TRANG TÔN KINH
HUYỀN HOẶC
TẬP IV
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

HỒI XXXXIII

Chùa Lôi Âm che mây ngũ sắc
Mỵ Ê mộng thấy động Tam Tinh…

Họ lại đi, trực chỉ phía Tuyết Sơn.

Lạ một điều là sau khi chiếc thuyền Tôn Giả trôi đi rồi, trời đất lại trở thành quang đãng. Biển sương mù biến đi dần, mặt trời ló dạng, tỏa ánh nắng ấm áp. Những ngọn núi cao ngất đứng sừng sững dưới trời xanh, và ngọn nào cũng có tuyết phủ…

Họ lặn lội đi chừng nửa ngày đường thì trời tối sẫm. Gió lại thổi mạnh. Đành trú đêm ở một hốc đá… Sáng sau, lên đường, trèo qua mấy chiếc đèo nhỏ, bỗng mọi người đều ồ lên một tiếng. Trước mặt họ là một dải bình nguyên đất sỏi gồ ghề, nhưng cũng có ít cây cỏ… chạy dài thẳng miền Tuyết Sơn. Thạch Sanh chỉ tay:

-Nơi kia… chắc có chùa Lôi Âm Tự.

Giọng chàng run lên…

Nhưng giải bình nguyên trông thì ngắn, mà đi thì dài… cứ như dài ra. Chẳng có bóng ma nào để hỏi đường cả.. Cũng phải tới sau hai mươi ngày đường, một buổi trưa có nắng bóng mây, họ mới lê bước tới Lôi Âm Tự…

Bên lề con đường mòn, một tấm đá khắc mấy chữ: “Đường lên LÔI ÂM Tự.” Thạch Sanh suýt rú lên vì vui mừng… Lúc đó là vào buổi trưa. Ánh mặt trời vẫn soi bàng bạc qua những đám mây lảng vảng trên đỉnh núi… nhưng thỉnh thoảng vẫn có tiếng sấm ù ỳ trong mây… Chàng ngẩng đầu nhìn, thấy xa xa có một ngôi chùa khá đồ sộ, cất trên một ngọn núi thấp, dựa lưng vào rặng núi Tuyết Sơn, và chung quanh đều có núi lô nhô bao vây lấy ngôi chùa… Nơi đây, âm thanh dễ gây âm hưởng vang vang từ vách núi này sang vách núi khác, tương tự một chiếc chuông khổng lồ… Chàng liền quỳ xuống, hướng về ngôi chùa lễ ba lễ, giơ ngón tay chấm một chút bụi đường rồi xoa lên trán mình… Rồi từ từ leo con đường đá. Thầm mong rằng trên chùa vẫn có người coi giữ…

Con đường dài đến mấy dặm, sau cùng phải leo bốn, năm trăm bậc đá… Chiếc cổng tam quan đứng sững, đề ba chữ LÔI ÂM Tự… Hai bên cột cổng khắc hai hàng chữ:

Trăng thanh lơ lửng soi Bến cũ
Tiếng sấm ù ỳ dạy biển Tâm…

Mỵ Ê hỏi:

-Sao lại Tiếng sấm ù ỳ?

Cuồng Huệ cuời:

-Trăng thanh cùng Bến cũ là nói về Trí Huệ Bát Nhã đó. Nói về cái Tâm không tịch vắng lặng rỗng không chẳng có một vật… Còn tiếng sấm ù ỳ là nói về lỏng Đại bi của chư Phù Đồ… làm dậy lên từ cái Tâm không tịch đủ mọi cảnh giới để độ sanh…

Thạch Sanh cũng chen vào:

-Tiếng sấm ù ỳ cũng là tiếng giảng kinh của đức Phù Đồ… Nói kinh do lòng Đại bi…

Mỵ Ê:

-À ra thế… Nghe vừa ngồ ngộ vừa oai phong…

Nàng như muốn bật cười… như hồi dưới âm cung, nhưng cố nhịn… Càn Thát Bà chêm vào:

-Tiếng sấm ù ỳ… là đức Phù Đồ… đằng hắng và khảy móng tay đấy… (Đúng lúc đó, có tiếng sấm Ù ỳ vang vang trong mây) Cha cha… không khéo mưa to lắm…

Vô Hỷ Lạc bỗng nói:

-Có đám mây ngũ sắc che trên trời…

Lúc này, Vô Hỷ Lạc đã bớt day dứt buồn phiền, tươi cười hơn trước. Hắn vừa nói, vừa mỉm cười để lộ hàm răng trắng bóng… Mọi người kinh ngạc nhìn lên… Quả nhiên, không biết là do mặt trời chếch đi và chiếu ánh sáng lóe lên, hay là do những đám mây nặng trĩu nước di động… có một chiếc cầu vồng năm sắc lớn hiện lên… che trùm phía trên mái chùa… Thạch Sanh vui mừng hỏi Vô Hỷ Lạc:

-Hiền đệ nhìn thấy sao? Chắc là tâm nhãn đã mở…

-Không biết mở chưa… nhưng tiểu đệ nhìn thấy cây cầu vồng…

Cuồng Huệ quơ tay vòng chung quanh:

-Hiền đệ có nhìn thấy ngôi chùa và cảnh vật chung quanh không?

-Chưa… chỉ nhìn thấy đám mây ngũ sắc… Nhưng đôi tai đệ bây giờ linh mẫn hơn trước…

Cuồng Huệ:

-Có khi là do sức gia hộ… Cũng có khi là tâm nhãn bắt đầu mở, thoáng thấy thoáng không. Nên chưa nhìn thấy những cảnh vật thô nơi trần gian…

Cả bọn đều bước qua bậc thềm đá vào chùa. Lòng họ lúc này tưng bừng… Họ bước trên một chiếc sân rộng, lát đá tảng. Những tảng đá đều rêu mọc xanh rì, nơi kẽ đá cỏ dại mọc đầy, thỉnh thoảng có xen một khóm cỏ Thương Nặc Ca dài và xanh mướt… Con hươu chạy tung tăng trong sân, tìm những khóm cỏ Thương Nặc Ca để gặm. cỏ này mềm ngọt… nên nó rất thích khẩu và bắt đầu chê cỏ dại…

Chùa vắng vẻ không thấy bóng người… Họ đi thẳng tới chánh điện, có đề mấy chữ lớn: “LÔI ÂM ĐẠI HÙNG BẢO ĐIỆN” sơn son thếp vàng, nhưng nét chữ lỗ chỗ phai mờ. Mái chùa đổ nát, vài chỗ mái thủng khiến ánh mặt trời rọi thẳng vào chính điện âm u… Tường vách nứt rạn xiêu đổ, màng nhện giăng đầy cùng cỏ dại và dây leo… Sát tường, một cây lê lớn đầy quả lúc lỉu, những quả chín rớt xuống, thối nát đầy một góc sân…

Thạch Sanh than thầm: “Hỡi ôi! Chùa Lôi Âm vẫn thường ám ảnh mình trong những cơn mộng tưởng. Mà nay điêu tàn đổ nát… Không hiểu rằng các bậc Phù Đồ cùng Thần linh lớn có còn lai vãng không… Nơi đây, chẳng thấy bóng người… Nhưng có khi chính vì chẳng có vết chân người và điêu tàn đổ nát, nên các bậc Thần linh hay qua lại nhiều cũng nên…”

Cánh cửa chánh điện khép hờ… Chàng lâm râm niệm đức Phù Đồ, đẩy cánh cửa cót két… Chánh điện tranh sáng tranh tối và sâu hun hút, không khí ẩm thấp xen lẫn mùi mốc… Nhưng cuối chánh điện, một bức tượng đức Phù Đồ Mâu Ni lớn vẫn ngồi sừng sững. Tượng ngài ngồi tu khổ hạnh nơi Khổ Hạnh Lâm. Bộ mặt gầy hóp, chim làm tổ trên đầu, mình trần để lộ mấy giẻ xương sườn, da bụng như dính vào xương sống… nhưng triền môi vẫn điểm một nụ cười vi tiếu bất tuyệt… Nụ cười như nói rằng: “Như Lai đã đạt được cơn tam muội tột cùng, sâu nhất, mầu nhiệm nhất… mà các chúng sanh, Phạm Thiên, ngoại đạo Phạm Chí đều không thể lai vãng đến ngưỡng cửa. Như Lai đã biết được, cái bí ẩn tột cùng của pháp giới mà các chúng sanh không ngờ tới..”… Tay Ngài vẫn giơ một cánh hoa nhà trời, những cánh hoa may mắn vẫn còn, nhưng màu vàng của cánh hoa nay đã bạc phếch…

Thạch Sanh nước mắt rưng rưng, giơ tay run run sờ vào chân Ngài… rồi bỗng úp mặt vào chân, bật tiếng thổn thức. Cả bọn đều đứng im như tượng… Khóc chán rồi, chàng cởi chiếc mõ trên lưng Vô Hỷ Lạc, khoan thai ngồi xuống, từ từ gõ mõ, niệm một thời kinh…

Giọng chàng đều đều cùng với tiếng mõ vang lên giữa chùa cô tịch… Mấy con chim núi, làm tổ trên mái chùa, bỗng bị khua động, rũ cánh xào xạc bay vút lên trời… Chắc là chàng cầu khẩn cho sau đây, sẽ có người đàn việt hảo tâm tới, trùng tu lại cảnh điêu tàn này…

Chàng tụng vừa hết một thời kinh, tiếng mõ vừa dứt… thì trên không trung, sấm chóp giựt đùng đùng… và cơn mưa ào ào đổ xuống. Mưa như trời sập, như thác đổ… Mái chùa dột, nên nhiều nơi, nước lọt vào… rơi long tong… chảy lênh láng… Họ bị cầm tù nơi Lôi Âm Tự bởi trời mưa… vì mưa như không muốn dứt…

“Thạch Sanh đứng lên, đi phăng phăng về phía sau chùa, tìm nơi Tàng kinh các. Coi xem có bộ Du Hý Thần Thông Biến Hóa Kinh không?… Cả bọn ùa đi tứ tán…

Phía sau chánh điện là hai dãy hành lang đài. Một bên là nhà trù với những lò nấu

bánh… tất cả đều xiêu vẹo hoang tàn… Một bên là dãy phòng của chu tăng truớc kia… nay cũng tiêu điều… Tàng kinh các là một căn lầu khá lớn khuất ở phía sau. Kiến trúc công phu tỉ mỉ, nhưng nay cũng hư mục rêu phong…

