11/. Thức Ăn Cho Tinh Thần

Lý do khiến con người đọa địa ngục, làm ngạ quỷ, -hoặc chuyển thành súc sanh thì không ngoài sự chi phối của Lục Căn. Con người sở dĩ thành A-tu-la, sanh lên cõi trời hay làm người, cũng không ngoài tác dụng của sáu căn này. Cho đến con người được thành A-la-hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát hay Phật cũng đều không rời công năng của sáu căn này. Vì sao sáu căn này có sức mạnh lớn lao như vậy? Thậm chí con người dù sanh lên thiên đàng hay đọa xuống địa ngục cũng đều không thể tách rời khỏi chúng được? Phải chăng sáu căn này có khả năng chi phối con người trong vấn đề thành Phật hoặc làm quỷ?

Kỳ thật, không phải là sáu căn này chi phối chúng ta mà là tại chúng ta không biết vận dụng chúng. Trong tự tánh (hay linh minh giác tánh) của mỗi con người đều có một “chủ nhân ông.” Vị “chủ nhân” này cũng chính là Phật tánh bản hữu của chúng ta. Khi vị “chủ nhân” nắm quyền (tức là Phật tánh hiện hữu) thì chánh niệm hiện tiền, làm chuyện gì cũng tự tại, không có trở ngại. Song le, nếu có một niệm vô minh dấy lên hoặc ngu si ám chướng khơi dậy trong tâm chúng ta, thì sáu căn này sẽ giống như sáu tên giặc, chúng lấn áp chủ nhà, chúng tước đoạt quyền hành của vị “chủ nhân” và chúng ta sẽ bị sáu tên giặcỦmắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và tư tưởng mưu hại. Sáu tên giặc này sẽ phá nhà cướp của, vơ vét hết tài sản quí báu trong nhà! Cho nên nói rằng:

Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện,

Lục căn hốt động bị vân giá.

(Một niệm không sinh: Phật tánh hiển hiện,

Sáu căn bổng dậy: tâm bị che mờ.)

Do đó, chúng ta vốn dĩ đi theo con đường Phật nhưng rồi lại rơi vào con đường ma! Thí dụ như có người lái xe, lẽ ra phải đi trên con đường lớn nhưng người đó lại lao xuống biển, làm cả người lẫn xe đều chìm dưới đáy biển; lại có những người thích những chuyện cao xa viễn vông, y chạy lên núi rồi bị rớt xuống từ trên đỉnh núi, khiến cho thân thể tan nát, đó là vì họ không thuộc đường, không quen đường đi nước bước, không biết lái xe, nên mới xảy ra chuyện bất trắc, thậm chí có thể nguy hiểm đến tánh mạng.

Linh tánh bản hữu của con người thì thông thiên triệt địa, hết sức viên mãn, kỳ diệu, sáng suốt, hiển hiện khắp mười phương, và có sức mạnh vô song, cái gì cũng thực hiện được. Thí dụ có kẻ tuy biết lái xe, nhưng một khi đầu thai trong một cái “túi da” thối tha này thì trở nên rất hồ đồ, thậm chí không còn biết phương hướng đông tây nam bắc hay trên dưới gì nữa, nên y cứ chạy lung tung khắp nơi. Con người khi bị sáu căn che mờ cũng vậyỦvốn muốn thành Phật, thành Bồ Tát, nhưng chỉ sơ hở, thiếu cẩn thận một chút là có thể thành ngựa, thành bò hoặc thành dê ngay!

Ðáng thương nhất là có một số tín đồ Phật Giáo tuy một lòng muốn thoát khỏi ba đường ác,5 nhưng không hiểu cách lái chiếc xe này, không biết vận dụng sáu căn nên bị sáu căn chi phối, đành để cho ma vương làm chủ “căn nhà” của họ. Họ bị vây khốn trong tấm thân giả tạm do năm uẩn6 tạo thành này mà không thể nào thoát ra được. Họ đau khổ không thể tả xiết, linh tánh bản hữu của họ thì bị mai một, trí huệ quang minh cũng không sao hiện tiền được!

Cho nên mọi sự, mọi vật trên đời đều thuyết Pháp, đều dạy cho chúng ta sự thật chân lý; nếu hiểu được, thì các bạn sẽ thấy là vạn sự vạn vật đều đang thuyết Phật Pháp, đang nói lên cái pháp ra khỏi thế gian; nhưng nếu không hiểu thì các bạn sẽ thấy rằng tất cả chỉ toàn nói pháp thế gian, thứ pháp nhiễm ô! Do đó, tất cả mọi sự đều coi thử tâm các bạn như thế nào, tất cả đều là ở nơi ý niệm của các bạn mà thôi. Hễ có trí huệ thì bất luận vấn đề gì cũng có thể giải quyết một cách ung dung tự tại; còn không có trí tuệ thì đâu đâu cũng chỉ toàn là chướng ngại!

Thân thể loài người chúng ta tuy cần ăn uống để sinh tồn, song đó chỉ là một loài thực phẩm thô sơ mà thôi, con người còn phải dựa vào Phật tánh, vào trí huệ quang minh để sanh tồn. Ví như chiếc xe cần phải có xăng mới chạy được, con người cũng phải nhờ vào ăn uống thì mới có sức sống, mới có thể sanh hoạt, mới có thể vận động được. Song le có một số người tu hành không cần phải nhờ vào sự ăn uống để sanh tồn; vì sao vậy? Vì họ chỉ “ăn” trí huệ quang minh, đó mới chính là thực phẩm dinh dưỡng cho họ! Cho nên, về mặt thô kệch thì thân thể cần dựa vào sự ăn uống; nhưng nhìn theo chiều sâu vi tế hơn thì con người cần phải có linh tánh của Phật để làm thức ăn cho tinh thần mới được. Ban ngày chúng ta làm việc, bất kỳ đi, đứng, nằm hay ngồi, cũng đều hao tổn sanh lực cả, giống như chiếc xe tiêu thụ rất nhiều xăng dầu vậy. Ðến ban đêm chúng ta nghỉ ngơi thì các lỗ chân lông mở ra tiếp xúc với hào quang của Phật, hấp thụ trí huệ quang minh tỏa ra từ Ðại Quang Minh Tạng của Phật để bổ sung cho tinh thần đã bị tiêu hao lúc ban ngày. Do đó, nhờ ban đêm nghỉ ngơi đầy đủ rồi nên hôm sau tinh thần lại được khôi phục như bình thường!

Có nhiều người nghe được đạo lý này liền nổi lòng tham, nghĩ rằng: “À! Thì ra khi mình ngủ chính là lúc đức Phật ‘tiêm’ hào quang cho mình; vậy nếu mình ngủ nhiều hơn một chút nữa chẳng phải là càng có trí tuệ hơn sao?” Kỳ thật, mỗi người chỉ cần một thời gian ngủ nghỉ nhất định; nếu ngủ quá nhiều sẽ làm cho đầu óc ngu muội và trí huệ bị sút giảm. Người ta thường nói “dạ trường mộng đa” (đêm dài thì lắm mộng); con người mà mộng mị hoài thì chỉ lãng phí tinh thần mà thôi! Ngủ nhiều quá lại có thể làm cho chúng ta uể oải, mắc bịnh nhức đầu; cho nên, phàm làm việc gì cũng phải thích đáng, vừa phải, không nên đi tới chỗ cực đoan!

