Đại Phương Đẳng Đại Tập
Hiền Hộ Kinh giảng ký
大方等大集賢護經講記
慈法法師主講
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

(Kinh) Thanh tịnh trì giới trụ phạm hạnh, sở sanh bất niệm chư nữ nhân. Thâm yếm ngũ dục chân Phật tử, nhược năng như thị chứng tam-muội.

()清淨持戒住梵行所生不念諸女人。深厭五欲真佛子若能如是證三昧。

(Kinh: Trì giới thanh tịnh, trụ phạm hạnh, suốt đời chẳng nghĩ các nữ nhân. Chân Phật tử chán sâu ngũ dục. Được như thế, sẽ chứng tam-muội).

Đây là đối với các tỳ-kheo, sa-di, ưu-bà-tắc mà nêu ra pháp tắc. Nếu đối với nữ chúng, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-di sẽ nói ngược lại (suốt đời chẳng nghĩ tới nam nhân), chúng ta phải xét kỹ và quan sát.

(Kinh) Thường hành đại thí bất cầu báo, diệc vô trụ trước hối hận tâm. Nhất xả dĩ hậu bất trùng duyên, duy đương nhiếp niệm tư chư Phật.

()常行大施不求報亦無住著悔恨心。一舍已後不重緣。唯當攝念思諸佛。

(Kinh: Thường bố thí lớn, chẳng cầu báo, cũng chẳng chấp giữ tâm hối hận. Hễ đã xả rồi chẳng nghĩ nữa, chỉ nên nhiếp niệm nghĩ chư Phật).

Đối với bọn phàm phu hữu tình chúng ta mà nói, khẳng định là cần phải có tâm trí mười phần mạnh mẽ thì mới có thể tiếp nhận pháp tắc như thế. Khá nhiều vị cư sĩ phát tâm xuất gia, cũng như đoản kỳ xuất gia, và người xuất gia trường kỳ, thường có cảm giác như sau: “Ngay cả nhà mà ta còn bỏ, há còn có gì để luyến tiếc nữa?” Nhưng quý vị lắng lòng tư duy, hễ gặp các thuận duyên, các nhân duyên khiến cho quý vị hoan hỷ, dễ đắm nhiễm mà có thể quan sát, chẳng dễ dãi mang theo các chủng tử ấy, đối với các chủng tử từ vô thỉ đến nay và các chủng tử từ ý thức hiện duyên trong hiện tại, nếu chúng ta chẳng sợ hãi, “nhất xả dĩ hậu, bất trùng duyên, duy đương nhiếp niệm tư chư Phật” (hễ đã xả rồi, chẳng duyên (nghĩ tưởng) chuyện ấy nữa, chỉ nên thâu nhiếp ý niệm, nghĩ tới chư Phật), thì sẽ là mười phần có ý nghĩa.

“Thường hành đại thí bất cầu báo, diệc vô trụ trước hối hận tâm” (Thường bố thí to lớn mà chẳng cần được báo đáp, cũng chẳng chấp giữ cái tâm hối hận). Đấy thật sự là thiện căn cực lớn, là phước báo cực lớn đã chín muồi, là phước báo cực phong phú, là tâm trí đầy đủ tột bậc. Nói tới “đại thí” mà chẳng cầu được báo đáp chính là đại thí. Nếu đem những thứ trân quý, đáng yêu mến ra bố thí cho các hữu tình nghèo khổ, thiếu thốn, cúng dường Tam Bảo hòng lợi ích thế gian rộng khắp, cho đến cứu tế những chỗ bị tai nạn, chẳng có tâm mong được đền đáp, mà cũng chẳng có tâm hối hận, người ấy phước đức trọn đủ, giống như người thể lực sung mãn, chẳng vì làm chút việc nặng mà bị mệt mỏi, bèn nẩy sanh tâm lý hối hận, sợ hãi. Đó chính là tướng phước đức tràn trề.

“Nhất xả dĩ hậu, bất trùng duyên” (Hễ đã xả rồi, chẳng duyên theo chuyện ấy nữa), “xả” ở đây là bố thí. Chúng ta có thể bố thí các vật hết sức nhiều. Có khi bèn bố thí cho người khác một pháp tắc, một niệm từ bi, so với bố thí tài vật càng khó hơn, vì tài sản vẫn là vật ngoài thân. Đối với chuyện này, tôi lãnh hội mười phần sâu đậm! Có lúc sanh mạng gặp khó khăn chồng chất, đạt được chút ít tương tự pháp ích, khi đó, nếu nói với người khác, sẽ càng có ý tưởng tiếc pháp, từ vô thức mà có ý niệm ấy, thường mượn cớ “chẳng dễ dãi chấp thuận nói cho người khác, kẻ đó chẳng biết trân quý”, chẳng mong nói với người khác. Keo tiếc tài vật, có thể là trong tâm trí của người đời, nhưng cái tâm keo tiếc pháp của người học Phật cũng hết sức dễ dàng xuất hiện! Chẳng hạn như đối với từ bi mà keo tiếc pháp, tức là dùng cái tâm từ bi để lợi lạc người khác, chiếu cố hữu tình. Lại như dùng tâm trí huệ để hồi thí hữu tình, dùng tâm vô úy để hồi thí hữu tình, quý vị chẳng muốn hồi thí, đó cũng là chẳng bố thí pháp! Như thế thì sẽ hình thành chướng ngại đối với pháp. Rất nhiều hữu tình bị chướng ngại rất lớn đối với pháp vì chẳng biết trợ hỷ, chẳng tùy hỷ, thường phá hoại nhân duyên tốt lành của người khác, chẳng thành thục người khác, chẳng tăng thượng người khác. Người như vậy mà muốn hành pháp, sẽ gặp nhiều chướng ngại nơi đạo nghiệp.

Bố thí pháp, nhất là trong đạo tràng, sự tu trì này đối với chúng  ta

rất trọng yếu. Vì trong đạo tràng, vận dụng tài bố thí sẽ chẳng được mười phần rộng khắp, nhưng vận dụng bố thí trí huệ, bố thí từ bi, bố thí vô úy, sẽ là hết sức thường xuyên. Nhưng ở nơi đó, bại hoại hoặc đánh mất cơ hội cũng hết sức nhiều. Chẳng hạn như đối với người đắm nhiễm, phải nên bố thí trí huệ. Đối với ác tánh hữu tình, phải nên bố thí từ bi. Đối với hữu tình ghen tỵ, phải nên bố thí tùy hỷ. Đối với hữu tình chẳng khỏe mạnh, tà kiến, hãy nên bố thí chánh kiến. Chúng ta có thể quan sát chuyện này!

Bố thí, đích xác là chẳng nên cầu được báo đền, mà cũng chẳng có người có thể báo đền. Vì bản thân của bố thí là lợi ích, là pháp tu, là thành tựu, không có gì để có thể báo đền. Chúng ta tu hành trong đạo tràng như thế đó, cơ hội thành tựu đạo nghiệp cũng khác với lúc ở nhà, khác với hoàn cảnh thế tục. Chư vị thiện tri thức ơi! Tôi khao khát mọi người hãy như pháp bố thí pháp tắc trí huệ, từ bi, phương tiện, chánh kiến mà chúng ta đã học được, khiến cho hữu tình chẳng khỏe mạnh, kể cả thân tâm chẳng khỏe mạnh của chính mình đều được kịp thời điều chỉnh. Như thế thì chúng ta sẽ khiến cho đạo tràng dần dần hoàn thiện, khiến cho đạo nghiệp của chính mình dần dần thuần thục. Chúng ta hãy khéo tư duy, khéo quan sát!

(Kinh) Lân mẫn chúng sanh hành thí thời, quyết định trừ nghi vô biến thoái. An trụ điều nhu nhi tu thí, nhược năng như thị đắc tam-muội.

()憐愍衆生行施時決定除疑無變退。安住調柔而修施若能如是得三昧。

(Kinh: Khi thương xót chúng sanh bố thí, quyết định trừ nghi, chẳng lui sụt, an trụ điều nhu mà bố thí. Được như thế, sẽ đắc tam-muội).

Nếu khéo dùng năm đức để khuyên can người khác hòng lợi ích hữu tình trong thế gian, đắc tam-muội cũng chẳng phải là chuyện khó. Quán Thế Âm Bồ Tát có một danh hiệu là Thí Vô Úy Giả (đấng ban cho sự không sợ hãi). Thật ra, chư Phật Thế Tôn đã thọ ký rõ ràng cho hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, nói hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát khéo trụ trong thế gian, khéo lợi ích thế gian, làm người ban cho thế gian sự an ủi lớn. Vì sao? Chính là đấng bố thí vô úy, là đấng tài bố thí và pháp bố thí rộng lớn. Vô úy thí là sự bố thí quan trọng nhất, vì sự bố thí ấy có thể đoạn trừ sự mê hoặc của con người đối với pháp, đối với sự xuất ly sanh tử, cũng như nỗi khổ sợ hãi luân hồi trong thế gian, có thể khiến cho chúng ta hiểu rõ pháp, hiểu thấu suốt cách chọn lựa. Nếu quý vị chẳng hiểu rõ, chẳng thấy thấu suốt để chọn lựa, sẽ rất khó an ủi kẻ khác. Nếu có chánh tri kiến và pháp tắc thiện xảo, sẽ có thể khiến cho chúng sanh gột sạch nghi hoặc, khiến cho tâm trí của họ chẳng nhiễm, mất đi nỗi sợ hãi. Như thế thì quý vị cũng sẽ đạt được danh hiệu Thí Vô Úy của Quán Thế Âm, cũng là danh hiệu từ bi. Vì nói “khéo quán âm thanh của thế gian” tức là khéo quan sát âm thanh khổ sở, nhọc nhằn, âm thanh mê hoặc của thế gian, để ban cho chúng sanh sự không sợ hãi.

