QUYỂN 10
Năm: Ca ngợi ngưỡng mộ công đức của Phật: Đã hiện bày-đã đi đến tùy theo sức mà ca ngợi, tự bày tỏ tình cảm không có cùng tận của mình, hiển bày công đức vô lượng vô biên của Phật, văn phân làm hai: Trước là một Bồ-tát ca ngợi về ánh sáng nơi tướng lông trắng giữa chặng mày; sau là mười vị Bồ-tát trong mười phương ca ngợi, Đại chúng mới(Tân chúng) vừa mới quy tụ, Phật liền hiện bày điềm lành. Văn không ghi chép liên tục với nhau mà sắp xếp thành thứ tự, bởi vì kết tập giống như ca ngợi về đức tướng, cùng ở một nơi, thứ tự nương theo Bồtát Thắng Âm mà hiện bày. Trước là nêu ra kệ của Bồ-tát Thắng Âm, sau là mười vị Bồ-tát tức là mười phương như dưới đây, người xưa không hiểu về văn này, liền lấy mười vị Bồ-tát sau làm quyến thuộc của Bồtát Thắng Âm, không những sai lạc Chương sớ, mà cũng chính là phiên dịch có trái ngược. Vì sao như vậy? Bởi vì Đại chúng xuất hiện từ ánh sáng nơi tướng lông trắng giữa chặng mày thì Chủ-Bạn đều ca ngợi, mà Đại chúng đến từ mười phương im lặng không nói một lời, lễ nghi ChủBạn như nhau đâu ràng buộc gì? Huống hồ dựa theo phẩm Pháp Giới nêu ra Đại chúng đi đến đều có lời ca ngợi, tìm hiểu tường tận về tên gọi của Bồ-tát, và mười phương trước đây tương tự như sau, chỉ do người dịch không xem xét tường tận, khiến cho tên gọi có phần nào sai khác, đến trong văn sau sẽ so sánh phân rõ tên gọi từng vị một.
Trước là Bồ-tát Thắng Âm, văn phân làm hai: 1- Nghi thức thuyết kệ; 2- Chính thức thuyết kệ. Mười vị Bồ-tát ở phần sau cũng như vậy.
Trong phần kệ, tổng quát về tướng ca ngợi Phật, cũng hàm chứa những câu hỏi, suy nghĩ có thể biết. Mười tụng phân ba: Một: Có ba kệ thẳng thắn dựa vào Phật để ca ngợi; Hai: Có sáu kệ dựa theo Đại chúng ca ngợi Phật; Ba: Có một kệ cùng kết luận về Chủ-Bạn.
Trong mục một có ba kệ, đều ca ngợi về Thể-Dụng vô ngại của Như Lai, trong đó: Một kệ đầu nói về không rời khỏi nơi ban đầu mà hiện bày khắp nơi, là mười thân viên dung rộng khắp bốn pháp giới; hai kệ sau nói về không làm hỏng tướng nhỏ bé (Tiểu tướng) mà dung nạp rộng lớn. Trước là Sự vốn như Lý, ở đây là Sự vốn hàm chứa Lý, trong đó: Một kệ rưỡi trước nói về một mảy lông thâu nhiếp ba thế gian, nửa kệ sau nói về tương tự nơi khác, nghĩa là khắp nơi trong pháp giới đều có thân Phật, không có một mảy lông nào không hàm chứa vô lượng vô biên thế giới (Sát hải). Lại một mảy lông biểu thị cho Giải thoát môn, bởi vì chư Phật Bồ-tát do Trí mà an trú. Hiện rõ nhiều sát hải, bởi vì tất cả các môn đều là nhân của Tịnh độ.
Mục hai có sáu kệ dựa theo Đại chúng ca ngợi Phật, là Thánh Hiền phụ giúp vốn hiển bày về Chủ thù thắng. Sáu kệ tổng quát trình bày về Chủ-bạn đều rộng khắp, trong đó: Hai kệ đầu nói về thân tổng quát-tướng tổng quát rộng khắp, bốn kệ sau nói về thân tổng quát rộng khắp. Trong phần riêng biệt, đã vi tế khó nhận biết, cho nên chỉ có Trí rộng khắp mới có thể nhận biết, Hành rộng khắp mới có thể thiết lập.
Mục ba có một kệ cùng kết luận về Chủ-bạn, có thể biết.
Phần sau là Bồ-tát mười phương ca ngợi về đức, mười phương tức là mười đoạn.
Đoạn thứ nhất: Đông phương: Nói trong chúng, là phần nêu ra tên gọi trước đây trong vô lượng Đại chúng (Đại chúng hải), tên gọi là Quán Sát Thắng Pháp Liên Hoa Tràng. Tướng của Tràng cao vượt lên, Vương là siêu việt thù thắng, đây là dụ cho tương tự. Tuệ sáng chói tức là dụ cho Thể của Tràng. Trong phần kệ ca ngợi về Chân thân và Ứng thân của Phật, bí mật giải đáp về Phật Địa trước đây, bởi vì Trí… của Như Lai thâu nhiếp Phật Địa. Mười kệ phân hai: Đầu là ba kệ ca ngợi về Chân thân, sau là bảy kệ ca ngợi về Ứng thân. Ca ngợi về Chân thân thì chắc chắn Thể-Dụng cùng tốt đẹp, ca ngợi về Ứng thân thì chỉ dựa theo Dụng để trình bày, muốn hiển bày về môn khác nhau mà thật ra không phải ở ngoài Thể.
Trong ba kệ đầu, trong đó: Đầu là một kệ ca ngợi về Trí thân, tiếp là một kệ ca ngợi về Pháp thân, sau là một kệ cùng kết luận về Trí, hàm chứa bốn Trí, Pháp tức là pháp giới đầy đủ năm pháp.
Trong kệ ca ngợi về Trí thân: Nửa kệ trước là nói về Thể của trí Căn bản (Chánh Thể) chứng được Chân, nửa kệ sau là nói về Thể của trí Hậu đắc khởi lên tùy thuận Tục. Lại mỗi câu đều nói về một Trí, câu đầu là nói về Đại viên cảnh trí, bởi vì hành tướng sâu xa vi tế; câu tiếp là nói về Bình đẳng tánh trí, bởi vì Tự-tha bình đẳng tức là pháp giới; câu tiếp là nói về Diệu quán sát trí, bởi vì chuyển đổi vô ngại đối với tự tướng-cộng tướng; câu cuối là nói về Thành sở tác trí, bởi vì thành tựu Lợi tha, dẫn dắt sự việc của thế gian.
Trong kệ tiếp là ca ngợi về Pháp thân: Nửa kệ trước là nói về Thể-Tướng đều giống nhau, giống nhau có hai nghĩa: 1- Tánh vốn có giống như Thể của Pháp thân, nói không nương tựa là bởi vì không trú vào gốc, không sai biệt là bởi vì không khác nhau. 2- Đã chứng giống như Tướng của Pháp thân, bởi vì Lực-Vô úy… đều không khác nhau. Vậy thì thân của Tuệ vô ngại không dựa vào tất cả, lìa xa các phân biệt là không sai biệt. Nửa kệ sau là nói về Dụng giống nhau, bởi vì có thể hiện rõ, có thể phát sinh Thân-Độ, Trí phỏng theo đều không hai, tức là Pháp thân không có Sắc, ứng với chúng sinh mà hiện rõ hình tướng.
Kệ sau là cùng kết luận: Nửa kệ trước là kết luận về Trí, câu trước là nói về trí Căn bản, câu sau là nói về trí Hậu đắc; nửa kệ sau là kết luận về Pháp, chỉ nêu ra Dụng ấy, Thể thì nối thông từ trước đến sau, bởi vì Trí hợp với Như; kinh Kim Quang Minh nói Như Như và trí Như Như vốn là Pháp thân.
Trong bảy kệ sau là ca ngợi về Ứng thân, phân ba: Đầu là một kệ nói về tùy theo ưa thích mà hiện rõ Ứng thân, Bất tư nghị là bởi vì tùy theo duyên không giới hạn, phẩm Quang Minh Giác nói: Ức na-do-tha kiếp cùng nhau suy nghĩ, sắc tướng uy đức chuyển biến không giới hạn… Tiếp là bốn kệ nói về ánh sáng nơi thân(Thân quang) thuyết giảng giáo pháp: Đầu là một kệ nói về Hóa thân thuyết giảng giáo pháp, hướng về Ứng thân trước đây tức là trở lại hóa hiện; tiếp là hai kệ nói về ánh sáng nơi mảy lông thuyết giảng giáo pháp; sau là một kệ kết luận ca ngợi về khó suy lường, nghĩa về Pháp luân như nói ở phần riêng biệt. Sau là hai kệ về thành đạo phát khởi thần thông. Trên đây đều viên dung cũng có mười Thân, tạm thời thuận theo một nghĩa mà thôi.
