KHAI THỊ VỀ TRÌ CHÚ
LIÊN DU
Cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm
1964
Đời càng đi sâu vào mạt-pháp, Sự khổ của nhơn-loại càng thêm nhiều. Đó cũng do cộng-nghiệp của chúng-sanh chứa góp từ nhiều kiếp trước đến kiếp này, đã tái thời-kỳ bộc-phát. Túc-nghiệp đã sẵn, hiện-nghiệp lại giúp duyên, như lửa gặp được dầu càng thêm lan cháy!
Thế-giới ngày nay, chiến-tranh hết nơi này đến nơi khác nhiều chứng bịnh lạ nảy sanh, trộm cướp hoành hành, nhơn dân nghèo khồ. Mỗi năm những tin tức: bão lụt, động đất, nắng hạn, mất mùa ở khắp các xứ không biết là bao nhiêu! Cảnh đã như thế, con người phần nhiều càng hung ác, gian xảo, không biểt thức tỉnh ăn-năn. Những thảm-trạng do lòng tham địa-vị, tình ái, tiền tài, gây ra kết-quả lường gạt tàn hại lẫn nhau, cũng không xiết kề !
Kinh Hoa-Nghiêm nói «Tâm như người họa khéo. Vẽ vời cảnh thế-gian». Cảnh đời vui, khổ đã do hành-vi lành, dữ, phát sanh từ tâm niệm của loài người, thì muốn làm dịu bớt thảm-trạng ngày nay, mỗi người phải tự tính ăn- năn, giữ tám chữ: hiếu, đề, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sĩ và tấm lòng chân thật ngay thẳng, biết thương yêu giúp đờ lẫn nhau. Ngoài ra, muốn tiều trừ nghiệp chướng, tránh khỏi họa tai, người biết Phật pháp lại cần phải cầu nơi tha-lực, như tu các hạnh : niệm Phật, niệm Quán-Âm, hoặc thọ trì mật-chú nữa.
Xem kinh QUÁN-ÂM ĐẠI-BI TÂM ĐÀ-LA-NI, tôi thấy những công-đức an vui, thoát khổ trong ấy rất cần thiết đối với hiện-cảnh ngày nay, nhân có một Phật-tử yêu cầu phiên dịch, tôi liền vui lòng hứa nhận.
Theo trong Hiển-Mật-Viên-Thông, người tu Chân-Ngôn-Tông về sắc trần cần phải rõ-rệt, như quán nước phải ra nước, quán lửa phải ra lửa, chớ không thể khác được. Riêng về thinh-trần thì dù tiếng tăm đọc tụng có trại với Phạm âm đôi chút cũng không sao, miễn có lòng tin tưởng chí thành là được công hiệu. Vì thế, từ trước đến nay hàng Phật-tử ở Trung-Hoa cho đến Việt-Nam ta, khi đọc tụng chú, thật ra đều trại với chánh-âm, song vẫn cảm được oai thần công-đức không thể nghĩ bàn. Vậy người học Phật, muốn trì chú, đừng lấy điểm nầy làm nghi mà mất phải lợi ích.
Lại từ trước đến nay, chú- ngữ không phiên dịch, vì năm duyên cớ::
1- Vi tâm-niệm bí-mật nên không phiên dịch
Như chúng-sanh dùng tâm yên lặng, tin-tưởng, thành kính mà niệm chú, tất sẽ khế-hợp với chân tâm của Phật, Bồ-tát, mà được cảm ứng. Nếu biết nghĩa lý thì dễ sanh niệm phân biệt, cho đoạn nầy nghĩa như vầy, đoạn kia nghĩa như thế, kết cuộc vẫn ở trong vòng vọng-tưởng, làm sao thông cảm với Phật-tâm?
2- Vi nghĩa lý bí-mật nên không phiên dịch.
Trong một chữ chân-ngôn có nhiêu nghĩa, nếu dịch nghĩa này thì mất nghĩa kia, không được toàn vẹn. Thí-dụ, riêng một chữ «A» đã hàm-súc .những nghĩa như: bất sanh, bất diệt, không căn-bản, chân-thể và nhiều nghĩa khác nữa.
3- Vì danh-tự bí-mật nên không phiên dịch.
Những chữ trong chân-ngôn, hoặc chỉ cho danh hiệu Phật, Bồ-tát, Thiên, Long, Quỉ, Thần, như chữ «Hồng», gồm bốn chữ Hạ, A, Ô, Ma hiệp thành, chỉ cho chủng-tử của chư thiên. Hoặc có thứ ở phương nầy không có, như danh từ «Diêm-phù-thọ » chẳng hạn.
4- Vì âm-thanh bí-mật nên không phiên dịch.
Các chữ chân-ngôn có khi diễn-tả, âm-thanh của tiếng gió reo, nước chảy, tiếng loài chim kêu, đọc lên có sức linh động, nên để nguỵên-âm. Thí dụ: câu « tô rô tô rô» là chỉ cho tiếng lá cây ở cõi Phật rơi xuống. Hoặc như chữ Án (Aum), đọc lên có năng-lực thầm kín làm rung chuyển không gian. Hay như chữ Ta-bà-ha (Sowa-ha) có sức truyền cảm như một sắc lịnh. Lại có nhiều danh-từ đã để nguyên-âm chữ Phạm sẵn từ trước đến nay, vì thuận theo xưa, nên không dịch ra.
