Khai Thị
Quyển II
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Trường Ðại Học Pháp Giới
Vạn Phật Thánh Thành Talmage, California

 

61/. CÓ CHÍ THÌ NÊN

(Vạn Phật Thành ngày 13 tháng 10 năm 1983)

Sau khi xuất gia, tôi phát nguyện rằng trước tiên sẽ đem kinh Phật diễn thành thể văn dễ hiểu, và sau đó sẽ dịch sang tiếng Anh. Tuy tôi không biết tiếng Anh nhưng tôi muốn tìm đủ phương pháp để phiên dịch kinh điển, được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

Sau khi tới Mỹ rồi thì nhân duyên thành thục, mùa hè năm 1968 tôi thành lập Ban Phật Học Giảng Tập mùa hè, mở khóa giảng Kinh Lăng Nghiêm; rồi tiện dịp bắt đầu phiên dịch kinh điển từ tiếng Hoa ra tiếng Anh. Ðến nay, nhiều bộ kinh đã được phiên dịch, song không nhất định là hoàn toàn chính xác, dù sao chúng tôi cũng đã hết sức nỗ lực.

Hiện tại, người hiểu Phật Pháp đã nhiều và người có khả năng phiên dịch cũng nhiều nữa, cho nên các vị hãy đem kinh điển đã dịch xưa kia ra sửa chữa lại, làm sao cho thật hoàn hảo, chính xác, khế hợp với ý của Phật. Ðó là ý nguyện của tôi, hy vọng các vị hợp lực cùng nhau hoàn thành công đức này.

62/. BÀI TRỪ SẮC THÁI MÊ TÍN

(Vạn Phật Thành ngày 15 tháng 10 năm 1983)

Tôi có cảm giác rằng Phật Giáo Trung Hoa còn tồn tại rất nhiều hình thái mê tín, đầy dẫy chuyện không hợp lý, khiến người đời sinh hoài nghi và chẳng tin Phật. Những điều như vậy chắc chắn phải cải cách; nếu không sửa đổi một cách triệt để thì tiền đồ của Phật Giáo trong tương lai sẽ như thế nào?

Thí dụ như những kẻ tới chùa thắp hương, họ nghĩ rằng thắp càng nhiều thì công đức càng lớn, kỳ thật đó là quan niệm sai lầm. Cúng hương cho Phật là biểu thị lòng cung kính; chỉ cần mình thành tâm thắp một cây nhang là đủ rồi, cần gì phải thắp nhiều! Nếu tâm không thành thì thắp bao nhiêu nhang cũng chẳng được cảm ứng. Phật không phải là kẻ thích ngửi mùi hương, nếu Phật thích hương thơm thì cũng giống như phàm phu, chẳng có gì khác biệt. Cái phong khí như vậy cần phải sửa đổi, nếu không thì người ta hoài nghi rằng Phật tham ngửi mùi hương thơm. Cho nên vô tình mà mình đã làm đức cao thượng của Ngài bị ô nhiễm, thật là tội lỗi vô cùng!

Có những kẻ thiếu hiểu biết tới chùa lễ Phật, đó là chuyện tốt, song họ không biết lạy Phật có ý nghĩa gì. Họ chỉ biết cầu Phật phù hộ cho thăng chức, phát tài, bình an hạnh phúc, rồi cầu xin con trai con gái, cầu danh cầu lợi, cầu xin đủ chuyện; những thứ cầu đó đều là biểu hiện của lòng ích kỷ, tự lợi, chẳng hề nghĩ tới làm lợi ích cho người và cho đời gì cả. Nếu cầu Phật và Bồ Tát thì sẽ có ứng nghiệm vì các ngài không làm chúng sinh thất vọng, song có lòng mong cầu không đáy như vậy thì thật là sai lầm lắm!

Khi thấy tình hình như vậy tôi cảm xúc vô cùng. Mình phải chỉ bày những người thiếu hiểu biết đó cách lạy Phật, dạy họ rằng phải vì tín ngưỡng mà lạy Phật, vì toàn thế giới, vì cầu hòa bình mà lạy Phật. Dạy cho họ khẩn cầu bằng tấm lòng chính đại quang minh, vì người khác, chẳng vì mình, thì đó mới đúng là hành vi của người Phật tử!

Có những Thầy thiếu tri thức, tuyên truyền rằng nếu đốt vàng mã, đồ giấy, tiền giấy thì có công đức rất lớn, và cho người chết có tiền chi xài, có thể hối lộ bọn cai ngục làm giảm hình phạt. Bà con khi nghe các Thầy nói vậy thì liền mua vàng mã, tiền giấy để đốt, càng nhiều càng tốt, tin rằng Thầy nói là đúng, vì người xuất gia không biết nói láo! Nhưng bà con nào biết chuyện bí mật ở bên trong, những Thầy đó đứng phía sau để thủ lợi mà mình nào hay? Nên các vị phải hết sức sáng suốt mà suy xét, đừng để họ làm chuyện gian trá, lừa bịp tiền bạc. Thủ đoạn như vậy thật là tệ hại, thấp hèn.

Do đó, tôi muốn cải cách tập tục đốt vàng mã tiền giấy, mù quáng mê tín, để Phật Giáo đừng chịu tiếng oan rằng: đạo Phật là tôn giáo đề xướng và chủ trương chuyện đốt vàng mã, tiền giấy!

63/. LÒNG THAM KHÔNG ÐÁY CỦA CON NGƯỜI

(Vạn Phật Thành ngày 16 tháng 10 năm 1983)

Con người ai cũng có tâm tham: tham tài, tham sắc, tham danh, tham ăn, tham ngủ. Tham không đáy, chẳng biết dừng lại.

Khi con người thấy nhan sắc, hình tướng mỹ lệ, nghe âm thanh thánh thót, nếm hương vị ngon ngọt, thì tự nhiên mê đắm, rồi chắc chắn sẽ tìm đủ mọi cách chiếm cho được mới thôi. Vì nhất thời hưởng thụ mà người ta dùng mọi thủ đoạn bất chính để tranh đoạt, dù sẽ phải ân hận suốt đời; thật là đáng tiếc thay! Cổ nhân nói:

“Tri túc thường lạc,
Năng nhẫn tự an.”

Nghĩa là:

“Biết đủ thì sung sướng,
Biết nhịn thì yên thân.”
Thật là đúng thay!

Các bạn học sinh! Khi học hành thì phải nỗ lực mà học, khi rảnh rỗi chơi giỡn thì phải hết sức vui đùa; không thể làm mà không chơi, chơi mà không làm. Mình phải phát triển một cách quân bình, thì mới có ích lợi cho thân và tâm; cho nên Ðức Phật dạy rằng:

“Bất thiên Không,
Hữu nhị biên, thị vi Trung Ðạo.”

Nghĩa là:

“Không lệch qua hai bên
Có và Không, chính là Trung Ðạo.”

Mình phải biết giữ đạo lý Trung Dung, không nhiều quá cũng không ít quá, lúc nào cũng vừa đủ.

Trong khi đang học hành đừng nên nghĩ rằng:

-Tại sao mình phải học?
-A! Ðể kiếm tiền.
-Vì sao phải kiếm tiền?
-Ðể hưởng thụ, để thỏa mãn sự hưởng thụ vật chất.

Nghĩ như vậy tức là mình đã bỏ gốc mà chạy theo ngọn, bỏ điều gần mà đuổi theo điều xa xôi, và quên mất những điều căn bản làm người, không biết thế nào là hiếu thuận với cha mẹ, thế nào là cung kính với thầy giáo, thế nào là có đức hạnh, thế nào là làm người tốt. Ðó là những điều căn bản làm người mà mình lại hoàn toàn quên mất!

Cho nên, nguyên nhân làm thế giới sụp đổ chính là lòng tham không đáy của con người! Nếu ai cũng không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối, thì thế giới chẳng còn khổ não nữa!

Các bạn học sinh! Ở Vạn Phật Thành, Sáu Tông Chỉ này là tiêu chuẩn để mình học cách xử thế. Nếu mình chăm chỉ thực hành Sáu Tông Chỉ đó, thì mình sẽ trở nên con người khác biệt với thế tục. Mình không tranh danh, cũng không đoạt lợi; được vậy thì mọi phiền não thống khổ sẽ tiêu tan hết.