Đoạn thứ hai: Nam phương: Bồ-tát Pháp Hỷ, trong phần Vân tập trước đây gọi là Phổ Chiếu Pháp Hải Tuệ, hiểu theo nghĩa cũng giống nhau, bởi vì quang minh tức là chiếu rọi pháp. Mười kệ ca ngợi về đức Tịch dụng ứng cơ của Phật, giải đáp về cảnh giới trước đây, Pháp thân hiển bày rõ ràng tức là cảnh thuộc phạm vi giới hạn, Vô sinh không có Thể tức là cảnh đã quán sát, chúng sinh-quốc độ đều là cảnh đã giáo hóa. Trong đó phân ba:
Một có bốn kệ dựa vào Chân thân phát khởi Ứng thân, trong đó phân hai: Trước là một kệ hiển bày về Chân, thân Phật thường hằng là Đệ nhất nghĩa, bởi vì thường xuất hiện ở ba đời, Trí phù hợp với lý trong lặng mà thường soi chiếu. Hiển là bởi vì lìa xa hai chướng, Hiện là bởi vì thường ở trước mắt, không giống với Thường thuộc tự Thể của chúng sinh. Pháp giới đều chứa đầy, là tướng tốt của các căn, tất cả đều vô biên-vô hạn, do phước trí mà trang nghiêm. Tiếp là hai câu về âm thanh luôn luôn hoạt dụng rộng khắp, bởi vì luôn luôn tự thọ dụng pháp lạc rộng lớn. Sau là ba kệ nói về phát khởi Dụng, đầu là một kệ nói về khắp nơi tùy theo ưa thích của chúng sinh, tiếp là một kệ nói về đạo lý cảm-ứng đan xen với nhau, sau là một kệ nói về ánh sáng của pháp không có ranh giới.
Hai có ba kệ nói về Thể-Dụng vô ngại, trong đó: Hai câu đầu là dựa theo tướng Vô sinh mà hiện rõ Sinh, hai câu tiếp là dựa theo tánh Vô trú mà Trú. Tiếp là một kệ dựa theo Dụng không có đi-ở (Khứ-trú) mà rộng khắp mọi nơi. Sau là một kệ nói về Thể-Dụng cùng lướt qua, nghĩa là không có Thể lướt qua Vô sinh trước đây, bởi vì Vô sinh là Thể của pháp Phật; nay nói đến Thể ngay nơi không phải Thể, không có trú xứ là lướt qua hai câu dựa theo tánh, cũng là Vô sinh có thể lướt qua câu nêu ra Sinh. Nửa kệ sau là lướt qua kệ thứ hai dựa theo Dụng trước đây, bởi vì Dụng như hình bóng.
Ba có ba kệ trình bày về Chân thân-Ứng thân vô tận: Kệ một là nói về mây pháp vô tận, kệ hai là nói về chúng hội vô tận, kệ ba là nói về thân tướng vô tận. Tướng vô tận là nói gồm đủ Chân thân, chung quy không tận cùng là bởi vì hoàn toàn giống như Thể.
Đoạn thứ ba: Tây phương: Bồ-tát Hương Diệm, trước đây gọi là Nguyệt Quang Hương Diệm Phổ Trang Nghiêm; trong này Quang tức là Nguyệt Quang, Minh Tuệ tức là trí tuệ trang nghiêm. Mười kệ ca ngợi về thân Phật hàm chứa các Hải, tức là giải đáp câu hỏi về gia trì, nhờ vào gia hộ cho nên có thể tiến vào, trong đó: Chín kệ trước là ca ngợi về các Hải, là đức của Phật có thể biết, một kệ sau là kết luận đức quy về Phật.
Trong chín kệ trước: Một kệ đầu là tổng quát, tám kệ còn lại là riêng biệt. Trong riêng biệt có hai: Bốn kệ trước là nói về bình đẳng rộng khắp tất cả, trong đó: Một kệ đầu là nói về Trí thân tiến vào vô số thế giới; một kệ tiếp là nói về Sắc thân hiện bày tác dụng khắp nơi; hai kệ sau là giải thích thành tựu về nghĩa trước đây, một là hạnh Phổ Hiền tròn vẹn, hai là thân tâm bình đẳng. Bốn kệ sau là trình bày về vi tế tiến vào trong thế giới nơi lỗ chân lông mà dấy khởi hoạt dụng.
Trong một kệ sau cuối là kết luận không những một Hội, mà tất cả Bồ-tát đều tiến vào thân Phật, mới là ca ngợi Phật.
Đoạn thứ tư: Bắc phương: Bồ-tát này giống với tên gọi vốn có, chỉ thêm vào chữ Tuệ. Nhưng mười kệ này ca ngợi Phật dựa vào Thể phát khởi Dụng mà chuyển Đại pháp luân, giải đáp về công hạnh của Phật trước đây, bởi vì Phật chuyển vận giáo pháp để hóa độ chúng sinh, làm công hạnh của mình. Trong văn phân ba: Đầu là hai câu về tổng quát, tiếp là tám kệ rưỡi về riêng biệt, sau là một kệ về kết luận.
Trong phần riêng biệt về mười giáo hóa của Phật: 1- Hai câu đầu là nói về thị hiện thọ sinh để giáo hóa, cho nên thọ sinh khắp nơi vốn là tất cả thân mây. 2- Có một kệ ca ngợi về hiện bày thần thông để giáo hóa, câu cuối tuy nói là chuyển pháp mà ý thuộc về Dụng của thần thông. 3- Có ba câu ca ngợi về nghiệp quả để giáo hóa, tất cả các thế giới-danh hiệu không giống nhau, là nêu ra tên gọi-nghiệp báo-chủng loại-nơi chốn vốn giống nhau. Ba sự giáo hóa trên đây dựa vào thân. – Tùy theo thích hợp mà thuyết giảng về diệu pháp, tức là biện giải truyền bá để giáo hóa, bởi vì tùy theo thích hợp thì có thể đoạn trừ nghi ngờ của chúng sinh. 5- Có một kệ nói về khuyên nhủ khen ngợi khuyến khích để giáo hóa, dùng âm thanh tuyệt vời để khen ngợi khuyến khích. – Có một kệ nói về thăm hỏi chúc mừng để giáo hóa, bởi vì rưới làn mưa pháp khắp nơi, khiến cho chúng sinh tiến lên tu tập về pháp Vô sinh. Ba sự giáo hóa trên đây thuộc về ngữ nghiệp. 7- Có một kệ nói về ý tiếp nhận để giáo hóa, bởi vì tiếp nhận câu hỏi được chọn lấy, để thuyết giảng về công hạnh xưa kia. – Có một kệ nói về ý quyết định chọn lựa để giáo hóa, bởi vì quyết định chọn lấy tâm hành sai biệt của hữu tình, và lựa chọn tánh tướng không giống nhau của các pháp, mới có thể giáo hóa tất cả. – Có một kệ nói về ý phát khởi để giáo hóa, bởi vì phát khởi thiện hạnh vốn có và Đại hạnh của Tam thừa, là khéo léo điều phục. 10- Có một kệ nói về ý tạo tác để giáo hóa, bởi vì kiến lập về nghĩa thuộc Sự của pháp Phật, đủ loại đều khiến cho nhìn thấy, mà dựa vào Thật để phát khởi Dụng tức là Hóa thân, cho nên nói Hóa thân không có tâm-sắc riêng biệt. Mười sự giáo hóa này, thứ tự không có gì trái với kinh Phật Địa, chỉ khiến cho dung thông với nhau mà không trái với Tông chỉ của kinh.
Sau cuối là một kệ kết luận quy về Hội này, có thể biết.
Đoạn thứ năm: Đông Bắc phương: Bồ-tát Pháp Hải, trong phần Đại chúng quy tụ trước đây gọi là Tối Thắng Quang Minh Đăng Vô Tận Công Đức Tạng. Pháp Hải có thể là Tối Thắng Quang Minh, nghĩa cùng với Tuệ như nhau. Tên gọi Công Đức Tạng thì trước-sau không có khác nhau, hai chữ Vô Tận thì trước có-sau không có. Mười kệ ca ngợi Phật thâu nhiếp quyến thuộc thù thắng, giải đáp câu hỏi về uy lực của Phật, dựa vào đó để ca ngợi Bồ-tát, thật sự là nhờ vào uy lực của Phật, cho nên kết luận nói rằng trú trong Lực của Địa.
Trong văn có hai: Một kệ đầu nói về Trí đầy đủ đạt được pháp, tức là tướng tổng quát. Môn phương tiện như vậy, ở đây có hai ý: Một: Nêu ra trước đây, nghĩa là đầy đủ sự giáo hóa thuộc ba Luân trước đây, cho nên có thể rộng khắp ở tất cả các quốc độ; Hai: Từ “Tức hạ…” trở xuống là chín sự việc riêng biệt làm phương tiện như vậy. Chín kệ còn lại là tướng riêng biệt cùng ca ngợi về bảy sự việc: 1- Ca ngợi về Đại âm thanh thuyết giảng khắp nơi, có ba loại Đại: Một là Xứ Đại, bởi vì ở tất cả quốc độ; Hai là Nghĩa Đại, bởi vì thuyết giảng về công hạnh của Phật; Ba là Thể Đại, bởi vì khắp mười phương đều nghe thấy. 2- Ca ngợi về thời gian không trôi qua trống rỗng, bởi vì niệm niệm quán sát về pháp mà chứng chân thật. 3- Có thể tiến vào nơi chốn thù thắng, bởi vì trong thân chư Phật mà tu hạnh làm thanh tịnh quốc độ. – Vô ngại đối với nhiễm ô, bởi vì chứng pháp trong trần cảnh mà thực hành đầy đủ. 5- Có thể tiến vào cảnh giới của Phật, bởi vì nhìn thấy thần lực của Phật mà tiến vào nơi chốn thực hành, nơi chốn thực hành có hai: Một: Nơi chốn thực hành của Trí, đó là cảnh giới của mười Lực; Hai: Nơi chốn giáo hóa của Phật, đó là Khí thế gian và Chúng sinh thế gian. – Có ba kệ nói về khéo léo tiến vào âm thanh, kệ đầu là tiến vào âm thanh rộng lớn, kệ tiếp là tiến vào âm thanh vi diệu, kệ sau là tiến vào tất cả âm thanh. 7- Có một kệ nói về khéo léo nhận biết các Địa. Nói thuận theo Địa tức là tâm phát ra, mà đạt được Địa tức là tiến vào an trú, trong lực của Địa tức là Phật Địa, đã đạt được pháp là kết luận về phương tiện trên đây.