Họ gỡ cánh cửa mà vào… Những chiếc giá sách dài, bằng gỗ quý, bày trưng la liệt… đầy ắp kinh sách… Nhưng tất cả, đúng như lời nữ quái Ba Văn Mật Đa nói, đều hư mục cũ nát… Những lời Kim khẩu của đức Phù Đồ… có còn nữa đâu? Hễ Thạch Sanh giơ tay muốn cầm một cuốn kinh, cuốn kinh bỗng rã ra, rũ xuống thành bụi… Chàng thử mấy bận, sau sợ hãi không dám cầm nữa…

Họ đành trở ra, tới nơi nhà trù, tìm chỗ ngồi lổn ngổn… nhìn nhau rầu rĩ… Họ chẳng biết nói gì…

Bên ngoài vẫn mưa như trút nước… Trời đã xế chiều…

Duy có Càn Thát Bà là không chịu ngồi. Chỏm tóc hắn bị mưa dột, ướt lép nhép, nằm xệp xuống đầu. Nhưng hắn vẫn xoạc đôi cẳng dài, bước đi bước lại trong nhà trù… Thỉnh thoảng lại thò đầu qua chiếc cửa sổ, nghênh ngáo nhìn mưa, nhìn núi, nhìn đất… Rồi lại quay vào, sải bước… Dáng điệu đăm chiêu. Nhưng cả bọn vẫn im lặng…

Sau cùng, hắn nói:

-Quái lạ!… Các người không thấy gì sao?… Ta ngửi thấy mùi quái lạ… thấy hai điều quái lạ…

Chẳng thấy ai nói gì, hắn tiếp:

-Này nhé… Thứ nhất là ta nghe lão Đe Thích đọc một bản kinh, nói rõ ràng là: Chư Phù Đồ mười phương cũng đằng hắng và khảy móng tay. Tiếng đó làm chấn động mười phương thế giới… Thế sao bọn mình đến chùa Lôi Âm, chùa lại có tên Lôi Âm nữa… mà chẳng thấy đức Phù Đồ đằng hắng khảy móng tay gì hết?! Tại sao vậy? Hay là Ngài… chê chúng mình là nhỏ bé ty tiện?

Sa môn Vô Hỷ Lạc thủng thẳng:

-Thì đấy! Chả là đằng hắng khảy móng tay chấn động trời đất là gì?

-Đâu, sao ta không thấy?

-Đấy… nhị sư huynh… vừa mới niệm kinh gõ mõ xong… là sấm giựt liên hồi, mưa như trời sập… Lại thêm cả mây ngũ sắc nữa. Thế chả là Ngài đằng hắng khảy móng tay là gì!

Càn Thát Bà lắc lư chỏm tóc:

-Không được… chú mày ngụy biện… Không phải… chưa phải…

Cuồng Huệ:

-Có khi Ngài đằng hắng khảy móng tay… nhưng chúng ta không thấy không nghe… Phải trong cơn Định sâu mới thấy…

-Thôi đừng mang cơn định sâu ra dọa ta…

Ngừng một lát, hắn tiếp:

-Lại còn một điều quái lạ nữa, khiến ta hồ nghi quá… Các người có mắt mà chẳng nhìn gì cả, có đầu óc cũng chẳng suy nghĩ… Ta… ta đã xem xét kỹ rồi… Này nhé… Ngôi chùa này tuy lớn, cũng chẳng lớn mấy. Xây trên một ngọn núi choèn choèn… ngang dọc rộng chừng hai, ba mẫu thôi… Nên ta hồ nghi…

-!?

-Đây nhé… ta hồ nghi… là ngọn núi với ngôi chùa này không đúng với lời kinh… Lời kinh nói khác kia, nói mênh mang kinh khủng lắm. Đoạn kinh này, ta nghe lão Đe Thích đọc đi đọc lại ba lần mà… Nên nhớ rõ…

-Đại sư huynh nhớ sao?

-Này nhé… ở mỏm núi này, đức Phù Đồ mở nhiều pháp hội lắm… giảng nhiều kinh lớn. Trong kinh ghi lại ghê lắm… Đen dự hội nghe kinh thường có mấy vạn đại Tỳ kheo đệ tử, lại thêm vô số Đại Bồ Tát từ cõi khác tới… rồi Thiên Long Bát Bộ cùng quyến thuộc đông đảo như mây… rồi lại mười mấy vị vua kéo họ hàng thân thuộc, quân, sĩ xe cộ, lừa ngựa voi tới… Thế mà nơi đây chỉ vỏn vẹn một ngọn núi rộng lớn chừng ba mẫu… Thế thì chúng hội ngồi ở đâu để nghe kinh…? Làm gì có đủ chỗ…? Chú mày thấy chưa…? Đó là điểm quái lạ khó tin… mà chả có ai thấy. Riêng ta thấy…

Cuồng Huệ cười:

-Đại sư huynh tinh tế thật… Nhưng có thể rằng… lúc giảng kinh lớn, đức Phù Đồ thường hay phóng quang, thi triển thần lực, biến đổi cả không gian… tạo dựng một hội trường thích ứng. Rồi các Đại Bồ Tát cũng thi triển thần thông, hóa hiện không biết bao nhiêu tòa Sen báu… Nên vẫn đủ… Trong một Lỗ lông tạo dựng ba ngàn thế giới mà…

Càn Thát Bà gật gù:

-Cũng có thể… Nhưng cái gì chả có thể… Nhưng về cái Lỗ lông của chú mày… ta vẫn hồ nghi lắm… Ta cứ trông mỏm núi bé tí teo này là thấy tức… Nó chẳng giống lời kinh tí nào… ít ra, nó cũng phải lớn hơn ba mẫu chứ!.

-Đại sư huynh bực tức và trọng kinh như vậy là tốt lắm đó… Nhưng mỏm núi này, tuy rắn chắc, nó cũng chỉ hiện ra làm cảnh giới y báo. Hiện ra từ tâm chúng sanh cõi này, từ cộng nghiệp chúng sanh. Và tùy theo phước lực cùng trí huệ chúng sanh. Neu phước huệ lớn, nó hiện lớn. Phước huệ nhỏ, nó teo lại… Tuy là sỏi đá, nhưng nó cũng là ảnh tượng tâm thức. Nó không cố định đâu. Người đời kém cỏi, cứ tưởng sỏi đá cố định. Không, sỏi đá cũng BIÊN THIÊN. Nó cũng nở ra, co lại như một bông hoa… tùy theo phước huệ chúng sanh… Xưa kia, lúc sinh thời đức Phù Đồ… có thể nó lớn hơn ba mẫu… vì phước lực lúc đó lớn… Nay phước lực chúng ta kém đi,… nó co lại… thu lại nhỏ hơn… Có khi nó dần dần thu lại, rồi… tụt sâu xuống lỏng đất… Đệ dùng thiên nhãn… thấy vậy…

Mỵ Ê bỗng xen vào:

-Hay! Nói về mỏm núi Lôi Âm như thế thì hay thật… Nhưng bây giờ… không có Kinh Du Hý Thần Thông… biết làm sao? Chẳng lễ về Phong Châu tay không?

Thạch Sanh thở dài, nhưng chàng vẫn hy vọng… Mọi người mệt mỏi rầu rĩ… Riêng Cuồng Huệ vẫn bình thường, trong tâm vẫn tin chắc là có Kinh… Y lôi một ít lương khô từ trong một tay nải lớn ra, phân phát cho mấy người… Rồi họ phân tán tìm những chỗ không ướt để ngả lưng trong đêm đầu tại Lôi Âm Tự. Riêng Thạch Sanh trở ra chánh điện, ngồi niệm kinh cho tới gần sáng…

Sáng sớm hôm sau, trời vẫn mưa như trút nước. Cuồng Huệ đương đứng nơi cửa sổ nhà trù nhìn mưa… Bỗng Mỵ Ê mặt mũi tươi tỉnh le te đi tới, bảo y:

-Tiện muội muốn nhờ hiền huynh việc này, được không?

Không hiểu sao, nàng đã thay đổi cách xưng hô, không gọi là quan nhân mà gọi hiền huynh…

-Việc gì vậy?

Nàng cười:

-Việc gì thì việc… Hiền huynh nhận lời trước đi, tiểu muội sẽ nói… Việc này dễ lắm, không phương hại gì đâu…

-ừ… nhận…

Nàng rút từ bọc ra một chiếc vòng vàng:

-Hình tượng đức Phù Đồ đã lạt mất màu vàng… Xin hiền huynh nhóm lửa trong lò, nung chảy chiếc vòng này. Rồi phết lại… Được ngần nào hay ngần ấy…

Cuồng Huệ đi vào nhà kho, lục lọi mãi mới kiếm được một ít dầu hoa hướng dương sót lại nơi đáy thùng. Y kiếm một chiếc bát vỡ, đổ dầu vào, lấy vải se lại làm bấc, đánh lửa đốt, rồi bê lên chánh điện… Y hơ chiếc vòng trên lửa, vàng chảy ra thành nước vàng óng ánh. Hễ chảy đến đâu, Mỵ Ê lấy vải quệt, rồi bôi vào chỗ đầu gối tượng đức Phù Đồ… Bôi phết vừa xong chỗ đầu gối, thì vàng cũng hết sạch… Mỵ Ê xuýt xoa:

-Hết sạch đồ nữ trang rồi… Chỉ sơn phết được chỗ đầu gối, nhưng cũng còn hơn là không…

Trời vẫn mưa như trút nước, chẳng biết bao giờ mới ngưng… Chiều hôm đó, Cuồng Huệ nhàn rỗi lại đi vào Tàng kinh các. Mỵ Ê buồn tình cũng đi theo…

Vào trong, cả hai đứng ngẩn ngơ nhìn, không dám giơ tay sờ mó các cuốn kinh cũ, sợ lại ra thành cát bụi… Mỵ Ê bỗng nhìn thấy một cuốn kinh mỏng đặt ở cuối giá sách, ngoài bìa có vẽ một hình tướng đức Phù Đồ giống hệt như bức tượng ngoài chánh điện. Bức hình cũ kỹ nhạt nhòe màu nâu xỉn, duy ở nơi đầu gối còn óng ánh sắc vàng… Nàng động tính hiếu kỳ, giơ tay cầm cuốn kinh. Nhưng vừa nhắc lên, cuốn kinh đã rã ra, rớt xuống thành một đống bụi nhỏ dưới chân… Nàng sợ hãi, cúi xuống, lấy tay bốc đống bụi đặt lại trên giá sách. Bỗng trong đống bụi lòi ra một mẩu giấy cổ chưa rã. Lượm lấy, đưa lên mắt nhìn, thấy còn mấy hàng chữ… Nàng không đọc nổi thứ chữ ngòng ngoèo như con giun. Nàng đưa cho Cuồng Huệ:

