42/. Khai Ngũ Nhãn Mới Thấy Ðược Rồng Thật
Hình dáng của rồng thật sự ra sao? Ngoại trừ các bậc thánh nhân đã khai Ngũ Nhãn, đa số người đời đều không biết mặt mày thật sự của rồng. Trung Quốc người ta vẽ rồng thường là đầu có sừng, mình có vảy, mắt lồi, miệng lớn, có râu mép, có bốn chân, thân hình rất dài, đuôi rất ngắn. Người vẽ rồng chỉ vẽ đầu rồng mà không vẽ đuôi rồng để biểu thị vẽ thần bí, bởi:
Thần long kiến thủ bất hiện vĩ.
(Rồng thần thấy đầu mà chẳng thấy đuôi.)
Vì sao người Trung Quốc vẽ rồng như vậy? Bởi đã có một vị Thiền Sư trong khi nhập định thì trông thấy hình tướng của rồng như thế. Rồng có thần thông, biến hóa khôn lường, có thể biến lớn biến nhỏ, lúc ẩn lúc hiện. Lục Tổ Ðại Sư đã từng dùng bát ăn cơm của Ngài để hàng phục một con rồng lớn và trừ được tai nạn cho Chùa Nam-Hoa.
Rồng là một côn trùng lớn, bởi thuở xưa tu hành thì “Thừa cấp” (mau mắn về tu hành Ðại-thừa) nên có được thần thông, nhưng lại “Giới hoãn” (chậm chạp, không tinh tấn về Giới Luật) nên bị đọa làm súc sanh. Rồng có nhiều chủng loại khác nhau, kim-long (rồng vàng), bạch-long (rồng trắng), thanh-long (rồng xanh) và hắc-long (rồng đen). Rồng có thể được sanh ra từ thai bào, từ trứng, từ sự ẩm thấp, hoặc từ sự biến hóa. Lại còn có cầu-long (rồng có sừng), ưng-long, giao-long (thuồng luồng), ly-long (rồng đen); thiên-long, địa-long, vương-long, nhân-long; và còn có cả ngư-hóa-long (rồng do cá biến hóa thành), mã-hóa-long (rồng do ngựa biến thành), tượng-hóa-long (rồng do voi biến hóa thành), và hạp-hóa-long (rồng do cóc biến hóa thành) nữa.
Giống rồng phải chịu bốn thứ khổ:
1) Bị đại bàng kim sí điểu sở thốn khổ (khổ vì bị chim đại bành kim sí điểu ăn thịt);
2) Giao vĩ biến xà hình khổ (khi giao hợp, rồng bị biến thành rắn, và sự biến thành này vô cùng đau đớn, khổ sở);
3) Tiểu trùng giảo thân khổ (khổ vì bị các loài trùng nhỏ ẩn trong vảy rồng cắn rỉa, hút máu);
4) Nhiệt sa tháng thân khổ (khi trời nắng gắt, những đất cát dính trong vảy rồng đều bị nung nóng bởi ánh nắng mặt trời, làm cho rồng bị ngứa, xót rất khổ sở).
Nhiệm vụ của rồng là “bố vân giáng vũ,” giăng mây làm mưa. Tuy nhiên, có năm trường hợp rồng không thể làm mưa được.
1) Hỏa đại tăng thạnh (yếu tố “lửa” gia tăng mạnh mẽ);
2) Phong xuy vân tán (gió thổi làm mây tan);
3) A-tu-la thu vân nhập hải (loài A-tu-la thâu mây vào biển);
4) Vũ sư phóng dật (thần mưa buông lung);
5) Chúng sanh nghiệp trọng (nghiệp chướng của chúng sanh nặng nề).
Các bạn muốn biết hình dáng của rồng ư? Thế thì, các bạn cần phải nổ lực tu hành, dụng công ngồi thiền; khi Ngũ Nhãn khai mở, các bạn sẽ thấy được bản lai diện mục của rồng thật. Bây giờ tôi sẽ kể cho các bạn nghe một công án về rồng. Ðây là một câu chuyện xảy ra cho chính bản thân tôi, hoàn toàn có thật, tuyệt đối không phải là chuyện bịa đặt.
Khi còn ở Ðông Bắc, tôi có thâu nhận một người đệ tử tên là Quả Thuấn. Anh ta rất dụng công tu hành và chưa tới nữa năm đã có thể ngồi Thiền mà nhập Ðịnh được. Trong lúc nhập Ðịnh, anh ta có thể biết được đạo lý nhân quả tuần hoàn báo ứng; công phu tu trì của anh kể như gần tới nơi tới chốn. Về sau, anh ta ra ngoài tự cất một căn nhà tranh làm nơi tu hành. Ngày làm xong nhà tranh, anh mời tôi tới khai quang. Tôi cùng bốn người đệ tử nữa tới đó (trong bốn người ấy có hai người đã mở Ngũ nhãn). Lúc ấy tôi không để ý là bên cạnh nhà tranh có ngôi miếu Long-vương.
Ngày hôm đó thì có chuyện xảy ra: khi chúng tôi sắp ngồi Thiền thì hai người đệ tử đã mở Ngũ nhãn nọ đến nói với tôi: “Bạch Sư phụ! Có mười con rồng đến xin quy y Sư phụ, hiện còn chờ bên ngoài nhà tranh!”
Tôi nói với mấy người đệ tử: “Các ông không được nói bậy! Sao các ông biết họ là rồng? Họ quy y tôi làm gì chứ? Tôi làm sao có thể làm Sư Phụ của họ được? Tôi không có bản lãnh cao cường như họ!”
Họ nói: “Bọn họ tự xưng là rồng, hiện đang quỳ bên ngoài, nhất định xin quy y Sư phụ.”
Bấy giờ đang vào mùa hạ, trời hạn hán, không mưa, lúa mạ ngoài đồng gần như chết khô cả. Tôi mới nói với các vị rồng (hóa thành người) ấy rằng: “Các vị muốn quy y tôi cũng được, song tôi có một điều kiện. Các vị là rồng, chuyên lo việc làm mưa, mà hiện tại vùng Hợp Nhĩ Tân đã lâu không có mưa nên khô hạn vô cùng. Ngày mai nếu có mưa, thì ngày mốt tôi sẽ cho các vị thọ Quy Y; nếu không thì tôi không nhận các vị làm đệ tử!”
Chúng đồng thanh đáp: “Bạch Thầy! Ðành rằng nhiệm vụ chúng tôi là làm mưa; nhưng không có lệnh của Ngọc-hoàng Ðại-đế thì chúng tôi không dám làm mưa, vì nếu trái lệnh thì sẽ bị trừng phạt.”
Tôi nói: “Các vị hãy tới trước Ngọc-hoàng Ðại-đế thưa rằng: ‘Tại Hợp Nhĩ Tân có một người xuất gia thỉnh cầu hãy cho mưa xuống trong vòng bốn mươi dặm xung quanh Hợp Nhĩ Tân.’ Ðó là điều kiện của tôi.”