Đoạn thứ sáu: Đông Nam phương: Bồ-tát Tuệ Đăng, tên gọi đầy đủ giống như trước. Mười kệ ca ngợi về sự tỏ ngộ tiến vào sâu rộng của các Bồ-tát, nhờ vào lực của Tam-muội nhìn thấy Tam-muội của Phật, tức là giải đáp câu hỏi về Tam-muội. Trong đó phân bốn:
Một có hai kệ ca ngợi về nhìn thấy Thể chân thật của Phật, kệ một là nhìn thấy Phật lìa xa tướng, kệ hai là nhìn thấy Phật tự tại. Nói lìa xa các tướng, trong kinh Bát Nhã nói: “Lìa xa tất cả các tướng, thì gọi là chư Phật.” Trong luận Từ Thị nói: “Chỉ lìa xa bốn tướng thì lìa xa tất cả, đó là Danh-Nghĩa-Tự tánh và Sai biệt.” Nói tự tại, là do Bồ-tát cùng vận dụng Định-Tuệ, cho nên nhìn thấy Phật tự tại.
Hai có bốn kệ trình bày về tỏ ngộ giáo pháp, kệ một là chứng sâu vào pháp thuộc Lý, tùy nguyện lực mà hiện bày; kệ hai là tỏ ngộ nhiều về pháp thuộc Hành, do phước trí mà thành tựu hình tướng; kệ ba là thông hiểu về pháp thuộc Quả, tất cả Thể đều rộng khắp; kệ bốn là hiểu rõ về pháp thuộc Giáo, sâu rộng khó nhận biết.
Ba có hai kệ ca ngợi về thân nghiệp thích ứng khắp nơi, kệ một nói về sâu xa, kệ hai nói về rộng lớn. Nói đến kiên cố bí mật, là giống như Thể-Dụng của Phật. Kiên cố tức là thân Kim Cang. Bí mật đó là một trong ba bí mật, ngay nơi một mà nhiều bởi vì rộng khắp tất cả, ngay nơi lớn mà nhỏ bởi vì hiện rõ trong mảy trần, không dụng công ứng hiện bởi vì Vô tướng mà hiện bày. Nếu dựa theo pháp môn thì thân này tức là tánh thuộc Như Lai Tạng, không thể nào phá hoại bởi vì kiên cố, sâu xa mà khó thấy bởi vì bí mật, tâm-cảnh của chúng sinh, tất cả đều đầy đủ; vốn tự có như vậy, cho nên nói là Vô sinh; Thể đoạn tuyệt tất cả sai trái, cho nên nói là Vô tướng; sáu căn của chúng sinh thì gọi là các quốc độ.
Bốn là hai kệ sau cuối ca ngợi về được Phật gia trì, kệ một là ca ngợi uy lực của Phật ở phương này, kệ hai là ca ngợi uy lực của chư Phật các phương khác.
Đoạn thứ bảy: Tây Nam phương: Ở phần nêu ra tên gọi trước đây, nói là Phổ Hoa Quang Diệm Kế, giống nhau thì ít mà khác nhau thì nhiều. Mười kệ ca ngợi về đức tự tại thâu nhiếp chúng sinh của Phật, giải đáp câu hỏi về Tự tại trước đây. Văn phân làm ba: Đầu là sáu kệ nói về thâu nhiếp chúng sinh không có gì sót; tiếp là hai kệ nói về TịchDụng không có gì ngăn ngại; sau là hai kệ nói về Đại Dụng không có bến bờ.
Văn phần đầu có hai: Hai kệ đầu nói về có thể thâu nhiếp, đó là thân-ngữ sâu rộng, kệ trước nói về ngữ, kệ sau nói về thân. Trong kệ nói về thân: Nửa kệ trước là nói về Thể, bởi vì khách trần không cấu nhiễm; nửa kệ sau là nói về Dụng, bởi vì tùy theo chúng sinh nhìn thấy khác nhau, cũng là giải thích chỗ khó hiểu, vì chúng sinh mà hiện tướng không trái ngược giống như hư không. Bốn kệ sau nói về đã thâu nhiếp: Kệ một là nói người nào có thể hiểu rõ niềm tin bên trong-thâu nhiếp bên ngoài? Kệ hai là nói dùng mắt nào để nhìn thấy chỉ có thù thắng chứ không phải yếu kém? Kệ ba là nói thấy rõ ràng pháp gì, đó là tất cả các pháp thuộc ba tâm của từng Địa. Kệ bốn là nói phần vị nào hoàn toàn tận cùng Địa của Bồ-tát, hướng đến tiến vào Phật hải?
Trong phần tiếp là hai kệ nói về Tịch-Dụng không có gì ngăn ngại: Kệ đầu nói về Dụng phát khởi khắp nơi, Thể không có gì qua lại; kệ sau là ngay nơi Dụng luôn luôn Tịch, tùy theo hiểu biết mà tự nhiên khác nhau.
Trong phần sau là hai kệ nói về Đại Dụng không có bến bờ: Kệ đầu nói về mỗi một mảy lông đều hiện bày thần thông rộng khắp; kệ sau nói về mỗi một thân đều chuyển vận giáo pháp khắp nơi.
Đoạn thứ tám: Tây Bắc phương: Bồ-tát này ở phần trước gọi là Vô Tận Quang Ma Ni Vương, ở đây nói Uy Đức Tuệ tức là Ma Ni Vương, pháp-dụ khác nhau mà thôi. Mười kệ ca ngợi về đức của Phật xuất hiện thuyết pháp đều rộng khắp mọi nơi, giải đáp câu hỏi về Vô úy, bởi vì thuyết pháp không có gì khác nhau. Trong đó phân ba: Đầu là hai kệ tổng quát hiển bày về ánh sáng nơi thân ứng hiện khắp nơi; tiếp là bảy kệ phân rõ về những việc đã làm; sau cuối là một kệ kết luận Dụng đưa về nguồn gốc.
Trong phần tiếp là bảy kệ phân rõ về những việc đã làm, phân hai: Đầu là ba kệ trình bày về ánh sáng soi chiếu không có gì sót; sau là bốn kệ nói về thuyết giảng giáo pháp rộng khắp mọi nơi: Kệ một là khắp trong quốc độ-pháp giới trong ngoài mảy trần, kệ hai là khắp trong tất cả quốc độ trong thân Phật, kệ ba là trình bày về tánh-tướng đã chuyển, kệ bốn là trình bày về Viên âm có thể chuyển.
Sau cuối là một kệ kết luận Dụng đưa về nguồn gốc, bởi vì không thể nào đạt được.
Đoạn thứ chín: Hạ phương: Bồ-tát này ở phần trước gọi là Pháp Giới Quang Diệm Tuệ, ở đây gọi là Phổ Minh, tức là Quang Diệm. Mười kệ ca ngợi về Dụng thù thắng của cảnh giới Phật mà Bồ-tát có thể tiến vào, giải đáp câu hỏi về Thần thông, văn nói: Tất cả đều hiện bày. Trong đó có hai: Trước là ba kệ hiển bày về Dụng thù thắng của cảnh giới Phật: Nửa kệ trước là nêu ra Thể của cảnh giới Phật, đó là sắc tướng của Thân vi diệu; hai kệ rưỡi sau là phân rõ về Dụng của cảnh giới Phật. Sau là bảy kệ nói về Bồ-tát có thể tiến vào, đó là tiến vào cảnh giới Phật, trong đó có ba: Đầu là hai kệ nói về có đủ đức cho nên thấy-biết; tiếp là ba kệ nói về thấy-biết thành tựu lợi ích; sau cuối là hai kệ kết luận về sự mau chóng của Dụng, đều có thể biết.
Đoạn thứ mười: Thượng phương: Tên gọi Bồ-tát ở phần này đảo ngược so với tên gọi ở phần trước mà thôi. Mười kệ ca ngợi về viên âm-hiện thân-thần biến tự tại của Phật, giải đáp câu hỏi về không có năng lực nào thâu nhiếp được, nghĩa là nguyện lực này rộng khắp mọi nơi, vì vậy không có năng lực nào khiến cho không đạt được. Trong đó phân ba:
Đầu là ba kệ ca ngợi về đức thuộc Viên âm rưới làn mưa pháp của
Phật, nhưng có đủ mười nghĩa: 1- Chỉ một Diệu âm vốn là một Phạm âm; 2- Nghe rộng khắp tất cả vốn là xứng với pháp tánh; 3- Một âm thanh này tức là nhiều âm thanh vốn là Sự-Lý dung thông; – Mỗi một âm thanh ấy rưới nhiều làn mưa pháp; 5- Pháp ấy đều đầy đủ tất cả văn từ; – Đều giống như âm thanh của tất cả chúng sinh; 7- Âm thanh này tất cả đều rộng khắp tất cả mọi nơi; – Pháp đã thuyết ra đều hiển bày về lý của tánh thanh tịnh; – Đều khiến cho tất cả mọi nơi được thấy nghe; 10- Tất cả đều đạt được lợi ích cứu cánh. Mười nghĩa trên đây, từ một Diệu âm mà lần lượt chuyển tiếp tách ra, đầy đủ mười Vô tận mới nói là Viên âm, ở nơi văn có thể thấy.