Các em phải nhận trách nhiệm sửa đổi những phong tục tập quán xấu, làm cho thế giới suy sụp hiện tại trở thành thế giới tốt đẹp. Làm sao để sửa đổi? Tức là phải dùng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín; phải dùng năm đức tính này để cải biến và tạo thành một thế giới mới. Ðó gọi là “an thiên lập địa”, làm cho thế giới an lạc vậy!

64/. BA THỨ ÐỘC TÁC HẠI CON NGƯỜI NẶNG NỀ NHẤT

Con người nếu có lòng tham thì vĩnh viễn không thể sung sướng được. Không tham thì sẽ sung sướng, bởi vậy mình cần phải “chỉ tham,” tức là dứt lòng tham:

“Tham tâm hữu như vô để khanh,
Ðiền chi nan mãn, Sân hận sanh.
Ngũ dục phân trần điên đảo tưởng,
Si nhiên bất giác, Pháp khí băng.”

Dịch là:

“Lòng Tham lam như hố sâu không đáy,
Không thỏa mãn được thì sanh Sân hận.
Năm dục phừng phừng, suy nghĩ đảo điên,
Si mê chẳng biết, Pháp khí tiêu tan.”

Do khởi lòng tham nên có rất nhiều người thân tàn danh hoại, nhiều kẻ khiến cho nước mất nhà tan. Quả thật tham lam là thứ hại người, chúng ta không thể chẳng cẩn thận, đắn đo.

Khởi sân hận thì mình phải biến nó thành không có, vì lửa sân có thể thiêu hủy mọi công đức. Do đó, người tu Ðạo trước tiên phải học pháp môn Nhẫn Nhục Ba La Mật; tu tới chỗ công phu chín mùi thì có thể hóa sân hận thành từ bi. Lòng sân hận cũng giống như nước đã biến thành băng, và tu là đem băng hóa thành nước, vì nước có thể lợi ích vạn vật.

Khởi si mê thì mình cần phải trừ đi để cho trí huệ hiện tiền. Vì sao mình có rất nhiều vọng tưởng?

Là vì mình quá sức ngu si, mà gốc của sự ngu si chính là vô minh. Do vô minh tác động khiến mình khởi dục niệm, sinh ra đầy dẫy vọng tưởng. Khi lý trí không khống chế nổi tình cảm thì mình làm chuyện điên đảo; đó là điều hết sức nguy hiểm, khiến cho mình dễ mất đi Ðạo nghiệp. Cho nên, mình phải trừ sạch vọng tưởng thì ngu si sẽ tự nhiên tiêu diệt.

Tóm lại, lúc nào ba độc Tham, Sân, Si, mà trừ tận gốc thì lúc đó thân tâm mình sẽ thanh tịnh, không còn phiền não. Hết phiền não thì đạt được cảnh giới an nhàn. Lúc đó thì vô ưu, vô lự, vô quái, vô ngại; thật là vô cùng tự tại tiêu dao! Bởi vậy cho nên ý nghĩa rất là sâu sắc, hy vọng các vị để tâm nghiên cứu tường tận thì sẽ được lợi ích không nhỏ.

65/. Ở VƯỜN LAN MÀ CHĂNG BIẾT LAN THƠM

(Vạn Phật Thành ngày 16 tháng 10 năm 1983)

Chúng ta ở trong đạo tràng này ngày ngày học Pháp, hành Pháp, ngày ngày được khói hương xông ướp, dần dà Pháp với mình hợp lại làm một!

Phật Pháp có năm thứ hương gọi là Ngũ Phần Giới Hương: Giới Hương, Ðịnh Hương, Huệ Hương, Giải Thoát Hương, Giải Thoát Tri Kiến Hương. Ðược năm thứ hương này xông ướp một thời gian lâu thì tự nhiên mình sẽ khai ngộ. Kẻ mới tới thì cảm thấy mọi chuyện ở chùa đều chẳng tốt; hương là hương, mà ta là ta, chẳng có quan hệ gì. Nhưng nếu ở đây lâu và thường được hương xông ướp thì tự nhiên mình sẽ hòa với hương khí làm thành một thể; cho nên cổ nhân nói rằng:

“Dữ thiện nhân cư,
Như nhập chi lan chi thất,
Cửu nhi bất văn kỳ hương.
Dữ bất thiện cư,
Như nhập bào ngư chi tứ,
Cửu nhi bất văn kỳ xú.”

Nghĩa là:

“Ở với người tốt,
Thì cũng giống như vào vườn lan,
ỞƯ lâu thì mình không còn biết mùi thơm.
Còn ở với người xấu,
Thì cũng giống như vào chợ cá,
Ở lâu thì mình không còn biết mùi tanh nữa.”

Vì sao vậy? Bởi vì con người mình và hoàn cảnh bên ngoài đã hợp thành một thể rồi!

Những người có thiện căn được hương xông ướp thì có thể đột nhiên đại ngộ, cũng gọi là khai ngộ. Khai ngộ thì có gì tốt? Tức là mình hiểu được thấu suốt tất cả mọi sự việc, không còn hồ đồ, rồi phá thủng vô minh, khiến trí huệ hiển hiện. Vô minh cũng giống như một cái thùng đen thui, chẳng thấy được gì cả. Khi đã khai ngộ thì quang minh xuất hiện, phá tan cái màn hắc ám đó, và mình thấy được rõ ràng mọi chuyện.

66/. THẾ NÀO LÀ TAM TẠNG KINH MƯỜI HAI BỘ?

(Vạn Phật Thành ngày 17 tháng 10 năm 1983

Tam Tạng tức là Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng. Kinh Tạng nói về cái học của Ðịnh, Luật Tạng nói về cái học của Giới và Luận Tạng nói về cái học của Huệ.

Sau khi Ðức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp lãnh đạo 500 vị chứng quả A La Hán ở nơi Thất Diệp Quật để kết tập Ba Tạng Kinh Ðiển. Bấy giờ, Tôn giả A Nan ghi lại lời Pháp mà Ðức Phật đã dạy lúc còn tại thế và làm thành Kinh Tạng; Tôn giả Ưu Bà Ly đem những giới luật mà Ðức Phật đã dạy sắp xếp lại thành Luật Tạng; Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đem tâm đắc của các vị đệ tử học Kinh, nghiên cứu Luật, mà kết tập lại thành Luận Tạng.

Mười hai bộ tức là 12 đề mục phân biệt văn thể của Kinh, được tóm tắt trong bài kệ sau đây:
Trường Hàng, Trùng Tụng tịnh Cô Khởi,
Tỷ Dụ, Nhân Duyên, dữ Tự Thuyết,
Bổn Sự, Bổn Sinh, Vị Tằng Hữu,
Phương Quảng, Luận Nghị cập Thọ Ký.

1. Trường Hàng: Kinh thuộc loại này thì viết bằng văn xuôi từng hàng, từng hàng.
2. Trùng Tụng: tức là nghĩa lý ở văn xuôi được diễn tả bằng thể kệ tụng, để lập lại ý chính.
3. Cô Khởi: là những bài kệ, bài tụng viết ra độc lập, chẳng liên quan gì tới ý văn phía trước và phía sau của Kinh.
4. Tỷ Dụ: là dùng ví dụ để thuyết minh nghĩa lý của kinh văn.
5. Nhân Duyên: là phần tường thuật các nhân duyên liên quan đến những chuyện xảy ra.
6. Tự Thuyết: thường thì có người thỉnh Pháp, Ðức Phật mới thuyết Pháp; duy chỉ có bộ Kinh A Di Ðà thì không có người thỉnh mà Ðức Phật tự thuyết.
7. Bổn Sinh: là phần Ðức Phật kể về quá khứ kinh lịch khi Ngài hoằng Pháp lợi sinh.
8. Bổn sự: là phần kể lại những việc mà các vị Bồ Tát, A La Hán đã làm lúc tu nhân.
9. Vị Tằng Hữu: là nói về những chuyện thần thông biến hóa mà xưa nay chưa từng nghe thấy.
10. Phương Quảng: là phần kinh phương chính quảng đại nói đến cảnh giới viên dung vô ngại.
11. Luận Nghị: là phần báo cáo về sự nghiên cứu Kinh, Luật của các vị đệ tử, hoặc là phần ghi chép lời thảo luận của Ðức Phật và các đệ tử.
12. Thọ Ký: là phần đề cập đến việc Ðức Phật thọ ký cho những vị Bồ Tát, như lúc nào thì họ thành Phật, khi nào thì họ sinh Tịnh độ, thành Phật ở cõi Tịnh độ nào, hay là những dự ngôn v.v….