Đối với người học Phật chúng ta, nhất là nói theo người niệm Phật, đây là sự tu trì mười phần trọng yếu, như trong Hồi Hướng Môn thuộc năm môn tu trì trong Vãng Sanh Luận đã có nói: “Bất xả nhất thiết khổ não chúng sanh, tâm thường tác nguyện hồi hướng vi thủ, đắc thành tựu đại bi tâm cố” (Chẳng xả hết thảy chúng sanh khổ não, tâm thường phát nguyện hồi hướng làm đầu, vì để thành tựu tâm đại bi). Hồi hướng gì vậy? Muốn khiến cho hết thảy chúng sanh vãng sanh quốc độ của A Di Đà Phật, chẳng sợ hãi! Vì sao? Do nương vào nguyện lực của Phật, liền nhập Chánh Định Tụ. Do Phật lực trụ trì, khiến cho hữu tình bất thoái. Phật lực hiển hiện ở nơi đâu? Khi chúng sanh tùy thuận liền được thành tựu. Đối với một niệm tùy thuận này, một niệm sợ hãi, kẻ sợ hãi liền hiện nghiệp phàm phu. Kẻ tùy thuận liền hiện Chánh Định Tụ, tức là chư Phật nghiệp. Quý vị chẳng ngừng tư duy như thế, quan sát như thế, tư duy như pháp, quan sát như pháp, thân tâm sẽ an lạc, ban cho chúng sanh sự chọn lựa vô úy. Không chỉ thí vô úy, mà còn để cho đối phương chọn lựa. Vì sao phải chọn lựa? Khiến cho họ như thật an trụ, chẳng có thoái chuyển.

Do vậy, trong học pháp, nhất là trong ba tiến trình học pháp của người xuất gia, tức giảng kinh là pháp thứ nhất, biện luận kinh là pháp thứ hai, trước tác là pháp thứ ba. Đương nhiên là đối với bậc tại gia thiện xảo A Xà Lê, cũng ắt phải tu ba pháp ấy. Trong ấy, giảng kinh thật sự chẳng phải là thuyết giảng, mà là như thật hiểu biết tự tâm, như thật biết tâm của người khác, như thật biết Phật tâm. Khi “tâm, Phật, chúng sanh chẳng khác biệt” bèn khẳng định tự tâm. Đó bất quá là khởi đầu của cái gọi là “biện luận kinh thiện xảo”“giảng kinh”. Sau đấy, quý vị có thể trước tác. Trước tác gì vậy? Trước tác về giáo ngôn chân chánh, khiến cho người trong thế gian có cái để nương theo. Đấy là lộ trình ắt phải theo đuổi trong một đời của hết thảy các vị thiện tri thức trong quá khứ muốn đạt được thành tựu. Đương nhiên đấy chính là cái được gọi là “sự tuyên nói nghĩa lý theo thứ tự trong đạo”. Trong quá trình tu pháp, chúng ta cũng phải nên làm như thế. Trong lúc bình thời, chẳng đánh mất mỗi hiện duyên “bố thí sự an ủi cho chúng sanh”, tức là bố thí pháp giáo, ban trí huệ cho kẻ ngu si, ban từ bi cho người sân hận điên đảo, ban chánh kiến cho người tà kiến, khiến cho kẻ lạc lối biết được đường nẻo. Do vậy, “an trụ điều nhu nhi hành thí, nhược năng như thị đắc tam-muội” (an trụ trong điều phục, nhu thuận để bố thí. Nếu có thể làm như thế, sẽ đắc tam-muội), điều này rất trọng yếu!

(Kinh) Nhược ư tài thí vi đại chủ, vô hữu kiêu mạn, tật đố tâm. Hành nhất thiết thí thường dũng dược, nhược năng như thị đắc tam-muội.

()若於財施爲大主無有憍慢嫉妒心。行一切施常踊躍若能如是得三昧。

(Kinh: Nếu rộng bố thí nơi tài vật, chẳng sanh tâm kiêu mạn, ghét ganh, hớn hở thường hành hết thảy thí. Được như thế, sẽ đắc tam- muội).

Tâm chẳng vướng mắc. Do chẳng vướng mắc, rộng thí hết thảy pháp tắc, cho đến thí rộng khắp hết thảy các thứ tài thí, pháp thí, vô úy, khiến cho chúng sanh an lạc, khiến cho kẻ hữu duyên có thể trụ trong an lạc. Học tập Phật pháp, đích xác là phải nên khéo điều phục cái tâm con người, khéo đối trị các bệnh tật như thế đó.

Trong thời đại này, nếu chúng ta chẳng nhờ vào một pháp tắc rõ ràng, mình lẫn người sẽ đều bị mê mất, cho đến vốn muốn chữa trị, kết quả đâm ra là mắc hại, vì dùng sai thuốc! Gặp phải bác sĩ tham tiền, đúng là khiến cho kẻ khác chết oan! Do vậy, nếu một pháp tắc có giáo pháp lưu truyền rộng rãi, có kinh điển để nương theo, mọi người có thể cùng xét kỹ, cùng tu tập, độ trong suốt[1] như thế sẽ rất lớn. Như pháp môn Niệm Phật trong hiện thời, hay hành pháp Ban Châu do có kinh điển, được truyền bá từ thế hệ này sang thế hệ khác trải các đời, cho nên đối với pháp này, mọi người chẳng sợ hãi mà tu tập. Chẳng cần phải bàn bạc chi khác, cứ một mực thực hành như thế. Nhưng nếu trong một pháp tắc có khá nhiều tạp duyên, có rất nhiều đặc tánh mọi người chẳng thể cùng biết, quả thật sẽ rất khó thấy thấu suốt, rất khó tư duy, rất khó cùng nhau tu tập, cùng nhau quán chiếu. Vì thế, tôi cảm thấy người thật sự gặp gỡ Tịnh Độ, chọn lựa pháp Tịnh Độ, chính là mười phần phước báo. Đối với pháp tắc này là pháp đã được mọi người xem xét, tu tập, hiểu thấu từ xưa đến nay, lại có các hữu tình ngược ngạo cho là pháp tầm thường, nhạt nhẽo vô vị, chẳng yêu thích, chẳng thâm nhập, chẳng tu tập, chẳng thấy là lạ lùng. Thật ra, chỗ chẳng lạ lùng, chỗ bình phàm, chính là chỗ công đức đặc biệt, ưu việt, chẳng thể nghĩ bàn! Vẫn mong mọi người hãy suy nghĩ chỗ này!

(Kinh) Hựu ư pháp thí vi thượng thủ, thiện giải vi diệu Tu Đa La. Năng tri thậm thâm tịch diệt pháp, nhược năng như thị đắc tam-muội.

()又於法施爲上首善解微妙修多羅。能知甚深寂滅法若能如是得三昧。

 (Kinh: Lại với pháp thí, làm thượng thủ, khéo hiểu Tu Đa La vi diệu. Hay biết pháp tịch diệt rất sâu. Được như thế, sẽ đắc tam-muội).

Chư vị thiện tri thức ơi! Trong Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, có nói pháp cúng dường là sự cúng dường tối thượng, hết thảy các cúng dường chẳng thể sánh bằng. Đích xác là trong hết thảy các sự bố thí, pháp thí trực tiếp nhất, rốt ráo nhất, thiện xảo nhất; các sự bố thí khác là kết duyên, phương tiện, tăng thượng mà thôi. Đương nhiên, trong các pháp, nếu vô duyên, sẽ chẳng thể trao đổi, nhưng nếu chẳng có pháp thí, mọi người sẽ chẳng thể đạt được giải thoát, chẳng thể đạt được lợi ích chân thật.

(Kinh) An trụ thậm thâm chư pháp trung, thiện năng kham nhẫn, vô tật đố. Tuy bị qua mạ vô não hận, nhược năng như thị đắc tam-muội.

()安住甚深諸法中善能堪忍無嫉妒。雖被撾罵無惱恨若能如是得三昧。

(Kinh: An trụ trong các pháp rất sâu, khéo hay kham nhẫn, chẳng ghen tỵ. Tuy bị đánh chửi, chẳng bực hận. Được như thế, sẽ đắc tam-muội).