Tiếp là bốn kệ ca ngợi về đức hiện thân vô ngại của Phật: Kệ một là nói về lực của Giải thoát, bởi vì hiện rõ nơi chốn tường tận rộng khắp; kệ hai là nói về lực của Pháp thân, bởi vì hiện tướng ngay nơi rỗng không; kệ ba-kệ bốn dùng đức của Bát-nhã để phát triển nội dung của kệ trước. Kệ ba là giải thích hai câu sau, nói đến ảnh tượng là hiển bày vốn không có phương hướng nơi chốn, nghĩa là ánh sáng ở phía Đông thì hình ảnh ở phía Tây, ánh sáng ở phía Tây thì hình ảnh ở phía Đông. Sắc chất hướng về thì hình ảnh phát sinh, đến mà không có nơi bắt đầu; sắc chất tàn lụi thì hình ảnh không còn, đi mà không có nơi cuối cùng. Vì vậy ảnh tượng này tức là trống rỗng-không có Thể. Kệ bốn là giải thích hai câu trước, nói về như hư không là bởi vì không có thể giữ lấy…, cho nên tuy hiện rõ hình tướng mà giống như bóng trăng trong nước, bình đẳng như hư không.
Sau là ba kệ ca ngợi về đức thần biến tự tại của Phật: Kệ một là nói về lỗ chân lông dung chứa rộng rãi; kệ hai là nói về nguyện có thể rộng khắp mọi nơi; kệ ba là nêu ra ít so với nhiều. Vả lại, trên đây sơ lược phối hợp mười câu, trong đó có đủ bốn mươi câu, ý không thể nào nêu ra đầy đủ.
Sáu: Trong phần kết luận nối thông đến vô cùng, văn phân hai: 1- Nêu ra phương này; 2- Từ “Ưng tri…” trở xuống là giống như phương kia. Nói đến thế giới hệ (Tứ thiên hạ), là ý thuộc về Diêm-phù-đề, lời tổng quát mà ý riêng biệt; đã dùng Bồ-tát vân tập để kết luận nối thông, càng hiển bày về sự ca ngợi trên đây, là Bồ-tát ở mười phương ấy. Phần phương tiện xa, xong.
Phẩm thứ ba: PHỔ HIỀN TAM MUỘI
(Đi vào phần đầu của quyển thứ bảy trong kinh)
Đi vào giải thích phẩm này, có bốn môn giống như trước:
A. Ý ĐƯA RA: Trước là Đại chúng đã quy tụ, ánh sáng nêu ra bậc Pháp chủ; nay sắp thuyết pháp, vì vậy bậc Pháp chủ nhập định, được gia hộ làm phương tiện gần, cho nên tiếp tục đưa ra.
B. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Phổ Hiền là trình bày về người thuyết pháp, bởi vì thuyết giảng về pháp rộng lớn; Tam-muội là nghiệp dụng, bởi vì không chứng thì không nói ra. Đây là người và pháp hợp lại để nêu ra. Tam-muội của Phổ Hiền, cũng bởi vì Tam-muội này là Phổ Hiền vốn có. Vả lại, cảnh giới của Tam-muội gọi là Phổ Hiền, bởi vì tất cả Như Lai Tạng thân là Phổ Hiền, ở đây thì Phổ Hiền tức là Tam-muội, chọn lấy những Định khác. Nếu dựa theo phẩm Phổ Hiền Tam Muội Uy Đức Thần Biến trong bản tiếng Phạn, thì uy đức thần biến đều là Dụng của Định, thâu nhiếp Dụng thuận theo Thể, chỉ nói là Tam-muội. Bởi vì từ trước đến sau ca ngợi về ánh sáng của Phật gia hộ đều nhờ vào Định, cho nên Hội khác nhập Định được gia hộ-xuất Định liền thuyết giảng, cùng làm một phẩm. Nay phẩm này tách ra, văn nhiều-nghĩa rộng vốn là khuyến khích tu học. Nói về nghĩa rộng, bởi vì kiến lập hạnh nguyện của Phổ Hiền, cho nên phẩm này dựa vào tướng thô còn lại, mà nói đến bốn loại giống nhau-sáu loại khác nhau. Nói về bốn loại giống nhau, đó là nhập Định-an trú-gia hộ-xuất Định (Nhập-trú-gia-xuất). Nói về sáu loại khác nhau: 1- Số lượng khác nhau, bởi vì Hội khác nhập Định-xuất Định chỉ có một, Hội này nhập Định-xuất Định đều có nhiều; 2- Chủng loại khác nhau, bởi vì chủng loại ở những phương khác; 3- Lợi ích khác nhau, bởi vì xuất Định làm lợi ích cho nhiều người; 4- Ca ngợi ánh sáng khác nhau, bởi vì ca ngợi ánh sáng nơi lỗ chân lông của Như Lai; 5- Chúng thưa thỉnh khác nhau, bởi vì từ Định đứng dậy rồi chờ đợi Đại chúng thưa thỉnh; 6- Tướng chứng khác nhau, bởi vì Hội khác đến cuối kinh mới có tướng chứng, phẩm này làm lợi ích rồi lập tức mặt đất rung động-cuộn mây rưới mưa… Hai loại ở Thập Địa tuy có mà không đầy đủ sáu loại, nay ở đây có đủ sáu loại cho nên tách ra lập thành Phẩm, bởi vì Phẩm này nói về quả-còn lại đều là nhân. Lại vốn là căn bản-tổng quát của các Hội, bởi vì Hội thứ bảy-tám-chín tuy là Định thuộc quả, mà thuyết giảng bao gồm nhân quả, cho nên không phải là tổng quát.
C. TÔNG THÚ: Nhập Định thuộc pháp giới được chư Phật khắp pháp giới gia hộ làm Tông, khiến cho Đại chúng khắp pháp giới thành tựu về đức của pháp giới làm Thú; hướng về phẩm sau, cũng nói đến Thế giới hải làm Thú.
D. GIẢI THÍCH VĂN: văn có sáu phần: Một: Phần nói về Tammuội; Hai: Phần nói về gia trì; Ba: Phần rời khỏi Định; Bốn: Phần nói về tác chứng; Năm: Phần ca ngợi về đức của ánh sáng nơi mảy lông; Sáu: Phần Đại chúng nói kệ ca ngợi thưa thỉnh.
Một: Phần nói về Tam-muội, có hai: 1- Trình bày về nhập Định ở thế giới này; 2- Tương tự nối thông với mười phương.
Ngay trong phần 1 phân ba: a- Nương theo uy lực nhập Định; bLàm sáng tỏ tên gọi của Định; c- Trình bày về Thể-Dụng của Định.
Phần a có sáu: Một: Thời, lúc nói kệ xong. Hai: Chủ, hiển bày về đức rộng khắp của Phật, vốn chỉ có Phổ Hiền. Ba: Xứ, dựa vào Như Lai, bởi vì thường ở trước Phật. Bốn: Pháp tòa đã dựa vào, kinh Đại Tập nói: “Bởi vì Bồ-tát đạt được Đà-la-ni Liên Hoa, cho nên ở nơi thuyết pháp đều có hoa sen, biểu thị cho tự tánh vô nhiễm của Tam-muội đã tiến vào hàm chứa pháp thuộc quả.” Năm: Nhân đã dựa vào, là bởi vì đã tiến vào sâu rộng thì cần phải nương theo uy lực. Sáu: Chính thức tiến vào Tam-muội cho nên tâm và cảnh sâu xa.
Phần b từ “Thử Tam-muội…” trở xuống là làm sáng tỏ tên gọi của Định. Tỳ-lô Giá-na trước đây đã giải thích mở rộng. Lại có người giải thích rằng: “Rộng lớn-phát sinh và ngừng lại, đầy đủ ba nghĩa này gọi là Như Lai Tạng thân; thân tức là Thể, là nơi nương tựa.” Ở đây có hai loại: Một là do tu mà thành; hai là tánh vốn có. Tánh vốn có thì phàmThánh đều thành tựu, do tu mà thành thì chỉ riêng chư Phật mới có. Chư Phật mới có, bởi vì Từ Bi vô biên cho nên gọi là Quảng, Trí tuệ vô thượng cho nên gọi là Đại, tướng sinh đã hết cho nên nói là Sinh Tức. Kinh Niết Bàn nói: “Thường trú mà lìa xa có cho nên gọi là Như Lai, hàm chứa thâu nhiếp vạn đức thì gọi là Tạng thân, tức là Pháp thân ra khỏi ràng buộc.”
Nói tánh vốn có, đó là ngay nơi Tạng thức bao hàm chủng tử, kiến lập những nẽo sinh ra cho nên gọi là Quảng; Bổn giác hiện lượng cùng với Phật như nhau, cho nên gọi là Đại; nối tiếp nhau sinh ra, cho nên gọi là Sinh; nhiễm-tịnh-khổ-vui vốn không có thể lay động, cho nên gọi là Tức. Ngay nơi Pháp thân trên đây còn trong ràng buộc gọi là Tạng, nghĩa là Không-Bất Không; Không là chủ động cất giữ (Năng tạng), bởi vì cất giữ không trống rỗng (Bất Không). Nếu dùng nghĩa Quang minh biến chiếu để giải thích về Tỳ-lô Giá-na, thì Tỳ-lô Giá-na tức là Đại Trí
có thể quán sát, Như Lai Tạng thân tức là Lý sâu xa đã quán sát, tất cả tuy là Lý mà có trí Phật mới soi chiếu. Vả lại, Tỳ-lô Giá-na cũng bao gồm Bổn hữu, hiểu biết chân thật về Bổn hữu vốn là nghĩa về soi chiếu khắp nơi pháp giới. Đây chính là Bổn giác mê mờ mà không nhạn biếtkhông đạt được Dụng ấy, chỉ có Phật giác ngộ điều này có thể không có gì không làm, cho nên nói là tất cả chư Phật, chọn ra không phải phàm phu, cũng không phải là nhân, hiển bày về y-chánh lìa xa Như Lai Tạng không có tự Thể riêng biệt, cho nên tiến vào nơi này.