Ngày hôm sau quả nhiên trời mưa lớn và hết nạn hạn hán. Khắp nơi trong vòng bốn mươi dặm xung quanh Hợp Nhĩ Tân đều được trận mưa rào. Ngày tiếp theo, tôi cho mười con rồng ấy thọ Quy Y và đặt Pháp danh chung cho chúng là Cấp Tu. Sau khi quy y thì những con rồng ấy ẩn hình, không thấy nữa.
Chúng đã đi hóa độ đồng loại của chúng.
Từ đó về sau, bất luận là tôi đi tới nơi nào thì nơi ấy đều có nước để dùng! Tôi tới Hương Cảng thì Hương Cảng có nước; tôi tới Vạn Phật Thánh Thành thì Vạn Phật Thánh Thành cũng có nước. Ðó không phải là kỳ tích xuất hiện, mà chính là do mười con rồng này cùng quyến thuộc của chúng hộ Pháp.
Có người hỏi: “Bạch Sư phụ! Sư Phụ nhìn thấy mười con rồng ấy hình dạng ra sao?”
Khi đến quy y tôi thì những con rồng ấy điều biến hóa thành người, giống hệt như người thường vậy, chẳng có khác biệt cả; chỉ có người đã mở Ngũ Nhãn thì mới biết đó là rồng thôi. Các bạn muốn biết rồng ra sao ư? Thế thì hãy mau mau dụng công tu Ðạo, chuyên tâm ngồi Thiền, bớt khởi vọng tưởng, đừng nên nổi nóng, và bất luận gặp phải nghịch cảnh hay thuận cảnh thì cũng đều nên nhẫn nại, chớ sanh lòng tham luyến. Khi đạt tới cảnh giới “nhất niệm bất sanh, nhất trần bất nhiễm” (một ý niệm cũng không sanh, một hạt bụi cũng chẳng dính) thì tự nhiên Ngũ Nhãn sẽ khai mở. Bấy giờ, các bạn sẽ thấy tường tận mặt mày của rồng!
43/. Ðời Người Như Giấc Mộng, Hãy Thức Tỉnh!
Tại thế giới này con người lại buông cái chân thật để nắm giữ cái giả dối, do đó đời đời kiếp kiếp quay lưng với sự giác ngộ để hoà hợp với bụi trần, túy sanh mộng tử. Túy sanh có nghĩa rằng trong lúc sống thì như kẻ uống rượu say, không biết mình từ đâu sanh về đây. Mộng tử có nghĩa rằng đến lúc chết thì như kẻ đang nằm mộng, không biết chết sẽ về đâu. Ai ai cũng sống trong mộng. Lấy cái giả mà cho là thật, ham danh ham lợi, lòng tham không bao giờ ngừng dứt.
Ở trong mộng thì bạn thấy mình làm quan, hoặc phát tài, hoặc có địa vị, quyền lợi, danh dự, hoặc có vợ đẹp thiếp xinh, con cái đầy nhà, vinh hoa phú quý, hưởng thọ không hết. Giả như trong lúc mộng ấy mà có người nói với bạn rằng: “Ông ơi! đây chỉ là hư vọng thôi, không phải thật đâu,” thì bạn sẽ chẳng bao giờ tin. Chờ đến khi bạn tỉnh dậy rồi thì chẳng ai nói với bạn là bạn đã nằm mộng, bạn cũng biết rõ là mình vừa trải qua một giấc chiêm bao.
Ðêm qua nằm mộng thấy đậu trạng nguyên, làm tể tướng, làm hoàng đế, thành thần tiên, hạnh phúc vô cùng. Ngày hôm nay tỉnh lại: “Ôi! Tất cả chỉ là một trường xuân mộng!” (xuân mộng tức là giấc mộng rất ngắn ngủi). Ðó là sự tỉnh thức. Nếu không tỉnh mà chọn mộng là thật, thì sẽ tham luyến, không buông bỏ, chấp trước sự mê mờ, và chẳng bao giờ được giác ngộ. Bây giờ mình chính là đang chiêm bao giữa ban ngày mà chưa thức tỉnh, do đó sống một cách hồ đồ, rồi cũng hồ đồ mà chết đi. Sanh ra đây là từ đâu tới? Chết rồi mình sẽ đi đâu? Không biết! Cả một đời chẳng bao giờ tỉnh. Các vị hãy nghĩ xem, như vậy thì có ý nghĩa gì? Có gì mình phải lưu luyến? Có gì đáng để mình không buông bỏ tất cả ?
Cả đời mình đều bị sợi dây tam độc và ngũ dục trói buộc vô cùng chặt chẽ đến nổi không có tự do để chuyển hóa bản thân, thì đừng nói chi đến chuyện giải thoát. Do đó bạn phải phát tâm xuất gia tu đạo, dụng công ngồi thiền, nổ lực lạy Phật, tức là mình tự cởi mở sợi dây tam độc và ngũ dục, cuối cùng sẽ có một ngày sẽ được hoàn toàn giải thoát. Lúc ấy mình sẽ thức tỉnh, quay đầu nhìn lại những điều mình đã làm trong quá khứ đều hoàn toàn như ảo mộng, tất cả đều chẳng phải là chân lý. Nay thức tỉnh rồi mình mới thoát ra khỏi vòng tam giới, không còn bị hạn chế trong sanh tử, tự do muốn sanh thì sanh, muốn chết thì chết, tự do tới và đi theo ý mình. Ðó mới là chơn chính giải thoát, đó là: “Ðại mộng sơ tỉnh” vậy.
Thói thường chúng ta cứ giữ chặt cái hư giả dối trá mà quên mất cái chân thật. Thế nào là cái hư giả dối trá? Chính là sự khoái lạc sung sướng của ngũ dục: tài sắc danh thực thùy. Thế nào là cái chân thật? Tức là sự sung sướng của Niết-bàn ở trong bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. Song le con người rất quái lạ, điều chân thật mất đi thì không sợ, nhưng khi điều giả dối mất đi thì lại sợ hãi vô cùng. Vì sao vậy? Bởi vì người đời ai cũng nhận giặc làm con, bỏ gốc chạy theo ngọn, lấy cái giả cho là thật, không thức tỉnh, do đó vẫn còn trong mộng, tham luyến cảnh giới của giấc chiêm bao.
Bởi do nhân duyên mình dấy khởi sự mê mờ, tạo ra ác nghiệp rồi thọ sự báo ứng, giống như một hạt bụi bay lượn trên không trung, không tự làm chủ mình được. Hạt bụi ấy cứ tùy theo nghiệp lực rồi luân chuyển trong lục đạo luân hồi không lúc nào ngừng nghỉ. Cho nên nói rằng: “Ðả bất phá danh lợi quan, khiêu bất xuất luân hồi khuyên,” nghĩa rằng đánh không sập cửa danh lợi thì nhảy không thoát vòng luân hồi. Ðến lúc nào bạn không bị cảnh giới làm động tâm, lúc ấy bạn mới thoát ly khỏi cái vòng lục đạo luân hồi.
