Khai Thị
Quyển II
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Trường Ðại Học Pháp Giới
Vạn Phật Thánh Thành Talmage, California

 

51/. ÐAO TRÀNG MỚI LẬP

(Vạn Phật Thành ngày 15 tháng 4 năm 1983)

Vạn Phật Thành mới được thành lập, mọi sự đều chưa ổn định, nên có những chuyện tạp loạn, không trật tự. Người ngoài tới đây trú ngụ thì hoàn toàn không hiểu rõ quy củ, nên nhiều chuyện làm chưa được viên mãn. Trong giai đoạn này, kẻ tới Vạn Phật Thành thì có tốt có xấu, rắn rồng lẫn lộn. Kỳ thật, kẻ xấu là cái gương cho người tốt, người tốt cũng là cái gương cho kẻ xấu, cho nên hai bên làm gương cho nhau, hỗ tương thuyết pháp, hỗ tương soi chiếu nhau. Con người như vậy, Phật, Bồ Tát, Hộ Pháp cũng thế, và thiên ma ngoại đạo cũng vậy.

Ởấ đây đạo tràng mới thành lập, có rất nhiều Hộ Pháp. Vì có lẽ từ xưa chưa hề làm qua công chuyện hộ pháp, hoặc vì làm biếng, muốn nghỉ xả hơi, cho nên gặp chuyện rắc rối xảy ra thì họ không biết làm sao giải quyết cho êm đẹp. Cũng giống như người mới tới Vạn Phật Thành, gặp chuyện gì cũng không biết làm sao xử lý. Do đó có rất nhiều thiên ma, yêu quái muốn nhân cơ hội tới đây thừa dịp “nước đục thả câu” để trục lợi.

Tuy nhiên không viên mãn là sự bắt đầu của viên mãn. Những người sống ở Vạn Phật Thành tuyệt đối cần phải có đức hạnh; không có đức hạnh thì không thể nào ở đây được vì họ sẽ cảm thấy không tự do, tự tại. Kẻ có đức hạnh thì thấy thân tâm rất an lạc, rất sung sướng, tự tại. Do nơi cảm giác đó mà có thể biết được Vạn Phật Thành là đạo tràng như thế nào. Người có đức hạnh thì Phật Bồ Tát, Hộ Pháp hết sức hoan hỷ; song bọn ma quỷ lại không ưa. Chúng muốn làm cho những người đức hạnh này phải bỏ đi; do đó chúng dùng mọi thứ ma thông, yêu thuật huyễn hoặc, để làm cho họ phải loạn tâm. Thậm chí có những thứ súc sanh ngu dốt, những thứ côn trùng, cũng tới Vạn Phật Thành để thi triển bản lĩnh, tác yêu tác quái.

Trên đời, có tốt thì có xấu, cho nên chúng ta phải biết:

“Trạch thiện nhi tùng,

Bất thiện nhi cải.

Thị Ðạo tắc tiến,

Phi Ðạo tắc thối.”

Dịch là:
“Lựa tốt thì theo,

Không tốt thì sửa.

Là Ðạo thì tiến tới,

Không phải là Ðạo thì thối lui.”

Cần có chánh tri, chánh kiến nghĩa là cần có sự hiểu biết đúng đắn, có quan niệm đúng đắn. Thế nào là hiểu biết và quan niệm đúng đắn? Tức là không tranh, không tham, không truy cầu, không ích kỷ, không làm điều tự lợi, mà cũng chẳng dối trá!

Tới Vạn Phật Thành mà còn cái ngã to tướng, cho rằng mình hay mình giỏi, thì các vị đã lầm lẫn rồi! Ở Vạn Phật Thành, nếu là rồng thì phải cuốn mình lại, nếu là cọp thì phải nằm phục xuống; tất cả đều phải nghiêm thủ quy luật, không có ngoại lệ. Nếu các vị nhận thức được đức hạnh và thiện căn của mình thì đừng lãng phí, đừng vào núi vàng mà chẳng biết rồi tay không rời núi!

Vạn Phật Thành và những đạo tràng khác chẳng có gì khác nhau. Chỉ có một điểm không giống nhau là Vạn Phật Thành không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không nói dối!

52/. BỐN ÐIỀU RĂN DẠY VỀ TÁNH THANH TỊNH CHÂN THẬT, BẤT HƯ

(Vạn Phật Thành ngày 17 tháng 4 năm 1983)

Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối) trong Kinh Lăng Nghiêm là: “Ðoạn dâm, Ðoạn sát, Ðoạn thâu, Ðoạn vọng” (dứt dâm dục, dứt giết chóc, dứt trộm cắp, dứt nói dối). Bốn điều đó tương quan rất chặt chẽ với nhau. Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới thâu, tức là ăn cắp, và giới vọng ngữ tức là nói láo. Bởi vì phạm giới dâm thì sát, đạo, vọng, đều đã bao gồm trong đó rồi, cho nên tuy chia làm bốn, nhưng hợp lại mà nói thì là nhất thể!