Hiền Thủ giải thích rằng: “Chư Phật có khắp tất cả, tức là hiển bày về chư Phật luôn luôn có trong vô số quốc độ khắp nơi pháp giới, và trong mảy trần ấy vốn có các quốc độ, trong mảy trần của các quốc độ lại có các quốc độ, như vậy trùng trùng không thể cùng tận.”
Nói về Như Lai Tạng thân, là trình bày ngay nơi thân này rộng khắp quốc độ, dung chứa tất cả vô số quốc độ khắp nơi pháp giới, tất cả đều ở trong thân Như Lai, cho nên gọi là Tạng thân. Vì thế cho nên dung thông toàn bộ có bốn câu: 1- Thân rộng khắp vô số quốc độ; 2- Quốc độ ở trong thân; 3- Thân rộng khắp quốc độ trong thân; 4- Quốc độ hòa vào thân trong quốc độ khắp nơi. Ngay bên trong-ngay bên ngoài, y-chánh tự nhiên dung thông, không có gì chướng ngại, là do Tam-muội này mà làm ra, cho nên dùng làm tên gọi. Muốn thuyết giảng về pháp này, cho nên nhập Định ấy.
Phần c từ “Phổ nhập…” trở xuống là trình bày về Thể-TướngDụng của Định. Tướng-Dụng của Định này vô lượng vô biên, tất cả đều dựa vào Như Lai Tạng mà nói. Sơ lược đưa ra nội dung quan trọng, câu thì có mười ba, môn lại có mười. Dùng hai môn sau thu nhận năm câu, cho nên thâu nhiếp làm sáu cặp. Bởi vì hai môn sau đều có một cặp, do đó văn có bốn tiết, mà nghĩa chỉ có ba, đến văn sau sẽ trình bày. Nói về sáu Cặp:
1. Hai câu đầu trình bày một cặp về Thể-Dụng, đó là Trí vô phân biệt-chứng Tánh bình đẳng, dùng làm Thể của Định. Ảnh hiện pháp giới là Dụng thù thắng, nghĩa là dùng tánh thuộc Trí tuệ (Nhân nhân tánh) mà chứng được tánh của nhân ấy, thành tựu tánh của quả ấy mà hiển bày về tánh thuộc Vô thượng Đại bát Niết-bàn (Quả quả tánh). Như vậy Phật tánh thì đầy đủ bảy nghĩa: Một là Chân, hai là Thật, ba là Thiện, bốn là Thường, năm là Lạc, sáu là Ngã, bảy là Thanh tịnh. Tánh của chúng sinh và Phật gốc-ngọn không khác nhau, huống gì quả Phật, quả lẽ nào không bình đẳng hay sao? Tánh bình đẳng của Phật tức là
Như Lai Tạng, vì thế cho nên chỉ tiến vào Như Lai Tạng thân, tức là đã tiến vào tánh bình đẳng của Phật. Đây là môn Khế hợp Phật tánh. Nói đến Dụng thù thắng, tức là nêu ra môn thuộc về các Ảnh tượng, nghĩa là có thể hiện bày-có thể phát sinh Thân-Độ phỏng theo Trí.
2. Hai câu tiếp là một cặp về Thâm-Quảng (sâu-rộng), rộng là vô biên, bởi vì không thuộc về trong-ngoài; lớn là vô thượng, bởi vì phạm vi chân thật đến cuối cùng; vô ngại là bởi vì không có gì ngăn ngại, giống như hư không. Thành tựu ba nghĩa trên, gồm chung làm môn Quảng đại vô ngại; câu sau tức là môn Nhập pháp hải hoàn phục (dòng nước xoáy), Hoàn tức là Thâm (sâu).
3. Có hai câu là một cặp về Xuất-Nạp (phát ra-thâu vào), đầu là môn Xuất sinh Tam-muội, nghĩa là hoặc Tự tướng hay là Cọng tướng…, tất cả Tam-muội để từ đây mà sinh ra, bởi vì đây là căn bản của các Định; sau là môn Nhiếp thọ pháp giới, bởi vì cuối cùng quy về nơi này, vốn là Thể tánh của pháp giới.
4. Có hai câu là một cặp về Cảnh-Trí, câu đầu là môn Năng thành Phật trí, nghĩa là không hiểu rõ lý này bởi vì không phải trí Phật; câu sau là môn Thị hiện chư cảnh. Nhưng nói đến an lập thì tổng quát có ba loại: Một là thế giới an lập về Y báo, hai là Thánh giáo an lập về Diệu nghĩa, ba là Quán trí an lập về Đế tướng, đều là Pháp giới tạng hiển thị rõ ràng trước mắt.
5. Có hai câu, tức là môn Y-Chánh hàm dung, là một cặp về NộiNgoại hàm dung, nghĩa là bên trong hàm chứa Trí lực về nhân quả, bên ngoài khiến cho mảy trần dung nạp pháp giới, bởi vì mảy trần hoàn toàn dựa vào Pháp giới tạng mà hiện bày, vốn cùng chung Chân tánh.
6. Có ba câu, tức là môn Thành tựu nhiếp trì, là một cặp về Thành trì-nhân pháp (Pháp do con người duy trì mà thành tựu), nghĩa là đầu do Đại nguyện-công đức của con người mà thành tựu quả, sau là duy trì Pháp luân khiến cho không đoạn tuyệt, nhờ vào lý sâu xa này mà Pháp nhãn luôn luôn đầy đủ.
Trên đây nói về bốn Tiết: Đầu là bốn câu trình bày về không có u tối nào mà không tiến vào, giải thích về nghĩa soi chiếu khắp nơi của Tỳ-lô Giá-na trước đây. Tiếp là bốn câu nói về không có đức nào mà không phát sinh, giải thích về nghĩa của Tất cả chư Phật trước đây. Tiếp là hai câu nói về trong-ngoài hàm chứa dung nạp, giải thích về nghĩa của Tạng trước đây. Sau là ba câu nói về thành tựu đức duy trì pháp, giải thích về nghĩa của Thân trước đây.
Nói về Nghĩa chỉ có ba, đó là Thể-Tướng-Dụng, tiến vào tánh bình đẳng là Thể của Định, rộng lớn giống như hư không là Tướng của Định, còn lại đều là Dụng của Định. Ba nghĩa này viên dung, toàn bộ là Tam-muội Phổ Hiền vô ngại.
Phần 2 từ “Như thử…” trở xuống là tương tự nối thông với mười phương và vô số các thế giới (Trần đạo), trong đó có hai: Đầu là nêu ra thế giới này; sau từ “Như thị…” trở xuống là tương tự những thế giới kia.
Trong phần tương tự những thế giới kia, có hai: a- Trình bày về bình đẳng rộng khắp pháp giới; b- Trình bày về trùng điệp vô tận.
Trong phần a có mười một câu: Một câu đầu là tổng quát trình bày, nghĩa là tận cùng pháp giới; mười câu sau là riêng biệt chỉ ra để làm sáng tỏ đến tận cùng: 1: Tận cùng hư không pháp giới; 2: Tận cùng nơi chốn mười phương ở trong hư không; 3: Tất cả thời gian ba đời ở trong mười phương; 4: Nơi vật vi tế ở trong ba đời, đó là đầu mảy lông…; 5: Tất cả mọi nơi nhỏ bé không ngăn ngại; 6: Hoặc ở nơi rộng lớn trăm ngàn do tuần…; 7: Ở nơi người-trời, ánh sáng của mặt trời-mặt trăng…; 8: Tận cùng nơi chốn mà Phật nhãn nhìn thấy; 9: Tận cùng nơi chốn mà thần lực đến được; 10: Ở nơi mà thân Phật có thể hiện bày. Câu thứ 10 này có hai nghĩa: Một là kết luận nói về quốc độ trên đây, nối thông với mười một đoạn; hai là thành tựu về sau, bởi vì quốc độ trong thân này vốn là vi tế.
Trong phần b từ “Cập thử…” trở xuống là trình bày về trùng điệp vô tận, sơ lược có bốn lớp: 1: Tận cùng vi trần khắp pháp giới, nói cho đến quốc độ này, là chỉ ra quốc độ ở mười nơi chốn trước đây; 2: Nhiều quốc độ trong vi trần; 3: Nhiều Phật trong quốc độ; 4: Trước mỗi một vị Phật có nhiều Phổ Hiền. Ở những nơi chốn trên đây đều tiến vào Định này, cho nên thân của Phổ Hiền không phân ra thô tế mà có khắp mọi nơi, sâu rộng tròn đầy trùng điệp. Ở nơi này tiến vào Định, tương tự nối thông đã như vậy; khắp pháp giới tiến vào Định, tương tự nối thông cũng như vậy. Do đó, dựa theo Định của Chủ, trước Phật chỉ có một Phổ Hiền, bởi vì tất cả là một. Nếu dựa vào tương tự nối thông, thì trước Phật đều có trần số, bởi vì một là tất cả.
Hai: Từ “Nhĩ thời nhất nhất…” trở xuống là phần nói về gia trì, có ba: Đầu là gia hộ bằng miệng, tiếp là gia hộ bằng ý, sau là gia hộ bằng thân.