Những người không hiểu đạo lý này thì cho rằng chỉ có ăn uống mới duy trì được sanh mạng; song le, những bậc tu Ðạo biết dụng công thì hết sức chú ý tới món ăn tinh thần cho nên họ rất thích ngồi Thiền, rất thích tham cứu và tu tập Thiền Ðịnh. Bởi chính nhờ tham Thiền tập Ðịnh mà họ có thể tiếp xúc với nhiều trí huệ quang minh của chư Phật để bổ sung tinh thần và khiến cho huệ lực được tăng trưởng hơn nữa. Tuy nhiên, đối với việc ngồi Thiền hay tịnh tọa các bạn cũng không nên quá tham lam, chấp trước vào tịnh tọa nhiều quá cũng có thể mắc phải “Thiền bệnh!”

Cho nên chúng ta những người học Phật, không nên chạy bên tây hay bên đông, hướng ra ngoài mà truy cầu, nào là cầu Phật pháp, tìm con đường tắt, hoặc là tham tiện nghi, muốn mau khai ngộ, bởi vì như thế chỉ khiến cho mức năng lượng có giới hạn trong người mình bị hao tổn, bản thân mình cũng nhọc tâm kiệt sức, trí huệ bị tổn giảm, mà lại không đạt được gì cả! Ðó là tệ trạng của sự không hiểu gì về đạo lý “căn bản Phật tánh,” cứ hướng tâm ra ngoài mà truy đuổi cái Pháp!

Những điều tôi nói hôm nay không phải là thần thoại, mà có thể gọi là “thần lý!” Lý luận này, có thể nói rằng ngay cả những khoa học gia tân tiến nhất cũng chưa thể nghiên cứu tới chứ đừng nói là hiểu được, và dù nằm mơ họ cũng không thể mơ tới rằng có đạo lý kỳ diệu như thế! Thật ra, đây vốn là những đạo lý rất bình thường, nhưng đáng tiếc là ai nấy đều thờ ơ, không chú trọng!

(Giảng vào tháng 5 năm 1983)

12/. Mưu Sanh và Mưu Tử

(Nói chuyện với sinh viên trường Ðại Học Redwood tại Vạn Phật Thánh Thành,

trưa ngày 21 tháng 5 năm 1983)

Các bạn “thanh niên già” và các bạn “cao niên trẻ!” Hôm nay mọi người họp mặt nơi đây nếu không phải là đại duyên thì cũng là tiểu duyên. Ðiều mà tôi muốn nói đây chắc chắn là không có bạn nào có thể phủ nhận được!

Vì sao tôi gọi các bạn là “thanh niên già?” Bởi vì tôi thấy các bạn trẻ trông rất có chí khí, thái độ rất chững chạc, thận trọng và già giặn, cho nên tôi gọi các bạn là thanh niên già. Vì sao tôi lại gọi là “các bạn cao niên trẻ” nữa? Bởi vì tôi thấy trong số các bạn có nhiều người lớn tuổi nhưng lại rất cởi mở, trẻ trung, không có tâm tính toán, cũng không có tâm đố kỵ, tâm chướng ngại, tâm nhân ngã thị phi, cho nên tôi gọi những người đó là các bạn cao niên trẻ. Có một số các bạn đã đến đây năm ngoái; vì không rõ những bạn đến năm nay chính là những người ấy hay là có cả người mới kẻ cũ cùng đến, cho nên vừa có thể nói các bạn là bạn mới mà vừa có thể gọi các bạn là bạn cũ!

Vạn Phật Thánh Thành chúng tôi có tông chỉ là muốn sửa đổi phong khí của nền giáo dục. Trên thế giới, Tam Giáo Cửu Lưu,7 Ngũ Hạng Bát Tác8 có đủ tất cả các nghề nghiệp, ai nấy đều tự mưu sinh (lo sống) không người nào muốn mưu tử (lo chết) cả! Không người nào lo nghĩ rằng rồi mình sẽ chết như thế nào; sống thì cứ sống, nhưng chết thì như thế nào? Bởi không có ai nghĩ đến vấn đề đó nên tôi nói là chẳng có người nào mưu tử. Song le, ở Vạn Phật Thánh Thành thì có người mưu sanh có người mưu tử.

Thường thì người ta mưu sinh bằng cách buôn bán, làm ruộng, làm quan, làm thợ, học hành, v.v… Mọi người tùy ý lựa chọn một trong năm nghề sĩ, nông, công, thương, quan để làm; vì thế có người chọn công việc về ngành giáo dục. Tuy nhiên, có nhiều người muốn dùng học sinh làm công cụ để mưu lợi nên tính toán rằng: “Tôi mở một ngôi trường, có người đến học thì tôi kiếm được bao nhiêu tiền? Ðược nhiều tiền như vậy thì tôi có thể mưu sinh rồi!” Do đó họ dùng đủ mọi phương cách để trường của họ trở thành nổi tiếng nhất. Nhưng đến khi được tiếng là “học đường tối cao” rồi thì trường trở nên suy đồi; vì sao? Tôi cảm thấy rất hổ thẹn khi phải nói ra những chuyện như thế này: Tại nhiều trường học, học sinh công khai mua bán thuốc phiện, hút thuốc phiện! Các bạn thấy như thế có đáng thương chăng? Trong trường lại còn có những kẻ công khai làm những chuyện bất hợp pháp nữa.

Thấy tình trạng như thế, Vạn Phật Thánh Thành bèn thành lập một trường tiểu học dạy học sinh biết cách làm tròn đạo hiếu, một trường trung học dạy học sinh về lòng trung thành, ái quốc. Ðồng thời chúng tôi cũng lập trường đại học để dạy về trung, hiếu, nhân, nghĩaỦhiếu thuận với cha mẹ, trung thành với tổ quốc, lấy nhân nghĩa mà đối đãi với nhân quần xã hội. Ðó là tông chỉ, đường hướng của Vạn Phật Thánh Thành. Ngoài ra, các trường tiểu học, trung học và đại học ở Vạn Phật Thánh Thành đều hoàn toàn miễn phí. Vì sao lại miễn phí? Vì tôi không muốn lợi dụng học sinh để tính toán, mưu lợi riêng tư. Ðó chính là tác phong giáo dục của Vạn Phật Thánh Thành.

Tại Vạn Phật Thánh Thành, bất luận là học sinh bậc tiểu học, trung học, hay đại học, là người xuất gia hay người tại gia, tất cả đều đồng loạt tuân theo Sáu Ðại Tông Chỉ sau đây:

1) Thứ nhất là Không Tranh. Ta không tranh với người, người cũng không tranh với ta; người tranh với ta, ta cũng không tranh chấp với người, nếu làm được như vậy thì mọi sự tranh chấp trên thế giới sẽ biến mất.

2) Thứ nhì là Không Tham, có nghĩa là đối với mọi thứ mọi vật mình đều không tham lam.

3) Thứ ba là Không Cầu, có nghĩa là không truy đuổi, không tham cầu bất cứ thứ gì.

4) Thứ tư là Không ích Kỷ.

5) Thứ năm là Không Tự Lợi, có nghĩa là không mưu đồ lợi lộc cho riêng mình; và

6) Thứ sáu là Không Vọng Ngữ, tức là không nói dối.

Ðó là Sáu Ðại Tông Chỉ mà ở Vạn Phật Thánh Thành ai ai cũng cần phải rèn luyện. Các bạn tới thăm Vạn Phật Thánh Thành, tôi không phải tuyên truyền mà chỉ muốn giới thiệu cho các bạn biết về tông chỉ của Vạn Phật Thánh Thành. Hy vọng các bạn trẻ sẽ đặc biệt nổ lực giúp ích cho đất nước của các bạn, làm cho quốc gia và dân tộc của các bạn được an vui, hạnh phúc. Các bạn hãy cố gắng đồng tâm hiệp lực!

13/. Bí Quyết Học Thuộc Lòng Kinh Ðiển

Nhất thốn quang âm nhất thốn kim,

Thốn kim nan mãi thốn quang âm,

Thốn kim thất khứ dung dị đắc,

Quang âm quá khứ nan tái tầm!

(Một tấc thời gian: một tấc vàng,

Vàng không mua được tấc thời gian,

Tấc vàng mất đi dễ kiếm lại,

Thời gian qua mất khó lòng tìm!)

Người đời từ sáng tới tối, cạnh tranh, phấn đấu đều không ngoài việc kiếm cơm ăn, áo mặc, tài vật, chỗ ở và danh lợi, vì năm thứ này mà ai nấy điên điên đảo đảo, từ sáng sớm đến chiều tối không có thời giờ để nghỉ ngơi. Thỉnh thoảng có lúc không phải đi làm, được ở nhà, thì họ lại bận rộn với đủ thứ tiết mục như coi Tivi, chơi com-pu-tơ (computer), chơi cổ phiếu, xem xi-nê, đi du lịch v.v…

Người ở Vạn Phật Thánh Thành cũng bận rộn, song sự bận rộn ấy thì hoàn toàn khác biệt. Ở đây, không ai vì chuyện ăn uống, áo quần, hay chỗ ở mà bận rộn cả. Người ở Vạn Phật Thánh Thành không chú trọng những thứ đóỦtạm đủ là được rồi; còn đối với danh lợi thì họ lại càng thờ ơ hơn nữa. Tuy nhiên, ai nấy đều rất bận rộn. Nhưng bận chuyện gì chứ? Bận rộn học Phật, học Pháp, học Tăng; bận rộn tu Giới, tu Ðịnh, tu HuệỦtính chất hoàn toàn khác biệt với người đời. Ở đây, chúng ta hằng ngày nghiên cứu kinh điển thì cần phải đặc biệt chuyên tâm chú ý, chứ không phải thân ở đó mà tâm thì chạy mất, chẳng biết chạy tới phương nào! Các bạn không nên cho rằng người này giảng Pháp hay nên chú ý nghe, còn người kia giảng không hay nên lơ đãng, không chú ý nghe. Nếu các bạn cứ ở nơi nhân, ngã, thị phi mà dụng công thì tâm thương ghét của các bạn rất là nặng, tâm để ý tới chuyện đúng, sai, tốt, xấu cũng rất lớn, các bạn chưa hoàn toàn khắc phục hoặc tẩy trừ nó được.

Khi nghe giảng Kinh thì các bạn cần phải hết sức thành khẩn, chăm chú. Nếu người ta giảng hay thì mình nên học hỏi, bắt chước phương pháp của họ. Nếu người ta giảng không hay thì mình càng nên chú ý lắng nghe, dùng Trí Diệu Quán Sát để nhận xét xem họ giảng có đúng hay không, có phù hợp với giáo pháp, với chân lý hay không; chứ đừng dùng thức tâm mà phân biệt, so sánh để tìm lỗi lầm. Ðối với mọi cử chỉ mọi hành động của bất kỳ người nào, các bạn đều phải đặc biệt chú ý, lưu tâm mà học hỏi, đừng để lãng phí; như vậy các bạn mới có chỗ sở đắc, mới khai mở được trí huệ. Việc khai mở trí huệ không phải một ngày một đêm mà thành tựu được, nó đòi hỏi chúng ta sáng phải tu như vậy, chiều cũng phải tu như vậy, từ sáng tới tối phải liên tục học tập, không gián đoạn; như thế mới có cơ hội thành tựu.

Bây giờ mọi người đều đang học Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm. Các bạn cần phải biết rằng Kinh Lăng Nghiêm là chân-thân của Phật, và cũng chính là Phật, chính là Pháp, chính là Tăng, chính là Giới, chính là Ðịnh, chính là Huệ. Các bạn muốn cung kính Tăng, thì trước hết phải cung kính Kinh Lăng Nghiêm. Các bạn muốn học Giới, tu Ðịnh, phát Huệ, thì trước hết phải học Kinh Lăng Nghiêm. Phật Pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, song Kinh Lăng Nghiêm thì đầy đủ, vừa đúng, không dư không thiếu. Chúng ta phải học bộ Kinh này, và phải học cho thuộc, cho nhuần nhuyễn. Phương pháp học là mỗi ngày các bạn học một đoạn kinh văn, và hằng ngày đều phải ôn lại những phần đã thuộc. Ðừng ham học nhiều, học mau, phải mỗi ngày ôn tập một lần thì mới có thể thuộc lòng được. Ðến khi đã làu thông, thành thục rồi thì trở nên tinh xảo, khéo léo; có tinh xảo thì mới sinh ra linh động, nhạy bén. Có câu:

Thục năng sinh xảo, xảo năng sinh linh.

(Quen rồi thành thạo, thạo sanh linh hoạt.)

Ðiều thiết yếu là các bạn đừng bao giờ bỏ cái gần kề mà chạy đi tìm cái xa xôi, cũng đừng hướng tâm ra ngoài mà truy cầu, săn đuổi; bởi đó chỉ là sự tu hành ở ngoài da, chứ không phải là phương pháp để thâm nhập Kinh Tạng, khai mở trí huệ.

Chúng ta nên lợi dụng giờ giấc nào để học thuộc kinh? Buổi sáng khi vừa thức dậy thay áo quần, hoặc khi đang đánh răng rửa mặt, đều là những lúc có thể thầm tụng kinh văn. Buổi tối lên gường đi ngủ, tuy là đầu kê gối nhưng các bạn vẫn có thể im lặng mà đọc nhẩm được cả. Nếu các bạn có thể dụng công học kinh liên tục, không gián đoạn, thì có thể học thuộc lòng rất nhanh.

Phương pháp học kinh có “ba tới.” Thứ nhất là “mắt tới”; thứ nhì là “miệng tới”; và thứ ba là “tâm tới.” Khi cả mắt, miệng và tâm đều chuyên nhất, chăm chú hướng tới kinh, thì các bạn sẽ học thuộc rất dễ dàng.

