49. Học Thần Thông Ðể Báo Thù ?
Milarepa là người Tây Tạng. Ðộng cơ khiến y tu đạo chẳng phải để cứu độ chúng sanh mà để báo thù cho cha mẹ. Cũng vì lúc khởi đầu mục tiêu không chánh đáng nên y mới lạc vào đường trắc trở, khiến cho tư tưởng và hành vi chẳng khác gì a-tu-la. Ý muốn thường xuyên của y là tiêu diệt người ta, trừ mình y ra, đó là điều trái hẳn với đạo. Người tu đạo không thể mang tâm sân hận, nuôi chí báo thù, nếu không sẽ biến thành quyến thuộc của Ma vương.
Về sau, do công tu mang lại chút ít thành tựu, y dùng mật chú và thần thông để báo thù rửa hận. Kết quả thì thù đã trả xong, hận đã được rửa sạch. Có điều những hành vi của y không những làm trở ngại việc tu đạo, mà còn phản lại tinh thần từ bi của người tu. Phàm là người tu đạo, phải lấy từ bi làm gốc, mà tùy nghi hành động. Y thì trái ngược hẳn lại, trong tâm chỉ có sự cống cao ngã mạn, không coi ai ra gì, chẳng riêng đối với người tại gia mà còn khinh thị đối với hạng xuất gia nữa. Cái đó là do y chỉ biết một mình y, ngoài ra không biết tới ai khác. Y đã có những loại ý tưởng đó thì chẳng ai nói gì cho y hiểu được.
Dụng công tu đạo bằng tâm oán hận thì dù tu trong bao lâu cũng vẫn còn tư tưởng thù hận. Y dùng mật chú và thần thông để làm công việc báo cừu và rửa hận, nhưng có biết đâu như vậy là đã sai lầm nhân quả, tương lai sẽ phải chịu quả báo. Hành động như vậy là do quan niệm sai lầm, và tôi nghĩ rằng y cũng biết điều đó. Tuy nhiên, biết thì có biết, mà tâm tưởng đã bị sân hận chi phối rồi, đâu còn tự mình làm chủ được nữa, do đó mới hành động điên đảo, và kết quả đã đưa y vào cảnh giới ma vương, thật là nguy hiểm.
Ai ai cũng biết làm việc thiện là đúng, nhưng không ai muốn làm. Tại sao? Bởi làm việc thiện thì chẳng thấy gì hay. Như giữ giới chẳng hạn, là một điều tốt, nhưng không ai giữ giới cả. Theo đúng quy củ là tốt, nhưng mọi người không theo.Tất cả đều biết rõ không giữ giới, không giữ quy củ là không đúng, nhưng cứ phạm lỗi hoài, hết thẩy mọi thứ đều như vậy, suy ra khắc biết. Chẳng qua cái đó là do căn cơ hạ liệt và lười biếng mà phát sanh ra. Cái đó, nói cho ngay, không có gì là cao thượng là đạo đức cả. Có câu nói: “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt,” hạng người nói trên không muốn đi lên, mà chỉ muốn đi xuống (hạ đạt), đúng là không có thuốc chữa.
Tôi thường nói:
Tu đạo như đăng bách xích can
Hạ lai dung dị thượng khứ nan.
Nghĩa là: Tu đạo cũng giống như leo lên cây sào cao trăm thước, leo xuống thì dễ, leo lên thì khó. Hôm nay tôi nêu ra tà tri tà kiến của Milarepa để chúng ta cảnh giác. Nói tóm lại, tu đạo phải có lòng “vô duyên từ,” có tư tưởng “đại bi đồng thể,” học hỏi tinh thần của Tiên Nhẫn-nhục (một trong những tiền thân của đức Phật), khoan thứ mọi người mới xứng đáng là đệ tử Phật.
50/. Bốn Kiếp Thành, Trụ, Hoại, Không của Thế Giới
Thế giới nhiều vô kể, vô lượng, vô biên. Mỗi thế giới (tinh cầu) đều trải qua bốn kiếp là thành, trụ, hoại, không. Chẳng qua, trí huệ của chúng ta hạn hẹp, chưa tới trình độ để biết tận cõi hư không, cùng khắp pháp giới, chúng ta chỉ biết thế giới này mà không biết tới vô số các thế giới khác nữa.
Hiện nay, tuy khoa học có nhiều sự tiến bộ, đã đưa người lên được mặt trăng, một thế giới khác, nhưng cũng không thấu hiểu hết tình huống của nó. Cái thế giới nguyệt cầu với thế giới địa cầu của chúng ta không giống nhau. Thế giới của chúng ta trải qua bốn tướng là thành, trụ, hoại, không và các thế giới khác cũng có bốn tướng như vậy, chỉ có khác là bốn tướng đó không phát sanh đồng thời với nhau. Tại thế giới này thì tướng hiện tại là thành, thì thế giới kia đương có tướng trụ, thế giới kia nữa là tướng hoại, hoặc là tướng không; do đó, không cùng chung một tướng, nên chúng ta không biết rõ tình huống của các thế giới khác.
Không những không biết rõ các thế giới khác ra sao mà ngay thế giới này, chúng ta cũng không có sự hiểu biết minh bạch. Khi ông Kha-luân-bố chưa phát hiện ra “Tân thế giới,” nghĩa là chưa ai biết tới Tây bán cầu này chẳng hạn, người ta chỉ nghĩ rằng trời thì tròn, đất thì vuông. Sau khi khám phá ra Tân thế giới, người ta mới chứng minh được quả đất là tròn, do đó người ta mới gọi nó là địa cầu.
Bây giờ, ai ngồi trong phi thuyền không gian mà ngắm cảnh địa cầu, thấy nó cũng giống như trái banh lơ lửng giữa không trung, xem cũng lý thú!
Gọi là “Tân thế giới” nhưng nó chẳng phải “tân” (mới)mà là “cựu” (cũ). Chưa phát hiện ra thì tưởng nó không có, khi phát hiện rồi thì gọi là tân, đó chẳng qua bởi sự chấp trước vào tâm phân biệt của mọi người mà thôi. Con người ta, trong tư tưởng, trong nhãn quan có sự phận biệt mới cũ, kỳ thực mọi sự đều nằm trong sự biến hóa của bốn tướng thành, trụ, hoại, không.
Thế giới có thành, trụ, hoại, không, thì con người cũng có thành, trụ, hoại, không, đủ cả bốn tướng. Từ lúc sanh ra có mặt với đời, đến khi đi học, đó là thời kỳ thành. Học hỏi xong thì thực hành theo chí hướng, đó là thời kỳ trụ. Về sau thì già yếu, đó là thời kỳ hoại. Hết già là chết, chết tức là thời kỳ không. Thành, trụ, hoại, không tức là sanh, bệnh, lão, tử.
Sau thời kỳ sanh thì đến thời kỳ bệnh. Ai cũng có bệnh của người ấy. Có người bảo: “Pháp sư ơi! Không thể nói chung chung như vậy được. Có người thân thể không được khoẻ mạnh, họ có bệnh, nhưng có người thân thể khang kiện, họ đâu có bệnh gì?” Quí vị thấy thân thể họ không có bệnh, nhưng trong tâm họ có bệnh, nói tóm lại không có ai mà thân tâm lại không có bệnh. Cứ cho rằng thân và tâm cả hai đều không bệnh, nhưng đâu phải vĩnh viễn như vậy. Về phương diện sinh lý có thể chắc là không bệnh, nhưng tâm lý thì có chắc hay không? Ít nhiều cũng phải có, chẳng có bệnh nhỏ thì cũng là loại bệnh do tập khí, do chấp trước mà sanh ra, những thứ không nhận ra chúng, không xả bỏ chúng được, như vậy là bệnh rồi. Nhận không ra, buông xả không được tức chẳng thể giải thoát.
Ði về không tự chủ, sanh tử không tự do, tức là có bệnh. Không làm chủ được mình, không giữ cho mình được trẻ mãi không già, không bao giờ chết, đó cũng là bệnh. Nếu mà làm chủ được chính mình, nghĩa là có thể bảo thân này phải luôn luôn trẻ trung khỏe mạnh, không bao giờ mắt bị hoa, tai bị điếc, tóc bị bạc, răng bị long. Quý vị có làm được vậy không? Nếu không làm được là có bệnh.
Có người nói: “Ngày nào tôi cũng vận động, thân thể rất khỏe mạnh, tay chân nhanh nhẹn, đi mau lẹ như bay, chẳng đau bệnh gì.” Vậy anh có dám bảo đảm sẽ trẻ mãi, sẽ sống mãi không già? Sợ rằng không giữ được như vậy đâu! Vì sao? Vì trong tâm anh có bệnh. Bệnh gì? Bệnh tham, bệnh sân, bệnh si. Tham không biết chán, càng nhiều càng tốt. Tham cầu mà không được bèn nổi nóng, lúc đó trí huệ không lấn át được tâm tình, đầu óc thành hồ đồ. Những vụ giết người, đốt nhà cửa cũng từ chỗ đó mà ra, như vậy chẳng phải bệnh là gì?
Thời gian niên thiếu báo hiệu một sự bắt đầu của già nua. Cũng như thế, bệnh chính là khởi thủy cho sự chết. Nói chung, con người là một tiểu thiên địa, nên cũng có bốn tướng. Hiểu thấu được ý nghĩa này thì không còn chấp trước vào cái túi da hôi này, không âu yếm nó như một thứ quý giá. Nếu thật tình không chấp vào thân thể này thì đó là vô ngã chân chánh, vậy là thiên hạ thái bình, chẳng còn chuyện gì phiền phức.
Con người ở trên thế gian này, chỉ biết có cái thế giới nhỏ nhoi này mà thôi, cho nên muốn tìm hiểu cho đến tận cùng nó như thế nào. Nhưng, nghiên cứu đi nghiên cứu lại, rồi cũng thế, khi đến thì hồ đồ, ra đi cũng hồ đồ. Vừa hiểu được minh bạch thì đã ôi thôi! Ra đi! Chờ kiếp sau vậy! Tới kiếp sau lại tiếp tục nghiên cứu, nhưng nghiên cứu thêm chẳng được bao nhiêu thì quỷ vô thường đã tới, lại mời đi gặp Diêm Vương. Kiếp này mà việc sanh tử không lo nghiên cứu cho xong thì thử hỏi còn chờ đến bao giờ nữa? Tôi hy vọng quý vị coi trọng vấn đề này để dụng công nghiên cứu một phen, chớ để nó trôi qua uổng phí, phải nhớ rằng:
Nhân thân nan đắc kim dĩ đắc
Phật pháp nan văn kim dĩ văn
Thử thân bất hướng kim sanh độ
Cánh hướng hà sanh độ thử thân?
Dịch nghĩa là: Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó được nghe nay đã được nghe, kiếp này nếu chẳng độ được thân này, thì đến kiếp nào mới độ được?
Chúng ta phải coi đó là điều cảnh giác, thường xuyên lấy đó làm cái gương soi lại chính mình.
Nói xa xôi hơn thì có vô lượng thế giới mà chúng ta không thể biết được rõ ràng, điều này chẳng cần phải nhắc lại. Riêng giữa người với người, còn biết bao nhiêu vấn đề mà chúng ta cũng chẳng hiểu thấu. Tại sao vậy? Vì vọng tưởng quá nhiều. Lý do gì mà vọng tưởng lại nhiều như vậy? Vọng tưởng từ đâu mà tới? Không ai biết. Thậm chí sự nóng giận, tham sân si, cũng ở đâu mà tới vậy? Nói chung không thể biết. Tự chúng ta có vấn đề gì, có nhiều hay ít? Hiểu thấu tới đâu? Tất cả đều không biết.
Những điều nói trên chẳng phải dễ gì mà biết cho tường tận, mà chính chúng ta cũng chẳng muốn biết chúng cho tường tận. Vì cớ gì ? Bởi vì cả ngày chúng ta chỉ biết tranh danh đoạt lợi, nên chẳng có thời giờ nào nghiên cứu các vấn đề đó. Thản hoặc có người tỉnh ngộ muốn nghiên cứu mình ở đâu mà đến, chết rồi đi về đâu, nhưng do không gặp được thiện tri thức hướng dẫn, chỉ biết tu trong sự mù quáng, không nắm được yếu lý của sự tu hành, nên cuối cùng đã uổng phí công phu, tệ hơn còn bị tẩu hỏa nhập ma nữa. Cho nên tu đạo chẳng phải là một chuyện dễ dàng.
Chẳng cần nói qua phạm vi các thế giới khác, chỉ riêng thế giới này, giữa người với người mà cũng toàn là những vấn đề chúng ta không nắm vững. Vấn đề của bổn thân chúng ta, chúng ta cũng chưa nghiên cứu rõ thì làm sao nghiên cứu được vấn đề của người khác? Vấn đề của ta và của người chưa minh bạch thì vấn đề về các thế giới làm sao cho minh bạch? Làm sao mà giải quyết được? Vậy thì chẳng giải quyết nữa ư? Không phải vậy! Nhất định là phải giải quyết! Nếu không, thế giới sẽ bị hủy diệt. Giải quyết cách nào? Cách duy nhất là chuyên tâm tu đạo, chứng quả ngũ nhãn, lục thông, thì tự nhiên sẽ hiểu hết những điều bí ẩn của vũ trụ, thông suốt luôn một lần. Khi đã biết rõ nội tình, thì có thể cải thiện nhân tâm, trừ bỏ ba độc tham, sân, si. Lúc đó mọi vấn đề đều được giải quyết trực tiếp, thế giới sẽ hòa bình, vĩnh viễn không còn tranh chấp, thế giới sẽ không bị hủy diệt. Nếu ai không tin, xin hãy nhắm mắt lại rồi nghiền ngẫm. Nếu chiến tranh thứ ba trên thế giới mà bùng nổ, thử hỏi hậu quả sẽ ra sao? Mọi người ắt hiểu rằng kết quả là tình trạng “đồng quy ư tận,” cùng về chỗ tận diệt. Lúc đó chính là thời kỳ không kiếp.
51/. Xuất Gia – Bố Thí Một Cách Triệt Ðể
Trong hàng Bồ-tát có Ðại Bồ-tát, giầu có sang trọng, có nhà cửa trang hoàng lộng lẫy, với đủ các loại vật dụng tinh mỹ phục vụ cho đời sống. Giầu sang như vậy, nhưng nếu có ai muốn đến cầu xin thứ gì, Ðại Bồ-tát bèn cho ngay không chút ngần ngại. Bồ-tát tu pháp môn bố thí thì hoàn toàn không để ý gì đến gia đình của mình, vì trong tâm đã sớm lìa hẳn quan niệm về gia tộc. Bồ-tát đã hiểu thấu ý niệm không về gia đình, vì gia đình chẳng qua là do nhân duyên hòa hợp mà có, duyên hết thì lại phân ly, có gì đâu mà phải chấp trước? Bồ-tát vốn đã nhàm chán tất cả của cải trong nhà, từ động sản đến bất động sản, cùng những thứ vật dụng hàng ngày. Trong sự sanh hoạt thường ngày, vốn đã không ham thỏa mãn ngũ dục, không mặc đồ đẹp, ăn đồ ngon, cho nên trong tâm không bị ràng buộc về các nhu cầu vật chất. Vốn hiểu rằng gia đình cũng sẽ tới lúc phân tán, chớ không thể tồn tại mãi, do đó Ðại Bồ-tát thường tỏ ra lạnh nhạt trong tình cảm đối với gia đình, chỉ muốn ly khai hẳn với cuộc đời thế tục, để xuất gia tu đạo, cầu giải thoát khỏi vòng tam giới. Ðến người thân trong gia đình, như vợ thì coi như cái gông đeo cổ, con là cái xích buộc chân. Tình nhi nữ chính là cái còng, một khi tay bị khóa thì còn nhúc nhích gì được? Thân thể mỗi cá nhân đều bị trói buộc như vậy, ngay cả hít thở cũng không tự do, còn nói gì đến ước mong được tự tại? Tình huống như vậy có cái gì để chúng ta luyến tiếc nữa?