-Này hiền huynh, có kinh đây này…

Cuồng Huệ, trong thời gian đi cùng với Phi Ly, học lõm bõm được một ít mẫu tự… Ý lẩm nhẩm đọc:

Pháp gốc vốn không pháp
Pháp không pháp cũng pháp
Nay Ta trao không pháp
Moi pháp đâu từng pháp…

Y vừa nhận mặt chữ, vừa đọc chậm rãi.. Mỵ Ê cũng lẩm nhẩm đọc theo… Nàng kêu:

-Sao lại lạ thế này!? Sao Ngài lại nói: “Nay Ta trao không pháp…”? Như thế nghĩa là chẳng có pháp gì cả hay sao? Rõ ràng là ông vua Diêm Vương râu dài bảo chúng ta lặn lội sang đây để cầu thỉnh bộ kinh Du Hý Thần Thông Biến Hóa Kinh mà… Nay trong kinh này, Ngài lại dạy chẳng có pháp gì cả… Thế là nghĩa sao? Không lễ tất cả Thần thông du hý của các Ngài cũng đều là Không pháp cả sao?…

Rồi nàng đứng trân trân… Cuồng Huệ cười nói:

-Hiền muội chưa hiểu đâu… Lời kệ này dạy đúng đấy… Ngài từ bi nhắc nhở chúng ta, cảnh giác chúng ta… Chắc một phần cũng là do công đức của hiền muội sơn phết đầu gối Ngài… Như thế này, chắc chắn chúng ta sẽ thỉnh được bộ Kinh Pháp Bảo…

-Sao hiền huynh dám chắc?

-Thì… rõ ràng sờ sờ còn gì? Này nhé, lời kệ này dạy: “Ta trao Không pháp cho các ngươi… vì các pháp của Ta đều là Không pháp…” Tại sao vậy?… Là vì cái pháp giới này chỉ HIỆN lên trong Bốn TÂM. Và cái TÂM đó thì bổn lai rỗng lặng, thanh tịnh, tuyệt nhiên không có một vật, không có một pháp. Nó rỗng lặng sáng ngời, không hình không sắc… không thời gian, không không gian… nó tương tự như một tấm gương trong vắt… một biển hào quang vô tướng mạo… nhưng lại cực kỳ mầu nhiệm. Vì nó là cỗi nguồn của tất cả sự vật… Mỗi chúng sanh đều tương tự như một cơn lốc u mê khởi lên từ biển đó, rồi trong cơn u mê mênh mang, lại quay đầu trở lại… SOI HÌNH BÓNG MÌNH trong tấm gương trong vắt đó… Nên chập chùng làm LÓE lên vô vàn ảnh tượng… tức là thân tâm mình cùng các cảnh giới y báo chung quanh… Đó là sự LÓE lên do Nghiệp lực từ vô thủy… Còn các chư Phù Đồ thì cũng vậy. Các Ngài cũng là những cơn lốc hào quang khởi lên từ Biển TÂM. Nhưng cơn lốc của các Ngài thanh tịnh, không dệt bằng Nghiệp lực, mà dệt bằng Thần lực cùng Nguyện lực của Tâm Đại Bi cùng Trí Huệ Bát Nhã… Vì thấy chúng sanh u mê quá, cứ trôi lăn hoài hoài không ra khỏi mê đồ, nên các ngài phải khởi tâm Đại Bi và Bát Nhã, rồi cũng SOI HÌNH BÓNG vào tấm gương đó… làm LÓE lên vô vàn những ảnh tượng, tức là những sắc tướng cùng cảnh giới độ sanh… Rồi phương tiện nói ra vô lượng pháp môn… đây là quán bất tịnh, đây là quán nhân duyên, đây là quán như huyễn… đây là sơ thiền, nhị thiền… thức xứ thiền… các pháp như vậy… để chỉ đường cho chúng sanh ra khỏi mê đồ ảo phố… Kỳ thực thì pháp nào cũng huyễn mộng, vật nào… chúng sanh nào cũng huyễn mộng, vì đều là ảnh tượng lóe lên bởi Nghiệp lực..

Mỵ Ê xuýt xoa:

-Hiền huynh nói hay quá! Mãi đến bây giờ, tiểu muội mới biết là chư Phù Đồ cũng SOI HÌNH BÓNG mình vào gương… Trước kia, tiểu muội cứ tưởng chỉ có người nữ chúng em mới soi gương thôi…

Cuồng Huệ cười:

-Chư Phù Đồ soi gương, nhưng không phải chiếc gương của hiền muội đâu, mà là gương TÂM…

-Tiểu muội hiểu rồi… Nhưng tại sao hiền huynh dám chắc sẽ thỉnh được bộ kinh…

-Là vì… sau khi Ngài cảnh giác chúng ta rằng các pháp đều là Không cả, tức là Ngài nhắc nhở về CHÂN KHÔNG… Sau khi nhắc nhở về Chân không rồi, chắc là Ngài sẽ ban cho chúng ta bộ kinh Pháp Bảo kia… nói về DIỆU HỮU…

Mỵ Ê vỗ tay:

-Hay quá! Nhưng làm sao tìm kiếm… kiếm ở đâu bây giờ?

Họ bó tay ngồi ru rú trong chùa nghe mưa rơi suốt mấy ngày. Hạt mưa lộp bộp thánh thót như rơi vào tận tâm can từng người… Mấy người kia thường ngồi chuyện gẫu dưới mái chùa, nhất là Càn Thát Bà và Mỵ Ê… Thạch Sanh ngồi niệm kinh không ngớt… Cuồng Huệ thì biết rõ ràng trên không trung quanh chùa, vẫn có những chư thiên ở cõi trời Tứ Thiên Vương lãng vãng canh giữ chùa và kinh sách, nhưng y cũng chẳng muốn nhảy lên không trung tìm kiếm hỏi han xem hang Tam Tinh Tà Nguyệt ở đâu, và kinh ở đâu?… Vì y yên chí rằng sẽ có kinh. Vả lại, y cũng muốn nhường công đức tìm thấy kinh cho một người khác trong bọn…

Mưa vẫn lướt thướt, không ngớt hột. Mái chùa dột, nhiều chỗ nước chảy tong tong lênh láng… Nước mưa chảy dồn từ các khe núi, xuống một lòng suối khá rộng dưới chân chùa… và mỗi ngày, nước suối dâng lên càng cao… Con hươu bị ướt quá nên bớt chạy tung tăng trong chùa, nó hay ngồi mọp dưới chân người… đôi mắt nâu long lanh như gương… Nó đã xơi hết mọi ngọn cỏ Thương Nặc Ca mọc trong chùa, nên lúc này, Cuồng Huệ phải ra ngoài hiên bứt những trái lê chín cho nó ăn… Trái lê rất ngon ngọt, nhưng nó ăn uể oải, xem chừng… ưa thích cỏ Thương Nặc Ca hơn… Mỵ Ê nhìn thấy bờ suối dưới chân núi, có khá nhiều thứ cỏ đó. Nàng vỗ đầu con vật, nói:

-Khi nào mưa tạnh, ta sẽ đưa ngươi xuống ăn cỏ Thương Nặc Ca…

Hươu như hiểu tiếng người, dụi đầu vào tay nàng… Cuồng Huệ cũng vò đầu nó:

-Cỏ Thương Nặc Ca ngon thật… nhưng cũng chẳng ngon đâu. Ta cầu cho mi sau này chuyển thân đi… Nếu được làm chư thiên Tứ Thiên Vương thì ăn nhiều cam lồ vị…

Một buổi trưa, mấy người ngồi nói chuyện gẫu… Cuồng Huệ lúc này ít hạ thủ công phu thiền quán, nên cũng góp chuyện gẫu… Càn Thát Bà cứ xoạc cẳng đi lại. Hắn lầu bầu:

-Mưa quá! Ướt lép nhép… Ta chưa thấy ở đâu mưa thế này… Mà các người khờ quá… Cứ ngồi ru rú ở đây… Ở trong chùa này, không còn kinh đâu… Tôn Giả đã nói kệ dặn phải tới hang Tam Tinh Tà Nguyệt…

Vô Hỷ Lạc nói:

-Chắc ở trong những rặng núi quanh đây… Bây giờ, chưa kiếm được kinh, nhưng ngồi dưới mái chùa nghe mưa rơi cũng thấy sung sướng… Cũng là một hạnh phúc của miền trần gian tục lụy…

Mỵ Ê:

-Ơ nhỉ!… Hang Tam Tinh Tà Nguyệt… không hiểu ở đâu?

Cuồng Huệ cười:

-Nghe nói kiếp trước, hiền muội… là một con cá rất xinh đẹp ở biển Nam Hải, thường nổi lên lắng nghe bộ Kinh Du Hý Thần Thông. Vậy hiền muội có nhiều cơ duyên… hãy cố gắng tìm kiếm đi…

-Tiểu muội muốn lắm… nhưng chẳng có thiên nhãn thiên nhĩ… biết đi đâu bây giờ!? Trời lại mưa như trút nước

Ngừng một lát, nàng hỏi một câu hồn nhiên ngớ ngẩn:

-Tại sao… con người ta cứ PHẢI TU HÀNH nhỉ? Tại sao không… thả mình theo sở thích… cứ làm theo sở thích… có sướng hơn không?

Giọng nàng mơ màng… Càn Thát Bà ngừng bước, xen vào:

-Ờ nhỉ… đúng vậy… Tại sao cứ phải tu hành…?