“Thiện năng kham nhẫn, vô tật đố” (Khéo có thể kham nhẫn, chẳng ghen tỵ): Vì sao chỗ nào cũng đều ghen tỵ? Vì hữu tình trong đời Mạt Pháp tranh cãi quá nhiều, người tùy hỷ quá ít. Nhất là đối với những thứ mình yêu thích, tự mình cho là đúng, sẽ dễ nẩy sanh ghen tỵ. Nếu chúng ta khéo quan sát động niệm và thói quen trong tâm linh, sẽ có thể diệt trừ sự chấp trước đối với nghiệp hư giả của chính mình từ vô thỉ đến nay, sẽ chẳng lầm tưởng nghiệp tập là tự ngã. Chúng ta thường coi nghiệp tập phiền não là ngã, nắm chặt chẳng buông. Có kẻ ngỡ tội nghiệp là ngã, chẳng hạn như trót tạo một lỗi lầm, bèn nghĩ hễ người khác nói đến lỗi lầm đó sẽ là nói động đến ta! Nắm chặt khư khư, nói: “Nếu mày nói động đến tao, tao sẽ liều mạng với mày”. Thật ra, tội ác chẳng phải là quý vị, nó chẳng thuộc về quý vị, nó vốn chẳng có tự tánh. Nghiệp tập của chúng ta cũng giống như thế. Tên gọi của chúng ta cũng giống như thế.

Chẳng hạn như các danh tự Trương Tam, Lý Tứ cũng là vô tự tánh; nhưng thường là nếu có ai réo cái tên ấy để mắng chửi, khi đó, cái tên ấy sẽ có tự tánh ngay! Chúng ta sẽ gắn chặt nó vào thân, buộc chặt vào mình, canh cánh trong lòng, in hằn vào óc. Sau đó, nó trở thành một nghiệp tướng. Vậy là chúng ta chẳng biết “pháp chẳng có tự tánh”. Quả thật, chớ nên như thế, nhất là cứ ôm chặt nghiệp tập và lỗi lầm chẳng buông, cho nó là chính mình, đó là lúc khổ nhất của chúng ta.

“Tuy bị qua mạ, vô hận não” (Dẫu bị đánh chửi, chẳng sân hận, bực bội): Bị người khác chửi bới, thương tổn, chẳng hối hận hay tức giận. Tu trì trong nghịch duyên là chân thật nhất. Trong thời Mạt Pháp, nghịch duyên hừng hực, thuận duyên hiếm hoi! Có người nói kẻ nào đó “vẻ mặt lầm lì khó ưa”; thật ra, mọi người đừng mong vẻ mặt người khác luôn dễ coi.

Có đôi khi trong tâm người ấy quá căng thẳng, hoặc là chẳng biết chính mình đang quá căng thẳng. Chúng ta cười xòa là xong, thật sự chớ nên so đo khuyết điểm. Chớ nên coi lỗi lầm thành ta, chớ nên coi danh tự thành ta, chớ nên coi nghiệp tập thành ta. Các thiện tri thức vốn vô ngã, sao lại kiến lập cái Ngã? Nhất định phải tự hỏi chính mình, thiện ngã còn chẳng thể được, sao lại có thể cưỡng chấp ác ngã? Chúng ta phải nên chọn lựa!

(Kinh) Hoặc thời văn thuyết thử kinh điển, thư tả, độc tụng, xảo quảng tuyên, duy vị pháp trụ lợi thế gian. Nhược năng như thị, đắc tam-muội. Ư chư pháp trung, bất bí lận, bất cầu lợi dưỡng cập danh văn. Đản vị thiệu long chư Phật chủng, nhược năng như thị, chứng tam-muội.

()或時聞說此經典書寫讀誦巧廣宣。唯爲法住利世間若能如是得三昧。於諸法中不祕吝不求利養及名聞。但爲紹隆諸佛種若能如是證三昧。

(Kinh: Có lúc nghe nói kinh điển này, biên chép, đọc tụng, khéo rộng nói, chỉ vì pháp trụ lợi thế gian. Được như thế, sẽ đắc tam-muội. Chẳng keo tiếc, giấu giếm các pháp, chẳng cầu lợi dưỡng và tiếng tăm, chỉ vì rạng truyền dòng giống Phật. Được như thế, sẽ chứng tam-   muội).

“Ư chư pháp trung bất bí lận” (Chẳng keo tiếc, giấu giếm các pháp): Chẳng keo tiếc pháp quả thật mười phần khó khăn! Nếu mọi người nương theo pháp để cư xử, nương theo pháp để giao tiếp, nương theo pháp để bố thí, nương theo pháp để chung sống, chưa nói đến một bầu hòa khí, tối thiểu là sẽ có không khí vui sướng, rạng rỡ, có trạng thái tăng thượng đạo đức, có trạng thái dần dần khỏe mạnh, chẳng xuất hiện tướng trạng chệch choạc, chẳng xuất hiện tướng trạng khô héo. Đấy là lẽ tất nhiên. Vì trao ra chút phần pháp, sẽ khiến cho người khác được an lạc, chẳng cần nói tới pháp thí rộng lớn. Khi chúng ta thí pháp cho người khác, chính mình đã đạt được pháp vị trước. Chẳng hạn như rất nhiều người buồn bã, kêu ca trong nhà có người bệnh. Tôi nói: “Như thế thì tốt quá!” Cớ sao nói như vậy? Vì đấy chính là cơ hội cho quý vị tu pháp, cơ hội niệm Phật, cơ hội vun bồi cái tâm từ bi. Vì khi thấy những người khác [chẳng phải là người thân của chính mình] mắc bệnh, gặp nạn, quý vị chẳng quan tâm cho lắm! Nếu quý vị nói chính mình quan tâm, vậy thì trong thiên hạ hằng ngày đều có người nhiễm bệnh, tử vong, hằng ngày đều có người đau khổ khó thể chịu đựng, sao quý vị chẳng niệm Phật, sao chẳng niệm Pháp, sao chẳng niệm Tăng hồi thí cho họ? Sủng vật (thú cưng, pet) trong nhà của chúng ta chết, ta sẽ khóc ròng; ông bà của kẻ khác chết, ta đều chẳng bận tâm, vì sao? [Ta chỉ buồn bã, đau lòng khi người hay vật mất đi] có quan hệ với chính mình. Vì thế, chúng ta học Phật, cũng đích xác là [pháp môn muốn tu học ấy] phải có quan hệ với chính mình, có duyên thân thiết. Chẳng có duyên, sẽ không được. Ở đây vẫn là phải như thật quan sát. Hiện thời, chúng ta nghe nói kinh điển như thế, cho đến biên chép, đọc tụng, những điều ấy đều là kết duyên, đều là một duyên khởi để tu tập pháp tắc. Mọi người phải khéo quan sát ở chỗ này, chẳng cần để ý ai khác. Đối với cái gọi là “nhân duyên” của chính mình, chỉ nên thủ hộ pháp tắc. “Đản vị thiệu long chư Phật chủng” (Chỉ vì tiếp nối hưng thịnh chủng tánh chư Phật), tức là khiến cho chánh pháp trụ thế, lưu truyền rộng rãi trong thế gian.

(Kinh) Viễn ly thùy miên dữ suy não, trừ đoạn tật đố cập Cái Triền. Bất tự xưng tán, khinh hủy tha, năng diệt ngã tướng, đắc tam-muội.

()遠離睡眠與衰惱除斷嫉妒及蓋纏。不自稱讚輕毀他能滅我相得三昧。

(Kinh: Xa lìa ngủ nghê và suy não, trừ dứt ghen tỵ và Cái Triền. Chẳng tự khen, khinh hủy kẻ khác. Diệt được ngã tướng, đắc tam-  muội).

“Viễn ly thùy miên dữ suy não” (Xa lìa ngủ nghê và suy não): Nếu ai có tâm trí cầu pháp chẳng mỏi mệt, thuyết pháp chẳng chán, tu pháp thường tinh tấn, sẽ chẳng có tướng suy não. Có khi chúng ta chẳng nhắc đến chữ Mệt thì còn được, vẫn quên bẵng duyên do. Hễ nhắc tới thì duyên liền đưa đến, ngay lập tức mệt liền! Cái duyên đưa đến rốt cuộc là gì vậy? Giống như nắm lấy hòn sắt nóng sẽ bị phỏng tay, duyên như thế đó! Đối với điều này, quý vị phải nên tin tưởng. Trong tâm trí phàm phu liền có yêu đắm, hễ tiếp xúc liền đạt được, tức là có thể cảm nhận được.