Bồ-tát khám phá ra điều đó, bèn buông bỏ hết, và để thoát ra khỏi cảnh bức bách của gia đình nên mới xa lánh cuộc đời thế tục và tu học hạnh Bồ-tát. Tám vạn bốn ngàn pháp môn mà đức Phật dạy cho thế gian để tu tập là con đường dẫn tới đạo quả Bồ-đề, và để trang nghiêm tự thân. Vứt bỏ những vật ngoại thân như tiền tài mà chẳng hối tiếc. Những tác phong như vậy của Bồ-tát đều được mười phương chư Phật tuyên dương và tán thán như sau: “Hay lắm! Hay lắm! Thiện nam tử! Ông thật là tinh tấn, phát tâm Bồ-đề rộng lớn như vậy, làm những việc người ta không làm được, vứt bỏ gia tài nhà cửa, những cái người đời không vứt bỏ được, hết thảy mọi thứ mình có đều mang bố thí cho người mà không hối hận, không luyến tiếc, không chấp trước, những việc thật khó làm.” Bồ-tát thấy có người đến cầu xin mình thì cảm thấy trong lòng hoan hỷ vô cùng, cho là mình hết sức may mắn mà gặp được cơ hội để thực hiện đại bố thí.
Xuất gia là một việc khó. Xá kể chi việc cắt tóc cạo râu, đắp áo cà-sa, nói vài câu “cơ phong,” mở miệng ra nói về Phật về Pháp, nói đạo lý trong kinh sách, hoặc ngồi yên nhắm mắt tham thiền. Những hành vi đó có thể gọi là mặc áo Phật, ăn cơm Phật, biểu diễn vai trò của kẻ xuất gia. Nếu quả như lời nói đi đôi với việc làm, một lòng tha thiết từ bi đối đãi với người với vật, trước mặt sau lưng lúc nào cũng vậy không sai trái đạo, được như vậy mới đúng là kẻ xuất gia.
Xuất gia có ba loại:
Thân xuất gia, tâm không xuất gia.
Tâm xuất gia, thân chưa xuất gia.
Thân tâm đều xuất gia.
Trong số xuất gia cũng ba loại trình độ, tùy theo công phu tu trì mà đoán định.
Xuất thế tục: Ðây là nói chung về các đệ tử xuất gia; các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Sa-di, Sa-di-ni.
Xuất phiền não vô minh: Ðây là nói về cảnh giới tu trì của quý vị đã xuất gia, tự mình tu tự mình biết chứng tới đâu, có điều xuyên qua tác phong nói, nín, động, tĩnh của mình, người ngoài cũng có thể biết được. Một cá nhân xuất gia tu tập thì mỗi ngày tập khí càng giảm thiểu, sự biểu hiện của tham, sân, si cũng bớt dần, như lời cổ đức nói: “Từng phần phá vô minh, từng phần pháp thân chứng.” Quý vị này đều tỏ ra cố gắng xông ra khỏi vô minh phiền não và hướng tới con đường Bồ-đề.
Xuất khỏi tam giới: Ðây là mục tiêu tối hậu của người xuất gia và cũng là của hết thảy bẩy chúng trên đường tu học Phật đạo. Mục tiêu đạt được chính là thời điểm đoạn trừ sanh tử một cách vĩnh viễn, rồi sau đó do nguyện lực của mình mà tự do đi về trong chín pháp giới để độ hóa chúng sanh, đạt được cái an lạc đệ nhất của người xuất gia.
Bồ-tát còn phát nguyện rằng tất cả chúng sanh có thể thoát ra ngoài sự trói buộc của gia đình, để nhập vào gia đình của chư Phật, tu học các pháp môn do Phật chỉ dạy, và siêng năng tu phạm hạnh. Bồ-tát lại nguyện rằng hết thảy chúng sanh từ bỏ hết tâm tham lam keo bẩn, biến thành tâm hoan hỷ ưa hỷ xả bố thí, lấy sự ban bố tài vật làm niềm vui, vĩnh viễn không sanh tâm thối chuyển. Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh lìa những quan niệm về gia đình thế tục, không màng tới những gì gọi là thăng quan tiến chức, dương danh hiển thân, cùng những pháp thế gian về nối dõi tông đường, lại càng không tham đồ bất nghĩa, tích trữ đầy nhà, của quý đầy kho, những thứ đó đều là mầm mống sanh ra tai ương ác nghiệp. Người xưa nói: “Ða tàng tất hậu vong.” Chứa cho nhiều, mất càng thảm. Lại có câu: “Thân biên vô ái vật, tự vô phiền não sanh,” bên mình không có vật quý, phiền não vốn chẳng sanh. Người xưa nói quả là không sai, cuối cùng lúc ra đi cũng chỉ hai bàn tay không. Bồ-tát dạy cho chúng sanh nên bớt dục vọng, sống cho hồn nhiên trung thực, tự nhiên niềm vui sẽ phát sanh.
Bồ-tát lại nguyện hết thảy chúng sanh mau mau vượt ra ngoài phiền não do đời sống thế tục trói buộc, học Phật pháp tu hạnh thanh tịnh, để mai sau được hội nhập trong nhà của Phật, cùng ở với Phật một nơi. Lại nguyện hết thảy chúng sanh học được pháp cứu cánh viên dung vô ngại, loại trừ hết sự chướng ngại của các pháp ô nhiễm, và được thanh tịnh tự tại. Lại nguyện hết thảy chúng sanh, lìa khỏi tình cảm yêu thương của gia đình, tuy thân còn tại gia, nhưng lòng không còn chấp vào tình cảm quyến thuộc. Lại nguyện hết thảy chúng sanh, biết khéo léo khuyên răn và hướng dẫn những ai còn đắm đuối trong tình cảm gia đình, khiến họ hiểu được gia đình chỉ là một tổ hợp giả tạm do nhân duyên tạo nên để lòng họ bớt sự chấp trước. Bồ-tát nêu lên đạo lý về nhân sanh mà Phật đã giảng dạy để chỉ dẫn cho số người mê lầm không ra khỏi được các pháp thế tục về gia đình, khiến họ tin theo Phật pháp, tu học Phật pháp, minh bạch Phật pháp, không còn vướng mắc sự trói buộc của gia đình. Lại nguyện hết thảy chúng sanh, tuy thân còn gởi lại với gia đình, nhưng tâm thường tùy thuận theo trí huệ của chư Phật, thực hành làm việc đạo, an trú trong bất động. Lại nguyện hết thảy chúng sanh, tuy nay chưa xuất gia, còn sống đời cư sĩ, nhưng tâm nguyện của họ đã đặt vào nơi chư Phật, và có thể phổ cập tới vô lượng vô biên chúng sanh, để tất cả đều phát tâm hoan hỷ, phát tâm Bồ-đề rộng lớn. Ðó là đại Bồ-tát trong hàng Bồ-tát, khi bố thí nhà cửa đã vì chúng sanh mà thực hiện hồi hướng thiện căn. Chính là mong cho chúng sanh thành tựu được những điều trong các đại nguyện của Bồ-tát, cùng với các loại thần thông và trí huệ.
Lược trích từ Hoa Nghiêm Kinh Ðệ Lục Hồi Hướng Giảng Từ
52/. Lòng Bồ Tát Như Lòng Mẹ Thương Con
Quý vị thiện tín! Quý vị thử nghĩ xem làm Bồ-tát khó hay không khó? Bồ-tát sống trong cảnh giới thần thông, xả thân mình, lấy da thịt xương tủy của mình để làm của nội tài bố thí, cùng lấy thành trì, vợ con, các đồ bẩy báu để làm ngoại tài bố thí, thì như vậy chẳng phải là việc dễ làm. Không nói rằng người đời coi chuyện chia xẻ tiền của cũng khó khăn chẳng khác cắt da thịt của mình, đàng này Bồ-tát lại còn tự nguyện xả thân mình cam tâm làm nô bộc cho người khác, cái đó mới thật là khó. Nếu bất cứ ở đâu chúng ta cũng không chiếm phần lợi về cho mình, mọi hành vi cử chỉ đều phát ra từ lòng từ bi, không phải từ các tâm tham, sân, si mà hoàn toàn vì lợi ích của người khác, thì đó là việc làm của các Bồ-tát sống. Cái này chẳng phải là dễ dàng hay sao? Nhưng, việc dễ như vậy mà có một số không muốn làm, việc khó càng không muốn làm. Quý vị nghĩ xem, Bồ-tát có đáng thương hay không? Các Ngài phát trăm ngàn vạn lời nguyện lớn, xả hết các căn lành đầu, mắt, não tủy, để hoàn toàn hồi hướng cho các chúng sanh, từng ngày từng khắc đều mong mỏi chúng ta nhận được lợi ích hồi hướng đó để thành Phật thành thánh. Vậy mà chúng ta vẫn còn thản nhiên vui hưởng trong nhà lửa tam giới, trong biển khổ thế gian, vậy thì quý vị thấy Bồ-tát có đáng thương hay không? Tuy nhiên, Bồ-tát vẫn quyết tâm, không thoái chí, vẫn làm việc cứu độ chúng sanh, giáo hóa chúng sanh, đem sanh mạng và tài sản bố thí cho chúng sanh, mang công đức căn lành để hồi hướng đến chúng sanh, với hy vọng chúng sanh được thành Phật, thành Thánh, thành Tổ.
Quý vị! Nếu quý vị đã từng làm mẹ, thì có thể thể hội được lòng dạ của Bồ-tát, cũng giống như sự ân cần, tha thiết, và tế nhị của các bà mẹ khi chiều lòng con cái. Ai làm mẹ cũng chẳng quản thân mình yếu ớt; khi phải lo cho con cái vẫn hết lòng hết sức, quyết dấn thân vì lợi ích của con mình. Trong thời kỳ thai nghén, người mẹ đã bắt đầu tính toán, xây mộng về đứa con tương lai với mọi điều tốt đẹp, nào là nó sẽ được đủ vẻ thông minh tài trí hơn người, nào là nó sẽ làm cho vẻ vang giòng họ, tổ tiên, vượt lên trên cả trăm vạn người khác. Ðến khi đứa bé ra chào đời, nghe thấy tiếng khóc oe oe đầu tiên của nó, rồi thấy được mặt mũi nó bé nhỏ, đỏ hỏn, thì ngay trong cái sát-na đau đớn phải chống trả trước sự hiểm nghèo thập tử nhất sinh, chỉ một tiếng khóc đó đã có thể xóa hết biết bao nhiêu hình ảnh gian khổ của người mẹ trong khoảng thời gian mười tháng mang thai. Sau đó, ngày tháng đắp đổi, ba năm bú mớm, bồng bế chăm chút, sợ con khó nuôi, mới cầu thần bái Phật, đốt hương thỉnh nguyện, cầu cho nó không nạn không đau, mong nó sớm thành người. Tới lúc con trưởng thành, đứa con nào không phụ lòng cha mẹ thì một nhà hoan hỷ. Tuy nhiên cũng có đứa ngỗ nghịch bất hiếu, phạm thượng, hành hung tôn trưởng, gian tà, phạm pháp, để lụy cho cha mẹ. Ấy vậy mà, làm mẹ thì lúc nào cũng thương con, không thất vọng vì con, vẫn cứ coi con mình là hay, không thua con nhà khác. Quý vị! Lòng người mẹ như vậy đó! Lòng thương của Bồ-tát đối với chúng sanh cũng giống như vậy. Phật nói ơn cha mẹ khó đền đáp, vậy ơn của Bồ-tát đối với chúng ta làm sao có thể báo đáp trong muôn một? Mỗi người trong chúng ta cũng phải từng giờ từng khắc ghi nhớ hai tầng ân đức này. Bất cứ kẻ tại gia hay xuất gia phải biết học tập từ bi làm đầu, và đối xử với người bằng tâm khoan hậu. Nếu các điều căn bản này mà không làm được, thì sợ rằng trên đạo lộ Bồ-đề, không ai thấy vết chân của quý vị.
Lược trích từ Hoa Nghiêm Kinh Ðệ Thập Hồi Hướng Giảng Từ
53/. Zero: Ðại Quang Minh Tạng của Tự Tánh
Từ kiếp vô thủy cho đến nay, các chúng sanh cứ lưu chuyển trong vòng luân hồi, hết đi lên rồi đi xuống mà không ra khỏi vòng sanh tử, chẳng khác gì một hạt bụi nhỏ, phiêu dạt bất định, khi bay lên trên trời khi rớt xuống đất. Chúng sanh thì khi làm thân người, khi là a-tu-la, khi là thú, khi là quỷ đói, chẳng có sự bắt đầu và chẳng có sự chấm dứt.
Khi nào chứng quả thành Phật thì lúc đó mới thoát ly cái khổ của luân hồi. Khi chưa thành Phật thì vẫn còn phải luân chuyển trong vòng lục đạo. Hàng Bồ-tát vẫn còn phải vượt cái si mê “cách ấm,” hàng la-hán còn si mê vì “thai trụ,” hàng pháp thân đại sĩ thị hiện ở thế gian, độ khắp chúng sanh, có lúc còn vướng vào sanh tử, đầu óc hôn mê không biết đường ra khỏi.
Vô thủy tức là không có khai thủy – bắt đầu, vô chung là không có sự chấm dứt. Tỷ dụ như chữ O, chữ này không có chỗ nào là chỗ bắt đầu, và chỗ nào là cuối, nguyên nó là như vậy. Nếu cắt chữ O ra thì lúc đó nó thành chữ nhất (-), và chữ này có chỗ bắt đầu. Bắt đầu cái gì? Bắt đầu số mục. Ðã có nhất là một, thêm một gạch nữa thành hai, lại thêm nữa thành ba. Cứ như vậy thêm nữa sẽ lên đến mười, rồi một trăm, rồi một vạn. Từ vạn đến ức, từ ức đến triệu, cho đến những con số vô cùng tận.
Bây giờ đương trong thời đại khoa học, mỗi ngày, mỗi tháng một khác, đổi thay rất nhanh theo độ gia tốc. Người ta dùng hỏa tiễn bắn vệ tinh lên không trung, cho vào quỹ đạo để chúng tự vận hành không ngưng nghỉ. Rồi phi thuyền này gặp gỡ phi thuyền kia trên không gian, đâu chẳng phải là sự diễn tiến từ sự bắt đầu của số mục? Phải dùng con số mới có thể tính toán, có tính toán mới có kỹ thuật ráp nối, và có con số tính toán mới có thể điều hợp các thời điểm ráp nối. Cứ phát triển số mục như vậy thì trong tương lai chẳng lúc nào chấm dứt.
Khi nào là lúc chấm dứt? Hiện tại không ai biết. Thời điểm chấm dứt thì phải chờ cho hết bốn kiếp thành, trụ, hoại, không, tức là đến không kiếp. Thành là bắt đầu, không là chấm dứt. Kiếp thành có hai mươi tiểu kiếp, trụ có hai mươi tiểu kiếp, hoại có hai mươi tiểu kiếp, không có hai mươi tiểu kiếp. Tám mươi tiểu kiếp thành một đại kiếp. Ðời sống của trái đất chỉ kéo dài trong thời gian một đại kiếp.
Trong số chúng sanh từ thời vô thủy, đàn ông có trước hay đàn bà có trước? Ta cứ cho rằng đàn ông có trước chẳng hạn, vậy nếu không có đàn bà thì lấy đâu ra đàn ông? Lại thí dụ đàn bà có trước, nếu vậy không có đàn ông thì lấy đâu ra đàn bà? Vô thủy là như vậy, chẳng biết bắt đầu từ đâu.