5- Vì sự sanh-thiện bí-mật nên không phiên dịch.
Như danh-từ «bát-nhã» người đọc lên sanh lòng tin- tưởmg, phát ra niệm lành, nếu dịch là «trí huệ», thì sanh ý khinh thường, không quí trọng.
Trên đây là những nguyên-nhân vì sao chú-ngữ không dịch ra, chớ chẳng phải không có ý nghĩa. Người học Phật phải nên xét nghĩ, chớ vội theo chỗ thấy hiểu cạn hẹp của mình, sanh lòng khinh-mạng mà mang tội.
Lại, trong kinh có câu: «Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả». Vậy tụng trì đúng pháp là sao? Trong đây, xin chia ra hai phương-diện;
a- Về mặt giữ-gìn giới hạnh:
Người trì chú cần phải giữ trai giới, trừ sát, đạo, dâm, vọng, kiêng cữ rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi cùng thức ăn hôi-hám. Nơi thân phải thường năng tắm gội, thay đổi y phục sạch-sẽ, chứ để trong người có mùi hôi. Khi đi đại tiểu xong, phải rửa tay đọc chú. Trước khi trì chú cũng phải súc miệng cho sạch. Lại nữa, trong thời-gian kiết kỳ trì chú, người ấy chớ nên nói chuyện hí-hước, tạp nhạp, không nên khởi tâm hờn giận, hoặc ham tưởng sự ăn uống ngủ nghỉ, cùng sự dục lạc ngoài đời. Phải giữ lòng thanh tịnh,tin tưởng, thành kính.
b- Về mặt lập đàn tụng niệm:
Theo đúng pháp, người trì chú nào phải thờ vị bổn- tôn của chú ấy. Như trì chú Đại – Bi thì phải thờ tượng Thiên-Nhãn, hoặc tượng Quán-Âm 24 tay, 18 tay, 8 tay, 4 tay, hay ít lắm là tượng Quán-Âm thường cũng được. Nên để tượng day mặt về phương tây. (Theo quyển « Bách lục thỉnh Quán-Âm nghi» thì nếu có tượng Bổn-sư,nên đề tượng Thích-Ca hướng về phương Nam, tượng Quán-Âm hướng về phương Đông). Đàn-tràng nên lựa chỗ vắng lặng sạch-sẽ, thường dùng hương, hoa, nước, trái cây, cùng các thức uổng ăn cúng-dường tôn tượng. Nếu có phương-tiện, treo tràng-phang, bảo-cái lại càng tốt. Thời-gian cầu nguyện, hoặc 7 ngày, 21 ngày 49 ngày nên giữ cho đúng. Trước khi vào đàn phải kiết giới y như kinh đã chỉ dạy. Trong một đêm, chia ra làm ba, bốn hoặc sáu thời, tụng niệm tiếp tục, tiếng tụng cần phải rành-rẽ, rõ ràng. Ngoài ra, nghi thức lễ bái trì niệm cũng cần phải biết và học thuộc trước.
Trên đây là nói về cách lập đàn kiết giới tụng niệm để cầu cho được mau hiệu nghiệm, nếu người thường tụng trì, không bắt buộc phải y theo lệ ấy. Nhưng trong hai phương- diện trên, gắng giữ được phần nào lại càng hay.
Chúng-sanh căn-cơ, tâm bịnh và sở-thích vô cùng, giáo-môn của Phật, Bồ-tát cũng chia ra vô-lượng. Dịch ra quyển nầy, tôi chỉ kính vâng theo bi-nguyện của chư Phật, Bồ- tát, và thuận với sự mong cầu, thích-hợp của hành-nhơn mà thôi. Nếu vị nào lấy tâm bồ-đề làm nhân, tùy theo chí nguyện, lựa một pháp-môn mà tu, đều có thể giải-thoát. Nhưng, chúng-sanh đời mạt-pháp phần nhiều là hàng trung hạ, ít có bậc thượng-căn, cần nương nhờ nơi tha-lực mới mong được kết-quả chắc-chắn. Tịnh-tông và Mật-tông đều thuộc về tha-lực pháp-môn, mà Tịnh-tông lại là chỗ qui- túc cho các tông khác. Nguyên xin các đồng-nhơn, từ đây dứt dữ làm lành, tin sâu lý nhân-quả, rồi hoặc chuyên niệm. Phật, hoặc lấy niệm Phật làm chánh, tụng kinh, trì chú hay tham thiền làm trợ, để tự tu và khuyên người. Như thế mới là mưu hạnh phúc cho chính mình, cho thân-nhơn và tất cả sanh-loại. Như thế mới có thể chuyển họa thành phước, đổi cảnh trạng thống-khổ trước mắt thành cảnh-giới an-ổn, vui tươi. Để rồi ngày lâm-chung lại được cùng nhau chân bước lên chín phẩm liên-đài, thân ra khỏi ba ngàn thế-giới, thấy Di-Đà trong hiện-kiếp, chứng giác-đạo nơi tương-lai.
Như vậy chẳng là quí hơn ư?