“Trừ đoạn tật đố cập Cái Triền” (Trừ dứt ghen tỵ và Cái Triền): Lại nhắc tới ghen tỵ. Ghen tỵ rất nguy hại cho thiện căn của chúng ta, tạo thành quá nhiều chướng ngại cho chúng ta. Đây là cái ải khó qua nhất đối với người trong thời Mạt Pháp. Háo thắng là do cái tâm ghen tỵ đem lại, tranh đấu do cái tâm ghen tỵ đem lại, quá khổ! Trong tâm của phàm phu thời Mạt Pháp, chủng tử ghen tỵ khá lớn, khá chín muồi. Nếu đó là mầm tiêu hạt lép thì còn được, nhưng chủng tử quá chín muồi, sẽ đặc biệt dễ nẩy mầm!

“Bất tự xưng tán, khinh hủy tha, năng diệt ngã tướng, đắc tam-muội” (Chẳng tự khen mình, khinh hủy người khác. Có thể diệt ngã tướng, sẽ đắc tam-muội): Những điều đó là bệnh tướng trong thời đại này. Nếu bệnh ấy đã trừ, sẽ liền khỏe mạnh, sẽ có oai đức thiện xảo, sẽ có thể lợi ích thế gian. Khi tôi xuất gia, trong toàn thể nghiệp tướng, có một khoảng thời gian ba bốn năm, tôi cảm thấy lỗi lầm “tự khen mình, chê người” là lỗi lầm tôi thường phạm, thường phải sám hối. Rất nhiều khi là vô ý thức, khi nghĩ lại mới biết là tự khen mình, chê người. Nghiệp tập ở ngay chỗ đó, thường là ngay khi đó liền buột miệng nói ra. Lúc đó, vẫn cảm thấy rất có bi trí, nhưng lắng lòng suy xét, chủng tử đã gieo ra vẫn là các thứ “tự khen mình, chê người”. Nếu chẳng kịp thời sám hối, sẽ tăng thêm cái nghiệp tiếp nối. Các vị Bồ Tát ơi! Cái nghiệp tiếp nối ấy phiền phức nhất; đó chính là chấp giữ cái Ngã. Chúng ta do chẳng có ý thức bèn tạo tác nghiệp ấy, cái nghiệp tiếp nối. “Vô ý thức” chính là vô minh, đó là Cái, là Triền. Đối với điều này, chỉ có người có tâm tư tỉ mỉ, người thuần thục pháp thì mới có thể khéo quan sát, thủ hộ, nhưng người học Phật chúng ta đều phải nên quan sát cẩn thận, sâu xa. Về sau, tôi không ngừng quan sát nghiệp tập “tự khen mình, chê người” của chính mình, biết là do trong nghiệp tướng quá khứ của chính mình, khi thường tự cho là đúng, tự cho rằng chính mình có thiện căn, có tinh tấn, có hành pháp, có pháp tắc, sẽ dẫn tới nghiệp chủng tăm tối, vô ý thức “tự khen mình, chê người”. Ai có thể đoạn trừ? Chỉ có tự mình có thể quan sát, biết rõ. Thiện tri thức cũng có thể chỉ ra cho quý vị, giúp quý vị trừ bỏ lỗi lầm này. Trong thời đại của chúng ta, những kẻ đồng bệnh với tôi đặc biệt nhiều! Chúng ta đều nên xét kỹ chính mình, vì “tự khen mình, chê người” quá vi tế, hễ chẳng nhận biết sẽ phạm ngay.

Nhưng cái nghiệp tiếp nối này mười phần bất hảo, nhất là trong Bồ Tát giới, sẽ là phạm trọng giới, phạm căn bản giới, nhưng chúng ta thường vô ý thức vi phạm. Lỗi lầm của kẻ khác quá rõ ràng, xác thực, cứ thuận miệng nói ra sẽ mang tánh cách chỉ trích, có tánh cách gây thương tổn, biểu lộ ưu điểm của chính mình, đánh mất tâm từ bi và tâm trí huệ, tạo áp lực cho kẻ khác, chẳng phải là các thứ đem lại an lạc và vui sướng cho kẻ khác. Chẳng trừ căn bệnh ấy, nghiệp chủng cứ tiếp nối, sẽ nguy hại cho thân tâm an khang, sẽ giống như tiếp tục bị bệnh vậy.

(Kinh) Chánh tín chư Phật, cập Pháp, Tăng, thường hành thành tâm vô khi cuống. Bất vong nhất thiết chư ân báo, bỉ chứng tam-muội vô gian nan.

()正信諸佛及法僧常行誠心無欺誑。不忘一切諸

恩報彼證三昧無艱難。

(Kinh: Chánh tín chư Phật và Pháp, Tăng, thường hành thành tâm, chẳng lừa dối, chẳng quên báo hết thảy các ân, sẽ chứng tam-muội chẳng khó khăn).

“Thường hành thành tâm vô khi cuống” (Thường giữ cái tâm chân thành, chẳng lừa dối): “Thành tâm” quyết định đến từ sự tôn trọng mình, tôn trọng người khác. Chúng ta tự tôn trọng mình bằng cách nào? Như thật biết tự tâm, có thể biết thanh tịnh trong tâm duyên. Vì thế, chẳng đắm nhiễm, đó là một niệm tối sơ trong tâm chân thành. Khi đó, dùng bi và trí để quán thế gian, có thể vận dụng thành tâm. Nếu không, hễ có cái tâm ô nhiễm, phân biệt, làm sao có thể xưng là “thành tâm” cho được?

“Bất vong nhất thiết chư ân báo” (Chẳng quên báo đáp hết thảy các ân): Chẳng quên hết thảy các ân. Đối với ân nhỏ nhoi như giọt nước, báo đáp tràn trề như suối trào. Báo ân như thế nào? Khi chúng ta tạo ân đức cho người khác, chớ nên nghĩ đến chuyện được báo đáp. Khi người khác ban ân đức cho chúng ta, đừng nên quên báo đền. Đó là một pháp tắc. Nếu chính mình dốc sức thực hiện, lại cầu được báo đền, đó là kinh doanh, là buôn bán. Đó gọi là tu trì nhằm cầu danh văn lợi dưỡng từ việc mua bán gia nghiệp của Như Lai, chẳng có ý nghĩa chi hết! Nhưng nếu chúng ta chẳng biết ân, chẳng báo ân, sẽ đánh mất lợi ích rộng lớn do tu chứng và tâm trí chân thành lợi ích thế gian, hoặc là sự tu trì cái tâm cung kính.

(Kinh) Nhược năng chân thuyết vô vọng ngôn, phàm hữu sở hành diệc bất thất.

()若能真說無妄言凡有所行亦不失。

(Kinh: Nếu hay nói thật, chẳng nói dối, tất cả hành vi chẳng sai trái).

Nếu ăn nói mà chẳng tương ứng với hành vi và tâm địa của chính mình, hãy nên sám hối. Sám hối là chuyện bọn phàm phu hữu tình trong thời Mạt Pháp như chúng ta phải nên làm, phải nên thực hiện. Đó là một pháp tắc mười phần trọng yếu. Sám hối thay cho người khác cũng thế, tự sám hối cũng thế, [sám hối] thay cho pháp giới hữu tình cũng thế, sám hối cho cha mẹ, sư trưởng cũng thế. Đó là sự khỏe mạnh mười phần có ý nghĩa, là tâm lý thanh tịnh, là chuỗi anh lạc được kết bởi các pháp, là trang nghiêm Phật Đà, là chuyện được hết thảy chư Phật, Bồ Tát tán thán, hứa khả, và thủ hộ. Mọi người hãy nên kiểm điểm, ngăn che cho nhau, khiến cho người phạm lỗi được sám hối sạch làu!

(Kinh) Sở tác tuy vi, hoạch báo quảng. Bỉ ư chứng pháp vô chướng ngại.

()所作雖微獲報廣彼於證法無障礙。

(Kinh: Việc làm tuy nhỏ, được báo rộng. Người ấy chứng pháp chẳng chướng ngại).

Nương vào các pháp tắc trên đây, tuy thực hiện ít phần, nhưng đều có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, vì đã hành đúng pháp.

(Kinh) Nhược nhân hữu năng cụ tư pháp, thanh tịnh trì giới chư hữu ân. Bỉ đắc Bồ Đề thượng bất nan, hà huống thậm thâm vi diệu Định.

()若人有能具斯法清淨持戒諸有恩。彼得菩提尚不難何況甚深微妙定

(Kinh: Nếu ai trọn đủ các pháp ấy, trì giới thanh tịnh, ân mọi loài, sẽ chứng Bồ Đề còn chẳng khó, huống hồ Định vi diệu rất sâu).

Thành tựu Vô Thượng Bồ Đề còn chẳng khó, huống hồ đạt được Định vi diệu rất sâu! Các vị thiện tri thức ơi! Đừng cho là Phật pháp xa vời, hãy chánh hành Phật pháp!

