TRANG TÔN KINH
HUYỀN HOẶC
TẬP I
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

HỒI X

Nữ La sát tung hoành thiên la võng
Tịch tình tang… héo mặt giai nhân

Đến tảng sáng ngày hôm sau, Càn Thát Bà còn đang ngủ chập chờn trên mạn thuyền, Thạch Sanh đã thức giấc dậy rồi, nhưng ngồi trong khoang lầm rầm niệm Phật, Cuồng Huệ thì vẫn say sưa thiền quán.

Bỗng nghe qua làn gió sớm, thoảng như có tiếng khóc ai oán nỉ non. Tiếng khóc mỗi lúc một rõ hơn, nghe rất mực thảm thiết. Càn Thát Bà vội ngồi nhỏm dậy. Hắn nhìn ra phía xa, thì thấy có mấy vật nổi lềnh bềnh trên mặt biển. Hắn vốn rất tinh tế, nên hắn nhận ra ngay đó là mấy cái thây người đương trôi về phía thuyền, Hắn cất giọng Ồm Ồm:

– Này, này, lên mà coi. Có mấy cái thây ma, thây ma…

Thạch Sanh vội leo lên mạn thuyền. Tiếng khóc vẫn tiếp tục vọng lại, nghe như tiếng trẻ con, nhưng rõ mồn một như rót vào tai. Thạch Sanh nghe tiếng khóc mà bắt rùng mình… Chỉ một lát sau, bốn cái thây ma đã trôi tới, tấp vào thuyền. Chàng nhìn kỹ thì thấy những tử thi đó đều đã trương lên sũng nước, mặt mày tím ngắt và sưng phù. Một tử thi đàn ông, một đàn bà đã cao niên, ăn bận quần áo lụa đẹp đễ, một tử thi con gái ăn bận như lối thị nữ, và một tử thi con trai chừng mười lăm, mươi sáu tuổi ăn mặc rất sang trọng… Thạch Sanh cuống quít:

– Bây giờ làm sao đây, làm sao đây? Vớt họ lên chứ?…

Chân tay chàng như muốn run lên, và mắt muốn ứa lệ. Đây là lần đầu tiên chàng nhìn thấy hình ảnh chết tức tưởi phũ phàng, và từ khi được thấm hào quang của ngài Địa Tạng, đôi khi mắt chàng dễ hay muốn ứa lệ. Chàng càng ngày càng cảm thấy không thể cầm lòng nổi trước cảnh đau khổ của kẻ khác, và nghĩ bụng rằng dù mình có phải trả giá nào chăng nữa, thì cũng phải làm vơi những niềm khổ đau chung quanh… Vừa lúc đó thì Cuồng Huệ cũng leo lên. Nghe Thạch Sanh nói, y bèn cúi xuống sườn thuyền, định giơ tay nhấc mấy tử thi lên. Nhưng Càn Thát Bà vội ngăn lại:

– Khoan đã, khoan đã… (Hắn lắc lư chòm tóc:) Vớt thây ma lên làm gì, đằng nào chúng cũng chết dứ đừ rồi mà…

Thạch Sanh lắp bắp:

– Nhưng… nhưng cũng phải vớt họ lên… để chú nguyện cho cẩn thận chứ…

– Hừ… chú mày muốn chú nguyện… Đã là thây ma rồi, thì nằm trên thuyền cũng vậy, mà nằm dưới nước cũng vậy…

Thạch Sanh vội chắp tay, lầm rầm chú nguyện, cầu xin cho thần thức của bốn tử thi đó được siêu độ và đi thọ sanh ở cõi tốt lành. Nét mặt thiểu não của chàng khiến Càn Thát Bà bực mình. Hắn hậm hực:

– Ta thực không hiểu tại sao lão vua Thập Điện lại chọn chú mày mà trao cho trọng trách thỉnh kinh. Con đường thỉnh kinh thì ma chướng chập chùng, phải lẫm liệt trượng phu mới được, chứ động một tí lại mủi lòng như đàn bà con nít, thì làm sao thỉnh nổi?!

Hắn thường ngày hay ruột để ngoài da, nhưng vốn là kẻ lịch duyệt nên khi tâm sự hắn cũng khá tinh tế… Trong khi hắn nói, tiếng khóc vọng lại càng to hơn, thảm thiết hơn. Hắn lẩm bẩm:

– Mẹ kiếp! Cái vụ này, ta hồ nghi lắm. Ta ngửi thấy có mùi bất thiện. Có khi mình vừa mới xuất quân đã đụng ngay phải đại địch cũng nên… (Hắn bảo Cuồng Huệ) Ngươi bảo vệ cho cái tên sa môn hay khóc này, để ta đi coi xem sao?

Hắn vươn mình, quẫy chân một cái, bay thẳng lên không trung, đưa mắt nhìn ra xa, về phía tiếng khóc. Hắn giật mình khi nhìn thấy trên mặt biển thấp thoáng như có yêu khí chập chùng. Hắn lầu bầu: “Mình thực là lớn đầu mà vẫn còn cứ dại. Đi theo cha nội đó làm gì? Nhưng nó lại bầu mình lên làm đại sư huynh thì bây giờ, bỏ nó cũng không tiện tí nào…” Hắn định thần nhìn, thì thấy trên sóng lô nhô, có một miếng ván lớn, bên trên có một đứa con gái ngồi, đang ôm mặt kêu khóc. Đứa gái còn nhỏ, chỉ trạc chừng mười ba, mười bốn tuổi… Gần miếng ván đó cũng bập bềnh: năm, sáu cái thây người nữa… Hắn do dự không biết quyết nghi ra sao, cứ lẩm bẩm một hồi: “Không biết là nó đắm thuyền thực hay giả đây?… Bây giờ, nếu mình mà khôn ra, thì cứ việc thẳng tay đập nó một chưởng chết tốt. Nhưng nếu nó là yêu ma, thì cũng chẳng chắc gì đập nổi nó. Mà nếu nó là người thực thì cái nhơn quả đập người chết oan này, mình trả sao cho nổi?!…”

Hắn tuy là kẻ ăn ngang nói đọc, nhưng vẫn còn biết sợ nhơn quả. Hắn cũng hơi ân hận rằng từ bấy lâu nay, hắn đã lười biếng chẳng tu luyện gì mấy nỗi, để không đủ nhãn lực phân biệt được rõ giữa người với yêu ma… Sau cùng, hắn quyết định rằng cứ để theo dõi xem sao, nhưng cẩn mật đề phòng. Hắn bèn bay trở lại thuyền. Cuồng Huệ vội hỏi:

– Đại sư huynh có thấy gì không?

– Thấy có thêm mấy cái thây ma nữa, và một con nhỏ ngồi trên mảnh ván đương ôm mặt khóc.

Thạch Sanh xen vào:

– Nếu vậy, thì chắc có đắm thuyền thực rồi…

Một hồi lâu sau thì miếng ván trôi tới cạnh thuyền. Đứa con gái không kêu gào thảm thiết như trước nữa, nhưng vẫn ôm mặt khóc tức tưởi liên tu, nghe rất nỉ non thánh thót. Âm thanh như tiếng con nít, nhưng đôi khi lại già dặn như tiếng người lớn. Càn Thát Bà chửi đổng:

– Mẹ kiếp! Con tiểu ma đầu này nó khóc hay thiệt. Khóc mà cũng thấy cung bậc trầm bổng…

Thạch Sanh vội bảo Cuồng Huệ:

– Hiền đệ làm ơn vớt nó lên chứ! Nó còn sống mà…

Cuồng Huệ liền cầm cây sào, khoèo miếng ván lại gần thuyền rồi cúi xuống nhấc đứa con gái đặt lên sàn thuyền. Y nói:

– Chà, lạ thiệt. Người nó nhẹ như lông ấy sư huynh ạ. Có thể là bọn mình mắc hõm rồi… (Y đăm đăm nhìn đứa con gái:) Nhưng việc cứu người thì cứ cứu, đến đâu thì đến đó…

Đứa con gái ăn bận một chiếc áo đoạn màu tím rất sang trọng nhưng ướt sững, ngồi trên sàn thuyền, nước chảy thành vũng, vẫn cứ ôm mặt khóc. Đầu cạo trọc tếu, chỉ để hai trái đào, vóc người rất non trẻ… Càn Thát Bà săm săm bước tới, gỡ hai tay nó xuống để lộ bộ mặt. Cả ba người đều kinh dị, vì chiếc miệng của y thị méo xệch trông rất xấu xí, nhưng đôi mắt đỏ hoe đầy lệ lại rất đẹp và linh động. Càn Thát Bà sừng sộ:

– Này, ta bảo thực. Mi là người thực hay là yêu ma hiện hình, thì cũng chẳng làm gì nổi bọn ta đâu.

Đôi mắt đứa gái như thoảng có một ánh tinh nghịch vụt qua, nhưng y thị không trả lời gì cả, chỉ cúi mặt khóc ròng. Thạch Sanh thấy bất nhẫn quá:

– Xin đại sư huynh đừng nghi oan cho nó nữa, tội nghiệp!… Chắc là nó bị đắm thuyền đấy, và cha mẹ nó chắc cũng chết đuối cả rồi…

Càn Thát Bà quát hỏi:

– Có đúng như vậy không? Có phải mi bị đắm thuyền không? Mi từ đâu tới, mi phải khai cho thực…

Nhưng đứa con gái chẳng nói năng gì cả, chỉ một tay gạt nước mắt, một tay chỉ về phía tây. Càn Thát Bà lại quát:

– Mi từ phía đó tới sao? Mẹ kiếp! Ta không tin nổi mỉ… Mà mi câm họng cụt lưỡi hay sao mà không chịu nói?…

Trước thái độ sừng sộ của hắn, đứa con gái lại cúi mặt xuống, và cất tiếng khóc liên tục. Y thị hình như khóc rất dễ dàng nhưng trước sau vẫn không nói… Thạch Sanh thấy bất nhẫn quá, liền xen vào:

– Có phải gia đình ngươi từ phía tây tới, rồi bị đắm thuyền phải không?

Đứa con gái gật.

– Hai cái thây người lớn tuổi này có phải là cha mẹ ngươi không? Và đứa con trai có phải là anh ngươi không?

Đứa con gái lại gật, nhưng hình như động mối thương tâm, y thị lại òa khóc dữ dội hơn trước… Cuồng Huệ bỗng nói:

– Nhà ngươi từ phía tây tới, nếu thế có biết Tây Trúc không, và có ở gần xứ đó không?

Đứa con gái ngẩng nhìn Cuồng Huệ, đôi môi mấp máy như muốn nói, nhưng rồi lại chỉ gật. Thạch Sanh mừng rỡ:

– Thế nhà ngươi có nghe nói đến chùa Lôi Âm Tự không, và có biết chùa đó ở đâu không?

– Đôi mắt đứa gái hình như thoảng một ánh tinh nghịch, nhưng y thị chỉ lặng lẽ gật đầu, gật lấy gật để. Thạch Sanh mừng rỡ quá chừng, lắp bắp:

– Này., này… đại sư huynh, nếu vậy thì đứa con gái này có thể chỉ đường cho chúng mình được ấy… Càn Thát Bà gục gặc cái đầu hồi lâu, rồi hậm hực:

– Thực ra chưa thấy đứa nào quê mùa khờ khạo như chú mày. Neu chú mày ưng tin nó thì cứ việc tin, nhưng ta thì không tin nổi con tiểu ma đầu này… Hừ, hừ… Ta nghĩ nó là một thứ đại ma đầu, chứ chẳng phải tiểu ma đầu đâu.

Thạch Sanh nghe nói, lại ngẩn người ra, chưa biết tính sao. Đứa con gái vẫn ngồi xệp trên sàn thuyền, nước trong áo chảy ra thành một vũng. Cuồng Huệ liền đưa tay nhấc nó đặt ngồi ra chỗ khô ráo. Y nói:

– Chắc là đại sư huynh không phải là thiện nhân. Đệ vừa nhấc người nó thì lại thấy nặng như chì vậy…

Đột nhiên, đứa con gái xòe miệng ra cười. Nụ cười méo xệch nhưng cũng khiến ba người kinh dị không ít. Vừa cười y thị vừa ra hiệu muốn xin giấy bút để viết. Thạch Sanh vội chạy vào khoang thuyền, hì hục kiếm được mấy tờ giấy, một cây bút và một thoi mực. Chàng vội mài mực, rồi đặt mấy thứ trước mặt đứa con gái. Y thị cầm bút, nhẹ nhàng thoăn thoắt viết một câu: “Sao lại lấy những ảo giác nặng, nhẹ mà quyết định là thiện nhân hay bất thiện nhân?”

Vừa đọc xong hàng chữ, Càn Thát Bà đã chu tréo:

– Ôi thôi! Ta biết ngay mà. Ta đoán có sai đâu. Nó đúng là một loài yêu quái, mà lại là đại yêu quái nữa… Nó khóc chán rồi, bây giờ lại vặn vẹo lý luận để giỡn với bọn ta nữa…

Đứa con gái lại thoăn thoắt viết:.

– VỊ đại sư phụ có cái mũi khoằm này có tính nhát gan, lại có nhiều hoặc nghiệp và khẩu nghiệp nữa. Động mở miệng là chửi bới người.

Càn Thát Bà lại quang quác:

– Đấy, các chú mày xem, nó chửi luôn cả ta đấy. Nó chửi ngay vào mặt ta, thì mật nó đâu phải là mật người, đúng là mật của bọn yêu ma… Thôi, thôi, đừng có nghe những lời ôn thót nữa. Hắn quay mặt đi, bảo Cuồng Huệ:

Nhà ngươi mau vứt nó xuống biển cho ta, ta không muốn nhìn thấy mặt nó nữa…

Thạch Sanh vẫn đứng ngẩn người. Cuồng Huệ nói:

– Dù sao, cũng cứ để nó khai lai lịch xem sao… (Hỏi đứa con gái:) Vậy nhà ngươi khai tường tận lai lịch cho chúng ta biết, xem có thể cứu giúp ngươi được không?

Càn Thát Bà lầu bầu: “Lại còn xem với xét nữa! Lúc các ngươi xem xét nó xong, thì nó đã ăn thịt hết sạch các ngươi rồi…” Nhưng đứa con gái đã thoăn thoắt viết:

– Tôi thực là người, chẳng phải yêu ma. Cha mẹ tôi vốn quê hương tại đảo Qua Oa ở phía nam gần đây, nhưng sang xứ Tây Trúc buôn bán lâu năm, có dành dụm được nhiều của cải. Cha mẹ tôi vốn rất sùng đạo Phật và cúng dường rất nhiều tăng ni. Nay động lòng nhớ quê, trở về quê thì gặp đại nạn… Thì ra chúng tôi phước mỏng hoặc oan trái nhiều, nên chư Phật và Bồ Tát không độ trì cho chúng tôi gì hết. Nay gặp vị đại sư huynh này cũng lại chỉ muốn giết tôi… Chính tôi cũng được theo đòi kinh sách, nhưng bây giờ thì tôi thấy rằng những lời kinh chỉ là gian dối, và tôi không tin ở bộ áo cà sa của các vị nữa…

Cuồng Huệ cắt ngang:

– Trước sau, ở xứ Tây Trúc, nhà ngươi đến chùa Lôi Âm Tự được bao nhiêu lần?

Đứa con gái vẫn viết đối thoại:

– Ôi chao, chùa đó thì chúng tôi lui tới như đi chợ. Tháng nào cũng tới lễ lạy cầu xin, cho tôi được khỏi bịnh câm vốn mắc từ thuở nhỏ. Nhưng thôi, đừng nhắc tới chùa đó nữa, lễ lạy cầu xin đều là những chuyện nhọc nhằn vô công. Bịnh của tôi đâu có khỏi, nay lại gặp đại họa nữa.

Cuồng Huệ vẫn hỏi:

– Ở chùa đó, thì cảnh chùa ra sao?

– Quang cảnh thì đẹp lắm, núi non hùng vĩ vì chùa ở lưng chừng núi.. Nhưng chùa thì tiêu điều lắm, một phần thì đổ nát, phần nữa thì chẳng có ai trông nom quét tước cả… Chỉ còn cơ man những pho tượng đất hoặc đồng, lớn có nhỏ có, ngồi trơ trơ ra đó mà thôi. Nhưng nhiều pho trông cũng oai nghi linh động đáo để…

– Trong những lần tới đó, có bao giờ nhà ngươi thấy Phật hiện thân hào quang hoặc Bồ Tát lớn hiện thân cho thấy không?

Đứa con gái phì cười:

– Tượng đất và đồng thì ngồi trơ trơ ra đó, làm sao hiện thân hào quang? Chẳng thấy hào quang gì hết, chỉ thấy tối om.

Càn Thát Bà không nhịn nổi, cũng xen vào:

– Thế trong đêm tối, có bao giờ mi nghe thấy Phật khảy móng tay không?

Đứa con gái cười to hơn:

– Vị đại sư phụ này không những nhát gan, lại còn cái tật là hơi quá ngu xuẩn. Đã nói là đất và đồng trơ trơ, thì làm sao mà khảy móng tay? Mà khảy móng tay làm gì?… Có lẽ vị đại sư phụ này, một là thích nói bông đùa, hai là ưa nói chuyện chiêm bao.

Thạch Sanh cũng xen vào:

– Thế nhưng ở trong chùa, ngưoi có thấy nhiều kinh sách không?

– Vị sư phụ mũi huếch này ăn nói có nghĩa lý hơn cả. Cái gì chứ kinh sách thì ở chùa đó nhiều lắm. Ở nơi Tàng kinh các phía sau chùa, thì cơ man nào là kinh sách… Nhưng nếu vị sư phụ này muốn tìm hay thỉnh kinh, thì chắc là cũng nhọc công vô ích. Vì hầu hết kinh sách nơi chùa đó đều mục nát hoặc bị mọt ăn trở thành một đống bụi cả rồi.

Nghe đọc câu viết đó, Thạch Sanh thấy như có một bàn tay vô hình bóp nghẹt trái tim, khiến chàng như muốn ngất đi. Lặng người hồi lâu, chàng gượng nói:

– Nhưng chắc cũng phải còn chứ, đâu có thể mục nát hết được. Chắc là phải còn… Không biết… không biết ở đó, có bộ kinh Đại Phù Đồ Phật Du Hý Thần Thông Biến Hóa Kinh không?

Đen lượt đứa con gái lặng người đi giây lâu. Hình như hồng danh của bộ kinh khiến y thị sững sờ sợ sệt… Y thị cố gượng cười méo mó, suy nghĩ giây lâu rồi hạ bút:

– Kinh đó, thì tôi hoàn toàn không biết, không thấy và không hề nghe nói…

Cuồng Huệ hỏi:

– Thế nhà ngươi có lần nào lục coi những kinh ở trong Tàng kinh các không?

– Kinh sách đều mục nát cả, động tay vào là rớt thành một đống bụi. Chỉ thỉnh thoảng cỏn vài ba mảnh kinh thôi. Tôi cũng có đôi lần lục coi, nhưng coi riết rồi cũng thấy nhàm, chẳng buồn coi nữa…

– Tại sao vậy?

– Thì tại là vậy đấy… Thì ra các vị sư phụ tuy mặc áo cà sa nhưng chưa được coi kinh bao giờ, nên chưa biết cái nhàm chán. Tại vì các kinh sách quanh đi quẩn lại trước sau cũng chỉ nói có vậy thôi, cũng chỉ khuyên răn nào là cứu độ, phổ độ chúng sanh, nào là mở lòng từ bi, làm sáng trí huệ… Coi riết rồi cũng bắt ngán, chả thấy có gì là chiêu dụ hấp dẫn cả…

– Thế trong những mảnh kinh mà nhà ngươi được đọc, có bao giờ ngươi thấy nói rõ rằng cái vũ trụ này là ảo chưa? Hay nói nó là thực chưa?

Đứa con gái lại bụm miệng như muốn phì cười, nhìn Cuồng Huệ một hồi, rồi viết:

– Vị sư phụ đẹp trai này, nét mặt thông minh nhưng ăn nói thì hồ đồ quá lắm. Có lẽ đầu óc của sư phụ thì hồ đồ, chứ cái vũ trụ này đâu có hồ đồ!… Vũ trụ này là một sự thật chắc chắn, đau thương và vô nghĩa, chứ đâu có thể ảo được?… Kìa, kìa, mấy cái thây ma trương sình của cha mẹ và anh tôi, làm sao có thể gọi là ảo được?… Tôi cũng mong là ảo lắm chứ, nhưng đâu được, đâu có được…!!

Càn Thát Bà sốt ruột, quát Cuồng Huệ:

– Thôi, thôi… đừng có nghe cái miệng lưỡi láu liên mê hoặc của nó nữa. Chú mày vứt ngay nó xuống biển cho ta. Ta thấy điếc con ráy lắm rồi… Nó đúng là một đại yêu ma…

Đứa con gái vẫn bình tĩnh viết:

– Phải đấy, phải đấy… vị sư huynh đẹp trai nên vứt tôi xuống biển đi thôi. Tôi cũng chẳng thiết sống nữa… Nhưng từ nay, cũng xin các vị thôi múa mép, đừng nói đến những chuyện cứu độ, phổ độ chúng sanh nữa cho đỡ điếc con ráy…

Cuồng Huệ nói:

– Ta cũng nghĩ như đại huynh ta, và biết ngươi là một thứ yêu ma…

– Biết, biết gì? Sư phụ cũng chỉ là một con ốc nói mò. Sư phụ đã biết được những cái gì?… Thế ngộ ta là một Bồ Tát lớn hóa thân để trêu chọc các người thì sao?

Cuồng Huệ trầm ngâm giây lâu:

– Nhà ngươi không thể là một Bồ Tát lớn, mà chỉ là yêu ma…

– Sư phụ lập luận còn non nớt lắm. Dù tôi có là yêu ma chăng nữa, thì yêu ma cũng là một loại chúng sanh, cũng đáng được phổ độ. Chẳng lẽ người tu lại sợ yêu ma mà không dám phổ độ hay sao? Tôi nghe nói xưa kia, đức Mâu Ni hàng phục yêu ma, chứ đâu có giết hay bỏ chết yêu ma…?!

Cuồng Huệ quay lại Thạch Sanh:

– Nhị sư huynh nghĩ sao?

Thạch Sanh lắp bắp:

– Có lễ… có lễ mình cứ nên cứu độ là hơn, cho đúng với lời kinh… Tỷ dụ người này có là yêu ma chăng nữa, thì cũng là do những nghiệt chướng cũ của mình… Vả lại, vả lại, tôn giả đã dặn…

Chàng e sợ đại sư huynh nên không dám nói hết. Cuồng Huệ quay lại bảo đứa con gái:

– Ta cũng nghĩ như đại sư huynh ta rằng ngươi là yêu ma. Đại sự huynh ta vốn ghét nữ nhân và bọn yêu tà, nên không muốn dính dấp tới, chứ chẳng phải là e sợ gì… Còn ta thì đã định tâm giúp ngươi, để xem ngươi còn giở ra những trò gì nữa… (Y mỉm cười:) Thực ra, ta cũng chưa đụng chạm với loài đại quái bao giờ…

Càn Thát Bà chu chéo:

– Ối thôi, ối thôi, thế là cả hai chú mày đều chui cả vào bẫy của con ma đầu rồi… Một đứa thì chỉ muốn cứu độ, phổ độ… một đứa thì cậy mình sức mạnh muốn thách đố cả yêu ma… Hỏng to rồi… (Hắn bước tới phía đầu thuyền, ngồi một mình ngoảnh mặt đi, giọng hờn lẫy). Thôi, các ngươi muốn làm gì thì làm, ta không rỗi hơi đâu mà dính dấp. Nhưng nếu có xảy ra chuyện gì, thì cũng đừng trách ta là đại sư huynh mà không bảo trước…

Cuồng Huệ quay nhìn Thạch Sanh giây lâu, rồi y lặng lẽ nhấc đứa con gái ra phía sau thuyền, đặt ngồi ở chỗ chiếc lái thuyền. Y hỏi nó xem đảo Qua Oa ở phía nam, cách đó mấy ngày thuyền. Y thị trả lời bằng cách giơ một ngón tay… Sau đó, y lần lượt vớt những thi hài chết đuối lên đặt cả ở phía sau thuyền. Trước sau, tất cả có đến chín cái tử thi. Thạch Sanh thấy y làm vậy thì mừng lắm. Chàng lâm râm tụng chú để cầu siêu độ cho những vong linh hoạnh tử ấy… Tuy chàng cũng thấy e ngại về thái độ cùng lời lẽ khác thường của đứa con gái, nhưng chàng nghĩ tới lời dặn của tôn giả là trước sau vẫn “dung thông vô ngại,” nên chàng cũng chẳng lo sợ gì nhiều. Tụng chú xong, chàng vội đi kiếm một bát cơm lớn và một bát nước đặt trước mặt đứa con gái. Nhưng y thị cũng chỉ ăn vài miếng và uống một ngụm nước thôi:

Cuồng Huệ đã đổi hướng, cho thuyền chạy về phía nam… Trong tâm thức y, từ trước tới nay hình như tuyệt nhiên không hề biết sự lo ngại sợ hãi. Có lẽ tâm thức y đã tuyệt được hẳn những nhịp điệu rung chuyển tạo nên tâm trạng sợ hãi. (Vì mỗi tâm trạng đều được tạo nên do một lối nhịp điệu rung chuyển của tâm thức.) Ngay trước kia, khi đánh nhau với đàn chim thần Kim Súy Điểu, giữa những lúc nguy kịch nhất, y cũng chẳng hề thấy sợ hãi. Nhưng mãi đến bây giờ, y mới ý thức rõ ràng điều đó. Y cũng nhận ra hầu hết các chúng sanh đều biết sợ hãi, đều bị sợ hãi dày vò, nhưng y thì tuyệt nhiên không thấy. Y nghĩ thầm chắc là cội nguồn của mình cũng có điểm ly kỳ đặc biệt, nên mới như thế… Lúc này, thì y đinh ninh rằng đứa con gái kia là một đại địch, vì lối ăn nói của nó tung hoành mông lung lắm, nhưng y vẫn thấy bình thản như không. Y thầm nhủ: “Cứ để coi xem nó còn giở những trò gì nữa. Có khi y thị lại có thể chỉ điểm cho mình ít điều cũng nên, mặc dầu là yêu quái… Vả lại, y thị đã nói đúng, dù là yêu quái cũng vẫn cứ phải phổ độ cứu giúp. Đến đâu thì đến đâu…” Nghĩ vậy, nên y lái thuyền lướt phăng phăng về hướng nam.