(Ngày 21 tháng 8 năm 1983)
44/. Thế Nào Là “Ngũ Suy Tướng Hiện”
Khi đã làm nhiều việc thiện, công đức đầy đủ rồi, bạn sẽ sanh lên cõi trời, hưởng thọ sự khoái lạc. Các vị thiên nhân thì thường ở trong định. Họ lấy sự khoái lạc thiền định làm thức ăn, có khoái lạc của pháp vị sung mãn, song le sự khoái lạc ấy chẳng phải là cứu cánh. Chờ đến lúc họ đã tận hưởng hết phước trời thì tự nhiên đọa lạc vào luân hồi, chịu quả báo xưa kia đã làm.
Phước báo của các vị trời, hễ nghĩ đến y phục thì y phục tới ngay, nghĩ đến ăn uống thì ăn uống có liền. Y phục của họ rất nhẹ, chỉ có ba thù (hai mươi bốn thù là một lượng) tức là rất là nhẹ, cho nên nói rằng: “Thiên y vô phùng,” nghĩa rằng y phục không cần may cắt gì cả. Lớn nhỏ thế nào, muốn là nó sẽ vừa khít, không to quá cũng không nhỏ quá. Hễ muốn ăn uống thứ gì thì thực phẩm sẽ tức khắc hiện ra trước mặt, không quá nhiều cũng không quá ít, làm cho người ăn được thỏa mãn.
Các vị trời đến lúc lâm chung có năm tướng suy hoại hiện ra:
Thứ nhất: Hoa quan khô nuy (cái mũ hoa khô héo): các vị trời có đội mũ bằng hoa, trang nghiêm vô cùng, không bao giờ khô héo. Nhưng đến lúc lâm chung thì mũ hoa đó tự nhiên héo tàn.
Thứ hai: Y phục cấu nị (y phục dơ bẩn): các vị trời mặc áo quần không những là đẹp đẽ thanh khiết, lại chẳng dính một hột bụi, không cần giặt giũ gì cả. Ðến lúc gần chết tự nhiên áo quần của họ trở nên dơ dáy, bụi bậm dính vào.
Thứ ba: Dịch hạ hạn xuất (nách chảy mồ hôi): thân của các vị trời thì không bao giờ toát mồ hôi. Nhưng đến lúc hấp hối lâm chung, thì dưới hai nách mồ hôi xuất ra.
Thứ tư: Thân thể xú uế (thân thể có mùi hôi): các vị trời do trước kia tu hành rất là chân chánh, nghiêm trì giới luật, do đó họ có giới hương (hương do giới luật sanh ra), thường phóng ra mùi hương thơm ngát. Vì sao thân của chúng ta có mùi hôi thối? Là vì chúng ta không giữ giới luật. Khi mình hấp hối đến gần chết thì thân mình phát ra mùi tử thi.
Thứ năm: Bất lạc bổn tòa (không thích chỗ mình ngồi): các vị trời lúc nào cũng ở trong định, luôn như như bất động, liễu liễu thường minh. Nhưng đến lúc bốn tướng suy hoại hiện ra thì các vị trời nhìn thấy nó, biết mình sắp chết, do đó tâm tán loạn rần rần, vọng tưởng khởi lên lăng xăng, ngồi cũng không yên, đứng cũng không yên, đứng rồi lại ngồi, ngồi rồi lại đứng, quay đi quay lại mấy lần thì tắt thở. Khi họ chết thì đầu thai vào lục đạo luân hồi. Nếu nghiệp địa ngục của họ chín muồi thì họ tới địa ngục thọ sanh; nếu nghiệp súc sanh chín muồi thì họ sẽ đầu thai thành làm thú vật; nếu nghiệp A-tu-la chín muồi thì họ sanh vào cõi A-tu-la; nếu nghiệp làm người chín mùi thì họ đầu thai vào cõi người. Song le trong mỗi cõi thì có thiên sai vạn biệt, đủ loại đẳng cấp khác nhau, thí dụ như trong cõi người, trên cao cùng tột bậc là hoàng đế, dưới cùng hết thẩy là kẻ ăn mày, cấp trung gian thì đủ các loại giai cấp, có kẻ thì giàu sang phú quý, có kẻ thì bần cùng hạ tiện, có người thì thông minh, có kẻ thì ngu si, có người thì trường thọ, có kẻ thì chết yểu, có người thì mạnh khỏe, có kẻ thì bệnh tật, tất cả đều do nghiệp lực chiêu cảm mà thành.
45/. Trong Ðạo Tràng Phải Cẩn Thận Nơi Lời Nói và Việc Làm
Bất cứ ai khi tới Vạn Phật Thánh Thành, các vị nhất định phải cẩn thận trong lời nói và hành động, phải buông bỏ đi lòng háo danh háo lợi của mình. Không nên coi thường mọi người, cho rằng mình là hay nhất, giỏi hơn hết, rồi đem mình đặt lên cao mà khinh khi coi rẻ người khác. Ðó là hành vi cống cao ngã mạn.
Có những dơ bẩn mà mang trong tâm, hoặc mang trong thân, hoặc mang trong tinh thần, thì làm sao có thể thành tựu đạo nghiệp? Tôi thường nói với các vị rằng:
Chân nhận tự kỷ thác
Mạc luận tha nhân phi
Tha phi tức ngã phi
Ðồng thể danh Ðại-bi.
Các bạn hãy coi người khác như là chính mình vậy. Coi sự khoái lạc vui sướng của kẻ khác cũng là sự vui sướng của chính mình. Khi người khác đau buồn thống khổ thì hãy coi đó là sự thống khổ của chính mình. Khi ai làm chuyện tốt thì mình cũng ví như chính mình làm chuyện ấy. Khi ai làm chuyện ác thì mình cũng bị thương đau buồn như chính mình làm chuyện ấy. Mình phải có tư tưởng như vậy thì mới có thể cùng người khác, ăn ở vui vẻ với nhau, mới khuyến khích giúp đỡ những kẻ phạm giới, cũng như khuyến khích những kẻ giữ giới, không thể có tâm “tật hiền đố năng,” nghĩa là ganh tị với người tốt và người có tài, cũng không thể chướng ngại kẻ khác phát tâm bồ đề.
Sau khi xuất gia, ở chùa làm việc thì nên mau chân mau tay, tuyệt đối đừng đi khoe khoang, tuyên truyền công lao của mình rằng tôi làm như vậy, tôi làm như kia. Nếu mà khoe khoang công lao thì ngược lại chẳng có công đức gì. Các bạn đừng nên bắt chước như người đời hiện giờ, làm một chút thì sợ bị thiệt thòi, làm chuyện gì cũng sợ thua lỗ. Tự cho mình là thông minh lắm nhưng kỳ thật thì ngu muội. Tất cả công chuyện mà bạn làm hằng ngày, bạn không cần nói ra bởi vì các vị thần Hộ-Pháp ghi nhớ rất rõ ràng. Khi công đức viên mãn, tự nhiên sẽ có sự cảm ứng, cho nên nói: “hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong dương,” nghĩa rằng: có mùi hương thì tự nhiên thơm ngát, không cần gió để thổi đi.