14. Phẩm thứ mười một: Thọ Ký

Chúng ta có một cơ duyên thù thắng như vậy, có thể cùng nhau học tập kinh Ban Châu Tam Muội, đúng là một cơ chế tốt đẹp rất khó có do thiện căn và cộng nghiệp cùng chín muồi! Chúng ta học hoàn chỉnh kinh này một lượt, tiếp đó bèn học tập và tu tập, sẽ mười phần thuận tiện. Sau đó, đọc tụng, sẽ có càng nhiều sự tham chiếu và chiết xạ tâm lý[2]. Vì đối với sự nhận biết kinh điển, nếu một người đọc tụng hoặc lý giải nó, sự hiểu biết [của người ấy] có tánh chất hạn cuộc nhất định; nhưng mọi người cùng nhau học tập, sẽ thường có thể trừ khử sự hạn cuộc ấy, khiến cho chúng ta từ trong vô lượng nghĩa, chọn lựa các lời lẽ có ý nghĩa, tâm trí có ý nghĩa, và phân lượng có ý nghĩa đối với chính mình để ấn chứng tự tâm, hòng hoàn thành công đức tự lợi và lợi tha, xuất ly phiền não, xuất ly sanh tử.

(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Thọ Ký phẩm đệ thập nhất.

()大方等大集賢護分授記品第十一。

(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ mười một: Thọ Ký).

Thọ ký rất trọng yếu. Pháp giáo do chư Phật Như Lai truyền lại được truyền thừa từ đời này sang đời khác. Tuy chẳng giống các vị tổ sư xưng là “vị tổ đời thứ mấy”, nhưng trong Hiền Kiếp, một ngàn vị Phật theo thứ tự xuất thế, Phật này thọ ký cho Phật kia, chẳng gián đoạn. Quá khứ kiếp, vị lai kiếp cũng giống như thế. Vì sao chư Phật Thế Tôn thọ ký thanh tịnh? Muốn khiến cho hết thảy chúng sanh chẳng có kiến giải điên đảo đối với Vô Thượng Bồ Đề, sanh khởi sự nhận biết rõ ràng, chọn lựa dứt khoát, hoàn thiện đối với pháp tắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Tức là nhận biết mười hiệu trọn đủ, như Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn tám tướng thành đạo, tùy cơ thị hiện, cho nên có dấu vết để có thể tìm, có mười tám pháp bất cộng có thể thấy, có thể vận dụng, có thể biết, có Thập Lực, Tứ Vô Úy, thiện xảo lợi ích rộng khắp thế gian. Như thế thì sẽ khiến cho hữu tình trong thế gian chẳng bị mê hoặc bởi những kẻ xằng bậy xưng là Phật! Nhưng trong thời Mạt Pháp, những kẻ xằng bậy xưng là Phật chỗ nào cũng đều có, thậm chí có kẻ [tự vỗ ngực] “vượt xa Phật” cũng có luôn. Vì thế, thọ ký mười phần trọng yếu!

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: – Hiền Hộ! Ngã niệm vãng tích quá ư vô lượng A-tăng-kỳ, phục quá vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, sơ ư Nhiên Đăng Phật Thế Tôn sở, văn thử tam-muội, văn dĩ tức chứng như tư tam-muội.

()爾時世尊告賢護菩薩言賢護我念往昔過於無量阿僧祇復過無量阿僧祇劫初於然燈佛世尊所聞此三昧聞已即證如斯三昧。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: – Này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa kia quá vô lượng A-tăng-kỳ, lại qua khỏi vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, thoạt đầu ở chỗ Nhiên Đăng Phật Thế Tôn nghe tam-muội này, nghe xong liền chứng tam-muội như thế).

Trong chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm có nói: Mười hai vị Như Lai lần lượt xuất thế, vị Phật cuối cùng dạy ta (Đại Thế Chí Bồ Tát) Niệm Phật tam-muội. Sau đó, [Đại Thế Chí Bồ Tát] còn nêu ra [tỷ dụ] “như mẹ nhớ con, mẹ con nhớ nhau”, cho đến nói “phàm phu nhớ Phật, niệm Phật, tương lai, hiện tiền nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng nhờ vào phương tiện, tự được tâm thông sáng”, cho đến “tam-ma-địa như thế chính là bậc nhất”. Vì thế, “thấy Phật, chứng tam-muội” là pháp tắc được chứng nhập bởi hữu tình có thiện căn đã chín muồi từ quá khứ. Hiện tại cũng giống như thế. Tôi gặp một vị cư sĩ, lúc ông ta vẫn còn là cư sĩ, sau khi nghe người khác niệm Phật, thân tâm [của vị cư sĩ ấy] rạng ngời, ngày đêm sáu thời tự nhiên niệm Phật, cũng chẳng nói ta phải niệm Phật hay không, tự nhiên trong tâm sanh khởi âm thanh thanh tịnh “Nam-mô A Di Đà Phật” như nước tuôn róc rách. Ông ta tới hỏi tôi: “Đó là chuyện như thế nào?” Tôi nói: – Đó là tướng thiện căn của ông đã chín muồi! Trong quá khứ, ông đã từng là người đích thân chứng Niệm Phật tam-muội. Tuy đã đánh mất, nhưng hễ nghe, sẽ liền đạt được! Đạt được gì vậy? Ông ta chẳng cần niệm, tự nhiên bèn niệm, mười phần an lạc, vui sướng, thân tâm sảng khoái, gặp pháp vô ngại. Phiền não xảy đến, vấn đề đưa đến, tự nhiên sẽ do niệm Phật mà tiêu tan các sự tướng ấy. Đó chính là tướng túc duyên thiện căn chín muồi. Hoặc là chúng ta đời này niệm Phật rất khó khăn. “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, có người niệm rất mệt nhọc, chẳng hiểu phương pháp cho mấy, nhưng trong khi chưa hiểu ấy vẫn cứ niệm, dẫu đời này chẳng liễu sanh tử, nhưng nhân duyên trong vị lai chẳng thể nghĩ bàn, sẽ liễu sanh tử, tự đạt được niềm vui. Vì thế, niệm Phật là thiện nghiệp chẳng thể nghĩ bàn, là công đức chẳng thể nghĩ bàn!

Ở đây, [đức Phật] nói đức Thế Tôn trong khi tu nhân, ở chỗ Nhiên Đăng Phật, nghe tam-muội này liền chứng. Vì sao chúng ta nghe tam-muội này chẳng chứng? Trong quá khứ, có người nghe kinh liền chứng Sơ Địa, Bát Địa. Có các vị tỳ-kheo, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di bình phàm nghe pháp, liền đắc pháp nhãn tịnh, liền chứng mấy quả vị. Vì sao chúng ta nghe pháp chẳng đạt được gì? Chẳng phải là đạt được hay không, mà là tự tâm có nhận biết hay không? Đã chín muồi hay không?

(Kinh) Kiến chư Như Lai, thường hiện tại tiền. Tùng thị dĩ lai, kinh ư vô lượng A-tăng-kỳ chư Thế Tôn sở, giai thọ thị kinh, tu hành, cúng dường.

()見諸如來常現在前。從是已來經於無量阿僧祇諸世尊所皆受是經修行供養。

(Kinh: Thấy các Như Lai thường hiện ra trước. Từ đó trở đi, trải qua nơi vô lượng A-tăng-kỳ các vị Thế Tôn, đều lãnh nhận kinh này, tu hành, cúng dường).

Đây là Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đã dùng pháp tắc do chính Ngài đã hành từ vô thỉ đến nay để ấn khế cho chúng ta.

(Kinh) Bỉ Phật Thế Tôn thọ ngã ký viết: “Ma Nạp! Nhữ ư lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”.

()彼佛世尊授我記曰摩納汝於來世當得作佛號釋迦牟尼如來應供等正覺明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師世尊

(Kinh: Vị Phật Thế Tôn ấy thọ ký cho ta rằng: “Này Ma Nạp! Trong đời mai sau, ông sẽ được thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”).

Ma Nạp là tên của Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn trong lúc tu nhân khi Ngài gặp Nhiên Đăng Cổ Phật.

(Kinh) Hiền Hộ! Nhữ bối diệc đương chuyên tinh nhất  tâm, tư duy tu tập như tư thánh pháp.

()賢護汝輩亦當專精一心思惟修習如斯聖法

(Kinh: Này Hiền Hộ! Các ông cũng nên chuyên ròng nhất tâm, tư duy tu tập thánh pháp như thế).  

Đây là đức Thế Tôn nhắc nhở Hiền Hộ Bồ Tát, mà cũng là nhắc nhở chúng ta. Chúng ta hằng ngày xưng niệm “Nam-mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” thì phải nương tựa pháp tắc mà Phật Thích Ca đã hành để làm căn bản quy hướng, thành tựu, phỏng theo, tu tập, đạt thành tựu, chọn lựa làm nơi quy y. Vì thế, chúng ta gọi đó là giáo ngôn của đức Bổn Sư, là pháp tắc của đức Bổn Sư.

(Kinh) Phi thị phàm phu sở kiến cảnh giới.

()非是凡夫所見境界。

(Kinh: Chẳng phải là cảnh giới mà phàm phu trông thấy).