Tôi giới thiệu mười hai bộ Kinh Tam Tạng đơn giản như vậy để các vị có một ấn tượng sơ khởi. Chúc các vị thâm hiểu Kinh Tạng, và phát trí huệ rộng lớn như biển.

67/. ÐỨC LỤC TỔ Ở ẨN NƠI NHÓM THỢ SĂN

Lúc Lục Tổ Huệ Năng ở chùa Ðông Sơn tại Hoàng Mai thì Ngài được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền tâm ấn. Ðức Ngũ Tổ dạy Ngài phải mau mau trở về Quảng Ðông mà giấu mình, làm kẻ ẩn sĩ,

không tranh giành với đời, đừng để lộ tông tích, cũng đừng mưu cầu danh vọng. Vì nhân duyên đó nên Lục Tổ mới trốn đi; song, không phải Ngũ Tổ dạy Ngài trốn lánh nơi sơn động đừng cho ai thấy. Ðó là điểm mà mình cần phải phân biệt cho rõ ràng.

Ðức Lục Tổ trốn ở chỗ nào? Ngài gặp chỗ nào thì ở chỗ đó, lẩn trốn trong nhóm thợ săn và ở chung với họ hơn mười lăm năm. Ngài che giấu tông tích để tu hành và hòa đồng với thế tục mà dụng công tu Ðạo. Không ai đoán nổi được Ngài chính là kẻ đắc Pháp. Bấy giờ Ðức Lục Tổ còn chưa xuất gia, Ngài chỉ là một vị cư sĩ.

Chúng ta là người tu Ðạo, bất luận gặp trường hợp nào mình cũng phải “thao quang hối tích,” nghĩa là che đậy công phu tu hành của mình, không nên để lộ liễu chân tướng. Như vậy thì mới có thể tu hành được. Ngược lại thì rất khó mà tu hành.

Các vị không thể đi đến chỗ nào cũng tự quảng cáo là mình có công phu như thế nọ thế kia, là mình đã tham Thiền bao nhiêu năm như vậy như kia. Chạy hết chỗ này qua chỗ khác rêu rao về sự tu hành của mình thì không phải là hành vi của kẻ xuất gia, của người tu Ðạo!

Các vị phải hết sức chân thật mà tu hành, không được tự quảng cáo cho mình, muốn người ta phải ngẩng đầu ngước lên nhìn mình kính nể; bởi vì đó là điều hết sức sai lầm, làm mất tư cách của người xuất gia! Tục ngữ có câu:

“Hữu xạ tự nhiên hương,
Hà nhu đại phong dương?”

Nghĩa là:

“Có xạ hương thì tự nhiên có mùi thơm,
Cần gì đợi có gió lớn thổi mới thơm?”

68/. PHÁ BỎ TRI KIẾN NHÂN NGÃ, CHIA RẼ PHẬT GIÁ

Hiện tại tôi cảm thấy nhiều chuyện tôi làm khi xưa sai lầm rất nhiều. Thế nào là những chuyện sai lầm? Phật Giáo đề xướng “vô ngã” nhưng tôi lại thường có cái “ngã”; bởi vì có cái “ngã” cho nên không biết đến người khác. Căn bản là phải “quên mình, quên người” mới đúng; song, tôi thì lại “nhớ mình, quên người”! Do vì quên bẵng người khác nên không biết được họ đã làm rất nhiều việc cho đạo Phật; đó là một điều sai lầm khiến tôi áy náy vô cùng.

Hiện tại, Phật Giáo Tây phương bắt đầu phát triển, các vị phải đồng tâm nỗ lực, đoàn kết nhất trí ủng hộ Phật giáo, đồng lòng hiệp sức xiển dương Phật Giáo. Mình không nên bài bác lẫn nhau, phân tông chia phái, bênh chùa mình, chê chùa khác; càng không nên phân chia màu da, quốc tịch. Bất luận là Ðại Thừa hay Tiểu Thừa, tất cả nên cùng nhau đoàn kết lại, chân thật tu hành để Phật Giáo càng ngày càng phát triển!

Các vị phải đem cái “ngã” dẹp đi, coi người và mình đồng một thể, phải tự mình làm gương cho kẻ khác, như vậy thì tiền đồ Phật Giáo mới trở nên xán lạn đặng. Cứ bước từng bước như vậy mà cảm hóa người khác; đừng dùng thế lực để uy hiếp mà phải dùng đạo đức để khiến người ta kính phục. Không ra oai, dọa nạt cho người ta sợ; càng không nên cống cao ngã mạn, tự cao tự đại, cho rằng mình giỏi hơn mọi người. Vì làm như vậy tức là vẫn còn ngã kiến, ngã chấp, ngã mạn, ngã tướng; những thứ đó nếu chưa trừ diệt thì sẽ là chướng ngại trên đường Ðạo, khiến Phật

Giáo phải suy yếu dần dần và mình sẽ có tội với Phật.

Các vị phải lấy sự phục hưng Phật Giáo làm trách nhiệm của mình, không sợ gian khổ, không sợ khó khăn. Hãy vì Phật Giáo mà nỗ lực, tình nguyện hiến thân cho Ðạo mà chẳng có ý mưu đồ, tính toán. Nếu ai cũng được như vậy thì Phật Giáo làm sao không có ngày phục hưng được? Chúng ta phải giữ gìn tôn chỉ: “Lỗi của kẻ khác là lỗi của chính mình.” Phải có được tư tưởng như vậy thì mới không sinh ra tâm phân biệt, chia rẽ, thì mới không có cái nhìn sai lệch. Tôi thường nói rằng:

“Chân nhận tự kỷ thác,
Mạc luận tha nhân phi.
Tha phi tức ngã phi,
Ðồng thể danh Ðại bi.”

Nghĩa là:

“Nhận thật rằng mình sai,
Ðừng bàn tới lỗi người.
Lỗi người là lỗi ta,
Ðồng thể mới Ðại bi.”

Làm được như vậy thì nhất định khắp nơi đều hòa bình, tuyệt đối chẳng có tâm tranh chấp; bởi:

“Sự sự đô hảo khứ,
Tỳ khí nan hóa liễu.
Chân năng bất sinh khí,
Tựu thị vô giá bảo.
Tái nhược bất oán nhân,
Sự sự đô năng hảo.
Phiền não vĩnh bất sinh,
Oan nghiệt na lý trảo?
Thường tiều nhân bất đối,
Tự kỷ khổ vị liễu!”

Dịch là:

“Chuyện gì cũng êm xuôi,
Tính nóng là khó nguội.
Nếu thật chẳng nổi nóng,
Chính đó, báu vô ngần.
Nếu lại không oán người,
Mọi việc sẽ êm xuôi.
Vĩnh viễn không lo phiền,
Oan nghiệt sao truy đuổi?
Cứ lén nhìn lỗi người,
Khổ mình vẫn chưa nguôi!”

Hồi xưa tôi chỉ thấy cái sai của người khác nên tôi rất đau khổ. Nay thì tôi coi mọi người đều đúng, cho nên tôi rất thoải mái. Câu “khẩu đầu thiền” của tôi là: “Mọi sự đều O.K.!” Như vậy, tất cả mọi chuyện sẽ được nhiều lợi ích, may mắn và thông suốt.

69/. NGƯỜI TU ÐẠO CẦN VƯỢT QUA KHẢO NGHIỆM

(Vạn Phật Thành ngày 25 tháng 10 năm 1983

Kẻ học Phật Pháp nhất định phải diệt sạch tâm ích kỷ, tự lợi, đừng để bị tổn hại đến định lực của mình, mà phải chuyển thành tâm “vì Pháp quên mình,” chỉ cần được nghe Phật Pháp thì dù phải bố thí thân thể, tánh mạng cũng không mảy may nuối tiếc hay hối hận. Các vị phải biết rằng:

“Ðạo cao nhất xích,
Ma cao nhất trượng.
Ðạo cao nhất trượng,
Ma tại đầu thượng.”

Nghĩa là:

“Ðạo cao một gang,
Ma cao một tầm.
Ðạo cao một tầm,
Ma trên đầu ta.”

Các vị càng muốn dụng công tu hành thì càng chịu nhiều khảo nghiệm để coi thử các vị có nhận thức được hay không. Người muốn tu Ðạo nhất định trước hết phải trừ lòng tham, chẳng còn lòng sân, và không có phan duyên.