Chúng sanh có lỗi lầm giống nhau, tức là khi làm việc thì nói rằng mình không nên có ngã tướng (tức là mình không nên làm). Ðến lúc ăn cơm thì nói rằng mình chẳng nên có nhân tướng (bởi vì không có người khác nên mình cứ tha hồ ăn). Ðến lúc cãi lẫy với nhau thì nói rằng: “ồ, mình không nên có chúng sanh tướng!” (Tức là cứ việc cãi lẫy đi, không có chúng sanh đâu). Ðến lúc ăn thịt lại cho rằng không có thọ giả tướng (tức là miếng thịt không có sanh mạng gì cả, cứ tiếp tục ăn đi!). Lại còn không có lòng hổ thẹn mà nói rằng: “Tao ăn thịt tụi bây là để siêu độ tụi bây được lên cõi Tây thiên.” Người nào mà có tưởng như vậy, tự cho rằng mình thông minh, kỳ thật đã bị sự thông minh đánh lừa chính mình, và họ sẽ chịu thiệt thòi, tự mình không biết mà thôi.
Những người tu hành chúng ta, lúc nào cũng phải nhiếp tâm kiểm soát chính mình, phải làm chủ tự kiềm chế mọi cử động hành vi của mình, đi đứng nằm ngồi đừng nên rời khỏi nhà (tức là chơn tâm). Không rời tức là không đi soi mói tìm tòi lỗi lầm của kẻ khác, cũng không nói thị phi về người khác, tức là mình phải cẩn thận trong lời nói và hành động. Lúc nào cũng hồi quang phản chiếu, soi lòng mình phải tự tìm ở nơi mình, phải diệt trừ tánh nóng nảy kỳ quái của mình để giữ gìn công phu nhẫn nhục. Nói đi nói lại cốt ý là bạn hãy bớt nói, tu nhiều hơn, đừng bao giờ nên khoe khoang chính mình, tôi như thế này tôi như thế kia. Bây giờ đã xuất gia rồi thì đừng nên có thói quen như người tại gia. Xuất gia là vì sao? Bạn hãy phản tỉnh, nhìn lại chính mình, có nên hay chẳng nên?
46/. Người Tu Ðạo Không Nên ích Kỷ
Hôm nay là ngày bắt đầu của Ðịa Tạng Thất. Mỗi năm vào ngày 15 tháng 7 âm lịch (tức là lễ Vu Lan) cho đến ngày 30 tháng 7 (tức là ngày Ðản sanh Ðức Ðịa Tạng) chúng ta đều tổ chức hai Thất Ðịa Tạng để siêu độ cô hồn ngạ quỷ được vãng sanh, và cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Ðó là trách nhiệm mà Vạn Phật Thánh Thành cần phải tận tình thực hiện.
Hy vọng các vị hãy chuyên tâm nhất trí niệm “Nam Mô Ðịa Tạng Bồ Tát,” niệm cho đến khi tâm và miệng tương ưng thì nhất định sẽ được cảm ứng. Không thể một tâm mà làm hai việc, phải tập trung tinh thần lại để niệm tên Ngài. Nếu mình chẳng chí thành khẩn thiết, thì tuy không thể nói rằng chẳng có công đức, song le công đức không nhiều. Nếu nhất tâm chuyên niệm, thì mình sẽ cùng Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát hòa hợp làm một, và khi niệm tới chỗ “bất niệm như tự niệm” (miệng không niệm nhưng tâm luôn niệm) thì trong lòng mình tự nhiên thanh tịnh và tự tại, mọi phiền não đều tiêu tan.
Người tu đạo không nên ích kỷ, không nên có tư tưởng “hoài kỳ bảo nhi mê kỳ bang.” Hễ mình được đồ ăn gì ngon thì hãy nhường cho đại chúng ăn; hễ có áo quần đẹp thì cũng nhường cho đại chúng mặc; hễ có chỗ ở an lành, cũng nhường cho đại chúng; có được cảm ứng gì tốt thì hãy cùng chia xẻ với đại chúng, cúng dường mọi người. Phàm là mình có được công đức gì thì nhất định nên hồi hướng cho chúng sanh trong Pháp-giới. Nếu chẳng được vậy thì mình vẫn còn ích kỷ.
Hễ ai có cảm ứng tốt hãy cúng dường mọi người, hễ không được cảm ứng tốt cũng nói rõ cho mọi người nghe. Không nên thiếp vàng lên mặt (khoe khoang chính mình), nói rằng tôi có cảm ứng đẹp như thế này, tốt như thế kia. Cũng không được hễ có cảm ứng kỳ diệu mầu nhiệm thì giấu kỹ, không nói cho người khác biết. Nếu có tư tưởng như vậy đều là ích kỷ. Bây giờ mọi người hãy phản tỉnh coi mình đã làm tròn trách nhiệm chưa? Phải chăng là mình không chịu làm việc, cứ người này đẩy qua người kia, tôi đẩy anh anh đẩy tôi, không ai chịu gánh vác trách nhiệm của mình cả.
Mỗi người chúng ta ai cũng phải phát tâm, coi Phật giáo là trách nhiệm của riêng mình. Sự hưng thịnh suy vong của Ðạo, mọi người đều phải có trách nhiệm. Không thể nói rằng: đó là việc của người khác, không quan hệ gì tới tôi.
Vì sự lợi ích của Phật Giáo nên mình phải hy sinh mọi sự, thậm chí dù có xương tan thịt nát mình cũng không từ nan. Phải có tinh thần như vậy mới là tín đồ chân chính của Ðạo Phật. Không nên lợi dụng Phật Giáo để kiếm miếng ăn, lợi dụng Phật Giáo để có áo mặc, mà phải tận lực ủng hộ Tam Bảo. Như vậy mới không có tâm ích kỷ.
Chẳng nên lúc nào cũng sợ thua lỗ, lúc nào cũng sợ thiệt thòi, lúc nào cũng tự cho mình là cao quý, cho mình là hay giỏi nhất. Phải có tinh thần quên mình vì Ðạo Pháp, thì mới đủ tư cách làm một tín đồ của Ðạo Phật.
(Ngày 25 tháng 8 năm 1983)
47/. Noi Gương Ðịa Tạng Vương Bồ Tát
Ðịa Tạng Vương Bồ Tát có nguyện lực lớn nhất. Ngài nói rằng:
“Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật,
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề.”
Có nghĩa là địa ngục chưa trống không, tôi thề không thành Phật; chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng bồ-đề. Tinh thần nầy thật là từ bi. Bồ-tát đối với chúng sanh chúng ta rất là quan tâm lo lắng vô cùng, không có gì hình dung được. Phàm đối với tín đồ Phật Giáo, nổ lực tu hành thì Ðịa Tạng Vương Bồ Tát có thể trong lúc chúng ta thiền định hoặc chiêm bao mà hiện thân thuyết pháp. Tiếc thay chúng ta không hiểu dụng tâm của Bồ-tát, và cô phụ lòng từ bi của Ngài, thật là có lỗi với Ngài. Song le Bồ-tát cũng không giận dỗi, Ngài tha thứ cho sự si mê của chúng sanh, rồi vẫn không ngừng phổ độ chúng sanh. Khi nào độ hết chúng sanh thì Ngài mới thành Phật.