Hoặc giả lấy thí dụ như gà có trước hay trứng có trước? Ðiều này cũng không ai nghĩ ra được, vậy rốt cuộc nó như thế nào? Ý nghĩa của nó có thể tóm tắt trong chữ O. Cho nên chữ O này, vốn không có bắt đầu, không có cuối, không ở trong không ở ngoài, không lớn không nhỏ. Thâu gọn nó lại, nó là một hạt vi trần, cho nó phình ra thì nó là một pháp giới, cho đến tận cùng hư không, khắp pháp giới cũng không vượt quá phạm vi của chữ O. Chữ O là nguồn gốc của sự sanh hóa bất tận, nó là chân không diệu hữu của vô thủy và vô chung. Chữ O phóng đại ra là chân không, thu nhỏ lại là diệu hữu.
Chân không diệu hữu chính là chân không bất không sinh diệu hữu. Diệu hữu phi hữu không có chướng ngại với chân không. Không và hữu là chẳng phải hai, không tức hữu, hữu tức không, đó là nghĩa của trung đạo rốt ráo, và cũng là chân thật nghĩa của pháp Ðại thừa.
Lúc vô thủy, chữ O này là chân không diệu hữu. Chân không chẳng phải là ngoan không, còn diệu hữu chẳng phải là thực hữu, mà lại viên dung vô ngại, là nghĩa của trung đạo không thiên lệch bên nào. Quý vị! Nếu ai hiểu rõ được đạo lý này thì hiểu được pháp chân thật. Người nào không hiểu tức là người hồ đồ, không phải là người có trí huệ chân chánh.
Ðối với người khai ngộ, chữ O là trí huệ đại quang minh; nếu chưa khai ngộ, chữ đó là vô minh đại hắc ám. Vô minh cũng là cái O, mà trí huệ cũng là cái O. Chữ O có khi rất lớn, đến độ không có gì ở ngoài nó, đại nhi vô ngoại, có khi rất nhỏ, nhỏ tới độ không có cái gì ở trong nó, tiểu nhi vô nội. Nói về lớn, không có gì lớn hơn nó; nói về nhỏ, không có gì nhỏ hơn nó. Chữ O này, nếu như lớn mà hóa, biến đổi vô hình, thì nó là nguồn gốc của thanh tịnh, tính chất của diệu chân như; như nó nhỏ mà ẩn tàng thì nó là một niệm vô minh lúc ban đầu. Ðó là nghĩa của vô thủy.
Tại sao chúng sanh cứ luân hồi trong sanh tử? Bởi không thể hội được pháp chân thật. Do đó chư Phật thấy chúng sanh rất đáng thương, và vì thương xót chúng sanh nên mới phát tâm đại từ bi, xuất hiện nơi thế gian giáo hóa chúng sanh lìa khổ để tới cảnh an lạc. Phát tâm Bồ-đề, trên thì cầu Phật đạo, dưới thì hóa độ chúng sanh, tức là tu con đường giác ngộ vô thượng.
Chúng ta thọ quả báo trong sáu nẻo luân hồi bởi vì trong tâm chúng ta đã tạo nên những nghiệp, tạo nghiệp loại gì thì thọ nghiệp báo về loại đó. Nói rộng ra, nếu kiếp trước khởi vọng tưởng thuộc loại về các tầng trời thì có thể sanh trong cảnh giới trời; có vọng tưởng địa ngục thì đọa địa ngục. Nếu tạo nghiệp xấu, thì sanh vào ba nẻo ác. Nếu tạo nghiệp có công đức thì sanh vào ba nẻo thiện. Ấy là đại lược như vậy, nếu muốn nói thật chi tiết thì nói tới kiếp sau cũng không hết.
Thế giới này là do vọng tưởng của chúng sanh mà cấu tạo nên. Nếu chúng sanh không có vọng tưởng, thì thế giới này là không. Cũng vì chúng sanh không thể hội được pháp chân như thật tướng, pháp chân không diệu hữu, nên thế giới mới tồn tại.
Pháp chân không diệu hữu chính là chữ O. Thế giới do chữ O mà có, chúng sanh do chữ O mà sanh. Hết thảy mọi thứ đều sanh từ chữ O, bởi lẽ chữ O không nằm trong số mục, nó phóng đại ra thì trọn cả lục hợp, nó co rút lại thì ẩn tàng. Ðó cũng là cảnh giới của vô thủy vô chung, của cái không trong không ngoài, không lớn không nhỏ.
Pháp chân thật này chính là chân không diệu hữu. Chân không nhưng chẳng không, tại sao vậy? Bởi chân không có diệu hữu. Diệu hữu nhưng chẳng phải hữu, tại sao? Bởi nó có chân không. Cho nên có câu: “Chân không chẳng chướng ngại diệu hữu, diệu hữu không chướng ngại chân không.” Tất cả ý nghĩa trên mang lại đáp số cho các vấn đề nam trước hay nữ trước, gà có trước hay trứng có trước. Chỉ có chữ O mới trả lời thẳng vào các vấn đề nan giải như đã nói trên.
Tại sao chân không lại có thể sanh ra diệu hữu? Nó hiển hiện ra hết thẩy mọi thứ? Trong khi đó diệu hữu chưa từng rời khỏi chân không? Cảnh giới thuộc loại này không phải ai cũng tới được, trừ phi đã được khai ngộ pháp môn tâm ấn tâm của chư Phật.
Loại pháp chân thật này vốn đã sẵn có trong tự tánh, chẳng cần phải tìm kiếm đâu ở bên ngoài. Nếu cứ kiếm bên ngoài thì cả tám vạn đại kiếp kiếm cũng không ra. Như biết hồi quang phản chiếu thì ngay đó là nó, cho nên mới có câu: “Biển khổ không bờ, quay đầu là bến.” Nói một cách đơn giản, nếu chạy ra ngoài tìm kiếm thì đó là biển khổ không bờ. Nếu biết quay vào trong, dụng công trên tự tánh của mình thì ngay đó, quay đầu thấy bến.
Chúng ta từ sớm đến tối, xuôi ngược điên đảo, đuổi theo các vọng duyên, rong ruổi chạy theo sáu trần, bởi không hiểu diệu pháp chân thật. Trong khi ấy tại cõi Tịnh độ Thường Tịch Quang, chư Phật trong tư thế kiết-già, nhìn khắp hết thảy các chúng sanh, thấy chúng sanh quá ngu si, rất là đáng thương, suốt ngày chấp đông chấp tây, lấy khổ làm vui mà không biết quay về đường giác, không biết dùng cái giả để tu cái thật, không biết bỏ vọng quy chân, không biết quay về cái của chính mình. Bởi vậy từ trong định, chư Phật rủ lòng từ bi, thị hiện tới các thế giới hữu duyên để chỉ vẽ cho chúng sanh sự mê lầm và dạy chúng sanh mau quay đầu về bến giác. Rất tiếc chúng ta đã đuổi theo vọng duyên mà không nhận ra pháp chân thật. Phật thuyết pháp vì lòng thương xót chúng ta, giáo hóa chúng ta mà không nhàm chán, nhưng chúng ta đã vì ngu si không chịu nghe lời, chẳng những không y pháp tu hành, mà còn chùn bước thoái lui, không theo những lời chỉ dạy vàng ngọc. Phật lại còn nghĩ ra các biện pháp chạy theo chúng ta, chặn bước chân những chúng sanh cứng đầu bướng bỉnh, cố làm sao điều phục những kẻ khó giáo hóa. Ðó là lý do mà Phật đã thị hiện tại thế gian.
Pháp chân thật này không bao giờ bị phá hoại, thiên ma ngoại đạo không có cách gì phá hoại nó. Tại sao? Bởi chánh pháp vốn kiên cố như kim cang bất hoại. Nếu có thể hoại được nó thì nó chẳng phải là pháp chân thật.
Loại đại tự tại đại quang minh này có thể thị hiện khắp hết thế gian. Ðại tự tại tạng là pháp liễu sanh thoát tử, phá trừ vô minh, là pháp môn có thể hiển hiện ánh sáng của pháp tánh.
Quý vị! Nếu quý vị không tin, hãy thử cho biết. Sẽ tới lúc mà quý vị không thể không tin, không tin rồi cũng sẽ tin, bởi pháp nó là như vậy, chẳng có cách gì mà không thể tin được!
Cái đại quang minh tạng này vốn tự mình có sẵn, không phải do người khác bố thí cho mình, mà cũng không phải do chư Phật đã ban cho. Ðại quang minh tạng chính là thật tánh chân như. Nếu tu pháp chân thật này, thức a-lại-da (thức thứ tám) sẽ chuyển thành trí Ðại viên kính, tức là dứt đường sanh tử. Nếu như không tu hành nghiêm chỉnh, các hạt giống trong a-lại-da sẽ tùy theo nhân duyên mà chuyển thành sanh, sanh mãi bất tận, không có hạn kỳ, như vậy sẽ không giải thoát được.
Trích giảng từ Phẩm hai mươi bốn,
Kệ Tán Cung Ðâu Suất, Kinh Hoa Nghiêm
54/. Bạn Ðồng “Tham” Phải Ðộng Viên Nhau Tu
Những người có căn lành sâu dầy, tới chỗ nào họ cũng làm điều thiện. Châm ngôn của họ là vi thiện tối lạc, lấy việc thiện làm điều vui, và thường xuyên họ đinh ninh ghi nhớ. Trái lại, những kẻ có nghiệp chướng sâu dầy lại thường ham nghe những chuyện bất thiện, những chuyện trái đạo lý, mà họ cho là mẫu mực để noi theo. Thản hoặc có những thiện tri thức chỉ bảo cho họ những điều hay lẽ phải, họ cũng bỏ ngoài tai, nhưng đối với lời xúi dục của các ác tri thức bảo họ làm những điều không hợp lý thì họ lại nghe theo. Tại sao vậy? Bởi những gì hợp lý thì đi ngược lại tâm tưởng của họ, còn những gì bất hợp lý lại đáp ứng đúng ý muốn của họ. Bệnh của hạng người này là như vậy.
Nói chung bất cứ ai, cứ xem kỹ họ ham thích thứ gì là chúng ta có thể biết được căn tánh của họ ra sao. Kẻ lười biếng thích nghe người ta nói về các mánh lới lười biếng. Người tinh tấn lại ham nghe những câu chuyện về công phu tinh tấn tu hành. Có trường hợp người ta không chịu tinh tấn tu hành, chỉ chờ dịp để lười biếng cầu được an thân, nhưng bên cạnh các bạn đồng tham tu hành tinh tấn, họ cũng bị ảnh hưởng mà tinh tấn theo. Cũng có trường hợp người ta vốn tinh tấn nhưng vì ảnh hưởng các bạn xung quanh mà biến thành giải đãi. Bởi vậy đạo hữu cùng tham thiền với nhau phải động viên cho nhau, khuyến khích nhau để tất cả cùng tinh tấn hướng tới mục tiêu – đó là phát đại Bồ-đề tâm, tu đạo vô thượng giác, cùng chứng thánh quả Bồ-tát.
Người xưa nói rằng: Cư lân tất trạch, giao hữu tất thận, láng giềng ắt phải chọn, bạn chơi ắt phải thận trọng. Chọn bạn chúng ta cũng phải tìm nơi bạn tốt, chớ không thể giao du bừa bãi với hạng gian manh. Nếu không sẽ theo cùng với những kẻ hạ lưu làm chuyện xấu xa để thân bại danh liệt, vô phương cứu vãn, cuối cùng phải đọa địa ngục. Ðó là một điều nguy hiểm vô cùng, không thể không thận trọng!
Tại đạo tràng, tệ hại nhất là không chịu tu hành, đáng quý nhất là sự nghiêm chỉnh tu tập. Ai không tu thì tương lai kẻ đó bị đi xuống; ai tu hành thì tương lai sẽ đi lên. Người ta nói: “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt,” nên chúng ta tu tập ở đạo tràng, phải từng giờ từng khắc thận trọng, phải dẹp bỏ những ý nghĩ tà tri tà kiến giống như những hạng đầu cơ chỉ biết mánh lới để an thân. Tu hành phải dựa vào công phu thật sự của mình, thì mới có giá trị chân thật, tức là khai mở trí huệ. Nếu công phu chẳng chân thật, thì chẳng có gì là thành tựu được, bất kể kẻ đó là ai.
Tại đạo tràng, ai giải đãi, ai tinh tấn, người tinh mắt trông thấy hết. Người nào giải đãi sẽ không có hy vọng gì thành tựu, bởi lẽ người đó không để tâm vào tu hành. Giả sử lúc đó có người khác phụ họa theo thì rất là tai hại. Người thiện tri thức không chiều theo thị hiếu người khác, mà sẵn sàng phê bình sửa sai khi nhận thấy người nào làm sai trái. Giữa bằng hữu với nhau cũng vậy, nếu thấy bạn làm sai quy củ, vẫn phải dùng lời lẽ hơn thiệt để khuyên răn, mong cho bạn cải tà quy chánh. Người ta nói: “Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng,” đó mới đúng là bổn phận đối với bằng hữu, chớ không phải thương bạn mà để cho bạn mê lầm không nhận ra chân lý. Chúng ta tất cả cùng nhau tu hành, nên động viên nhau, khuyên bảo nhau, chớ không tỏ lòng đố kỵ ngăn trở nhau. Ðiều đó phải ghi nhớ! Từ nay về sau sẽ không bao giờ mắc lại thứ tệ bệnh này, nếu không tất cả sẽ bị đọa cùng với nhau xuống địa ngục.
Trách nhiệm của chúng ta đối với bằng hữu chính là khuyên làm lành, tránh điều quấy. Thấy bạn sai lầm, cố gắng khuyên can, để bạn sửa đổi, chớ không phải hùa theo để cho bạn làm điều sai trái, khiến mỗi ngày mỗi sa đọa. Quý vị cùng là sư huynh sư đệ với nhau, như trong một gia đình, phải nên chiếu cố cho nhau. Ai làm điều gì sai với giới luật, phải thành khẩn khuyên nhủ để bạn trở về quy củ. Nếu chẳng được như vậy thì bạn đồng “tham” có ý nghĩa gì? Là đạo hữu, chẳng phải là kết bè với nhau để lừa gạt nhau, có những tư tưởng đó là sai lầm vô cùng.
Chúng ta là người tu hành nên đối xử thực thà với nhau, khuyên nhau làm điều lành, đi theo đường chánh đạo quang minh, và không thể dung túng những chuyện gian dối. Như thói xấu chuyên nịnh hót, nói theo người, đều có tác dụng tai hại. Khi không, người ta đâu dám bạo gan làm những điều quá ư phóng túng, phá bỏ quy củ. Bởi ta a dua theo, kết bè với họ, họ cho là có chỗ nương tựa nên mới dám hoành hành ngang ngược, coi thường nhân quả, đó là một điều thương tâm. Các bạn đồng tham phải giúp đỡ nhau trên đường tu hành, động viên nhau hướng tới đạo Bồ-đề, chớ không phải là anh kéo tôi, tôi kéo anh cùng nhau đi xuống, làm tổn hại nhau, như vậy chẳng phải là giúp nhau.