Lúc đó, Thạch Sanh vẫn ngồi ở một góc chùa niệm kinh… Càn Thát Bà đứng nghinh nghinh nhìn Cuồng Huệ… Y nói chậm rãi:

-Đại su huynh là người nhà trời… đã từng ở những cõi trên, chắc là hiểu điều đó… nhưng không muốn nói ra thôi… Thói thường chúng sanh nào cũng vậy… có xu hướng muốn tìm VUI., tìm hạnh phúc. Càng được nhiều vui bao nhiêu càng hay ngần ấy… Và Tu hành chính là nhu cầu nội tại… muốn tìm kiếm sự Vui, cùng hạnh phúc miên viễn…

Mỵ Ê nhăn mặt:

-Hiền huynh dạy vậy… nhưng tiểu muội chưa thấy… Mình sống… cứ như thế này… cũng vui chán rồi… Hà tất phải tìm kiếm cho mất công khổ nhọc?! Em thì em thấy… tu hành khó quá… nhiều khi lại buồn và chán nữa…

Cuồng Huệ cười:

-Lúc này, hiền muội thấy như vậy… là vì hiền muội cỏn… đắm nhiễm… nhiều tục lụy của miền trần gian… chưa tiếp nhận được khí phần của cảnh giới ở trên… chưa tu tập thiền quán hay niệm Phật tam muội, chưa vào cảnh giới lâng lâng của định tâm… Neu hiền muội được chớm nếm phong vị đó, hiền muội sẽ nghĩ khác… Hãy nhìn nhị sư huynh thì thấy… Nhị sư huynh bây giờ đâu có muốn mở mắt nhìn cảnh trần gian nữa… Vì sao? Vì ở trong cơn tam muội, nhị sư huynh thường trực được nếm mùi cam lồ vị của AN LẠC… vượt xa mọi KHOÁI LẠC của trần gian… Và cũng chính bởi vậy, nên kẻ tu hành mới có thể một mình một bóng, như con tê giác đơn độc, sống nơi rừng sâu núi thẳm… làm bạn với thú dữ, cây cỏ chim muông… Neu không có niềm An Lạc vời vợi của tâm thức, làm sao chịu nổi…!?

Mỵ Ê tròn mắt:

-Thật vậy sao?

-Lại còn không thật?! Tôi nói gạt hiền muội làm gì…

Neu không thật… thì chư Phù Đồ cũng phạm lỗi hư vọng hay sao?… Này nhé, hiền muội nghĩ kỹ xem… miền trần gian, nhất là Dục giới này,… có cái gì thật vui đâu? Chỉ là GIẢ VUI, lại rất phù du tạm bợ, thường khi là cái VUI NHƠ NHỚP… Bởi vậy, gọi là khổ khổ tỷ dụ như bệnh tật nghèo đói nóng lạnh. Thỉnh thoảng có một niềm vui như lúc này chúng ta xum họp đủ mặt… Nhưng mai mốt hoặc vài chục năm nữa, cũng phải chia tay… Bởi vậy, gọi là hoại khổ. Không có gì bền vững, mọi sự đều phù du hư ảo… Ngay đến làm vua chúa cũng vậy. Cũng chỉ thỏa ý vùng vẫy một thời, có nhiều đứa nỏ mồm nịnh hót tâng bốc, rồi say men quyền lực, mặc tình hưởng khoái lạc, sử dụng quyền hành… chém giết bừa bãi… và tạo nghiệp không ít…

Mỵ Ê:

-Thế còn tình duyên thì sao? Tình duyên vui lắm chứ… ai bảo là không vui?

Giọng nàng trêu chọc… Cuồng Huệ nói:

-Người đời thường có hai thú vui: ăn uống và tham dục hoặc tình duyên. Tình lãng mạn, tình hiệp… tình hào… hoặc tình hám…

-Sao nhiều thứ tình thế…

-Bởi vậy, mới trói chặt khó chui ra… Ăn uống thì nặng bụng, chóng chán… và là mầm bệnh tật. Bởi vậy, Chư Thiên Cõi sắc không ăn uống đoạn thực như mình… Chỉ ăn cái tâm tưởng thôi. Quanh năm, không chạy lăng nhăng Đông Tây, chỉ ngồi thiền định. Cũng chẳng thèm nói nữa, nói chuyện với nhau bằng hào quang tâm thức…

-Lạ nhỉ!… Bây giờ, tiểu muội mới biết… Chẳng ai nói cả…

-Còn như tình lãng mạn, tinh hào, tình hiệp… tình lý tưởng… thì cũng có chút vui đó… nhưng dễ chuyển thành khổ lụy nhớ nhung… Rồi hôm nay yêu, mai trở thành ghét… Tỷ dụ như hiền muội, nay mai trở về cung, làm cô công chúa gieo cầu kén một vị vương tôn công tử…

-Không… em không gieo cầu… không có vương tôn công tử nào hết…

-Tỷ dụ như vậy… Tỷ dụ như hợp ý nhau, thì cũng được ít lâu, rồi cũng già nua tàn lụi… rồi chia tay… Niềm vui thì ngắn, nhưng sầu tình thì dài… Còn như tình hám… thì hi hi… cái này chính là cái bẫy của Ma vương… một quà biếu có thuốc độc mà Ma vương gói ghém vào sắc thân thô kệch máu mủ này. Tất cả thế gian tơi bời thác loạn cũng chỉ vì cái này… Thành nghiêng nước đổ cũng do đó… Ai cũng tưởng Khoái lạc đó là tột đỉnh, ngoài ra chẳng còn gì khác… Ngay những kẻ tu hành cũng té ngã như lá rụng… Chưa bao giờ hiểu rằng cõi này là của Ma vương… Không hiểu rằng đó là một cái bẫy, vũ khí chính yếu của Ma vương. Nên cứ nhơn nhơn đi lấy vợ… Không hiểu rằng đó là một thú VUI NHƠ NHỚP của trần gian….

-Thế thì làm sao?

-Người tu hành cần biết CHUYÊN. CHUYÊN TÂM mình. Chuyển các thứ tâm phân biệt… thành Bát Nhã. Chuyển các thứ vọng tình thành Đại bi… Chuyển tình đời thành tình đạo… Chuyển thú vui nhơ nhóp phù du của trần gian thành thú vui thanh tịnh mầu nhiệm miên viễn…

-Sao lại nhơ nhóp?

-Thì đấy… máu thịt tinh huyết nhơ nhóp tanh hôi… Rồi mang thai nặng nhọc, sanh nở đau đớn… Và có những loài quỷ lò dò tới ăn thứ huyết sanh nở…

Mỵ Ê chun mũi:

-Gớm… Em sợ sanh nở lắm… Hồi trước, ở trong cung, có một lần em trông thấy người sanh nở mà sợ quá…

-Vì kiếp trước, hiền muội ở miền biển Nam Hải… nên thân nghiệp ít nặng nề… Nay sợ chuyện nặng nề…

-Thế còn cái vui… thanh tịnh mầu nhiệm thì ra sao?

-Khi nào hiền muội tụng kinh, trì chú, niệm danh hiệu đức Phù Đồ… hoặc thiền quán vào được Định tâm… hiền muội sẽ nếm phong vị của Diệu hỷ lạc bất tận. Niềm Hỷ lạc này vượt xa sự khoái lạc trần gian gấp trăm ngàn lần. Tỷ dụ như chư thiên cõi sắc: Họ được nếm mùi hỷ lạc đó, nên cứ triền miên suốt năm tháng, chẳng muốn đi ra. Họ cũng đã vứt bỏ khoái lạc trần gian, nên không còn thọ sanh thành nam nữ… Nhưng niềm Hỷ lạc đó cũng chưa lớn lắm. Phải vượt lên tới cái vui Vô động của chư Phù Đồ…

-Thế cái này… nó ra sao?

Cuồng Huệ lắc đầu, cười:

-Cái này… tiểu huynh cũng chưa biết… Chỉ mường tượng thôi: Có lẽ đó là cái Vui cực kỳ mầu nhiệm… có thể ôm ấp từng cọng cỏ, từng cánh hoa… từng hạt bụi… từng dải tinh hà… từng sát độ… vào trong thân tâm của vị Phù Đồ… Có thể trải thân tâm mình đầy khắp hư không… rồi thu thân tâm vào trong một hạt bụi… có thể hóa hiện hóa thân vô lượng để độ sanh… Tóm lại, có thể THẦN THÔNG BIÉN HÓA TRÀN ĐẦY THẾ GIAN… Bởi vậy, mới gọi là bộ kinh DU HÝ THẦN THÔNG BIẾN HÓA… và chúng ta mới phải đi thỉnh…

Sa môn Vô Hỷ Lạc, ngồi nghe chăm chú, bỗng nói:

-Thế tại sao… lại cứ phải chú tâm… nhìn hoài vào TÂM mình?

-Thì là đó đó… Nhìn hoài rồi, thì Tâm sẽ phát sáng, sẽ đứng lặng, sẽ sáng ngời… và hiền đệ sẽ bắt đầu nếm phong vị của Diệu hỷ lạc, và chán ngấy những khoái lạc trần gian…

Tối hôm đó, nằm trên một tấm gỗ ở góc chùa… Mỵ Ê trăn trở không dỗ nổi giấc ngủ… Mưa vẫn rơi hoài, như một niềm nuối tiếc khôn nguôi… Nuối tiếc gì đây? Nuối tiếc miền trần gian với những cuộc tình nhuốm đầy ảo vọng? Hay nuối tiếc miền biển Nam Hải có làn nước trong veo, có chú tiểu Tỳ kheo tụng kinh… và có con cá vàng núp bóng đức Quán Thế Âm, lặng lờ nổi lên nghe kinh…? Nàng nghĩ tới những lời của Cuồng Huệ… rồi lại nghĩ chuyện nay mai trở về Phong Châu… Phụ vương và mẫu hậu chắc ngạc nhiên và vui mừng lắm… Nhưng nàng bỗng thấy cuộc sống nơi hoàng cung vắng ngắt nhạt phèo…

Một hồi lâu sau, mưa rơi vào giấc ngủ của nàng…

Sáng hôm sau, nàng dậy thật sớm… Chạy ra hiên, hứng nước mưa, rửa đầu tóc mặt mũi, cùng vuốt bộ áo trước màu xanh, nay đã trở thành màu vàng hơi ửng huyết…

Rồi ton ton đi tới chỗ Thạch Sanh… Chàng vẫn ngồi niệm kinh, cầu nguyện thỉnh được bộ Kinh Pháp Bảo. Đôi mắt vẫn khép hờ… Nàng đứng nhìn chàng hồi lâu, không thấy chàng chịu mở mắt… Nàng bèn nhặt một cành cây nhỏ, chọc mạnh vào đùi Thạch Sanh, gọi to:

-Nhị sư huynh… mở mắt ra đi… Em có việc muốn thưa…

Thạch Sanh mở mắt:

-Công chúa có việc gì cần?

-Em không phải công chúa… Em là hiền muội…

-Vâng… hiền muội có việc gì…?