Phật thật là vô cùng từ bi, hết lòng hết dạ dạy bảo chúng ta hết sức rõ ràng Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh. Tuy nói rõ như vậy, nhưng có người lại không tin. Không phải chỉ có một số người không tin mà thôi, trong đó, những kẻ không tin lại là những học giả, những vị giáo sư, những kẻ xuất gia không giữ giới luật. Những người đó không có niềm tin nên không có cách gì cải thiện, cũng không cách gì để bài trừ cái gốc tà kiến của họ được; bởi vì những điều hiểu biết sai lầm của họ đã chằng chịt, thâm căn cố đế, làm cho họ mất lòng tin và công nhiên cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo!

Trong các bộ kinh mà Phật nói ra, Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh hết sức trọng yếu. Dù cho các vị học giả, giáo sư, những kẻ không giữ giới luật, cho đến những kẻ dùng đủ thứ thần thông, hiện ra mười tám phép biến hóa, tới nói với tôi rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả đi nữa, thì tôi cũng không tin được! Tại vì sao? Bởi vì Kinh Lăng Nghiêm dạy đạo lý hết sức chân chính, chỉ căn bịnh của chúng sinh hết sức rõ ràng; đó là “vô minh tội nghiệp.” Kinh này chính là “đối bịnh cho thuốc,” là lời khuyên răn rõ ràng nhất. Song người ta không ai muốn uống thuốc đắng, mặc dù thuốc hay thì quá đắng, khó mà chịu nổi. Nên dù có bậc thầy thuốc giỏi đưa toa thuốc ra thì họ cũng vất đi không dùng, nói rằng thuốc chẳng có hiệu lực gì, rằng thứ thuốc này chỉ để lừa người ta. Như vậy đúng là tự mình lừa mình và lừa người khác, tự mình làm hại mình rồi hại người khác vậy!

Bởi vậy cho nên những kẻ không hiểu biết cứ chạy theo những người này, nói rằng có những vị học giả danh tiếng như vầy, có những nhà giáo sư nổi tiếng như kia, hoặc có những vị Ðại Pháp Sư có tên tuổi như nọ nói rằng Kinh Lăng Nghiêm này là giả; rồi họ chạy theo những người đó như những kẻ đui đi theo những người mù, cùng nhau kẻ xướng người họa. Người ta nói làm sao thì họ nói làm vậy, do đó rốt cuộc tà thuyết đầy dẫy.

Nếu thật sự đúng như vậy, tức Kinh Lăng Nghiêm là giả, thì các vị trong Phật Giáo không cần phải giữ giới luật làm gì, cũng không cần nghe Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh này làm gì, và cũng không cần biết đến Năm Mươi Thứ Ấm Ma là ra sao, tất cả mọi thứ đều nhất tề vất bỏ hết! Các vị thử nghĩ coi, loại người như vậy thật là ác độc vô cùng; nếu những người như thế đó mà không bị xuống Ðịa ngục Cắt Lưỡi thì thật là không còn công lý gì nữa!

Mới đây tôi có nói đến một em bé bị bịnh thần kinh (em bé này có bịnh tâm lý biến thái, hành vi quái dị, toàn thân đều có bịnh). Ðứa bé này sở dĩ bị bịnh là vì kiếp trước đã từng hủy báng kinh điển Ðại Thừa, tạo nên tội nghiệp đọa địa ngục Vô Gián, bây giờ sinh ra làm người phải chịu quả báo như vậy. Ðó cũng là vì loài người chúng ta không hiểu đạo lý, lại còn tự cho mình là hay là giỏi, rồi công nhiên tạo ra đủ thứ tội nghiệp, còn trợn tròn mắt mà nói láo. Hành động như vậy thật là mất hết lương tri, lương năng, làm cho bản hữu trí huệ của mình bị hủy diệt đi; thật là đáng thương thay!

Bởi những kẻ hủy báng kinh điển Ðại Thừa đó đã dùng tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý tạo ra đủ thứ ác nghiệp, nên khi họ sinh làm người thì thành những kẻ mắc bịnh tâm lý biến thái, trở nên vô tri, vô giác, đến khi thọ ác báo rồi, lại còn cho rằng mình là hay là giỏi lắm!