Trong phần đầu có bốn: 1- Chư Phật hiện rõ trước mắt, bởi vì ở đây gia hộ bằng miệng, về sau không có kết luận nối thông, cho nên ở đây tổng quát nêu ra thời gian-nơi chốn trùng trùng, đều ở trước mỗi một Phổ Hiền. 2- Từ “Bỉ chư…” trở xuống là ca ngợi về đạt được Định ấy, đây tuy là Định thuộc quả, nhưng mà tiến vào môn của Bồ-tát, cho nên nói là Tam-muội của Bồ-tát. 3- Từ “Phật tử…” trở xuống là trình bày về nguyên cớ đạt được Định, nguyên cớ có ba: a- Phật bạn cùng nhau gia hộ, bởi vì đạo của Phật và Phật giống nhau; b- Bổn nguyện của Phật chủ. Hai nguyên cớ này làm duyên. c- Hạnh nguyện tự mình tu tập là nhân của nhập Định. Lại ba nghĩa trên, những nghĩa trước nhờ vào những nghĩa sau, còn lại lẽ nào không có hạnh này hay sao? Bởi vì pháp môn chủ, bởi vì biểu thị cho thuyết giảng về tất cả các pháp. 4- Từ “Sở vị…” trở xuống là phân rõ về gia hộ bằng việc đã làm. Văn này có hai xu thế: Một là phân rõ về gia hộ bằng việc đã làm; hai là hiển bày về tướng của hạnh nguyện nói trên, cho nên nói là việc đã làm. Việc đã làm là nói đến điều gì, đó là Chuyển pháp luân.
Văn có mười một câu: Một câu đầu là tổng quát, còn lại là riêng biệt.
Trong riêng biệt, một câu đầu là tổng quát thâu nhiếp mười Trí, chín câu còn lại tức là nói về mười Hải: 1: Tức là An lập hải; 2: Tức là Chúng sinh hải và Nghiệp hải; 3: Tức là Thế giới hải; 4: Tức là Phật hải; 5: Tức là Danh hiệu hải-Thọ lượng hải và Giải thoát hải, bởi vì Đại Dụng của biến hóa đều là công đức; 6: Tức là Ba-la-mật hải, đạt đến bến bờ của Thật tướng; 7: Tức là Chuyển pháp luân hải; 8: Tức là Căn hải; 9: Tức là Diễn thuyết hải. Cùng với mười Trí sau khiến cho nhận biết về mười câu này.
Phần tiếp từ “Nhĩ thời…” trở xuống là trình bày về gia hộ bằng ý, trong đó có hai: Trước là nói về gia hộ; sau là giải thích.
Trong phần trước cũng có hai: Một: Nói về quốc độ này; Hai:
Tương tự nối thông với nhau.
Trong phần một là trao cho mười loại Trí: Đầu là một câu tổng quát, nghĩa là trao cho Trí về Quả hải, mà nói trao cho, là bởi vì Phật lực tưới vào khiến cho tăng trưởng. Tánh của Nhất thiết trí tức là Quả hải, tánh của Trí tức là Lực bởi vì không có khuynh động, vốn đầy đủ mười Lực, chữ Trí cuối cùng tức là có năng lực tiến vào. Chín câu còn lại là riêng biệt, tức là mười Trí trong phẩm Thế Giới Thành Tựu. Bởi vì trao cho Trí này, cho nên sau đó có thể thuyết giảng về Trí ấy, quán sát về mười Hải ấy, mà văn có phần nào không theo thứ tự: 1: Tức là Trí thứ ba về Pháp giới an lập hải, bởi vì an lập không có ranh giới-hạn lượng. 2: Tức là Trí thứ tư về Phật hải, Phật hải chỉ là cảnh thuộc phạm vi giới hạn của Phật. 3: Tức là Trí thứ nhất. 4: Tức là Trí thứ hai, về Chúng sinh hải và Nghiệp hải, nhân của nghiệp vi tế cho nên nói là rộng lớn. 5: Hàm chứa hai câu, một tức là Trí thứ tám về Thần biến hải của Phật, tác dụng của giải thoát tức là thần biến, thần biến dựa vào Định gia hộ mà nói là Tam-muội; hai là hàm chứa Trí về ba đời, văn sau nói một niệm nhận biết ba đời, nhờ vào Lực giải thoát không thể nghĩ bàn của Phật, bởi vì câu tổng quát nói về gia hộ cho nên hai câu này hợp lại. 6: Tức là Trí thứ năm. 7: Tức là Trí thứ chín. 8: Tức là Trí thứ bảy về Nguyện hải, bởi vì Nguyện lực cho nên tiến vào tất cả thế giới trong pháp giới. 9: Tức là Trí thứ mười về Kiến lập diễn thuyết hải. Vả lại, căn của Bồ-tát lại có nhiều nghĩa, tu mười thiện đạo có ba thiện căn, tu các Độ của Địa thì Tinh tiến làm căn, thâu nhiếp tiếp nhận Chánh pháp thì Tín-Tuệ làm căn, thâu nhiếp nuôi dưỡng chúng sinh thì Từ Bi làm căn, để thành tựu Phật đạo thì Bi-Trí làm căn, đủ loại sai biệt mà khéo léo nhận biết.
Phần hai từ “Như thử…” trở xuống là tương tự nối thông, có thể biết.
Sau từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là giải thích về nguyên cớ, có hai: Một là nêu ra, ý nói rằng chư Phật có Lực có thể trao cho, có Từ có thể phủ khắp, vì sao mười Trí chỉ gia hộ cho Phổ Hiền? Giải thích rằng: Phổ Hiền đạt được Tam-muội này, pháp vốn như vậy cần phải trao cho.
Trong phần sau từ “Thị thời…” trở xuống là gia hộ bằng thân, cũng có hai: Đầu là nói về quốc độ này; sau từ “Như thử…” trở xuống là tương tự nối thông với nhau.
Trong phần đầu lại có hai: Một: Tay của Phật xoa lên đỉnh đầu, trình bày về gia hộ thâu nhiếp tiếp nhận vị ấy. Lại dựa theo bản tiếng Phạn, trình bày về thân của chư Phật mười phương đều không đi đến quốc độ này, duỗi cánh tay không cần phải dài, mà cùng lúc xoa lên đỉnh đầu, tất cả đều chạm vào đỉnh đầu nhưng không trở ngại lẫn nhau, đều là nghiệp dụng tự tại của Như Lai. Hai: Từ “Kỳ thủ…” trở xuống là phân rõ về Tướng-Dụng của bàn tay Phật, trong đó có mười câu, để hiển bày về Vô tận: Năm câu trước là đức tướng tròn vẹn đầy đủ, đó là thon-nhỏ-thẳng…, cho nên nói là tướng hảo trang nghiêm; sau từ “Phục xuất…” trở xuống là năm câu trình bày về Diệu Dụng tự tại, ý trình bày về bàn tay này vươn dài đến mười phương mà bao quát ba đời, thu nhận nhân quả mà đầy đủ con người và pháp, Thể-Dụng sâu rộng tự tại vô biên, không phải ngôn từ có thể giải thích được.
Sau là tương tự nối thông với nhau, có thể biết.
Ba: Từ “Nhĩ thời…” trở xuống là phần rời khỏi Định, bởi vì những việc làm đã xong, trong đó có hai: Đầu là nói về quốc độ này; sau là tương tự nối thông với mười phương.
Trong phần đầu cũng có hai: 1- Rời khỏi Định; 2- Đại chúng được lợi ích.
Trong phần 1 cũng có hai: a- Rời khỏi Định chủ; b- Rời khỏi Định quyến thuộc.
Trong phần b cũng có hai: Một là tổng quát, đó là một rời khỏi Định thì tất cả rời khỏi Định, bởi vì Định vi diệu này, tức là tất cả Tammuội hải; những Định khác là môn đều hòa vào Định này, những Định ấy hoàn toàn giống như Định này, cũng được gọi là Hải. Hai từ “Sở vị…” trở xuống là riêng biệt phân rõ, trần số đã nhiều, sơ lược nêu ra mười loại: 1: Tức là Tam-muội thuộc Trí chủ động (Năng) nhận biết, nghĩa là không có một niệm nào sai khác, cho nên nói là niệm niệm không có sai khác, mà không rời bỏ nhận biết khắp nơi là Trí thuộc phương tiện khéo léo. 2: Tức là trần cảnh thụ động (Sở) nhận biết. Chủ độngthụ động trên đây làm một cặp. 3: Hiện bày quốc độ rộng lớn. 4: Hiện bày nơi chốn cư trú. Tức là tổng quát-riêng biệt đối với thế giới làm một cặp. Kinh Lăng Già nói: “Như Lai Tạng thức, lập tức hiện bày tất cả Thân khí, và các Thọ dụng; Khí tức là quốc rộng lớn, Thọ dụng tức là nhà cửa.” 5: Nhận biết về sự sai biệt của tâm niệm. 6: Nhận biết về tên gọi của thân tướng. Tức là sắc-tâm của chúng sinh làm một cặp. 7: Nhận biết về nơi chốn rộng lớn. : Nhận biết về thân rộng lớn. Tức là Y-Chánh làm một cặp. Tuy nói vi trần, mà ý làm sáng tỏ về Phật rộng lớn như hư không, không có giới hạn, nơi nào có chúng sinh thì hiện bày, chỉ riêng Như Lai Tạng là thật có chúng sinh. Dựa vào đây kiến lập xứ sở khác nhau, tùy theo hạnh của Bồ-tát mà quốc độ có tịnh-uế, tùy theo nghiệp của chúng sinh mà hướng về chủng loại khác nhau. Phật trong vi trần lại có một nghĩa, đó là Như Lai Tạng là thân của Chân Phật. Thể ấy rộng lớn không thể nào nhận biết, là luôn luôn thuộc về loại thứ -thứ 7. Trong vi trần, mỗi một hữu tình đều có Tạng thức, cho nên nói là đều có thân to lớn vô biên. 8: Thuận theo nhận biết về Lý thú của tất cả các pháp, là tám loại trên đây dựa theo Sự riêng biệt để hiển bày về môn riêng biệt, ở đây dựa theo Lý thú đầy đủ toàn bộ các pháp, cho nên nói là tất cả.