Các bạn đồng “tham” phải giúp đỡ nhau như thế nào? Bằng cách nói chuyện kinh sách với nhau, cùng nhau nghiên cứu lẽ đạo. Anh có chỗ không hiểu rõ, tôi đến nói chuyện với anh; tôi có điều này chưa minh bạch, anh đến chỉ điểm cho tôi. Chúng ta cùng nhau nghiên cứu, học tập kiền thành. Xin nhớ kỹ chỗ này! Tránh cái gì phi lễ nghĩa! Mắt không nhìn, tai không nghe, miệng không nói, thân không làm những gì phi lễ nghĩa! Tại các cửa lục căn, phải kiểm soát vọng tưởng, phải thường xuyên, từng giờ từng khắc thâu nhiếp thân tâm, tiêu trừ tạp niệm. Tiêu trừ cách nào? Rất đơn giản, chỉ cần tu giới định huệ, dập tắt tham sân si.
55/. Tu đạo Phải Học Pháp Cơ Bản
Trong Phật giáo có hiển giáo và mật giáo. Hiển giáo tức là giáo lý minh hiển, ai có tâm Bồ-tát, tu đạo vô thượng đều có thể thành Phật. Mật giáo là giáo lý bí mật, nói cho anh thì tôi không biết, nói cho tôi thì anh không biết, anh và tôi không biết nhau. Hiển giáo chủ trương minh tâm kiến tánh, mật giáo chủ trương tức thân thành Phật. Nói chung, kiếp trước chúng ta đã từng gieo căn lành nên kiếp này mới có cơ hội tu học Phật pháp. Kiếp này tinh tấn tu hành, hy vọng kiếp sau sẽ đạt thành lời nguyện.
Trong hiển giáo có chia ra Ðại thừa và Tiểu thừa. Tiểu thừa cũng gọi là Nhị thừa, tức Thanh văn thừa và Duyên giác thừa. Ðại thừa là Bồ-tát thừa. Nay xin giới thiệu tóm tắt các pháp của ba thừa để quý vị mới tu học tham khảo.
I. Pháp Tứ đế của hàng La-hán.
Thanh văn, hai chữ này nghĩa là nghe lời thuyết giảng của Ðức Thích-ca về pháp Tứ đế mà ngộ đạo (thanh là thanh âm, văn là nghe). Thanh văn hay quả A-la-hán, gồm bốn quả vị. Thứ nhất là sơ quả a-la-hán, quả này đã đoạn trừ kiến hoặc của tam giới, nhập vào “giòng pháp tánh của thánh nhân, nghịch với giòng lục trần của phàm phu;” quả này còn phải chịu bẩy lần sanh tử nữa.
Quả thứ nhì a-la-hán thì đã đoạn trừ kiến hoặc của tam giới, cũng đoạn trừ luôn sáu phẩm đầu về tư hoặc của tam giới. Quả này phải chịu hai lần sanh tử nữa, một lần sanh ở tầng trời, một lần ở thế gian.
Quả thứ ba a-la-hán thì đoạn trừ được ba phẩm sau về tư hoặc của dục giới, và hãy còn một lần sanh tử nữa, nhưng không sanh vào tầng dục giới mà sanh vào các tầng sắc giới hay vô sắc giới.
Quả thứ tư a-la-hán thì đoạn trừ hết tám mươi mốt phẩm tư hoặc của tam giới, không còn bị sanh tử nữa; nói cho đúng là không bị phân đoạn sanh tử, nhưng vẫn còn trong biến dịch sanh tử.
Hàng Thanh văn tuy gọi là ngộ đạo, nhưng ngộ đạo cũng có loại nông sâu khác nhau, có loại rốt ráo có loại không rốt ráo, nghĩa là trình độ không đồng đều. Pháp tu của hàng Thanh văn là khổ, tập, diệt, đạo. Quán về khổ thì hết thảy là khổ. Khổ chia ra tam khổ và bát khổ. Pháp tu của họ là đoạn tập, mộ diệt, tu đạo (đoạn tập khí, mến mộ Niết-bàn và tu đạo). Ba yếu tố này liên quan mật thiết với nhau, như khổ thì sanh ra phiền não và có phiền não thì phải đoạn trừ. Ðoạn trừ như thế nào? Phải đoạn trừ kiến hoặc, tư hoặc và các phiền não lâu nay tích tụ lại. Phải hâm mộ pháp Niết-bàn, tức bốn tánh của nó là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (Niết-bàn tứ đức). Từ bến sanh tử qua giòng phiền não để đến bờ bên kia, là cả một quá trình tu tập ba mươi bẩy phẩm đạo mới thành công được. Trong các pháp này có bát chánh đạo, gồm:
- chánh kiến,
- chánh tư duy,
- chánh ngữ,
- chánh nghiệp,
- chánh mạng,
- chánh tinh tấn,
- chánh niệm,
- chánh định,
Những pháp này chung cho cả Ðại Tiểu thừa.
II. Pháp quán Thập nhị nhân duyên của Bích-chi Phật.
Bích-chi Phật có hai loại là Ðộc giác và Duyên giác. Khi Phật không xuất thế, có người tự mình giác ngộ, tại nơi hang sâu núi thẳm ngồi tĩnh tọa, xem hoa nở mùa xuân, thấy lá vàng rơi mùa thu mà ngộ đạo, loại này gọi là Ðộc giác. Khi có Phật xuất thế, có người quán Thập nhị nhân duyên mà giác ngộ, thì loại này gọi là Duyên giác. Ðầu tiên là quán vô minh. Vô minh là gì? Là không sáng suốt một thứ gì, nói cho văn vẻ một chút là ngu si, còn nói thẳng ra chính gốc nó là tâm dâm dục, cái tâm khiến cho con trai cầu con gái, con gái cầu con trai. Hỏi anh, hỏi chị tại sao muốn như vậy, thì, hoặc đáp rằng tôi thấy cô ấy xinh đẹp, hoặc đáp anh ấy đẹp trai. Lại hỏi tại sao yêu cô (anh) ấy, cái dễ thương của cô (anh) ấy ở chỗ nào? Hỏi tới hỏi lui, chị hay anh đều không biết. Ðã không biết mà còn cứ chạy theo, đó chính là vô minh, một sự kỳ quái, chẳng ai hiểu nổi. Không ai hiểu nổi mà sao vẫn phải chui đầu vào. Tại sao vậy? Bởi vì con người vì sắc dục mà sanh ra đời, do đó cũng phải chết vì sắc dục, đúng với câu nói:
Sanh ngã chi môn tử ngã hộ
Kỷ cá tô tinh kỷ cá ngộ ?
Dạ lai thiết hán tự tư lương
Thành Phật tố Tổ do nhân tố.
Dịch nghĩa là: Cửa mà ta vào đời cũng là cửa ta ra khỏi cuộc đời, mấy ai sống tỉnh, mấy ai ngộ? Kẻ hảo hán đêm nằm suy nghĩ; thành Phật hay làm Tổ sư cũng là người cả (người làm nên).
Phật hay Tổ sư cũng từ người tu tập mà thành. Ai sanh ra như thế nào, thì chết cũng như vậy. Chẳng nguyện cắt đứt luân hồi, chẳng nguyện dứt đường sanh tử, mà ngược lại, nguyện thuận theo giòng đời mà lưu chuyển, chẳng nguyện đi ngược dòng sanh tử, bởi vậy mới có vô minh.
Sau vô minh thì đến hành vi. Hành vi gì? Là hành vi thuộc về tính nam và nữ. Bởi không sáng suốt nên tạo nghiệp, rồi điên đảo. Từ sự điên đảo nên phát sanh ra hành vi, hành vi phát ra rồi bèn có thức. Có thức rồi (cùng tinh cha huyết mẹ tạo thành thai nhi) thì có danh, sắc (danh thuộc tâm lý, sắc thuộc sinh lý). Sau danh sắc có lục nhập (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Có đủ sáu căn, sau mười tháng thì ra đời, và từ lúc này có xúc – cảm giác của sự tiếp xúc, biết phân biệt lạnh, nóng, cứng, mềm. Cảm xúc gây ra tác dụng lãnh thọ, và lãnh thọ trong thuận cảnh làm thành khoái lạc, nếu nghịch cảnh thì gây thành thống khổ, như vậy tùy lúc, tùy trường hợp mà có cảm tình yêu ghét. Có tâm lãnh thọ rồi sẽ có tâm ái. Có ái thì ắt có tâm riêng tư chiếm hữu cho mình. Con người tham luyến của cải, nữ sắc, mới có dục vọng. Có tâm ái tức sẽ kiếm mọi phương cách để lấy về (thủ), làm của riêng, tức là hữu. Vì mục đích phải đạt cho được nên có khuynh hướng không từ bỏ bất cứ phương tiện nào, do đó mà tạo thành ba nghiệp không thanh tịnh, tức là các nghiệp về thân, khẩu và ý.
Bởi tạo nghiệp nên có quả thọ sanh kiếp sau, rồi lại tới lão, tử và chúng sanh cứ như thế mà tiếp tục lưu chuyển không thể dứt, không cách gì ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. Muốn vượt qua sanh tử, đầu tiên phải đoạn trừ vô minh. Giải quyết được vô minh thì không còn cái gì để sanh ra mười một nhân duyên sau nữa, đó là phương pháp chân chánh để đoạn trừ sanh tử.
Người tu hành phải đoạn trừ ái và dục, mới có thể giải quyết chuyện sanh tử của mình, nếu không, tu cho hết các kiếp vị lai cũng không giải thoát được. Phá cái gốc vô minh đi, thì đoạn trừ được dâm dục, lúc đó không còn dục vọng, không còn phiền não, đó là giải thoát.
Xuyên qua pháp Ðộc giác, người tu đạo phải sống cô độc, không nên có bằng hữu, kết bè đảng. Có câu nói: “Quét hết mọi pháp, ly hết mọi tướng,” phá trừ hết thảy mọi thứ chấp trước, mới có thể giải thoát được. Nếu đi tu mà còn sợ cô độc, thì chưa tu được. Tu đạo phải tự mình đứng lên, không theo mọi người, đó mới là bản sắc của người tu.
Người tu phải nhớ cho kỹ, không thể hòa mình với các phần tử ô nhiễm, để vàng thau lẫn lộn, cái đó chỉ khiến cho mình bị đọa. Người tu cũng phải tự mình giải quyết cho mình, ai ăn người ấy no, chớ không thể nhờ cậy vào người khác. Lẽ dĩ nhiên, người tu cũng cần có thiện tri thức khai sáng cho, dẫn cho ta vào đường ngay, nếu không thì người mù dẫn người mù, không tìm ra lối.
Người tu đạo phải biết nhẫn những điều khó nhẫn, nhường kẻ khác những gì người khác không nhường được, ăn những thứ người khác không ăn được, mặc những thứ người khác không muốn mặc, nói tóm lại người tu phải ráng chịu đựng những gì người khác không chịu nổi. Người tu phải giữ giới, giữ quy củ, nếu chẳng như vậy chẳng phải là người tu.
III. Pháp tu Lục độ của hàng Bồ-tát.
Chữ Bồ-tát là tiếng Phạn, nói cho đủ là Bồ-đề tát-đỏa, dịch nghĩa là giác hữu tình hay hữu tình giác. Giác là giác ngộ, hữu tình là chúng sanh; vậy danh từ trên có nghĩa là giác ngộ hết thảy chúng sanh hữu tình, và còn nghĩa nữa là một vị giác ngộ trong số hữu tình. Chúng sanh hữu tình đạt được giác ngộ, rồi dùng trí huệ giác ngộ độ hết thảy chúng sanh đi đến giác ngộ và đây cũng là nghĩa của hữu tình giác.
Bồ-tát là tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tự giác giác tha, nghĩa là lợi mình lợi người, độ mình độ người, giác ngộ cho mình giác ngộ cho người. Mình đã được sáng suốt, lại dẫn người khác sáng suốt, mình đã được giải thoát, lại nguyện dẫn người khác đến giải thoát. Ðó là tinh thần Bồ Tát. Tâm lượng của Bồ-tát thì rộng mở, không giống như tâm tưởng của hàng A-la-hán, như trong câu: “Ma-ha-tát bất quản tha, Di-đà Phật các cố các,” Ma-ha-tát cũng mặc, Di-đà Phật cũng mặc. Tâm tưởng của Bồ-tát là từ bi, “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi,” một lòng lo cho chúng sanh, không nhàm chán lo sao hết thảy chúng sanh được an lạc lìa khổ ách.
Bất kể tu pháp môn nào, chúng ta cần phải dụng công một cách chân thật, đừng ham đi tắt, đi mau, để cố chọn cách nào cho hay, cho dễ, đó chỉ là những hành vi mánh lới. Người tu cần phải tu thật sự, chớ không phải ngày nay tu, ngày mai nghỉ, không bao giờ thành tựu được gì, mà phải ngày ngày dụng công, ngày ngày cố gắng tinh tấn, mới hòng có được kết quả. Nói cho ngay, ngày ngày dụng công, mà tiến bộ cũng chưa hẳn là được bảo đảm. Người ta nói: “Tu đạo như đăng bách xích can, hạ lai dung dị thượng khứ nan,” tu đạo giống như leo cái sào cao trăm thước, đi xuống thì dễ, lên mới khó.
Thế nào gọi là lục độ ?
- Bố thí,
- trì giới,
- nhẫn nhục,
- tinh tấn,
- thiền định,
- trí huệ.
Bố thí độ tham lận, trì giới độ phạm lỗi, nhẫn nhục độ giận hờn, tinh tấn độ lười biếng, thiền định độ tán loạn, trí huệ độ ngu si. Phàm những ai phát Bồ-đề tâm, hành đạo Bồ-tát đều phải tu sáu pháp môn này; khi công đức viên mãn thì tới được bờ bên kia (đáo bỉ ngạn
1. Bố thí:
Lấy tiền tài và pháp cho người thì gọi là bố thí. Bố thí có ba loại: một là tài thí, hai là pháp thí, ba là vô úy thí. Tài thí còn chia ra nội tài và ngoại tài. Nội tài là đầu, mắt, não, tủy. Ngoại tài là thành trì, đất nước và vợ con. Như thân thể của mình, bất cứ bộ phận nào trên thân này, đem ra cho những ai cần tới; đất nước của mình, vợ đẹp con khôn của mình, cũng mang ra bố thí cho người khác, nội tài cũng bỏ, ngoại tài cũng bỏ, như vậy gọi là chân bố thí. Chân bố thí là bỏ những cái của mình mà tạo công đức lành, gọi là “tùy hỷ công đức,” đó là tài thí.
Pháp thí là đem Phật pháp bố thí, như giảng kinh thuyết pháp, in kinh, lưu hành kinh sách, phiên dịch kinh điển, những loại công đức như vậy. Như chúng ta nếu không lười biếng cầu an, thì có thể lấy pháp bố thí. Nếu không đủ sức lực về trí huệ thì chúng ta lấy sức lao động ra bố thí, như bỏ sức ra làm những việc giúp người khốn cùng, cái đó cũng coi là pháp thí. Tóm lại, có tiền thì giúp tiền, có sức lực thì giúp đỡ bằng sức lực, để cống hiến một phần đóng góp của mình cho công cuộc phát triển chung của Phật giáo.
Vô úy thí là giúp đỡ những ai đương trong trạng huống sợ hãi, hoặc bị hoàn cảnh bức bách, ăn ngủ không an. Lúc đó điều cần thiết là làm sao giúp họ tìm ra con đường sáng, khiến cho họ thoát khỏi sự sợ hãi, có thể bằng những lời an ủi, hoặc bằng sự can thiệp để giải quyết thẳng vấn đề gây ra sợ hãi.
Biết bố thí tức là không có lòng tham lận.Tham lận là keo bẩn, không dám xả bỏ một thứ gì. Người ta nói: “Có xả thì lại có, không xả không có.” Quý vị hãy coi trên thế giới bao nhiêu người giầu có, bao nhiêu tài phiệt, vì cớ gì họ có nhiều tiền như vậy? Bởi vì kiếp trước họ chịu bố thí, giúp đỡ kẻ khác trong cơn nghèo khó, nay công đức tích tụ lại nên trong kiếp hiện tại họ được hưởng sự giầu có.