Câu này rất trọng yếu. Nếu chúng ta chẳng nương theo giáo ngôn của thánh giáo và pháp tắc để tu tập, sẽ phải tư duy nhiều hơn, chỉ đành chịu khổ, tốn nhiều tâm tư tu trì mà chẳng thể thành tựu thánh đạo. Vì lẽ nào? Hết thảy các điều ấy đều chẳng phải là cảnh giới của phàm phu, tư duy của phàm phu chẳng thể thấu đạt, chẳng thể tương ứng được! Có các vị xuất gia và tại gia Bồ Tát, mười năm hay tám năm rất dụng công, rất chịu thương chịu khó, nhưng do nương theo cái tri kiến tiếp nối của chính mình, quý vị nói “chuyển biến tri kiến rất đơn giản”, nhưng họ chẳng chuyển, cố chấp ý kiến của chính mình, chẳng hổ thẹn, kiêu mạn, tự phụ, nhiều năm chẳng thay đổi, một mực kéo dài. Kéo dài gì vậy? Khổ não, ngã mạn. Người trí nương theo sự tùy thuận, hòa hợp, điều phục, nhu hòa, nương theo pháp mà hành, thật sự là tăng thượng. Gặp pháp liền đạt được điều lợi ích tốt lành, vì sao? Đó là cảnh giới của hết thảy chư Phật, trọn chẳng phải là cảnh giới phàm phu hay tư duy phàm phu.

Có nhiều người học Phật, dùng cách nghĩ của chính mình để dụng công trong Phật pháp. Trong quá khứ, tất cả các kinh điển mà người xuất gia đọc đều là được truyền trao, cũng tức là có người truyền dạy thì mới có thể đọc tụng, mới có thể trao đổi với người khác. Nếu không, sẽ chẳng dám, mà cũng chẳng có sức, nhưng hiện thời người xuất gia lẫn kẻ tại gia đọc kinh, phần nhiều dụng công nơi kinh điển bằng cách dùng đầu óc của chính mình để “xử lý” tất cả kinh điển một lượt, cho rằng “ta học khá lắm”, “ta học đã hiểu rành rồi”. Kẻ như thế chỉ tăng thêm tri kiến, học cả đống danh từ và danh tướng, chẳng có mảy may lợi ích cho chính mình, chỉ tăng thêm cái tâm ngạo mạn. Không chỉ chẳng được lợi ích nơi Phật pháp, mà còn có thể rất khổ, giống như cõng một đống thuốc lớn, nhưng đối với căn bệnh nặng lại trọn chẳng biết dùng vị thuốc nào để đối trị bệnh tật của chính mình, chẳng có phương tiện! Dẫu vác một rương thuốc to đùng, nhưng hằng ngày mắc bệnh nặng, chẳng thể trị liệu. Đối với chuyện này, mọi người phải nên chú trọng: “Pháp yếu phải có người truyền trao”. Điều này mười phần trọng yếu! Cho đến thành tựu cũng có người ấn chứng, hứa khả. Nếu không, mạn tâm của chúng ta khó trừ, Ngã Chấp khó trừ đấy nhé!

(Kinh) Thậm thâm tịch tĩnh chúng tướng diệt xứ.

()甚深寂靜衆相滅處。

(Kinh: Là chỗ tịch tĩnh rất sâu, các tướng đều diệt).

Chúng ta là hữu tình chấp tướng, coi “thiện, ác, đúng, sai” là chân thật. Như thế thì sao có thể đạt được an lạc nơi tịch tĩnh?

(Kinh) Như thị học dĩ, vị lai tự nhiên thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề vô hữu gian nan, như ngã bất dị.

()如是學已未來自然成就阿耨多羅三藐三菩提無有艱難如我不異。

(Kinh: Học như thế rồi, trong đời tương lai sẽ tự nhiên thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chẳng khó khăn, như ta chẳng khác).

Vì sao vậy? Do nương theo lời thọ ký của đức Phật mà tùy thuận. Chúng ta cũng giống như thế. Nếu có thể tùy thuận chỗ “tịch tĩnh rất sâu, các tướng diệt trừ”, đã học như thế, trong vị lai, tự nhiên sẽ thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chẳng khó khăn. Đấy là thọ ký cho mọi người. Vì sao? Ngài Hiền Hộ tượng trưng cho tứ chúng tu pháp Ban Châu tam-muội trong thời Mạt Pháp. Bộ kinh này chỗ nào cũng đều nói nhất quán về cơ chế giáo ngôn này.

(Kinh) Nhữ đẳng đương tri, nhược hữu an trụ thị tam-muội giả, tự nhiên đương đắc cận đại Bồ Đề.

()汝等當知若有安住是三昧者自然當得近大菩提

 (Kinh: Các ông hãy nên biết: Nếu có người an trụ trong tam-muội này, tự nhiên sẽ gần với đại Bồ Đề).

Gọi là Đại Bồ Đề, tức là Vô Thượng Bồ Đề. “Đại” là tâm trí trọn khắp do đức Thế Tôn đã chứng, chẳng phải là lớn hay nhỏ, mà là viên mãn trọn đủ, trọn đủ chân thật, trọn khắp hết thảy.

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết: – Ngã tích ngộ bỉ Nhiên Đăng Phật, kiến dĩ, tức đắc tam-ma-đề.

()爾時世尊爲重明此義 以偈頌曰 我昔遇彼

然燈佛見已即得三摩提。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì nói rõ lại nghĩa này, dùng kệ tụng như sau: – Ta xưa gặp đức Nhiên Đăng Phật, gặp rồi liền đắc tam-ma-đề).

Chứng đắc tam-muội, đó là tam-ma-đề, an trụ trong tam-ma-đề chân thật, hoặc thành tựu tam-ma-địa. Đó là thâm nhập theo thứ tự. Chúng ta đọc kinh Viên Giác, [sẽ thấy] kinh dạy: Xa-ma-tha (Śamatha) là chí tĩnh khinh an (至靜輕安), Tam-ma-bát-để (Samāpatti) là đại bi khinh an, Thiền Na (Dhyāna) là tịch diệt khinh an. Trong ấy, có nhắc tới tam-ma-đề (Samadhi).

(Kinh) Tùng thị thường đổ chư Như Lai, cụ túc công đức đại danh xưng.

()從是常睹諸如來具足功德大名稱。

(Kinh: Từ đấy thường thấy các Như Lai, trọn đủ công đức, danh xưng lớn).

Nếu thường thấy Phật, công đức thiện xảo tự nhiên trọn đủ. Chúng ta cảm nhận “thường chẳng thể thấy chư Phật”, thì có thể trì danh hiệu chư Phật, trì tâm chú của chư Phật, trì diệu tướng của chư Phật, trì đại nguyện của chư Phật, sẽ giống hệt như “thường học theo Phật”. Thường sử dụng tâm trí như thế, nếu dùng Phật nguyện để kéo dài sanh mạng của chính mình, duy trì tâm thức và nghiệp tướng của chính mình, người ấy sẽ chẳng thể nghĩ bàn, giống như Phật rủ lòng tùy thuận căn cơ. Tuy là thân do cha mẹ sanh ra, nhưng khiến cho công đức nơi giáo pháp thù thắng của chư Phật Như Lai được truyền bá trong cõi đời, rộng lợi ích hữu tình.

(Kinh) Nhữ đản đa tập chư công đức, nhất tâm chuyên niệm tức đắc thành. Nhược nhân năng hành thử pháp trung, đương đắc Vô Thượng Bồ Đề đạo.

()汝但多集諸功德一心專念即得成。若人能行此法中當得無上菩提道

(Kinh: Ông chỉ tu tập nhiều công đức, nhất tâm chuyên niệm liền được thành. Nếu ai có thể hành pháp này, sẽ đắc Vô Thượng Bồ Đề đạo).

Đoạn kệ tụng “trùng tuyên thử nghĩa” này vẫn là từ trong phẩm Thọ Ký nhắc nhở chúng ta, nương theo sự thọ ký trong lúc tu nhân của Phật Thích Ca, mà cũng là lời thọ ký của Nhiên Đăng Cổ Phật đối với Ma Nạp. Ở đây, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đối với Hiền Hộ cho đến hết thảy những người tu tập hành pháp Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội trong thời Mạt Pháp mà thọ ký: “Thậm thâm tịch tĩnh chúng tướng diệt xứ, như thị học dĩ, vị lai tự nhiên thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vô hữu gian nan, như ngã bất dị” (Đối với chỗ tịch tĩnh rất sâu, các tướng trừ diệt, mà học như thế rồi, trong vị lai, sẽ tự nhiên thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chẳng khó khăn, giống như ta chẳng khác). Đấy là lời thọ ký. Nếu có thể noi theo lời thọ ký, thuận thế mà hành, sẽ đạt được thiện xảo ít tốn công sức. Vì thế, tu pháp chẳng khó, tam-muội chẳng khó!

15. Phẩm thứ mười hai: Thậm Thâm

(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Thậm Thâm phẩm đệ thập nhị.

Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: – Thế Tôn! Vân hà tư duy như thị tam-muội?