Trong kinh Đại Bát Nhã, ở phần Lý Thú nói: “Các pháp đều Không, không có sinh-không có diệt, không có tánh thuộc tự tánh, lìa xa tất cả các tướng, không thể nào mong cầu, nhưng Đệ nhất nghĩa thì trong lặng thường trú.” Nên biết chính là Như Lai Tạng này.
Kinh Tư Ích nói: “Khắp nơi tránh Không, đều không tách rời Không.”
Kinh Giải Thâm Mật nói: “Lý thú có sáu: 1- Lý thú thuộc về nghĩa chân thật, đó là hai chướng thanh tịnh, do Trí mà thực hành chân thật. 2- Lý thú thuộc về chứng đắc, đó là đạt được nhận biết như thật đối với nghĩa chân thật. 3- Lý thú thuộc về giáo hóa dẫn dắt, đó là tự mình chứng rồi khai thị cho chúng sinh. Ba loại này là căn bản, ba loại sau là giải thích. 4- Lý thú thuộc về lìa xa hai bên, đó là có người hỏi rằng:
Thế nào gọi là Lý thú thuộc về nghĩa chân thật? Nên trả lời với họ rằng: Không phải có-không phải không có, không phải Thường-không phải Đoạn. 5- Lý thú thuộc về không thể nghĩ bàn, đó là có người hỏi rằng: Thế nào là chứng đắc? Nên trả lời với họ rằng: Đó là không thể nghĩ bàn, nếu xa lìa hý luận đối với các pháp, thì lúc bấy giờ chứng được tánh thuộc nghĩa thù thắng chân thật, cho nên biết rằng ngôn thuyết đều không phải là nghĩa chân thật. 6- Lý thú thuộc về tùy theo sự ưa thích của chúng sinh, đó là có người hỏi rằng: Thế nào là giáo hóa dẫn dắt? Nên trả lời với họ rằng: Tùy theo ý thích khác nhau của các chúng sinh, thuận theo mong muốn của họ mà phương tiện khai thị.”
Nghĩa chân thật ở kinh ấy tức là Tạng thân ở kinh này, không thể nghĩ bàn ở kinh ấy tức là Tam-muội ở kinh này. Bồ-tát Vô Trước nói về bốn loại Ý thú, giải thích tất cả các kinh cũng là Lý thú, như Nhiếp Luận phân rõ. Chín câu trên đây, chỉ có câu thứ 3-thứ từ Lý mà được tên gọi, bảy câu còn lại đều thuận theo pháp đã nhận biết là thiết lập tên gọi. Những loại như vậy, có số lượng như vi trần trong tất cả Thế giới hải, hợp lại làm một Định, thì biết rằng Định này là tất cả các Định.
Phần 2 từ “Phổ Hiền…” trở xuống là Đại chúng được lợi ích, trong đó có hai: Đầu là nêu ra thời gian được lợi ích, cũng là nguyên cớ đạt được lợi ích; sau từ “Kỳ chư…” trở xuống là chính thức trình bày về đạt được lợi ích. Theo số giảm mà nói có chín: Năm câu đầu là đạt được pháp môn của Bồ-tát, mỗi câu có một nghĩa, đều bởi vì Định trước hàm chứa các nghĩa này; lại năm câu này, thì những câu sau thành tựu cho những câu trước. Bốn câu sau là đạt được pháp của quả Phật, tức là ba nghiệp của Như Lai: Một-Đạt được Thật trí của Tạng thân soi chiếu; hai-Đạt được Quyền trí thuộc Lực dụng của Tạng thân; ba-Mảy lông nơi thân hiện bày quốc độ; bốn-Thị hiện tám tướng, nghĩa bao gồm miệng chuyển, cũng bởi vì Tạng thân hàm chứa nghĩa này. Phổ Hiền xuất Định làm cho người khác lợi ích, là bởi vì đạo cảm ứng đan xen nhau. Như mùa Xuân cây cối đâm chồi nảy lộc, dương khí đã đầy đủ, gió Xuân vừa lướt nhẹ qua thì trăm hoa đều nở rộ; các chúng Bồ-tát tích chứa pháp thiện đã sâu dày, hạnh nguyện đã giống nhau, vừa mới ngắm nhìn cảnh thù thắng, thì vạn đức lập tức tròn vẹn. Sâu kín và hiển lộ cùng giúp đỡ, có điều gì không thích hợp?
Sau từ “Như thử…” trở xuống là tương tự nối thông với mười phương, có thể biết.
Bốn: Từ “Nhĩ thời…” trở xuống là phần Hiện tướng tác chứng: Như vậy đạt được lợi ích thì tâm hoan hỷ, tâm hoan hỷ thì mặt đất rung động và xuất hiện những điềm lành. Ở các Hội nghe xong thì đạt được lợi ích, cho nên phần Hiện tướng ở sau. Hội này tuy là chưa nghe mà trước đã đạt được lợi ích, cho nên trước phải hiện rõ điềm lành, bởi vì Hội này phân rõ về quả, hiển bày về thù thắng. Trong văn có bốn: 1Thế giới rung động nhẹ, bao gồm nguyên nhân xuất hiện điềm lành, nhờ vào hai lực của nhân quả; nói rung động nhẹ, bởi vì là tướng đầu tiên. 2- Những vật báu trang nghiêm. 3- Phát ra âm thanh thuyết pháp. 4- Phật hội tụ rưới mưa vật báu. Sơ lược nêu ra mười loại để hiển bày về Vô tận: Ba loại trước là vật báu thuộc về Sự tướng, bảy loại sau là vật báu thuộc về Pháp hóa truyền bá lưu thông, đều là từ thiện căn xuất thế gian mà sinh ra.
Năm: Từ “Phổ vũ như thị thập loại vân dĩ…” trở xuống là phần ca ngợi về đức của ánh sáng nơi mảy lông, trong đó có hai: Đầu là kết thúc phần trước phát khởi phần sau; sau là chính thức hiển bày về lời kệ.
Trong lời kệ có mười tụng, phân ba: Đầu là một kệ tổng quát nói về Định trước đây; tiếp là tám kệ riêng biệt hiển bày về tướng rộng khắp; sau là một kệ kết luận về nguyên cớ ca ngợi.
Trong phần riêng biệt hiển bày, có hai: Hai kệ rưỡi trước là thẳng thắn nói về rộng khắp trước đây; năm kệ rưỡi sau là nêu ra nhân để hiển bày về rộng khắp.
Trong năm kệ rưỡi sau, có hai: Đầu là nửa kệ nói về lực của duyên rộng khắp; sau là năm kệ nói về lực của nhân rộng khắp.
Trong năm kệ sau, có bốn: Một: Kệ đầu nói về ngay nơi Thể mà Dụng cho nên rộng khắp, nửa kệ trước nói về Thể, nửa kệ sau nói về Dụng, thân tướng như hư không là thân Pháp tánh, dựa vào Chân mà trú trong độ Pháp tánh, tùy cơ ứng khắp là hóa hiện Thọ dụng.
Hỏi: Thân-Độ pháp tánh là khác nhau hay không khác nhau? Khác nhau thì không gọi là Pháp tánh, bởi vì tánh vốn không hai; không khác nhau thì không có chủ động nương tựa-thụ động nương tựa. Đáp: Kinhluận nói khác nhau, tất cả thu nhận Pháp thân, sơ lược có mười loại, Độ tùy theo thân mà hiển bày thì chỉ có năm lớp.
1. Dựa vào luận Phật Địa, chỉ dùng pháp giới thanh tịnh mà làm Pháp thân, cũng dùng pháp tánh mà làm Độ ấy, tánh tuy là một vị, tùy theo tướng của Thân-Độ mà phân ra hai loại khác nhau. Trí Luận nói: “Ở trong Trí (Số) hữu tình gọi là Phật tánh, ở trong Trí phi tình gọi là Pháp tánh, Giả thì nói về chủ động-thụ động mà Thật thì không có gì sai biệt.” Luận Duy Thức nói: “Tuy Thể của Thân-Độ này không có gì sai biệt, mà thuộc về tánh-tướng khác nhau của Phật-Pháp, nghĩa là Pháp tánh thuộc về Phật là thân Pháp tánh, Pháp tánh thuộc về Pháp là độ Pháp tánh, tánh tùy theo tướng mà khác nhau, cho nên nói là như vậy.” Nay nói như hư không, luận Duy Thức nói: “Thân-Độ này đều không phải là Sắc thâu nhiếp, tuy không thể nói về hình lượng lớn-nhỏ, nhưng tùy theo sự tướng mà lượng ấy không có giới hạn, ví như hư không rộng khắp tất cả mọi nơi, cho nên nói như hư không là bao gồm dụ cho ThânĐộ.”
2. Hoặc chỉ riêng Đại Trí mà làm Pháp thân, Chân Như đã chứng làm độ Pháp tánh. Vô Tánh Nhiếp Luận nói: “Trí vô nhiễm-vô quái ngại làm Pháp thân. Nếu như vậy thì tại sao nói là Tướng như hư không? Bởi vì Thể của Trí vô ngại giống như hư không.”
3. Cũng là Trí-cũng là Như mà làm Pháp thân, Lương Nhiếp Luận và kinh Kim Quang Minh đều nói: “Chỉ có Như Như và Trí Như Như tồn tại một mình, gọi là Pháp thân.” Đây là Thân hàm chứa Như-Trí, Độ thì chỉ có Như.
4. Cảnh-Trí cùng phai mờ mà làm Pháp thân, kinh nói: Pháp thân của Như Lai, không phải tâm-không phải cảnh, Độ cũng tùy theo như vậy. Dựa vào nghĩa này, trong các khế kinh đều nói Thân-Độ của Như Lai không hai. Đây là dựa vào Chân mà nói để hiển bày không có chủ động-thụ động, mới nói là dựa vào Chân mà thành tựu nghĩa như hư không.