Chúng ta không nên dùng cái “thông minh giả” của mình mà hủy báng lời Phật. Nào là những kẻ rất có tiếng tăm, nào là những nhà học giả trứ danh, nào là những vị giáo sư uyên bác, nào là các vị Pháp Sư nổi tiếng, một khi họ nói ra lời hủy báng Phật Pháp thì vô hình trung, lời nói của họ sẽ ảnh hưởng đến trăm ngàn vạn ức, vô lượng, vô biên người khác, khiến cho những người đó đánh mất đi lòng tin chơn chính. Cho nên các vị thấy, tạo ra tội nghiệp như vậy không phải là tai hại vô cùng sao? Trăm ngàn kiếp về sau, họ sẽ đầu thai làm kẻ thọ quả báo, trở thành những người câm! Bởi vì họ làm hại tri kiến của kẻ khác, nói lên những lời khiến kẻ khác hiểu lầm đạo lý, như thế thật là vô cùng nguy hại!

Các vị hãy nghĩ coi, vì sao những người đó cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo? Là bởi vì họ không thể làm được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh: Không dâm dục thì họ không thể làm được, không sát sinh thì họ cũng chẳng làm nổi! Không trộm cắp thì ở trên bề mặt có thể nói rằng họ không trộm cắp, nhưng thực sự có rất nhiều học giả, giáo sư thường lấy trộm văn chương của học sinh hay của kẻ khác rồi vá víu lại để làm của mình; nếu đem vật sở hữu của kẻ khác mà làm của mình thì đó chính là trộm cắp vậy! Nếu một ngày nào mà họ nói những lời lừa dối học sinh thì ngày đó họ đã nói láo rồi! Ðương nhiên không phải tất cả những vị học giả hay giáo sư đều như vậy, song ở trong hàng ngũ những người đạo đức luôn luôn có vô số những kẻ gian dối tác hại.

Bởi vì không làm được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh đó nên họ sợ hãi, và không thể chấp nhận lý luận trong Kinh được. Nếu họ chấp nhận lý luận của Kinh thì họ không thể tồn tại, và dĩ nhiên họ sẽ mất đi địa vị của họ. Nhưng họ lại không muốn như vậy nên mới làm trái với lương tâm, mới nói rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả. Khi có ý nghĩ như vậy là họ đã phạm tội lớn tày trời:

“Khoát đạt không,

Bát nhân quả,

Mãng mãng đãng đãng, Chiêu ương họa.”

Nghĩa là:

“Phủ nhận hết mọi thứ,

Bác bỏ luật nhân quả,

Thì tự chuốc lấy tai ương.”

Trong tương lai họ sẽ thọ lãnh quả báo đọa địa ngục Vô Gián, lúc đó họ có hối lỗi thì không còn kịp nữa!

53/. NĂM MƯƠI THỨ ẤM MA TRONG KINH LĂNG NGHIÊM

Hiện tại chúng ta đang nghiên cứu Năm Mươi Thứ Ấm Ma, nhưng sợ rằng có đến năm trăm loại Ấm Ma sẽ xuất hiện cả đây! Cho nên các vị đừng mở cửa để hoan nghinh chúng làm loạn! Tuy nói là ma, song nhìn bề trái của nó thì chúng đến để giúp đỡ sự tu Ðạo của mình, xem chí nguyện của mình kiên cố hay chẳng kiên cố. Nếu kiên cố thì dù ngàn con ma tới mình cũng không thay đổi lập trường, vạn con ma tới mình cũng không thối lui, cái gì mình cũng không sợ cả! Nếu mình không có sở cầu, thì tức là: “Ðáo vô cầu xứ, tiện vô ưu.” (Khi lòng không mong cầu, tâm sẽ hết âu lo.)

“Vô sở cầu” tức là không có điều gì sợ hãi. Sợ cái gì? Cũng giống như người sợ quỷ, nghĩ rằng quỷ hết sức ghê gớm, xấu xí. Người nào cũng nghĩ rằng người chết thì biến thành quỷ, nên họ sợ. Nhưng không ai sợ thần. Ông thần Kim Giáp là kẻ hết sức lợi hại mà chẳng ai sợ ông ta!

Khổng Tử từng nói rằng: “Kính quỷ thần nhi viễn chi.” (Kính quỷ thần nhưng lánh xa họ.) Song, mình đừng sợ quỷ cũng đừng sợ thần. Mình cung kính họ nhưng không cần phải thân cận với họ.

Ma là thứ đến thử thách người tu Ðạo nên các vị đừng có lòng khủng khiếp, lo sợ. Nếu mình sợ sệt, thì dù không muốn kêu ma lại, nó cũng sẽ tới. Nếu mình không sợ, thì nó muốn lại cũng không được. Ðó là mật quyết vô cùng trọng yếu: Ðừng sợ hãi! Khi mình không khiếp nhược, không lo sợ, thì tự nhiên mình sẽ chánh. “Chánh” thì có thể hàng phục mọi thứ, vì lẽ “tà bất thắng chánh.” Ma sợ nhất bốn chữ: Chánh Ðại Quang Minh. Nếu mình mà “chánh đại quang minh” thì ma sẽ nép giữ quy củ, chúng sẽ hướng về mình mà đảnh lễ.