Không phan duyên nói chung là không dùng thủ đoạn để thu nhận tiền bạc hay đồ vật của kẻ khác.

Các vị nhất định phải trừ sạch lòng tham lam, sân giận, và ngu si; bởi vì nếu còn ba thứ độc này thì còn sinh ra đủ thứ phiền não!

Mỗi người không ai biết được nghiệp chướng của chính mình, nhưng khi bắt đầu chân chính tu hành thì thường sinh ra đủ thứ ma chướng; đó là vì:

“Yếu học hảo, oan nghiệt trảo,
Yếu thành Phật, tiên thọ ma.”

Nghĩa là:

“Muốn học giỏi, oan nghiệt tìm,
Muốn thành Phật, trước gặp ma.”

Hiện tại (1979), một vị “Tam bộ nhất bái” là Thầy Hằng Triều vừa mới xuất gia, lên đường đi “ba bước một lạy.” Vừa biết thế nào là dụng công hành Ðạo, phản bổn hoàn nguyên, thì bỗng nhiên mẹ của Thầy sinh bịnh, phải vào nhà thương giải phẫu. Chuyện giải phẫu không phải là ngặt nghèo, nhưng khiến tâm Thầy nổi lên đủ thứ vọng tưởng, nên lạy Phật mà trở thành lạy vọng tưởng! Thật là một sự thử thách ghê gớm. Nếu tâm không vững thì sẽ bị cảnh giới làm lay chuyển. Song, tuy bên trong thì tâm động nhưng bên ngoài thì thân vẫn lễ lạy; và Thầy đã dùng ý chí kiên cường để khắc phục những vọng tưởng đó.

Các vị thử nghĩ coi, tu hành không phải là chuyện dễ! Thầy Hằng Triều cảm thấy rằng đối với những cảnh giới khác thì Thầy có thể giữ tâm không bị lay chuyển, song đối với cảnh giới này (mẹ bị bệnh) thì Thầy có phần nào không giữ tâm cho vững được. Tuy chịu không nổi nhưng Thầy vẫn tiếp tục cuộc hành trình “Ba bước một lạy,” tỏ ra không bị cảnh giới làm cho lay chuyển.
Các vị tu Ðạo cần chú ý! Không thể khởi vọng tưởng được! Vọng tưởng là tảng đá cột chân người tu hành; có vọng tưởng gì thì tự nhiên có cảnh giới ấy tới khảo nghiệm. Cho nên tôi thường nói:

“Nhất thiết thị khảo nghiệm,
Khán nhĩ trẫm ma biện.
Ðối diện nhược bất thức,
Tu tái tùng đầu luyện.”

Nghĩa là:

“Tất cả là thử thách,
Coi bạn xử làm sao.
Ðối mặt mà chẳng biết,
Phải luyện lại từ đầu.”

Cũng giống như trai không buông bỏ được vợ, gái không buông bỏ được chồng, con không buông bỏ được cha mẹ, cha mẹ không buông bỏ được con cái; đó đều là những hoàn cảnh để khảo nghiệm mình. Cũng chính vì chỗ không buông bỏ được đó mà mình chẳng tu hành đặng. Khi cảnh giới đến thì mình không dễ gì vượt qua cửa ải này được. Có câu rằng: Tu Ðạo như bà bách xích can, Hạ lai dung dị thượng khứ nan. Nghĩa là: Tu Ðạo như trèo sào trăm thước, Tuột xuống dễ nhưng trèo lên khó.

Các vị suy nghĩ coi làm thế nào bây giờ? Nếu không tiến lên trước thì mình sẽ lùi lại phía sau. Tiến lên trước thì sẽ thăng tiến dễ dàng, lùi về phía sau thì rất dễ bị đọa lạc. Ði lên là con đường thiện, đi xuống là con đường ác; thật là:

“Nan! Nan! Nan!
Tu hành nhất tự linh nhân hàn.
Tu tảo khởi, ưng vãn miên,
Triều triều dạ dạ bất đắc nhàn.”

Nghĩa là:

“Khó! Khó! Khó!
“Tu hành” hai chữ lạnh rét run.
Thức thật khuya, dậy lại sớm,
Ðêm đêm ngày ngày chẳng đặng nhàn!”
Các vị nói coi, khó hay không khó?

70/. NGƯỜI TU ÐẠO CẦN GIỮ GÌN THÂN TÂM

Người xuất gia tu Ðạo lúc nào cũng cần giữ gìn thân tâm, không thể tùy tiện phóng dật, bê bối! Ở trong đạo tràng tu hành một ngày mà không tiến bộ tức là đã thối lui, cho nên nói rằng:

“Nhất nhật vô quá khả cải, Nhất nhật vô công khả tạo!

Nghĩa là: “Một ngày có lỗi mà không sửa là một ngày chẳng tạo thêm công đức! Người xuất gia cần nghiêm giữ bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi:

“Hành như phong,
Tọa như chung,
Lập như tùng,
Ngọa như cung.”

Nghiã là:

“Ði như gió thoảng,
Ngồi như chuông đồng,
Ðứng thẳng như cây tùng,
Nằm như cung giương ra.”

Khi đi, thì phải giống như làn gió thổi nhẹ đến nỗi mặt nước trên sông không dấy động; đừng đi như cơn gió lốc vô cùng hung hãn làm cho mặt biển sóng dậy như cồn, dâng cao trăm trượng. Khi ngồi, thì phải ngồi như chuông, hết sức vững vàng; đừng ngồi giống như cái chuông đang lắc, hết lắc qua phải lại lắc qua trái, không bao giờ ngừng cả. Khi đứng, đầu và thân phải cho thẳng và nghiêm chỉnh, giống như cây tùng vậy. Cây tùng thì mọc thẳng, cao, đơn độc, không dựa vào cái gì khác. Khi nằm, thì phải nằm ở thế “kiết tường,” tức là hông bên mặt ở phía dưới, cũng giống như cây cung trong tư thế được giương ra. Người xuất gia phải đặc biệt chú ý đến bốn oai nghi này.

Người tu hành không nên bạ đâu nói đó, mà phải hết sức thận trọng, ôn tồn. Ðến chỗ nào thì cũng phải làm gương cho kẻ khác, không thể cười đùa, nói càn nói bậy, vì như thế tức là không tôn trọng quy củ của đạo tràng. Người khác thấy được hành vi như vậy sẽ phê bình là những người xuất gia trong Vạn Phật Thành không thông hiểu quy củ. Với thái độ như vậy thì làm sao tu Ðạo, làm sao thành tựu được Ðạo nghiệp?

Ðừng nên vì một, hai cá nhân chẳng giữ gìn quy củ mà khiến cho danh dự của Vạn Phật Thành bị hoen ố, hủy hoại! Vạn Phật Thành là ngọn đèn sáng của Phật Giáo trên thế giới, bởi vậy, mỗi người trong đại chúng, nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hành, đều phải nên đặc biệt cẩn thận!
Người xuất gia tu Ðạo lúc nào cũng phải tự kiềm chế chính mình, không nên nghĩ vẩn vơ, vọng tưởng. Bất luận là vọng tưởng tốt hay vọng tưởng xấu, thảy đều phải quét sạch đi, do đó có câu “nhất niệm bất sanh.” Ðạt tới cảnh giới này thì mình mới tương ưng với Ðạo được. Nếu có vọng tưởng vô ích, cho dù thân thanh tịnh mà tâm huyên náo, thì dụng công tu Ðạo thế nào được? Làm sao mà thành tựu được? Ðó thật là phí thời gian chứ nào phải tu Ðạo!

Kẻ chân chính tu hành thì tuyệt đối không có vọng tưởng. Có vọng tưởng thì có chướng ngại. Có chướng ngại thì không thể tiến bộ, rất dễ làm mình thối thất Ðạo tâm.

Tại Vạn Phật Thành, bất luận là người xuất gia hay tại gia, nếu không có chuyện cần thì đừng tới phòng ngủ của kẻ khác. Bởi vì bạn đến phòng tôi nói chuyện này chuyện nọ, rồi tôi tới phòng bạn nói chuyện thị phi thế nọ thế kia, thì sẽ lãng phí thời giờ, vô ích. Bạn không tu hành thì cũng được, nhưng bạn không thể chướng ngại kẻ khác tu hành! Chướng ngại người tu hành thì tương lai sẽ bị đọa địa ngục Vô Gián, vĩnh viễn chẳng thể khôi phục được thân người!