Lúc xưa, Tổ sư Ðại Ca-diếp, mỗi khi đi khất thực thường đến các nhà nghèo để hóa duyên. Vì lý do gì vậy? Tổ sư cho biết: “Ðối với những người nghèo, cần phải dạy họ hạnh bố thí. Cho họ cơ hội gieo ruộng phước (phước điền) để kiếp sau họ được hưởng quả báo giầu có.” Tôn giả Tu-bồ-đề lại chuyên đến các nhà giàu để hóa duyên mỗi khi đi khất thực. Tại sao? Lý do của Tôn giả như sau: “Ðối với người giầu, ta phải làm sao giúp họ tiếp tục gieo căn lành. Nếu không thế, phước báo của họ sẽ giảm đi và kiếp sau sẽ chịu cảnh nghèo hèn. Nếu họ vẫn cúng dường Tam bảo, thì phước báu của họ sẽ mãi mãi không hết.” Hai vị Tôn giả vừa kể, mỗi người một ý khác nhau, thành mỗi người có một phương pháp riêng để giáo hóa chúng sanh. Tóm lại, khi nào không có ý đồ gì cho mình tức là chân bố thí.
- Trì giới: Người tu hành quyết phải nghiêm trì giới luật. Giới là năm giới:
Không sát sanh. Người không sát sanh thì được quả báo về sự trường thọ, ít ốm đau.
Không trộm cướp. Quý vị không lấy trộm đồ của kẻ khác thì kẻ khác sẽ không lấy trộm đồ của quý vị. Ðó là luật vay trả của nhân quả.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có một đôi giầy, một hôm Bồ-tát nói với mọi người như sau: “Từ thời vô lượng kiếp, ta chưa từng lấy của ai một cọng cỏ, một cái cây, một cây kim, một sợi chỉ. Cho nên, ta có thứ gì cũng chẳng ai đụng tới. Nếu không tin, ta hãy để đôi giầy này ngoài cửa thành, trong ba ngày, nếu có ai lấy mất thì điều này sẽ chứng minh ta nói dối.” Quả nhiên, ba ngày sau đó, đôi giầy vẫn còn y nguyên ngoài cửa thành. Như vậy, chúng ta thấy sự trì giới trộm cướp của Bồ-tát thanh tịnh biết là dường nào!
Không tà dâm. Người tu hành không thể có niệm tà dâm, tức là ý tưởng dâm dục. Nếu còn chút niệm dâm dục, thì quyết không bao giờ vượt khỏi tam giới, vẫn phải lưu chuyển hoài hoài trong luân hồi sanh tử, vì niệm dâm dục chính là gốc rễ của sanh tử. Nếu đoạn trừ được nó, thì mới có thể ra khỏi tam giới mà chứng quả Phật. Bởi vậy người tu hành nhất định phải dứt hết ý tưởng dâm dục. Làm sao dứt được? Trước hết là không nên ăn những thứ giầu chất dinh dưỡng, bởi lý do bổn thân người tu không thiếu chất dinh dưỡng, cho nên không cần thâu nhập thêm dinh dưỡng nữa. Ăn nhiều, lòng dục nhiều; chất bổ dưỡng nhiều, tức sanh những ý niệm dâm dục. Muốn không có ý dâm thì phải tiết chế vấn đề ẩm thực, không ham ăn ngon, không ham ăn nhiều, phải luyện tập sao đủ duy trì sanh mạng là được rồi, đó là bí quyết của người tu. Nếu không, chúng ta mang các món ngon gồm sơn hào hải vị để cúng cho cái đền thờ ngũ tạng, thì đây quả là cái họa dẫn tới phá giới về dâm dục.
Không nói dối. Không nói thì thôi, nếu nói ra thì phải nói những lời chân thật, tuyệt đối không nói dối gạt người. Bất luận ở trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải nói lời thật thà, thường xuyên kiểm soát lời nói của mình, để không nói dối.
Không uống rượu. Người tu hành không thể uống rượu (kể cả những loại độc dược, chất ma túy, thuốc hút). Lý do là rượu có tác dụng làm mất lý trí, khiến cho người ta không kiểm soát được tình cảm, tạo ra những nghiệp điên đảo. Thuốc độc hại cũng có tác dụng làm cho đầu óc mơ hồ, tức là mất chánh tri chánh kiến. Ðó là sự tai hại của rượu và thuốc hút.
Vạn Phật Thánh Thành là một nơi cống hiến nhiều phương tiện giúp người tu đạo. Nếu không có tâm tham thì sẽ không có khổ. Nếu không tranh, tranh danh, tranh lợi, tranh tài, tranh sắc, chẳng tranh thứ gì, thì sẽ không có phiền não. Nếu không cầu, không cầu điều gì, thì sẽ không có vọng tưởng. Dục vọng của con người không bao giờ dừng lại, càng cầu càng nhiều. Nếu đạt được trình độ “không cầu không lo” thì an lạc biết chừng nào! như trong câu: “Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao.” Nếu không tự tư, lo cho riêng mình, thì bất cứ hành động gì cũng là lo cho người khác. Nếu không tự tư, thì hết thảy mọi thứ đều hướng về lợi ích của người, không phải lợi ích cho mình, và dụng công như vậy để tu đạo thì tương lai sẽ chứng thành Phật quả.
Quý vị phải theo các pháp đó mà dụng công tu hành! Ðừng bỏ gốc theo ngọn, chạy đi kiếm, nào diệu pháp nào mật pháp. Càng tìm kiếm pháp càng xa, nghĩa là “bội đạo nhi trì,” quay lưng với đạo mà chạy. Pháp đương ở trước mắt mình, hà tất quý vị bỏ cái gần gũi chạy đi kiếm cái xa xôi? Nếu biết thì ngay đó, chỗ nào, lúc nào cũng là diệu pháp, cũng là mật pháp. Nếu chẳng chịu tu, thì dù có kiếm đâu đâu cũng không có được chân pháp, chỉ phí thời giờ mà không mang lại điều gì hữu ích.
Cổ đức nói:
Nhân thân nan đắc kim dĩ đắc
Phật pháp nan văn kim dĩ văn
Thử thân bất hướng kim sinh độ
Cách hướng hà sinh độ thử thân?
Dịch nghĩa là:
Thân người khó được nay đã được.
Pháp Phật khó được nghe, nay được nghe.
Kiếp này chẳng lo độ cho thân này.
Vậy đến kiếp nào mới độ thân này?
Nay chúng ta có được thân người, nếu không mượn thân này mà tu thì còn chờ tới khi nào nữa? Chờ tới khi mất kiếp mang thân người, lúc đó muốn tu thì đã muộn rồi. Chúng ta phải tu thực sự, tu nghiêm chỉnh, với tất cả sự gắn bó thiết tha, tâm trạng phải khẩn trương như thể thân mình dưới đáy vực, như tâm tình của kẻ dò từng bước chân trên lớp băng mỏng. Sanh tử chưa liễu thì đâu còn thời giờ cho sự lười biếng ngủ nghỉ; khi chưa khai ngộ thì bất cứ ai cũng không có quyền tùy tiện buông thả, bỏ hết quy củ. Chẳng giữ giới luật tức là phản lại quy chế của Phật. Khi sửa soạn vào Niết-bàn, Phật nói với các đệ tử như sau:
“Sau khi ta nhập niết-bàn, tất cả đệ tử của ta phải lấy Ba-la-đề mộc-xoa (tức giới) làm thầy.”
Nếu không nghiêm trì giới luật thì làm gì có được sự thành tựu! Chúng ta quyết giữ tròn quy củ từng giờ từng khắc, không thể cười cười nói nói, tác phong không thể cẩu thả, càng không thể tùy tiện, bạ đâu làm đó, phải lấy giới là thầy của mình.
Người đời tạo nên ác nghiệp chung quy vì không giữ giới. Không giữ giới luật thì việc gì cũng không từ, chẳng sợ nhân quả, chẳng sợ báo ứng. Thậm chí còn cho rằng nhân quả báo ứng là không có, nên tha hồ phóng túng làm điều càn rỡ, tạo nên nghiệp ác, như tùy tiện sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu, hết thảy đều không kiêng dè, tạo nên bao nhiêu nghiệp tội, rồi cuối cùng lãnh đủ quả báo.
Tại sao người ta tạo nên nghiệp ác? Do sự dẫn dụ của xã hội trong lớp vỏ hào nháng bề ngoài. Thấy người ta giầu sang, sống đời hưởng thụ, liền sanh lòng ham muốn tham lam. Có biết đâu rằng sự phú quý đó là do sự tu tạo của người ta mà có, còn người tham thì chẳng chịu tu, không hề gieo căn lành, chỉ một lòng nghĩ quấy muốn được hưởng thụ. Từ lòng ham muốn hưởng thụ nên chẳng từ một mánh lới nào để chiếm đoạt, do đó mà sanh ra nghiệp tội. Khi đã gây nghiệp, thì chẳng những không được hưởng thứ gì mà còn lãnh đủ quả báo, thậm chí khi bị quả báo mà vẫn không biết hối lỗi. Không có tâm hổ thẹn đã đành, còn đem lòng oán trời trách người, nói nào trời không công bằng, nào người không công bằng, đổ hết tội lỗi lên đầu người khác. Những loại người như vậy, không biết phản tỉnh, không biết xét mình, thật đáng thương xót!
Người trì giới thì “chư ác bất tác, chúng thiện phụng hành,” còn người không trì giới thì đi ngược lại. Thiện ác là ở chỗ đó. Làm trái quy củ, gạt bỏ nhân quả, không tin Tam bảo, phá hoại Ðại thừa – đó là những nghiệp tội gây ra bởi sự không trì giới. Xem như vậy thì ta thấy trì giới là quan trọng như thế nào. Người tu hành, bất luận tu ra sao, nếu không trì giới, thì miễn bàn, vì như vậy không hy vọng thành đạo được.
3. Nhẫn nhục:
Bất cứ lúc nào, tại bất cứ nơi nào, đều phải giữ hạnh nhẫn nhục. Ðối với bất cứ ai, về bất cứ việc gì, đều phải nhẫn nại. Nhẫn nhục nghĩa là không nóng giận, không sanh tâm phiền não. Bất luận trong hoàn cảnh nào, phải giữ tâm không chấp trước và thuận với tự nhiên.
Nhẫn có ba loại:
Sanh nhẫn: Dù gặp thuận cảnh hay nghịch cảnh, bất cứ lúc nào cũng không động tâm. Ðược như vậy nhờ có định lực. Nếu đạt tới trình độ như như bất động, liễu liễu thường minh, thì công phu nhẫn nhục đã tới được trạng thái lô hỏa thuần thanh (lò lửa mà xanh rờn).
Pháp nhẫn: Học Phật pháp thì phải có tâm nhẫn nại. Không phải vừa nghe nói Phật pháp rất rộng mà đã than rằng Phật pháp rộng như biển, thì học đến đời nào mới xong? Rồi vì đó mà nản chí, pháp nào cũng không chịu học. Thật ra, chẳng kể pháp môn nhiều hay ít, ta hãy nhẫn nại, cứ học dần dần. “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,” phải như vậy đó! Ðừng nghĩ rằng kinh điển có tới ba tạng mười hai phần kinh, pháp môn thì tính cả tám vạn bốn ngàn, rồi từ đó chẳng học pháp môn nào, bỏ luôn cơ hội để thành Phật. Ðây là sự biểu hiện của tâm không có pháp nhẫn. Ðúng ra phải có tinh thần như sau: Chẳng kể pháp môn có nhiều hay ít, có thể học được bao nhiêu thì học bấy nhiêu, có thể hiểu được chừng nào thì hiểu chừng ấy, phải hết sức mà theo, không làm một cách miễn cưỡng. Không ai bảo ta phải học tập hết, không ai bảo ta phải hiểu hết, vậy có gì mà phải hãi sợ? Nếu chẳng học tập, bỏ pháp không thương tiếc để cam tâm đọa lạc thì thật là đáng tiếc lắm thay!
Vô sanh pháp nhẫn: Không thấy có pháp sanh, không thấy có pháp diệt, trong tâm là nhẫn, đối cảnh vô tâm, đối pháp vô tâm, tức là chứng được vô sanh pháp nhẫn. Pháp là chẳng sanh chẳng diệt, Phật là chẳng sanh chẳng diệt. Chúng ta tu hành đến chỗ viên mãn, được giải thoát, tức là tới chỗ chẳng sanh chẳng diệt, do đó mà cần phải tu hạnh nhẫn nhục. Pháp môn nhẫn nhục dùng để khảo nghiệm công phu nhẫn của ta ra sao. Người tu đạo, không phải chỉ riêng có khả năng nhẫn, mà còn trong những trạng huống không thể nhẫn được, mà cũng nhẫn chịu được, đó mới gọi là chân nhẫn nại.
4. Tinh tấn:
Nghĩa là không giải đãi, không lười biếng. Người tu đạo phải thường xuyên tinh tấn, từng giờ từng khắc dụng công. Ngày tinh tấn, đêm cũng tinh tấn, ngày đêm sáu thời đều tinh tấn. Thân tinh tấn, tâm cũng tinh tấn, tuyệt đối không giải đãi, cũng không phải khi thì hăng hái khi thì chán nản.
Người thế gian phần đông đều không có tinh thần tích cực, thường để lãng phí thời gian. Mỗi cá nhân, từ sáng sớm, bắt đầu từ lúc ngủ dậy, đã tất tưởi ngược xuôi cho đến tối, cốt lo cho đủ ba bữa ăn. Nếu chỉ có vậy thì giá trị cuộc sống chẳng có bao nhiêu, ý nghĩa cuộc sống cũng chẳng có gì, sống cũng như chết chẳng có gì phân biệt. Ðúng là “hành thi tẩu nhục,” chỉ là cái thây và đống thịt đi lại. Quý vị hãy nghĩ thử! Chúng ta sống để làm gì? Ðể dùng trí huệ của chúng ta giúp đỡ những ai không có trí huệ; lấy sức của chúng ta giúp đỡ những ai không có sức; lấy sáu căn đầy đủ của chúng ta giúp đỡ những ai mà sáu căn không toàn vẹn. Chúng ta không những phải thương các chúng sanh đồng loại, còn phải thương cả chúng sanh không cùng chủng loại. Chúng ta sáng suốt trước, phải giáo hóa những ai không sáng suốt, để họ đừng làm chuyện hồ đồ. Ðể phục vụ chúng sanh mà chúng ta sống ở đời. Ôi! Tinh thần đó quả là vĩ đại!
Tâm tinh tấn, để cầu Phật đạo; thân tinh tấn để cứu độ chúng sanh. Người tu đạo phải tinh tấn như vậy đó! Còn như tinh tấn để tự tư, tinh tấn để tự lợi, thì không thể thành Phật đạo. Quý vị hãy nhớ cho kỹ! Không thể tùy tiện để cho thời gian trôi qua một cách vô vị, cũng không nên có mặc cảm và thừa nhận rằng chúng ta không thể tới đích, mà phải hiểu cái ý nghĩa: “một phần cầy cấy, một phần thâu hoạch.”
Người tu hành không bàn tới sự thoải mái, không nói tới hưởng thụ, chỉ chuyên tâm tu một cách dũng mãnh, tinh tấn, đối với ai cũng hết sức tích cực, không bao giờ tỏ ra tiêu cực. Cũng không tham đồ hưởng thụ, mà phải gánh vác gian lao, vì Phật giáo mà nỗ lực. Bởi vậy, Kim Sơn Thánh Tự là cái tủ lạnh, Vạn Phật Thánh Thành là cái kho băng. Tủ lạnh thì nhỏ, kho băng thì lớn. Tu hành trong kho băng, phấn chấn tinh thần, dẫn đầu mọi người, chớ không phải tụt lại phía sau. Nếu như ngay tại đạo tràng mà lười biếng thì bao nhiêu công đức đều tiêu ma. Tà tri tà kiến là một thứ tội lỗi, biết rõ mình sai quấy mà còn tìm đường để biện hộ thì thật là một điều không thể khoan thứ được. Có tà tri tà kiến chỉ vì thiếu tinh tấn, bao nhiêu thời gian quý báu hóa ra đã được dùng để nuôi vọng tưởng!
Tinh tấn, tức chẳng phải bảo quý vị ăn cho tinh tấn. Khi ăn thì ăn nhiều hơn mọi người, khi công tác thì làm thua mọi người! Tinh tấn đây, chẳng phải bảo quý vị ngủ cho tinh tấn. Người ta chưa đi ngủ, quý vị đã đi ngủ trước, người ta đã tỉnh dậy, quý vị tỉnh dậy sau cùng! Cũng chẳng phải bảo quý vị tinh tấn cầu danh, tinh tấn cầu lợi. Tinh tấn thật sự là tinh tấn phát tâm đại Bồ-đề, tinh tấn hướng tới đạo vô thượng Bồ-đề. Quý vị phải tinh tấn cho đúng chỗ, chớ không thể tùy tiện mà chỉ tinh tấn cái gì lợi cho mình, đó là một sự lầm lẫn rất lớn. Về điểm này, chúng ta hãy nhận định cho rõ kẻo lại di hận suốt đời.
5. Thiền định:
Tiếng Phạn là thiền-na, dịch nghĩa là tĩnh lự. Tĩnh là lặng lẽ, dừng lại, lự là tư lự. Tĩnh lự là lắng lại các vọng tưởng của ý thức, khôi phục sự thanh tịnh vốn có của chân tâm. Thiền-na còn được dịch là tu tư duy; tư duy nghĩa là tư tưởng, tư tưởng đình chỉ lại gọi là định. Thiền là tiếng Phạn, định là tiếng Hán, đó là một danh từ ghép lại từ hai chữ gốc Phạn và Hán.
Vọng tưởng của chúng ta, niệm niệm dời đổi, niệm niệm kế tục không ngừng, nếu chẳng phải là thiện niệm thì là ác niệm; chẳng phải chánh niệm thì lại là tà niệm, hai thứ đối chọi nhau. Như vậy bên trong đã có chiến tranh, thì tất sẽ ảnh hưởng ra bên ngoài, thành chiến tranh giữa người với người, giữa nhà nọ với nhà kia, giữa nước nọ với nước kia, thậm chí giữa thế giới này với thế giới kia, giữa tinh cầu này với tinh cầu kia. Nói rộng ra nữa, giữa hệ ngân hà này với hệ ngân hà kia cũng có thể có chiến tranh. Phân tích cho thật kỹ, chiến tranh phát sinh là do vọng tưởng của chúng ta tạo thành. Vọng tưởng đó là các niệm, “niệm khởi bách sự thành, niệm chỉ vạn sự vô,” hoặc như cổ đức có câu: “Tâm chỉ niệm tuyệt chân phú quý, tư dục đoạn tận chân phước điền,” rõ rệt là như vậy, ấy là do kinh nghiệm mà nói.
Tại sao chúng ta khởi lên vọng tưởng? Bởi vì cái “ngã” nó tác quái. Có ngã mới sanh ra ý niệm tự tư. Có tự tư nên có tự lợi, hai cái này đều là hạng lang sói ngang nhau, chúng là cặp bài trùng. Bởi có tự tư và tự lợi nên mới sanh tâm cầu. Khi có cầu, lòng tham liền nẩy sanh, và theo sát nó là tâm sân, theo sát sân là si, chúng cứ theo nhau không rời một bước. Chính chúng là những thứ gây nên phong ba bão táp, làm mịt mù mây khói, bầy ra một cục diện hết sức hỗn độn hồ đồ, khó có thể cứu vãn.
Chúng ta là kẻ tu hành phải làm sao ngăn chặn các tâm tranh, tâm tham, tâm cầu, tâm tự tư (ích kỷ), tâm tự lợi, tâm nói dối, không thể để chúng hoạt động tự do. Lúc đó, trí huệ hiện tiền, hào quang của nó chiếu sáng tiêu hết vô minh và hắc ám, tức là trạng thái minh tâm kiến tánh, mục đích tu hành của chúng ta.
Tĩnh lự chính là lắng dừng tạp tâm, tư duy tu tức là niệm niệm không rời, không quên tham cứu. Như tham một câu thoại đầu, thì từng giờ từng khắc tham, không có giờ nào, khắc nào mà không phải đương tham. Thoại đầu không phải dùng để niệm mà dùng để tham. Tỷ như tham câu “niệm Phật là ai?”, chính là tham cái chữ “ai.” Rốt cuộc là ai đó? Kiếm cái “ai.” Khi nào kiếm được “ai” thì khi đó ngộ đạo. Nếu như kiếm chưa ra, cũng không vì vậy mà nhụt chí, cứ tiếp tục cố gắng kiếm mãi. Khi kiếm được “ai,” thì trong không còn biết tới thân và tâm này, ngoài chẳng biết tới thế giới nữa, tất cả đều là không.
Cuối cùng cái không cũng không còn, vậy thì còn chấp vào đâu nữa? Lúc đó hốt nhiên quán thông hết cả, đại triệt đại ngộ, nước chẩy đá hiện ra, thấy tận bản sắc của mọi sự vật. Nhớ kỹ điều này! Ðừng để xảy ra cảnh giữa đường mà bỏ cuộc, không chịu tiến lên, mà phải dấn bước đi tới, miệt mài công phu cho đến chỗ sơn cùng thủy tận, lúc đó một sự chuyển mình xẩy ra, đưa hành giả về tận nơi quê hương muôn thuở.
Tham thiền chính là “tham” cái gốc rễ của sanh tử. Hốt nhiên gốc rễ bị đoạn trừ, hành giả liền bước qua ngưỡng cửa sanh tử để đi về tự tại. Trong lúc tham thiền, dầu cho gió nổi mưa rơi, hành giả vẫn chuyên nhất một tâm, tập trung hết tinh thần vào “tham” chữ “ai.” Công phu đẩy tới cực điểm thì sẽ tiến tới cảnh giới như như bất động, liễu liễu thường minh. Ðó là lúc tà tri tà kiến lẩn khuất để nhường chỗ cho chánh tri và chánh kiến xuất hiện. Ðó là công năng của tu thiền, diệu dụng của nó thật không thể nghĩ bàn.
Mỗi cá nhân chúng ta đều có vô lượng vô biên vọng tưởng. Vọng tưởng lao xao giống như các hạt bụi trong hư không: lúc bình thường mắt ta không thấy, nhưng khi có ánh sáng mặt trời xuyên qua thì ta thấy rõ từng hạt bụi, thấy chúng hốt nhiên bay lên, hốt nhiên bay xuống, không có gì nhất định. Vọng tưởng của chúng ta cũng vậy, chúng ta không quan sát chúng được, nhưng với ánh sáng của Phật pháp chiếu soi, chúng sẽ lộ hết nguyên hình. Có vọng tưởng thì phải làm sao? Phải càn quét chúng cho sạch. Dùng phương pháp gì? Dùng thiền định. Công phu thiền định sẽ giúp ta thanh toán vọng tưởng. Tu thiền định cần phải có tinh tấn và nhẫn nhục giúp đỡ. Sau đó thì cần có bố thí, trì giới giúp thêm nữa mới có thể hoàn thành được sứ mạng. Những thứ này đều phải hỗ trợ cho thiền định, thì hành giả mới có thể thâu nhiếp thân tâm, mà không khởi lên vọng tưởng. Tuy là sáu món, lục độ, nhưng chúng có quan hệ liên đới với nhau, cái nọ phải hỗ trợ cho cái kia mới được.
Người tu đạo phải có con mắt trạch pháp, biết rõ cái nào là thiện pháp, cái nào là ác pháp. Ðiểm này phải nắm cho vững. Ðối với pháp thiện thì “chúng thiện phụng hành,” với pháp ác thì “chư ác mạc tác.” Nếu không phân biệt rõ, thì phải trái không minh bạch, tức là trái với đạo. Làm sao để có con mắt trí huệ trạch pháp? Ðiều cốt yếu là tọa thiền tu định, dụng công tới chỗ cực điểm thì tự nhiên trí huệ hiện tiền. Có Diệu quan sát trí thì cái gì cũng phân biệt được.
6. Trí huệ:
Ðầu tiên là trì giới, sau đó tu định. Có thiền định mới có trí huệ chân chánh. Phàm những ai thành tâm tĩnh tọa tham thiền, trí huệ của họ phần đông đều có chánh tri và chánh kiến. Người không dụng công tham thiền, ngồi tĩnh tọa chỉ là lấy lệ, họ cũng có chút ít trí huệ, nhưng phần đông là tà tri tà kiến. Tại sao? Bởi thiếu cơ sở của trí huệ. Tà tri tà kiến là trí biện thông của thế gian, chánh tri chánh kiến chính là Phật tri Phật kiến.
Có cách gì để phân biệt hạng tà tri tà kiến. Có sáu tiêu chuẩn sau đây:
- Trước hết thử xem người nào đó có tâm tranh danh tranh lợi hay không. Dụng công cho danh lợi, lại tham tài tham sắc, tham lam không biết chán.
- Ðể ý xem họ có tự “đánh bóng” cho họ không? Họ có tự mình xưng tán không? khoa trương mình không?
- Họ có hạ giá người khác để đề cao thân phận của họ không? Ðối với những hạng này, chẳng cần hỏi cũng biết, nhất định là hạng tà tri tà kiến.
- Lại xét xem họ có tham cầu gì không? Nói về người xuất gia thì mỗi ngày ăn một bữa, nhưng cũng có người không theo quy điều này, tự động đến tiệm để mua thức ăn. Người đó đương có dục niệm về ăn, vậy dục niệm về sắc chắc cũng không bỏ được. Cứ nghĩ cũng biết, những hành động đó đều là vị kỷ. Nói chung, phàm là vị kỷ tức đã có sự tham cầu.
- Sau đó thử xem họ có tâm tự tư tự lợi không?
- Xem thử họ có thích nói dối không? Nếu có, họ thuộc về hạng tà tri tà kiến, không còn nghi ngờ gì nữa.
Lấy sáu tiêu chuẩn trên để trắc nghiệm có thể biết người nào đó có chánh tri chánh kiến, hay thuộc hạng tà tri tà kiến. Nói tóm lại, nếu hết thảy mọi thứ đều kéo về cho riêng mình, thì đó là hạng tà tri tà kiến. Nếu hết thảy đều vì hạnh phúc của đại chúng thì người đó có chánh tri và chánh kiến.
Muốn nhận ra thật minh bạch sáu điều kiện này, thì phải có con mắt trí huệ biết trạch pháp. Do định mà trí huệ phát sanh, có trí huệ rồi mới tin chân lý. Hợp chân lý thì theo, không hợp chân lý thì vô luận người nói đó là ai cũng không đáng tin. Có câu: “Thị đạo tắc tiến, phi đạo tắc thoái.” Chớ nên theo mù quáng, chớ nên tu mù quáng, nếu không chẳng những không có ích mà còn có hại.
56/. Thế Giới Tôn Giáo Ðại Ðồng, Không Nên Phân Tranh
Tôi đến nước Mỹ để hoằng dương Phật pháp, để cứu chúng sanh lìa khổ tới chỗ an vui, cho nên ngày ngày giảng kinh thuyết pháp, để quý vị khai mở trí huệ, hiểu lẽ nhân quả báo ứng, một sự thật trăm vạn lần đích xác. Hãy nhớ kỹ, không thể đi sai nhân quả, nếu không ắt đọa địa ngục, vĩnh viễn không lấy lại được thân người. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa giảng cho các quý vị về lợi ích của nghe kinh. Nghe kinh để hiểu chân lý một cách minh bạch, đạo lý nào chưa hiểu sẽ được sáng tỏ. Hiểu rồi, lúc đó mới theo pháp mà tu hành và đạt được sự an vui chân chánh. Tuần tự theo bốn bước Tín, Giải, Hạnh, Chứng mà tiến tới sẽ có cơ đạt tới cứu cánh.
Chúng ta nếu hiểu được vấn đề này, ắt phải coi trọng Phật giáo, ắt phải ủng hộ Phật giáo, khiến Phật giáo mỗi ngày một lớn mạnh huy hoàng. Kế tục huệ mạng của Phật giáo chính là trách nhiệm của Phật giáo đồ.
Bất cứ tôn giáo nào cũng nhằm vào hạnh phúc của chúng sanh, chớ không gây sự phiền hà. Ðối với bất luận tôn giáo nào chúng ta cũng không mang thành kiến, không bao giờ phê phán các tôn giáo khác là không cao minh bằng Phật giáo. Chúng ta phải lấy câu “đạo tịnh hành, bất tương bội” làm nguyên tắc, phải nghiên cứu ý nghĩa các thứ tôn giáo, để biết chỗ nào là sở trường chỗ nào là sở đoản, chọn lấy cái gì hay để phát huy, để noi theo, nếu không sẽ bị thời gian đào thải.
Có người hỏi tôi: “Ông thuộc tôn giáo nào?” Tôi bảo tôi thuộc tôn giáo của chân lý, tôn giáo của người, tôn giáo của chúng sanh, tôn giáo của đại chúng. Bởi chúng sanh là người, người có thể thành Phật, cho nên Phật giáo là tôn giáo của người, tức là tôn giáo của chúng sanh.
Phật giáo bao trùm cùng tận hư không, khắp các pháp giới. Chúng ta phải nhận rằng hết thảy mọi thứ tôn giáo đều nằm trong Phật giáo, là một bộ phận của Phật giáo. Có điều, các tôn giáo họ không thừa nhận như vậy, đó là chuyện riêng của họ, chúng ta bất tất phải bàn đến. Ðiều cần là chúng ta hãy mở rộng bao la cái tâm lượng của chúng ta, bao quát cả vạn hữu. Tận hư không, biến pháp giới, đều là sự biểu hiện của chân lý. Xin quý vị lưu ý cho! Từ nay về sau chúng ta sẽ không phân biệt tôn giáo này tôn giáo kia. Họ phân biệt nhưng chúng ta không phân biệt, phải có lòng như vậy mới có sự vui vẻ mọi đàng, nếu không, “ông nói ông hay, bà nói bà hay,” cùng nhau tranh luận, chẳng hay ho gì. Chân lý là không sợ thử thách, khoa học càng tiến bộ càng chứng minh rõ chân lý của Phật giáo. Người ta thường nói: “Vàng ròng không sợ lửa lò,” càng luyện càng sáng nước, càng đẹp mắt.
57/. Nơi Chánh Pháp Trụ Thế
Nước sông Ni-la vẫn chảy hàng ngày; Vạn Phật Thánh Thành vẫn hàng ngày giảng pháp. Bởi nguyện cho chánh pháp trụ thế, nguyện chuyển thời mạt phát trở thành chánh pháp cho nên ngày ngày phải giảng kinh thuyết pháp không có lúc nào là ngưng nghỉ. Ðể tiếp tục huệ mạng Phật, để hoằng dương Phật giáo cho huy hoàng, để cho pháp âm truyền bá khắp thế giới, khiến cho đông đảo chúng sanh được nhiều lợi lạc, mà Vạn Phật Thánh Thành phải đứng ra làm Phật sự, nhận lãnh trách nhiệm này. Do đó Vạn Phật Thánh Thành là đạo tràng của chánh pháp trụ thế.