Bây giờ hãy nghiên cứu cảnh giới Năm Mươi Thứ Ấm Ma. Năm mươi thứ đó tức là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Ðây bất quá là nói sơ lược cốt tủy mà thôi. Kể tường tận thì cảnh giới của chúng thật vô số, không thể kể hết được, nên Phật chỉ nói có năm mươi thứ là để giúp người đời hiểu và quán sát dễ dàng. Khi sáng tỏ được đạo lý của Năm Mươi Thứ Ấm Ma thì mình sẽ không bị cảnh giới đó làm dao động, đó là điều hết sức quan trọng.

Nếu muốn đừng bị cảnh giới làm dao động thì đầu tiên mình phải trì giới. Giới là căn bản của tất cả các Ðịnh; Ðịnh là căn bản của Trí Huệ; Huệ là căn bản để thành Phật. Nếu muốn thành Phật thì nhất định phải tu Giới, Ðịnh, Huệ. Tu mà không tương hợp với Giới, Ðịnh, Huệ tức là mình tìm cầu pháp ở bên ngoài tâm, tức là đã “hướng ngoại truy cầu”! Khi có Giới lực thì mình sẽ đắc Ðịnh lực; có định lực thì mình sẽ có Huệ lực, vì chúng là tương sinh. Giới sinh Ðịnh, Ðịnh phát Huệ, Huệ thành Phật; thiếu một thì chẳng thành được.

Do đó, hiện tại mình phải dùng thái độ khách quan mà nghiên cứu, đừng có thái độ chủ quan. Khi có thái độ chủ quan thì rất dễ có sự thiên lệch. Mình cần phải dùng Trạch Pháp Nhãn (con mắt biết nhận định chân lý) mà quán sát, dùng Trí Diệu Quán Sát mà nghiên cứu, nhưng đừng chấp trước ở điều mình quán sát. Trí Diệu Quán Sát cũng giống như cái gương vậy, chẳng khác gì mấy với Trí Ðại Viên Kính. Trí Ðại Viên Kính thì chẳng dao động mà có thể hiện ra tướng thật của mọi sự; còn Trí Diệu Quán Sát thì có năng lực quán sát mọi vật khiến mình biết được mọi vật một cách rõ ràng.

Phải dùng thái độ khách quan, không thiên lệch, thì mới nhận thức được cảnh giới một cách rõ ràng. Các vị mà nhận thức thấu đáo được cảnh giới thì sẽ không bị nó làm cho mê loạn!

54/. LĂNG NGHIÊM ÐẠI ÐỊNH

Vì sao Chú Lăng Nghiêm có nhiều điều tốt đẹp như vậy? Bởi vì niệm Chú Lăng Nghiêm thì có thể nhập Lăng Nghiêm Ðại Ðịnh. Lăng Nghiêm Ðại Ðịnh này không phải là định mà cũng chẳng phải là không định, song không lúc nào là chẳng định (vô định, vô bất định, vô hữu bất định thời). Cho nên nói rằng: “Na-già thường tại Ðịnh, Vô hữu bất định thời.” (Na-già, tức là rồng, lúc nào cũng ở trong Ðịnh, không bao giờ chẳng định.)

Lăng Nghiêm Ðịnh là định hết sức kiên cố, phát sinh ra vô lượng trí huệ, các thứ thiên ma, ngoại đạo không thể nào phá hoại nổi.

Nhưng nhập Ðịnh để làm gì? Ví như tới Disneyland vậy, nơi đó có đủ trò vui, đồng thời cũng có đủ trò kinh dị, mình sẽ thấy những điều chưa từng thấy, nghe những điều chưa từng nghe. Cũng vậy, khi nhập Ðịnh, mình sẽ trải qua những cảnh giới chưa từng thấy hay nghe qua. Nếu như trong Ðịnh mà “như như bất động, liễu liễu thường minh,” không bị cảnh giới làm cho dao động, thì mình có thể xoay chuyển tất cả cảnh giới. Ðó chính là sự kỳ diệu khi nhập Lăng Nghiêm Ðịnh.

Không có Lăng Nghiêm Ðịnh thì mình sẽ tùy theo cảnh giới mà xoay chuyển, cái gì lại thì mình chạy theo cái đó, luôn luôn bị cảnh giới dắt dẫn. Khi mình có Lăng Nghiêm Ðịnh này thì mình không còn bị cảnh giới xoay chuyển nữa. Mắt mình nhìn hình sắc mà bên trong tâm không có rung động; tai mình nghe tiếng nhưng lòng không bị lôi cuốn theo. Khi thấy việc gì xảy ra mà mình tỉnh giác thì sẽ ra khỏi vòng phiền trược; nhưng nếu gặp việc mà mê muội, không tỉnh giác, thì mình sẽ rớt vào vòng luân hồi.