Ðã phát tâm tu Ðạo thì mình cần phải giữ tâm chuyên nhất, đặc biệt tiếc nuối thời gian, cho nên nói rằng: “Nhất thốn quang âm nhất thốn kim, Thốn kim nan mãi thốn quang âm.”(Một phút thời gian, một tấc vàng, Vàng sao mua đặng phút thời gian?)

Lại nói rằng: “Thất lạc thốn kim dung dị đắc, Quang âm quá khứ nan tái tầm.” (Tấc vàng mất đi dễ kiếm lại, Thời gian qua mất khó lòng tìm!)

Các vị cần phải nuối tiếc thời gian! Phàm là người tu Ðạo thì phải tranh thủ thời gian, đừng để lãng phí. Biết đâu trong một phút nào, một giây nào đó, các vị có thể có cơ hội khai ngộ!

Ở Vạn Phật Thành, trong lúc ăn cơm không được nói chuyện. Trước khi ăn, đại chúng niệm bài tụng cúng dường có câu: “Tán tâm tạp thoại, Tín thí nan tiêu.” Nghĩa là nếu tâm tán loạn, nói tạp nhạp, thì sẽ khiến cho đồ cúng dường của thí chủ khó tiêu hóa đặng. Tuy niệm như vậy nhưng tại sao mình không giữ quy củ? Người ta nói rằng: “Vô quy củ bất thành phương viên.” (Không có quy củ thì chẳng thành nề nếp được.)

Không giữ quy củ thì làm sao có trí huệ? Làm sao khai ngộ được? Cho nên Ðức Khổng Tử từng nói rằng: “Thực bất ngôn, Tẩm bất ngữ.” (Ăn thì không nói, Ngủ thì không mớ.)
Ở trong Trai Ðường, khi ăn không nên nói năng ồn ào, chỉ nên chăm chú ăn; như thế thì không những hợp với quy củ mà còn hợp vệ sinh nữa. Vì ăn từ từ, nhai kỹ lưỡng thì dễ tiêu hóa, có lợi cho sức khoẻ!

71/. KHÔNG ÐỦ GIỚI, ÐỊNH THÌ CHĂNG SINH TRÍ HUỆ

(Vạn Phật Thành ngày 17 tháng 10 năm 1983)

Không tu Giới mà muốn được Trí Huệ thì thật vô lý. Tu Giới thì lời nói phải đi đôi với việc làm, việc làm theo sát với lời nói, lúc nào cũng nghiêm giữ quy luật, không làm điều gì ra ngoài khuôn phép. Giới là sợi dây dọi, là cây thước đo của người xuất gia.

Tại sao có nhiều quy luật như vậy? Tại vì người tại gia không giữ quy củ, nên nếu xuất gia thì cần phải có pháp độ, quy tắc. Không giữ Giới thì đương nhiên sẽ không có được Ðịnh lực. Giới, Ðịnh không viên mãn thì tuyệt nhiên chẳng phát chân chính Trí Huệ. Nếu có thì cũng là một loại Thế Trí Biện Thông gọi là “tiểu thông minh,” chỉ khiến cho mình đi vào con đường khúc khuỷu, chật hẹp. Cái thông minh láu lỉnh đó không thể gọi là chân chính trí huệ; đối với Ðại Trí Huệ, thì đó chỉ là thứ thông minh xảo trá của loài quỷ!

Chẳng có mảy may hiểu biết sai lầm hay tà kiến thì mới là chân chính trí huệ. Nếu là người thật có trí huệ thì chuyện gì cũng không sợ bị thua thiệt, bất cứ chuyện gì chỉ nhìn qua là thấu suốt ngay.
Việc mà kẻ phàm phu không làm nổi chính là “đoạn dục, khử ái,” cắt đứt ái và dục. Tại sao họ không làm nổi? Là vì họ không có chân chính trí huệ nên bị vô minh, ngu si chi phối. Nếu mình có chân chính trí huệ thì mọi sự đều được giải quyết một cách tự nhiên, tốt đẹp.

72/. CHA MẸ LÀ TẤM GƯƠNG CHO CON CHÁU

Thế giới tốt hay xấu là do gia đình mà ra. Gia đình giáo dục có nề nếp thì tương lai con cái sẽ xán lạn; còn gia đình giáo dục không có nề nếp thì tương lai con cái sẽ đen tối. Tuy không thể luận chi tiết nhưng đại khái thì thật trạng không có sai lệch bao nhiêu; cho nên, kẻ làm cha mẹ phải cẩn thận trong mọi hành động, mọi việc làm, không thể tùy tiện muốn làm gì cũng được.

Cha mẹ nếu không tự kiểm nghiệm hành vi thì rất dễ ảnh hưởng con cái, khiến con cái hư hỏng. Con cái không được dạy dỗ thì tương lai sẽ trở thành những phần tử xấu của xã hội, của quốc gia.

Vì thế, cha mẹ phải chịu trách nhiệm về giáo dục bằng cách “dĩ thân tác tắc,” tự làm gương cho con mình. Mỗi một hành động đều phải hết sức quang minh lỗi lạc, phải quên mình vì người và phải có lòng bi mẫn đối với người khác. Con cái thấy tấm gương tốt như vậy thì tự nhiên sẽ trở thành những công dân ưu tú, và tương lai sẽ giúp an định xã hội, điều khiển đất nước.

Ðời nay, những kẻ thiếu hiểu biết đã làm những việc thật đáng phải kinh ngạc. Họ dụ dỗ những thanh niên nhẹ dạ vào đường sa đọa mà những thanh niên ấy chẳng hề hay biết, còn tự cho là mình làm chuyện đúng đắn. Nên có câu:

“Nhất thất túc thành thiên cổ hận,
Tái hồi đầu dĩ bách niên thân.”

Dịch là:

“Ði sai một bước, ôm hận ngàn thu,
Hối lỗi quay về, trăm tuổi đã qua!

Phong khí xã hội như vậy thật là xấu xa đến cực điểm. Nếu cha mẹ mà ty tiện, hạ lưu, thì con cái cũng thành hạ lưu, ty tiện. Phàm là kẻ tu Ðạo, học Phật, thì không nên a dua với kẻ xấu, mà phải giữ thân cho thanh bạch, phải học tập tác phong của bậc chính nhân quân tử, hầu cải biến phong khí của xã hội đương thời. Các vị tuyệt đối phải biết an phận thủ thường, không tham gia vào những tổ chức bất lương, cũng không tán thành những chuyện hưởng thụ dục lạc không chính đáng. Như vậy thì mới có thể ảnh hưởng được kẻ khác cải tà quy chánh.

73/. NỀN VĂN HÓA CỐ HỮU CỦA TRUNG QUỐC

(Vạn Phật Thành ngày 5 tháng 11 năm 1983)

Ở Trung Hoa, làm câu đối thì âm, vận, bằng, trắc, phải cho đúng. Song hiện nay nếu dạy môn học này cho người Tây phương thì đa số chẳng hiểu rõ âm vận. Nay các vị bắt đầu học, tôi không có yêu cầu quá cao; tôi sẽ dạy cho các vị một phương pháp tuần tự mà làm. Trước hết, phải tạo nền tảng cho thiệt vững, sau đó chú ý tới vần bằng trắc cũng không muộn.

Ðối liễn là một môn học không được truyền dạy nữa nên rất nhiều học sinh hiện giờ ở Trung Hoa không biết làm, hoặc coi thường chuyện làm câu đối. Kỳ thật, môn học này là biểu hiện trí huệ của nhân loại. Ðối liễn cũng là một bộ môn đặc sắc cao độ của nền văn hóa Trung Hoa mà văn hóa Tây phương không thể nào sánh bằngđược. Lý do là vì câu đối phải căn cứ theo triết lý âm dương, thiên địa, càn khôn, nam nữ… diễn biến mà thành. Ðối liễn vừa tinh luyện, vừa có ý nồng hậu phong phú, đồng thời lại có tác dụng khai tâm mở trí.