Gần nửa khuya đêm ấy, thì nhìn thấy hòn đảo. Đêm có mảnh trăng gần tròn, nên nhìn thấy rõ mồn một. Thuyền chỉ cỏn cách hòn đảo độ năm dặm đường, thì đứa con gái bật tiếng nói:

– Kìa kìa… đảo Qua Oa đấy. Nơi chôn nhau cắt rốn của tôi đấy…

Vừa nói y thị vừa bật tiếng cười hinh hích. Thạch Sanh giật mình, quay lại nhìn y thị:

– Té ra… té ra nhà ngươi… không câm?!

Y thị cười khanh khách:

– Làm sao mà tôi câm được? Tôi là người từ nhỏ đã đọc tụng thông suốt làu làu cả ba tạng kinh, thì làm sao mà chư Phật cùng Bồ Tát lại có thể để cho tôi bị tật nguyền câm được…? Hồi sáng, tôi giả đò câm, viết chữ để coi các bậc đại sư phụ có đọc được chữ không đấy…

Càn Thát Bà suốt ngày ngồi khư khư ở mũi thuyền, ngoảnh mặt không nhìn về phía sau, nay bất giác nghe tiếng y thị nói, cũng không dằn nổi lòng hiếu kỳ, đã sán lại gần, nhưng vẫn ngồi cách quãng và vẫn ngoảnh mặt đi. Đứa con gái nói tiếp:

– Tôi tụng thông suốt làu làu cả ba tạng kinh, nên tôi được hơi thở như mùi hoa lan: Nếu các vị sư phụ muốn ngửi mùi hương hoa lan, thì xin lại gần đây ngửi thử hơi thở của tôi.

Càn Thát Bà không nín được nữa:

– Hơi thở của mi như hoa lan thì lại càng đúng là yêu quái… Phải thơm như hoa sen mới không phải là yêu tà…

– Vị đại sư phụ này cũng có kiến thức đấy, nhưng toàn là kiến thức rởm cả. Tôi nói là hơi thở thơm thôi, thơm có thể như hoa lan hay hoa sen cũng vậy. Đại sư phụ có cái mũi dài, chắc là thích ngửi, vậy hãy tới gần đây xem hơi thở của tôi giống hoa lan hay hoa sen?

– Càn Thát Bà nhổ toẹt một bãi nước bọt:

– Hơi thở của mi có thơm như hoa Mạn Đà La, thì ta cũng chẳng thèm ngửi… Mi có lạy ta ba lạy ta cũng chẳng ngửi…

Đứa con gái cười hinh hích:

– Tôi nói giỡn vậy thôi, chứ tôi chẳng mời đại sư phụ đâu. Nhưng hai vị sư phụ này nếu muốn ngửi thì tôi cho ngửi….

Thạch Sanh mỗi lúc một ngẩn người ra, càng thấy e ngại sợ sệt trước những lời nói của đứa con gái, nửa như lả lơi, nửa như phóng khoáng tung hoành. Chàng lại chợt nhận thấy rằng từ khi y thị mở miệng nói năng, đôi môi không còn méo xệch nữa và nét mặt trở nên diễm lệ. Chàng bỗng rùng mình, tự nhủ rằng chắc là nghiệt chướng cũ của mình lại trỗi dậy đây, nên vội vã khép hờ đôi mắt lại, và lầm rầm niệm Phật… Đứa con gái lại nói:

Vị sư phụ mũi huếch này quả là người quê mùa hủ lậu, chỉ thích bắt chước lối tu của mấy bà già trầu nhà quê…

Miệng tuy nói thế, nhưng nét mặt có vẻ gượng gạo, vì có lẽ y thị cũng sợ phải nghe đến hồng danh của đức Phật Đại Phù Đồ Phật Du Hý Thần Thông Biến Hóa Kinh…

Đứa con gái bĩu môi:

– Tin hay không là tùy ở sư phụ. Nhưng nếu sư phụ không tin, thì tất nhiên không được nghe những lời dạy bảo, và sẽ lỡ mất lợi ích lớn… Kinh chẳng nói rằng: “Chúng sanh nào cũng có thể là thầy ta được hết” hay sao?!…

Vừa lúc đó, thì thuyền đã tới gần bờ, và văng vẳng thoảng nghe như có tiếng đàn sáo dập dìu vọng lại… Mấy người đều quay lại để nhìn hỏn đảo. Hỏn đảo khá lớn rộng, có nhiều mỏm đá cheo leo, cây cối um tùm rậm rạp, nhưng ở phía xa nơi trong, hình như có thành ấp xóm làng hay trang trại, có vùng ánh sáng đèn đuốc chập chờn, có bóng nhà cửa lầu các, có tiếng ca hát văng vẳng của đám đông cùng đàn sáo dập dìu… Đứa con gái vỗ hai tay, nét mặt hớn hở:

– Vui không! Vui không! Các vị sư phụ có thấy vui không? Vận hạn của tôi cũng chưa đến nỗi đen tối lắm, vẫn còn những ngày vui… Được về quê cũ đúng ngay lúc dân làng mở hội vui cuối năm…

Thuyền đụng bờ, y thị đã thoăn thoát đứng dậy, leo tụt xuống bờ, rồi đứng đấy nhìn lên thuyền, dáng chờ đợi. Ngay gần đấy, có con đường mòn nhỏ. Đứa gái nói:

– Cung hy, cung hỷ các đại sư phụ đã giá lâm đến tệ xứ…

Vừa nói, vừa dang hai cánh tay… Nhưng Cuồng Huệ chỉ lặng lẽ nhặt mấy chiếc tử thi, đặt nhẹ xuống bờ, rồi nói:

– Tới đây rồi, bổn phận cứu độ của kẻ tu hành đã hoàn mãn. Vậy xin cáo biệt.

Đứa gái mỉm cười, chế giễu:

– Tôi biết ngay mà, biết ngay mà. Hai vị sư phụ cũng nhát gan không kém gì vị đại sư phụ kia. Các vị đã cô phụ tấm thịnh tình địa chủ của tôi… Không lẽ các vị sợ bước xuống đây thì sẽ bị tôi ăn thịt mất hay sao?… Hi, hi… ba người đàn ông lẫm liệt trượng phu lại đâm đi sọ một đứa con gái bé tí teo…

Càn Thát Bà lộn tiết, lại nhổ toẹt nước bọt:

– Chẳng sợ cóc gì cả. Nhưng ta không thèm đặt chân trên mảnh đất yêu tà của mi…

– Tôi chẳng mời đại sư phụ đâu, chỉ thỉnh hai vị kia thôi để đáp hậu ân. Vả lại, nếu tôi có muốn ăn thịt người, thì tôi cũng chê thịt đại sư phụ… Hi, hi… thịt đại sư phụ chắc dai và tanh lắm, chẳng ngon lành bổ ích gì đâu….

Càn Thát Bà tức đến tắc cổ, chưa biết trả lời sao, thì đứa gái nói với Cuồng Huệ:

– Dù sao thì hai vị sư huynh cũng phải xuống đây giúp tôi mai táng cha mẹ tôi chứ. Tôi biết sao chôn cất bây giờ?… Rồi… rồi sau đó, nếu có muốn tra hỏi gì về kinh kệ, hoặc muốn biết rằng vũ trụ là thực hay là ảo, thì tôi sẽ mở lòng chỉ điểm cho.

Nghe nói thế, Cuồng Huệ không sao cưỡng lại được nữa. Y thầm nghĩ: “Con bé này thực là oái oăm tinh quái. Hay có khi y thị là Bồ Tát lớn cũng nên… không, không… linh tính của ta biết rằng không phải thế. Nó đúng là yêu quái. Nhưng trong cái vũ trụ hồ đồ này , bọn yêu quái cũng thần thông quảng đại lắm… Có khi nó biết được đáp số không chừng…”. Nghĩ vậy, rồi y chẳng do dự gì nữa, nhảy thoát ngay xuống bờ… Nhìn quanh quẩn, y nhổ ngay một tảng đá lớn nhọn hoắt, rồi đào đất, chỉ một thoáng đã xong ngay chín cái huyệt. Sức của y như thiên thần, nên mỗi nhát đào là xong một huyệt… Trong khi đó, thì Thạch Sanh cũng theo chân leo xuống bờ. Ý định của chàng là cũng muốn hỏi rõ về kinh sách, cùng đường lối tới Lôi Âm Tự… Riêng Càn Thát Bà vẫn ngồi trên thuyền. Đứa gái lắc đầu, lè lưỡi:

– Cha, cha… vị sư phụ này dũng mãnh thiệt. Sức lực như thiên thần. Nhưng vẫn chỉ là sức lực thôi, chưa phải trí huệ. Sức này có thể bạt núi lệch sông, nhưng trí huệ thì mới có thể tạo lập hay làm tan biến các cõi…

Nói vậy, rồi y thị đứng trầm ngâm nghĩ ngợi… Cuồng Huệ vẫn tiếp tục đặt những tử thi, mỗi cái vào một huyệt, đặt ngay ngắn rồi lấy tay lấp đất… Lấp đất kỹ lưỡng rồi, y bèn đứng dậy. Đứa con gái bỗng nhiên chạy tới trước mặt y, cung kính sụp xuống lễ ba lễ, rồi nói:

– Hậu ân của sư phụ cứu vớt mai táng cho cha mẹ tôi, để khỏi phải làm mồi cho cá rùa, hậu ân đó, tôi nguyện sẽ đền đáp.

Vừa nói, nước mắt y thị vừa ứa ra. Nhưng Cuồng Huệ đã vội tránh lễ của y thị, nói:

– Ta giúp đỡ là giúp đỡ thế thôi, không dám nhận ân nghĩa gì hết. Nhưng nếu ngươi muốn đáp ân ta, thì dễ lắm…

– Ngươi chỉ việc đáp lại một câu hỏi của ta thôi. Ta muốn biết ngươi lý giải ra sao.

– Câu hỏi gì vậy?

– Thì câu hỏi rằng vũ trụ này là thực hay là ảo đó…

Đứa gái nói, giọng trang nghiêm:

– Sư phụ băn khoăn về điểm đó lắm sao?… Câu hỏi thì thực khó lấy lời mà lý giải. Neu sư phụ muốn biết, thì xin cứ đi theo tôi, tự khắc sẽ biết rõ…

Nói vậy rồi, y thị liền sụp lạy trước những nấm mồ mấy lạy, rồi quay lại thoăn thoắt bước đi trước, noi theo con đường mòn, chẳng thèm quay cổ lại… Cuồng Huệ lặng nhìn Thạch Sanh, rồi lặng lẽ đi theo. Thạch Sanh cũng theo y… Càn Thát Bà bỗng nhảy bổ từ thuyền xuống, vừa chạy theo vừa la:

– Các ngươi đi theo nó hết cả hay sao? Định bỏ ta ngồi chết rũ một mình ở đây hay sao?! Thế này là hết, là hết!…

– Tuy la lối như vậy, nhưng hắn cũng lầm lũi bước theo Thạch Sanh, nhưng vừa đi vừa lầu bầu và khạc nhổ tung tóe. Đứa gái vẫn bước thoăn thoắt, không quay đầu lại, nhưng cất tiếng nói:

– Đại sư phụ không nên phí phạm nguyên khí như vậy. Nước miếng chính là thứ ngọc dịch quỳnh tương làm tráng kiện và tươi nhuận mảnh hình hài, vậy chớ nên khạc nhổ tung tóe…

Càn Thát Bà tức mình, không sao trả lời được, nhưng lại khạc nhổ dữ dội hơn trước. Đứa gái không nói nữa. cứ bước lẹ làng theo con đường mòn, đi về phía vùng ánh sáng của xóm làng… Dọc theo hai bờ đường mòn, có mọc rất nhiều những khóm hạnh, gọi là hạnh Quan san, lá nhỏ thon và dài, cùng những chùm hoa màu hồng nở lúc lỉu, dưới ánh trăng trông rất rõ. Thứ hạnh Quan san này vốn có hoa liên miên quanh năm, nên tuy thời tiết đã cuối năm, vẫn nở hoa rầm rộ… Đứa gái bỗng dừng chân gần một khóm hạnh lớn, giơ tay ve vuốt những chùm hoa lá, rồi nói:

– Xóm làng của tôi vốn là một trang trại, gọi là Hạnh Hoa Thôn… (Y thị thở dài) Tôi bây giờ bỗng nhiên trở thành một nữ chủ nhân bé tí teo của trang trại đó. Tôi tên là Ba Văn Mật Đa, còn những người đương múa hát ở phía xa kia chính là những người trong trang trại của tôi… Tôi đột ngột trở về thế này, chắc là họ vừa mừng vừa sợ… Dù sao, về đến quê cũ, tôi cũng muốn làm đẹp một chút để cho họ đón rước…

Vừa nói, y thị vừa lấy tay vuốt lại những nếp quần áo, rồi ngắt một chùm hoa hạnh định cài vào mái tóc. Y thị bỗng phì cười:

– Cha mẹ tôi thực là người cổ sơ hủ lậu, tôi đã mười ba tuổi rồi, mà vẫn khư khư bắt để trái đào. Thành thử ra bây giờ không có mái tóc để cài hoa. Thôi đành cài vào chéo áo vậy. Cũng đẹp chán rồi…

Y thị lại thoăn thoắt bước đi. Ba người vẫn lầm lũi bước theo. Thạch Sanh lầm rầm niệm Phật không ngớt, còn Cuồng Huệ lặng lễ theo dõi từng cử chỉ của đứa gái, nhưng không thấy gì khác lạ cả… Tiếng đàn sáo ca hát mỗi lúc càng rõ rệt. Khi còn chừng hai dặm đường, thì nhìn thấy một đám đông đương lố nhố nhảy múa chập chờn như ẩn như hiện, nhưng họ nhảy múa một cách dam mê, gần như quên cả ngoại vật, tương tự như những kẻ lên đồng vậy. Họ hát đi hát lại hình như chỉ có một điệp khúc nhưng tiếng hát líu lo lạ hoắc, khiến Cuồng Huệ nghĩ mãi vẫn chưa nhận ra được là tiếng gì… Đứa gái hình như đọc được ý nghĩ của Cuồng Huệ, nên quay lại mỉm cười, nói với y:

– Chúng hát bản Chà Cô Khúc đấy. Đó là một khúc hát vui tươi và say sưa của vùng tôi. Bản này phải hát bằng một thứ thổ ngữ thì mới vui… Y thị vẫn bước lẹ làng đều đặn. Chừng độ nữa dặm nữa, bỗng có tiếng hét to:

– Ối thôi, chết rồi, chết rồi… Nữ chủ nhân đã về kia rồi… về kia rồi…

– Tiếng hét lanh lảnh vọng lên khá lớn. Rồi trong những lùm cây rậm rạp trước mặt, bỗng lao xao thấp thoáng như có bóng nhiều người chạy miết. Tiếng đàn sáo bỗng im bặt, và đám người đông trong vùng ánh sáng cũng lao xao chạy trốn như ong vỡ tổ… Chỉ giây lát là thấy vắng tanh, không còn một bóng người, chỉ để lại một khoảng trường trống vắng. Chỉ còn khá nhiều những ngọn đuốc cắm trên đất, hoặc buộc vào lùm cây, ánh sáng vàng khè cháy leo lét pha lẫn với ánh trăng vằng vặc xanh lơ. Chung quanh khoảng đất trống có đặt nhiều chiếc chõng bằng cây, trên đó còn ngổn ngang nào là rượu, nào là thịt… Đứa gái mỉm cười nói:

– Chúng thấy tôi trở về đột ngột giữa đêm khuya, nên sợ hãi chạy trốn hết cả rồi. Vì chúng đã vi phạm những lệnh truyền của tôi… Nhung thực ra, tôi có dữ dằn nghiêm khắc gì mấy đâu, mà chúng phải sợ hãi đến thế…

Vừa nói, y thị vừa lắc lu hai mớ tóc trái đào, ra chiều buồn bực… Cuồng Huệ đảo mắt nhìn quanh, thì thấy chung quanh có rải rác mấy chục căn nhà sơ sài cất thấp lè tè, ý chừng đã chạy trốn chui cả vào đó, hoặc chui vào những bụi rậm lùm cây. Xa xa về phía tây, thấy có một kiến trúc khá cao, đến bốn, năm chục thước, trông như hình một chiếc tháp, nơi đó óng ánh thấp thoáng những tia sáng li ti xanh biếc… Nhưng về phía đông, thấy có một căn lầu các đồ sộ, cây cối cao lớn um tùm, tường vách bao quanh trang nghiêm, nơi cổng lớn có đề ba chữ: “Hạnh Hoa Trang”. Căn nhà hình như không thấy đèn đuốc gì hết, nhưng có tỏa ra một thứ ánh sáng êm dịu kỳ dị, không phải là ánh trăng thanh… Cuồng Huệ cứ đứng ngẩn người ra mà nhìn thứ ánh sáng của tòa lầu các. Từ khi bước chân vào khoảng trường trống vắng này, y đã ngửi thấy rõ rệt mùi yêu khí lạnh tanh, nhưng y không hiểu nổi được thứ ánh sáng êm dịu kỳ lạ này. Thứ ánh sáng này, thì ngay ở miền Hương Thủy Hải y cũng chưa hề thấy bao giờ… Y thầm nghĩ: “Con nữ yêu này quả là kỳ dị khó hiểu. Không biết sao y thị lại kiếm đâu được thứ ánh sáng này để trang hoàng chỗ ở?!” Tuy nghĩ vậy, nhưng y đã quyết tâm từ đầu là đi đến cùng, để buộc đứa gái phải nói ra đáp số của y thị về câu hỏi của y. Còn đáp số đó có đúng hay không, thì sẽ hậu xét. Y đinh ninh rằng con nữ yêu này có kiến thức khá quảng đại… Y đưa mắt nhìn, thì thấy Thạch Sanh vẫn lầm rầm niệm riết, đôi mắt khép lại và trông xuống đất, như không muốn nhìn ngoại cảnh nữa. Còn Càn Thát Bà thì đã ngửi thấy mùi yêu khí rõ rệt hơn Cuồng Huệ, nhưng phần vì tin ở sức mạnh của Cuồng Huệ, phần vì tính hiếu kỳ quá nặng, nên hắn vẫn giương cặp mắt hấp háy nhìn bốn phía. Và vẫn khạc nhổ luôn mồm… Đứa gái bỗng cất giọng nhỏ, tiếng nói vo ve như tiếng ong bay, nhưng nghe rõ mồn một:

– Tụi bây chẳng cần phải trốn chui trốn nhủi như vậy, để làm mất cả thể diện chủ nhân của ta. Bữa nay, thì bề nào ta cũng phải xá tội cho tụi bây rồi, vì có quý khách giáng lâm…

Giọng nói của y thị mỗi lúc mỗi thêm thánh thót yểu điệu, và già dặn hơn. Cuồng Huệ nhìn kỹ thì thấy y thị đã lớn lên hơn trước có lẽ đến một tấc rồi… Y thị tha thướt đi ngang mấy chiếc chõng cây, cầm bình rượu cùng một chiếc đùi thịt lên ngửi, rồi chun mũi nói:

– Đùi thịt lợn rừng đây… Rượu bắp có pha quế đây! Chao ôi, chao ôi, thực là đáng tội… đáng tội. Toàn là rượu hôi thúi thịt hôi thúi cả. Ta đã dặn dò tụi bây là trong khi ta đi vắng, tụi bây phải ăn chay nằm mộng để cầu thấy đức Bồ Tát cơ mà… Thế mà tụi bây đâu có nghe lệnh ta… Chỉ thích ăn toàn những thịt làm nặng thêm nghiệp súc sanh trong người tụi bây thôi…

Vừa nói, vừa thở dài thườn thượt, ra chiều thương cảm. Y thị đi lần về phía căn lầu các. Khi tới cổng, y thị dừng lại, giọng trang nghiêm:

– Tệ nữ xin cung thỉnh ba vị. Được ba vị thánh tăng quang lâm, thực là hân hạnh cho tệ xá.

Càn Thát Bà lầu bầu, văng tục:

– Ta cóc phải là thánh tăng hay phàm tăng gì cả. Và tệ xá của mi, dù có dát ngọc chăng nữa, ta cũng cóc thèm vào. Ta chỉ muốn tiểu tiện vào tệ xá của mi thôi.