Ở trong Ðịnh mình có thể phát sinh vô lượng trí huệ, cho nên nói rằng Ðịnh sinh Huệ. Nếu không nhập Ðịnh thì không thể khai được trí huệ, cũng giống như chưa tới Disneyland thì không biết trong đó có gì. Cho nên có một vị cư sĩ mời tôi đi Disneyland chơi, muốn tôi coi đây coi đó; họ cho rằng tôi chưa từng thấy qua những chuyện đó bao giờ. Thật ra những hình sắc hay tất cả những đồ vật đều không có gì đặc biệt cả. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay đã thấy qua không biết bao nhiêu thứ, không biết bao nhiêu chuyện nữa, bất quá mình đã nhìn qua rồi quên mất đi. Nếu như mình nhớ được một cách rõ ràng thì không cần phải coi lại làm gì nữa.

55/. ÐỪNG HAM THẦN THÔNG DỊ ÐOAN

(Vạn Phật Thành ngày 19 tháng 4 năm 1983)

Trên thế giới này có nhiều chuyện kỳ quái, nhiều đến độ không thể nói hết được. Vì sao mà có đủ sự việc kỳ quái như vậy? Bởi vì tâm lý con người “hiếu kỳ,” thích sự kỳ quái.

Con người có lòng hiếu kỳ nên thế giới mới có những việc kỳ quái xuất hiện. Những thứ đó một khi xuất hiện thì mê hoặc tâm người, khiến mình không còn làm chủ chính mình nữa. Một khi đã không có chủ, gia đình và quốc gia cũng sẽ rối loạn. Ðã loạn, thì những quỷ quái đó mặc tình hiện thần thông, làm cho con người điên điên đảo đảo, chạy bên đông chạy bên tây, đi tìm chuyện kỳ diệu, thần thông, linh nghiệm. Ðó đều là bị cảnh giới làm xoay chuyển rồi vậy.

Tại sao mình bị cảnh giới xoay chuyển? Là bởi vì có tâm hiếu kỳ. Tâm hiếu kỳ này vốn là tâm tham. Những chuyện kỳ quái phát sinh trên trần gian này, nếu mình nghiên cứu sâu xa tận gốc rễ của nó, thì cũng do lòng tham này tạo ra. Nếu không có lòng tham thì không cần thiết phải hiện ra những thứ kỳ quái, làm ra vẻ đặc biệt kỳ quái để cho người ta nhìn mình là linh nghiệm như vậy, tốt đẹp như vậy, khác thường như vậy. Bởi vì con người có tâm tham nên bị những thứ kỳ quái đó hấp dẫn, lôi cuốn.

Những điều kỳ quái khác thường đó đều là những việc không chánh đáng, đều thuộc về ma nghiệp. Những việc chánh đáng là nghiệp của Phật. Cho nên hiện tại có rất nhiều người mất đi chánh tri chánh kiến, cái biết cái nhìn đúng đắn. Bạn giảng Pháp chân chánh thì họ nghe không lọt tai, giảng cách nào họ cũng không chấp nhận, thậm chí lời vào tai bên trái thì chạy ra tai bên phải. Song nếu bạn nói những điều kỳ quái, đặc biệt thì họ vĩnh viễn nhớ không bao giờ quên, đó chứng minh là con người bị lòng tham tác quái!

Vì sao mà họ không nhớ được điều chân chánh? Bởi vì họ cảm thấy không có gì lợi cho họ cả. Kỳ thật điều chân chánh mới thật là lợi ích. Những người trên thế gian này đa số nhận cái giả mà không chịu nhận cái chân thật, nhận kẻ cướp làm con của mình. Vì vậy khi mình nói điều ngay thẳng, chân thật thì họ chẳng muốn nghe, nhưng khi nói những điều nịnh hót thì họ hết sức vui vẻ. Thật là: “Trung ngôn nghịch nhĩ, lợi ư hành, Lương dược khổ khẩu, lợi ư bịnh.” (Lời trung thật tuy khó nghe nhưng lợi cho việc làm, Thuốc tốt tuy đắng nhưng trị lành được bịnh.)

Ða số người đời đều không muốn tiếp thọ lời trung ngôn, tức là lời nói ngay thẳng, cũng như không muốn uống thứ thuốc tốt, nhưng rất là đắng. Nếu mà đưa cho họ thuốc đắng thì họ nhăn mặt làm ra vẻ khó chịu, nói rằng: “Ô! Thuốc này khó uống quá”. Nhưng thuốc khó uống như vậy thì bịnh mới lành được!

Thời đại bây giờ người ta là vậy đó, giảng chuyện của Phật, của Bồ Tát thì không ai muốn nghe cả; nhưng nếu kể chuyện yêu ma quỷ quái thì họ lại thích nghe. Thí dụ như nghe kể chuyện trai gái không giữ quy củ, sống hết sức phóng túng, thì người ta lại thích thú bởi vì chính họ cũng không muốn giữ quy củ. Ðó là những ý tưởng hết sức hèn hạ, hết sức tệ hại.

Cho nên, có những người tới Vạn Phật Thành rồi mà không ở lâu được là vì sao? Là vì họ không có tinh thần hy sinh, không có tư tưởng chân chính vì Pháp quên mình. Người chân chính vì Pháp quên mình thì dù đuổi họ, họ cũng không đi; đánh chưởi họ, họ cũng chẳng chạy. Họ cảm thấy rằng đây qủa thật là chỗ Chánh Pháp trụ thế, họ muốn tiếp cận với Chánh Pháp!

Chúng ta ở đây đang nghiên cứu Năm Mươi Thứ Ấm Ma, đối với thời đại này thì hết sức hữu dụng. Chúng ta muốn hoằng dương Phật Pháp thì phải có tinh thần đại hy sinh, đừng tham lợi ích tiện nghi gì cả. Hễ có kẻ cúng dường phẩm vật mà mắt mình sáng rực, miệng mình cười toe toét, thì mình thật là chẳng ra gì!

56/. MUỐN ÐỘ CHÚNG SINH THÌ TRƯỚC HẾT MÌNH ÐỪNG ĂN THỊT

Chúng sinh là do nhân duyên hòa hợp mà thành, từ mười hai nhân duyên mà biến thành người. Từ con kiến cho đến những thứ vi khuẩn đều là chúng sinh. Chúng ta không cần phải đi ra bên ngoài mà tìm chúng sinh, ngay trong tự tánh của mình cũng có vô lượng chúng sinh.

Khoa học hiện tại phát triển đã chứng minh rằng trong thân thể ngũ tạng lục phủ con người có vô số loại vi khuẩn và vi sinh trùng; như vậy có nghiã là có vô lượng chúng sinh. Khi con người ăn thịt loại động vật nào, thí dụ như heo, bò hay cá, thì trong đó có vô số loại vi khuẩn. Con người ăn loại thịt đó vào trong bụng thì tự nhiên sẽ có chủng tử của những thứ vi khuẩn đó; ăn càng nhiều thì mình cùng với những thứ vi khuẩn đó kết làm quyến thuộc càng mạnh, kết duyên với nó càng sâu, cho đến chỗ là mình với nó không còn phân ly, chia cách nữa!

Ăn thịt heo càng nhiều thì mình rất có cơ hội để biến thành heo, ăn thịt bò càng nhiều thì mình rất có thể sinh làm bò. Nếu mà ăn gạo càng nhiều thì mình có thể biến thành gạo chăng? Gạo là loại vô tình, còn chúng sinh là loài hữu tình. Nếu ăn loài hữu tình thì mình có thể trở thành những thứ chúng sinh hữu tình. Nếu ăn những loại vô tình (thực vật) thì mình có thể giúp cho sự phát triển của Pháp thân, Huệ mạng. Nếu con người không ăn thịt chúng sinh nào thì tức là mình độ cho chúng sinh đó, khiến chúng vượt qua khổ hải, tới bờ Niết Bàn. Con người nếu hiểu được đạo lý này thì không nên ăn thịt chúng sinh.

Khi xưa, có kẻ vì ăn thịt chúng sinh nên khi chết rồi thì bị đọa lạc xuống gặp Diêm La Vương. Lúc còn sống ông ta ăn qua những loại thịt của chúng sinh nào, thì những thứ đó bây giờ đều tới để đòi nợ. Người ăn thịt tự biện hộ như vầy: “Tôi tuy là ăn thịt nhưng tội không phải thuộc về tôi mà thuộc về người bán thịt mới đúng!”

Bấy giờ vua Diêm La mới truyền lịnh kêu người bán thịt lại; người bán thịt cũng tự biện hộ rằng: “Tôi sở dĩ mà bán thịt là vì có người mua thịt, nếu không có người mua thì bán thịt làm gì?”

Người bán thịt với người ăn thịt, hai người mới tranh luận với nhau, sau cùng thì hai người đó đổ trách nhiệm lên anh chàng đồ tể.

Diêm La Vương lại kêu anh chàng đồ tể vào. Anh đồ tể này cũng tự biện hộ rằng: “Tôi đúng là đồ tể, nhưng vì có người mua cũng như có người ăn thì tôi mới làm nghề đồ tể. Nếu chẳng có người mua cũng chẳng có người ăn thì tôi cũng chẳng làm nghề này được!”

Vì thế, mọi người đều nói lên cái lý của mình, lý lẽ mà họ nói ra đều là tạo tội nghiệp cả. Kết quả, Diêm La Vương phán rằng người ăn thịt phải bồi thường nợ máu. Cho nên, chúng ta ăn thịt một loài chúng sinh nào là kết oán với loài chúng sinh đó. Có bài thơ rằng:

“Nhục” tự lý biên lưỡng cá nhân,

Lý biên nhân thực ngoại biên nhân,

Chúng sinh hoàn thực chúng sinh nhục

Tử tế tư lượng nhân thực nhân.”

Nghiã là:

“Ở trong chữ “nhục” có hai người,

Người bên trong ăn người bên ngoài,

Chính chúng sinh ăn thịt chúng sinh,

Nghĩ cho kỹ là người ăn người!”

Trong Kinh Lăng Nghiêm có chép: “Dương tử vi nhân, nhân tử vi dương.” (Dê chết trở làm người, người chết trở làm dê.) Con dê có thể làm người, thì con heo cũng có thể làm người. Nếu chưa có Thiên Nhãn Thông thì mình không quán sát được nhân duyên đó nên cho rằng heo là heo, dê là dê. Con người mà ăn nhiều thịt chúng sinh thì bản hữu trí huệ của họ bị che lấp, mất linh tánh và biến thành ngu si.

Bởi vậy muốn độ chúng sinh thì trước tiên đừng nên ăn thịt! Con người muốn độ chúng sinh thì phải độ tự tánh của chúng sinh, độ sinh thì phải ly tướng. Không có chấp trước thì mới thật sự là độ sinh vậy!

57/. ÍT PHIỀN NÃO, ÍT TƯ DỤC

(Vạn Phật Thành ngày 24 tháng 6 năm 1983)

Người tu Ðạo sợ nhất là có phiền não, cho nên nói rằng:

“Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.”

Ðoạn phiền não là việc rất khẩn cấp, chuyện gì tới mà mình không sinh phiền não thì đó là có định lực. Không sinh phiền não tức là không có tư dục. Tư dục là gốc sinh phiền não, sinh ra đủ thứ ngu si và do đó sinh ra đủ thứ bịnh tật.

Không phiền não chẳng phải là vì không ai làm phiền nên mình không có phiền não; mà là có người tới nhiễu loạn, phiền hà, trở ngại, đánh mắng, chưởi bới, nhưng mình không sinh phiền não. Ðó mới thật là có định lực vậy!

58/. NHÂN ÐỊA BẤT CHÂN, QUẢ THỌ KHỔ

(Vạn Phật Thành ngày 8 tháng 7 năm 1983)

Câu “nhân địa bất chân, quả thọ khổ” này rất có ý nghĩa; bởi vì bất luận chuyện gì mình làm, hãy làm chân thật. Nếu không chân thật, chuyên dùng thủ đoạn mánh khóe lừa bịp kẻ khác, thì cũng như bịt tai mà ăn cắp chuông, tự mình lừa mình thôi!

Vô luận là người xuất gia Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, hay tại gia Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, hoặc Lạt Ma, bất luận làm gì nếu có tâm lừa người thì tương lai nhất định sẽ rớt xuống địa ngục. Ở đời mà không chân thật thì sẽ chiêu cảm quả báo quanh co, rắc rối, tương lai sẽ chịu đủ điều khổ.

Ở Vạn Phật Thành, trong mọi thời khắc, mình phải chú ý đến nhân, quả. Ðừng làm điều sai trái với luật nhân quả. Nếu mình biết rõ luật lệ mà còn cố phạm thì nhất định sẽ thọ lãnh quả báo rất nghiêm trọng. Cho nên các vị phải để ý, đừng làm chuyện sai trái với nhân, quả!

59/. NẾU PHẬT GIÁO ÐỒ KHÔNG TRÌ GIỚI TỨC LÀ MẠT PHÁP

(Vạn Phật Thành ngày 10 tháng 6 năm 1983)

Câu đối liễn ngày hôm nay là: “Phật Giáo đồ nhược bất trì giới tức Mạt Pháp”; nghĩa là nếu tín đồ Phật Giáo không trì giới thì tức là Mạt Pháp.

“Phật Giáo đồ” có nghĩa là Tăng Sĩ hay người xuất gia. Phật giảng Pháp, Tăng theo Pháp tu hành rồi truyền cho người khác. Tăng nhất định phải trì Giới, không trì Giới thì đó là Mạt Pháp; nên nói: “Nếu Phật Giáo đồ không trì giới tức là Mạt Pháp.”

Hễ mình tùy tiện nói láo, sát sinh, làm chuyện tà dâm, trộm cắp, uống rượu tức là phạm vào năm giới căn bản, tức là Mạt Pháp. Dù Phật Pháp trụ thế mà mình không trì Giới, thì ngay chính bản thân mình đây đã tạo nên Mạt Pháp. Pháp nhờ vào Tăng mà truyền đạt, song phải cần lấy Giới làm gốc; Giới là nền tảng để thành Phật. Nền tảng này cũng giống như cái móng khi xây nhà. Bây giờ mình xây móng để dựng nhà Phật Pháp, thì chắc chắn phải lấy trì Giới làm bước khởi đầu.

Các vị phải đặc biệt chú ý! Ðừng nên sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói láo, uống rượu. Không phải là mình không muốn làm mà vì bản tính mình không làm. Chẳng phải là do người ta ép buộc, mình mới không làm; mà vì trong thâm tâm mình luôn luôn thật thà tự ý nghiêm trì năm giới căn bản!

Chú thích: Hàng tuần, Hòa Thượng Tuyên Hóa đều có dạy lớp làm đối liễn cho tứ chúng ở Vạn Phật Thành. Nội dung của lớp là Hòa Thượng viết ra một câu, có khi dài 4 chữ, 7 chữ, hoặc nhiều chữ, hoặc một bài thơ, rồi đại chúng căn cứ vào câu ra đề ấy để làm một câu đối lại. Bài trên trích ra từ một trong những lớp dạy làm đối liễn ấy. Xem bài #73.

60/. LÀM NGƯỜI CẦN PHẢI HIẾU THẢO VỚI CHA MẸ

(Vạn Phật Thành ngày 16 tháng 9 năm 1983)

Con người và thú vật khác nhau ở điểm là con người có trí huệ, biết hiếu thảo, biết giữ tục lệ nề nếp, biết quý trọng lễ, nghĩa. Không hiểu quy củ, không biết hiếu thảo với cha mẹ, không hết lòng trung thành với tổ quốc, không biết những điều kiện căn bản làm người, thì mình với ngựa, dê, trâu, bò có khác gì? Nên mình phải chú ý! Nhất là học sinh trong thời đại này càng phải chú ý hơn nữa!

Hiếu thảo với cha mẹ là biết vâng lời cha mẹ và làm cho cha mẹ được vui vẻ, tinh thần được an ổn; chứ không phải là nuôi dưỡng cha mẹ, cho cha mẹ áo quần đẹp để mặc, rồi cho là đã hết lòng hiếu thảo rồi! Không phải như vậy!

Thế nào là trọn vẹn chữ hiếu? Ðầu tiên mình phải biết nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, không chống đối, không làm ngược lại lời cha mẹ. Phải hết sức cung kính nghe theo lời cha mẹ dạy; lúc đối đáp với cha mẹ thì phải hết sức “hòa nhan duyệt sắc,” nhỏ nhẹ, ngoan ngoãn. Cha mẹ sai bảo điều gì thì phải làm ngay, không được lười biếng hoặc tỏ thái độ không vui, không thích. Nếu mình có điều gì sai lầm, bị cha mẹ rầy la, thì phải hết sức vui vẻ mà tiếp nhận, không được có thái độ cứng đầu, không chịu lãnh hội lời chỉ bảo.

Trong thiên hạ, ai ai cũng muốn con cái trở nên người tốt nên mới dạy dỗ một cách nghiêm khắc. Trong Tam Tự Kinh có câu:

“Tử bất giáo phụ chi quá,

Giáo bất nghiêm sư chi đọa.”

Nghĩa là:

“Không dạy dỗ con cái là lỗi của cha,

Dạy mà không nghiêm khắc là lỗi của thầy.”

Người xưa cũng dạy rằng: Bổng hạ xuất hiếu tử! (Dưới lằn roi vọt mới đào tạo được người con hiếu thảo!)

Ðó là quan điểm thời xưa, hiện tại có nhiều chỗ không hợp thời; nhất là ở nước Mỹ này, người Tây phương chưa hề nghe qua. Bởi vì ở Mỹ người ta nói giáo dục là phải thân ái, không được đánh đập con cái, phải để cho con cái tự do phát triển! Nói tóm lại, nếu quá nghiêm khắc thì cũng không tốt, mà quá phóng túng, tùy tiện, thì cũng không tốt; mình phải giữ trung dung thì mới hợp lý.

Người Trung Hoa vốn chú trọng về đạo hiếu. Ông Tăng Sâm, một đệ tử của Ðức Khổng Tử, có nói rằng:

“Phụ mẫu tại bất viễn du, du tất hữu phương.”

Nghĩa là: “Khi cha mẹ còn thì mình không nên đi xa nếu đi thì phải có nơi có chỗ.” Ðại ý là cha mẹ còn sống thì con cái không nên tìm cách đi chỗ nầy chỗ nọ; nếu có chuyện gì cần thiết phải đi đến những nơi xa xôi, thì phải cho cha mẹ biết địa chỉ chính xác để cha mẹ khỏi lo nghĩ. Làm cho cha mẹ lo nghĩ là không hiếu thảo. Cho nên tục ngữ có câu: Nhi hành thiên lý mẫu đảm ưu. (Con đi ngàn dặm, ở nhà mẹ lo âu.) Ðó là hình dung lòng mẹ rất quan tâm đến con cái vậy.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7