Trung Quốc bây giờ bắt đầu chú ý trở lại chuyện làm câu đối. Ðời nhà Thanh có ông Kỷ Hiểu Lam là người rất sành làm câu đối. Thời cận đại thì văn hóa trở thành Bạch thoại (văn nói, đàm thoại), khiến Cổ văn bị lơ là. Nay các vị học môn Cổ văn, có nhiều người làm câu đối sẽ không thuần thục lắm, hoặc không có vần điệu lắm. Song, tôi sẽ sửa cho các vị, và vẫn giữ tối đa ý nghĩa cùng tư tưởng của câu đối các vị làm ra. Các vị đừng coi thường môn học đối liễn này bởi vì đó cũng là một cảnh giới vô cùng vô tận vậy.

74/. CHÚNG SINH ÐÁNG THƯƠNG XÓT, KHÔNG BIẾT TỰ CỨU

(Vạn Phật Thành ngày 29 tháng 8 năm 1982)

Con người là một phần của Phật, một phần linh tánh của Phật chớ không phải toàn thể. Ví như Phật phóng hào quang từ một lỗ chân lông, thì trong hào quang đó biến hóa ra vô lượng chúng sinh; hoặc nơi hơi thở của Ngài phóng hào quang, thì cũng biến hóa ra vô lượng chúng sinh. Hào quang của Phật có thể biến hóa ra chúng sinh, cho nên nói rằng: “Nhất thiết chúng sinh, Giai hữu Phật tính, Giai kham tác Phật.”

Là người, thường trong mỗi hơi thở của mình cũng có vô số vô lượng vi sinh vật. Khi những vi sinh vật trong hơi thở của mình hô hấp, chúng cũng biến hóa ra vô lượng những chúng sinh khác. Cho nên, chúng sinh do Phật biến hóa ra khi tu hành sẽ thành Phật; còn chúng sinh do chúng sinh biến hóa ra, thì tuy khác đôi chút, nhưng rồi cũng có ngày thành Phật.

Loài súc sinh cũng có thể biến hóa ra những loài chúng sinh khác bởi vì chúng cũng có hô hấp. Trong mỗi hơi thở của chúng ẩn núp không biết bao nhiêu là vi sinh vật, mà khi được trợ duyên thì chúng sẽ biến hóa thành các loài chúng sinh khác; nếu không có trợ duyên thì chẳng biến hóa đặng.

Trong thân ta có vô lượng loại vi trùng, mỗi vi trùng là một chúng sinh. Trong mỗi con vi trùng lại có vô lượng con siêu vi trùng khác nữa; thật là: “Sinh sinh bất dĩ, Hóa hóa vô cùng!”

Lấy đó mà suy gẫm, chúng sinh lớn có thể biến hóa lớn, chúng sinh nhỏ có thể biến hóa nhỏ, mỗi thứ mỗi kiểu. Vì vậy, chúng sinh trong thế giới thì có vô lượng vô biên, càng sinh sôi nảy nở càng nhiều. Sinh sôi nảy nở cho đến khi thế giới không dung chứa được nữa, thì thế giới sẽ bị hủy diệt. Song, thế giới này bị hủy diệt thì có thế giới khác được tạo thành. Luôn luôn có chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo; rồi ở trong vòng điên đảo, hồ đồ như vậy.

Chúng sinh không muốn giác ngộ, lại còn cho là mình thanh tịnh, sáng suốt; cho nên sách Trung Dung nói: “Nhân giai viết dư tri, khu nhi nạp chư cổ quắc hãm tỉnh chi trung, nhi mạc chi tri tỮ dã. Nghĩa là: “Con người tự cho mình có trí huệ, chừng khi bị đẩy rớt xuống hầm rồi, thì chàng ta cũng không biết là cần phải thoát ra!” Như vậy thì thử hỏi trí huệ này có phải là ngu si chăng?

Chúng sinh cần ăn để sống. Như con cá heo được tập luyện nên biết nhảy, biết múa, biết nghe lời; đó là vì nó muốn ăn! Cho ăn thì nó làm theo lời mình, biểu gì làm đó ngay. Bởi vì tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, năm thứ dục chi phối, nên mình điên đảo mê mờ, không biết quay đầu về nhà. Rồi trên con đường nguy hiểm như vậy mình càng chạy càng xa nhà, càng xa thì càng lạc lối, lênh đênh trong biển sinh tử mà không biết quay đầu về bến. Thật đáng thương xót lắm thay!

Chúng sinh nếu không mê tiền thì cũng mê sắc; chính hai món dục này làm cho ai nấy đều quay cuồng, không thoát ra nổi. Nếu không thế thì lại say mê ăn uống, danh vọng, hoặc ngủ nghỉ. Ðó là những vọng chấp của chúng sinh. Bởi có vọng chấp nên không phá trừ được vòng điên đảo, hồ đồ. Người nào thấu rõ được sự mê đắm rồi buông bỏ đi, thì có thể được tự tại!

75/. XUẤT GIA LÀ XUẤT CÁI GÌ?

(Vạn Phật Thành ngày 1 tháng 9 năm 1982

Ðức Phật tuy là một vị Thái tử nước Ấn Ðộ nhưng đối với phú quý thế gian Ngài lại sinh lòng nhàm chán rất sâu đậm, nên Ngài muốn bỏ ngôi vua để xuất gia tu Ðạo. Ngài cũng muốn làm cho tất cả chúng sinh biết rằng tất cả mọi pháp của thế gian đều là vọng tưởng.

Thế giới này do đâu mà thành? Là do vọng tưởng của chúng sinh tạo thành, và trong tương lai thì cũng sẽ do vọng tưởng của chúng sinh mà tiêu hoại; cho nên có câu: Như thị nhân, như thị quả. (Hễ có nhân thì có quả.)

Ở trên thế gian, mọi thứ đều là vô thường biến hoại. Bồ Tát nhàm chán pháp thế gian, Phật lại càng xa lánh pháp thế gian hơn nữa. Ngài không sinh lòng nhiễm ô chấp trước pháp đó. Ngài vĩnh viễn đoạn tuyệt lòng tham ái, dục vọng thế gian. Ðiều mà người đời tham thì Phật không tham, điều người đời yêu thích thì Phật không yêu thích, bởi vì Ngài không có tham ái cho nên Ngài không có phiền não.

Phiền não mà chúng ta có bây giờ là do đâu mà sinh ra? Là do tham với ái mà sinh ra! Nếu mình không tham thì không có lòng ích kỷ, nếu không có lòng ích kỷ thì mình không có phiền não.
Tại sao mình phải tham? Tại vì mình bị dục niệm chi phối, khiến cho mình phát sinh ra lòng tham ái. Nếu có lòng tham ái mà không thể nào thỏa mãn được thì sẽ sinh ra phiền não; có phiền não thì có điên đảo; có điên đảo thì có ô nhiễm. Bây giờ mình tu hạnh thanh tịnh tức là phải làm sao để diệt trừ tất cả mọi thứ ô nhiễm.

Phật lúc nào cũng tìm cách làm lợi ích cho chúng sinh. Lúc ở trong vương cung thì Phật không tham trước mọi thứ vinh hoa phú quý; lúc xuất gia thì Ngài dẹp bỏ hết những oai nghi của người thế tục, không cùng người khác đấu tranh biện luận, cho nên Ngài đắc được Vô Tranh Tam Muội:

“Tranh thị thắng phụ tâm,
Dữ Ðạo tương vi bội,
Tiện sinh tứ tướng tâm,
Như hà đắc Tam Muội?”

Dịch là:

“Tranh là tâm hơn thua,
Ði ngược lại với Ðạo,
Khiến sanh ra bốn tướng,
Làm sao được Tam Muội?”

Phật an trụ nơi pháp Không Tranh. Ngài hoàn thành hạnh nguyện đã lập khi xưa, đầy đủ vô lượng công đức. Ngài dùng quang minh của Ðại Trí huệ để diệt trừ tất cả si mê trên thế gian, phá tan tất cả những sự đen tối vô minh. Ngài là phước điền vô thượng của chúng sinh ở thế gian, lúc nào cũng vì chúng sinh mà tán thán công đức của mười phương ba đời chư Phật, khiến chúng sinh được trồng phước, cầu huệ, và vun bồi tất cả thiện căn nơi Tam Bảo. Phật dùng con mắt trí huệ thấy được tất cả đạo lý chân thật, rồi lại vì chúng sinh mà tán thán công đức xuất gia.

“Xuất gia” là xuất Tam Giới gia (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới), và cũng là xuất Thế tục gia.

“Thế tục gia” là nhà của người đời; ra khỏi nhà người đời rồi tức là mình không còn quan niệm như người đời nữa.