Đứa gái che miệng mỉm cười:

– Vị đại sư phụ ăn nói có vẻ khiếm nhã cọc cằn, nhưng lòng dạ thẳng ngay. Chỉ phải cái cố chấp, ghét yêu tà như ghét đờm dãi của mình. Không biết rằng yêu tà cũng có những cái hay lắm chứ…

Vừa nói, vừa rút một chiếc khăn lụa ra bịt lấy đầu mình, như muốn che chiếc đầu trọc. Phút chốc, nét mặt nàng như lớn hẳn lên bằng người con gái mười tám, mười chín tuổi, nét mặt vừa thanh tao vừa điểm vẻ tinh nghịch. Nàng mỉm cười, bảo Cuồng Huệ:

– Tâm sư phụ là người phóng khoáng, tuyệt nhiên không hề cố chấp. Tệ xá tuy quê mùa hủ lậu, nhưng cũng có một vài thứ bảo vật khả dĩ giúp ích cho những nỗi thắc mắc của sư phụ…

Nói xong, ngoe nguẩy bước vào trong cổng, đứng trước thềm ngôi nhà khách… Trên trần ngôi nhà khách này, không biết có treo thứ bảo vật gì, khiến cho hào quang chập chùng tỏa ra, và chính thứ hào quang này đã khiến Cuồng Huệ ngẩn người… Nên y chẳng do dự gì cả, thong dong theo chân, rồi bước ngay vào nhà khách. Đôi mắt y nhìn như dán lên trần nhà. Đứng gần, y thấy chiếc trần nhà không phải là trần nhà nữa, mà là một vòm trời lung linh có muôn ngàn ngôi sao sáng, chập chờn ẩn hiện. Và ánh sao êm dịu xiết bao! Y đứng nhìn mà thấy người như bị hóp hồn, lâng lâng như quên hết mọi hệ lụy trần thế, như tan biến hết mọi nghi vấn trong lỏng… Ngay đến những cơn thiền định sâu của y, y thấy cũng chưa được như thế… Trong lúc đó, Thạch Sanh cũng đã theo chân vào, rồi Càn Thát Bà, cả hai đều ngẩn người nhìn lên, như bị thôi miên… Bỗng có tiếng vỗ tay lanh lảnh cả cười của đứa con gái:

– Biết ngay mà, biết ngay mà… Chạy đâu cho thoát…

Vừa dứt tiếng, thì vòm trời sao tương tự như một màng lưới rộng đã rớt ngay xuống, chụp đúng vào ba người thỉnh kinh…

Nguyên Ba Văn Mật Đa vốn là một La sát nữ vương. Các kinh Phật vẫn thường nói tới các loài La sát cùng La sát nữ vương. Trong nhiều kinh, như kinh Pháp Hoa, có nhiều La sát nữ vương, sau khi nghe Phật thuyết kinh, cũng phát thiện tâm, cũng đứng ra trước Phật lập lời thệ nguyện ủng hộ hết mình những người trì kinh cùng tu hành… Nhưng phần đông những La sát nữ vương đều là những loài quái quắc, mong cầu chóng có hiệu quả và thần thông, nên ít muốn tu theo chánh pháp. Bọn này thường hay cư ngụ ở trung giới, hoặc ở hạ giới. Nơi hạ giới trần gian, chúng không thích cư ngụ những nơi núi rừng, mà chỉ hay chiếm cứ những hoang đảo ngoài biển khơi, tụ tập một số La sát nữ đệ tử, rồi hùng cứ tung hoành ở đó… vốn là giống nữ, nên nhiều âm khí, nhiều âm độc, nhiều lòng tham lam và si mê, nên lối tu luyện của chúng thường là muốn thâu hút những hình hài cùng phần khí dương của các loài khác, để trau dồi phần công phu thần lực của mình. Vì có nhiều khí dương thì mới dễ dàng biến hóa được. Những bậc tu hành đến mức thuần dương như ngài Long Thọ Bồ Tát, thì máu trắng như sữa và biến hóa không cùng… Muốn có nhiều phần khí dương, thì phải tạo nhiều tâm lành và hạnh lành và muốn được thuần dương, thì phải đạt được tâm đại từ bi bình đẳng và trí huệ vô ngã. Nhưng đường lối đó xa vời, và thiên tư của loài yêu tà thì không thích những con đường cái quan thênh thang và xa vời vợi, mà chỉ thích những đường ngang ngõ tắt, ưa cưóp đoạt của kẻ khác, để mong chóng được kết quả, dù là kết quả cục hạn cũng được đi…

Muốn cưóp đoạt khí dương của những chúng sanh khác, chúng rất ưa ăn thịt các loài khác. Nhưng chúng rất chê thịt của các loài chim muông dã thú, vì các loài này ở mức độ tâm thức thấp kém lại chẳng tu luyện cùng tạo lập căn lành gì, nên phần khí dương rất kém. Do đó, chúng chỉ ưa nhất là món thịt người, nhất là cốt tủy, vì người tương đối có nhiều căn lành và nhiều khí dương. Nhất là những người đã tu hành lâu năm, thì chúng lại càng say mê muốn xơi thịt lắm. Neu gặp một vị Bồ Tát sơ phát tâm, nghĩa là có thiện tâm và lập thệ nguyện muốn tạo những Bồ Tát hạnh, thì chúng khoái chí tử. Àn thịt được một vị này, thì chúng thường gọi là một “bữa ăn thăng hoa thần bí.” Vì sao? Vì thiện tâm cùng nguyện lực của vị này đã huân tập trong hình hài đầy rẫy, để thăng hoa những tế bào, và chuyển xương cốt của vị đó sau này sẽ thành xá lợi. Và phần khí dương đó sẽ trợ giúp không ít cho công phu của La sát nữ.

Chúng hùng cứ ở những hoang đảo, nên nhiều khi, những thuyền ngư phủ hoặc thuyền buôn có phước mỏng thường làm mồi ngon cho chúng… Trong tập Liêu Trai Chí Dị, tác giả có kể lại một chuyện ngư phủ gặp La sát nữ. Nhưng trong kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương của Phật giáo Mật Tông, có mô tả khá rõ ràng về nạn La sát nữ. Kinh cũng nói rõ rằng ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, trong nhiều kiếp tu Bồ Tát hạnh, thường thọ sanh làm một loài long mã nằm ở những bờ biển hoang vắng, để cứu độ những người bị nạn La sát… Cho đến ngày nay, cũng vẫn còn các nạn đó. vẫn còn những vùng biển lạ lùng hiểm nghèo, ở nơi đó, các tàu thuyền vẫn dễ mất tích một cách khó hiểu. Có khi mất cả tàu lẫn người, có khi tìm lại được tàu, trên tàu thức ăn đồ uống vàng bạc còn nguyên, nhưng người thì mất sạch… Vì bọn La sát nữ thường có thần thông. Ẩn hiện không chừng, nên người dù có khí giới cũng khó chống lại… Mỗi khi bắt được một thuyền người. Các La sát nữ thường chia nhau để lấy làm chồng để cướp đoạt lấy tinh khí trước đã. Bởi thế, nên có những La sát nữ vương được gọi là Đoạt tinh khí La sát nữ vương. Khi những ông chồng đã bắt đầu héo hắt, thì chúng liền xơi thịt…

Ba Văn Mật Đa lại là một La sát nữ vương khá đặc biệt. Vì có thần thông khá cao. So với Càn Thát Bà và Cuồng Huệ, y thị còn hơn mấy bậc về thần lực và định lực. Y thị có kha khá thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, thần túc thông, tha tâm thông và túc mạng thông. Khi gặp một người thường, y thị có thể soi thấy căn tánh của người đó đến hai, ba chục kiếp về trước. Nhưng về những kiếp sau, chỉ có thể soi thấy được vài kiếp, còn sau nữa thì mịt mùng… Tính ra thì y thị đã tu luyện được tới năm ngàn năm liên tục, mà chưa phải thay đổi kiếp số. Y thị cũng hay sử dụng khá nhiều thần chú, để cầu mong những điệu âm đó phù trợ cho công phu của mình. Y thị cũng hay mày mò tìm kiếm những kinh sách hiếm lạ, nhất là kinh Mật Tông, để suy ngẫm nghiên cứu. Nên y thị có kiến văn khá quảng bác. Khổ một nỗi là tuy đọc kinh, nhưng y thị vẫn đeo đẳng một tâm chấp ngã rất nặng nề, rất thích suy luận biện biệt, và chỉ muốn tìm trong lời kinh xem có những con đường tắt chóng vánh nào không, để thỏa mãn lòng mong cầu gấp gáp… Nghiệt chướng lớn nhất của y thị là lòng tham dục tình dục không bờ bến. Trong kiếp này của y thị, bao nhiêu người đàn ông đã bị quẳng vào lòng y thị mà đều chìm tiêu như chìm vào lòng biển cả. Do nghiệt chướng ấy, nên tuy tu luyện tử công phu, y thị cũng không tiến được nhiều… Lúc này, nỗi bận tâm của y thị là nhận thấy mình không biến hóa được hình hài nhiều. Y thị có thể biến hóa hình hài hơn Càn Thát Bà và Cuồng Huệ, nhưng chỉ được một số hình hài, và cũng chưa thể phân thân thành nhiều hình hài được. Y thị rất bực dọc về điểm này, nhưng vẫn chưa hiểu rằng việc phân thân vô lượng chỉ có thể đạt được do một đường lối duy nhất là tâm vô ngã… Hiện giờ, y thị đương tu luyện một thứ tam muội gọi là “Hiện trùng trùng sắc thân tam muội,” và chỉ muốn cướp đoạt khí dương của những kẻ tu hành để mong thành tựu tam muội ấy…

Vì để ý đến kẻ tu hành, nên y thị rất hay luẩn quẩn lai vãng gần chùa Lôi Âm Tự. Khá nhiều kẻ đi hành hương chùa đó đã bị y thị chặn đường đón bắt, cưỡng dâm rồi ăn thịt… Y thị cũng muốn coi kinh sách trong chùa lắm, nhưng khổ nỗi là trước sau y thị vẫn không vào nổi trong chùa… Vì sao vậy? Là vì đức Đại Phù Đồ Mâu Ni, tuy trước đó hơn sáu trăm năm đã thị hiện nhập diệt, cởi bỏ cái ứng thân này để thị hiện đi độ duyên ở các cõi khác, nhưng chùa Lôi Âm vẫn còn được bao bọc bảo vệ bởi những làn hào quang rớt lại của ngài… Làn hào quang đó, tuy chỉ là rớt lại, nhưng bọn yêu ma có tâm địa quái quắc không sao đi qua được hàng rào hào quang đó để lọt vào chùa Lôi Âm. Chúng nhìn hào quang đó, thì thấy như bị chói lòa, không chịu nổi. Vì sao? Có lẽ vì nhịp điệu rung chuyển của quang đó quá nhanh và quá mạnh, khiến đôi mắt cùng mảnh hình hài của chúng không chịu nổi sự va chạm… Vả lại, chung quanh chùa Lôi Âm, trong vỏng bảy, tám chục dặm, các vị thiên thần cùng một số Kim Cang Na La Diên Lực Sĩ, vẫn thường lai vãng canh gác ngôi chùa khá cẩn mật, nên chúng yêu ma nhiều khi đành thúc thủ… Chỉ có những người tâm địa bình thường hoặc có thiện tâm muốn vãng cảnh hành hương là hay đi lọt được mà thôi…

Gần đây, việc một số khá đông những kẻ hành hương bị bọn yêu ma sát hại gần chùa Lôi Âm, đã làm kinh động đến những cõi Thiên. Không những kinh động đến những cõi trời của Dục giới, mà còn kinh động cả đến những cõi trời của sắc giới. Ở một tầng trời cao của sắc giới này, có một vị vua trời gọi là Đại Tự Tại Phạm Thiên Vương. Vị vua trời này có thần lực khá quảng đại, và thường là một vị Bồ Tát ở địa thứ tám hay thứ chín thị hiện thọ sanh để giữ chức vụ đó. Trong cung của vị vua này, có hai thứ bảo vật: Một tấm gương lớn và một vốc những hạt châu gọi là Thiên la biên chiếu Như ý châu. Tấm gương đó có thể phản chiếu làm hiển hiện nhiều sự việc xảy ra ở nhiều cõi. Và khi vị vua quẳng một mớ hạt châu lên thinh không, những hạt châu sẽ làm hiển hiện một vòm trời đầy sao lấp lánh, và vòm trời này cũng là một thiên la võng bao trùm vạn vật… Vì vua Đại Tự Tại Phạm Vương có nhiều thần lực cùng hai bảo vật đó, nên có nhiều kẻ hành giả tu thiền định cao được thọ sanh lên tầng trời đó, đã lầm tưởng rằng Đại Phạm Vương là đấng Chúa tể của các cõi, và đã tạo lập các cõi.

Khi thấy xảy ra nhiều vụ sát hại những kẻ hành hương, vị vua trời đó bèn động lòng từ bi, muốn dẹp bớt loài yêu quái để độ duyên những người hành hương. Vua bèn xuất định để xuống nhân thế một lần, đến chùa Lôi Âm… Bữa đó, trời đã tối, và Ba Văn Mật Đa cũng bay lởn vởn trong rặng núi cách chùa xa xa, giương mắt nhìn những con đường mỏn để tìm kẻ hành hương. Bỗng y thị nhận thấy một vệt sáng vàng lợt xẹt dài trong vòm trời, vốn rất tinh tế, nên y thị biết ngay là có điều gì bất diệu. Y thị vội lãng xa ra đến ngoài một trăm dặm, ẩn mình vào một hốc đá, chỉ ló đôi mắt nhìn ra. Vệt sáng vàng đậu lại trên một mỏm núi cao gần chùa và y thị nhìn thấy rõ ràng vị vua trời, có hai vị trời hầu cận đi theo. Vua đảo mắt nhìn quanh vào những đám cây um tùm có nhiều yêu khí, rồi lẹ làng rút từ bọc ra mấy hạt châu quăng lên thinh không. Vừa ném châu, vừa hô khẽ một câu châm ngôn: “úm bệ lãm,” với một âm điệu như truyền-lệnh. Mấy hạt châu đó biến thành chiếc lưới lớn rộng đầy sao sáng, giăng trên một miền núi non. Tiếng hô tuy khẽ, nhưng y thị vốn có thiên nhĩ thông nên nghe rõ mồn một. Vua lại hô: “Úm lâu hê lâu hê,” thì chiếc lưới bỗng rớt xuống, chụp lấy miền múi… Y thị giật mình hú vía, biết rằng vị vua đương tróc nã bọn yêu tà. Y thị vội lảng chuồn, bay ra thật xa không dám ngoảnh cổ lại. Nhưng tai vẫn nghe thấy vị vua hô thêm hai lần nữa những câu thần chú ấy, rồi im bặt. Y thị biết mình đã thoát khỏi đại nạn, nên quay đầu nhìn lại. Thấy một vị trời hầu cận xách ba cái lưới tòng teng có ánh sáng xanh lè phát ra, rồi vệt sáng vàng lớn lại xẹt lên thinh không.

Y thị ngồi xệp ngay xuống chân núi, để tĩnh lại tâm trí. Sau một hồi lâu, y thị đã toan bỏ dở bữa săn bắt đêm ấy để trở về đảo Qua Oa. Nhưng vốn táo gan và hiếu kỳ, y thị đổi ý muốn trở lại xem xét nơi mỏm núi cao đó, xem có điều gì khác lạ không?… Âu cũng là một thứ nghiệp chướng rớt lại của Thạch Sanh, vì nếu y thị không lượm được hạt châu này, thì cũng khó lòng mà áp đảo nổi sức mạnh của Cuồng Huệ. Y thị đáp xuống mỏm núi đó, nhìn quanh quẩn, rồi tần ngần suy nghĩ. Bỗng y thị nổi tính tinh nghịch, đứng thẳng người theo dáng điệu của vị vua trời Đại Tự Tại, rồi bắt chước âm điệu, khẽ hô: “úm bệ lãm.” Vừa hô vừa vung bàn tay lên thinh không… Tiếng hô vừa dứt, thì có một luồng hào quang bay vọt từ dưới hẻm núi thẳng lên thinh không. Luồng hào quang biến ngay thành một màng lưới hào quang lấp lánh đầy sao, mỗi lúc tỏa rộng và cao thăm thẳm. Y thị ngẩn người ra một hồi rồi chợt hiểu. Thì ra vua trời Đại Tự Tại, lúc ra về, không hiểu sao lại đánh rớt một hạt châu xuống hẻm núi. Y thị sống đã lâu, lại nhiều kiến văn, nên có nghe nói đến vị vua trời đó cùng những bảo vật… Thấy màng lưới hào quang mỗi lúc mỗi cao thăm thẳm, y thị vội vàng lấy âm điệu hô tiếp: “úm lâu hê lâu hê.” Hạt châu vốn đã được phó một thứ thần lực tương ứng với hai câu thần chú, nên sau lời hô này, màng lưới hào quang liền rớt xuống, hoàn hình thành một hạt châu lóng lánh nằm gọn trong lòng bàn tay y thị. Vì trong lúc hô câu chú, y thị không có khởi niệm định chụp bắt vật gì cả, nên hạt châu chỉ rớt thẳng vào lòng tay y thị. Khi nhìn thấy hạt châu trong lỏng tay, y thị lại ngẩn người ra… Rồi một niềm vui mừng khôn tả bỗng nổi lên rào rạt trong lòng y thị, khiến y thị phải khoa chân khoa tay nhảy múa rối rít. Vừa múa vừa lẩm bẩm: “Chắc là Thiên la biến chiếu Như ý châu đây!… Lạ lùng thay là sự tình cờ!.. Muôn năm một thuở, muôn năm một thuở… Nhưng đôi tai y thị bỗng thoảng nghe có tiếng nói xào xạc… Y thị vội nén cơn cao hứng, lạng mình chui xuống một khe núi, ngước mắt nhìn lên… Thấy hai vị thiên thần đương bay lảng vảng trên triền núi, bay về phía chùa Lôi Âm, một vị nói:

– Vừa rồi, chắc là vua trời Đại Tự Tại đó. Ngài xuống để quét bớt bọn yêu ma đấy… Dạo này, bọn chúng hoành hành quá lắm, mà chúng mình thì không đủ sức tróc nã chúng…

Vị kia nói:

– Chúng mình chỉ có nhiệm vụ coi giữ các kinh của chư Phật thôi, canh giữ nơi Tàng kinh các… Đệ nghe nói là ở bên Đông Độ có một vị thánh tăng đã lên đường định sang đây để thỉnh kinh mang về Đông Độ đó…

Vừa nói, vừa bay đi mất dạng… Ba Văn Mật Đa hý hửng tự nhủ thầm: “Cổ nhân thường nói Phúc bất trùng lai, nhưng ta nghĩ lời nói ấy chẳng đúng tý nào. Vì chỉ có một đêm, mà ta được ngay hai việc lành lớn lao. Vừa được bảo châu, lại vừa có thể kiếm một tên thầy chùa đạo hạnh lớn lao để mần thịt…” Vừa nghĩ, y thị vừa bay trở về đảo Qua Oa. về đến nơi, y thị bế môn ngay cửa hang, rồi thử lại mấy lần thần lực của hạt Như ý châu cùng hai câu thần chú. Y thị nghiệm dần dần thấy rằng tùy theo sự động niệm dụng tâm của y thị, hạt châu đó không những tạo thành màng lưới thiên la có thể chụp bắt yêu ma, người và vật, nhưng cũng có thể tạo thành những ảo ảnh lung linh về điện các, lâu đài nhà cửa, thành ấp, thôn xóm… Ngoài ra, thí dụ y thị có khởi niệm dụng tâm đến đâu, cũng không có hiệu năng hiển hiện gì khác…

Y thị thở dài, hơi thất vọng, vì lúc trước, y thị tưởng rằng với Như ý châu thì có thể hóa hiện nhiều thứ khác…

Y thị tự nhủ thầm: “Hay có lẽ tại mình không biết những câu châm ngôn khác?…” Lòng tham vốn không đáy, nên y thị cứ thẫn thờ suy nghĩ miên man, rồi thử đi thử lại suốt hai ngày đêm… Rồi y thị chợt nhận thấy có điều bất diệu. Là hình như hào quang của hạt châu không phù hợp với những nhịp điệu rung chuyển của tâm thức y thị, và càng gần hào quang ấy bao nhiêu, thì tâm thức y thị càng như xao động, không được rảnh rang thảnh thơi tự tin như những ngày trước… Thành ra y thị lâm vào tình trạng khắc khoải khó xử của một kẻ trong tay cầm chén rượu đào đổ đi thì tiếc, uống vào thì say…?!

Sau cùng, y thị đành không dám mang hạt châu trong người, đem giấu kín vào một hốc đá trong động, dặn dò bọn La sát nữ đệ tử canh gác nghiêm mật, rồi bay đi tìm người thỉnh kinh:

Y thị tìm ra bọn Thạch Sanh rất dễ dàng. Y thị chỉ việc bay về phía đông trên mặt biển, chừng nửa ngày là thấy liền chiếc thuyền có một người mặc cà sa, và hai người mặc áo phá nạp. Y thị vốn cẩn trọng, nên bay rất cao, chú tâm theo dõi chiếc thuyền trong mấy ngày liền, để quan sát tình hình và nghĩ cách chặn bắt…

Vốn có ít nhiều tha tâm thông, nên trong mấy ngày theo dõi, y thị đã lần lần săm soi được một phần tâm tưởng của ba người, và hiểu được những điều sở nguyện chính của họ. Rồi săm soi đến những căn tánh tích lũy của họ.

Y thị thấy rằng người mặc áo cà sa đã có rất nhiều kiếp xuất gia làm tăng, chỉ biết đại cương vậy thôi, chứ không biết nổi những chi tiết, về Cuồng Huệ, thì y thị thấy mang mang mờ mịt, không săm soi nổi những chủng tử căn tánh. Còn Càn Thát Bà, thì y thị coi thường không chú tâm mấy… Y thị đã định tâm sẽ chỉ lấy hai người kia làm chồng rồi ăn thịt, còn anh mũi dài thì sẽ gán cho một nữ đệ tử La sát thân tín của y thị.

Đôi lần y thị đã toan quay về động, lấy hạt châu như ý rồi ra tay ngay trên biển để chụp bắt ba người. Nhưng vốn tính cẩn trọng, y thị e rằng kế sách đó không biết có chắc ăn không, vì linh tính của y thị tự nhiên thấy e ngại Cuồng Huệ… Trong khi suy nghĩ lập kế vẹn toàn, y thị bay lang thang trên biển, thị gặp ngay những cái thây bị đắm

thuyền, đang trôi lềnh bềnh. Trong đó, có một tử thi con gái nhỏ tuổi. Y thị bỗng nghĩ ra kế, trở về đảo Qua Oa, lấy hạt châu gài ngay lên nóc động, tụng cầu thần chú hóa hiện thành nhà cửa lầu các, làng xóm, dặn dò bọn nữ đệ tử phải làm nhu thế… nhu thế. Rồi bay trở lại mặt biển. Thấy đã đói bụng, y thị vớt ngay xác đứa con gái, nhởn nha nhai một hồi hết sạch, tuy vừa nhai vừa chê là vô vị. Rồi y thị chùi mép, lắc mình biến thành hình đứa gái để trái đào, ngồi trên mảnh ván lềnh bềnh… Mặt trời lúc đó đã gần mọc, và y thị cất tiếng nỉ non khóc liên tục…

Màng lưới hào quang thiên võng, tuy nhẹ nhàng mỏng manh hơn tơ trời, nhưng khi chụp xuống, đã trói ba người một cách khó mà gỡ thoát. Cho hay rằng uy lực của những màng lưới vô hình thật là thần diệu, nếu người và yêu ma mà dùng những cách thức thông thường thì không sao thoát nổi… Càn Thát Bà giãy dụa một hồi lâu, rồi hiểu ngay cái bất lực của mình, nên hắn cất tiếng quang quác chửi rủa. Nhưng con nữ yêu đã bỏ đi, vào trong phía sau của căn lâu đài rồi. Chửi mỏi miệng, hắn bèn nằm quay ra ngủ. Lần này, trong giấc ngủ, hắn dụng tâm ngáy thật to, vì có thể là tiếng ngáy khiến con ma đầu khó chịu… Thạch Sanh thì bị một mẻ hoảng sợ, chàng cũng giãy dụa một lát, nhưng rồi chợt nhớ đến những lời căn dặn trấn an của tôn giả, nên lại ngồi xếp bằng lầm rầm niệm Phật. Lúc này, sức niệm Phật của chàng đã tiến đến mức gần như nhập tam muội, khiến quên cả ngoại cảnh… Cuồng Huệ thì giãy dụa dũng mãnh và lâu hơn cả, y co chân đạp, hoa hai tay đập tán loạn, định bụng muốn san bằng cả tỏa lầu các của nữ yêu. Có những tiếng động lớn chói chang như có vật đổ rầm rầm, nhưng lạ thay, tòa lầu các vẫn đứng sững, lung linh như không hề bị sứt mẻ. Sức mạnh như huyễn thuật của y cũng trở thành bất lực… Y cũng nhận ra điều đó, và lạ hơn nữa là tuy y như người bị trói, nhưng y lại cảm thấy tâm thần sảng khoái nhẹ nhàng hơn trước. Y quay nhìn Thạch Sanh, rồi cũng lặng lễ ngồi kiết già, nhập cơn thiền quán thây kệ cho ngoại cảnh…

Khi vừng đông ửng sáng, chiếu rọi lên những mỏm đá đứng sững, thì cả ba người cùng mở mắt. Càn Thát Bà lồm cồm ngồi dậy, lấy tay dụi mắt… thì lạ thay, chẳng thấy lâu đài làng xóm gì cả, chỉ thấy một khoảng đất trống thật rộng cỏ mọc xanh mướt, chung quanh đều là núi đá nhấp nhô. Nơi chỗ hắn ngồi, là cửa một động đá lớn rộng, khúc khuỷu và sâu hun hút, bên trong có vọng ra xào xạc tiếng nói đàn bà. Gần cửa hang, cây cối cùng những tảng đá lớn đổ lổng chổng, có hai cây tùng bách cổ thụ đã đến hai trăm năm cũng bị bật rễ, và một mảng núi lớn nơi cửa hang cũng bị đập sạt hẳn đi. Chắc là do những cái đập đạp của Cuồng Huệ. Tại những mỏm núi đá quanh đấy, còn có khá nhiều hang động nhỏ hơn… Hắn hấp háy nhìn chiếc tháp ở phía xa, thì ra chiếc tháp chỉ là một đống xương người, nhưng được xếp lại một cách rất khéo léo mỹ thuật, thành hình một chiếc tháp cao bảy tầng… Hản buột miệng lẩm bẩm: “Biết ngay mà, bảo mãi cũng chẳng chịu nghe… Một ổ La sát đây mà…” Tuy lẩm bẩm vậy, nhưng hắn vẫn kinh dị, không hiểu sao con nữ yêu này lại cao cường đến thế, và nó đã dùng thứ gì để trói mình đây?!… Dưới ánh dương bình minh, hắn không nhìn thấy màng lưới hào quang ấy nữa, nhưng ba người vẫn mặc nhiên như bị trói, cử động khá khó khăn.

Đúng lúc đó, thì nữ yêu từ phía sau động lững thững bước ra, theo sau có hai đứa thị tỳ nhan sắc đẹp đẽ. Cả ba đều ăn bận lộng lẫy, vàng ngọc đầy mình, mùi hương sực nức… Ba Văn Mật Đa đã hóa hiện lại, hình hài, nhan sắc vẫn như hồi đêm, nhưng đầu không còn trái đào, mà mái tóc đen lay láy được buộc lại bằng một chiếc khăn lụa màu lục. Hai tai đeo hai hạt ngọc to dị thường. Khi y thị bước đi, vàng ngọc chạm nhau kêu leng keng… Y thị mỉm cười:

– Tiện thiếp xin chúc mừng đại sư phụ đã đánh một giấc ngủ ngon lành…

Càn Thát Bà tức mình, nhổ toẹt một bãi nước bọt rồi không trả lời. Nữ yêu nói tiếp, giọng trêu chọc:

– Có điều là trong giấc ngủ, đại sư phụ đã ngáy to quá, và tiếng ngáy đã làm vang động miền sơn dã thô lậu này…

Hai đứa nữ tỳ che miệng cười hĩnh hích. Càn Thát Bà tức quá, buột miệng:

– ừ thì ta ngáy đấy! Ta cốt ngáy to cho bọn mi chấn động tâm thần rồi trở thành điên loạn đấy!

Hai nữ tỳ lại bưng miệng cười. Nữ yêu nói:

– Đại sư phụ cũng có nhiều tính hài hước, và hai con nhỏ này có vẻ ưa thích dáng dấp cùng nét mặt của đại sư phụ. Hồi đêm, chúng cứ định sán đến, lấy lông chim ngoáy vào lỗ mũi đại sư phụ đấy…

Càn Thát Bà sợ quá, vội nhắm ngay mắt lại, rồi im như thóc. Nữ yêu nói:

– Nhưng thôi, hãy xếp chuyện ngáy ấy lại… Sáng nay, tiện thiếp bồn chồn mong sớm được đến đây để tạ lỗi cùng quý vị… Thực tình thì tiện thiếp không hề muốn dùng đến phương cách lỗ mãng như vậy. Nhưng tiện thiếp muốn lưu khách… Đối với quý vị, thì chắc rằng dùng rượu ngon, dùng thanh sắc, hay dù mưa to gió lớn cũng chẳng lưu được nào. Nên tiện thiếp đành tâm phải lỗ mãng là thế… Tiện thiếp đành phải thi thố một thủ thuật nho nhỏ để lưu chân các vị đại sư phụ..

Cuồng Huệ tò mò:

– Nhà ngươi đã thi thố thủ thuật gì vậy?

Nữ yêu quái cười chế nhạo:

– Đó là một thứ thủ thuật buồng the của bọn đàn bà con gái chúng tôi, thiết tuởng đệ tam su phụ chẳng nên thắc mắc làm gì… (đua mắt nhìn những tảng đá lổng chổng) Su phụ quả là có sức mạnh nhu thiên thần, tiện thiếp đoán chẳng sai chút nào. Nhung sức mạnh nào thì cũng chẳng thoát được thủ thuật buồng the của tiện thiếp… Thiếp rất nể tình sư phụ nên chỉ trói một cách lơ là. Nhưng thiếp khuyên sư phụ đừng nên đập phá nữa là hơn, chỉ nhọc công vô ích…

Cuồng Huệ ngẫm nghĩ giây lâu:

– Ta không thể tin miệng lưỡi của nhà ngươi được. Màng lưới hào quang không thể là một thủ thuật nhỏ được… Chắc rằng… chắc rằng nhà ngươi đã đánh cắp được một thứ bảo vật gì của một bậc đại tiên nào đó… La sát nữ vương các ngươi đâu có thể có những pháp thuật cao cường như vậy…

Nữ yêu cười khanh khách:

– Sư phụ coi thường tiện thiếp quá… Đây, rồi sư phụ coi, tiện thiếp còn nhiều những thủ thuật cao cường hơn nữa…

Từ khi nữ yêu bước ra, mùi hương sực nức cùng tiếng ngọc khua leng keng khiến Thạch Sanh thực sự hoảng sợ. Chàng hoảng sợ vì e ngại phạm giới. Vì giới luật dạy rằng kẻ tu hành thì ngay đến tiếng ngọc va chạm nhau trong khi người đàn bà bước đi, cũng không được để tâm nghe… Nên chàng vội nhắm nghiền mắt lại, lầm rầm niệm Phật để cố nhiếp tâm không nhìn không nghe không ngửi. Câu niệm Phật làm lắng dần những xao động tâm thức của chàng… Nhưng nữ yêu đã bước tới gần, lấy mũi hài thêu đá nhẹ vào đùi chàng:

– Đệ nhị sư phụ quả là người quê mùa hủ lậu, và nhiều ảo tưởng… Nhưng tiện thiếp lại có tính quái quắc ưa thích những người hủ lậu. Sư phụ đã xuất gia nhiều kiếp, nhưng đều là luống công nhọc nhằn vô ích. Sư phụ chỉ ưa nắm bắt những hình bóng, và cô phụ những thực cảnh trước mắt… Chư Phật chẳng qua cũng chỉ là những hình bóng, lời kinh xưa chẳng đã nói rằng: Chư Phật cũng đều là mộng cả hay sao?… Sư phụ nên mở mắt ra thôi:

Vừa nói, y thị vừa đưa cánh tay trắng nõn dí sát vào mũi Thạch Sanh:

– Sư phụ hãy ngửi thử mùi da thịt đàn bà của tiện thiếp đây… Hi, hi… đó mới chính là con đường lên Niết Bàn đó…

Thạch Sanh sợ hãi quá, mặt mũi co rúm, xanh xám lợt lạt. Tuy chàng có khá định lực, nhưng từ khá nhiều kiếp chàng chưa hề bị thử thách một cách phũ phàng như vậy, nên hoảng hốt chẳng biết ứng phó ra sao?! Lặng người đi một hồi lâu, chàng lẩm bẩm:

“Thà là cắt cái mũi này đi… cắt đi… chứ không ngửi cái mùi đó…” Nét mặt chàng thực là thiểu não… Nữ yêu trong bụng cũng ngạc nhiên kinh hãi, nhưng vẫn cười ngỏn nghẻn:

– Những người hủ lậu thường hay cố chấp, tiện thiếp biết quá mà… Nhưng một khi bén mùi rồi thì… hi, hi…

Cuồng Huệ đưa mắt nhìn nữ yêu. Y nhận thấy nét mặt và người y thị toát ra một thứ hấp lực tình dục lạ thường, hình như là y thị sanh ra là chỉ để cốt khêu gợi điều đó. Y thầm nghĩ: “Nhị sư huynh ta phen này thực là gặp đại nạn.” Y muốn nghĩ cách giải vây cho Thạch Sanh, nên nói:

– Ta biết nhà ngươi mong muốn điều gì rồi. Nhưng dụng tâm của nhà ngươi chỉ nhọc công vô ích, vì ta biết nhị sư huynh ta thà rằng chết chứ chẳng chịu phạm giới đâu…

– Sư phụ chỉ biết một chứ chưa biết hai đâu. Đối với những chàng trai quê mùa hủ lậu như nhị sư phụ, thì chỉ bọn đàn bà con gái chúng tôi mới biết rõ thôi, chứ sư phụ chưa biết đâu… Đấy, rồi sư phụ coi…

Cuồng Huệ nói:

– Ta khuyên nhà ngươi chớ nên nài ép trêu chọc nhị sư huynh. Neu không, ta dù có bị trói cũng cố san bằng mỏm núi này cùng hang động của nhà ngươi…

Nữ yêu cười khanh khách:

– Nếu như vậy, thì tiện thiếp đành phải thất lễ hơn nữa, phải niệm chú thêm để trói chặt sư phụ hơn nữa. Nhưng tiện thiếp thực tình không muốn làm như vậy… (Y thị trầm ngâm giây lâu) Tiện thiếp suy nghĩ kỹ thì thấy sư phụ cũng là người cố chấp hủ lậu như nhị sư phụ vậy. Vì… tuy có nét mặt thông minh, nhưng sư phụ cũng chẳng đạt tý nào…

– ?!

– Tâm nguyện của sư phụ chỉ là muốn mong cầu đạt được Trí huệ lớn chứ gì. Muốn mong cầu nhứt thiết trí, đạo thiết trí chứ gì. Mong cầu muốn biết rõ tất cả các pháp… Nhưng khốn nỗi là trong tất cả pháp của thế gian này, thì việc tình ái, việc chăn gối buồng the cùng những khoái cảm nồng say của nó lại chính là một Pháp lớn lao trong tất cả các pháp. Neu sư phụ không qua cầu đó, không biết pháp môn đó, thì làm sao có thể nói là đạt nhứt thiết trí được?!… Tiện thiếp xin mạn phép hỏi sư phụ thế này: Neu trong một cuộc vấn nạn, nếu có người vấn nạn sư phụ về vấn đề đó, thì sư phụ nói sao đây?… Đó lại chính là điều mà tiện thiếp sẵn sàng chỉ điểm ngọn ngành cho sư phụ…

Cuồng Huệ nghĩ thầm: “Con nữ yêu này thực là tinh ma quái quỷ…” nhung nhất thời y chưa nghĩ được cách gì hóa giải lối lập luận của y thị, nên đành ngồi im. Nữ yêu dồn thêm:

– Hồi hôm, tiện thiếp thấy sư phụ rất khắc khoải băn khoăn về cái bí ẩn của vũ trụ này, và một hai chỉ muốn tiện thiếp giải về điểm đó. Tiện thiếp thấy hơi nực cười, nhưng lại rất thương tình sư phụ về niềm khắc khoải ấy… (lấy nét mặt trang nghiêm dịu dàng) Nhưng sư phụ ơi, sư phụ có biết đâu rằng lời lý giải cũng chẳng khó khăn khúc mắc lắm đâu, mà thực ra lại rất là đơn sơ bình dị. Sư phụ có muốn nghe lời lý giải không?

Tuy bị đánh trúng vào chỗ ngứa, nhưng Cuồng Huệ lần này vẫn làm thinh… Nữ yêu giở giọng buồn rầu:

– Sư phụ vẫn còn hoài nghi và chưa tin lời tiện thiếp. Tiếc thay là lòng hoài nghi và sự ngu muội của con người thực là khó thể nói hết… Nhưng riêng đối với sư phụ, thì dù còn hoài nghi, tiện thiếp vẫn muốn bố thí lời lý giải… Sư phụ nên biết rõ rằng tiện thiếp là một người đàn bà, lại là một người đàn bà khác chúng. Cửa âm môn của tiện thiếp chính là một cánh cửa khép hờ trên cái bí ẩn của kiếp sống và vũ trụ. Sư phụ chỉ cần nhìn thấy cửa âm môn của tiện thiếp hé mở, và đi lọt qua cửa ấy, thì sẽ chẳng khác chi kẻ nhập nẻo Thiên thai, và lúc đó tự nhiên sư phụ sẽ lãnh hội: được ý thú sâu thẳm và bao la của cái bí ẩn của vũ trụ…

Cuồng Huệ bật lên một tiếng cười khô khan, nhưng chưa kịp nói gì, thì đã thấy tiếng văng tục quang quác của Càn Thát Bà:

– Mẹ kiếp, mẹ kiếp… Thực là đồ mặt dày! Cửa âm môn của nhà mi thì ra cái đếch gì, bất quá chỉ là một miếng thịt hôi thối tanh ngòm… Thế mà cũng dám mở miệng khoe là cánh cửa khép hờ với khép kín…

Rồi hắn thở hồng hộc, nhổ toẹt một bãi nước miếng to tướng, bắn văng tung tóe. Nữ yêu hơi cau mày, một ánh sát khí thoáng qua tròng mắt. Nhưng y thị trấn tĩnh được ngay, duy giọng nói đanh lại:

– Đại sư phụ tuy là người hồn nhiên, nhưng thực là tục tĩu, Người tục tĩu thì nhìn cái gì cũng thấy là tục tĩu, trong khi tiện thiếp đương luận đàm về những việc sâu thẳm và thanh cao… Nhưng thực ra, đại sư phụ chẳng cần phải ngứa mồm bình luận về cửa âm môn của tiện thiếp, vì tiện thiếp không hề có ý định mời mọc đại sư phụ ngắm nhìn cảnh hé mở cửa âm môn tiện thiếp… Chỉ có hai đứa tiện tỳ này là có ý định mời mọc đại sư phụ thôi… Hi, hi… Thực là nực cười, nực cười…

Càn Thát Bà sợ quá, lại ngồi rụt cổ lại, không dám ho he. Nữ yêu trầm ngâm giây lâu, mũi hài thêu bất giác di đi di lại trên đám cỏ, khiến cỏ bị nát bấy… Y thị chậm rãi:

– Ba vị hiện nằm gọn trong lòng tay của tiện thiếp. Dù có muốn giãy dụa kháng cự, cũng chẳng được nào… Tiện thiếp hiện đương cần bế môn tu luyện một môn tam muội cao siêu, nên không có nhiều thời giờ rảnh rỗi để luận đàm cùng quý vị… Kia… kìa… quý vị hãy nhìn ngọn tháp cao kia. Tiện thiếp tuy bị thế nhân cho là yêu quái bàng môn, nhưng tiện thiếp vốn là kẻ chân tình nên trước sau chẳng muốn dấu diếm quý vị điều gì. Những bộ xương khô xếp thành tháp, trước kia đều là những đấng ông chồng của đám nữ đệ tử của tiện thiếp. Chúng chỉ ăn ở với chồng được ít hôm, cưóp đoạt hết tinh khí rồi thì đâm ngứa miệng ăn thịt luôn cả chồng. Tiện thiếp răn bảo thế nào cũng không được… Nhưng tiện thiếp vốn là chúa tể của chúng, nên chẳng như vậy đâu. Bọn đàn ông xương khô đó đều là những kẻ tầm thường thô lậu, tiện thiếp chẳng bao giờ thèm để mắt tới. Trước sau, tiện thiếp chỉ mơ ước lấy được một người chồng tuấn tú và có bản lãnh cao siêu…

Càn Thát Bà lại buột miệng xen vào:

– Nếu vậy thì không phải ta rồi… Ta tuy có bản lãnh nhưng chắc là không tuấn tú mấy…

Nữ yêu lừ mắt nhìn hai thị tỳ. Hai đứa sán lại, ghì chặt hai tay Càn Thát Bà ra sau lưng, lấy một giải lụa trói chặt lại. Rồi một đứa nắm chỏm tóc lật ngửa mặt lên, rồi một đứa đã kiếm ngay đâu được một trái hạnh đào xanh nhét ngay vào miệng hắn… Càn Thát Bà tức uất người lên, thở hồng hộc, như muốn hộc máu. Nhưng hắn đã bị màng hào quang trói buộc, nên chẳng chống cự được gì nhiều, nhất là hai đứa kia đều là kẻ có bản lãnh… Rồi một đứa cười hĩnh hích, rút trong bọc ra một phiến son to, định vẽ lên mặt hắn. Nhưng nữ yêu đã trừng mắt, ra lệnh ngừng tay. Ý chừng y thị cũng chưa muốn xử quá tệ với bọn Cuồng Huệ. Y thị vẫn chậm rãi nói tiếp:

– Tiện nữ đã chịu nhiều nỗi cô đơn lẻ loi, nên ngày đêm thường cầu nguyện mong gặp được một người chồng như vậy. Không phải là để ăn thịt chồng đâu. Mà là để nâng niu tôn kính, để cùng nhau san sẻ những kinh nghiệm cùng những pháp môn bí tàng tu luyện. Đe đạt tới một mức độ bản lãnh tuyệt vời, rồi cùng nhau sát cánh vùng vẫy giữa chốn thiên trường địa cửu, trở thành một đôi anh kiệt bất tử và không người địch lại… Tiện thiếp thành tâm mong cầu như vậy… (khẽ thở dài) Tiện thiếp biết rằng những người đi thỉnh kinh đều là những bậc khả kính, đáng lẽ ra thì phải hết tâm hộ trì, đâu có được quấy phá?! Tiện thiếp biết lắm chứ. Tiện thiếp tuy bị cái oan trái là người đời mai mỉa, nhưng tiện thiếp cũng là kẻ khá làu thông kinh sách. Song con đường xiển minh bởi chư Phật, tiện thiếp e rằng con đường đó diệu vợi quá, xa vời quá, không phù họp với tâm nguyện của tiện thiếp và của rất nhiều chúng sanh khác… Một khắc tuổi xuân là ngàn vàng khôn chuộc, một kiếp sống là của báu vô giá, tiện thiếp đâu có thể buông trôi mảnh hồng nhan cùng đôi má phấn để khép nép dọn mình trải qua A tăng kỳ kiếp sống? Tiện thiếp đâu có thể chịu đựng nổi cái niềm cô tịch mênh mang và miên viễn của cuộc hành trình ấy?!… Trong khi tiện thiếp lại biết rõ ràng rằng có những con đường ngắn tắt, những pháp môn bí tàng viên đốn, chỉ cần tu luyện một kiếp sống thôi, cũng đủ đạt tới trí huệ tuyệt vời cùng sự thần thông quảng đại. Đó là những lời thực tình của tiện thiếp, xin chớ hoài nghi. Bằng chứng là quý vị đều là người có bản lãnh, thế mà tiện thiếp chỉ cần thi triển một thủ thuật cũng đủ lưu chân quý vị… Hiện nay, tiện thiếp đương tu luyện một môn tam muội, nếu môn này thành tựu, thì tiện thiếp sẽ bước lọt vào ngưỡng cửa của thần lực quảng đại. Và tiện thiếp xin sẵn sàng san sẽ những bí tàng đó cho người chồng của tiện thiếp… Sở dĩ tiện thiếp đành phải cam tâm thất lễ với quý vị, thực ra… chỉ là vì đệ tam sư phụ đây. Được một sự gặp gỡ kỳ ngộ này, thực là muôn năm một thuở, nên tiện thiếp không thể đành tâm giương mắt để lọt tay được. Tiện thiếp vốn có túc mạng thông, nhưng xin thú thực rằng khi soi căn tánh của vị sư phụ đây, thì thấy mịt mùng không rõ. Đủ biết là sư phụ có một nguồn gốc thật siêu phàm… Nên mọi việc hôm nay, tiện thiếp xin đặt vào trong tay của đệ tam sư phụ. Sư phụ cứ việc suy nghĩ cân nhắc lợi hại, sau ba hôm tiện thiếp sẽ trở lại lấy câu trả lời của sư phụ. Lúc đó, sư phụ chỉ cần gật đầu thuận tình, là tiện thiếp lập tức trống rong cờ mở tiễn hành hai vị sư phụ kia lên đường thỉnh kinh…

Cuồng Huệ nói:

– Nhưng nếu ta không thuận tình thì sao?

– Tiện thiếp trộm nghĩ rằng sư phụ đâu đến nỗi dại khờ như vậy, đâu có thể bỏ những kho tàng trước mặt trong tầm tay được?… (nhìn quanh) Sư phụ cũng đừng nên chê nơi này là thô lậu, tiện thiếp có đủ ngọc ngà bảo vật, nếu có cần xây lầu ngọc điện vàng, tiện thiếp cũng sẽ làm dễ dàng…

– Nhưng nếu ta vẫn thích hủ lậu dại khờ thì sao?

– Tiện thiếp mong rằng sẽ không như vậy. Sư phụ cũng nên vị tình hai vị đạo hữu… Nhưng sư phụ đã gạn hỏi, tiện thiếp cũng xin thưa thẳng ngay. Vạn nhất sư phụ vẫn khăng khăng không thuận tình, thì tiện thiếp đành phải dùng cách cưỡng đoạt nguyên khí của nhị vị, rồi ăn thịt nhị vị… Tiện thiếp đành phải thế vậy, chứ biết làm sao? Tiện thiếp đành phải hạ mình bắt chước bọn đệ tử, vì tiện thiếp không thể để lọt một mảy may xương thịt của nhị vị được…

Ba nữ quái đi rồi, để ba người ngồi trở lại, nhưng mỗi người theo đuổi một tâm tưởng khác nhau…

Lúc đó, Càn Thát Bà đã cắn nát được trái hạnh đào rồi nhổ phì phì ra từng mảnh. Hắn cũng nằm nghiêng xuống đất, lia đi lia lại dải lụa buộc tay vào một khía đá, và giải lụa đã đứt tung. Hắn lồm cồm ngồi dậy, lầu bầu rên la:

– Thế này thì hỏng quá, hỏng quá! Nhục quá, nhục quá! Nó lại dám túm lấy chỏm tóc của ta, chỏm tóc của ta…

Rồi hắn đưa tay giựt giựt mớ tóc, như muốn nhổ vứt đi cho bớt sự hôi tanh của bàn tay nữ quái… Sau cùng, hắn quay ra đổ thừa, bảo Cuồng Huệ:

– Thôi, thôi… trăm điều vạn sự cũng chỉ là do chú mày cả, tại chú mày cả…

-?!

– Thì ai bảo chú mày tuấn tú đẹp trai làm gì? Sao trước kia, lúc biến hóa hình hài, chú mày lại không biến thành một hình hài xấu xí, có cái mõm như mõm heo có phải hay không?

Cuồng Huệ không khỏi bật cười:

– Từ trước đến nay, tiểu đệ chỉ quen biến hình hài như vậy thôi, nên chưa biết biến thành người xấu xí…

– Thế ai bảo chú mày có căn cơ siêu phàm làm gì? Cứ có căn cơ tầm thường có phải tốt không?… Thôi, thôi, từ nay ta buộc chỉ cổ tay, không chơi với những thằng siêu phàm nữa, chỉ chơi với những đứa tầm thường thì vô sự hơn…

Trong lúc nổi đóa, mà không biết đổ quạo lên đầu ai, nên hắn nói tía lia bừa bãi… Cuồng Huệ cũng không trả lời, vì y đương bận tâm nghĩ cách đối phó với nữ yêu. Càn Thát Bà tặc lưỡi:

– Ta đã nói khô cả miệng mà chẳng đứa nào chịu nghe… Sóng gió là do nhà ngươi hứng lấy, thì nhà ngươi hãy tìm lấy cách mà đối phó… Chà, chà… khó lắm đấy, khó lắm đấy… Hắn lầu bầu suy ngẫm một hồi lâu, rồi thấy vô kế khả thi, hắn lại quay lăn ra ngủ, ngáy pho pho…

Lúc này, Thạch Sanh lại trở thành người điềm tĩnh hơn hết. Chàng chỉ co rúm hoảng hốt sợ hãi khi chạm mặt với sự trêu chọc của nữ yêu thôi. Nay nữ yêu đi rồi, mùi son phấn cũng đi rồi, thì chàng tự nhiên lại lặng lẽ nhập câu niệm Phật, ngồi yên bất động, chẳng nói chẳng rằng. Lúc này, chàng như người lặng lẽ nhập định, do câu niệm Phật… Chàng tự nhủ thầm: “Có lẽ mình sẽ chết về tay đứa con gái này. Nhưng thôi, mình đã phát nguyện tự coi như chết rồi, thì bận tâm làm gì? Thôi thây kệ, muốn băm vằm mổ xẻ, moi ruột moi gan gì cũng mặc. Ta chỉ biết chú tâm niệm Phật và niệm Tôn

Giả thôi… Bộ kinh pháp bảo này, chẳng biết ta có túc duyên thỉnh nổi không, nhưng nếu có bị chết trên đường thỉnh kinh, thì cũng là được đạo rồi…”

Nghĩ vậy, chàng thấy người thanh thản vô chừng, vừa lâm râm niệm vừa hồi tưởng lại những lời dặn dò của Tôn Giả… Lúc này, trong ba người, chàng là người duy nhất nghĩ đến tôn giả Ca Lặc Ca. Bỗng nhớ đến hai câu: “Lặng lẽ và khoát nhiên, Mặc vũ trụ biến hiện…” chàng giật mình như người bừng tỉnh. Chàng lẩm bẩm thầm: “Thì ra… thì ra Tôn Giả đã nói rõ ràng lắm rồi. Thì ra vũ trụ này với tất cả những thuận duyên cùng nghịch duyên, đều chỉ là một tuồng biến hiện thôi sao? Không lẽ nữ yêu này cũng chỉ là một tuồng biến hiện? Neu vậy, nếu vậy… thì có gì mà phải quan tâm… Nhưng Tôn Giả đã nói, thì không thể sai chệch được, chỉ tại mình ám chướng mê mờ nên không thấy rõ thôi…” Suy nghĩ hồi lâu, chàng bỗng mở mắt, bảo Cuồng Huệ:

– Này, hiền đệ…

– Có gì vậy sư huynh?

– Có lẽ hiền đệ nói đúng đấy!

– ?!

– Hiền đệ vẫn thường thắc mắc, cho rằng cái vũ trụ này chỉ là ảo, không thể thực được. Nay tiểu huynh chợt nhớ lại lời nói của Tôn Giả: “Lặng lẽ và khoát nhiên, Mặc vũ trụ biến hiện.” Neu vũ trụ là một tuồng biến hiện, tự chắc nó là ảo rồi…

Còn Thát Bà đương ngủ, nhưng nghe tiếng hai người bàn bạc, hắn lại thức dậy, và xen vào:

– Chắc là Tôn Giả nói nghĩa bóng gì đó, chứ chẳng phải ảo đâu… Thế ngộ nay mai, chú Cuồng Huệ gật đầu làm lễ thành hôn với nó, rồi ngủ với nó để xem cánh cửa hé mở, thì cũng cứ coi là ảo cả hay sao?

Dụng ý của hắn có lẽ là muốn khích tướng Cuồng Huệ, nhưng trong lúc này, Cuồng Huệ đương bận tâm nhiều về vụ nữ yêu, nên y chỉ yên lặng, không trả lời gì…

Thực ra, y đương suy nghĩ rất lung về những kinh nghiệm thiền quán của y. Tuy bề ngoài điềm đạm, nhưng ý chí của y rất mãnh liệt cương cường, không chịu khuất phục, cũng không muốn kham nhẫn xả thân như Thạch Sanh. Y biết mình đã thua nữ yêu một keo, nhưng muốn tìm cách khắc phục và thoát hiểm… Trong suốt nửa năm thiền quán, y nhận thấy rằng tâm lực của y là một sức mạnh gần như không bờ bến, tương tự như thần lực. Nay thân y đã bị màng hào quang trói buộc rồi, nên y muốn nghĩ đến cách sử dụng tâm lực để đối phó… Mà cái màng hào quang của nữ yêu cũng thật lạ lùng. Y bị trói buộc nhưng y cảm thấy hình như hào quang ấy phù hợp với y, làm tăng thêm định lực cùng sức thiền quán. Nay lại nghe Thạch Sanh nhắc tới hai chữ: “Biến hiện” của Tôn Giả, nên y lại càng quyết tâm muốn sử dụng tâm lực để gây trò biến hiện xem sao?

Nghĩ vậy rồi, y liền bảo hai người kia ngồi gần lại bên y, rồi lặng lẽ nhập định… Gần đây, y thường quán nước, và thấy nước mênh mang. Nên lần này, y quyết tâm quán nước, quán thật sâu và thật bao la, để dâng biển nước ấy lên đánh con nữ quái… Càn Thát Bà thì lúc đầu chưa hiểu y định làm gì, nhưng lần lần hắn hiểu… Y ngồi yên, thân bất động như một pho tượng đá, quán nước từ trưa cho đến xâm xẩm tối… Mặt trời vừa rớt xuống sau rặng núi đá, thì nước cũng lần lần hiện lên mênh mông chung quanh y… Thạch Sanh cùng Càn Thát Bà đều nhìn thấy nước chập chùng, nên càng ngồi xích lại gần Cuồng Huệ, lặng lẽ chờ coi xem trận thư hùng ra sao. Nước mỗi lúc một dâng lên như một vùng biển lớn, sóng gọn nhấp nhô… Cuồng Huệ tập trung định lực, khởi niệm gieo vùng nước chảy cuồn cuộn vào phía sau động đá. Y thầm nghĩ rằng nếu dòng nước cuồn cuộn này không nhận chìm bầy nữ quái, thì ít nhất cũng tàn phá hang động không ít. Nhưng chính kẽ hở nghi tình này trong tâm niệm của y, đã khiến cho định lực bị sụt kém một bậc… Y cố gắng dồn nước như vậy trong hơn một trống canh, thì bỗng nghe từ phía sau hang động có tiếng cười khanh khách của nữ yêu:

– Bản lãnh khá đấy, bản lãnh khá đấy!… Nhưng tiếc thay là định lực của sư phụ mới chỉ tạo nổi định quả sắc cùng một phần nghiệp quả sắc, chưa tạo được hoàn toàn nghiệp quả sắc…

Ngừng một lát, y thị lại tiếp:

– Vùng nước của sư phụ chỉ khiến người ngoài nhìn thấy được, nghe thấy được mà thôi. Chứ chưa sờ thấy, mó thấy… Hi, hi… xúc giác chưa hiện hành, thì làm sao mà nhận chìm đám đệ tử của tiện thiếp được?!

Giọng nói tuy ngọt ngào nhưng chế diễu… Cuồng Huệ như người bị dội một thùng nước băng giá… Nữ yêu tiếp:

– Về vụ này, tuy tiện thiếp ngu muội nông cạn, nhưng cũng có thể chỉ điểm ít nhiều cho sư phụ được… Chỉ xin sư phụ gật đầu thuận tình thôi…

Cuồng Huệ thở dài thườn thượt, rồi xả định. Y biết mình lại thua một keo nữa rồi, nên cũng chẳng buồn đối đáp… Thấy mặt y buồn xo và đăm chiêu, nên Càn Thát Bà cũng không dám mở miệng trêu chọc… Tiếng nữ yêu lại thánh thót vọng lên:

– Sư phụ đã làm lỡ giấc ngủ đầy mộng đẹp của tiện thiếp. Bây giờ, chắc là khó dỗ lại được giấc ngủ… Cha, cha… tấm chăn này bây giờ lạnh toát, nó cứ dính nhép vào người tiện thiếp như màng hào quang vậy…

Câu nói khiến Càn Thát Bà nảy ra một ý kiến. Hắn khẽ mách nước:

– Tam đệ thử dùng định lực thu thật nhỏ tấm hình hài lại bằng con muỗi ấy xem có thể lọt lưới không?

Hắn nói rất khẽ, vì sợ nữ yêu nghe thấy. Ý kiến của hắn không phải là vô lý… Tưởng cần hiểu rằng tất cả sự vật cùng thân căn chúng sanh trong vũ trụ không ngằn mé này, đều chỉ kết tập nên bằng Quang minh, sắc thân vi diệu của chư Phật và Bồ Tát thì được kết tập bằng những quang minh vi diệu và chuyển động cực nhanh. Còn thân căn của người và chúng sanh vì nghiệp lực bất tịnh và nặng nề, nên chỉ được kết tập do những quang minh thô kệch, và chuyển động chậm… Do sự suy động của nghiệp lực quá khứ, những quang minh ấy đã tạo thành những cơn lốc quang minh, kết tập lại thành một thân căn. Vì giác quan của người còn quá thô kệch, nên không thể nhận được điều đó, nên cứ tưởng thân căn của mình là chắc nịch, ù lỳ, cố định, và khó thể chuyển hóa được… Nhưng một người tu hành cao, thì sẽ nhận thấy rằng tâm lực là một sức mạnh vô địch. Vì tâm lực chính là quang minh vi diệu. Và nếu biết sử dụng, thì có thể dùng quang minh vi diệu ấy, thay đổi những nhịp điệu rung chuyển của những quang minh thô kệch, do đó có thể chuyển hóa các vật cùng thân căn được… Cho nên, một bậc Bồ Tát lớn, vì đã biết sử dụng những quang minh một cách tuyệt hảo, nên đều đạt tới nơi biến hóa địa vô cùng vậy… Nhưng điều này, chính Cuồng Huệ cũng chưa hiểu được rõ ràng lắm, nhưng y đã linh cảm được lờ mờ rồi…

Y nhận thấy ngay rằng ý kiến của đại sư huynh là xác đáng và tự trách sao không nghĩ ngay ra điều đó… Y liền lặng lẽ ngồi, dùng định lực cố thay đổi những nhịp điệu rung chuyển của những vi trần trong hình hài của y, chuyển sang những nhịp điệu mỗi lúc một vi tế hơn… Quả nhiên, Càn Thát Bà ngồi theo dõi thấy hình hài y mỗi lúc mỗi nhỏ lại. Y ngồi từ nửa đêm đến cuối canh tư, thì thấy thân hình nhỏ lại chỉ cỏn bằng cái đầu tăm… Càn Thát Bà khẽ giục: “Chui ra đi, ra đi.” Y liền nhằm một kẽ hở của hào quang, định lách mình ra… Nhưng lạ thay, y vẫn không ra lọt nỗi! Kẽ hở của màng lưới hình như vẫn còn vô vàn những sợi tơ vi tế hơn nữa, và vẫn trói buộc thân hình y… Vừa lúc ấy, tiếng nữ yêu lại vọng ra:

– Dù sư phụ có biến hình nhỏ hơn một hạt bụi chăng nữa, cũng chẳng ra khỏi mạn đà la võng của tiện thiếp đâu… Lòng tiện thiếp đương nặng trĩu sầu muộn đây, nên cũng muốn coi sư phụ làm trò giải muộn…

Lần này, y thị không cười nữa, ra giọng phiền muộn nỉ non. Y thị cũng không nói thiên la võng, mà nói chệch ra là mạn đà la võng, để khỏi mách nước cho bọn Cuồng Huệ… Tuy nghe tiếng nói lao xao, nhưng Cuồng Huệ vẫn bình thân không động tâm. Y có gắng thu nhỏ hình hài hon nữa, nhưng nhận thấy không thể làm hon được. Y nhủ thầm: “Định lực của mình lúc này chắc chưa đủ sức…” Rồi y thốt nhiên muốn làm ngược lại, muốn biến thân hình thành thật lớn, để mong làm vỡ lưới hào quang… Ba khắc đồng hồ trôi qua, thân hình y đã lừng lững lớn như trái núi… Nhưng màng hào quang co dãn dị thường, lại trói chặt thân hình y hơn trước… Tiếng nữ yêu lại vọng lên:

– Dù sư phụ có biến hình cao bằng núi Tu Di chăng nữa cũng chẳng thoát đâu… Thôi, sư phụ ơi, sư phụ nên gật đầu thuận tình làm người bạn đời của tiện thiếp. Tiện thiếp chỉ mong được mách bảo sư phụ đôi điều về con đường tu luyện thôi. (Ngừng một lát, nói tiếp:) Sư phụ còn phải quán tưởng trong nhiều giờ khắc mới chuyển hóa được hình hài, thì cũng chưa được gọi là thần thông dâu…

Mặc dầu thất vọng, nhưng Cuồng Huệ hiểu rằng lời y thị là hợp lý. Y cũng hiểu rằng thời gian tập luyện quá ngắn ngủi, và lúc này, y chưa sao làm hơn được. Y nghĩ thầm: “Dù mình có căn cơ thế nào chăng nữa, thì cũng cần một thời gian tu luyện tương xứng… Khốn nỗi là hoàn cảnh lại cấp bách…” Nên y lại lần lần thu nhỏ hình hài lại như bằng lúc thường.

Lúc này, trời đã rạng đông, và ánh mặt trời chiếu rọi rực rỡ trên những mỏm đá man dại… Càn Thát Bà ngồi trơ ra vì thất vọng. Thạch Sanh cũng theo dõi suốt đêm những vụ biến hóa hình hài của Cuồng Huệ, vừa theo dõi vừa lâm râm niệm Phật. Nay thì chàng đã khép mắt lại để nhập hẳn vào câu tụng niệm… Chàng biết rằng lời kỳ hạn của nữ yêu đã bước sang ngày thứ nhì, nhưng chàng cũng chẳng quan tâm, chỉ chú tâm vào tụng niệm… Niềm thất vọng nhất thời của Cuồng Huệ cũng chỉ thoảng qua rất nhanh. Y ngồi thẳng ngắm nhìn rất lâu những tia sáng mặt trời óng ánh trên nhiều mảnh đá của những mỏm núi, rồi lần lần đắm mình trong một niềm suy tư miên man.

Ngồi lặng ngắm giờ lâu những tia ánh sáng óng ánh trên mỏm đá, cùng những đốm ánh sáng nhảy múa lung linh giữa hư không, y chợt như người bừng tỉnh, tự nhủ thầm: “Thì ra… thì ra… có lẽ… có lẽ cái vũ trụ này chỉ được dệt nên toàn bằng hào quang cả. Có những hào quang minh không nhìn thấy nổi thì tưởng là tối…” Y suy nghĩ rất lung về hai chữ Biến Hiện của tôn giả, rồi lại nhớ tới lời nói của Càn Thát Bà ở nơi đầu non Hương Thủy Hải: “Nhân động mà có diệu âm, nhân diệu âm mà có quang minh, nhân quang minh mà có hình sắc…” Y suy nghĩ miên man, rồi tự nhủ thầm: “Không ngờ đại sư huynh của mình lại thốt ra đúng một lời sâu xa đến the! Nhưng vốn tính nết láo quáo, nên thoáng thốt ra được ý kiến ấy, rồi lại quên tịt, chẳng buồn suy nghĩ gì nữa… Hào quang cả! Hào quang cả! Có lễ ngay cái hình hài của mình cũng chỉ là một cơn lốc hào quang! Và tâm lực của mình cũng vậy… Bởi thế, nên hào quang nọ mới ảnh hưởng chuyển hóa được hào quang kia… Thôi, chắc là đúng rồi, không còn nghi ngờ gì nữa, gì nữa…” Nghĩ như vậy rồi, thì lòng y thấy như cất được một gánh nặng ngàn cân, y mừng rỡ quá độ, như người muốn nhảy múa. Y quên cả tình trạng hiểm nghèo và quên cả nữ yêu… Nhưng y nén luôn cả niềm vui mừng đó, để cố bình tĩnh tư duy cho kỹ hơn nữa. Y tự hỏi: “Neu như vậy, thì tại sao mình lại chưa thể hóa giải nổi màng lưới hào quang hiện đương trói buộc thân mình? Chắc là tại tâm lực mình còn tối quá, chưa đủ mạnh, chưa đủ vi tế nhỏ nhiệm chăng?…”

Y phân vân như vậy rất lâu, chưa biết quyết nghi ra sao. Sau cùng, y quyết định là phải trắc nghiệm thêm nữa về sức mạnh của tâm lực y… Y nhìn quanh quẩn, thấy phía trước mặt, cách chừng năm, sáu chục thước, có một cây bách đứng thẳng, cành lá còn xanh um, cao đến bốn chục thước. Y thầm nghĩ: “Mình đã thử tâm lực vào thân hình mình rồi, nay hãy thử vào ngoại vật xem sao? Trong cây bách kia, có chất đặc và cứng của nó, tức là địa đại. Có chất lỏng của nó tức là thủy đại. Sức sống của nó, tức là hỏa đại và phong đại. Trong cây cũng có một phần hư không nữa, khiến cây có thể sinh trưởng được, như thế là không đại… Nay ta thử ngồi nhập định, dùng tâm lực chỉ quán về chất địa đại trong cây, chỉ quán địa đại không thôi, và hóa giải cùng khu trục những đại kia ra ngoài cây… Thử xem kết quả ra sao?”

Y lặng lẽ ngồi nhập định, ngắm nhìn kỹ thân hình cây bách rồi khép mắt lại, tập trung sức quán tưởng để làm tăng trưởng chất địa đại trong cây, và khu trục hết bốn đại kia… Y ra sức quán như vậy cho đến giờ mùi, mặt trời đã hơi chếch bóng, thì thấy những chùm lá cùng cành như héo hắt hẳn đi, rủ xuống ủ rũ, tưởng chừng như có một ngọn sóc phong thổi lướt qua làm khô héo cả thân cây… Càn Thát Bà ngồi im lặng theo dõi Cuồng Huệ, hắn lần lần hiểu ra, nên buột miệng reo: “Hay quá! Diệu quá!…’

Nhưng Cuồng Huệ vẫn như không nghe thấy gì, tiếp tục quán tưởng, Tới khi mặt trời rớt xuống sau những mỏm đá, cơn gió chiều tà nổi lên, thì toàn thể những cành lá của cây đều lả tả rớt xuống, tan nát thành cát bụi…

Càn Thát Bà vỗ đùi, reo hò ầm ĩ, có lẽ hắn cũng quên cả nữ yêu rồi. Cuồng Huệ lần lần xả định, mở mắt ra, nhưng lần này, mồ hôi trên mặt y toát ra đầm đìa… Khi nhìn quang cảnh cây bách, thấy chỉ còn trơ lại một thân cây héo hon như màu đất, y thở phào một hơi dài, như kẻ vừa trút được một gánh nặng. Y biết rằng y đã thành công, và những ý nghĩ của y là đúng. Càn Thát Bà trầm trồ:

– Định lực của chú mày hay thiệt! Như thế, là chú mày có thần lực rồi đó…

Nghĩ ngợi giây lâu, hắn tiếp:

– Chú mày có thể làm héo một thân cây được, thì chắc là có thể dùng định lực làm héo một thân người đi được. Chú mày hãy dùng phương thức đó để giết chết nữ yêu đi thôi… Hàng ma, hàng ma đi thôi… Kiếm khách ra chốn hải tần mài…

Thấy Cuồng Huệ có vẻ tần ngần, hắn giục:

– Thì cứ thử xem, cứ thử xem. Đằng nào, nó cũng chẳng buông tha bọn mình cơ mà.

Bỗng có tiếng cười khanh khách của nữ yêu:

– Ý kiến của đại sư phụ cũng hay đấy. Chỉ phải cái hơi con nít thôi… Sư phụ nên thử đi, tiện thiếp vẫn nằm dài đây này, chỉ khoác có một mảnh lụa mỏng, để chờ xem sư phụ gãi ngứa ra sao đây!?…

Thực ra, thời gian tu luyện thiền quán của Cuồng Huệ còn quá ngắn ngủi, nên tuy có căn cơ kỳ đặc, nhưng lúc này, mức độ định lực của y cũng nhiều lắm chỉ bằng một người đạt đệ tứ thiền là cùng. Y chưa vào nổi những không định xứ của cõi Vô sắc. Nhưng vốn hóa sanh từ một giọt nước mắt của Bồ Tát lớn, thân hình của y lại gần như huyễn hóa ít nghiệp lực, nên tâm lực của y mới dễ có thần lực như vậy, mới dễ tác động vào thân căn cùng ngoại vật một cách mãnh liệt đến thế… Lúc này, nghe nữ yêu chế giễu như vậy, y tần ngần hồi lâu rồi tự nhủ: “Sức quán tưởng của mình cũng chưa chắc làm gì nổi y thị đâu. Nhưng cũng chẳng còn cách nào khác. Âu là mình cũng cứ thử gãi ngứa y thị xem sao?… Cứ thí nghiệm một phen xem sao?…”

Rồi không một niềm sân giận, không nóng nảy, không mong cầu gần như kẻ vô tâm, y lặng lễ nhập định. Y quán tưởng tấm hình hài của nữ yêu nằm dài trong động sâu, rồi chú tâm chỉ làm tăng trưởng chất địa đại trong thân hình đó, đồng thời khu trục hết thảy những đại kia… Neu y thành công trong vụ này, thì tất cả những vi trần (hay ba động hào quang) thuộc thủy đại, hỏa đại, phong đại, trong người nữ yêu sẽ lìa bỏ địa đại và thoát ra ngoài hết, và tấm thân kiều diễm kia sẽ phải tan rã rũ xuống như một đống cát bụi.

Lúc đó là vào cuối giờ tuất. Y quán cho đến cuối giờ tý, thì bỗng văng vẳng có tiếng cười khanh khách của nữ yêu. Hình như y thị vừa giẫy dụa, vừa cười lăn cười lộn, cười như kẻ không ngưng lại được, như đang bị liên miên thọc lét… Vừa cười, vừa nói:

– Thôi, thôi… sư phụ ngưng đi thôi… Hi… hi… sư phụ gãi ngứa thế nào… mà tiện thiếp nhột quá… nhột quá… chịu không nổi… không nổi…

Càn Thát Bà khẽ giục:

– Mặc kệ nó, kệ nó. Đừng có mắc mưu nó. Cứ tiếp tục quán riết đi, quán riết đi, cho nó tan thành cát bụi…

Cuồng Huệ thì như người chẳng nghe chẳng thấy gì hết, cứ trơ trơ bất động, chú tâm quán miết. Y cũng thừa hiểu rằng nữ yêu này tâm địa rất quỷ quyệt ngoắt ngoéo, và lần trước y bị rớt vào tròng không phải vì thiếu tinh tế, nhưng vì quá nặng về tính hiếu kỳ. Nên y cố ráng đẩy cuộc thí nghiệm này đến cùng xem ra sao?… Tiếng nữ yêu lại vừa cười như nắc nẻ, vừa than vãn:

– Thôi, thôi… nếu sư phụ cứ làm mãi, thì… hi… hi… mảnh hồng nhan của tiện thiếp… sẽ biến thành con cá khô đét mất… hi… hi…

Giọng lưỡi y thị vẫn còn xen vẻ diễu cợt. Càn Thát Bà sốt tiết, muốn đứng dậy để đi vào phía sau trong động để coi sự tình ra sao, nhưng hắn quên rằng hắn đương bị trói. Nên vừa lồm cồm định đứng lên, thì lại ngã phịch xuống. Hắn lầu bầu:

– Mẹ kiếp! Cứ biến thành cá khô đi… Đe muối mắm quăng cho đồ chó lợn ăn…

Thực ra, thì Ba Văn Mật Đa cũng không đến nỗi mắc kẹt như lời y thị nói. Y thị cũng phỏng đoán được phần nào về mức độ định lực của Cuồng Huệ, và nghĩ rằng bản lãnh của mình hiện nay còn cao cường hơn mấy bậc. Y thị cũng nặng tính hiếu kỳ, muốn coi thử xem sức tác động của định lực Cuồng Huệ mãnh liệt đến đâu… Nên lúc đầu, y thị vẫn nằm dài trên nệm cỏ khô, tay chân sóng soài, chỉ dụng tâm bế quan mỗi một huyệt Bách hội trên đỉnh đầu, để ngăn hỏa đại và phong đại khỏi thoát ra lối đó… Sức quán tưởng của Cuồng Huệ trước hết lần lần tác động vào chất hỏa đại và phong đại trong người y thị. Vì y thị đã đóng cửa huyệt Bách hội lại, nên các vi trần hỏa đại cùng phong đại chưa có lối thoát ra, nên cứ chạy vỏng tròn trong người y thị, biến thành tương tự như trăm ngàn con muỗi li ti bay nhảy vo ve trong người y thị. Nên y thị thấy nhột quá, bật ra tiếng cười lăn lộn như nắc nẻ… Nhưng y thị tự tin ở bản lãnh của mình, nên cứ nằm kéo dài sự chịu đỏn trong một hồi khá lâu. Đồng thời, buông lời trêu chọc… Nhưng lần lần, y thị nhận thấy rằng do sức quán tưởng của Cuồng Huệ, các vi trần hỏa đại cùng phong đại trong người y thị, mỗi lúc lại càng phân tán thành những phần tử vi ti hơn nữa, và lần lần bất đầu thoát ra khỏi người y thị qua nẻo những luân xa…

Tưởng cần biết rằng thân căn của mỗi chúng sanh mọc lên giữa vũ trụ không ngằn mé này, đều tương tự như một bông hoa mọc lên giữa nơi biển cả. Giữa bông hoa và biển cả, đều có những tương quan thẩm thấu chằng chịt, lúc thì tương sinh lúc thì tương khắc… Những huyệt đạo trong người đều là những Nút sinh cơ tạo nên khí lực của tấm hình hài. Song huyệt đạo cùng khí lực còn tương đối nằm ở một bình diện thấp, vì còn khoác ít nhiều thể chất có tánh cách hữu hình. Ở bình diện cao hơn nữa hoặc sâu hơn nữa, thì có những luân xa, chữ Phạn gọi là chakra. Các luân xa này nằm ở trên một bình diện vô hình hơn. Trong hình hài con người, thường có bảy luân xa, và luân xa lợi hại nhất cũng nằm ở chỗ huyệt Bách hội, nhưng nó vô hình, nghĩa là người thường không thể nhìn thấy được. Những người nào tu đắc thiên nhãn thông thì nhìn thấy… Các luân xa đều tương tự như những bông hoa có rất nhiều cánh, luôn luôn xoay tròn, tương tự như những cơn lốc hào quang. Chúng chính là những nút sinh cơ thẩm thấu giữa thân căn và vũ trụ, chúng chính là những rễ của thân căn, ăn sâu vào biển của vũ trụ vậy. Nếu những căn rễ ấy rung chuyển đúng điệu, thì những luồng lực đạo của vũ trụ được thâu hút vào thân căn, và chuyển thành thần lực. Nếu rung chuyển sai điệu, thì thần lực của tâm thức lại thoát ra ngoài vũ trụ… Thần lực là ở trên và sâu hơn khí lực. Cho nên, người nào cũng có căn rễ thần lực cả, nhưng thường chỉ biết sử dụng đôi chút khí lực, mà chưa thể biết sử dụng thần lực. Vì thần lực vô hình hơn… Khi trước, lúc Cuồng Huệ trả lời Càn Thát Bà rằng y không muốn làm kiếm khách cũng chẳng thèm học võ nghệ, là vì y linh cảm thấy rằng những xảo thuật đó mới chỉ thuộc về khí lực. Đồng thời, y cũng linh cảm thấy rằng trí huệ cùng thiền quán sẽ có thể đem lại cho y những nguồn thần lực lớn lao…

Khi nữ yêu chợt nhận thấy rằng những vi trần hỏa đại cùng phong đại mỗi lúc càng biến thể thành vi ti vô hình hơn nữa, và bắt đầu thoát ra khỏi bởi những nẻo luân xa, chứ không bởi huyệt đạo, thì y thị bắt đầu hoảng sợ thực sự. Y thị lẩm bẩm: “Cha này quả là lợi hại như mình đoán. Không thể khinh địch được…” Nghĩ vậy rồi, y thị lồm cồm ngồi dậy, không dám cười cợt nữa, lặng lẽ nhập định, rồi dùng tâm tưởng lần lần bế môn các huyệt đạo chính cùng các luân xa trong người. Y thị lại dùng định lực, kết tụ lại những lán hư trần vi ti của hỏa đại cùng phong đại, không để chúng thoát ra ngoài nữa, và chuyển chúng lần lần trở lại những nhịp điệu rung chuyển sinh hóa trước kia trong người y thị… Y thị lặng lẽ đề kháng như vậy trong vòng hơn một giờ đồng hồ, thì hóa giải được sức quán tưởng tàn phá của Cuồng Huệ, và lập lại được thế quân bình trong hình hài y thị… Tới lúc này, y thị lại dụng tâm phản công lại, dùng sức quán tưởng để đẩy lực đạo tàn phá trở lại hình hài Cuồng Huệ. Trong lỏng y thị là chỉ muốn trả đũa lại một đòn thôi, chứ không muốn giết Cuồng Huệ, và định tâm rằng đến một mực nào đó thì sẽ ngừng lại. Y thị lặng lẽ phản công như vậy trong ba khắc đồng hồ, thì nhận thấy có điều bất diệu: Nhận thấy rằng hình như luồng lực đạo tâm tưởng của mình, mỗi khi chạm đến người Cuồng Huệ, thì cứ như bị trơn tuột ra ngoài, không bám lấy nổi để tàn phá… Thì ra Cuồng Huệ, do cái cội nguồn kỳ đặc hóa sanh từ một giọt nước mắt của Bồ Tát lớn, nên có được một thân hình gần như huyễn hóa. Thân hình này được dệt nên bởi những thứ quang minh rất vi diệu, quang minh của những bậc đã đạt tới và thường bước đi trong ánh sáng của Vô tâm. Do đó, thân hình này, dao chém không đứt, nhấn nước không chìm, lửa đốt không cháy, gió thổi không lọt, gần như đồng với hư không… Cuồng Huệ do tự nhiên sanh ra mà được cái đó, nhưng vẫn không hay không biết, cứ lừng lững đi giữa đời, rồi băn khoăn tìm kiếm quanh quẩn, tương tự như một người có một hạt châu vô giá buộc trong giải áo, nhưng vẫn không biết, cứ muốn loay hoay đi tìm một kho tàng châu báu ở bên ngoài. Y lại khởi cái tâm muốn tìm hiểu cội nguồn, muốn cầu trí huệ tối thắng, muốn thiền quán, rồi dùng sức quán tưởng để chuyển hóa ngoại vật… Song những cái khởi tâm ấy đều là của cái vọng tâm chấp ngã, và như thế, y tự lìa bỏ một phần cái cội nguồn vô tâm của chính y. Do đó, đạo lực và thần lực của y đạt được, tuy mau lẹ kỳ diệu, nhưng vẫn chưa tới mức bao la mênh mang được…

Lúc này, y chưa hiểu được điều đó, và nữ yêu lại càng không hiểu nổi… Y thị lẩm bẩm: “Cha nội này, căn cơ của y thực kỳ dị. Mình cũng chẳng hiểu ra sao nữa. Xem lối tu thì vẫn còn vụng về, chưa được ảo diệu, thế mà mình cũng chẳng làm gì nổi hắn… Có khi nay mai, mình có muốn cầm dao xẻo một miếng thịt của y mà ăn cũng chưa chắc đã nổi… Cha, cha, nếu để thoát người này thì thực uổng một đời ta…” Nghĩ vậy rồi, y thị lần lần thu luồng lực đạo lại, chỉ chú tâm phòng ngự mà thôi…

Cuộc thư hùng so gươm đạo lực này kéo dài cho đến cuối canh năm. Thư hùng sôi nổi mãnh liệt, nhưng vẫn lặng lẽ như tờ, không một tiếng động, không một lời nói, không một cử động… Càn Thát Bà ngồi cạnh, lần lần cũng hiểu rằng đương xảy ra một trận ác đấu lực đạo rất cam go. Hắn muốn tìm cách trợ lực cho người sư đệ, nhưng chẳng biết làm cách nào, nên cứ vò đầu rứt tóc, mặt mũi nhăn nhó trông rất tức cười… Riêng Thạch Sanh vẫn cứ đắm mình trong câu niệm Phật, quên mọi chuyện bên ngoài. Kể ra thì nếu chàng biết dùng định lực của mình phối hợp với định lực của Cuồng Huệ, thì chắc có nhiều phần đánh ngã nổi nữ yêu. Nhưng chàng đã rắp tâm đại từ bi, chẳng muốn đấu tranh cũng chẳng muốn làm não loạn một chúng sanh nào cả, dù là yêu ma, nên chàng chẳng hề nghĩ tới việc đó…

Khi vừng đông hé rạng, nữ yêu đành lên tiếng trước:

– Thôi, thôi chứ! Ta ngưng thôi chứ… Sư phụ chẳng làm gì nổi tiện thiếp đâu. Còn tiện thiếp thi… hi, hi… thì chẳng bao giờ nỡ xuống tay nặng nề với sư phụ…

Y thị vốn rất tinh quái, nên trong tình trạng mập mờ, y thị vẫn miệng trơn như mỡ, cố giành lấy thượng phong… Cuồng Huệ thì không biết rằng y thị đã toan đánh mình nhưng không nổi, nay nghe y thị nói vậy thì biết rằng mình chưa làm tổn thương được y thị, nên y cũng thu luồng đạo lực quán tưởng lại, rồi lần lần xả định… Nhưng lần này, y thấy trong người toát mồ hôi, và hơi thở gấp rút nặng nề. Y biết rằng y lại thất bại một keo nữa, nhưng tuy thất bại, song trong hai ngày nay, y đã học được rất nhiều, và tiến những bước rất mau lẹ trên con đường thiền quán…

Ngày thứ hai của kỳ hạn đã trôi qua rồi… Càn Thát Bà ngồi ủ rũ, buồn thiu. Hắn vốn hay nói, mà lúc này cũng chẳng buồn mở miệng. Hắn nghĩ thầm: “Số mình đúng là nhiều yêu nghiệt, khi không lại đi cặp kè với hai chú này. Ngày mai… ngày mai… thì chắc là chú rồng này cũng chẳng chịu làm chồng nó đâu. Nó nổi đóa lên thì chắc là nó

dám xơi thịt lắm… Nhưng thịt mình thì chắc là dai và vô vị như giẻ rách, chắc là nó cũng chê… Nhưng chỉ sợ nó lại gán mình cho hai con nữ quái kia thôi…” Hắn nghĩ tới bộ mặt cười toe toét của hai nữ quái, cùng son phấn hương xoa sực nức, cùng những trò hý lộng quái quắc của chúng, mà thấy rùng mình sởn ốc. Hắn gục gặc cái đầu, lắc lắc như không muốn nghĩ tới nữa. Không hiểu sao, cái chết thì có lẽ hắn cũng không sợ mấy, mà hắn lại sợ nhất cái trò bị hai đứa kia lấy lông chim ngoáy vào lỗ mũi hắn… Hắn cũng khá bực mình với Thạch Sanh, vì thấy chàng chẳng nghĩ được một cách gì đối phó cả, chỉ ngồi lầm lì niệm Phật.

Hắn lẩm bẩm; “Cha nội này, thì lúc nào cũng chỉ muốn diễn có một trò ấy thôi, lúc nào, hình như cũng chỉ sẵn sàng muốn chết, như uống chén thuốc độc vậy…” Hắn chưa hiểu nổi sự quyết tâm xả thân của Thạch Sanh, thà rằng chết chứ chẳng muốn đấu tranh hoặc làm não loạn một chúng sanh nào, dù là yêu ma… Nhưng hắn cũng hiểu rằng ngứa miệng muốn trách móc thì cứ trách, chứ Thạch Sanh cũng chẳng thể có thủ đoạn gì thi thố cùng nữ yêu được hết… Hắn nghĩ lại cái thân thế oan khiên của hắn, rồi chỉ lắc đầu quầy quậy: “Yêu nghiệt… yêu nghiệt cả…”

Cuồng Huệ vẫn ngồi lặng lẽ xuất thần… Một lần nữa, y lại lặng ngắm những tia sáng rực rỡ của vừng đông ló dạng, óng ánh nhảy múa trên những mỏm đá xanh bạc. Mỗi khi y ngồi thiền tuy khép mắt, nhưng y vẫn thấy trong mắt sáng lên vằng vặc như ánh trăng, và trong đó, cũng có vô lượng những luồng sóng hào quang chập chờn… Càng lúc, y càng nghĩ rằng vũ trụ này là hào quang cả. Y lẩm bẩm: “Hào quang! Hào quang cả… Hình như chẳng có gì hết, chỉ có hào quang!… Có hào quang sáng, có hào quang tối… có hào quang nhanh, có hào quang chậm… có hào quang vi diệu vi tế, có hào quang nặng nề thô kệch… Ha ha, mọi vật chỉ là những cơn lốc hào quang. Cái cây kia, tảng đá kia cũng là những cơn lốc hào quang. Chỉ có thể là hào quang thôi, chứ đâu có thể là cái gì khác được?…

Chắc là vậy rồi… Ha, ha… mà cả mình nữa, cả đại sư huynh, nhị sư huynh cũng chỉ là những cơn lốc hào quang, mà vẫn chẳng hay chẳng biết gì hết trọi. Bởi thế… bởi thế… nên tôn giả mới nói rằng vũ trụ này là Biến Hiện. Và cũng bởi thế, nên luồng tâm lực của mình mới có thể khiến cây bách kia đổ rũ xuống thành một đống cát bụi. Bởi thế… bởi thế… ha, ha các cơn lốc hào quang ấy trùng trùng thẩm thấu lẫn nhau, trùng trùng ảnh hưởng lẫn nhau, trùng trùng duyên sinh, trùng trùng duyên khắc, trùng trùng biến hiện như lời tôn giả… Chắc là đúng rồi khó thể khác được… (ngẫm nghĩ giây lâu) Nhưng… nhưng nếu quả như vậy, thì những hào quang ấy từ đâu mà ra nhỉ, từ đâu mà đến, rồi lại tan biến trở về đâu nhỉ? Hào quang, hỡi ơi hào quang, mà hào quang thì là thực hay là ảo nhỉ?!…”.

Y mới bật cười thầm khoái trá, nay lại khẽ thở dài…

Rồi y lại lẩm bẩm: “Nếu đã là cơn lốc hào quang cả, thì còn gì mà phải buồn, phải vui, phải lo, phải mừng? Có gì đáng lo đâu, mà cũng chẳng có gì đáng vui mừng. Cũng chẳng có gì là thanh tịnh cả, mà cũng chẳng có gì gọi là không thanh tịnh…!! Mình là một cơn lốc hào quang, nữ yêu kia cũng là cơn lốc hào quang. Vậy thì nếu nay mai, nó có băm vằm mổ xẻ mình, thì cũng chỉ là một cơn lốc hào quang băm vằm mổ xẻ một cơn lốc hào quang. Neu thế, thì cũng đâu là có hại gì, đâu là lỗi lầm gì, đâu là tội tình gì?!… Và ngược lại… ngược lại… tỷ dụ như mình có nhận lời thành thân với nó, để cứu hai vị sư huynh, tỷ dụ như mình có dang hai tay ra ôm ấp nó, thì cũng chỉ là một cơn lốc hào quang cọ xát nâng niu một cơn lốc hào quang thôi… Như vậy, như vậy… thì lỗi lầm gì, tội trạng gì, phạm giới gì mới được chứ?… Lỗi lầm gì, lỗi lầm gì ở chỗ đó…?!” Nghĩ vậy thì nghĩ, nhưng y vẫn cảm thấy rằng ý nghĩ này không ổn, và cái thiên lương của y vẫn chưa thể chấp nhận việc đó…

Y tự nhủ rằng cần phải suy tư kỹ càng tinh tế hơn nữa. Ngồi suy nghĩ miên man, y lần lần nghĩ tới cái màng lưới hào quang hiện đương trói buộc thân y. Y lại lẩm bẩm: “Hào quang! Lại hào quang nữa!… Neu thân mình cũng là hào quang, thì tại sao màng lưới hào quang này lại có thể trói buộc cái hình hài của mình được? Hào quang, hào quang cả mà!?… Hay là tại cái màng lưới hào quang này nó kỳ diệu vi tế quá, trong khi tâm lực của mình lại chưa nhỏ nhiệm vi tế để thẩm thấu và thoát ra khỏi?… Chắc là vậy rồi, chắc là vậy rồi… không thể khác được…

Thực ra, y nghĩ như vậy là đúng, nhưng y vẫn chưa biết rằng trong mảnh hình hài của y vẫn còn một chút nặng nề nghiệp lực của lá cỏ linh chi để lại…

Càn Thát Bà bỗng cất tiếng hỏi:

– Chú mày nghĩ gì mà lẩm bẩm hoài vậy?… Cái gì mà hào quang với chẳng hào quang? Chú mày có thể nói cho ta nghe được không? Có khi ta có thể góp ý kiến cũng nên…

Cuồng Huệ bèn mở mắt:

– Ý nghĩ của đại sư huynh chắc là đúng đấy!

– ?!

– Khi gặp nhau ở nơi đầu núi miền Hương Thủy, đại sư huynh từng nói với tiểu đệ rằng: “Nhân quang minh mà có hình sắc” mà. Bây giờ, tiểu đệ suy ngẫm ra, thì thấy rõ ràng hình như mọi vật chỉ là hào quang, chì là những cơn lốc hào quang thôi. Ngay cái mảnh hình hài này cũng vậy, chỉ là một cơn lốc hào quang…

– ừa, ừa… ta có nói như vậy… Vậy bây giờ, chú mày thấy thật vậy sao?… (vò đầu ngẫm nghĩ) Thôi, ta cũng đành thú thực với chú mày. Ý kiến đó, thực ra chẳng phải ta tự ý nghĩ ra nổi đâu, mà là do ta nghe lỏm được… Ta nghe lỏm được ở cửa miệng lão Đế Thích đấy. Mà lão cũng chỉ là nhắc lại một lời nói của bố Di Lặc đấy… Trong vụ vấn kế đánh nhau với lão khùng A Tu La Vương, không hiểu sao cụ Di Lặc lại tiểu di với lão Đe Thích lời nói đó. Ta nghe lỏm được, cũng thấy hay hay, suy nghĩ ít lâu rồi lại tưởng là ý kiến của mình nên buột miệng ra nói với chú mày như vậy… Đấy, đầu đuôi là thế đấy… Thực tình thì ta thấy câu nói đó vẫn còn., tối om…

Cuồng Huệ mừng rỡ quá chừng, nhưng y cố nén niềm vui mừng. Giây lâu, y nói giọng trầm ngâm:

– Đại sư huynh quả thực đã cất được cho tiểu đệ một gánh nặng nghi tình. Nếu là lời nói của đức Di Lặc, thì chắc là không thể sai rồi… Ngài là một bậc Bồ Tát lớn…

Y không nói hết câu, lại khép mắt lại, lặng lẽ như muốn nhập định. Y đã quyết tâm muốn thí nghiệm sức quán tưởng của y một lần nữa, lần này để cố phá vỡ màng lưới hào quang… Y miên man quần tưởng suốt ngày hôm đó, rồi suốt canh thâu. Mãi đến đầu giờ dần, y vẫn cảm thấy rằng y không phá vỡ nổi, và màng lưới hào quang vẫn còn dính chặt lấy người y. Y đành xả định, thở một hơi dài, lẩm bẩm:

– Vẫn chưa được… chưa được…

Chỉ một lát sau là trời lại tang tảng sáng…

Thực ra, lần này, Cuồng Huệ vẫn còn thất bại là vì y còn lầm lạc về phương pháp… Hào quang của Thiên la như ý châu vốn là của vua trời Đại Tự Tại phổ vào, và trời Đại Tự Tại thường là một bậc Bồ Tát có bản địa tu hành cao, nên hào quang đó dĩ nhiên vi diệu hơn hào quang tâm lực cùng thân căn của Cuồng Huệ. Neu y hiểu ra, biết noi theo con đường buông xả vô ngã, để thể nhập vào hào quang đó, thì có thể rằng y thẩm thấu nổi và thoát ra khỏi lưới. Đằng này, trái lại, y vẫn còn mang cái vọng tâm chấp ngã có chủ thể, để mong phá vỡ một khách thể là màng lưới, nên do thái độ tâm thức ấy, y vẫn còn cụng đầu vào thất bại…

Lúc đó, trời đã sáng rõ, và kỳ hạn đã mãn…

Từ phía sau động, nữ yêu đã yểu điệu tha thướt bước ra, vừa đi vừa cười chúm chím ngỏn nghẻn, theo sau có hai con thị tỳ. Y ăn bận trang điểm còn lộng lẫy hơn lần trước, nét mặt hớn hở, ánh mắt chan chứa xuân tình… Y thị cất tiếng:

– Sư phụ thực là người nhiều tâm cơ, khiến tiện thiếp lại càng thêm mến phục. Song cuộc tao ngộ này chắc là do tiền duyên run rủi, có cố cưỡng lại cũng chẳng được. Thiếp mong rằng sư phụ chớ có phụ lòng mong ước của tiện thiếp…

Nhưng Cuồng Huệ vẫn ngồi im lặng, chẳng nói chẳng rằng. Lúc này, Thạch Sanh vẫn lầm rầm nhiếp tâm vào câu niệm Phật, không muốn lý gì tới cái thân xác của mình cùng những sự việc bên ngoài. Càn Thát Bà trông thấy hai yểu điệu kia, thì ngồi co ro, dáng điệu thảm hại… Nữ yêu thất vọng ra mặt, nhưng vẫn nói tiếp:

– Suốt ba ngày nay, tiện thiếp đã chứng kiến những mức độ công phu của sư phụ. Sư phụ đã phải dùng những giờ khắc khá lâu mới tạm hạ thủ nổi công phu, như thế là lối tu vẫn chưa được ảo diệu. Tiện thiếp tuy bị gọi là kẻ bàng môn, nhưng cũng có thể giúp ích nhiều cho sư phụ, để thuần thục những công phu đó… Con đường tu luyện có nhiều nỗi quanh co khúc mắc lắm, mà người xưa thường nói: Có biết thời vụ, mới là người tuấn kiệt… Sư phụ nghĩ sao? Xin trả lời cho một câu chứ… Chẳng lẽ lại co đầu rụt cổ, ngồi im như hến cả sao?

Cuồng Huệ nói: – Nhưng nếu ta không hề có cao vọng muốn làm người tuấn kiệt thì sao?!

Nữ yêu cười nhạt:

– Thế ra… sư phụ cũng nhiều tâm định bỏ chết cả hai vị sư huynh đấy…

Thấy Cuồng Huệ không trả lời, y thị lạnh lùng:

– Tiện thiếp đã nói trước rồi, và một lời nói ra thì như dao chém đá… (Thở dài:) Ắy là sư phụ muốn thế, chẳng phải là thiếp mong muốn như vậy đâu. Sư phụ đã có tấm lòng sắt đá, thì xin ngồi đây để chứng kiến. Tiện thiếp đành mạo muội làm tổn thương đến vị nhị sư huynh này trước đã…

Vừa nói, vừa lẹ làng bước tới cạnh Thạch Sanh, lấy móng tay xé xoạc mảnh áo sau lưng chàng, để lộ hết mảng lưng. Y thị rút trên mái tóc ra một cây trâm cài chừng hai tấc, nhỏ và nhọn, rồi cắm phập cây trâm đó vào một đốt xương sống của Thạch Sanh. Thủ pháp của y thị rất lẹ làng chính xác, như là một thủ pháp đã tập luyện quen thuộc lắm rồi… Thạch Sanh bị đả thương bất ngờ, nên giật mình kêu ối một tiếng. Cuồng Huệ vội nói:

– Nhị sư huynh ráng nhập định đi, thúc liễm thần thức lại, đừng cho nó phối ngẫu với cảm giác của thân căn nữa, thì sẽ bớt đau đớn… Thúc liễm thần thức lại!…

Định lực của Thạch Sanh vốn đã vào bậc khá, vì đã tu nhiều kiếp, nên chàng chỉ bị hoảng hốt đau nhói lúc đầu thôi. Nghe lời nhắc nhở của Cuồng Huệ, lại nhớ lại lời thề nguyện xả thân mình, chàng đã lần lần trấn tĩnh được ngay, cứ ngồi lầm rầm niệm Phật… Nữ yêu cất tiếng chế giễu:

– Cũng khá đấy, khá đấy! Không đến nỗi tồi lắm… Vị nhị sư phụ quê mùa này đã quyết tâm bước vào con đường Bồ Tát hạnh. Xưa kia, các vị Bồ Tát thường hay hoan hỷ bố thí đầu mặt, chân tay, não tủy, xương thịt cho những chúng sanh đói khổ đến xin mình. Nay tiện thiếp chỉ xin nhị sư phụ bố thí cho một chút não tủy thôi. Tiện thiếp làm thế là để hoàn mãn hạnh nguyện của nhị sư phụ đấy… hi… hi

Vừa nói, vừa liếc mắt nhìn Cuồng Huệ, rồi ghé ngay đôi môi đỏ chót như trái anh đào vào đầu cây trâm, rồi hút não tủy của Thạch Sanh… Càn Thát Bà sợ quá, vội nhắm nghiền hai mắt lại… Nữ yêu hút thong thả từ từ một hồi lâu chừng nửa khắc đồng hồ, rồi ngừng lại, nhẹ nhàng rút cây trâm ra. Y thị đổi giọng rầu rầu:

Tình thế bắt buộc như vậy… Thực tình, tiện thiếp chẳng muốn đối xử như vậy đâu…

Bỗng y thị rút từ tay áo ra một con dao nhỏ, mỏng và dài như chiếc lá hạnh đào, lẹ làng cắt xoẹt một miếng thịt mỏng nhưng khá to bản trên bả vai trái của Thạch Sanh. Y thị lại ngắt một chiếc lá gần đấy, bít lá trên vết thương cho khỏi chảy máu. Rồi ngồi xuống một phiến đá, y thị đưa miếng thịt lên miệng bắt đầu cắn ăn nhâm nhi chậm rãi, như một đứa trẻ ngồi ăn miếng bánh vậy. Vừa ăn vừa thỉnh thoảng liếc nhìn Cuồng Huệ…

– Y thị vốn tinh quái, nên đã tính toán mọi sự kỹ càng. Y thị đã định tâm không muốn ăn thịt Thạch Sanh xong ngay trong một lúc, mà muốn kéo dài vụ hút tủy não cùng ăn thịt trong khoảng bốn mươi chín ngày. Làm như thế thì rất thuận lợi cho việc tu luyện của thị về môn “Hiện trùng trùng sắc thân tam muội,” và việc Thạch Sanh yếu là đi lần lần cũng có thể gợi lòng thương xót hy sinh của Cuồng Huệ… Y thị tính rằng trong khoảng bốn mươi chín ngày, với phần khí dương của xương thịt Thạch Sanh, y thị có hy vọng thành tựu môn tam muội bấy lâu kỳ vọng. Nhưng trong lúc này, có lẽ y thị không mong cầu môn tam muội nhiều bằng mong cầu muốn đánh ngã lòng dạ sắt đá của Cuồng Huệ.