Nàng bỗng nói: “Nhị sư huynh chờ em một chút” …Rồi chạy ra chánh điện, quỳ lễ ba lễ, rồi chạy vào quỳ gối trước Thạch Sanh, giọng nghiêm trang:

-Nhị sư huynh… em… muốn… núp… bóng nhị sư huynh lâu dài… Em không muốn gọi nhị sư huynh nữa… Em muốn gọi là sư phụ… Đệ tử muốn xuống tóc xuất gia nơi cửa đức Phù Đồ Mâu Ni… Xin sư phụ cắt tóc cho đệ tử…

Vừa nói vừa giơ chiếc kéo con, và rũ làn tóc dài như suối… Lúc đó, mấy người kia cũng kéo tới… Thạch Sanh đưa mắt nhìn Cuồng Huệ… Y nói:

-Thật là một hảo sự… Nhị sư huynh nên cắt tóc ngay, kẻo nàng lại đổi ý…

Mỵ Ê:

-Tam sư huynh coi thường em quá… Em không đổi ý đâu…

Thạch sanh đứng dậy, nhìn quanh nói:

-Ở đây, chẳng có ai cả. Chỉ có tứ đệ là sa môn. Vậy xin mời tứ đệ làm vị tỳ kheo tác chứng. Mời đại sư huynh làm đệ nhất giáo thọ, và tam đệ làm đệ nhị giáo thọ…

Mấy người bước lên. Chàng nhớ lại vụ Loa Kế đại nhân xuống tóc cho Vô Hỷ Lạc… Chàng khoan thai đọc bài kệ:

Hủy hình giữ khí tiết
Cắt ái lìa thân sơ
Xuất gia làm chánh pháp
Thề độ hết mọi loài…

Rồi cầm mảng tóc của Mỵ Ê. Mảng tóc nặng trĩu. Chàng đưa kéo cắt. Lưỡi kéo cùn, cắt lai nhai mới hết mảng tóc, nhưng tóc còn lởm chởm… Càn Thát Bà nói:

-Thôi cắt thế đủ rồi. Đe sau ta cạo cho nhẵn thín…

Thạch Sanh nhìn Cuồng Huệ:

-Không biết lấy pháp danh gì?

Cuồng Huệ:

-Ni cô xuống tóc tại chùa Lôi Âm. Nên đặt là Lôi Âm ni cô,

Thạch Sanh:

-Từ nay… hiền muội là Lôi Âm ni cô.. Không cỏn là công chúa Mỵ Ê nữa…

Chàng không biết dặn dò gì thêm, vì về giới luật, chàng cũng mờ mịt… Đành bắt chước đại nhân Tóc loe:

-Giới luật của đức Mâu Ni… mênh mang bát ngát… rất là khó giữ… Nhưng cũng rất dễ giữ. Miễn là nhớ mấy điểm: Từ nay, không nhìn ngoại vật, hay ít nhìn ngoại vật… Cũng đừng nhìn thân mình nữa, dùng con mắt Ảo quán sát thân mình… Và cứ luôn luôn nhìn vào Tâm… Hiền muội nhớ chưa?

Mỵ Ê:

-Đệ tử nhớ rồi…

Càn Thát Bà xen vào:

-Không được nhơn nhơn. Không được cười. Không được liếc… Giới của người nữ khó lắm… Khi tắm, không được kỳ phía bụng dưới… Nhớ chưa…?

-Nhớ…

Rồi bỗng nhiên, nàng giơ tay lên sờ đầu… bật tiếng cười khanh khách… Giữa lúc ấy, cơn mưa bên ngoài bỗng nhẹ hột… Dần dần tạnh. Những đám mây mù lần lần tan… vòm trời trở lại trong xanh… Cơn Vọng tình của trời đất đã đi qua… Hôm nay là hôm thứ bảy, và trời mưa đã bảy ngày rồi…

Đêm hôm đó, ni cô Lôi Âm nằm mân mê chiếc đầu lởm chởm, rồi thiu thiu ngủ. Được một giấc mộng đẹp.

Thấy một ngọn núi thấp, một mặt núi phẳng như tấm gương, làm lóe lên nhiều hào quang… Nàng thích thú đứng nhìn… Bỗng thấy từ gương… bước ra một bóng người, hình dung đẹp đẽ, thân có ánh sáng… Người kia tới trước, nói:

-Ni cô là công chúa xứ Phong Châu… Ni cô có nhận ra tôi không?

Nàng ngỡ ngàng một hồi lâu, lắc đầu… Người kia nói:

-Trước kia, khi ni cô xuống tạ tội hay cười dưới âm cung, tôi đã gặp ni cô… Có nhớ không?

-Tôn ông… là ai vậy?

-Tôi là thiên tử ở tầng trời Tứ Thiên Vương… xuống đây để canh gác bộ Kinh Du Hý Thần Thông Biến Hóa Kinh… Nhưng trước kia, khi ở dưới âm cung… tôi là tên đóng khố ăn cắp hoa cúng đức Phù Đồ ở chùa Hóa Độ. Bị vua Diêm Vương hạch tội… rồi sau lại cho đi thọ sanh tại tầng trời này…

Ni cô vui mừng:

-Đúng rồi… tôi nhớ rồi. Nhưng trước kia, nét mặt xấu xí mờ tối… nay sáng quá, nên nhận không ra…

Người kia chỉ tay:

-Đây là núi Tam Tinh Tà Nguyệt. Hình sáng như mặt trăng, có ba ngọn núi nhỏ chầu hầu… Ni cô cứ đi theo dòng suốt dưới chân núi thì sẽ gặp… Bộ kinh Pháp Bảo được cất giấu trong đó, trong một chiếc tháp, chờ người có túc duyên… Tới lúc đó, vị sa môn Lý Liễu Quán cứ đề khởi tâm TỪ là tháp sẽ mở rộng…

Ni cô mừng rơn, chưa kịp tạ ơn. Người kia đã biến đi mất trong một gợn hào quang…

Sáng hôm sau, nàng dậy rất sớm… tìm kiếm con hươu. Thấy nó đã đứng ngay nơi sân chùa, đương tìm gặp những bụi Thương Nặc Ca cỏn sót lại… Nàng cầm dây hươu, nói to:

-Đi… chúng ta đi… đi ăn cỏ Thương Nặc Ca ở lòng suối và đi tìm kinh… Thấy kinh rồi…

Trời quang đãng, và phía đông, mặt trời đỏ hồng… Tiếng nàng vang lên trong ngôi chùa cô tịch… Mấy người kia đều chạy ùa ra… Vô Hỷ Lạc bước loạng quạng, nhưng hắn cũng ra được sân… Sau đó, Cuồng Huệ phải dắt hắn xuống núi.

Nàng dắt hươu chạy lon ton trước… Tới chân núi, thấy dòng suối ứ nước chảy cuồn cuộn, bọt nước tung tóe… Nàng men theo dòng suối mà đi, đôi khi phải lội xuống nước. Con hươu đi theo. Gặm những ngọn cỏ Thương Nặc Ca nổi bên trên dòng nước. Mấy người kia theo chân…

Đi tới gần trưa, quả nhiên thấy ngọn núi thấp, một mặt sáng như gương, lấy đá gõ mạnh phát ra tiếng kêu như chuông… Từ xa, Cuồng Huệ đã nhìn thấy một đạo bạch quang xông lên từ dưới núi… Ni cô Lôi Âm kêu:

-Ơ… đúng đây rồi… Đúng như đêm qua, tôi thấy trong cơn mộng…

Nàng đứng lại kể cơn mộng cho mấy người nghe. Kể về anh đóng khố ăn cắp hoa cúng Phật… nay là vị thiên tử trời Tứ Thiên Vương… Thạch Sanh nghe bùi ngùi… hồi tưởng lại lần mình đi thăm chiếc chòi xơ xác của anh ta… Chàng lẩm bẩm:

-Đúng là Phật Pháp bất tư nghi… Chúng sanh cũng bất tư nghi… thay đổi chuyển hiện không biết sao mà nói được…

Họ rời lòng suối, đi tới ngọn núi… Núi này to nhưng thấp, chung quanh có ba ngọn núi nhỏ nhưng cao hon đứng chầu hầu. Càn Thát Bà đắc chí cười hăng hắc:

-Đúng rồi… Tôn Giả nói trúng phong phóc… Tam Tinh Tà Nguyệt động, đúng là nơi ước mong… Tam Tinh là ba ngôi sao, đứng chầu mảnh trăng tà… nên ghép lại… thành chữ TÂM… Hay chưa?

Cuồng Huệ cười:

-Đại sư huynh mới xuống nhân gian, mà đã thuộc ngay chữ nghĩa… Thế mà tiểu đệ nghĩ không ra…

Họ dừng lại, ngắm nhìn mấy hòn núi… Thỉnh thoảng, có những bầy chim lạ bay tới, đậu trên mỏm núi, có con ngậm cọng hoa, tới núi thả hoa xuống. Như cúng dường núi… Nơi chân núi, một bụi cỏ Thương Nặc Ca mọc um tùm che kín một mảng núi. Con hươu xông tới, ào ào gặm bụi cỏ…

Càn Thát Bà nói:

-Núi thì đúng đây rồi. Kinh cũng trong đó. Nhưng không thấy hang… Làm sao vào?

Ni cô ngẩn ngơ nhìn quanh. Bỗng kêu:

-Cửa hang đây rồi…

Thì ra bụi cỏ Thương Nặc Ca che lấp cửa hang động… Con hươu ăn ào ào một hồi, khiến lấp ló cửa hang… Ni cô vội chạy tới, tay vẹt cỏ… rồi lom khom chui vào hang động… Mấy người theo sau…

Cửa hang nhỏ và thấp. Nhưng khi đi vào, thấy có những bậc đá đi sâu xuống lòng núi… Con đường hẹp và tối om, nên họ phải nối đuôi đi… Cuồng Huệ chui vào sau cùng, y lấy tay nhổ sạch bụi cỏ Thương Nặc Ca, để ánh sáng lùa vào hang động… Xuống sâu chừng bảy, tám chục bậc… thấy lỏng hang tương đối rộng hơn. Nhưng hang vẫn tối om, chỉ có Cuồng Huệ trông được rõ ràng. Y nói:

-Phía trước mặt, có chiếc tháp nhỏ. Chắc là bảo tháp. Chiếc bảo tháp le lói ánh chiếu sáng… Họ đi tới, thấy tháp chỉ cao hơn đầu người, mỗi bề rộng chừng hai thước… Càn Thát Bà sờ tay vào tháp, nói:

-Bảo tháp này không biết làm bằng thứ đá gì, hay gỗ gì, mà nhẵn thín trơn tuột, không có vết ghép… Hơi giống đá lưu ly miền Hương Thủy Hải… Á à… có dòng chữ nói: “Bửu Tháp Nước Chảy Mây Trôi…”

Ni cô khẽ nói:

-Nước chảy mây trôi… thế là nghĩa sao?