5. Bốn câu trên đây hợp lại làm một Pháp thân vô ngại, tùy theo mà nói đều thích hợp, Độ cũng như vậy.
6. Năm câu tổng quát-riêng biệt trên đây, tướng dung thông-hình phai mờ làm mất đi năm thuyết ấy, xa vời không có gì nương nhờ để làm Pháp thân, Độ cũng như vậy. Trên đây chỉ dựa vào Cảnh-Trí để phân rõ.
7. Thâu tóm tất cả năm phần và những công hạnh như Bi nguyện…, hằng sa công đức, tất cả đều là Pháp thân này thu nhận, bởi vì công đức do Tu mà phát sinh nhất định phải chứng lý, cho nên thâu nhiếp dung thông vô ngại. Ngay nơi này mà chứng Thể Đại của Chân Như, làm độ Pháp tánh. Dựa vào nghĩa này thì Thân-Độ khác xa nhau. Nay nói thân tướng tức là các công đức, nói như hư không tức là tánh của thân. Văn sau của kinh cũng nói: Hiểu rõ thân Như Lai không phải như hư không, bởi vì tất cả công đức do vô lượng diệu pháp mà viên mãn.
8. Thu nhận tất cả công đức sắc tướng của Báo thân-Hóa thân, tất cả đều là Pháp thân này thu nhận. Vì vậy trong Nhiếp Luận nói: “Ba mươi hai tướng tốt đều là do Pháp thân thâu nhiếp. Nhưng có ba nghĩa: Một-Tướng tức là Như, cho nên quy về Lý thuộc Pháp thân; hai-Do Trí mà hiện bày, cho nên là Trí thuộc Pháp thân; ba-Ngay nơi tướng đều là pháp thuộc công đức, cho nên gọi là Pháp thân.” Độ đã nương tựa ấy, thì gồm chung tánh-tướng tịnh-uế vô ngại, quốc độ này của Ta thanh tịnh mà ông không thấy, chúng sinh thấy đốt cháy mà Tịnh độ không hủy hoại, Sắc tức là Như, Tướng mà không phải Tướng, Thân-Độ-SựLý nương tựa duy trì đan xen lẫn nhau. Tất cả có bốn câu, đó là Sắc thân dựa vào Độ thuộc Sắc tướng, Sắc thân dựa vào Độ thuộc Pháp tánh, Pháp thân dựa vào Độ thuộc Pháp tánh, Pháp thân dựa vào Sắc tướng. Lại bởi vì Đơn-Song hướng về với nhau, cũng thành ra năm câu, đó là Thân là Sắc tướng dựa vào Độ của Sắc tướng thuộc Pháp tánh…, dựa theo để suy nghĩ. Trên đây hãy còn bao gồm các giáo Đại thừa.
9. Thâu nhiếp tất cả ba loại thế gian, tất cả đều làm một Đại Pháp thân, bởi vì đầy đủ mười Phật. Ba thân… ấy, đều là trí Chánh giác trong này thâu nhiếp, Độ cũng như vậy. Ngay nơi thân như hư không mà thị hiện thân khắp mọi nơi, có gì không đầy đủ, điều này chỉ có Hoa Nghiêm.
10. Trên đây phân ra Quyền-Thật, chỉ có loại thứ thuộc về kinh này. Nếu dựa vào dung thông thâu nhiếp và thâu nhiếp Đồng giáo, thì toàn bộ nghĩa trước làm một câu tổng quát, đó gọi là Thân-Độ vô ngại của Như Lai; Phổ Hiền cũng như vậy, nghĩa tùy theo ẩn kín-hiển bày, không thể nào nói nhiều được. Người thông hiểu tìm văn không phát sinh kiến giải hạn chế.
Trên đây nói Độ có năm lớp: 1: Chỉ riêng Pháp tánh thuộc về ba Thân trước; 2: Cả hai mất đi thuộc về loại thứ ; 3: Có đủ tánh tướng làm chỗ dựa của loại thứ 5-4-7-; 8: Dung thông ba thế gian thuộc loại thứ ; 9: Toàn bộ các nghĩa trước tức là chỗ dựa của loại thứ 10. Hai: Từ “Phổ Hiền an trú…” trở xuống có một kệ rưỡi nói về Đại nguyện cho nên rộng khắp, bao gồm hiển bày về Y báo rộng khắp ở trong Chánh báo, trùng trùng đều rộng khắp. Nay không nhìn thấy, bởi vì cơ duyên không phù hợp, không nhìn thấy tức là bởi vì thân hư không, cũng rộng khắp cho nên không nhìn thấy nơi chốn.
Ba: Có một kệ rưỡi trình bày về pháp thù thắng siêu việt đã hiện bày.
Bốn: Có một kệ nói về quả đức đã đầy đủ mà không rời bỏ môn thuộc về nhân.
Trong phần sau là một kệ kết luận về nguyên cớ ca ngợi, nghĩa là tự tại khó mà suy nghĩ, hiện bày tất cả đều rộng khắp, nêu rõ tiến vào một Định mà thật sự thì qua lại khắp nơi, không phải vầng mây ánh sáng của Phật thì làm sao có thể ca ngợi thuật rõ?
Sáu: Phần Đại chúng nói kệ ca ngợi thưa thỉnh: Trước là Đại chúng thưa hỏi, Phật Phật chỉ rõ bậc Pháp chủ, Đại chúng nhìn thấy từ Định đứng dậy, cho nên ca ngợi thưa thỉnh Phổ Hiền. Trước chỉ là Đại chúng cũ, ở đây bao gồm hai chúng cũ-mới, cho nên nói là tất cả. Bởi vì đã thưa hỏi giống như trước, cho nên chỉ tóm lược nêu ra. Mười tụng phân ba: Đầu là tám kệ ca ngợi về người Chủ để thưa thỉnh, làm sáng tỏ về người có thể thuyết giảng; tiếp là một kệ nêu ra pháp thưa thỉnh, chính là bày tỏ về mối nghi ngờ; sau là một kệ ca ngợi về Chúng thưa thỉnh, trình bày về có căn khí có thể nghe.
Trong phần đầu có hai: Năm kệ đầu ca ngợi về đức sâu rộng thuộc nhân quả của Phổ Hiền, trình bày về có nhân thuyết giảng; ba kệ sau ca ngợi về đức có thể rưới mưa pháp rộng khắp vô số quốc độ, trình bày về có quả thuyết giảng.
Trong năm kệ đầu, mỗi kệ đều có một nghĩa: Kệ một là ca ngợi về Pháp thân thanh tịnh của mình, ba câu trình bày về nhân, một câu trình bày về quả. Nhân có ba nghĩa: 1- Nhờ vào tu tập mà pháp phát sinh, nghĩa bao gồm Duyên nhân và Liễu nhân; 2- Nhờ vào Đại nguyện phát khởi tức là Duyên nhân; 3- Dựa vào Như Lai Tạng mà chứng Chân bình đẳng, đây là Chánh nhân, Chân Như tức là Bất Không, hư không tức là Không Tạng, Bình đẳng cùng với Tạng nối thông với hai nghĩa trên. Kệ hai là ca ngợi về an trú khắp nơi quốc độ Phật, câu thứ ba nói về nhân rộng khắp, còn lại đều nói về tướng rộng khắp. Trong nhân đầy đủ trí trang nghiêm, cho nên có thể bình đẳng soi chiếu đầy đủ công đức trang nghiêm, khiến cho tất cả đều nhìn thấy. Kệ ba là ca ngợi về thân cận Phật. Kệ bốn là ca ngợi về thường trong Định, trong cảnh thật bởi vì không tùy theo tưởng mà chuyển, Tào (bọn, lũ) là Bối (lớp, bọn). Kệ năm là ca ngợi về hóa độ chúng sinh đến cùng, vi trần là nơi nhỏ bé vốn có nhiều chúng sinh.
Trong ba kệ sau là nói về quả thuyết pháp: Kệ một là ca ngợi về thường xuyên thuyết giảng Đại pháp, từ “Như không chi ngôn…” trở xuống là dụ cho rộng lớn, trước là dụ cho Vô tận không có gì khác nhau. Kệ hai là ca ngợi thuyết giảng về pháp Vô đẳng, Vô đẳng có hai: 1- Lực thù thắng có thể thuyết giảng, bởi vì đầy đủ hai trang nghiêm; 2- Đã thuyết giảng về pháp Vô đẳng, bởi vì thuyết giảng về những công hạnh của Phật. Kệ ba là nêu ra nhân để kết luận về quả, hiển bày về đức phát sinh nhờ vào nhân trong vô số kiếp đã tròn vẹn, cho nên có thể cuộn mây rưới mưa mà thuyết pháp.
Trong phần tiếp có một kệ nêu ra pháp thưa thỉnh, phẩm trước đã thưa hỏi tuy có nhiều môn, mà tất cả quy về những điều quan trọng ấy, vốn không có gì vượt qua ba loại thế gian, nay ba câu đều hiển bày về một điều ấy. Lại trước đây thưa hỏi bao gồm toàn bộ các Hội, ở đây vốn khiến cho giải đáp ngay nơi Hội ấy.
Trong phần sau có một kệ ca ngợi về Chúng thưa thỉnh, cũng gọi là tự thuật. Ở đây có hai nghĩa: 1- Nhất tâm cung kính, bởi vì bên trong có thể tiếp nhận giáo pháp; 2- Chư Phật tùy hỷ, bởi vì bên ngoài có duyên thù thắng, vì vậy cần phải thuyết giảng, thuyết giảng thì trên thuận với tâm của Phật, dưới tùy theo mong muốn của chúng sinh.