Y thị vẫn ngồi nhâm nhi, cắn từng miếng thịt nhỏ, nhai nuốt chậm rãi, nhưng nét mặt rầu rầu. Ăn đến giữa chừng, thị bỗng nước mắt ứa ra lã chã. Y thị ngậm ngùi:

– Tiện thiếp… ăn miếng thịt của nhị sư phụ… mà nuốt thấy như nghẹn cổ. Đó là do tam sư phụ đã bó buộc thiếp… Ăn miếng thịt này… mà tưởng chừng như ăn thịt đứa con ruột của mình vậy…

Y thị vốn rất ưa đóng kịch, và đóng kịch tài tình đến mức độ đôi khi, chính y thị cũng không phân biệt nổi xem giọt nước mắt của mình là chân hay là giả nữa… Nhưng Cuồng Huệ vẫn ngồi chẳng nói chẳng rằng… Y thị cắn nhai thêm mấy miếng nữa, rồi bỗng đưa miếng thịt còn lại cho một nữ quái… Đứa này vội cầm lấy, đưa ngay vào miệng nhai ngấu nghiến, vừa nhai tóp tép vừa cười hý hửng, khiến Càn Thát Bà phải cúi mặt xuống không dám nhìn nữa… Nữ yêu lại đưa mắt nhìn hai thị tỳ, thì một đứa vội chạy vào hang động, lát sau đem ra một giỏ đầy trái cây cùng một bình nước, rồi đặt tất cả cạnh Thạch Sanh… Nữ yêu uể oải đứng dậy, nói:

– Hôm nay, thế là đủ… Tiện thiếp ngày mai sẽ trở lại tái kiến, và mong rằng sẽ không phải cầu xin nhị sư phụ bố thí cho một ít não tủy, xương thịt nữa…

Nữ yêu đi rồi, Cuồng Huệ vội hỏi:

– Nhị sư huynh có thấy đau đớn lắm không?

Thạch Sanh cười nhăn nhó:

– Không đau đớn gì lắm… Chỉ phải cái trong đầu choáng váng ngất ngây, hơi khó tập trung tâm tưởng. Nhưng tiểu huynh chỉ cần niệm Phật giây lâu là chắc hồi phục được…

Ngừng một lát, chàng tiếp:

– Tiểu huynh… tiểu huynh chỉ có điều này khẩn cầu hiền đệ. Là… là dù thân mạng của tiểu huynh có đến nông nỗi nào chăng nữa, thì cũng xin hiền đệ chớ bao giờ nhận lời… thành thân với đứa con gái này vì… như thế là phạm giới trọng, sẽ phương hại nặng nề cho giới thân huệ mạng của hiền đệ… (thở dài) Có lễ… tiểu huynh không đủ túc duyên để thỉnh nổi bộ kinh pháp bảo. Nhưng tiểu huynh đã có lời nguyện phải xả thân bố thí cho các chúng sanh, thì nếu có bị gì chăng nữa, thì một lời hạnh nguyện của tiểu huynh cũng được thành tựu… Và như thế… cũng là được đạo rồi… sắc thân này vốn dĩ vô thường, thì trước sau nó cũng thành cát bụi… Nhưng hiền đệ là người có bản lãnh, có oai đức, tiểu huynh chắc rằng trước sau hiền đệ cũng thoát khỏi nạn này… Chỉ xin hiền đệ sẽ thay thế tiểu huynh đi thỉnh bộ kinh pháp bảo mang về cho xứ Phong Châu…

– Có lẽ lúc hiểm nghèo này, chàng đã lãng quên lời dặn dò của Tôn Giả… Nói như vậy rồi, chàng lại lầm rầm niệm Phật… Nhưng lời nói ngập ngừng của chàng đã khiến Cuồng Huệ ứa lệ. Đây là lần thứ nhì mà y ứa lệ, lần thứ nhất là khóc ông bạn rồng già. Thực ra, thì ngay từ đầu, y đã quyết tâm không nhượng bộ nữ yêu, nhưng chính lời khẩn cầu của Thạch Sanh lại khiến y thương cảm nghĩ ngợi… Y nhận thấy rõ ràng ràng vị nhị sư huynh này vẫn còn hơn y một điểm rõ rệt, là buông xả mọi thứ chẳng nghĩ gì đến mình nữa, cũng như không hề oán hận kẻ giết mình. Trong một khoảnh khắc, y thầm cảm thấy những vẻ bao la sâu thẳm của thái độ tâm thức của người sư huynh có dáng dấp còn quê kệch này… Tuy nghĩ vậy, y vẫn ngồi yên lặng nghe lời nói của Thạch Sanh mà không trả lời gì…

Ngày hôm sau, nữ yêu lại tới, nét mặt như ngầm giấu một vẻ hớn hở vui mừng bên trong. Có lẽ phần khí dương hùng hậu của Thạch Sanh đã trợ giúp y thị tiến triển được công phu, nhưng y thị không muốn lộ ra nét mặt… Lần này, khi thấy Cuồng Huệ vẫn chẳng nói chẳng rằng, y thị lại tái diễn trò hôm trước, rồi lại bỏ vào hang động…

Những ngày sau cũng vậy. Nhưng tới ngày thứ bảy, sau khi nữ yêu bỏ đi, Thạch Sanh cảm thấy đau đớn và mệt lả nhiều, khó thể dùng định lực của câu niệm Phật để trấn tĩnh được. Người chàng đã mang tới bảy vết thương, và não tủy thì như rỗng tuếch. Chàng đành nằm ngả xuống mặt đất, miệng vẫn thì thầm niệm Phật, nét mặt hốc hác, hai mắt lõm vào như hai lỗ đáo…. Trong những ngày qua, chàng cũng chẳng để tâm ăn những trái cây để cạnh, chỉ thỉnh thoảng uống nước thôi… Cuồng Huệ thương quá nhưng chưa biết quyết định ra sao. Càn Thát Bà bỗng nói:

– Hay là nhà ngươi thử dùng định lực để chữa cho chú hai xem sao?

Trong những ngày qua, Càn Thát Bà vẫn được yên thân, và nữ yêu cũng chưa giao hắn chọ hai nữ quái hành hạ. Có lẽ y thị vẫn muốn gượng nhẹ, để mở đường cho Cuồng Huệ thuận tình chăng?… Nên hắn lần lần cũng bớt sợ, nay lại mách nước cho Cuồng Huệ… Cuồng Huệ nhìn Thạch Sanh, thì thấy chàng đã gượng ngồi dậy, nhưng phải tựa lưng vào một phiến đá, đôi môi vẫn mấp máy thì thầm, nét mặt tuy hốc hác, quần áo rách tả tơi nhưng mặt vẫn bình thản. Những vết thương ở bả vai và ở đùi đều được nữ yêu rịt bằng một thứ lá to bản, nên không rỉ máu nhiều. Nhưng chắc là chàng bị mất sức lực nhiều nhất là do mất dần chất não tủy. Cuồng Huệ bỗng thấy trong lòng dâng lên một niềm thương xót rào rạt đối với người sư huynh thuần phác và khiêm nhượng này… Y lẩm bẩm: “Thân người tuy là hào quang cả, tuy có thể là ảo cả, song khốn nỗi những sự đau đớn hình như vẫn còn có thực… Nhị sư huynh mình cũng chưa vượt qua nổi những cái đó, mặc dầu đã có nhiều thệ nguyện lực…” Tới lúc nghe Càn Thát Bà mách nước, y nghĩ thầm: “Ờ nhỉ! Chắc là tại mấy ngày nay, mình cứ bồng bột thương cảm nên chẳng nghĩ ra việc đó… Thật là sơ xuất… sơ xuất…”

Y liền lặng lẽ nhập định, để dồn luồng tâm lực của mình sang trợ giúp cho Thạch Sanh chóng hồi phục. Y nghĩ bụng rằng sức quán tưởng của mình có thể làm tàn úa được cây bách, thì chắc có thể trợ giúp nhiều cho Thạch Sanh. Y vốn học thiền quán một mình, không có sư phụ chỉ dạy, chỉ y cứ vào nơi căn cơ kỳ đặc, nên thực ra, chưa thể biết những vị trí rõ ràng của các huyệt đạo cùng luân xa trong cơ thể. về điểm này, y chưa thể bì nổi với nữ yêu, vì y thị đã khổ công nghiên cứu cùng tập luyện quá lâu rồi. Tuy nhiên, do kinh nghiệm thiền quán, y cũng ức đoán được trên đại cương về vị trí của các huyệt đạo cùng luân xa. Nên lần này, y đã tập trung luồng lực quán tưởng, rồi phóng luồng đó rót vào chỗ huyệt Bách hội trên đảnh đầu Thạch Sanh. Y đẩy luồng lực đạo nhè nhẹ, từ từ, nhưng liên miên không ngớt, để mong khôi phục lại nguyên khí cho người sư huynh. Y lưu tâm nhất, và cố gắng muốn làm tăng trưởng cùng ngưng tụ những lân hư trần thuộc hỏa đại cùng phong đại trong người Thạch Sanh, vì phần lớn những não tủy của con người đều được kết tập nên do những cơn lốc tích tụ của những lân hư trần hỏa đại cùng phong đại. Lúc này, sức thiền quán của y đã khiến y đắc được khá nhiều thiên nhãn thông, nên y đã có thể nhìn thấy những vật khá vi tế, mà những kẻ như Càn Thát Bà không nhìn thấy được. Điều này cũng khiến y nhận định vị trí các luân xa dễ dàng hơn… Cơ thể của Thạch Sanh hiện lâm vào tình trạng băng hoại tan rã lần lần, nên ngồi trong định, y nhìn thấy khá rõ ràng những tế bào não tủy của chàng cứ lần lần hư hoại, tan thành những cơn lốc vi ti óng ánh màu vàng lợt, rồi màu vàng này cũng lạt dần đi để tan và hư không mịt mù tăm tích. Y nhận thấy tình trạng nguy ngập, nên cố đẩy luồng lực đạo để ngăn chặn những làn sóng tan rã ấy, và cố ngưng tụ những cơn lốc vi ti ấy trở lại nhịp điệu rung chuyển của tế bào… Y nhiếp tâm quán tưởng và thúc đẩy lực đạo như vậy cho tới lúc hoàng hôn đổ xuống, thì y nhận thấy rằng luồng lực đạo của y cũng không ngăn chặn được nhiều những làn sóng tan rã trong cơ thể Thạch Sanh, và nhất là rất khó làm ngưng tụ lại những cơn lốc vi ti… Y bèn tạm thu luồng lực đạo lại, từ từ xuất định… rồi cất tiếng hỏi:

– Nhị sư huynh… nhị sư huynh có thấy khá được chút nào chăng?

Thạch Sanh mở mắt, giọng yếu ớt:

– Đa tạ… Đa tạ hiền đệ đã nhọc công cứu chữa cho tiểu huynh… Tiểu huynh đã thấy khá hơn trước… nhưng hình như vẫn chưa khá được nhiều… Song hiền đệ chớ quá lo lắng (chàng gượng cười:) Tiểu huynh cũng chưa sao đâu, còn gắng gượng chịu đựng được mà…

Nói xong, chàng cố ngồi thẳng lên, lại lầm rầm niệm Phật. Càn Thát Bà lại mách nước:

– Cứ cố thử nữa đi, thử nữa đi… Có lẽ tại chú mày thúc đẩy luồng lực đạo chưa đúng mức cho lắm… Hãy thử thay đổi nhịp rung chuyển của lực đạo xem sao…

Cuồng Huệ thì ngồi suy nghĩ miên man giữa bóng tối đương tràn đổ xuống nơi cửa động… Y nghe theo lời Càn Thát Bà, nên lại lặng lẽ nhập định, rồi thúc đẩy lực đạo vào đảnh đầu Thạch Sanh. Lần này, y lưu tâm thay đổi nhiều lần nhịp điệu rung chuyển của luồng lực đạo. Y ngồi như vậy cho đến cuối canh tư thì mới xả định. Y nhận thấy rằng kết quả có khá hơn lần trước, nhưng vẫn chưa có thể gọi là khả quan được. Vì y vẫn chưa ngưng tụ nổi những cơn lốc vi ti để buộc chúng trở lại thể thức tế bào để bồi dưỡng cho cơ thể Thạch Sanh, mà chỉ có thể ngăn chặn bớt những làn sóng băng hoại tan rã thôi. Y cảm thấy rõ ràng là luồng lực đạo của y rất mãnh liệt, và liên miên không dứt, nhtmg vẫn chưa ngưng tụ nổi những cơn lốc… Y thở dài không hiểu tại sao?

Thì ra luồng lực đạo của y chỉ mới là thứ lực đạo phát sanh từ định lực do Càn huệ mà có. Càn huệ là thứ Trí huệ Khô, nên luồng lực đạo ấy chỉ có thể làm tan hoại các vi trần dễ dàng, nhưng chưa có thể làm ngưng tụ những cơn lốc hào quang vi tế để tạo thành những vi trần hoặc tế bào và bồi dưỡng cho Thạch Sanh được. Muốn cho tâm lực có thể làm nổi sự chuyển hóa này, thì càn huệ của kẻ tu luyện cần phải được thấm nhuần Pháp thủy của lòng Bình đẳng Đại từ bi. Mà lòng bình đẳng đại từ bi, thì Cuồng Huệ chưa hề làm nảy nở. Y chỉ mới khởi được lòng thương xót riêng tư đối với vị nhị sư huynh đương mắc nạn hiểm nghèo mà thôi…

Tuy nhiên, hai lần cố gắng của y cũng khiến Thạch Sanh hồi phục được một phần khí lực… Đen tảng sáng, chàng mở mắt ra, thấy trong người tỉnh táo hơn trước, tuy những vết thương vẫn đau đớn nhức nhối. Bỗng để mắt tới rổ trái cây đặt bên cạnh, chàng liền lấy một trái màu đỏ chót, và tuy chẳng biết là trái gì, cũng đưa lên miệng cắn ăn mấy miếng…

Trời vừa sáng rõ, thì nữ yêu đã trở lại… Vừa nhìn nét mặt Thạch Sanh, thấy khí sắc đỡ hốc hác hơn hôm trước, y thị đã đoán ngay ra cơ sự, và hiểu rằng Cuồng Huệ đã dùng luồng lực đạo để cứu chữa cho chàng. Y thị mừng thầm và tự nhủ: “Thế thì càng hay, ta lại được thêm một phần khí dương của con người ương ngạnh,” nhưng tuy nghĩ vậy, y thị vẫn chẳng để lộ ra… Y thị lại làm bộ tịch cầm lấy cổ tay Thạch Sanh để chẩn mạch, nhưng chàng vội vàng giằng tay ra… Nữ yêu mỉm cười:

– Kể ra thì tam sư phụ cũng tận tình lắm nhỉ?! Nhưng để rồi coi, xem sư phụ có thể cứu nổi vị nhị sư huynh này không?

Rồi y thị lại lặng lẽ tái diễn lại trỏ những hôm trước. Nhưng lần này, y thị hút não tủy nhiều hơn, và cũng cắt một miếng thịt đùi to hơn trước. Vừa cắt, vừa nói:

– Thế này là để nhị sư phụ chóng được tròn công quả…

Rồi lại bỏ đi…

Cuồng Huệ lại lặng lẽ nhập định, tận tình cứu chữa… Nhưng từ đó, sự trợ giúp của y càng ngày càng tỏ ra không đủ, vì mỗi ngày, nữ yêu càng hút não tủy nhiều hơn và càng cắt nhiều thịt hơn. Có những miếng thịt bị cắt sâu, khiến một bên đùi Thạch Sanh bị trơ cả xương… Cuồng Huệ vừa thương xót vừa buồn bực, vì thấy mình bất lực không cứu nổi nhị sư huynh.

Cuộc cầm cự kéo dài đến ngày thứ hai mươi tám, thì Thạch Sanh gần như hấp hối. Từ mấy hôm nay, chàng nằm vật trên mặt đất, không cất nhắc nổi chân tay, và những thương tích đầy mình làm rỉ máu đầy mặt đất chung quanh. Duy có bộ mặt không bị đã thương, nhưng hốc hác tiều tụy như chiếc đầu lâu. Toàn thân đều bất động, chỉ có đôi môi tái nhợt vẫn mấp máy thều thào niệm Phật. Cuồng Huệ cảm thấy nộ khí xung thiên, y đã toan muốn co cẳng đạp cho tan hoang hết nơi cửa động. Nhưng y cũng nhận thấy mình bị trói chặt hơn trước, khó bề cử động, vì chắc là nữ yêu đã tinh khôn niệm chú để trói chặt y hơn trước… Y đành thở dài, rồi nước mắt rơi lã chã…

Càn Thát Bà buột miệng than:

– Thôi, thôi… chắc là hỏng cả… hỏng cả… Chắc là không thể cầm cự nổi được mấy hôm nữa đâu.

Ngưng giây lát, hắn vò đầu vò tai, lầu bầu:

– Đến nước này rồi… thế mà cái ông Tôn Giả lại cứ xoen xoét… là dung thông vô ngại mà… Hừ, hừ… thế này thì dung thông vô ngại… ở chỗ nào cơ chứ!?

Thạch Sanh đôi mắt vẫn nhắm nghiền, bỗng cất tiếng thều thào:

– Đại… sư huynh… đừng nói vậy… Tiểu đệ… nhiều nghiệt… chướng cũ… Thế này… cũng vơi… vơi nghiệt chướng…

Nói thế, rồi như đứt hơi lại im bặt… Song những lời nói của hai người lại khiến Cuồng Huệ như bừng tỉnh. Y lẩm bẩm nhủ thầm: “Mình thương tâm quá độ như thế này, thực là một điều lỗi lầm, mà cũng thật là lú lấp. Nỗi thương tâm này chỉ là một sự thương tâm của kẻ phàm phu tục tử, chẳng xứng đáng tí nào. Chỉ khiến mình u mê đi, quên cả lời dặn dò của Tôn Giả… Tôn Giả đã nói thế, thì chắc là không sai đâu. Trước sau rồi cũng thoát nạn… Mà giả tỷ như nhị sư huynh có vương vất một rớt nghiệt chướng mà phải lìa bỏ thân này… thì ha, ha… nếu quả thực thì chỉ là một cơn lốc hào quang, thì có tan biến đi cũng có sao đâu?… Nhưng bây giờ nhị sư huynh đã lâm vào tình trạng nguy cấp này rồi, thì mình cũng cứ phải tính. Hoãn binh chi kế mà. Cứ kéo dài ra đã, rồi sẽ tính sau… Đành phải quyền biến vậy. Mình hãy cứ tạm nhận lời thành thân với nó đã, để cứu nhị sư huynh khỏi tình trạng hiểm nghèo này, rồi sau sẽ thừa cơ toan tính… Có phạm giới thì cũng đành vậy… Mà mình có phải là sa môn đâu… Vả lại, vả lại… nếu quả thực vũ trụ này chỉ là một tuồng ảo hóa, thì làm gì có chuyện giữ giới hay phạm giới nữa…?!”

Sáng hôm sau, khi nữ yêu trở lại và rút chiếc trâm định cắm vào xương sống Thạch Sanh, thì Cuồng Huệ bỗng nói:

– Hãy khoan, hãy khoan…

Nữ yêu quay lại nhìn. Y nói tiếp:

– Thôi, ta đành chịu thua nhà nguôi…

Nữ yêu cố nén niềm vui mừng. Y thị mỉm cười:

– Sư phụ thực tình nhận lời tiện thiếp, hay là lại toan tính toán điều gì khác?!

– Tùy nhà ngươi muốn nghĩ sao thì nghĩ. Neu nhà người có được tha tâm thông, thì chắc là có thể đọc nổi những tâm tưởng của ta… Có điều là thực tình ta không muốn nhìn nhị sư huynh… lâm dần vào cảnh thảm tử…

Thạch Sanh bỗng thều thào lắp bắp:

– Đừng… đừng hiền đệ… Không được… không được đâu…

Nữ yêu ra chiều suy nghĩ:

– Khốn nỗi là tâm tưởng người khác thì tiện thiếp đọc được… còn tâm tưởng của sư phụ thì… hì, hì… tiện thiếp thấy khó đọc lắm… Vậy thì… sư phụ phải lập lời thệ nguyện thì tiện thiếp mới tin được.

– Bình sinh, ta chẳng lập lời thệ nguyện bao giờ. Thì bây giờ cũng vậy thôi… Và lại, nếu phải uống ly rượu họp cẩn, thì cũng như là thệ nguyện chứ gì…

Nữ yêu suy nghĩ giây lát, rồi cười ngỏn nghẻn:

– Thế thì bây giờ sư phụ phải gọi lên một câu vậy. Sư phụ hãy gọi: Ái thê của ta ơi…

Cuồng Huệ cũng bật cười:

– Nhà ngươi chớ vội vã thái quá. Ta đã được uống giọt rượu nào đâu mà đã buộc ta phải gọi như vậy… (ngẫm nghĩ:) Mà ta cũng phải nói trước… là ta có thể chỉ thành thân với nhà ngươi một thời gian, rồi nếu không họp tình hợp ý, thì ta có thể lại sẽ bỏ đi nơi khác. Ta chẳng muốn lừa dối ai, nên nói trước như vậy.

Nữ yêu nghĩ thầm: “Anh chàng trai nào cao ngạo thì cũng múa mép nói như vậy cả. Nhưng tới khi… mở khóa động đào rồi thì… hi, hi… có lấy lá chuối dắt tay ra khỏi cửa cũng chẳng chịu đi cho…” Nghĩ vậy, bèn cười giả lả:

– Thôi thì sư phụ đã quyết ý như vậy, tiện thiếp cùng đành phải chiều theo chứ biết sao?

Đoạn quay lại bảo hai nữ quái:

– Hai ngươi hãy đi truyền lệnh khắp sơn động rằng tối nay, phải chuẩn bị một tiệc đại yến, cùng một cuộc đại lễ ta cùng với sư phụ đây bái thiên địa làm lễ thành thân.

Hai đứa cười toe toét, dạ ran. Cuồng Huệ vội nói:

– Khoan đã, đâu có thể vội vã như vậy. Thành thân là một đại sự, nhà ngươi cùng ta đều phải ăn chay nằm đất ít ngày mới có thể làm lễ giao bái được. ít nhất cũng phải là ba ngày… Và lại, còn hai vị sư huynh ta đây, thì nhà ngươi tính sao?

– Có gì đâu mà sư phụ phải bận tâm. Tiện thiếp sẽ lấy một ít linh dược trị thương tích cho nhị sư phụ. Và sau khi chúng ta làm lễ hợp cẩn và động phòng huê chúc rồi, thì chắc nhị sư phụ cũng có thể đi lại được rồi, và vợ chồng chúng ta sẽ đích thân tiễn hành hai vị sư phụ lên đường. Tiện thiếp tính như vậy, liệu có được chăng?

Vừa nói, y thị vừa bật tiếng cười ròn rã…

Lễ cưới của nữ yêu được tổ chức linh đình rộn rã lắm, nhưng tưởng không cần phải kể lể dài dòng ở đây… Chỉ cần biết rằng bầy nữ quái đông đảo của nữ yêu đã dọn dẹp quét tước rất sạch sẽ nơi cửa động, rồi cất ngay tại đó một căn đại sảnh rộng rãi, kết toàn bằng những hoa thơm cỏ lạ chúng đi lấy không biết ở đâu về, bên trong trang hoàng rất nhiều ngọc ngà châu báu lấy tự đáy biển lên. Nơi đó sẽ được thiết lập một tiệc đại yến, để Cuồng Huệ và nữ yêu làm lễ bái thiên địa và uống ly rượu hợp cẩn… Trên bãi đất trống trước mặt, được đặt cơ man nào bàn nào ghế, làm bằng tre bằng trúc bằng gỗ thơm, tất cả đều được kết kỳ hoa dị thảo, để làm chỗ uống rượu mừng cho bầy nữ quái… Bọn này thì đi lại lăng xăng tấp nập, vừa xếp đặt vừa trần thiết, nói cười rộn rã, thỉnh thoảng lại liếc nhìn một cách tinh quái bọn ba người ngồi trên mặt đất nơi cửa động… Đặc biệt là trong suốt ba ngày không thấy bóng nữ yêu có mặt tại đó, có lẽ y thị đã nghe lời Cuồng Huệ ăn chay nằm mộng trong ba ngày cũng nên.