()大方等大集賢護分甚深品第十二。

爾時賢護菩薩復白佛言世尊云何思惟如是三昧?」

(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần. Phẩm thứ mười hai: Rất Sâu.

Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: – Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để tư duy tam-muội như thế này?)

Toàn thể bộ kinh đều nhắc nhở chúng ta tư duy, quan sát, nhanh chóng chứng đắc, dùng chánh ngôn để tuyên nói Ban Châu tam-muội. Ở đây, kế tiếp là nêu ra “làm thế nào để tư duy tam-muội như thế?”

(Kinh) Phật ngôn: – Hiền Hộ! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân niệm dục tư duy thử tam-muội giả.

()佛言賢護若有善男子善女人念欲思惟此三昧者。

(Kinh: Đức Phật dạy: – Này Hiền Hộ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghĩ muốn tư duy tam-muội này).

Tiếp đó, trực tiếp truyền dạy pháp tắc, nói chẳng tăng giảm, [người học pháp này] chỉ nên tùy văn nhập quán, liền đạt được phương tiện. Khá nhiều pháp tắc, nếu chẳng cố hiểu thì sẽ rất thuận tiện. Nếu tìm hiểu, phần nhiều là dùng thức tâm của chính mình để dụng công, sẽ thêm vào pháp tắc các chất độc “hiểu biết cong quẹo, hiểu biết sai lầm” của chính mình, phần nhiều dẫn đến đâm quàng ngõ rẽ. Vì thế, hãy tùy văn nhập quán, đâm ra rất thuận tiện, hãy y giáo phụng hành, chẳng nhờ vào người khác chỉ vẽ. Đó là sự chọn lựa thuận tiện nhất để hành trì kinh điển.

(Kinh) Quán bỉ sắc thời, bất ưng thủ trước.

()觀彼色時不應取著。

(Kinh: Khi quán sắc, đừng nên chấp trước).

Có thể nói câu này chính là cương lãnh của toàn thể văn tự trong đoạn sau. “Quán bỉ sắc thời, bất ưng thủ trước” (Khi quán sắc, đừng nên chấp giữ): Đối với Thọ, Tưởng, Hành, và Thức, cũng giống như thế. Tâm Kinh nói “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” (Sắc chính là Không, Không chính là Sắc). Nói kiểu này, chính là khiến cho chúng ta khi quán sắc sẽ chẳng nhiễm, chẳng chấp. Đức Thế Tôn muốn khiến cho chúng ta có thiện xảo để thâm nhập nội dung tu tập và chánh tư duy. Tiếp đó, Ngài còn nói cặn kẽ đủ mọi lẽ. Chúng ta hãy xem đức Thế Tôn giải thích như thế nào!

(Kinh) Ư bỉ thanh trung, bất ưng thủ trước.

()於彼聲中不應取著。

(Kinh: Đối với thanh, chớ nên chấp giữ).

Lần lượt nêu ra sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đấy có phải là trùng lặp hay không? Chẳng phải, mà là chỉ bảo thẳng thừng cho chúng ta: “Khi gặp sắc, khi gặp thanh, khi gặp hương, khi gặp vị, khi gặp xúc, khi gặp pháp, đối đãi như thế nào?” Chớ nên chấp giữ! Vì hết thảy phàm phu hữu tình đều tưởng “đắm nhiễm sự tướng là chỗ nương cậy của y báo và chánh báo trong sanh mạng”, cho nên trầm luân trong thế gian. Nói “trầm luân” là do chấp giữ mà trầm luân, chần chừ trong sự chấp giữ ấy, lãng phí trong sự chấp giữ ấy, tạo tác trong sự chấp giữ ấy. Các vị Bồ Tát và thiện tri thức biết “pháp chẳng có tự tánh”, cho nên đối với phong cảnh trên đường sẽ tự nhiên tiếp nối, chẳng vướng, chẳng mắc; đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, bèn vận dụng, chẳng đắm nhiễm nơi đó, tự nhiên giải thoát từ ngay nơi bản thể, đạt được Chánh Thọ ngay nơi bản thể. Phật pháp đích xác là chẳng ở ngoài sự tướng, mà cũng chẳng ở trong sự tướng. Trong hiện duyên ấy, rành rành phân minh, chẳng nhiễm, chẳng chấp, sức vô ngại ấy có thể sanh ra các thứ sức Chánh Thọ.

(Kinh) Ư bỉ hương trung, bất ưng thủ trước. Ư bỉ vị trung, bất ưng thủ trước.

()於彼香中不應取著。於彼味中不應取著。

(Kinh: Đối với hương, chớ nên chấp giữ. Đối với vị, chớ nên chấp giữ).

Chư vị thiện tri thức! Đừng nghĩ đức Thế Tôn nói như thế là trùng lặp. Chẳng phải là trùng lặp. Sắc chính là sắc, thanh chính là thanh, hương chính là hương, vị chính là vị, giải thích vi tế như thế đó. Nếu chúng ta có thể tùy thuận thủ hộ, tùy thuận tu tập, sẽ là đại thiện. Nếu chẳng thể, hãy nên tư duy các pháp tắc in hằn trong tâm của chính mình. Trong kinh điển, đức Phật đã như thật giãi bày trọn vẹn chẳng tăng, chẳng giảm hết thảy các thiện xảo, hết thảy các pháp tắc như thật, hết thảy lợi ích chân thật. Đức Thế Tôn trọn chẳng keo tiếc bất cứ pháp nào, muốn lợi ích rộng khắp hữu tình, muốn chân thật hồi thí lợi ích chúng sanh, cho nên Ngài chẳng chọn lựa bất cứ pháp nào, chỉ hồi thí trọn vẹn.

(Kinh) Ư bỉ xúc trung, bất ưng thủ trước. Ư chư pháp trung, bất ưng thủ trước. Ư chư sanh trung, bất ưng thủ trước. Ư nhất thiết xứ, bất ưng thủ trước. Ư thị pháp trung, đương khởi chân thật đại từ hạnh dã.

()於彼觸中不應取著。於諸法中不應取著。於諸生中不應取著。於一切處不應取著。於是法中當起真實大慈行也。

(Kinh: Đối với xúc, chớ nên chấp giữ. Đối với các pháp, chớ nên chấp giữ. Đối với các sanh, chớ nên chấp giữ. Đối với hết thảy các chỗ, chớ nên chấp giữ. Do vậy, ở trong pháp, hãy nên khởi hạnh đại từ chân thật).

“Đại từ hạnh” như vừa nói đó chính là hạnh bình đẳng, hạnh bất nhị, hạnh như thật. “Từ” là chẳng chọn lựa để giữ lấy. Vì thế, nói là “đồng thể”. Văn tự chỗ này khá dễ hiểu, nhưng lợi ích sâu rộng, chân thật, chẳng dối!

(Kinh) Thị trung, hà đẳng danh vi tam-muội?

()是中何等名爲三昧

(Kinh: Trong ấy, những gì gọi là tam-muội?)

Ở đây, tam-muội được định nghĩa như thế nào? Trong khi chúng ta trao đổi với người khác, thậm chí khi chính mình tư duy, văn tự là tướng ngôn thuyết quyền biến, vì nếu chẳng có ngôn thuyết, mọi người sẽ không có chỗ để nương theo. Nhưng nếu ngôn thuyết chẳng thể hướng dẫn tiêu quy tự tánh, hoặc quy vào pháp tắc, chắc là sẽ chết cứng nơi câu nói! Chúng ta phải nên làm như thế nào? Mọi người ai nấy hãy quán kỹ sự thủ hộ hiện tiền của chính mình.

(Kinh) Sở vị ư nhất thiết pháp trung, như pháp hành cố.

()所謂於一切法中如法行故。

(Kinh: Chính là từ trong hết thảy các pháp, đúng như pháp mà hành).

Câu này tợ hồ nói mà cũng như chẳng nói. Văn tự trong phần sau nhằm chỉ dạy chúng ta…

(Kinh) Nhược chư Bồ Tát quán niệm xứ thời, đương ưng như thị quán sát thân hành.

()若諸菩薩觀念處時當應如是觀察身行。

(Kinh: Nếu các Bồ Tát khi quán niệm xứ, hãy nên quán sát thân hành như thế).

Khởi đầu từ quan sát thân hành, vì hết thảy chúng sanh, nhất là chúng sanh thuộc nhân loại, phần nhiều coi cái thân thô trọng là Ngã, Thân Kiến mười phần nghiêm trọng.

(Kinh) Chung bất phân biệt, kiến thân hành xứ.

()終不分別見身行處。

(Kinh: Trọn chẳng phân biệt, thấy thân hành xứ).

Đối với sự nhận biết về thân hành, như các cảm nhận về sức khỏe, thay đổi, hoặc là chẳng khỏe mạnh, chẳng đổi khác v.v… đều có thể nhận biết rõ ràng, như trong phần trước đã nói: Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, trọn chẳng chấp giữ. Đối với lục căn, lục thức, chẳng chấp giữ. Đối với lục trần, cũng chẳng chấp giữ. Cho nên đối với mười pháp giới, cũng chẳng chấp giữ. Vì thế, vận dụng trong mười pháp giới chẳng nhiễm, chẳng chấp. Như thế bèn tự nhiên xuất ly.