“Xuất gia” cũng có nghiã là xuất Phiền não gia. Chúng ta, mỗi người trên thế gian này, đều đang ở trong cái nhà phiền não. Khi nóng giận thì mình cảm thấy rằng ăn bất cứ của ngon vật lạ nào cũng đều không có mùi vị gì cả, cho nên khi mình xuất gia là muốn xuất ra khỏi nhà phiền não.

“Xuất gia” còn có nghĩa là xuất Vô minh gia. “Vô minh” tức là không có hiểu biết rõ ràng, chuyện gì cũng không thấu suốt, làm chuyện gì cũng điên đảo cả. Do đó phải ra khỏi cái nhà vô minh.

Xuất gia cũng do nhiều động cơ khác nhau. Như ở Trung Hoa, có nhiều người vì lớn tuổi rồi mà không có thân thích để nhờ cậy, cho nên họ xuất gia để về sau có người săn sóc cho dễ dàng. Có kẻ thì vì hoàn cảnh bức bách nên xuất gia; hoặc là vì phạm pháp, giết người nên muốn đổi danh đổi tánh, đổi mặt đổi mày, làm người xuất gia để luật vua không tầm nã nữa. Có kẻ thì vì khó nuôi nên gia đình quyết định đem cho nhà chùa. Ðó là ba loại người xuất gia, có tu hành được hay không thì chưa biết; có thể họ tu được, mà cũng có thể họ chẳng tu được!

Lại có kẻ chân chánh vì vấn đề sinh tử, phát tâm Bồ đề, mà xuất gia. Hạng xuất gia như vậy nếu họ không bao giờ thối tâm thì đúng là chân chánh tu hành. Họ vì đau khổ nghĩ đến vấn đề sinh tử mà phát tâm đại Bồ đề, y chiếu theo lời Phật dạy mà tu hành.

Cho nên xuất gia có nhiều tâm trạng và hoàn cảnh khác nhau. Song, sau khi xuất gia rồi thì đừng có phạm lỗi lầm mà phải trở nên thanh tịnh, xa lìa mọi tội lỗi, khôi phục lại tâm thanh tịnh bản hữu của chính mình, vĩnh viễn ra khỏi nhà Tam Giới, ra khỏi nhà Phiền não, ra khỏi nhà Vô minh, ra khỏi nhà Thế tục.

Có người hỏi: Tại sao không có Phật đàn bà?

Trả lời: Không phải là không có Phật đàn bà. Cũng có vậy. Trong Kinh Pháp Hoa có nói rất rõ ràng rằng cô Long Nữ hiến ngọc xong thì lập tức thành Phật. Long Nữ là một cô gái, đem ngọc châu hiến Phật, hiến xong rồi thì lập tức ngay đó thành Phật. Như thế chứng minh rằng đàn bà cũng thành Phật vậy, song rất hiếm.

Còn vấn đề vì sao làm người nam, vì sao làm người nữ, thì đó là do ưa thích mà ra. Hễ ai có ý niệm thích làm con gái thì sẽ làm con gái, nếu có tư tưởng thích làm đàn ông thì sau này sẽ làm đàn ông. Ðó là nghiệp báo mà tự mình tạo ra, tự mình chịu quả, tùy theo nghiệp mà chuyển hóa. Song, cũng có người có khả năng chi phối nghiệp quả của chính họ. Họ không bị cảnh giới xoay chuyển, mà trái lại, họ có thể xoay chuyển càn khôn, làm cho nghiệp quả cải biến và làm chủ được chính họ.

Nếu mình tùy theo nghiệp thì mình không có năng lực khống chế nó. Nếu mình biết chuyển nghiệp, tức là mình có năng lực khống chế nó. Tại sao Bồ Tát lại phát nguyện? Là để khống chế giòng lưu chuyển của nghiệp. Các Ngài dùng đại nguyện để làm trụ cột, do đó mới xoay chuyển được nghiệp. Cho nên nói rằng các Ngài có thể chuyển nghiệp mà nghiệp không chuyển được các Ngài; các Ngài có thể chuyển cảnh giới mà cảnh giới không chuyển được các Ngài; các Ngài có thể chuyển quả báo mà quả báo không chuyển được các Ngài!

Thật ra, có thể khống chế được nghiệp, song phải có trí huệ. Nếu mình chỉ là thứ si mê, vô minh, chuyên làm chuyện điên đảo, thì không thể nào khống chế được nó.

Hỏi các vị rằng: “Vì sao các vị muốn làm chuyện điên đảo?” Các vị đáp: “Không biết.” Vì không biết cho nên cứ chạy theo nghiệp!

Bởi vậy cho nên không phải là đàn bà không có khả năng thành Phật, cũng không phải rằng Phật là dương mà quỷ là âm. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng Phật là thuần dương, quỷ là thuần âm, và con người là nửa dương nửa âm!

Không phải nam là hoàn toàn dương và nữ là hoàn toàn âm đâu! Nếu quả thật người nam là hoàn toàn dương thì chẳng cần kết hôn với người nữ làm gì, và nếu người nữ là hoàn toàn âm thì cũng không cần kết hôn với người nam làm gì. Bởi vì sau khi kết hôn rồi thì sẽ biến thành một nửa âm một nửa dương, không còn thuần âm hay thuần dương nữa.

Tu hành là tu đến chỗ vô lậu, tức là tới chỗ thuần dương. Nam là dương nhưng trong dương có âm; nữ là âm nhưng trong âm có dương. Do đó, sau khi kết hôn thì có năng lực sinh con đẻ cái là vì âm, dương kết hợp mới biến hóa được. Ðó là cảnh giới tương đối.

Không phải rằng nam là hoàn toàn dương hay nữ nhất định là hoàn toàn âm. Trong Kinh Dịch có nói rằng: “Nhất âm nhất dương, vị chi Ðạo. Thiên âm thiên dương, vị chi tật.”

“Thiên” nghĩa là cực đoan, hễ thiên âm hay thiên dương thì có bịnh tật, tức là sai lầm rồi. Không có cực đoan thì gọi là Trung, không có biến cải thì gọi là Dung; đó là đạo lý Trung Dung. Do đó, người nam đừng cho rằng mình là hoàn toàn dương, vì nếu thế thì tại sao lại muốn kết hôn? Bởi người nam khi kết hôn rồi thì trong dương có âm, và người nữ khi kết hôn rồi thì trong âm lại có dương; đó là vấn đề âm dương trao đổi.

Bây giờ thế nào gọi là “người”? “Người” chỉ là cái tên giả. Trước kia tôi đã từng nói nhiều lần rằng lúc ban đầu chữ “người” được đặt ra để chỉ con người. Nếu lúc đầu dùng chữ “chó,” thì bây giờ mình đã gọi con người là “chó” rồi! Cho nên dùng lâu thì thành thói quen, chữ “người” đó chỉ là một cái tên thôi.

Bây giờ đến câu “Nhất âm nhất dương vi nhân,” nghĩa là một âm một dương là người. Trong dương có âm, trong âm có dương; trong mùa đông thì có ẩn tàng mùa hạ, cũng như trong mùa hạ cũng có ẩn tàng mùa đông. Trong mùa đông, tới một lúc nào đó sẽ sinh ra dương (đông chí); và trong mùa hạ, tới một lúc nào đó sẽ sinh ra âm (hạ chí). Một năm là sự biến hóa của âm, dương. Âm mà tới cực điểm thì thành dương, dương mà tới cực điểm thì trở thành âm. Vì vậy, con người sinh ra là dương, chết đi là âm, cũng đồng một đạo lý đó.

Chúng ta gọi mình là “con người”; nhưng lúc ban đầu nếu gọi con người là “con gà,” thì chữ “gà” đó gọi quen rồi sẽ không ai cho là kỳ quái nữa. Cũng như đặt tên một đứa bé là “chó con”; khi nó lớn lên rồi, nếu ai gọi “chó con” thì nó biết đó là gọi tên nó. Ðó chỉ là một cái tên, và chỉ là cái tên giả thôi. Người họ Trương thì nói mình là họ Trương. Hỏi anh ta vì sao họ là Trương; thì đáp rằng bởi vì cha họ là Trương. Hỏi ông nội họ là gì; thì đáp rằng cũng họ Trương. Lại hỏi ông cố, ông tằng, ông tổ họ là gì, ở đâu lại; truy cho tận cùng thì anh chàng đó cũng không biết được tổ tiên của mình là họ gì nữa, bởi vì chỉ là cái tên giả mà thôi!