Những việc Bồ-tát làm đều hướng về sự chân thật. Tuyệt đối Ngài không có ý hư ngụy giả dối, dù nhỏ như một sợi tơ, thuần túy là để cứu độ chúng sanh được thoát khổ và an lạc.
Hiện nay chúng ta đang cử hành Ðịa Tạng Thất, ai có chơn tâm thì người ấy sẽ có cảm ứng, ai có thành ý thì người đó sẽ có thọ dụng. Sự thọ dụng nầy không phải là đắc được thần thông diệu dụng, mà là tâm mình được thanh tịnh, hết vọng tưởng. Khi vọng tưởng hết thì mình sẽ có cảnh giới cảm ứng đạo giao hiện tiền. Có người nói: “Bình an là cảm ứng; biết lỗi lầm cũng là cảm ứng; so với lúc xưa tôi hiểu biết rõ ràng hơn, đó cũng là cảm ứng; so với trước kia tôi siêng năng nổ lực hơn, đó cũng là cảm ứng.” Nói như vậy cũng không sai, chung chung là như vậy.
48/. Hãy Chấp Nhận Sự Chỉ Trích Vô Lý
Bây giờ tôi xin nói cho các bạn nghe kinh nghiệm của tôi khi tôi tụng Kinh Ðịa Tạng. Lúc tôi mười bảy tuổi thì đã bắt đầu giảng Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Ðàn và Kinh Kim Cang cho người ta nghe rồi. Ban đầu tôi không biết giảng nhưng vẫn phải giảng. Vì sao vậy? Bởi vì lúc bấy giờ có rất nhiều người muốn nghiên cứu, học hỏi kinh điển nhưng lại không biết chữ. Do vậy tôi mới suy nghĩ là tôi cần phải đảm nhiệm công tác nầy, nên tôi mới giảng kinh cho họ nghe.
Một ngày nọ tôi ngẫu nhiên phát hiện ra quyển Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện và tôi như bắt được của quý. Ðọc qua một lần, tôi thấy Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát vô cùng từ bi. Ngài rất quan tâm đối với chúng ta, mà chúng ta thì không hay biết gì. Do đó tôi phát tâm mỗi ngày quỳ trước điện Phật và tụng một bộ Kinh Ðịa Tạng. Sàn của Phật điện lót bằng gạch, không có nệm, mà tôi chỉ mặc quần bằng vải thường. Quỳ trên sàn gạch và tụng một bộ Kinh phải mất hai giờ đồng hồ. Tôi chuyên chú tụng đến nỗi đầu gối rướm máu mà cũng không hề biết đau đớn gì cả, càng tụng thì tâm càng khoan khoái. Mỗi ngày cứ đúng giờ là tôi quỳ trước điện Phật và thành tâm tụng. Hơn một trăm ngày sau thì ma chướng phát sanh nên tôi phải ngưng, không còn niệm được nữa.
Người tu Ðạo, nếu không dụng công tu hành thì chẳng có ma chướng lại khảo nghiệm thử thách. Hễ bạn được một chút xíu thành tựu thì ma liền đến thử thách để coi bạn có định lực hay không? Trong lúc tôi đang niệm Kinh Ðịa Tạng thì có một vị cư sĩ đến chùa cúng dường. Ông ta thấy tôi quỳ mà tụng Kinh thì rất tán thán khen ngợi tôi, và nói với người trong chùa thầy đó dụng công như vậy, thầy đó tinh tấn như kia… Sau khi vị cư sĩ nầy đi về rồi, tất cả các thầy trong chùa đều mắng tôi: “Chú giả bộ hay quá, cố làm cho cư sĩ để ý để chứng tỏ rằng chú là kẻ tu hành chuyên cần. Chú thật là đồ lợi dụng!” Lúc bấy giờ tôi chẳng biện luận gì cả, mình hiểu mình là được rồi, chỉ biết rằng mình vì tu hành mà tụng Kinh thôi. Nhưng từ đó về sau thì những chuyện vô lý thường xuyên xảy ra. Trước khi tụng kinh, mấy thầy lại mắng tôi: “Ðồ giả mạo tu hành.” Sau khi tụng kinh xong, mấy thầy cũng lại chưởi tôi: “Giả bộ tu hành xong rồi sao!” Ngày nào cũng chưởi mắng om sòm nhưng tôi vẫn cứ chịu đựng không nói lời nào cả.
Sau khi tôi tụng được hơn một trăm ngày thì ma chướng thật sự kéo tới. Một hôm vừa niệm xong một bộ Kinh Ðịa Tạng, thì vị đại sư huynh tới trước mặt tôi rồi đánh tôi một phát. Tôi chẳng hiểu vì sao, cũng không dám hỏi lý do. Sau đó y mắng tôi: “Chú là người vô dụng, ở đây biếng nhác hưởng nhàn. Người ta có công việc làm ngoài kia, còn chú thì ở đây giả bộ tụng kinh để biểu diễn cho người ta coi. Chùa đâu phải chỗ để cho chú tu hành như vậy? Chú có công đức gì mà ở đây tu hành?” Vì thế tôi chỉ còn cách phải ngưng việc tụng Kinh Ðịa Tạng.
Hôm nay gặp kỳ Ðịa Tạng Thất khiến tôi nhớ lại chuyện quá khứ. Tu hành không phải dễ dàng, mà lúc nào cũng có thể gặp chướng ngại. Các bạn rất là may mắn, đã gặp được đạo tràng tu hành rất lý tưởng, không bị chưởi mắng, không bị đánh đập, vô cùng ung dung tự tại. Các bạn càng cần học gương nhẫn nhục, luôn luôn phấn đấu trong nghịch cảnh, tiếp tục công phu tu hành và tinh tấn hành trì trong mọi hoàn cảnh.
49/. Khuyên Con Dâu Nên Hiếu Thảo Với Cha Mẹ Chồng
Khi tôi theo hầu Ngài Thường Nhân Ðại Sư của Chùa Tam Duyên tại tỉnh Ðông Bắc Trung Hoa, có lần vì công tác xây chùa nên tôi đi ra ngoài thôn trang kiếm xe chở vật liệu. Cách chùa khoảng mười lăm dặm, có một thôn trang gọi là Ðại Ba. Bấy giờ chính là lúc canh tác mùa xuân nên nông dân rất là bận rộn, do đó không thể kiếm được xe. Tôi bèn tới nhà ông thôn trưởng thì ông ta nói rằng: “Hiện tại chúng tôi rất là bận rộn, không có thời giờ để chở vật liệu dùm cho chùa!” Vừa lúc đó thì người em dâu của ông ta tới gặp tôi và nói rằng: “Thầy ơi! Ðứa con tôi bị bệnh, bác sĩ chữa không lành, Thầy có thể phát lòng từ bi trị bệnh cho con tôi chăng?”
Tôi nói với cô ta rằng: “Bởi vì cô không hiếu thảo với cha mẹ chồng của cô nên con cô mới bị bệnh. Nếu cô muốn con cô hết bệnh thì nhất định cô phải sám hối. Cô phải lạy trước bài vị của tổ tiên và khấn nguyện từ đây về sau sẽ hiếu kính với cha mẹ chồng và ăn ở hiền lành hòa thuận với mọi người trong nhà. Sau đó thì quỳ trước cha mẹ chồng của cô mà nhận lỗi, và nguyện rằng sẽ không làm cho ông bà buồn phiền nữa. Nếu cô thành tâm như vậy thì con cô nhất định sẽ lành bệnh.”
Cô ta tức thời làm theo lời tôi nhưng bệnh của đứa con nhỏ vẫn không thuyên giảm nên cô ta liền chạy tới gặp tôi. Tôi nói: “Cô hãy đem đứa nhỏ lại cho tôi coi.” Cô ta lập tức bồng đứa nhỏ tới, thằng bé khoảng ba bốn tuổi, hai mắt nhắm nghiền, miệng thì há hốc. Tôi dùng tay gõ nhẹ lên đầu nó ba lần. Không lâu sau đó thì thằng nhỏ bổng nhiên mở mắt, nhìn đông nhìn tây, qua chừng năm phút thì rời tay mẹ nó xuống đất chạy chơi lanh lẹ như thường.
Lúc bấy giờ vị thôn trưởng vô cùng hoan hỷ nói với tôi rằng: “Thầy ơi! Thầy đã cứu cháu tôi lành bệnh. Ngày mai chúng tôi sẽ đem tất cả các xe tới chùa để giúp Thầy chở vật liệu.”
Sáng hôm sau, ông ta gởi lại chín chiếc xe để chúng tôi dùng. Ðến tối, lúc ra về thì có một con lừa kéo xe bị đè gãy chân. Người chủ xe lấy làm lạ và nghĩ rằng mình làm việc cho chùa thì phải có công đức, tại sao lại gặp tai nạn như vậy. Ông ta suy nghĩ mãi mà không tìm được lý nhân quả của sự việc này nên tới hỏi tôi: “Thầy ơi! Chuyện nầy là nhân duyên như thế nào?”
Tôi trả lời với ông ta rằng: “Bác chớ nên bồn chồn, lo lắng. Chân của con lừa bị gãy tuy bị tổn thương nhưng không lâu nó sẽ lành. Việc này thật ra đã cứu được tánh mạng của người nhà bác đấy.”
Ông ta rất cảm động khi nghe tôi nói như vậy và còn quyết định ngày hôm sau sẽ tới giúp chùa chở vật liệu nữa.
Từ đó về sau bất cứ tôi tới thôn trang nào mượn xe để chở vật liệu thì mọi người đều vui vẻ giúp đỡ vì biết rằng giúp chùa thì có được công đức vô lượng, thậm chí có người tranh nhau để cho mượn xe hoặc cho người phụ giúp công quả cho chùa.
(Ngày 26 tháng 8 năm 1983)
50/. Ðạo Tặc Trở Thành Hiếu Tử
Tại quê tôi ở Ðông Bắc, có một lần tôi gặp một vị hiếu tử họ Vưu tên là Chí Huệ. Xưa kia anh là một kẻ ăn cắp, giựt tiền cướp của, không có chuyện ác gì mà anh chẳng làm. Một ngày nọ, anh bị thương nặng, từ chỗ chết mà được sống lại. Từ đó lương tâm như được thức tỉnh, anh sanh lòng hổ thẹn và quyết tâm hoán cải cuộc đời, làm lại một con người mới. Anh phát nguyện: “Nếu tôi không chết thì nhất định tôi sẽ đến phần mộ của cha mẹ tôi để báo hiếu.” Không bao lâu thì vết thương của anh lành. Sau khi trở về nhà, anh lập một chòi tranh, ở gần mộ phần cha mẹ anh và ở đó mấy năm liền.
Có một năm vào mùa Hạ, trời mưa tầm tả và gây ra ngập lụt. Anh phát tâm cầu nguyện với trời cao, nếu nội trong ba ngày mà trời ngừng mưa thì anh sẽ cắt thịt để tế trời. Anh lại nghĩ rằng nếu chờ trời hết mưa mới cúng tế thì cũng như một cách hối lộ, vậy mình phải ngay bây giờ cắt thịt để tế trời mới biểu lộ được lòng chân thành khẩn thiết. Anh liền bày hương án và cầu xin trời xanh hãy bảo hộ cho bá tánh trong vùng và khiến cho mùa màng được tốt đẹp. Nói xong anh liền dùng dao cắt một miếng thịt ở ngay ngực. Bấy giờ máu trào ra linh láng, khiến anh mê man ngất xỉu trên mặt đất.
Lòng thành khẩn thiết của anh cảm động đến trời đất, nên đã phát sanh cảm ứng rất kỳ diệu. Lập tức mưa ngừng trời trong, và khi người nhà mang cơm ra cho anh ăn thì phát hiện anh đang nằm trên mặt đất, máu chảy linh láng. Họ bèn thức anh dậy, và chữa trị cho anh. Ðược chừng nữa tháng thì vết thương hoàn toàn lành hẳn. Trong thời gian đó, có một con chim rất là dễ thương, ngày ngày bay lại bên giường an ủi anh mà hót lên: “Ða tác đức! Ða tác đức! Ða tức đa hảo!” (nghĩa rằng làm đức cho nhiều, làm đức cho nhiều, đức nhiều tốt lắm). Con chim ấy trở thành người bạn tốt của anh. Sau nữa tháng không biết con chim đó bay đi đâu. Lòng chân thành đã khiến cho mưa ngừng hẳn, lại có chim thần đến làm bạn, cảnh giới đó thật là bất khả tư nghì.
Có một năm, tôi và anh ta gặp lại nhau, ngồi với nhau một giờ đồng hồ, không nói với nhau một lời nào cả. Vì sao vậy? Bởi vì không có gì đáng nói. Tất cả đều thể hiện trong im lặng “bất ngôn,” anh ta biết tôi, tôi cũng biết anh ta. Khi tâm chiếu soi thì chẳng cần lời lẽ, chỉ dụng ý mà thể hội thôi, không thể diễn bày bằng ngôn từ được.
Khi tôi tới Ðài Loan để hoằng pháp có gặp Thủy Quả Hòa-thượng (tức Hòa-thượng Quảng Khâm). Tôi và Ngài cũng cùng tình huống như vậy, nhìn nhau mà chẳng nói gì cả, nhưng trong lòng chúng tôi vui sướng vô cùng. Ðó là tác dụng cảm ứng của tâm linh tâm tâm tương ấn, tâm mình và tâm người cùng nhau ấn chứng; bỉ thử thông đạt, không còn chướng ngại.