Lại còn có ba chỗ có thể để học thuộc kinh. Thứ nhất là trên đường đi, thứ nhì là trên gối, thứ ba là tại nhà tiêu. Ba chỗ này là những nơi rất thuận tiện cho việc học thuộc kinh. Nếu các bạn áp dụng phương pháp này thì có thể học thuộc kinh rất là nhuần nhuyễn. Các bạn hãy thí nghiệm xem!

14/. Pháp Vị Chân Thật

Vạn Phật Thánh Thành là đạo tràng của cảnh giới Hoa Nghiêm, là đàn tràng của Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm, và cũng là kho tàng của Pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn. Ngày ngày chúng ta ở nơi kho tàng châu báu này nghiên cứu đạo lý chính là vì muốn bỏ mê về giác, cải tà quy chánh, đoạn dục khử ái. Nếu làm được như vậy thì sẽ chấm dứt được những suy nghĩ tà quấy, phá thủng màng vô minh điên đảo. Bấy giờ, các bạn không cần học hỏi Phật Pháp gì nữa cũng được, bởi vì các bạn đã bỏ được bờ mê để quay về bến giác, đã bỏ đường tà để trở về với đường chánh, về với cội nguồn bản hữu rồi.

Song le, trong lúc các bạn chưa được chỗ như vậy, chưa cải tà quy chánh, chưa đoạn dục khử ái, chưa phản bổn hoàn nguyên, chưa về tới cội nguồn được, thì các bạn phải ngày ngày nỗ lực nghiên cứu những kinh điển Ðại Thừa như Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Ðàn, Kinh Ðịa Tạng, Kinh Kim Cang v.v… Các bạn cần phải chuyên tâm, chí thành khẩn thiết mà tu học chân lý. Các bạn chớ nên chỉ dụng công bề ngoài một cách hời hợt như kiểu “gãi ngứa qua giày,” mà cần phải đạt được Pháp vị chân thật thì mới có công dụng thực tiễn!

(Ngày 27 tháng 5 năm 1983)

15/. Kẻ Cướp Trong Nhà Khó Ðề Phòng!

Từ kiếp vô thủy xa xưa đến nay, Sáu Căn của người phàm phu cứ chạy theo ngoại cảnh, tức là Lục Trần9 mà “tìm thanh kiếm sắc,” tạo ra không biết bao nhiêu nghiệp bất tịnh. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của con người thì giống như sáu kẻ gian làm mối lái cho giặc, chúng dẫn bọn cướp vào nhà lấy hết tất cả tài sản quý giá nơi “căn nhà” tự tánh của chúng ta.

Chúng ta cho rằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là những thứ giúp đỡ mình; kỳ thật, sáu thứ này là sáu vật rất xấu xa, chúng dẫn kẻ gian vào nhà cướp đoạt hết Pháp bảo tự tánh của chính mình mà mình vẫn không hay biết; quả thật là “kẻ cướp trong nhà khó đề phòng!” Bây giờ hãy nói về mắt và tai:

Nhãn bất kiến, khẩu bất sàm,

Nhĩ bất thính, tâm bất phiền.

(Mắt không thấy, thì miệng không thèm thuồng,

Tai không nghe, thì lòng không phiền não.)

Khi trông thấy người khác ăn những thức ăn ngon lành thì tự nhiên mình có ý muốn nếm thử, rồi sanh lòng tham ăn. Khi nghe thấy lời hay ho, mình sanh lòng vui thích; còn nghe thấy những lời trái tai, nghịch ý thì sanh giận dữ. Các bạn đừng cho rằng mắt là vật tốt, giúp mình nhìn thấy, bởi vì chính do sự giúp đỡ của mắt mà sanh ra đủ thứ phiền não, như khi mắt nhìn thấy sắc đẹp thì mình sanh lòng tham sắc đẹp, tham tới mức là mình đạt được nó thì lòng sanh phiền não, mà không đạt được nó thì cũng sanh phiền não! Ngay cả mũi, lưỡi, thân, tư tưởng hay ý niệm cũng đều như vậy, chúng khiến mình phát sanh đủ thứ phiền não, mà một khi phiền não nảy sanh là mình mất đi Pháp bảo tự tánh; nên nói rằng:

Thiên nhật khảm sài nhất thiêu tận.

(Ngàn ngày chẻ củi, một ngày đốt sạch.)

Cũng vậy, mình tu dưỡng công phu Thiền Ðịnh cả ngàn ngày, nhưng đến khi đạt được cảnh giới khinh an tự tại rồi, thì hốt nhiên chỉ vì khởi một niệm phiền não mà bao nhiêu công phu đều tiêu tan cả; nên có câu:

Tinh tinh chi hỏa thiêu tận công đức chi lâm.

(Một đốm lửa nhỏ có thể thiêu sạch cả rừng công đức.)

Cho nên người tu Ðạo cần phải:

Nhãn quán hình sắc, nội vô hữu,

Nhĩ thính trần sự, tâm bất tri.

(Mắt nhìn hình sắc, lòng không động,

Tai nghe thế sự, dạ chẳng hay!)

Phải có được Ðịnh-lực như thế thì mới không bị người ta tới cướp của quý trong nhà. Nếu không, thì suốt ngày các bạn sẽ theo Sáu Căn và Sáu Trần, tâm hướng ra ngoài mà chạy, chẳng biết hồi quang phản chiếu, và như thế gọi là “lậu,” có nghĩa là phiền não. Khi có lậu thì cứ luân lạc mãi trong ba đường ác, chẳng có kỳ hạn chấm dứt; như thế há chẳng đáng sợ sao? Muốn đoạn trừ phiền não, trước tiên chúng ta phải truy tìm căn nguyên của phiền não. Ðức Phật dạy rằng Sáu Thức10 chính là giặc trong nhà. Bởi do Sáu Căn cấu kết với Sáu Trần nên sanh ra Sáu Thức, rồi vì thế mà “khởi hoặc, tạo nghiệp,” trở nên mê mờ, gây ra đủ thứ ác nghiệp. Cho nên, Sáu Căn chính là kẻ môi giới dẫn dắt chúng ta tạo ra những việc ác.

“Gia bảo” (vật báu) trong nhà mình là gì? Gia bảo của mình chính là chân tâm thường trụ hay Như Lai Tạng với tánh giác mầu nhiệm sáng suốt, chứ không phải là thứ tiền tài vật chất có hình có tướng của thế gian. Tự tánh thì đầy đủ Phật-bảo, Pháp-bảo và Tăng-bảo, và chính là thứ “tài bảo chân chánh.” Ngoài ra, siêng năng tu học Giới, Ðịnh, Huệ, hoàn thành Tam Vô Lậu Học, cũng là “Pháp bảo chân chánh” của chúng ta.