Cuồng Huệ trầm ngâm:

-Có thể có nhiều nghĩa… Nước chảy mây trôi là chỉ cho đạo lý vận hành của pháp giới, trong đó mọi sự mọi vật đều triển chuyển không ngừng, niệm niệm sanh diệt biến hóa không có gì là cố định… nên phải có TÚC DUYÊN lắm mới gặp được. Mọi sự như áng mây bay, như làn khói tỏa… Hoặc cũng có nghĩa là nói về KINH. Trong này, có bộ Kinh Du Hý Thần Thông Biến Hóa. Nên muốn chỉ lời kinh như nước chảy mây trôi, như hư như thực, như ẩn như hiện… Và phải người có trí huệ sâu kín, lìa hình tướng… mới nhận, mới vào được…

Ni cô Lôi Âm muốn vỗ tay khen hay… nhưng nàng phải dằn tâm… Quay lại nhìn Thạch Sanh, thấy chàng đã sụp lễ bảo tháp. Lễ xong ba lễ, chàng ngồi xuống kiết già… khoan thai đi vào cơn định… đề khởi tâm TỪ…

Bỗng có tiếng động và hơi thở phì… phì… nơi chân bảo tháp… Ni cô lom khom cúi đầu nhìn… bỗng kêu Ối và vội vã lùi lại, níu lấy Cuồng Huệ… Thì ra nơi chân bảo tháp, một con mãng xà lớn đương uốn khúc nằm, lúc này mãng xà nghểnh đầu, lắc lư cái mào, há miệng đỏ chót, thở phì phì… Cuồng Huệ trấn an:

-Không sao đâu. Chắc là một vị Long vương nào đó… tới giữ kinh. Mình có thiện tâm… nhị sư huynh lại đương đề khởi tâm Từ… thì chẳng có gì não hại được…

Sa môn Lý Liễu Quán vẫn ngồi bất động, tỏa tâm ý trùm lên các loài chúng sanh… Nghĩ tới các loài đương bơ vơ sợ hãi trong pháp giới… nghĩ tới những nơi ngằn mé sơn cùng thủy tận, các cồn bãi, hang sâu, lòng đất kim cang tế, các dải tinh hà lồng lộng trăng sao… nơi nào cũng lúc nhúc những loài bò bay máy cựa, có những chúng sanh trông thấy hoặc không trông thấy, có sắc hoặc phi sắc… có loài hai chân, loài bốn chân, loài trăm chân… loài hữu tưởng, loài vô tưởng, có loài phi tưởng phi vô tưởng… tất cả đều bơ vơ lạc lõng sợ hãi lo âu… sợ hãi trước cuộc sống mênh mang không biết đâu là cùng tận, sợ hãi bị nuốt sống, sợ hãi trước ngày mai vô định, trước cái chết thăm thẳm khó lường, sợ hãi không hiểu mình từ đâu đến rồi đi về đâu… trên tất cả những loài đó, Thạch Sanh lặng lẽ tỏa màn tâm ý… cầu mong cho khắp cả được thấm nước cành dương, nếm phong vị cam lồ… trút sạch nỗi lo âu… cầu mong thỉnh được bộ kinh Pháp Bảo đem về làm bóng mát cho trần gian…

Chàng ngồi quán một hồi lâu… Mọi người đều im lặng, như chờ đợi một sự việc kỳ diệu… Bỗng thấy sa môn Lý Liễu Quán từ từ giơ bàn tay lên, một ngón tay chỉ vào bảo tháp… Một dòng sữa trắng của tâm Từ bỗng vọt ra từ ngón tay, bắn mạnh vào bảo tháp… và ô kìa! Cánh cửa vô hình của tháp đã mở.

Chàng khoan thai xả định, đôi mắt ứa lệ… xụp lễ tháp bảy lễ… Có tiếng sột soạt dưới chân tháp… Con mãng xà lớn đã trườn mình bò đi, giây lát mất hút…

Cuồng Huệ bước tới, mở to cửa tháp, thấy bên trong chỉ vỏn vẹn có hai bọc, gói bằng thứ lụa Đâu La Miên không hư hoại của nhà trời… Một bọc to đề mấy chữ: Du Hý Thần Thông Biến Hóa Kinh, một bọc nhỏ đề: Ngọc Xá Lợi. Cả hai đều lấp lánh hào quang…

Cuồng Huệ giơ tay nâng chiếc bọc lớn, đội trên đầu… Ni cô đội chiếc bọc nhỏ…

về tới chùa Lôi Âm, họ đặt hai bọc trên bàn thờ chánh điện để cùng lễ tạ… Sau mới mở bọc.

Chiếc bọc nhỏ đựng một chiếc hộp bằng gỗ chiên đàn, trong có bảy viên ngọc sáng chói to bằng đầu ngón tay… Ngọc Xá Lợi này thuờng hay biến hiện, tùy theo tâm thức của người đứng nhìn mà óng ánh những màu sắc huy hoàng rực rỡ… Sau khi chiêm ngưỡng xá lợi, họ quyết định mang về Phong Châu xây tháp đựng xá lợi, để mọi người đều có thể cúng dường. Giao bọc xá lợi cho ni cô Lôi Âm. Họ xúm quanh chiếc bọc lớn. Thạch Sanh run run giở bọc. Thấy bốn cuốn kinh đầy cộm, ngoài đề chữ bằng vàng Diêm Phù Đe “ĐẠI PHÙ ĐỒ PHẬT DU HÝ THẦN THÔNG BIẾN HÓA KINH”… Nhưng khi mở cuốn kinh, thì mặt chàng thất sắc… vì những tờ kinh đầu không có chữ… Giở luôn mấy tờ, cũng vẫn trắng bạch… Cả bọn đều chưng hửng… Thạch Sanh đặt cuốn kinh trên điện, rồi ngồi phịch xuống thềm đá… Cuồng Huệ chợt nhớ tới quang cảnh nhìn thấy trong tấm kính đàn Như thật bất không… Y nói:

-Nhị sư huynh nghĩ lại xem… Có thể nhị sư huynh còn một nghiệp chướng rơi rớt chưa trả đối với Kinh…

Thạch Sanh cũng nhớ tới vụ say rượu đánh cháy kinh ở biển Nam Hải… Chàng lấy một miếng vải lớn trải trước chánh điện để đặt bộ kinh. Rồi chàng ngồi hướng vào chánh điện… Chàng muốn tụng lại bộ kinh mà kiếp xưa chàng từng tụng…

Nhưng chàng chẳng nhớ được gì cả. Chàng đành vào định, rồi quán chiếu cảnh xưa kia chàng ngồi tụng bên phiến đá trên bờ ao như trong tấm gương đã hiện lên… Từ miền Vô thức của chàng lần lần lãng đãng nổi lên những lời kinh tản mác. Chàng cứ theo đó mà tụng vang vang…

Bỗng tụng đến câu:

“Vô lượng vô số các cõi nước, có cõi có Phật, có cõi vắng Phật… có cõi nhẹ như ánh sáng, hoa sen đầy khắp có các Bồ Tát ngồi trên, có cõi trung bình sỏi đá gồ ghề các chúng sanh phải lao tác khổ nhọc mới có cơm ăn, có cõi nặng như đồng chì các chúng sanh đói khát và không có ánh sáng… có cõi có đức Phù Đồ chỉ dùng hương thơm hoặc cơm thơm cũng đủ khiến chúng sanh đắc đạo quả… có cõi Ngài dùng nụ cười, dùng tà áo, dùng hư không, dùng suối chảy, dùng hoa sen cũng khiến đắc quả sạch phiền não… có cõi Ngài phải dùng lời nói để thuyết kinh cho những chúng sanh căn cơ ít mãnh lợi… nhưng tất cả những cõi đó đều kết lại thành những cánh hoa… của một bông Đại liên hoa chói lòa quang minh… mọc lên giữa biển Hương…

Chàng bỗng nổi cơn ho rũ rượi và ngưng lại… Một làn uất khí nổi lên rào rạt trong người, và chàng thổ ra một búng máu tươi… Mấy giọt máu đỏ như son bắn rớt vào cuốn kinh…

Chàng cố trấn tĩnh lấy lại hơi, mở mắt nhìn búm máu… thì lạ chưa! Trang kinh trắng nay đã hiện chi chít chữ, và mở ngay vào đoạn chàng vừa tụng… Lòng chàng nở ra như hoa… và không đứng dậy, chàng tiếp tục tụng những trang kinh nay có chữ… Mấy người kia cũng líu ríu ngồi sau lưng chàng nghe kinh…

Chàng tụng luôn suốt bảy ngày đêm… Rồi mệt quá, đành để ni cô Lôi Âm tụng tiếp… Hai người thay phiên nhau tụng hết bộ Kinh Pháp Bảo… thì non một tháng trời đã trôi qua…

Cuồng Huệ ngồi nghe miên mang, thấy thông suốt nghĩa, và nhớ nằm lòng lời kinh… Thì ra y đã được văn trì Đà La Ni, nhớ pháp không quên một chữ…

Mấy ngày sau, Thạch Sanh nêu lên chuyện trở về. Mọi người không ai nói gì… Duy Cuồng Huệ nói:

-Nhị sư huynh lên đường bình an… mang kinh trở về độ xứ Phong Châu… Tiểu đệ xin ở lại đây…

Thạch Sanh lặng lẽ nhìn y không nói gì… vì chàng hiểu ở người sư đệ muốn một mình một bóng… tu Những hóa thân vô lượng. Ni cô Lôi Âm tỏ ý bịn rịn. Cuồng Huệ cười nói:

-Những người tu hành đi cùng một đường… lúc nào cũng gần nhau trong tâm tưởng… và kiếp nào cũng gặp nhau…

Càn Thát Bà:

-Chú mày ở lại hả?… Ta cũng muốn ở lại với chú mày. Nhưng ta còn thích xem hội hoa đăng… Lần này về, chắc có nhiều hội hoa đăng đón chú sa môn hay khóc…

Cả bọn đều cười… Cuồng Huệ lấy ra viên Thiên La như ý châu, đưa cho Thạch Sanh:

-Oai lực nhị sư huynh lúc này rất lớn, dọc đường chắc bình yên. Nhưng cũng nên đề phỏng bọn Đại quái… muốn cướp bộ kinh Pháp Bảo để phá hoại người tu… Nên nhị sư huynh hãy cầm viên bảo châu này để trợ oai lực.

Thế là chia tay… Cuồng Huệ ở lại với con hươu. Con vật lúc này mê cỏ Thương Nặc Ca…

Bọn họ chỉ còn lại bốn người, lần gót đi trở lại con đường cũ… Dọc đường cũng không có chuyện gì xảy ra. Và chuyến trở về cũng phải mất mười lăm tháng mới tới Phong Châu.