51/. Bốn Giai Ðoạn Tất Yếu của Ðời Người
Mọi người chúng ta đều phải trải qua bốn cái khổ lớn của cuộc đời gọi là sanh lão bệnh tử, bất kỳ người nào cũng không thể thoát khỏi bốn nỗi thống khổ đó. Trừ phi bạn tu đạo và thoát được vòng sanh tử thì chẳng nói đến làm gì, đa số người đời đều phải chịu bốn thứ khổ ấy.
Khi sanh ra thì giống như bị hai trái núi đè ép cho nên trẻ con khi mới chào đời, việc đầu tiên là khóc òa lên, đó thể hiện sự đau khổ. Bà con quyến thuộc bị cảnh giới làm cho mê muội thì lại tới chúc mừng. Tuy đó là một niềm vui, nhưng kỳ thật là một nỗi khổ? Ðến lúc già thì mắt mờ, tai điếc, răng rụng, tóc bạc, chân tay đình công không còn cử động như ý muốn nữa. Thật là vô cùng đau khổ. Ðến lúc bệnh rồi tứ đại không còn điều hòa, không còn hợp tác với mình nữa. Bấy giờ chỉ còn nằm liệt giường, chẳng đứng dậy được. Bần cùng khốn khổ đi đôi với nhau, đúng là trong cái khổ lại còn khổ thêm nữa. Lúc ấy tâm muốn một đường, nhưng sức lực chẳng đầy đủ để làm theo, bạn nghĩ coi đó chẳng phải là khổ hay sao?
Ðến lúc chết thì khổ đau không sao tả xiết, giống như con trâu sống mà bị lột da, mình vì con cái mà móc ruột móc gan, bị thất tình lục dục làm cho mê muội, không buông bỏ được chúng. Kỳ thật chết là chuyện mà ai cũng phải trải qua. Vậy sao lúc sanh ra lại vui vẻ mà khi chết lại âu sầu? Ðáng tiếc là những kẻ ngu muội si mê không thể phá bỏ sự chấp trước này.
Bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu vấn đề sanh từ đâu đến, rồi chết đi về đâu? Nếu mình thông suốt vấn đề này thì có thể thoát khỏi tam-giới, không còn lọt vào luân hồi nữa. Ðức Thích Ca Mâu Ni xưa kia vì muốn nghiên cứu vấn đề này nên mới xuất gia tu đạo. Ngài hành đạo khổ tu sáu năm mà chẳng đạt được phương pháp giải quyết vấn đề sanh tử. Sau cùng, tại gốc cây Bồ đề Ngài ngồi tịnh tọa bốn mươi chín ngày. Ðêm đến thấy sao mai mọc ra, Ngài ngộ đạo, thấu triệt được vòng xoay chuyển của đời người, tức là mười hai nhân duyên.
Ngày hôm nay vì sao tôi nói đến đạo lý này? Bởi vì khi tôi mới tới Hương Cảng năm 1949, vị đệ tử đầu tiên quy y tôi là bà La Quả Minh. Bà ta năm nay được 81 tuổi. Sáng hôm qua bà đã vãng sanh, khiến cho tôi động lòng xúc cảm. Bà ta suốt đời bị hoàn cảnh chèn ép, song bà không đầu hàng nghịch cảnh, nhẫn nhục chịu đựng và nuôi dưỡng năm đứa con gái. Nay con bà đã trưởng thành, tương đối thành đạt cả. Vì vậy bà Quả Minh có thể vui vẻ mà ra đi, hoặc bà đã được vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc.
(Ngày 4 tháng 9 năm 1983)
52/. Một Cuốn Kinh Rất Khó Tụng
Tục ngữ nói rằng: “Nhà ai cũng có một bộ kinh khó tụng,” lúc nào thì mới tụng xong bộ kinh này? Không ai có thể biết. Lúc nào thì có thể tụng được bộ kinh này, cũng không ai biết được. Người tu đạo chúng ta hễ có thể tụng hết được bộ kinh này thì đến với những bộ kinh khác sẽ hiểu được rất dễ dàng.
Ngày hôm nay tôi nói với các bạn nhân duyên này vì tôi muốn các bạn hãy đề cao cảnh giác về vấn đề sanh lão bệnh tử. Khi gặp cảnh giới trên (tức là chuyện sanh lão bệnh tử), thì các bạn phải nghĩ cho thông suốt, buông bỏ hết mọi sự, đừng nên bị cảnh giới ràng buộc chằng chịt, tốt nhất là “đối cảnh vô tâm,” nhìn mọi sự mà tâm không động, coi như là chuyện bình thường. Nếu ai chẳng động tâm thì đó là như như bất động, liễu liễu thường minh.
Người đời ai cũng bị cảnh giới khống chế, lay chuyển, chứ không thể thay đổi được cảnh giới. Bởi vậy, họ bị hoang mang chẳng có mục tiêu, không tự làm chủ được đường hướng tông chỉ của đời mình, luôn luôn hồ đồ mê muội cả đời. Sanh ra hồ đồ, chết rồi mê muội, một lần mình sai lầm mà không biết giác ngộ, rồi lại tái phạm, sai lầm cứ lưu chuyển mãi trong lục đạo luân hồi. Cũng giống như kẻ chơi cờ bạc vậy, đã bị thua mà vẫn muốn tiếp tục, cho nên người đời nói rằng: “bớt ăn bớt uống, dùng tiền để đánh bài” là ý vậy. Kẻ phàm phu lúc nào cũng muốn đánh để gở lại tiền đã bị thua, nhưng càng đánh thì càng thua, càng thua thì càng muốn đánh, rốt cuộc là sa vào chỗ bùn lầy không thể rút chân ra được. Kết quả là nhà tan cửa nát, bao nhiêu tài vật trong nhà đều mất hết, (ý nói rằng là pháp bảo của tự tánh cũng bị tiêu mất). Thế mà mình không biết phản bổn hoàn nguyên, quay về với gốc nguồn, không biết hồi quang phản chiếu, tự soi tâm mình để bỏ bờ mê trở về bến giác, càng không biết quay lưng với trần lao để hợp nhất với giác tánh. Người đời thì sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh, ở trong biển khổ sanh tử, muốn phấn đấu để thoát ra, nhưng vừa mới ngoi đầu lên, thì lại chìm xuống, vĩnh viễn chẳng bao giờ thoát khỏi biển khổ cả.
Người xuất gia cần phải nổ lực tu hành, nếu không thì chẳng bao giờ ra khỏi lục đạo luân hồi. Nếu bạn biết “cấp lưu dũng thối” (hễ thấy nguy hiểm thì thối lui), nếu bạn biết đánh bài là chuyện không tốt, nhưng nếu bạn biết quay đầu lại cũng chưa muộn. Lúc ấy bạn sẽ hiểu rằng ai đánh bài thì người ấy thua tiền, chỉ có kẻ không đánh bài mới là người thắng mà thôi. Cũng giống như đánh cờ, khi có thua có ăn, nhưng người không đánh cờ thì vĩnh viễn không thua cũng không ăn. Lấy triết lý trên đây để soi sáng tâm mình, do đó mà hiểu rõ đạo lý hơn.
