2)

 

 

 

 

 

(3)

 

 

 

 

(4)

 

 

 

 

(5)