Bọn ba người vẫn bị trói, ngồi chồm hổm nơi cửa động. Càn Thát Bà thỉnh thoảng đưa mắt nhìn theo bọn nữ quái lăng xăng lái xái. Cuồng Huệ lúc thì lặng lẽ nhập định để dồn lực đạo cứu chữa cho Thạch Sanh, lúc thì suy nghĩ miên man tìm cách đối phó với nữ yêu. Nhưng y cũng chưa nghĩ ra được cách nào ổn thoả, thường tự nhủ thầm: “Thôi đến đâu thì đến đó, rồi sẽ liệu… Hay là ta cứ uống rượu hợp cẩn, rồi nghĩ một duyên cớ gì để trì hoãn việc động phòng huê chúc lại…” Nghĩ tới đó, y lại nhớ lại câu nói của nữ yêu: “Neu chưa biết rõ được chuyện chăn gối mây mưa, thì làm sao đạt nhất thiết trí?” Y thấy lời nói của y thị cũng không phải hoàn toàn vô lý… Lại nhớ tới lời hứa hẹn của y thị về vụ “cánh cửa âm môn hé mở,” thì y cũng thấy phân vân bồi hồi. Y lẩm bẩm: “Neu quả thực vũ trụ này chỉ là ảo, thì cũng phải công nhận rằng cái vị Đại yêu huyền nào đó đã tạo ra cái tuồng ảo hóa này, thực là có nhiều tâm cơ đa đoan khúc mắc…”

Thuốc trị thương của nữ yêu cũng thực là linh nghiệm. Phần nhờ ở sự trợ giúp lực đạo của Cuồng Huệ, phần thì nhờ ở sự ngimg hút tủy, cắt thịt, phần thì nhờ ở linh dược, nên những vết thương của Thạch Sanh đã ngưng rỉ máu, bớt đau đớn nhức nhối, tuy đầu óc vẫn ngất ngây bàng hoàng. Đen ngày thứ hai, đã thấy tỉnh táo được đôi chút, và chân tay cũng cử động được ít nhiều. Chàng liền gượng ngồi dậy, mở mắt nhìn thân hình mình thì thấy đầy những vết thương chằng chịt, trên mỗi vết đều có dán những lá cao, thuốc màu đen nhánh và hơi thoảng hương thơm…

Chàng tự nhủ: “Hình hài mình bây giờ cũng chẳng khác chỉ một cái ung nhọt, một cục thịt thối… Lời kinh quả là không sai: Thân chính là nguồn gốc của sự khổ. Có thân là có lụy rồi, chẳng chạy đâu cho thoát… Tuy nhiên cũng phải nhờ cái thân này làm pháp khí, thì mình mới có thể làm công quả được, mới đi thỉnh kinh được… Nhưng nghe nói rằng có những cõi mà thân người chỉ là hào quang nhẹ nhàng thanh tịnh, bất hoại và không có lụy bệnh tật, ta chỉ cầu mong rằng kiếp sau sẽ được mang thân như vậy thôi…” Chàng lấy tay mân mê một lá cao dán ở đùi, rồi lẩm bẩm: “Tâm lực mình thực là yếu ớt quá, chưa làm chủ nổi cái thân xác bằng máu thịt tanh hôi này. Mà vẫn phải cần đến ngoại vật, thuốc men để tương trợ… Sức niệm Phật của mình còn kém quá! Thực là đáng buồn, đáng buồn!…”

Nghĩ vậy, rồi lấy tay mân mê bóc mấy lá cao ra, bỏ sang một bên… Bỗng có tiếng lanh lảnh:

– Này các chị ơi, lại đây mà coi… Vị sư phụ này cứ nhất định muốn chết, các chị ạ. Đương bóc những lá cao quý báu này mà vứt đi đấy.

Nghe tiếng gọi của đồng bọn, có mấy nữ quái chạy lại, xúm xít vừa coi vừa bàn tán cười cợt… Có đứa nói:

– Ấy trỏ đời là như thế đấy, chẳng bao giờ hết chuyện. Có những người lại chỉ thích chết thôi… Nhưng thôi, chẳng phải việc của mình, đừng có xía vô mà chết đó…

Thạch Sanh nghe những lời diễu cợt đó, thì ngừng tay không dám tiếp tục bóc những lá cao nữa. Chàng ngồi bần thần một hồi lâu, rồi bảo Cuồng Huệ:

– Hiền đệ định tâm thật như vậy sao?… Nhưng dù hiền đệ có quyết định thế nào chăng nữa, thì… tiểu huynh vẫn phải mang ơn hiền đệ… và chẳng dám có điều gì trách cứ đâu.

Cuồng Huệ lặng im không trả lời, vì y cũng chua biết sao trả lời… Càn Thát Bà làu bàu:

– Định tâm thật hay định tâm giả thì cũng chua biết, nhung ít nhất thì cũng kéo dài đuọc mạng sống của chú sa môn hay khóc thêm đuợc ít ngày đã… (bảo Cuồng Huệ:) Hay là chú mày cứ nhận lời thực đi cũng chẳng sao mà… để xem “cái cánh cửa khép hờ” của nó mở ra thế nào… Bọn ta thì đi thỉnh kinh trước, chú mày có thể ở với nó năm, bảy tháng hay một, hai năm, rồi bỏ đi đuổi theo bọn ta cũng còn kịp chán…

Một nữ quái bỗng xen vào:

– Đại sư phụ cũng chẳng nên đi thỉnh kinh làm gì, cứ để một mình nhị sư phụ đi cũng đủ chán… Hi, hi, đại sư phụ cũng nên ở lại đây cùng bọn em hưởng thọ đủ mùi khoái lạc… hi, hi…

Càn Thát Bà lại ngồi im thin thít…

Chỉ thêm một vòng thỏ lặn ác tà, là đã đến ngày thứ ba. Ngay buổi sáng hôm đó, nữ yêu đã cho hai nữ quái ra thông báo cùng ba người rằng kỳ hạn đã mãn, mọi sự chuẩn bị đều đã xong xuôi đuề huề, và tới đầu giờ dậu tối hôm đó, thì sẽ cử hành đại lễ thành thân. Hai đứa cũng nói thêm rằng thuyền bè cùng lễ vật cũng đã được sửa soạn đầy đủ để tiễn chân hai vị đại sư phụ lên đường, chừng nào nhị sư phụ có thể sẵn sàng lên đường được.

– Ngày hôm đó, những thương tích của Thạch Sanh cũng đã khá hơn trước, tinh thần cũng tỉnh táo hơn, nhưng chắc rằng chàng cũng còn phải tĩnh dưỡng ít bữa nữa mới có thể lên đường được… Suốt ngày hôm đó, chàng niệm Phật thì ít, mà chỉ ngồi nhìn Cuồng Huệ, chẳng nói được tiếng nào, hai hàng lệ lã chã tuôn rơi… Cuồng Huệ đành gượng cười, an ủi:

– Sư huynh chớ nên quá bi thương, tiểu đệ… cũng đã chết đâu mà sư huynh phải khóc… Cốt sao hai vị sư huynh lên đường là được rồi… còn tiểu đệ thì trước sau thế nào cũng tìm được cách thoát thân và theo kịp các sư huynh. Tiểu đệ đã giao hẹn trước với nữ yêu rồi mà.

Thạch Sanh ngập ngừng:

– Thực là vì… tiểu huynh mà hiền đệ phải chịu lụy này… làm lỡ dở cả con đường hạnh nguyện…

Cuồng Huệ vẫn gượng cười:

– Có khi tiểu đệ cũng giống như đại sư huynh, cỏn vướng vất nhiều đường ngang ngõ tắt rồi mới tới được chỗ hạnh nguyện cũng nên… Đấy, sư huynh thử nghĩ coi, thực ra cũng nhờ ở hiểm nạn này mà tiểu đệ… cũng tiến được mấy bước trên đường thiền quán…

Nói vậy rồi, y lại nhớ điểm khám phá của y trong mấy ngày qua, khám phá thấy rằng vũ trụ này chỉ là những cơn lốc hào quang, thì y lại thấy khấp khởi mừng rơn trong bụng. Y tự nhủ rằng có lẽ mình đã nắm được một chìa khóa quan hệ, và cứ noi theo nẻo đó, thì y sẽ lần lần có thể hiểu nổi cái bí ẩn của vũ trụ và kiếp sống. Y thầm nghĩ: “Kiếp sống này chỉ đáng giá khi mình có đầy đủ sự hiểu biết hay trí tuệ thôi. Không có trí huệ, thì kiếp sống chỉ là một cuộc đi lạng quạng trong một đám sương mù mịt mùng nhân ảnh. Cho nên, để đối lấy trí huệ, thì dù có phải trả một giá nào đi nữa cũng không phải là đắt… Nói cho đúng ra, thì hoàn cảnh nào cũng có cái hay của nó cả, cốt nhất là mình giữ được thái độ tâm thức đúng mực và sáng suốt để tiếp nhận hoàn cảnh đó. Rồi đến đâu thì đến. Trau dồi trí huệ trước đã, rồi noi theo con đường hạnh nguyện sau… Nghĩ như vậy rồi, thì y vẫn thấy an tâm…

Khi chiều đã ngả bóng, hai nữ quái lại từ phía sau động đi ra, lễ mễ khiêng chiếc rương lớn. Chúng mở rương, đưa cho Cuồng Huệ một bộ áo quần và hia mão đầy đủ. Bộ áo quần làm bằng một thứ gấm màu xanh biếc rất quý. Có thêu những bông hoa lớn màu tử kim, cỏn hia và mũ đều có dát ngọc lóng lánh. Chúng cũng đưa cho hai người kia một bộ cà sa và một bộ áo thường, nhưng đều may bằng đoạn vàng, vì bộ áo cũ của Thạch Sanh thì đã rách nát tả tơi và đỏ lòm những máu… Chúng vừa che miệng cười, vừa thưa với Cuồng Huệ:

– Chủ nhân chúng tôi có dặn rằng người đã niệm chú cởi lỏng bớt màng lưới trói hai vị sư phụ đây, để hai vị có thể dễ dàng thay áo… Nhưng riêng đối với sư phụ, thì… hi, hi… chủ nhân tôi rất e ngại cơn thịnh nộ của sư phụ, nên chưa dám cởi lỏng màng lưới. Chủ nhân chúng tôi xin tạ lỗi trước, và chỉ khi nào… hi, hi… động phòng huê chúc xong rồi thì mới dám hi… hi, hi…

Nói vậy rồi bụm miệng cười như nắc nẻ không tiếp được nữa.

Càn Thát Bà vốn sợ hai nữ quái, nên đành lẳng lặng cầm chiếc áo khoác trên vai mình. Thạch Sanh chỉ ngồi yên lặng, không sờ đến chiếc áo. Nhưng hai nữ quái cũng chẳng nài ép gì, để mặc hai người… Chúng chỉ lăng xăng muốn mặc quần áo cho Cuồng Huệ. Y đành phải duỗi tay chân, để cho chúng phục thị mặc hộ quần áo, rồi lại đi hia đội mão… Xong rồi, chúng nhìn ngắm, xuýt xoa, rồi cúi lạy:

– Chủ nhân chúng tôi thực là có con mắt tinh đời. Bọn tiện tỳ chúng tôi xin lạy chào vị tân chủ nhân của động Qua Oa này.

Nói và lạy xong: chúng vừa cười khúc khích vừa bỏ đi. Nhưng Cuồng Huệ từ đầu đến cuối, vẫn chẳng nói chẳng rằng, cũng không lưu tâm đến những lời nói trêu chọc của chúng… Chúng đi rồi, y lại ngồi co đôi chân lại, và tuy chán mang hia, y vẫn cố ngồi kiết già như sắp muốn nhập định… Nhưng riêng đầu óc y thì suy nghĩ lung lắm, muốn tìm một cớ gì để trì hoãn việc động phòng, song cũng không tìm ra cớ gì khả dĩ có thể chấp nhận được. Y đành nhủ thầm: “Hay cứ để coi xem y thị giở những trò gì… Dù có đến lúc động phòng chăng nữa, thì mình cũng chỉ việc giữ cho thân tâm bất động là được rồi… Chả lẽ y thị lại có cách đề cưỡng dâm mình hay sao?!… Và lại, vả lại… đây âu cũng là một cơ hội tốt để mình thử thách mình, xem có thể giữ nổi thân tâm bất động hay không?… Cùng lắm, cùng lắm… nếu y thị lăn vào lòng mình, thì mình chỉ việc xiết chặt hai bàn tay này vào cần cổ của y thị là xong…”

Y bèn động thân mạnh một chút, thì thấy rằng y bị trói còn chặt hơn trước nữa là đằng khác…

Tới đầu giờ thân, thì bỗng có nhã nhạc vang lừng nổi lên từ phía sau động, rồi một đoàn nữ quái khá đông đảo từ từ bước ra. Có tám nữ quái đi trước, xếp hàng đôi, mặc toàn áo lụa xanh, mỗi đứa hai tay bưng một chiếc hộp nhỏ, ý chừng đựng các thứ lễ vật ngà ngọc châu báu. Nữ yêu theo sau, chung quanh có bọn thị tỳ xúm xít vây quanh, bọn chúng cũng đều ăn bận áo lụa xanh, hai đứa cầm hai chiếc quạt lớn bằng lông chim che trên đầu nữ yêu… Nữ yêu trang điểm cực kỳ lộng lẫy, ngọc dát đầy mình, bận một chiếc áo dài đoạn hồng và chiếc quần màu tử kim, mặt không che mạng, miệng cười chúm chím…

Cuồng Huệ liếc nhìn kỹ càng thì thấy y thị da trắng như tuyết, tóc đẹp như mây, nhan sắc rất diễm lệ, có phần còn hơn nàng công chúa xứ Phong Châu… Y phân vân một hồi rồi tặc lưỡi nghĩ thầm: “Bất quá cũng chỉ là những cơn lốc hào quang cả… Cũng chỉ là những óng ánh phù du… Chỉ thay đổi nhịp điệu rung chuyển đi một đường tơ kẽ tóc, thì cái dung mạo ấy lại tàn úa đi ngay, chứ có gì đâu?! Có gì đâu để mà nắm bắt níu kéo…”

Hai nữ quái đến trước ba người, vái dài rồi nói:

– Chủ nhân chúng tôi xin trình thưa rằng giờ thành thân đã tới… Chủ nhân chúng tôi, vì không có ai là họ hàng thân thích hết, nên mạo muội thỉnh cầu đại sư phụ mở lòng đứng ra làm chủ hôn cho cuộc lễ này…

Càn Thát Bà vội xua tay, lắp bắp:

– Đâu có được… Đâu có được… Ta chưa hề… biết làm… vụ này bao giờ…

Nhưng hai nữ quái đã sán đến cạnh hắn, mỗi đứa nắm một cánh tay, kéo hắn đứng lên rồi dìu vào trong đại sảnh, đứng trước bàn thờ… Hắn vốn sợ các nữ quái, nên không dám giẫy dụa chống cự, đành líu ríu làm theo… Có điều trớ trêu là hắn vốn sợ và ghét nữ nhân, nay lại bị cưỡng bách làm chủ cho cuộc hôn lễ….

Hai nữ quái khác cũng tiến lên đứng hai bên cạnh Cuồng Huệ. Vì y bị trói khá chặt, nên khi y định cử động để đứng lên cũng thấy khó khăn… Hai đứa vội nói:

– Xin để bọn tiện tỳ phục thị cho tân chủ nhân…

Cuồng Huệ đành phải để cho chúng đỡ dậy, rồi dìu vào trước bàn thờ…

Cuộc lễ bái thiên địa được tiến hành rất nghiêm chỉnh, thỉnh thoảng có điểm những hồi nhã nhạc vang lừng… Có điều là Càn Thát Bà chỉ biết đứng trơ như phỗng, đôi mắt lúc thì hấp háy lúc lại nhắm nghiền, chẳng biết lễ nghi ra sao cả. Hai nữ quái đứng bên, đành phải làm thay cho hắn vừa dâng hương vừa thay nhau hô những tiếng lanh lảnh hoặc “Hưng” hoặc “Bái”… Nữ yêu trang trọng quy lễ bốn lễ, thỉnh thoảng liếc nhìn Cuồng Huệ… Song y vẫn cứ đứng sững như trời trồng, chỉ nói:

– Ta cử động khó khăn lắm… Đứng thế này cũng là đủ rồi. Vả lại, ta cũng chẳng lễ bái ai bao giờ, cũng như chưa hề lập lời thệ nguyện…

Nữ yêu vẫn tươi cười:

– Thôi thế cũng được… Có lẽ phước duyên của tiện thiếp chỉ có được như vậy thôi.

Rồi y thị nắm lấy tay Cuồng Huệ, dắt tới bàn tiệc yến, để cùng uống rượu họp cẩn… Càn Thát Bà cũng được dắt đến, đặt ngồi co ro trong một chiếc ghế lớn. Cả hai người đều tránh không dám nhìn ra phía Thạch Sanh vẫn ngồi dưới đất nơi cửa động và lầm rầm niệm Phật…

Nữ yêu truyền lệnh bãi các thứ nhã nhạc, nói:

– Thôi, để ta cùng tân lang được cùng uống ly rượu họp cẩn này, trong niềm im lặng trang nghiêm của trời đất bao la…

– Bọn nữ quái được lệnh bèn tíu tít ùa ra ngoài khoảng đất trống, tranh nhau ngồi dự tiệc…

Giây lát, bầy nữ quái đã ngồi tề tựu đầy đủ vào các bàn tiệc, nhung chúng đều im lặng, chua dám khởi sự ăn uống gì, nghểnh cổ trông ngóng chủ nhân uống ly rượu hợp cẩn với tân lang.

Trong đại sanh, chỉ còn có ba người ngồi, với hai đứa thị tỳ hầu hạ. Không khí trang nghiêm và im lặng như tờ, một tiếng ong bay nghe cũng rõ… Bên ngoài, trời đã chạng vạng tối, và mảnh trăng non lợt lạt đã lung linh treo giữa nền trời. Các đèn đuốc cũng được thắp sáng, và mặc dù đám đông, cảnh vật của miền hoang đảo ấy vào lúc đêm đổ xuống cũng đượm một vẻ miên man lạ lùng.

Nữ yêu đưa mắt nhìn quanh một lượt, cố giữ một nụ cười đắc ý, rồi đưa mắt nhìn đứa thị tỳ. Đứa này bước tới, cầm bình bồ đào tửu, rót vào hai chiếc chén ngọc, rồi dâng một ly cho Cuồng Huệ và một ly cho nữ yêu… Nữ yêu mỉm cười, nâng ly mời Cuồng Huệ:

– Âu cũng là duyên trời tác họp. Thiếp rất lấy làm mãn nguyện được lời hứa thuận tình của chàng. Những gì thiếp đã hứa, thiếp nguyện xin giữ trọn… (thở dài não nùng:) về hồi này, ngày thì ngắn nhưng đêm lại dài. Xin mời chàng cùng thiếp cạn ly rượu này để cùng nhau sánh bước vào những giấc mộng xuân…

Vừa nói vừa nâng cao ly rượu… Cuồng Huệ cũng đành nâng ly rượu, bồi hồi nghĩ thầm: “Thôi thì ta cũng uống chén rượu này như trước kia, ở Kim Đình quán, nhị sư huynh uống chén thuốc độc… Kể cũng lạ thật, hễ cứ có đàn bà xía vào là lại phải uống một thứ gì, hoặc là rượu hoặc là độc dược…” Rồi y từ từ nâng chén đưa lên môi…

Ngay giữa lúc đó, trong không khí im lặng như tờ, bỗng từ đằng xa vẳng lên mấy tiếng đàn… Tiếng đàn khởi lên chỉ có ba tiếng: Tịch tình tang… tiếng không cao lắm, nhưng như gần như xa, nghe rõ mồn một… Rồi tiếp theo là một giọng hát 0 ề rạn nứt nổi lên:

– í a í a ai mang í a ai mang phò mã dưới hang í a mà về í a í a… hụ… hụ… hụ…

Mấy tiếng ho sụ sụ nổi lên sau câu hát, rồi im bặt. Giọng hát ồ ề như của một anh kép hát làm trỏ hề của một phường chèo hạng bét… Nhưng tiếng đàn hát vừa lọt tai, Cuồng Huệ thấy giật mình đánh thót một cái, và ly rượu rớt ngay xuống đất. Càn Thát Bà cũng ngồi nhổm lên, đưa mắt nhìn dáo dác… Bỗng một giọng nữ vô cùng thanh tao nổi lên giữa đêm trường tịch mịch:

Phật pháp như đại hải
Còn rộng và sâu hơn,
Chẳng có gì thoát khỏi
Thiên la địa võng này…

Giọng hát thanh tao khiến người nghe thấy như bay bổng, thoát vòng tục lụy… Cuồng Huệ bỗng nhiên đứng dậy, lúc bấy giờ y mới ý thức rằng màng lưới hào quang đã rớt tự bao giờ. Y bèn vội quay sang, vươn tay định nắm lấy cổ tay nữ yêu. Y nắm được cổ tay rồi, thì thấy tay y thị lạnh như băng giá và nét mặt thực là kỳ dị. Thì ra y thị ngồi trơ sững như một pho tượng đá, nét mặt co rúm lại như đương bị một niềm sợ hãi lo lắng dị thường… Y ngẩn người chưa biết định sao, thì lại vẳng lên ba tiếng: tịch tình tang… rồi tiếp theo là giọng nữ lúc nãy:

Các vật đến từ đó
Đột hiện rồi đột tan,
Tương tự như bào ảnh
Chang khác một giấc mơ

Cuồng Huệ vẫn nắm cổ tay nữ yêu, chăm chú nhìn mặt y thị, thì thấy y thị vẫn hoàn toàn bất động, chẳng có phản ứng gì, nhưng khuôn mặt thì nhăn nhúm lần lần, héo úa lần lần già đi trông thấy… Tịch tình tang lại vang lên và giọng nữ hát tiếp:

Kẻ mê muốn nắm bắt
Chỉ nắm bắt hư không,
Tựa như đường chim bay
Mịt mùng không vết tích…

Mới hát đến khúc này mà nét mặt nữ yêu bỗng già xọm hẳn đi như một bà lão bảy mươi, tám mươi tuổi. Làn da trắng như tuyết phau nay đã đầy nhăn nhúm lổ đổ, mái tóc mây trở thành hoa râm xơ xác, đôi mắt chan chứa xuân tình chỉ còn những ánh lờ đờ, toàn thân cũng lom khom gầy guộc. Tương tự như một nhành hoa bị một trận sóc phong thổi héo úa… Y thị ngồi gục mặt xuống, hai hàng lệ rơi lã chã…. Cuồng Huệ cũng thấy chạnh lòng, đứng ngẩn người ra một hồi, rồi bất giác buông cổ tay y thị ra. Giọng nữ lại vang lên, nhưng lần này không thấy có tiếng đàn giáo đầu:

Thiên la Như ý châu.
Chưa phải thực thần diệu
Chỉ cầm bắt kẻ mê
Chẳng buộc nổi người ngộ…
Mê-Ngộ cùng Tà-Chánh
Sai lệch nửa hào ly
Chỉ cần quay đầu lại
Đông-Tây Mê-Ngộ cùng…
Ta thương ngươi khổ công
Tập luyện từ lâu xa
Nên mở lòng hiếu sanh
Để cho ngươi tự xử…

Đến lúc này, có lẽ tất cả niềm tuyệt vọng của trần gian đều hiện trên nét mặt già nua cằn cỗi của nữ yêu… Y thị ngồi trơ ra một hồi, rồi nặng nề đứng dậy. Thân hình héo úa của y thị súng sính trong bộ xiêm y lộng lẫy của tân giai nhân, tạo nên một cảnh tuợng vừa lố bịch vừa thê thảm. Y thị chẳng nguớc mắt nhìn ai hết, chỉ quay mặt về phía có tiếng hát, vái dài ba vái, chậm rãi cởi bộ xiêm y bên ngoài ra bỏ rớt xuống đất, rồi lặng lẽ bước ra, đi theo con đường mòn ra phía biển… Hai người cũng đứng trơ ra nhìn theo. Càn Thát Bà vội đứng nhỏm lên, nói:

– Tam đệ hãy đánh chết nó đi, đừng cho đi thoát…

Cuồng Huệ tần ngần:

– Vị ân nhân cứu mạng nào đó của chúng ta đã mở lỏng tha mạng cho y thị, thì chúng ta cũng chẳng nên tàn độc làm gì… Đe mặc cho y thị đi tìm một nơi khác dung thân…

Khi hai người nhìn ra ngoài đại sảnh, thì thấy tất cả bầy nữ quái đều đã lẩn trốn đi đâu mất hết, và Thạch Sanh cũng đã đứng dậy được, tựa lưng vào vách đá… Cuồng Huệ bỗng nhìn thấy dưới đất có vật gì sáng quắc chói lòa, y nhặt lên thì ra là một viên ngọc lớn to bằng ngón tay cái.