Khi đi ngang qua đảo Lăng Già, Thạch Sanh có ý nhìn lên mỏm núi đá, nhưng không thấy bóng dáng Dạ Xoa… Chắc là gã đã được chuyển thân thành Phi Hành Dạ Xoa… Khi vượt qua cửa Tần Mã, không còn thấy sóng cuồn cuộn nổi. Thạch Sanh có ý chờ đợi cá Ma Kiệt nổi lên để báo cho y biết là chàng đã thỉnh được bộ Kinh Pháp Bảo và sẽ tụng kinh cầu nguyện cho y. Nhưng không thấy bóng dáng Ma Kiệt, có lẽ y đã được thọ sanh làm thân khác.

Họ cập bến Hương Bình vào một chiều cuối hạ. Nắng vàng rực rỡ. Thạch Sanh ngạc nhiên thấy bến Hương Bình thuyền hoa lượn lờ gấp đôi lần ngày trước, và trên bờ cờ xí cắm đầy bay phấp phới trong gió chiều lồng lộng… Trong khi Vô Hỷ Lạc rút mấy nén bạc cuối cùng trả cho chủ chiếc thuyền buồm mướn, Càn Thát Bà reo lên:

-Lại có hội hoa đăng… Nhiều đèn quá…

Chưa nói dứt lời, đã thấy bóng dáng hai viên đại thần râu dài xăng xải bước tới, theo sau là thầy tăng Minh Tạng… Họ bước tới bờ nước, nhìn mấy người đi lên. Và ngạc nhiên không ít thấy ngoài sa môn Lý Liễu Quán, còn có một vị sa môn nữa và một ni cô. Nhìn một lúc, họ nhận ra ngay là công chúa Mỵ Ê mất tích tại chùa Hóa Độ đêm hôm rằm ba năm trước…

Họ vội vàng phi báo ngay về nhà vua. Khi vua và hoàng hậu lật đật đi kiệu tới, ni cô Lôi Âm phục xuống lạy. Hoàng hậu ôm chầm lấy con, khóc nức nở vì sung sướng… Nhà vua cũng nắm chặt tay Thạch Sanh, chẳng nói lên lời… Thầy tăng Minh Tạng nói:

-Cách đây non một tháng, bần tăng ở chùa một buổi chiều bỗng thấy ráng chiếc cầu vồng vàng nối liền hai bên rặng liễu tại hồ Tiểu Kính Tâm, lại thấy rặng thông nghiêng dần mình về phía Tây như nghênh đón thánh tăng cùng bộ Kinh Pháp Bảo, nên vội vàng thông báo đức vua. Từ đó, hai vị đại quan đây cùng bần tăng được lệnh túc trực nơi bờ sông này, cắm cờ giăng đèn kết hoa… để nghênh đón…

Thạch Sanh sụp xuống lạy… Các thuyền chung quanh đều nổi đàn sáo dập dìu, và dân chúng bu lại đông nghịt… trong đó có một số kỹ nữ mặt hoa… Họ xì xào:

-Vị sa môn kia… trông giống gã làng chơi Kỳ Dư Tử xưa kia quá…

-ơ hơ… còn giống gì nữa. Đúng là gã rồi… Chắc là tìm không thấy ả Quỳnh Nhi nên xuống tóc làm sa môn quách…

Vô Hỷ Lạc tuy mắt chưa nhìn thấy, nhưng tai nghe rõ mồn một. Hắn mỉm cười thầm, vì thấy lòng vẫn lặng lễ dửng dưng. Duy hình ảnh ni cô Tịnh Đe thoảng qua trong đầu hắn, và hắn chợt nghĩ: “Có lễ chừng bảy năm nữa, mình lại phải qua Tây Trúc một lần nữa, tới xứ Ma Gia Đà của thái tử Di Đà La Ni Tử, vì ni cô Tịnh Đế có hẹn sẽ tới độ cho thái tử…”

Đêm hôm đó, ni cô Lôi Âm về hoàng cung nghỉ tạm. Còn bọn Thạch Sanh về chùa Hóa Độ…

Ngày hôm sau, nhà vua xuống chiếu phong sa môn Lý Liễu Quán làm Hộ Quốc Su, kiêm chức Thái tử thiếu bảo để dạy bảo Hoàng thái tử, tức em trai của Mỵ Ê. Đồng thời, truyền lệnh mở hội Hoa đăng ròng rã một tháng tròn đầu thu, và khai đàn tụng bộ kinh Du Hý Thần Thông, để cầu siêu cho các liệt sỹ cùng vong hồn… Lại tuyển năm mươi người viết chữ đẹp, truyền chép bộ kinh thành năm mươi bản, gửi đi các chùa để giữ lấy làm bảo vật. Bộ kinh chính thì giữ trong hoàng cung, xây một bảo tháp đựng kinh cùng Ngọc Xá Lợi.

Từ đó, trong suốt một thời gian sáu, bảy chục năm, dưới thời đức vua cùng dưới thời Hoàng thái tử lên trị vì, xứ Phong Châu được an lạc âu ca, mưa thuận gió hòa, không có giặc giã… Chỉ có một lần, một đám giặc Cờ Xanh nổi lên ở miền Nam. Chúng kéo quân tới một thị trấn đánh chiếm. Quân sỹ trong thành đã dàn quân chống cự, những vị tăng trong thị trấn cũng khai đàn tụng bộ Kinh Pháp Bảo… Tiếng tụng kinh vang vang nổi lên… và bọn giặc bỗng nhìn thấy cơ man thiên binh thần tướng đứng trên mặt thành, nên chúng vội vã rút lui rồi tan hàng.

Tại sao vậy? Phần lớn người đời đều không biết điều này. Là vì hầu hết những việc xảy ra ở thế gian này… đều được an bài bởi các vị Quỷ thần vương cùng quỷ thần, theo như nghiệp lực của chúng sanh xứ đó. Dù là binh đao, tật dịch, thiên tai, động đất cũng vậy… Nếu có loạn dương là vì có loạn âm. Những loài tiểu quỷ nổi loạn, nên tác động vào lòng người… khiến nổi lên các thứ căm thù cùng tham sân si và nổi loạn… Nhưng nếu có nhiều người biết tụng kinh trì chú, ăn chay giữ giới, phóng sanh… thì Tâm sẽ chuyển, Nghiệp sẽ chuyển… và các Quỷ thần vương phải an bài lại mọi sự và gia giảm những tai họa…

Thạch Sanh thường ở chùa Hóa Độ… Vị sư già gần một trăm tuổi đã tịch mất rồi. Chàng thường tụng kinh để cầu cho giác linh vị sư già được siêu độ… Chàng đã đắc Niệm Phật tam muội, luôn luôn được thấy đức Phù Đồ, nên đương hạ trước mắt chàng, xứ Phong Châu gồ ghề sỏi đá cũng trở thành một thứ Tịnh Độ… Chàng lưu lại ở cõi này độ sanh cho tới năm bảy mươi tám tuổi. Rồi an nhiên ngồi mà nhập hóa, thần thức bay về miền Nam Hải, cõi Tịnh Độ của đức Quán Thế Âm. Đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn… rồi thẳng đường lên ngôi Chánh giác…

Ni cô Lôi Âm được vua cha xây một ngôi chùa trong vườn Ngự Uyển để ni cô tu hành… Nhưng chiều chiều, nàng thường hay sang chùa Hóa Độ để vấn an hoặc thỉnh ý sư phụ Thạch Sanh. Nàng vốn là con cá vàng của đức Quán Thế Âm, nên tu hành mau tiến bước… Có một lần, chừng năm, sáu năm sau khi trở về Phong Châu, nàng bỗng nhớ tới Khuất La Đô. Một mình cất bước tới thăm ngọn núi Yên Hà Lãnh… Nhưng tới nơi chỉ thấy cây cỏ cùng hang động tiêu điều… Biết rằng Khuất La Đô không hề trở về núi ấy…

Sa môn Vô Hỷ Lạc, khi về Phong Châu, bèn bán hết ruộng nuong tài sản, đem tiền trùng tu chùa Hóa Độ… Cùng ở với Thạch Sanh, chàng tinh tấn tu môn Lạc Kiến Chiếu Minh. Chừng ba năm, tâm nhãn nở ra… nhãn lực nhìn cỏn tốt hơn mắt thịt, tuy đôi mắt thịt vẫn còn là hai vết sẹo… Đến năm thứ bảy, y từ biệt Thạch Sanh, một mình lên đuờng sang Tây Trúc, tới xứ Ma Già Đà của Di Đà La Ni Tử. Lúc đó, vua Ca Chiên Đà Tử đã băng hà, và Thái tử đã lên ngôi… Ni cô Tịnh Đe cũng đến đó, nhung chỉ lưu lại một thời gian ngắn… Riêng Vô Hỷ Lạc còn ở lại, giúp đỡ nhà vua trẻ nhiều việc lạ kỳ. Dân chúng nơi đó thường gọi y là vị Sa môn mù… nhưng nhìn rất sáng.

Riêng Càn Thát Bà, hắn ở lại Phong Châu được chừng một năm, để chơi hội Hoa đăng, và nghênh ngáo khắp nơi. Một hôm, bỗng động lòng tha phương, hắn từ giã Thạch Sanh trở về cõi trời Đao Lợi… Nhưng chỉ chừng sáu tháng, lại thấy hắn tiu nghỉu trở về chùa Hóa Độ. Hắn không giải thích gì cả. Nhưng hình như hắn lại bị vua Đế Thích đuổi đi, vì tật ngủ gật và hay vọng ngôn… Cũng còn một lý do nữa… là hắn xuống trần gian lâu quá, nên thân thể nặng nề chậm chạp, không còn thích ứng với cuộc sống trên trời… Từ đó, hắn ít nói, chịu khó tu hành. Nhưng tu hành một cách bất đắc dĩ nửa tăng nửa tục… Hắn chỉ nể nang một mình Thạch Sanh, còn không coi những vị tăng khác là gì cả… Nhưng dân chúng Phong Châu lại rất mến mộ hắn, gọi hắn là vị thánh tăng già không chịu niệm Kinh…

Riêng Cuồng Huệ ở lại với con hươu tại chùa Lôi Âm Tự. sống cuộc sống thong dong tự tại.

Thỉnh thoảng, y bay đi khắp nơi trong rặng núi Tuyết Sơn, ngồi trên những đảnh núi cao có gió hú lồng lộng, để suy tư hoặc nhìn tuyết phủ… Tới thăm những chỗ đất-trời- giao-họp, viếng nơi bắt nguồn của con sông Hằng Hà, thăm ao A Nâu Đạt ở đó có vị Long vương Đại Bồ Tát Đệ Thất Địa làm chủ tể khiến cho nước không đầy không vơi, và cũng từ đó xuất phát bốn con sông lớn của cõi Diêm Phù Đề… Đi kiếm thứ cây có trái nam nữ và biết tàng hình, kiếm các thứ cỏ thuốc kỳ lạ có cơ man trong dải Tuyết Sơn… Gặp không biết bao loại rồng rắn lúc nhúc trong đó, đi tìm cỏ thuốc…

Đôi đi, đứng trên đảnh núi cao, nhìn xuống nhân thế mịt mờ tiêu điều. Mỉm cười tự nhủ: “Mình đã hưng khởi Đại bi tâm, đáng lẽ phải đi vô trần gian độ loài người… Nhưng thôi, để việc độ người cho nhị sư huynh. Tạm thời, mình độ các loài phi nhân.” Vày thường hay giúp đỡ các loài súc sanh trong đó.

Y hay dắt chú hươu tới hang Tam Tinh Tà Nguyệt ăn cỏ Thương Nặc Ca. Hươu ăn cỏ này không biết chán… Có lần, y mắng hươu: “Ngươi đừng có ăn hăng hái quá, đừng quyện mùi vị quá… đừng chiều chuộng sắc thân quá… kẻo cứ phải dính vào sắc thân, rồi luân hồi mãi với sắc thân súc sanh ấy. Người đời cũng vậy, ngu xuẩn quá… chỉ thích ăn… và chỉ thích dung dưỡng sắc thân. Nhưng sắc thân chỉ toàn giỏi bọ, nặng chình chịch, có hay ho gì đâu, trước sau cũng vứt… Ngươi phải biết chán sắc thân, dùng nó như một công cụ tu hành thôi. Phải cầu mong thân hào quang tự tại… Ngươi biết không? Neu không biết chuyển ý thì cả ngàn kiếp nữa… ngươi cũng vẫn là hươu… Cả ngàn kiếp hươu thì thực tối tăm mù mịt… Cả ngàn kiếp người cũng vậy, chỉ nghĩ tranh giành xâu xé…”.

Giọng nói và tâm lực y thấm vào hươu, khiến đôi khi hươu chảy nước mắt. Từ đó, hươu bớt ăn… thường theo lẽo đẽo y. Mỗi khi y ngồi thiền định vào Lỗ lông, ở Lôi Âm Tự hay trong hang Tam Tinh, hươu thường ngồi chầu hầu bên cạnh… đôi khi rùng mình, như muốn tắm trong đám hào quang của y.

Y nhiều lần tới ngồi thiền trong hang Tam Tinh. Y biết rằng tháp báu Nước Chảy Mây Trôi… được dựng bởi ngài Đại Bồ Tát Long Thọ, Kinh và Ngọc Xá Lợi cũng do ngài để đó… Nên y muốn được gặp… Y ngồi thiền vẫn nhìn thấy nhiều vị thiên tử lảng vảng trên không trung, nhưng tuyệt nhiên không gặp ngài Long Thọ… Y nghĩ thầm: “Chắc là ngài không muốn xuất hiện… và mình có lẽ không có cơ duyên diện kiến, chỉ được nghe lời dạy thôi…”

Đôi khi, trong những lúc xả thiền, động tâm nhớ tới Thạch Sanh, Càn Thát Bà, Khuất La Đô, Mỵ Ê… và Tịnh Đe… Y nhớ lại khóe mắt nhìn của ni cô Tịnh Đe lúc ở Đại Kính Hồ mà giật mình… Thầm nghĩ: “Cha… chả… mình thoát khỏi cơn mê hoặc đó… chắc là do sức hộ trì của Đại nhân Tóc loe…” Nghĩ tới Tóc loe, y lại phải dằn tâm để làm tiêu tan tâm niệm lưu luyến…

Y cũng hay ngồi nhẩm lại lời Kinh Du Hý Thần Thông Biến Hóa mà y nhớ nằm lòng từ đầu đến cuối, không sót một chữ. Lời kinh như thấm vào y…

Là vì lời kinh xưa, trong bộ kinh bốn ngàn trang ấy, có nói gì khác đâu! Trước sau, chỉ giảng giải và nói rằng: Pháp giới này, với tất cả những cảnh giới, tất cả chúng sanh, tất cả vô tình… có là gì đâu, chỉ là Biến Hóa. Biến Hóa của Nghiệp Lực, của Nguyện Lực, của Thần Lực… Các thứ thân căn, các thứ y báo thường chỉ là biến hóa của Nghiệp Lực. Các thứ sự nghiệp, các cuộc tình duyên… chỉ là những hình bóng chập chờn của sự biến hóa Nghiệp Lực… Các người tu hành, các cảnh giới tu hành… dần dần tiếp thụ được khí phần của sự biến hóa do Thần Lực… Và mục tiêu của sự tu hành cao vời vợi. Không phải chỉ là Giải thoát cho chính mình. Giải thoát chỉ là một hóa thành, cỏn rất thấp. Mà cứu cánh tột vời phải là NHẬP PHÁP GIỚI… dùng thân tâm mình trải rộng khắp hư không, nhập từng cánh hoa, từng hạt bụi, từng dải tinh hà… để dẫn dắt tất cả Hữu tình cùng Vô tình đều Nhập

Pháp Giới… Cứu cánh tuyệt vời là nhu vậy. Là vào một lỗ lông Sái cam lồ, khiến nó bừng chiếu sáng, nở rộng bao trùm các cõi… Chỉ có bộ kinh này giảng nói về Lễ đó, nên những kẻ tu hành không mấy ai biết… Và chu Phù Đồ là gì? Chỉ là THẦN THÔNG BIÉN HÓA TRÀN ĐẦY thế gian, để Nhập Pháp Giới, và dẫn dắt mọi loài tới chỗ đó…

Y thấy thông suốt được lời kinh… và sống những tháng ngày tuyệt vời… trong những cơn định hoặc mộng tưởng tuyệt vời… Nghĩ bụng: Mộng tưởng nào cũng vậy, lâu ngày tích tụ, trở thành mộng tưởng kiên cố… tức là Sự thực trước mắt…

Và vì mọi sự vật đều là ảnh hiện, đều là biến hóa, nên lìa Có, và cũng lìa Không…

Một lần, y được một cơn mộng tuyệt vời. Cơn mộng cũng hơi giống như cơn mộng năm xưa, nhưng cũng khác…

Sau khi xả thiền dưới ánh trăng sao, y chợp ngủ trên thềm sân chùa…

Mộng thấy mình mang thân người và một chiếc đầu rồng to lớn, hàm râu vểnh ngược đâm tua tủa. Thân hình trải rộng dài trong không gian, đầu gối lên chỏm núi có chùa Lôi Âm trong rặng Tuyết Sơn, hai chân chấm vào nước biển ở miền Tây Trúc. Nơi rốn mọc lên một bụi cỏ Thương Nặc Ca rậm rì mênh mang, có nhiều loài hươu nai vô số tới gặm cỏ, và các loài chim lạ bay tới xào xạc rúc rích. Y nằm ngửa, nhìn lên thinh không thấy trăng sao lồng lộng. Y giơ tay lên khều trăng sao, thấy trăng sao rung rinh như muốn rớt…

Bỗng vang vang có tiếng người lè nhè ngâm thơ, giọng như tiếng của Đại nhân Loa Kế:

Trong một Lỗ lông nhập chánh định
Nơi một vi trần từ định xuất
Trong một vi trần nhập chánh định
Tất cả lỗ lông từ định xuất…
Trong tất cả trần nhập chánh định
Nơi đất Kim Cang từ định xuất
Trong đất Kim cang nhập chánh định
Nơi quang minh Phật định xuất
Trong quang minh Phật thập chánh định
Ở nơi lửa lớn từ định xuất
Ở trong lửa lớn nhập chánh định
Nơi gió xuất định tâm chẳng loạn
Đây gọi bậc Vô lượng công đức
TAM MUỘI TỰ TẠI khó nghĩ bàn…
Trong thân đồng tử nhập chánh định
Nơi thân thiên nữ từ định xuất
Trong thân thiên nữ nhập chánh định
Nơi thân đại long từ định xuất
Trong thân đại long nhập chánh định
Hiện thần Như Lai từ định xuất

Rồi tiếng ngâm thơ bật lên tràng cười ha ha… Cuồng Huệ cũng bật tiếng cười lớn, và thức dậy. Cuồng Huệ cảm thấy lời thơ chính là lời kệ, và lời đó ngấm vào cốt tủy y. Y định quay đầu nhìn, nhưng lại có tiếng người nữ ngâm theo, giọng như giọng Mỵ Ê:

Giờ đây… quang giấc mộng đời
Mơ chùm sao rụng nghiêng trời biển Đông
Mơ miền Hương Thủy thong dong
Lời kinh hư thực rải lòng Huyền không…
Chừ đây… thiêm thiếp trăng hồng
Mở tâm vô lượng soi vòng trần ai
Thấy thân bước tới Kim Đài
Hóa hình cát bụi hiện ngoài thinh không
Gặp người thiên nữ thần thông
Tung hoa diệu ý toại lòng xót thương…

Rồi tiếng người nữ cũng bật cười khanh khách… Y định quay đầu nhìn, nhưng thấy đầu mình như dính chặt với đá núi, không cựa được… Bỗng lại có tiếng người nữ nữa ngâm thơ:

Xin biến Thức tâm tôi thành hoa đằm Không tuệ
Biến Ai tâm thành… lượn sóng Hóa thân
Để vỗ cánh vượt muôn trùng không xiết kể
Ẩn thân mình làn mây sáng lung linh…

Đúng là giọng ni cô Tịnh Đế… Y cố cựa quậy đầu để nhìn. Nhưng vẫn không được… Trên thinh không, trước mặt y, chỉ bảng lảng một áng mây hồng, vẽ thành ba chữ lớn: NHẬP PHÁP GIỚI

Y cũng bật tiếng cười lớn, và thức dậy.

Y ở trên núi Lôi Âm chừng ba năm. Sau đó, mịt mùng tăm tích. Không biết y đi đâu? Chắc là đi tới một cảnh giới có nhiều Tự Tại Thần Thông Lực, vì y thường nói rằng: Nơi nào có nhiều Thần thông lực, nơi đó chính là Quê hương của y./.

HẾT
TRỌN BỘ