Phàm những ai trú tại Vạn Phật Thánh Thành đều phải có thiện căn thâm hậu, nếu không sẽ không trú được chỗ này. Có được hoàn cảnh tốt đẹp như vậy, ắt chúng ta phải cố gắng tu đạo, dụng công làm việc đạo. Phải ráng chịu khổ, chịu cực, phải có tâm khí không lay chuyển, phải có ý chí sắt đá, mới đủ khả năng gánh vác việc đạo, và hoằng dương chánh pháp tại các nới, cải thiện lòng người, đó là sứ mạng của Phật giáo đồ vậy.
Có người do đức hạnh chưa đủ, thiện căn còn mỏng, nên sau khi đến Vạn Phật Thánh Thành thì ngày ngày chất đầy vọng tưởng, thấy ở đây quá khổ sở, mỗi ngày ăn một bữa, cơm nước đạm bạc, công khóa nặng nề, quy củ nghiêm ngặt, tự cảm thấy không chịu nổi và cuối cùng không qua được thử thách, bèn đổi ý không ở nữa, phải bỏ nơi thanh tịnh này.
Vạn Phật Thánh Thành là đạo tràng chuyển bánh xe chánh pháp tại Tây phương, không có ngày nào mà ở đây không dụng công. Mưa to gió lớn cũng vẫn dụng công làm việc đạo, không bao giờ gián đoạn. Người có đạo tâm, đến đây thì cảm thấy đúng là chỗ họ phải tới, còn người không có đạo tâm đến Vạn Phật Thánh Thành như cảm thấy như ngồi trên tấm thảm đinh, không lúc nào an ổn. Cùng một nơi mà hai cảnh giới, chẳng qua vì thiện căn khác biệt, có nông có sâu.
Người ở Vạn Phật Thánh Thành đều có khả năng chịu khổ chịu cực, ai ai cũng phát Bồ-đề tâm, vì đều là những Phật giáo đồ chân chánh. Ngày ngày họ chiến đấu với gian khổ, vì pháp quên mình. Người chuyên về phiên dịch thì suốt ngày cặm cụi, chẳng vì danh hay vì lợi. Nay đương thời pháp hội Hoa Nghiêm, buổi tối nào cũng có khóa giảng Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (pháp sư Hằng Thật chủ giảng), chưa có lúc nào ngưng nghỉ. Ðó chính là hiện tượng chánh pháp trụ thế.
Có người đến Vạn Phật Thánh Thành bèn có cảm tưởng quen thuộc như khi trở về nhà của mình, không muốn bỏ đi nới khác. Ấy cũng vì Vạn Phật Thánh Thành là đạo tràng của chánh pháp, là nơi pháp hỷ sung mãn. Vị thân sinh của một vị tu ở đây (Liêu cư sĩ) đã từng nói như sau: “Người đến Vạn Phật Thánh Thành này, xấu đến đâu cũng thành tốt. Muốn xấu lại cũng không được nữa.” Phải là người đã từng trải trong xã hội, mới có những nhận định như vậy, thật là đáng quý!
Từ ngày 3 đến ngày 9 tháng 4 năm 1982, tại Ðiện Vạn Phật
58/. Niệm Khởi Tức Giác, Giác Rồi Tức Không
Người nào trụ tại Vạn Phật Thánh Thành nhất định phải thật lòng tu đạo, từng thời từng khắc phải hồi quang phản chiếu, kiểm thảo thân tâm mình, coi có phạm vào năm giới cơ bản là sát, đạo, dâm, vọng, tửu chăng? Phải cẩn thận giữ giới, từng giờ từng khắc, phải khẩn thiết tu và lấy chuyện của hai vị hành giả tam bộ nhất bái, ba bước một lạy, để làm gương học hỏi. Từng thời từng khắc quý vị này tự xét về mình, không để vọng tưởng dấy lên. Cũng có lúc vọng tưởng đến, nhưng họ tỉnh ngộ tức thì, biết là sai, bèn thâu hồi ngay vọng tưởng. “Niệm khởi tức giác, giác rồi tức không,” khi đã giác, đã biết, thì chẳng có gì nữa.
Tại sao có vọng tưởng? Bởi chưa phá được cánh cửa của cảnh giới sáu trần, tức sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Do đó mắt bị sắc trần ô nhiễm, tai bị thanh trần mê hoặc, mũi bị hương trần dụ, lưỡi bị vị trần sai khiến, thân bị xúc trần làm say đắm, ý bị pháp trần động, tất cả đều bị điên đảo bởi sáu trần. Nếu như tâm giác ngộ thì có thể lấy ra được gốc rễ của vọng tưởng. Nếu tâm không bị sáu trần làm cho rối loạn thì chứng được sơ quả A-la-hán.
Người chứng được sơ quả, mắt thấy sắc nhưng chuyển được sắc trần, tai nghe âm thanh nhưng chuyển được thanh trần, và cũng như vậy đối với các căn khác. Câu nói “bất nhập thanh hương vị xúc pháp” là nghĩa không hề bị một trần nào dao động. Lúc đó, danh không lay chuyển được, lợi không lay chuyển được; đối với hết thẩy mọi thứ, lòng không bị động, cũng như ý nghĩa câu: “Nhãn quan hình sắc nội vô hữu, nhĩ thính trần sự tâm bất tri,” tức là mắt nhìn hình sắc nhưng bên trong không có gì, tai nghe chuyện mà tâm không hay biết. Có câu: Na-già thường tại định, vô hữu bất định thời, không có lúc nào mà ngoại vật làm cho tâm dao động, không có khắc nào bị mê hoặc trước ngoại cảnh.
Khi nào đạt được cảnh giới này vẫn phải nỗ lực dụng công, không thể giải đãi. Nếu có chút lười biếng, căn bệnh cũ lại tái phát, cho nên người tu đạo, phải tiếp tục gắng gỏi, dũng mãnh tinh tấn, chỉ biết tu hành, không sanh vọng tưởng, đó mới là cách dụng công chân chánh.
Có người ở đây không dụng công tu hành, chỉ làm theo người khác. Ðó chỉ là sự a-dua. Thấy người ta niệm Phật mình cũng niệm Phật. Tại sao phải niệm Phật? Không biết. Thấy người ta lạy Phật, mình cũng lạy Phật, rồi cũng không biết vì sao mà lạy. Cho đến tụng kinh, trì chú, ngồi thiền, đại khái không hiểu nghĩa lý gì hết. Hồ đồ như vậy, đúng là “thực bất tri kỳ vị,” quả là uổng phí thời gian. Tu đạo như vậy, thật đáng thương!
59/. Tội Ngập Trời, Sám Hối Thì Tiêu
Sám hối là cơ hội để kẻ phạm giới biết hối lỗi và sửa đổi. Có câu:
Tội tòng tâm khởi tương tâm sám.
Tâm nhược diệt thời tội diệc vô.
Tâm vong tội diệt lưỡng câu không.
Thị tắc danh vi chân sám hối.
Dịch nghĩa: Tội từ tâm khởi, lấy tâm sám hối. Tâm mà diệt thì tội cũng không. Tâm quên, tội diệt, hai thứ đều không. Ðó gọi là chân sám hối.
Sám hối xong, thì vĩnh viễn không tái phạm. Nếu sám hối rồi cứ phạm tội, lại sám hối lại phạm tội, thì chỉ là trò đùa của con nít, chẳng có ích lợi gì. Sám hối phải cho trịnh trọng, không phải cứ nói hai chữ sám hối trước mặt mọi người rồi tức khắc nghệp tội sẽ tiêu ma. Không phải đơn giản như vậy, chỉ có kẻ si ngốc mới nghĩ lầm lẫn theo lối đó. Sau khi sám hối phải lập lời thệ nguyện: “Mọi sự từ trước coi như đã chết theo với ngày hôm qua, từ nay về sau mọi sự coi như đổi mới,” và sau này tuyệt đối không tái phạm, phải như vậy tội nghiệp mới có thể tiêu được.
Nếu sám hối mà không có thành tâm và thiện ý, thì tội không hết mà còn nặng thêm nữa. Tại sao? Biết giới mà phạm giới, tội thêm một bậc. Nếu tội gia tăng đến cực điểm, tức bị đọa vào địa ngục vô gián để chịu vô lượng thứ khổ, muôn đời không chuyển được thân, rất là nguy hiểm. Quý vị! Phải thành thật nhận lỗi của mình, và hết lòng sửa đổi. Mau mau hối cải những điều lỗi xưa, chớ không phải làm cho qua loa như trò chơi của con trẻ. Tôi ở đây không phải để họa theo quý vị để đùa rỡn đâu! Phải hiểu rõ như vậy!
60/. Nơi Quy Y Của Các Tín Ðồ Tôn Giáo Thế Giới
Vạn Phật Thánh Thành là nơi phát tích của Phật giáo thế giới, và cũng là nơi Phật giáo thế giới trở về nguồn. Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Không có cái gì mà không phải từ Pháp giới này lưu xuất, không có cái gì mà không trở về với Pháp giới.” Một gốc tỏa ra hàng vạn ngọn ngành, vạn ngọn ngành lại trở về gốc, nên Vạn Phật Thánh Thành là nơi trở về của các tín đồ Phật giáo trên toàn thế giới. Chẳng kể họ thuộc Phật giáo, hay Thiên Chúa giáo, Cơ Ðốc giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo, ai đến chẳng ngăn, ai đi chẳng giữ, ai muốn đến cứ việc đến, ai muốn đi thì cứ đi, Vạn Phật Thánh Thành vĩnh viễn để cửa ngõ rộng mở.
Chữ “Vạn” của Vạn Phật Thánh Thành, nói lên ý nghĩa nhiều vô lượng. Vạn Phật Thánh Thành không sợ người đông, cũng không sợ người ít. Nay thì đã có vạn vị Phật quang lâm nơi Bảo Ðiện, trong tương lai các nhân sĩ tôn giáo thế giới cũng sẽ quang lâm Vạn Phật Thánh Thành, cho nên đã có sự trù liệu cho trai đường chứa tới cả ngàn người. Hiện nay trai đường chỉ đủ chỗ cho năm trăm người cùng thọ trai một lúc, do đó khi có pháp hội lớn thường xẩy ra hiện tượng không có chỗ để thọ trai (bởi quá ngọ không ăn). Bởi vậy, cần phải xây cất trai đường để có thể chứa khoảng hai ngàn người.
Công trình kể trên vẫn còn là nhỏ, tiếp theo sẽ có một công trình lớn. Trong chương trình thiết kế đương có dự tính xây cất Hoa Nghiêm Chánh Pháp đường, có thể chứa cả mười ngàn người nghe pháp, làm nơi tu đạo của vạn người. Lại có dự định kiến tạo Ðại Hùng Bảo Ðiện cùng ngôi Bảo Tháp, với một cái hồ lớn để phóng sanh. Công trình của Vạn Phật Thánh Thành là vô cùng vô tận. Vạn Phật Thánh Thành khai sơn tịch địa, làm nơi trở về nương tựa cho tất cả đồ chúng của tôn giáo thế giới.
Có người bảo: “Thưa pháp sư! Mở rộng theo cách ấy, thì kinh phí lớn lắm à! Có phải như vậy sẽ nhằm vào bọn cư sĩ chúng tôi để hóa duyên không?” Quý vị yên tâm! Từ trước tới nay tôi chưa hề hóa duyên ai, quý vị đừng sợ. Nếu không tin, cứ tùy tiện, kẻo sau này lại trách cứ. Ai không sợ lập công đức thì cứ ủng hộ Vạn Phật Thánh Thành. Tôi xin nói thẳng với các vị, tôi nói tôi làm chuyện gì thì tôi sẽ làm chuyện đó, tuyệt đối không nói suông. Ai sợ bị hóa duyên, thì xin rời khỏi Vạn Phật Thánh Thành sớm một chút, còn tôi, thì tôi nhất định kiến tạo một nơi cho đồ chúng của tôn giáo thế giới trở về nương tựa.
61/. Nhất Niệm Vô Minh Tức Ðọa Luân Hồi
Người trên thế gian đều ở trong cảnh sống mê chết mộng, không có lúc nào tỉnh ngộ để tìm ra lối thoát khỏi luân hồi. Từ thời vô thủy đến nay, chúng sanh bị vô minh đưa đẩy, đi trong sáu nẻo luân hồi, sống rồi chết, chết rồi sống, quẩn quanh lên xuống không có hạn kỳ.
Cuộc đời như một vở tuồng. Trong tuồng, khi thì đóng vai vua, vui thú với vinh hoa, phú quý; khi thì đóng vai ăn mày, chịu đủ thứ khổ nạn. Khi làm hoàng đế thì không biết cái lúc khổ làm thân ăn mày; làm ăn mày không biết cái vui khi làm vua. Những cảnh bi hoan ly hợp thoáng qua như trong nháy mắt, chẳng khác gì một giấc mơ xuân.
Nghiệp chướng của mình, tăng nhiều hay ít? Không hay biết. Ðức hạnh của mình gieo trồng được bao nhiêu? Không hay biết. Không hay biết tức là vô minh, vô minh là gốc rễ của sanh tử. Nếu không vô minh thì đâu có còn bị khổ trong cảnh luân hồi. Mục đích của chúng ta tu đạo là phá vô minh, chuyển thức thành trí, chuyển thức a-lại-da thành trí Ðại Viên Kính.
Người có vô minh của người, thú vật có vô minh của thú vật, cho đến quỷ đói, chúng sanh địa ngục, mỗi loài đều có vô minh riêng. Trong chỗ vô minh, các chúng sanh tìm lối ra (ra khỏi tam giới), nhưng càng tìm càng hồ đồ, tìm không ra lối, vẫn chịu khổ sở trong luân hồi. Tại sao? Bởi vì vọng tâm tác quái, và không biết dùng chân tâm (trí huệ) để kiếm lối ra.
Vô minh tức không có trí huệ. Người không có trí huệ thì bất luận làm việc gì cũng làm trong sự điên đảo, lấy trái cho là phải và ngược lại. Biết rõ điều sai quấy mà vẫn làm, ấy chỉ vì vô minh che lấp khiến ta phải lầm đường. “Chọn đường gai góc mà đi,” thì vĩnh viễn không kiếm ra đường chánh.
Kẻ học Phật pháp, cần phải phá vô minh này, cho pháp tánh hiển lộ. Bởi có vô minh, nên vui vẻ mà làm chuyện hồ đồ. Có các loại tà tri tà kiến này nên tâm tự tư, ích kỷ mới nổi lên tác quái, mất hết cả sự công bằng và vô tư. Từ đó, mỗi kiếp sanh ra là mỗi lần đi xuống, cho đến tận cùng là kiếp súc sanh, hoặc làm thân con kiến, hoặc làm thân con muỗi, lúc đó chỉ còn chút xíu tri giác mà thôi. Vậy mà vẫn tham, tham không biết chán, vẫn hành động trong hồ đồ. Quý vị coi! Các loại động vật đều có tánh cả. Các chúng sanh vốn sẵn có Phật tánh, nhưng không hoàn toàn, ấy bởi lý do “tánh hóa linh tàn,” cho nên chúng ngu si, thường xuyên sống trong vô minh.
Con người tuy gọi là vạn vật chi linh, có trí huệ, nhưng lại tạo ra nghiệp ác, cũng vì lý do vô minh che khuất trí huệ, nên mới lấy vọng tâm mà hành động. Có câu kệ tụng nói về tác dụng của cái ‘tâm'( ), nay tôi lược giải ra như sau:
Tam điểm như tinh bố
Loan câu tự nguyệt nha
Phi mao tòng thử khởi
Tác Phật dã do tha.
Dịch nghĩa:
Ba chấm như sao bầy
Móc cong như trăng mới
Mang lông từ đây ra
Thành Phật cũng từ đấy.