(Kinh) Quán sát thọ hành, diệc bất phân biệt, kiến thọ hành xứ.

()觀察受行亦不分別見受行處。

(Kinh: Quán sát thọ hành, cũng chẳng phân biệt, thấy thọ hành xứ).

Đây là quan sát đối với mỗi chỗ cảm nhận, khiến cho chúng ta sẽ như thật tùy thuận theo kinh văn mà cảm nhận sự nhận biết của chính mình.

(Kinh) Quán sát tâm hành, diệc bất phân biệt, kiến tâm hành xứ.

()觀察心行亦不分別見心行處。

(Kinh: Quán sát tâm hành, cũng chẳng phân biệt, thấy tâm hành xứ).

Như trong phần trước đã nói, chẳng chấp Sắc, chẳng chấp Thanh, chẳng chấp Hương, chẳng chấp Vị, chẳng chấp Xúc, chẳng chấp Pháp. Các thứ đều chẳng chấp, cho đến hết thảy đều chẳng chấp. Ở đây cũng giống như thế, do chẳng có cái thấy phân biệt.

(Kinh) Quán sát pháp hành, diệc bất phân biệt, kiến pháp hành xứ.

()觀察法行亦不分別見法行處。

(Kinh: Quán sát pháp hành, cũng chẳng phân biệt, thấy pháp hành xứ).

Có Năng, có Sở, trong phần trước chỉ nói đến Năng, ở đây nói tới Sở. Năng lẫn Sở cùng mất, người như vậy sẽ có thể biết rõ, quan sát một niệm thô nặng.

(Kinh) Bồ Tát đương ưng như thị quán sát tư duy tam-muội. Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Bỉ Bồ Tát quán thân hành thời, ư thân bất khởi tư duy, phân biệt.

()菩薩當應如是觀察思惟三昧。何以故賢護彼菩薩觀身行時於身不起思惟分別。

(Kinh: Bồ Tát hãy nên quán sát tư duy tam-muội như thế. Vì sao? Này Hiền Hộ! Khi vị Bồ Tát ấy quán thân hành, đối với thân, chẳng dấy lên tư duy, phân biệt).

Thường nghe mọi người nói như thế này: “Ôi chao! Thời gian này thân thể tôi không tốt!” Cái kiểu cảm nhận “khoảng thời gian này” như thế, thật ra là một thứ quyến luyến, tham chấp, đắm nhiễm đối với sắc thân. Ở đây, đức Thế Tôn dạy chúng ta: “Quán thân hành thời, ư thân bất khởi tư duy, phân biệt” (Khi quán thân hành, chẳng dấy lên tư duy, phân biệt đối với thân). Quý vị nói: “Rõ ràng là tôi có cảm nhận nơi thân, lẽ nào chẳng dấy lên tư duy, phân biệt?” Phương pháp này rất đơn giản, vì sao? Hết thảy sự nhận biết nơi thân, hành vi nơi thân, đều là sự kéo dài hư vọng của vô thường, biến hóa, vô ngã, là cảm giác hư vọng, không giữ lại gì. Vì thế, tuy có tư duy, tăng thêm nhiều vọng nghiệp, tăng thêm nhiều nhiễm nghiệp, tăng thêm cái khổ, chẳng được giải thoát. Ở chỗ này, nếu đối với thân chẳng dấy lên tư duy, phân biệt, liền hiện phương tiện giải thoát, cũng chính là khi cảm nhận cái thân liền thấy phương tiện.

Ngay trong lúc chúng ta coi trọng cái thân, liền thoát ly sự ràng buộc nơi thân. Nếu chẳng quan sát, tư duy như thế, phân biệt và chấp trước sẽ tăng mạnh hơn! Như có người thân thể chẳng tốt, đã nói: “Ôi chao! Trong khoảng thời gian này, thân thể tôi không khỏe”. Có người nói: “Trong khoảng thời gian này, tôi hành pháp, làm việc khá vừa lòng, thân thể cũng thoải mái”.

Trong quá trình tư duy và phân biệt đối với thân thể, dù tốt hay xấu, dù tăng hay giảm, một khi nhiễm đắm tư duy, sẽ do cái thân mà trầm luân, do cái thân mà tạo nghiệp, hễ tiếp nối như thế, sẽ là tướng luân hồi liên tục. Nếu ngược lại, liền được giải thoát.

(Kinh) Quán thọ hành thời, ư thọ bất khởi tư duy, phân biệt.

()觀受行時於受不起思惟分別。

(Kinh: Khi quán thọ hành, đối với thọ, chẳng dấy lên tư duy, phân biệt).

Đối với chuyện hiện tiền, hãy thẳng thừng xem xét, thiện xảo hiểu rõ, chẳng nhờ vào phân biệt, chấp trước, chẳng dấy lên vọng niệm. Như thế thì tuy chưa đắc Chánh Thọ trong hiện tiền mà đã cảm nhận Chánh Thọ, đã biết Chánh Thọ.

(Kinh) Quán tâm hành thời, ư tâm bất khởi tư duy, phân biệt. Quán pháp hành thời, ư pháp bất khởi tư duy, phân biệt cố. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết pháp bất khả đắc cố.

()觀心行時於心不起思惟分別。觀法行時於法不起思惟分別故。所以者何一切法不可得故。

(Kinh: Khi quán tâm hành, đối với tâm chẳng dấy lên tư duy, phân biệt. Khi quán pháp hành, đối với pháp chẳng dấy lên tư duy, phân biệt. Vì sao vậy? Do hết thảy các pháp chẳng thể được).

Đấy đều là những lời dạy rất sâu, có tánh chất giống như khẩu quyết, là pháp tắc chẳng thể nghĩ bàn. Nếu chúng ta có thể tùy thuận, tư duy, quan sát, sẽ thấu đạt nội dung của tam-muội Chánh Thọ, lợi ích của Chánh Thọ, chẳng cần cầu phương tiện nào khác, chẳng cần chúng ta phải tự hư giả lập bày, cũng chẳng cần đến các thứ siêng khổ và bức bách chẳng tất yếu. Hiện thời, có nhiều người hành pháp cho rằng kinh hành trong một thời gian dài, hoặc khổ sở bức bách chính mình thì sẽ có thể đạt được tam-muội. Đó là một thứ tâm lý chẳng tương ứng. Chẳng dấy lên phân biệt, tư duy, chẳng chấp, chẳng nhiễm. Ở đây chính là phương tiện chánh tam-muội, tức là phương tiện đỡ tốn sức, mà cũng là đạt đến chân thật đỡ tốn sức. Vì thế, do hết thảy các pháp chẳng thể được, chớ nên phân biệt, tư duy, chớ nên chấp giữ, thân tâm liền được an lạc. Như thế thì sẽ là chánh hành đúng như pháp.

(Kinh) Như thị chư pháp ký bất khả đắc, vân hà đương hữu phân biệt, tư duy?

()如是諸法既不可得云何當有分別思惟

(Kinh: Chư pháp như thế  đã  chẳng  thể  được, làm  sao   phân biệt, tư duy?)

Kinh điển thật sự là một công cụ để ấn khế, giống như dùng một cái ấn để đóng xuống là phù hợp rồi! Đối với giáo ngôn trong kinh điển, nếu chẳng tăng, chẳng giảm ấn khế cái tâm của chúng ta, cũng sẽ có thể dấy lên hiệu quả ấn khế chẳng thể nghĩ bàn như thế. Hữu tình trong hiện đời có nhiều sự tư duy chẳng phải là tri kiến chánh đáng, có lắm tư duy hỗn loạn, cho đến lắm tư duy tà kiến. Vì thế, khiến cho sanh mạng của chính mình chịu nhiều khốn khổ, lắm nỗi lo lắng nhọc nhằn vô ích, chỉ tăng thêm ý nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp, cùng với các nghiệp tướng khổ nạn từ hiện tại cho đến vị lai. Nếu chẳng giác ngộ, chẳng thể tự thoát ra, nếu chẳng nương theo pháp để hành, cũng chẳng thể tự thoát. Do vậy, trong nghiệp tướng vị lai mà sanh tử luân hồi. Đức Thế Tôn thương xót chúng ta, ban cho pháp tắc thanh tịnh, pháp tắc rõ ràng, pháp tắc chân thật, muốn khiến cho chúng ta nương theo pháp để hành, chứng giữ Bồ Đề. “Giữ” ở đây thật sự là không có chỗ nào để giữ thì mới đạt được an lạc.

(Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, nhất thiết pháp vô hữu phân biệt. Vô phân biệt giả, vô hữu tư duy.

()賢護是故一切法無有分別。無分別者無有思惟。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Vì thế, hết thảy các pháp chẳng có phân biệt. Chