kế trung

Phật Quang Đại Từ Điển

(繼忠) (1012-1082) Danh tăng Trung quốc thuộc phái Sơn gia, tông Thiên thai, sống vào thời Bắc Tống, người huyện Vĩnh gia, tỉnh Chiết giang, họ Khâu, tự là Pháp thần, hiệu Phù tông. Năm 8 tuổi, sư xuất gia ở chùa Khai nguyên, khi lớn lên, sư học kinh luật. Sau, sư lâm bệnh, nhờ thành tâm tu sám Quan âm mà qua khỏi. Không bao lâu, sư đến chùa Diên khánh ở Nam hồ thụ pháp nơi ngài Quảng trí Thượng hiền, rất được ngài Quảng trí coi trọng, sư thường thay thế ngài giảng kinh, ngài Tuyết đậu thấy thế cũng khen ngợi. Sau, sư đến chùa Thiên trúc ở Hàng châu lễ bồ tát Quan âm, bỗng nhiên tỏ ngộ, thấu suốt lí nghĩa kinh điển. Sư lưu lại chùa này giảng kinh Pháp hoa trong một thời gian.Về sau, sư lần lượt trụ ở chùa Khai nguyên, Diệu quả, Tuệ an, rồi lại lui về ẩn cư tại chùa Giang tâm, tu tập Thiền quán, sau lại trụ tại viện Pháp minh ở Vĩnh gia. Sư có thân hình cao lớn, khỏe mạnh, tiếng nói vang như chuông, thuyết pháp không chuộng lời văn bóng bảy, chỉ cần rõ suốt kinh luận, biện tài thao thao vô ngại. Hàng năm, vào ngày mùng 8 tháng giêng sư mở đàn truyền giới Bồ tát, số giới tử thường tới vài vạn. Sư tu Tam muội Pháp hoa, Quang minh, Di đà, Quan âm không ngừng nghỉ, tụng chú cứu khổ rất linh nghiệm. Khi sư vào trong phố, hễ ngồi thì người nhường chỗ, đi thì người tránh đường, người thời bấy giờ tôn xưng sư là Giới sư. Năm 1082 sư thị tịch, thọ 71 tuổi, pháp lạp 64. Đệ tử của sư có tới mấy trăm người, trong đó, các vị Tòng nghĩa, Xử nguyên là nổi tiếng hơn cả. Sư có các tác phẩm: Phù tông tập 50 quyển, Nhị sư khẩu nghĩa 15 quyển, Thập gián thư, Chỉ mê, Quyết mạc, Phù tông kí, Thập môn tích nạn, Giải báng thư. [X. Thích môn chính thống Q.6; Phật tổ thống kỉ Q.13, Q.25; Thích thị kê cổ lược Q.4].