Có người nói: “Thứ tài bảo này, tài sản quý báu mà Thầy nói, không thể nhìn thấy thì làm sao tôi tin được?” Người này cũng chẳng đáng trách, bởi vì “tài bảo” này thì không có hình tướng nên chẳng thể nào thấy được. Song le, mình vẫn có thể cảm nhận được nó, người có huệ-căn thì sẽ biết được ngay, còn kẻ không có huệ-căn thì chẳng thể biết được. Ðó là vì huệ-căn chưa thuần thục, chín chắn, cho nên họ không thể sanh khởi lòng tin và cũng không thể có sự hiểu biết rõ ràng được!

16/. Không Nên Có Thái Ðộ Cống Cao Ngã Mạn Ðối Với Tam Bảo!

Theo đạo Phật thì người tại gia phải kính trọng người xuất gia, chứ không được “coi trời bằng vung,” không được khinh thường người xuất gia, không được phê phán người xuất gia. Người tại gia phải biết cúng dường và tán thán người xuất gia, như vậy thì mới không tạo ra mạn nghiệp (nghiệp kiêu mạn); nếu không, người tại gia sẽ trở nên cống cao ngã mạn, chẳng những không được công đức mà còn tạo tội nữa, theo định luật nhân quả thì chắc chắn sẽ bị đọa vào ba đường ác. Ngược lại, khi thọ nhận sự cúng dường của người tại gia, giúp họ trồng ruộng phước, thì người xuất gia cần phải hồi quang phản chiếu, suy xét hằng ngày mình có tu hành đàng hoàng hay không, bởi vì:

Thí chủ nhất lạp mễ,

Trọng như Tu Di sơn,

Thực hậu bất tu Ðạo,

Bị mao đái giác hoàn!

(Một hạt cơm thí chủ,

Nặng như núi Tu Di,

Ăn rồi không tu hành,

Mang lông, đội sừng trả!)

Người xuất gia khi thọ nhận sự cung kính của kẻ khác thì phải biết tự phản tỉnh, bản thân mình có xứng đáng để nhận sự cung kính chăng? Thân mình mặc áo của người tu, nhưng phải chăng mình chẳng khác gì kẻ đời? Phải chăng hằng ngày mình thường khởi những vọng tưởng vô ích? Phải chăng từ sáng tới tối mình luôn nóng giận, bực dọc? Phải chăng từ sáng tới tối mình luôn đố kỵ hoặc chướng ngại sự tu hành của kẻ khác? Người xuất gia nếu phạm những điều như trên thì không đủ tư cách để thọ sự cúng dường của người tại gia, dù cho miễn cưỡng mà thọ nhận, thì vẫn thấy thẹn với lòng. Người xuất gia tu Ðạo cần phải luôn luôn chú ý, không được hồ đồ ở trong đạo tràng lãng phí thời gian. Nếu sống như thế mà lại thọ nhận sự cúng dường của kẻ tại gia thì thật là điều hết sức sai lầm!

Vì sao người tại gia nên cúng dường người xuất gia hoặc là hộ trì người xuất gia? Là bởi vì người xuất gia chuyên tâm tu Ðạo, không có vọng tưởng, phiền não hay tật đố như kẻ đời. Nếu được như vậy thì mới xứng đáng với sự cung kính và cúng dường của người tại gia, mới có thể thọ nhận mà lòng không hổ thẹn. Nếu người xuất gia mà không chân thật tu hành, thậm chí không cung kính và thành khẩn như người tại gia, thì không có tư cách để thọ nhận sự cung kính và cúng dường của kẻ khác! Ðây là điều mà mọi người cần phải giác ngộ sâu xa, không thể “lẫn lộn mắt cá với hạt ngọc,” không nên ở trong đạo Phật mà kiếm miếng ăn.

Khi người tại gia cúng dường cho người xuất gia thì không được có tâm phân biệt, không được có tâm lựa chọn: “Vị Thầy này có tu hành nên tôi muốn cúng dường. Vị Thầy kia không có đạo hạnh nên tôi không cúng dường.” Ðừng nên có tâm trạng không chánh đáng như vậy. Bất luận ở đâu chúng ta cũng đều nên cúng dường Tam Bảo, chứ đừng bới lông tìm vết, đừng tìm kiếm lỗi lầm của Tam Bảo. Nếu bạn cứ luôn tìm kiếm lỗi lầm của Tam Bảo, thì đó chính là tánh cống cao ngã mạn của bạn tác quái, dứt khoát bạn không đủ tư cách hộ trì Tam Bảo!

Ở trong đạo tràng, chúng ta đừng nên tạo tội lỗi mà cần phải làm nhiều việc công đức, như thế mới bù đắp được những tội lỗi mình đã tạo khi xưa. Ðầu tiên, chúng ta cần phải sám hối, bởi:

Di thiên đại tội,

Nhất sám tiện tiêu.

(Tội lỗi dẫu lớn đầy trời,

Nếu biết sám hối, tội thời tiêu tan.)

Vậy phải sám hối như thế nào? Chúng ta phải ở trước tứ chúng mà kể ra tất cả tội lỗi mình đã làm, phải nói rõ mọi chi tiết của các tội và phát nguyện rằng từ nay về sau tuyệt đối sẽ không tái phạm. Như vậy thì chư Phật và chư Bồ Tát mới có thể tha thứ cho chúng ta và giúp ta trừ sạch nghiệp tội. Những tội lỗi trước kia của chúng ta đều là “vô tâm sở phạm,” tức là do vô ý mà phạm. Song le, từ nay về sau, nếu chúng ta tái phạm thì đó là “minh tri cố phạm”- biết rõ mà vẫn cố ý vi phạm – thì dù có sám hối cũng không có tác dụng bởi nó thuộc loại định nghiệp, tương lai chúng ta tất sẽ chịu quả báo. Chúng ta không nên có tư tưởng: “Ban ngày tạo tội, ban đêm cầu nguyện, kể như vô tội!”; rồi cứ gây nghiệp luôn luôn, mà gây xong thì tiếp tục cầu nguyện, và dần dà tạo thành một thói quen máy móc. Nếu cứ như thế thì tương lai nghiệp tội của chúng ta sẽ chất chồng như núi Tu Di, không đọa địa ngục sao được!

Trong đạo tràng của chúng ta có hóa thân của mười phương chư Phật, hóa thân của mười phương chư Bồ Tát, hóa thân của chư Bích Chi Phật, hóa thân của chư Thánh nhân A-la-hán, và cả Thiên Long Bát Bộ cũng ở đây hộ pháp nữa. Vì thế, nếu chúng ta ở trong đạo tràng mà cứ luôn gây phiền phức cho người khác, soi mói lỗi lầm của mười phương vậy! Sống trong đạo tràng mà một mặt tu hành, một mặt tạo nghiệp – công đức tu được không bằng ác nghiệp tạo ra thì cũng giống như tiền gởi trong ngân hàng không bằng tiền chi tiêu; nếu không bù được sự thâm thủng thì tương lai sẽ bị phá sản. Bởi vậy:

Thiện ác lưỡng điều đạo,

Tu đích tu, tạo đích tạo.

(Thiện ác hai con đường,

Tu thì tu, tạo vẫn tạo.)

Nghĩa là thiện, ác hai con đườngỦmột mặt mình tu, mà ác nghiệp thì vẫn tạo. Do đó, đừng nên ở chùa mà chỉ biết tạo nghiệp ác. Hãy nên thường xuyên tìm kiếm lỗi lầm của chính mình, chứ đừng soi mói sự sai trái của người khác. Nếu cứ chuyên tìm lỗi người, chướng ngại kẻ khác tu hành thì chẳng những bản thân mình không được điều gì tốt lành mà tương lai mình còn phải gánh chịu quả báo, hậu quả khó lường!

17/. Bớt Dùng Lời Khách Sáo

Trong xã hội có rất nhiều kẻ lắm lời. Vì sao? Vì giữa người với người, trong xã hội đã hình thành thứ phong khí không dám nói lời chân thật, chỉ nói toàn lời giả dối!

Vì sao người ta không nói lời chân thật? Là vì chẳng ai muốn nghe lời chân thật cả! Ðối với Pháp thì cũng tương tự như vậy, nhiều người chỉ thích hoa và lá chứ không thích trái cây! Ví dụ như những cây ăn trái, vào lúc ra hoa thì tỏa hương thơm dịu, ai ngửi cũng thấy thích hơn cả lúc ăn. Song đến khi trái chín, thì nó không còn sức thu hút lớn lao như thế nữa. Ðiều này cũng tương tự như người đời thích nghe lời giả dối, ghét nghe lời chân thật vậy. Lời giả dối ví như hương thơm khi cây ra hoa, toàn là những lời đẩy đưa, rào đón khéo léo, những ngôn từ khách sáo, không thật, nhưng lại có rất nhiều người muốn nghe, và nghe một cách say sưa, thích thú! Còn nếu thành thật mà nói đến những vấn đề như làm sao giữ Giới Luật, làm sao giữ quy củ, thế nào là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối, hoặc làm sao để thành người Phật tử chân chánh thì chẳng riêng gì kẻ khác đạo mà luôn cả tín đồ Phật Giáo cũng cho là “chói tai,” trong lòng khó chịu, chẳng muốn nghe. Tại sao vậy? Là vì “trung ngôn nghịch nhĩ,” lời nói thẳng thắn mà trái tai này không thuận lợi cho việc họ làm! Cũng chính vì lý do ấy mà trong Pháp Hội Linh Sơn, khi đệ tử của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là Tôn-giả Xá Lợi Phất cung thỉnh Ngài thuyết giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Ngài dạy rằng:

Chỉ, chỉ, bất tu thuyết!

Ngã Pháp diệu nan tư.

(Thôi, thôi, chớ nên nói!

Pháp của Ta kỳ diệu, khó nghĩ bàn.)

Ðức Phật đã nói như thế, nhưng Tôn-giả Xá Lợi Phất vẫn cứ ân cần thỉnh Pháp. Phật lại dạy:

Chỉ, chỉ bất tu phục thuyết!

Ngã Pháp diệu nan tư.

(Thôi, thôi, chớ nên nói!

Pháp của Ta kỳ diệu, khó nghĩ bàn.)

Ðệ tử bao nhiêu lần thỉnh cầu thì Phật cũng bấy nhiêu lần trả lời như vậy. Cuối cùng, vì người thỉnh Pháp quá thành tâm, Phật động lòng từ bi thương xót chúng sanh, nên Ngài đã tuyên giảng đạo lý “Khai Quyền Hiển Thực,” đặt ra phương tiện tạm thời để dẫn đến sự thật rốt ráo:

Duy nhất Phật Thừa, cánh vô dư Thừa!

(Chỉ có một Phật Thừa,

không còn Thừa nào khác!)

Sau khi Ðức Phật nói câu ấy, lập tức có năm ngàn người rút lui khỏi Pháp Hội! Các bạn xem, những người ấy có kẻ là đệ tử theo Phật tu Ðạo đã nhiều năm, có kẻ chỉ mới theo học Phật Pháp, đều đồng thời đứng dậy rời khỏi Pháp Hội, không muốn lắng nghe giáo pháp diệu mầu của Ðức Phật!

Sự kiện trên chứng tỏ rằng người đời chỉ thích nghe lời giả dối chứ không muốn nghe lời chân thật. Do đó, những lời tôi nói với các bạn hôm nay đều là giả dối chứ không phải chân thật; các bạn có thể quên hết những lời nói trên. Song le, các bạn cần phải nhớ kỹ cái pháp mình muốn nghe, cái pháp mình muốn thực hành!

Tất cả những người tới Vạn Phật Thánh Thành đều phải tuân theo quy củ của Vạn Phật Thánh Thành. Bất luận là người thường trú ở Thánh Thành hay là người ngoài đến viếng chùa, không ai được phép ăn thịt, hút thuốc, uống rượu, và càng không được hút thuốc phiện trong khuôn viên của Vạn Phật Thánh Thành. Mọi người cần phải lưu ý thêm một điều là không nên “cám ơn” lẫn nhau! Hai tiếng “cám ơn” là những ngôn từ xã giao thù tiếp. Ðó là trọng điểm của những gì tôi nói hôm nay, bất kể là các bạn muốn nghe hay không muốn nghe, tôi vẫn cứ như vậy mà nói!

(Ngày 26 tháng 6 năm 1983)

18/. Cảm Kích Ân Ðức của Chư Phật và Chư Bồ Tát

Chư Phật và chư Bồ Tát đã không nề gian khổ quay chiếc thuyền từ bi trở lại thế giới Ta Bà để giáo hóa, điều phục chúng sanh. Các Ngài dùng đủ tám vạn bốn ngàn pháp môn để tiếp dẫn những ai hữu duyên. Song, mình chẳng những không hiểu tinh thần và tấm lòng từ bi hỷ xả của Phật Bồ Tát, lại còn quay lưng với sự giác ngộ, hợp cùng trần lao ngu muội, bỏ gốc theo ngọn, chẳng muốn chấm dứt sanh tử và thoát ra khỏi Tam Giới!11

Ai ai cũng biết rằng Tam Giới giống như nhà cháy, không phải là chỗ yên ổn, song le, chẳng ai muốn rời khỏi Tam Giới! Mặc dù biết rằng ở trong Tam Giới thì vạn phần thống khổ, nhưng ai cũng lưu luyến, chẳng muốn lìa xa. Họ sống một cách thản nhiên trong căn nhà lửa Tam Giới, chẳng lo âu sợ hải, lại còn cho là vui vẻ, sung sướng!

Chư Phật Bồ Tát hết lòng thuyết Pháp, dạy dỗ chúng sanh, khiến quay về đường ngay nẻo phải. Tiếc thay, chúng sanh vì không hiểu được tâm niệm của chư Phật Bồ Tát nên nghe mà như không hiểu, nhìn mà như không thấy, coi lời giảng của quý Ngài như gió thoảng qua tai, chẳng để tâm ghi nhớ, vẫn cứ vật vờ “sống say chết mộng,” giống như cái thây biết đi hay bị thịt biết chạy vậy! Tuy là tu Ðạo, nhưng họ không biết tìm cầu con đường giác ngộ chân chánh. Vậy, nếu muốn tìm cầu con đường dẫn tới sự giác ngộ chân chánh thì tìm ở đâu? Vô cùng đơn giản, chỉ cần đừng hướng tâm ra ngoài để truy đuổi, mà hãy đi ngược lại sự mê lầm, quay về với sự giác ngộ. Từ cảnh giới mê muội mà quay trở lại, đó chính là giác ngộ!

Nếu vất bỏ được tà niệm, quay về với chánh niệm, thì chúng sanh có thể trở nên giác ngộ, khai mở đại trí huệ. Song le, chúng sanh không muốn “hồi đầu” quay về mà cứ muốn trôi nổi trong biển khổ sanh tử, vĩnh viễn đánh mất đường Ðạo chân chánh, rồi lại cho rằng hành động như thế là rất chính đáng. Như vậy không phải là điên đảo sao? Trước tình huống ấy, chư Phật Bồ Tát cũng không còn biện pháp gì để làm cho chúng sanh được xa lìa cảnh khổ, hưởng sự an vui nữa cả. Vì sao? Vì chúng sanh còn mê muội, quá ư mê muội, chưa tỉnh ngộ! Giảng về đạo lý giác ngộ thì điều nào cũng xa lạ đối với họ mà nguyên nhân là bởi các thói hư tật xấu tích tập nơi họ đã quá sâu dày. Các tập khí ấy đè lên trí huệ, che lấp trí huệ, vì thế họ không thể nhận thức và phân biệt rõ ràng điều gì đúng, điều gì sai, đâu là chánh, đâu là tà, thứ nào là thật, thứ nào là giả được.

Nếu biết được cái chân thật, thì nên vất bỏ cái giả dối đi. Vì sao chúng sanh mê muội? Chính là vì không có trí huệ chân chánh nên tới đâu cũng va phải vách, đụng phải tường, gặp trở ngại, không được suông sẻ, không va vào tường phía đông thì cũng đụng vào tường phía tây, phía nam hoặc phía bắc. Ở giữa có lối trống thì không đi, cứ sồng sộc đâm đầu vào tường đến nỗi máu chảy đầy mặt mà vẫn không biết “hồi quang phản chiếu,” không biết lấy trí huệ để soi sáng tự tâm!

Chư Phật Bồ Tát tận tình chỉ dạy, thuyết giảng nhiều Pháp bảo ‘Tam Tạng Mười Hai Bộ Kinh’ thế mà chúng sanh vẫn thờ ơ như không nghe không thấy, để phụ lòng từ bi của các Ngài, khiến cho các Ngài cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Vì sao các Ngài lại mệt mỏi? Vì cảm thấy chúng sanh khó độ, chư Phật Bồ Tát hao tổn biết bao tâm huyết mà chúng sanh vẫn “trơ như gỗ đá,” không chịu sửa đổi, không chịu tu hành, không chịu giữ Giới. Tuy chúng sanh khó cứu độ như vậy, nhưng chư Phật và chư Bồ Tát vẫn không nản lòng, dù khó độ, quý Ngài cũng vẫn độ! Không những thế, quý Ngài còn từ bi muốn cứu độ khắp hết tất cả chúng sanh. Ân đức này chúng ta làm sao báo đáp?

Ðịa Tạng Bồ Tát từng phát nguyện rằng:

Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật,

Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ Ðề.

(Ðịa ngục chưa trống, thề không thành Phật,

Chúng sanh độ hết, mới chứng Bồ Ðề.)

Lời nguyện này thật vĩ đại biết bao! Mình hãy nghiền ngẫm ý nghĩa của lời nguyện ấy. Không cần phải xem kinh điển, chỉ nghe qua lời nguyện thôi, mình cũng đã nên cảm tạ ân đức của Ðịa Tạng Bồ Tát, phải đau lòng khóc lớn, cảm tạ sự quan tâm, che chở của chư Phật Bồ Tát dành cho mình. Tất cả mọi thứ trên thế giới này đều là do chư Phật Bồ Tát trong vô lượng kiếp đã xả thân bồi đắp. Chúng ta nhất định phải phát tâm Bồ-đề rộng lớnỦ trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sanh. Như thế mới có thể báo đáp được phần nào ơn của chư Phật, ơn của chư Bồ Tát, ơn của cha mẹ, ơn của sư trưởng và ơn của trời đất. Mình phải làm sứ giả cho Ðức Phật, phải phát tâm từ bi thay Phật mà tuyên hóaỦtuyên dương Chánh Pháp, giáo hóa chúng sanhỦvà cứu nước cứu dân một cách có ý nghĩa. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng phải giữ lòng từ bi, có tinh thần chánh nghĩa, và sẳn sàng đem hết sức lực của mình, dù nhỏ nhoi đến đâu, để hoằng dương Phật Pháp, để tuyên đạt bổn hoài của chư Phật.

Vì sao thành Phật rồi mà Ðức Phật vẫn không quên chúng sanh, lại phát nguyện muốn cứu độ chúng sanh? Là vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, chẳng qua là chúng sanh chưa tự biết được đều đó mà thôi! Do bị tham, sân, si, vô minh, phiền não, vọng tưởng, v.v… che lấp nên trí huệ chân chánh của mình không thể hiển lộ được; vì lẽ đó, chư Phật Bồ Tát mới đến để chỉ bày cho mình phương pháp khai ngộ. Nếu mình có thể nương theo giáo pháp của Ngài chỉ dạy mà tu hành, thì nhất định mình sẽ khai trí huệ. Cho nên, bất cứ lúc nào chúng ta cũng phải biết cảm kích ơn của chư Phật, cảm kích ơn của chư Bồ Tát, cảm kích ơn của cha mẹ, và cảm kích ơn của sư trưởng.

Trong vũ trụ của chúng ta thì Tam Tài: trời, đất và con người đều có giá trị như nhau; cho nên mình chớ lãng phí giá trị của sanh mạng! Ðó là tư tưởng mà kẻ làm người cần phải có. Chúng ta cần phải thấu hiểu bổn hoài cũng như hạnh nguyện của chư Phật Bồ Tát, bởi có như thế thì mới không uổng phí được làm kiếp người!

(Ngày 9 tháng 7 năm 1983)

19/. Làm Thế Nào Ðể Có Ðược Trí Huệ Hơn Người?

Chúng ta phải “mượn cái giả để tu cái chân thật,” phải học hỏi trí huệ hơn người và thần thông khó nghĩ bàn của chư Phật cùng chư Bồ Tát.

Vì sao có thể đạt tới chỗ trí huệ hơn người? Làm sao có thể đạt được thần thông khó nghĩ bàn? Nói một cách tóm tắt là vì khi còn ở nhân địa thì chư Phật Bồ Tát bao giờ cũng tu hành một cách nghiêm túc, chân thật, và lúc nào cũng giữ Giới hết sức cẩn thận. Bất luận lúc nào các Ngài cũng tự mình nêu gương, đi đứng nằm ngồi đầy đủ oai nghi. Ðối với chúng sanh thì các Ngài không ngại vất vả, sẵn sàng hy sinh, chẳng tiếc thân mạng, mà tuyệt nhiên không bao giờ tự quảng cáo hay khoe khoang công đức mà các Ngài đã làm vì lợi ích của chúng sanh. Ðó là vì các Ngài xem cứu độ chúng sanh là bổn phận và trách nhiệm của các Ngài.

Chư Phật và chư Bồ Tát đều có tư tưởng:

Thi ân bất cầu báo,

Dữ nhân bất truy hối.

(Ban ơn, không mong đáp,

Cho rồi, không hối tiếc.)

đồng thời đều có hành vi “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi,” có lòng nhân từ bao la đối với kẻ không có duyên với mình, thấy mọi loài là cùng một thể với mình. Chính nhờ tu hành như vậy nên các Ngài mới được trí huệ hơn người và đạt thần thông khó nghĩ bàn.

Mình thường xuyên nghe giảng Kinh, thì cần phải suy gẫm, “tiêu hóa” các nghĩa lý thì mới có ích; bằng không thì nghe Kinh tuy nhiều nhưng lại chẳng lãnh hội được những đạo lý trong Kinh! Có nhiều người thậm chí đem các nghĩa lý của Kinh mà “đặt đằng sau ót,” chẳng nghiên cứu, chẳng suy gẫm; rồi vì chỉ dùng con quỷ “tinh ranh,” con sâu “lanh lợi” của riêng họ nên gây ra đủ chuyện hồ đồ, điên đảo. Làm điều xằng bậy như thế tức là họ không có hiếu với chư Phật và chư Bồ Tát, là bất hiếu với tổ tiên, cha mẹ và sư trưởng của họ. Thế thì chúng ta phải như thế nào? Phải hành trì Phật Pháp một cách đàng hoàng, chân thật, không được lười biếng trễ nãi, không được phóng dật buông lung, ở đâu cũng cẩn thận, lúc nào cũng thận trọng, và phải luôn luôn dũng mãnh tinh tấn, nghiêm thủ Giới Luật. Ðó là những điều kiện tất yếu mà người tu Ðạo phải tuân theo.

Nếu chúng ta có những tập khí, thói quen không chánh đáng thì nhất định phải sửa đổi. Có khuyết điểm mà không chịu sửa đổi, còn che đậy, đó chính là “trợ Trụ vi ngược,” nghĩa là giúp vua Trụ làm những điều tàn ác, bạo ngược. Ðời nhà Ân, vua Trụ vốn là một vị hôn quân vô đạo; cho nên người nào giúp y làm những điều độc ác tức là người ấy “trợ Trụ vi ngược.” Trong số những người tu Ðạo cũng có Trụ Vương. Ðó là ai? Chính là Ma Vương! Thấy Phật Pháp trở nên hưng thịnh thì Ma Vương rất khó chịu, bèn dùng trăm phương ngàn kế để phá hoại Phật Pháp, nhiễu loạn đạo tràng. Hễ các bạn có đạo tràng thì Ma Vương tới quấy nhiễu đạo tràng. Nếu các bạn không có đạo tràng thì Ma Vương sẽ quấy nhiễu thân tâm các bạn, làm cho các bạn thân không an, tâm không ổn; một khi thân tâm các bạn điên đảo thì các bạn không thể tu hành có thứ lớp theo như giáo pháp được. Ðó là cách phá hoại trực tiếp. Còn cách phá hoại gián tiếp của Ma Vương là lợi dụng đủ thứ cảnh giới để dẫn dụ, mê hoặc, làm các bạn không còn Ðịnh lực, thần hồn điên đảo. Vì trúng phải độc kế của Ma Vương nên các bạn mất chân tâm tu ÐạoỦđến khi hối hận thì đã trễ!

Do đó, người tu Ðạo tâm cần yên định, vững chãi như núi Tu Di; dù gặp bất kỳ cảnh giới nào cũng không động tâm. Khi ấy, Ma Vương đành bó tay, chỉ còn cách quăng giáp tháo chạy mà thôi!

20/. Học Phật Pháp Quý Ở Thực Hành

Hằng ngày mình cùng nhau nghiên cứu Phật Pháp thì ai đều có chỗ tâm đắc, nhưng nếu không thực hành thì cũng thành vô dụng. Sau khi nghiên cứu, mình phải theo đó tu hành. Phải thực hành với “chân đạp trên mặt đất vững chắc,” thì mới có sự thọ dụng. Nếu mình không thực hành, chỉ nói suông, thì mình cũng giống như “người đá”đối với Phật Pháp chẳng giúp ích được bao nhiêu cả!

Muốn giúp ích cho Phật Pháp thì mình phải hoằng dương Phật Pháp, tự mình làm gương, chú ý bốn oai nghi12 giữ năm Giới13 dùng Tứ Vô Lượng Tâm (từ, bi, hỷ, xả) để độ chúng sanh và dùng Sáu Ðại Tông Chỉ (không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không vọng ngữ) làm tiêu chuẩn để răn mình. Nếu các bạn dùng những phép tắc như vậy để hoằng dương Phật Pháp thì bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào cũng có sự hiện hữu của Chánh Pháp, không thể có sự xuất hiện của Mạt Pháp, tà ma ngoại đạo sẽ sợ hãi đến dựng tóc gáy, hễ thấy bóng các bạn là chúng chạy trốn mất. Ðiều khiến chúng sợ hãi chẳng phải là thần thông diệu dụng mà chính là đức hạnh của các bạn!

Khi “tri hành hợp nhất,” biết và làm là một, thì sự tu hành của mình nhất định sẽ thành tựu; yêu ma quỷ quái chỉ nghe tiếng là đầu hàng ngay. Vì sao vậy? Bởi vì các bạn có trí huệ chân chánh, nhận thức được sự lý thật giả, biết được việc gì nên làm và việc gì không nên làm! Các bạn cần phải nhận thức rõ ràng, hiểu thấu suốt, không làm chuyện điên đảo, không có mọi phiền não, rắc rối, thì mới có thể nói là đã đạt tới cảnh giới “như như bất động, liễu liễu thường minh.” Nếu được như thế thì mười phương chư Phật sẽ vỗ tay khen ngợi, hoan hỷ vô cùng; nếu chẳng được như thế – không tới được chỗ phải tới, tự cam chịu đọa lạc, không cầu tiến – thì chư Phật cũng phải bật khóc: “Ôi! Ta đã hao tổn biết bao tinh thần thế mà ngay cả một chúng sanh cũng không độ được. Thật là quá sức khó khăn!” Do đó, các bạn nếu biết được một chút thì hãy thực hành một chút, bởi “tích tiểu thành đa, góp gió thành bão,” từ một chút mà tích lũy dần thì sẽ thành nhiều, ví như đống cát cũng có lúc dồn thành ngọn núi, công phu đầy đủ thì tự nhiên sẽ thành công!

Mình được ở đây tu hành là đã “được trời hậu đãi” rất nhiều; do đó, mình không nên lãng phí cơ hội quý báu này và không nên phụ lòng của sư trưởng. Các bạn hãy dũng mãnh, tinh tấn tu Ðạo Vô Thượng để chóng thành Phật quả!

Pages: 1 2 3 4 5 6