Tam điểm như tinh bố: Trên đầu của chữ “tâm” là ba chấm, giống như mấy ngôi sao trên trời xếp thành một hàng.
Loan câu tự nguyệt nha: Ở dưới chữ “tâm” là một cái móc cong, giống như vầng trăng mới vào các ngày mồng ba hay mồng bốn âm lịch, nằm cong cong trên bầu trời.
Phi mao tòng thử khởi: Phi mao, đái giác, là mang lông đội sừng, chỉ các loài súc sanh. Tất cả đều do ảnh hưởng tâm lý mà tạo thành. Làm thân chó, thì có quả báo của loài chó, làm nhân mèo có quả báo của mèo, cho đến thân ngựa, trâu, dê, rồi gà, vịt, ngỗng cũng như vậy.
Tác Phật dã do tha: Thành Phật, làm Tổ sư, cũng do tâm mà nên, cho nên nói “nhất thiết do tâm tạo.” Chịu khổ ở địa ngục, hưởng phước ở thiên đàng, tất cả đều từ cái niệm trong tâm mà tạo ra cả.
Nếu khởi lên một niệm thiện, thần cát tường sẽ hộ trì ta. Khởi lên niệm ác tức thì hung thần ác quỷ cũng sẽ bám sát ta. Người xưa nói: “Một lần lỡ bước hận thiên thu,” cũng như nói: “Một niệm sai là thiên cổ hận.” Thiện hay ác chỉ cách nhau một niệm. Nghĩ thiện thì đi lên, nghĩ ác sẽ đi xuống. Tâm người như hạt bụi, bay lơ lửng trong không, bỗng chốc lên thiên đường, bỗng chốc xuống địa ngục, bỗng chốc là thú vật, bỗng chốc là quỷ đói, chẳng bao giờ ngưng tạo nghiệp rồi chịu quả, chịu quả rồi tạo nghiệp, cứ vậy mà tuần hoàn luân chuyển.
Tới khi nào thì hiểu được “biển khổ vô bờ, quay đầu là bến?” Biết được biển nghiệp là mênh mông, không bờ không bến, mau quay đầu lại thì đến được bến bờ. Học Phật pháp là học điều này, ngoài ra chẳng có điều gì huyền diệu cả. Nói giản dị hơn, phá bỏ các tập khí, phá bỏ tâm tự tư, tự lợi, sống không tranh, không tham, không cầu, tức là nắm được yếu nghĩa của Phật pháp.
Ngày ngày nghe pháp, phải hiểu yếu nghĩa của pháp. Ðâu là chỗ khẩn yếu nhất của pháp? Chính là các điểm không tranh, không tham, không cầu, không tự tư, không tự lợi, không nói dối. Sáu tiêu chuẩn này chính là mực thước dẫn dắt chúng ta hàng ngày trong mọi hành động. Nếu có gì không đúng với tiêu chuẩn chúng ta biết ngay để sửa đổi. Sửa làm sao để không còn sai nữa thì toàn là công đức, lúc đó mới đúng là tín đồ Phật giáo. Ðây cũng là sáu tôn chỉ của Vạn Phật Thánh Thành, hy vọng mọi người chúng ta đều tuân theo, mọi người đều giác ngộ, mọi người đều thành Phật.
62/. Cuộc Ðời Như Mộng, Như Ảnh
Có một bài kệ tụng, rất hợp đạo lý, nay xin đọc ra để tham khảo:
Bất cầu đại đạo xuất mê đồ
Túng phụ hiền tài khởi trượng phu
Bách tuế quang âm thạch hỏa chước
Nhất sinh thân tự thủy bào phù
Thê tài phao hạ phi quân hữu
Tội nghiệt tương hình nan tự khi
Thí vấn đôi kim đẳng sơn nhạc
Vô thường mãi đắc bất lai hồ.
Bất cầu đại đạo xuất mê đồ (Chẳng cầu đại đạo để ra khỏi đường mê): Cuộc đời của chúng ta như mộng ảo, như bọt nước, như làn sương, như điện chớp, phải quán nó là như vậy. Mạng sống con người là vô thường, sự nghiệp vô thường, phú quý vô thường, cho nên “niềm vui là nhân của khổ.” Tất cả khoái lạc trong thế giới này cũng đều hàm chứa cái khổ. Muốn lìa khổ để an vui, tất phải lo tu đạo. Tu đạo thì trước hết phải trừ tập khí. Trừ như thế nào? Bên trong thì khắc kỷ phục lễ, bên ngoài thì đoạn dục khử ái, cả hai đàng cùng dụng công, ắt sẽ thành công.
Con người sanh ra bởi sắc dục, chết bởi sắc dục, đó là lẽ thường của thế tục, và thuận theo thế tục thì cứ sống đi chết lại không ngừng. Kẻ xuất gia thì đi ngược lại, có đi ngược mới thành thánh, nên cái gì hay với thế gian thì lại không hay với người xuất gia; người thế gian tham, chúng ta không tham; cái gì người thế gian yêu thích, chúng ta không yêu thích; cái gì người thế gian mê, chúng ta không mê. Muốn cầu đại đạo ắt phải ra khỏi đường mê.
Thế nào là đường mê? Chính vì vô minh tác quái nên bất cứ đi hướng nào cũng là hồ đồ, rút cuộc chẳng biết làm sao. Mê cũng là nghĩa mất phương hướng, con đường phải đi lại không nhận ra, mà đi lạc vào chỗ khác. Phải biết rằng chẳng cầu đạo thì chẳng ra khỏi đường mê. Muốn ra khỏi đường mê tất phải tu đạo.
Tu đạo cần phải có thiện tri thức chỉ điểm cho sáng mắt. Thiện tri thức biết cách thức dạy ta tu sao cho được dứt đường sanh tử, giúp ta không trở lại với cảnh luân hồi. Cái thấy và cái biết của thiện tri thức là chính xác, trong đó không có chút nào gọi là tà tri tà kiến.
Túng phụ hiền tài khởi trượng phu? (Ðể phụ cái tài trí thì đâu phải trượng phu?): Nếu chúng ta không cầu đạo, không ra khỏi đường mê, ắt là ta phụ cái hiền tài của ta, hiền tài cũng là cái trí huệ đức tướng của ta. Phật đã từng nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như-lai.” Nếu quả chúng ta không tu hành, ắt ta chẳng thành tựu được gì. Như vậy chúng ta đã cô phụ cái trí hiền tài, tức đâu còn là kẻ trượng phu nữa?
Bách tuế quang âm thạch hỏa chước (Quang âm của trăm năm qua đi như lửa lóe ra – từ đá đánh lửa): Tỷ dụ có thể sống tới trăm năm thì ngày tháng cũng qua nhanh như tia lửa chớp, trong thoáng qua đã tắt.
Nhất sinh thân tự thủy bào phù (Một đời, thân xác giống như bọt nước): Từ lúc sanh ra cho đến lúc chết, gọi là một đời người. Thân thể này giống như một cái bọt trên mặt nước, nổi trôi bồng bềnh, thật là hư vọng chẳng có gì là thực chất, chỉ trong một sát-na đã thấy nó biến mất. Vậy thì lưu luyến nó làm gì? Hà tất chấp trước vào nó?
Thê tài phao hạ phi quân hữu (Tài sản và vợ bỏ lại, anh chẳng có gì): Tới khi lâm chung, dù anh có bao nhiêu tiền cũng không đổi được cái chết. Hết thảy nào vàng bạc, châu báu, anh đều bỏ lại, một đồng cũng không mang đi. Lúc đó, vợ và tài sản đều không còn là của anh, anh chỉ còn hai tay buông xuôi về chầu Diêm vương.
Tội nghiệt tương hình nan tự khi (Tội vạ đi theo như hình, không thể tự dối): Bất cứ loại nghiệp nào, sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu, đều theo ta như hình với bóng, như câu nói: “Mọi thứ mang chẳng được, chỉ có nghiệp tùy thân.” Nghiệp tội thì không thể dối gạt được, bởi chính ta tạo ra thì nhất định ta phải lãnh quả báo, chẳng ai có thể thay ta lãnh giùm.
Thí vấn đôi kim đẳng sơn nhạc (Thử hỏi vàng chất lên thành núi): Chất đầy vàng bạc, cao như núi, thành vua kim tiền, giầu bậc nhất thiên hạ, thử hỏi khi chết những thứ đó có ích gì? Ðể lại cho con cháu, thì con cháu nào hay, chúng chẳng cần tới, con cháu nào xấu thì lấy tiền tạo nghiệp xấu, còn nặng tội hơn.
Vô thường mãi đắc bất lai hồ (Liệu có mua được luật vô thường chăng?): Tuy vàng bạc chất lên cao bằng núi, nhưng liệu chúng ta có mua nổi quỷ vô thường không? Không thể mua được. Quỷ vô thường rất là công bình, không thiên lệch, không nói chuyện ân tình, cũng không nhận quà cáp.
Cảnh ngộ của người ta tại thế gian là như vậy. Chúng ta là người xuất gia, chính là vượt qua thói tục, không chịu để thói tục giam hãm. Nay lại không tu hành nghiêm chỉnh thì còn chờ tới lúc nào nữa? Phải nhớ rằng mục tiêu của kẻ xuất gia là dứt đường sanh tử, vượt qua luân hồi, chớ không thể sống như thế tục. Quý vị! “Tướng quân bất hạ mã, các tự bôn tiền trình,” quý vị hãy ráng sức tu hành!
63/. Rốt Cuộc Ðạo Là Thế Nào ?
Ðạo, rải ra thì trùm lục hợp, cuốn lại thì nó ẩn tàng. Ðạo lớn, không có gì ở ngoài nó và nhỏ thì không gì ở trong nó. Không có cá nhân nào mà không nằm trong đạo, không chúng sanh nào có thể chạy ra ngoài đạo. Ðạo chính là tánh mà tánh là bổn thể của chúng sanh. Phật nói: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật.” Chẳng kể loại gì, thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh, chim, cá, động vật, thực vật, trong bốn loài sanh trên hay trong chín pháp giới chúng sanh (tứ sanh cửu hữu), tất cả đều có đầy đủ đạo này.
Ðạo Ðức Kinh nói: “Thượng sĩ văn đạo, động nhi hành chi. Trung sĩ văn đạo, nhược tồn nhược vong. Hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu bất túc dĩ vi đạo.” Lão tử nói về nghĩa đạo như vậy, nghiên cứu thấy nó thật là đến lý. Giải thích sơ lược như sau:
Thượng sĩ văn đạo, động nhi hành chi (Hàng thượng sĩ nghe đạo, cảm thấy và làm theo): Thượng sĩ là hạng người có trí huệ, hàng có thiện căn sâu dầy, hạng người thượng đẳng. Nghe đạo chính là nghe cách thức để tu hành đạo. Ðức Khổng-tử đã nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ,” sớm nghe đạo, tối chết cũng được rồi, chẳng hận gì nữa. Tại sao? Bởi nghe đạo mà khai ngộ, mà thấu hiểu được đạo này, ai ai cũng có nó, không ai không có, không bao giờ lìa đạo. Chẳng qua, chúng ta quay lưng với đạo mà chạy, càng chạy càng xa đạo. Ðạo này là gì vậy? Chính là quy củ. Theo đúng quy củ mà đi, nghĩa là tu đạo. Không theo quy củ mà đi tức không phải tu đạo. Quy củ là gì? Ðó là giới luật. Y theo giới luật tu hành, chính là tu đạo.
Nói từ gốc rễ thì đạo là con đường dẫn tới liễu sanh thoát tử. Tu đạo là khép cánh cửa sanh tử. Cửa sanh tử là gì? Chính là dục niệm. Mang tâm dâm dục là mở cửa sanh tử, đoạn trừ tâm dâm dục là khép cửa sanh tử. Hạng người thượng đẳng khi nghe qua đạo này bèn nghĩ rằng: “?! Vốn nó là như vậy!” Do đó cảm thấy mà làm theo, để trở về nguồn cội, quay chiếu lại mình, xoay lưng với trần cảnh mà hướng về giác ngộ (bội trần hiệp giác), và dụng công tu đạo. Từ sáng đến tối ở đó tu hành, như tình trạng gà ấp trứng, như rồng nuôi ngọc, như mèo rình chuột, tập trung tinh thần để dụng công. Chỉ một lòng tu đạo, không còn vọng niệm gì khác.
Trung sĩ văn đạo, nhược tồn nhược vong (Hạng trung sĩ nghe đạo, lúc còn lúc mất): Ðây là bậc trung đẳng, cũng là hạng người bình thường. Ðầu óc loại này thì một nửa trí huệ, một nửa ngu si. Nghe xong đạo này thì tựa hồ nhớ được chút ít, cũng tựa hồ quên chút ít, tóm lại vừa đúng vừa sai, chẳng có gì là chắc chắn. Có khi họ chấp không, có khi chấp có, không dứt khoát.
Hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu bất túc dĩ vi đạo (Hạng hạ sĩ nghe đạo, bật cười lớn. Chẳng cười chẳng gọi là đạo): Hạ sĩ để chỉ hạng ngu si. Nếu chúng ta bảo họ trừ dục cắt ái là tu đạo, hay giữ quy củ là tu đạo, thì họ sẽ trả lời ngay: “Ấy! Vậy là ngốc quá! Các người tu hành đúng là ngu si hết mức, cớ gì mà không ham tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ? Ðó là khoái lạc về ngũ dục, thú biết mấy!” Bởi vậy, nghe đạo thì họ bật cười, cho rằng tu đạo là ngu ngốc. Nếu họ không cười như vậy, thì không phải là đạo.
Hàng ngày tôi giảng kinh thuyết pháp cho các quý vị, điều khẩn yếu vẫn phải nhấn mạnh về đoạn trừ các niệm dâm. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Lòng dâm không trừ, thì không ra khỏi cõi trần.” Nhất định phải trừ các niệm về dâm dục, mới mong lìa khỏi cảnh hồng trần, cho nên có câu: “Lòng dâm không đoạn, nấu cát ra cơm, chẳng thể có việc này.” Quý vị! Người tu hành không giống người trong thế tục. Cái gì người đời tham, ái, mê, thích thì chúng ta cần phải diệt trừ. Có câu nói: “Thoát trần ly tục,” nghĩa là hết thảy các thứ từ lời nói đến tư tưởng, người tu và người tục không giống nhau. Ðiểm này quý vị phải chú ý, không thể bị nhiễm ô theo giòng thế tục.
Phàm những ai trú tại Vạn Phật Thánh Thành, quyết phải tu hành, phải giữ quy củ, phải trì giới luật. Người xuất gia không giữ quy củ và giới luật thì còn ý nghĩa gì nữa? Xuất gia và tại gia không giống nhau. Như đã xuất gia lại còn giữ tập quán của thế tục, thì xuất gia làm gì? Về điểm này cũng phải hiểu cho rõ.
Tại sao có thời mạt pháp? Bởi phước báo của người mỏng, nên không có thánh nhân ra đời, không có chánh pháp trụ thế. Tôi vốn không tự lượng sức mình, quyết một lòng giữ chánh pháp trụ thế, kiên trì không đổi, không chịu đầu hàng trước mọi hoàn cảnh. Kiên trì như vậy tốn hao công sức, nhưng đó là lòng quyết tâm của tôi. Bất kể gặp gian nan ra sao, tôi vẫn phải hoàn thành sứ mạng.
Quý vị! Quý vị đều là đệ tử theo tôi học đạo, nên hiểu rằng thời đại này là thời đại gì? Phải cố gắng thành người xuất gia gương mẫu, là người lãnh đạo siêu quần, không thể bị nhiễm ô theo thông tục, nếu không, kẻ xuất gia không thể ngóc đầu lên được.