Các vị Thiện-tri-thức! Hãy thống niệm sanh tử, phát tâm bồ đề, đừng nên trôi nổi trong biển khổ nữa. Ai không muốn ra khỏi biển khổ thì đều là kẻ ngu muội. Nếu cứ mãi tham luyến hồng trần, cho là vui là sướng thì “bộ kinh khó tụng” này bạn vĩnh viễn chẳng thể tụng hết được. Chúng ta đã xuất gia rồi thì không nên tụng lại bộ kinh chẳng thể tụng hết được này nữa.
53/. Rèn Luyện Nhân Cách Cao Thượng
Các em bạn nhỏ của tôi! Các em nên noi gương các vị thánh nhân, các vị hiền nhân, học theo gương các vị đại trượng phu, đầu đội trời chân đạp đất học theo gương những vị anh hùng trong nước và ngoài nước, thuở xưa và ngày nay, để có được nhân cách, đạo đức học vấn và Phật nghiệp của họ.
Bây giờ là thời gian để các em học tập: ở trong lớp thì các em trau giồi kiến thức và kỷ năng, ở ngoài lớp thì các em rèn luyện đạo đức và nhân cách. Khi có kiến thức phong phú và nhân cách được kiện toàn thì sau này các em mới làm nên sự nghiệp lớn lao vĩ đại, và mới đem lại hạnh phúc cho toàn thế giới và nhân loại. Ở đâu các em cũng cần có kinh nghiệm mới có thể tiến bộ. Ðừng sợ thất bại vì thất bại là mẹ thành công. Khi còn trẻ, các em cần có khí phách của bậc anh hùng, oai phong hào khí ngất trời thì tương lai các em mới trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng, bậc nhân tài hoằng pháp xuất chúng.
Bây giờ chính là lúc các em phải xây dựng nền tảng kiên cố về cả hai phương diện học vấn và nhân cách. Nền tảng về nhân cách lại còn trọng yếu hơn nền tảng về học vấn nữa. Người có học vấn mà không có nhân cách thì sau này chỉ làm hại cho quốc gia, gây loạn lạc cho nhân loại. Vì lẽ đó các em cần phải rèn luyện nhân cách cho cao thượng để tương lai phục vụ nhân loại, đem lại lợi ích cho chúng sanh.
Muốn xây dựng nền tảng cho nhân cách được kiên cố, trước tiên các em phải học nói năng cho chính trực, thẳng thắn, và đừng bao giờ nói lời giả dối, hư ngụy. Hãy nhớ nhé! Các em chớ nịnh hót, nói những lời để người khác vui, cũng đừng nói lời trái ngược với lương tâm mình, lời nào cần nói thì nói, không cần phải nói thì đừng nói. Các em phải biết rằng: “Ngôn đa tất thất,” nói nhiều lời thì sẽ sai lầm, và rằng “bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu sanh,” bệnh là do miệng mà vào, họa là từ lời nói mà ra. Các em phải ghi nhớ, nên thận trọng!
Ðức Mạnh Tử dạy chúng ta ba tiêu chuẩn để rèn luyện nhân cách. Ngài nói rằng:
“Phú quý bất năng dâm,
Bần tiện bất năng di,
Oai vũ bất năng khuất.”
Nghĩa là:
1) Lúc mình giàu có phú quí, thì phải giữ qui củ, không được dâm loạn,
2) Lúc mình nghèo hèn thì đừng thay đổi chí khí tức là không bị hoàn cảnh làm cho thay đổi chí hướng,
3) Lúc mình bị thế lực chèn ép thì không khuất phục, không đầu hàng, tức là không bị lợi lộc, vật chất làm cho mất hết danh tiết. Nếu các em có được chí khí cương trực hào hùng như vậy thì mới có thể trở thành những người hữu dụng sau này.
(Ngày 4 tháng 9 năm 1982)
54/. Lầu Cao Vạn Trượng Ðều Từ Dưới Ðất Xây Lên
Các em bạn nhỏ của tôi! Các em nên biết rằng lầu cao một vạn trượng đều từ nơi mặt đất xây lên. Cây cao một trăm trượng cũng từ tấc từ tấc một mà lớn lên. Con người cũng mỗi ngày mỗi trưởng thành. Lúc còn nhỏ phải lập chí nguyện rồi hướng theo mục tiêu mà tiến tới. Nếu không có mục tiêu, không có tông chỉ, không có đường hướng thì cũng giống như người mù mà cỡi ngựa mù, ban đêm có thể rớt xuống hố sâu. Các em coi thử có nguy hiểm hay chăng?
Trẻ thơ giống như miếng vải tinh khiết, nhuộm màu xanh thì ra xanh, nhuộm màu vàng thì ra vàng. Các em tùy theo hoàn cảnh giáo dục mà biến chuyển, cho nên người đời nói rằng: gần mực thì đen gần đèn thì sáng. Các em chịu sự huân tập nhuộm màu của hoàn cảnh. Sách Tam Tự Kinh có nói rằng:
Nhân chi sơ, tánh bổn thiện
Tánh tương cận, tập tương viễn,
Cẩu bất giáo, tánh nãi thiên.
Có nghĩa rằng con người lúc ban sơ thì tánh tình vốn thuần thiện. Tánh tình của mọi người gần giống như nhau, nhưng do thói quen huân tập mà người nầy mới khác người kia, do đó lúc còn nhỏ mà không giáo dục thì tánh tình sẽ thay đổi.
Các em thọ hưởng nền giáo dục ở Vạn Phật Thánh Thành, nếu thực hành được không tranh, không tham, không cầu, không tự lợi, không ích kỷ, không vọng ngữ, thì trong tương lai đối với quốc gia xã hội các em nhất định sẽ có cống hiến lớn lao. Ở Vạn Phật Thánh Thành đã thành lập Ðại-học Pháp Giới, Trung-học Bồi Ðức, Tiểu-học Dục Lương và đều lấy sáu điều tông chỉ trên đây làm phương châm giáo dục.
Các thầy cô giáo viên của trường đại, trung, và tiểu học! Các vị hãy tâm niệm nhiệm vụ giáo dục con em cho mai sau. Ðây là công tác thần thánh. Hãy dạy dỗ học sinh để chúng trở thành kẻ có nhân cách tận thiện tận mỹ, học vấn sâu rộng, tương lai không thành những thứ lưu manh, du đãng, những thứ vô loại trộm cướp, mà là những công dân tốt biết giữ nề nếp quy củ. Hiện tại nền giáo dục bị thất bại là vì sao? Là bởi vì chủ nghĩa cá nhân ích kỷ đã tác hại. Ða số người ta mở trường học là để kiếm tiền, do đó họ muốn có học sinh càng nhiều càng tốt và hủy hoại tông chỉ cao thượng của giáo dục.
Các thầy cô thân mến,
Các vị hãy áp dụng tinh thần “coi con em người khác như chính con em mình” để giáo dục các em. Trẻ em là tài nguyên của đất nước, và cũng là nền tảng của quốc gia. Ðất nước mà tài nguyên không đủ, nền tảng không kiên cố thì làm sao trở nên giàu mạnh được? Các vị hãy gắng công!