Do đó, đừng nên chấp trước, đừng nói rằng tôi như thế nọ hoặc tôi như thế kia. Bởi vì nói gì rồi cũng có cái “tôi” trong đó, tức là có lòng ích kỷ. Ðã có ích kỷ thì có phiền não. Nếu như không có cái “tôi” thì không có lòng ích kỷ, thế thì còn có gì phiền hà đâu?

Con người vì sao mà nóng giận? Là vì cho rằng người khác đối với mình không tốt, khinh mình, xử tệ với mình, rồi sinh ra nóng giận. Nhưng nếu họ làm gì có lợi cho mình thì mình lại vui vẻ, sung sướng. Ðó đều là bị vô minh làm cho mình động tâm vậy!

76/. ĂN THỊT LÀ NGUỒN GỐC CỦA TAI KIẾP!

(Vạn Phật Thành ngày 19 tháng 9 năm 1982)

Phật Giáo có ba thời đại là Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp. Ðó là do nghiệp báo của chúng sinh chiêu cảm mà ra.

Ở thời Chánh Pháp, con người được phước báo rất lớn, rất dầy, và trí huệ cũng rất cao. Ở mặt đất thì nước giống như sữa vậy, rất bổ dưỡng, và nơi nào nước cũng rất tốt. Tới thời Tượng Pháp thì nước uống mất đi chất bổ dưỡng. Hiện tại thời Mạt Pháp thì nước không còn chất bổ nữa, trái lại trộn lẫn đủ thứ chất độc. Có người nói: “Chúng tôi uống nước đã có bỏ thuốc khử độc rồi.” Tuy vậy nước vẫn còn độc, không cách gì trừ hết được.

Trên thế giới, hiện giờ chất độc càng ngày càng gia tăng, khiến cho không khí bị ô nhiễm. Vì người ta dùng chất độc quá nhiều nên độc tố thấm dần vào thân người, rồi trải qua sự biến hóa trong cơ thể, khi mình thở ra thì chất độc đó lại trở ngược về trong không khí. Hiện tại trong hư không đầy dẫy độc khí.

Chúng ta biết bom nguyên tử, bom khinh khí là thứ tối nguy hiểm, nhưng những thứ đó còn thua độc khí do miệng mình phóng ra. Bởi vậy thế giới này càng ngày càng trở nên vô cùng nguy hiểm.

Vì bị độc khí đó xông ướp nên mỗi ngày con người giống như “sống trong cơn say, chết trong giấc mộng” vậy. Ăn uống, cờ bạc, rượu chè, lừa bịp, trộm cắp, không có chuyện xấu xa gì mà họ không biết làm. Ðó là tình trạng độc hại vô cùng, hết sức nguy hiểm vậy.

Bây giờ muốn thế giới tiêu hết chất độc thì phải có biện pháp gì? Tức là phải ăn chay, đừng ăn thịt! Ăn chay thì chất độc sẽ giảm bớt đi. Nếu muốn thế giới này hoàn toàn hết độc thì mọi người đừng ăn thịt, chỉ ăn chay. Bởi vì trong thịt có chất độc, mà chất độc này lại rất vi tế, nên dù ăn vào mình cũng không nhận biết được là có chất độc. Song, từ từ mình sẽ trúng phải chất độc của thịt, lợi hại đến độ không có thứ thuốc nào có thể cứu nổi, bởi vì trong thịt chất chứa sự oán hận rất sâu dày. Cho nên người xưa nói rằng:

“Thiên bách niên lai oản lý canh,
Oán thâm tự hải hận nan bình.
Dục tri thế thượng đao binh kiếp,
Thả thính đồ môn dạ bán thanh.”

Dịch là:

“Ngàn năm oán hận ngập bát canh,
Oán sâu như biển, hận khó tan.
Muốn biết vì sao có chiến tranh,
Hãy nghe lò thịt, lúc nửa đêm!”

Miếng thịt trong tô canh tuy nhỏ, nhưng thật sự trong đó chất chứa sự thù hằn sâu như biển cả vậy. Người đập lộn với người, nhà này đánh nhau với nhà kia, nước này xâu xé nước kia, địa cầu này tiêu hủy địa cầu khác; gây nên chiến tranh như vậy đều là do ăn thịt mà ra. Tất cả những tai nạn đao binh, thủy hỏa, tật dịch lưu hành, đều là do ăn thịt mà thành. Nếu muốn hiểu rõ đạo lý thì lúc nửa đêm hãy tới nhà người đồ tể mà lắng nghe: lắng nghe tiếng rống đau đớn của con heo bị thọc huyết, lắng nghe tiếng khóc uất ức của con trâu hay con dê bị giết.

Tóm lại, con vật nào bị giết thì con đó khóc la rên siết. Lúc khóc la chính là lúc mà nó phóng độc khí ra. Một mặt phóng độc khí, một mặt khóc than nói rằng: “Tốt lắm! Bây giờ tụi bây giết tao, trong tương lai tao sẽ giết lại tụi bây. Nợ này chẳng bao giờ phủi sạch được! Tụi bây giết tao, tao sẽ giết lại tụi bây, tụi bây ăn thịt tao, tao sẽ ăn thịt lại tụi bây!” Do lòng oán hờn, thù hận chất chứa như vậy nên mới tạo thành đủ thứ tai họa.

Nếu con người ăn chay trường thì những oan nghiệt đó sẽ tiêu trừ, bao nhiêu đao gươm sẽ trở thành nhung gấm, sự hung hiểm sẽ trở thành kiết tường. Vì thế, mình phải tìm cách cứu vãn thời Mạt Pháp sắp tới đây!

DIỄN GIẢI
(1) Ðây là trạng thái bất động, không dấy khởi vọng niệm của bản tánh (như hồ nước phẳng lặng, không gợn sóng). Song, nơi bản tánh bất động ấy luôn bừng hiện trí huệ chiếu soi, quán sát mọi sự (như sự phản chiếu của mặt nước).

(2) Tam giới: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới là ba cõi phàm của những chúng sinh chưa thành Thánh cư ngụ.

(3) Tám tướng thành Ðạo: 1. _ Phật ở trời Ðâu Suất giáng sanh. 2._ Trụ thai. 3._ Xuất thai. 4._ Xuất gia. 5._ Hàng phục ma quân. 6._ Thành đạo. 7._ Chuyển Pháp luân. 8._ Nhập Niết-Bàn.

(4) 5 vị đệ tử đầu tiên của Phật là: 1._ Kiều Trần Như, 2._ Mã Thắng, 3._ Bạt Ðề, 4._ Thập Lực Ca Diếp, 5._ Ma Ha Nam Câu Lợi.

(5) Thủy Quả Hòa Thượng là tên gọi thân mật của Hòa Thượng Quảng Khâm (1892 – 1986). Ngài là vị Thánh Tăng của thế kỷ nầy. Bình sanh sống đạm bạc, khổ hạnh, thường chỉ dùng trái cây độ nhật. Ngài thường nhập định, song lấy pháp niệm Phật giáo hóa chúng sinh. Trước khi nhập tịch mấy ngày, Ngài triệu tập đệ tử để phân phú, giải đáp thắc mắc. Giây phút cuối cùng khi lâm chung, Ngài vẫn an nhiên sáng suốt, thốt ra lời bất hủ: “không có đến, cũng chẳng có đi” (bất lai diệc bất khứ) rồi mới nhắm mắt nhập tịch.

(6) Hận: lòng tức giận, thù hằn; cũng giống như ngọn lửa cháy phừng phực trong lòng.

— Oán: lòng oán ghét. Khi ghét ai thì mình không muốn nói chuyện với y, luôn nghĩ xấu về y, luôn tìm lỗi lầm của y, và sẵn sàng trách móc khi có cơ hội.

–Não: rầu rĩ, tự đau khổ với lòng; khiến cách suy nghĩ và nói năng đầy dẫy tiêu cực, âm khí, không ai muốn gần gũi.

–Nộ: lòng giận dữ hiển hiện ra ngoài mặt, như ngọn lửa cháy rừng, không có gì có thể dập tắt nổi.

–Phiền: lòng đầy phiền toái, nóng bức, thúc giục, không yên ổn, cứ muốn làm điều nghịch lại với chân lý./.

Trang: 1 2 3 4 5 6 7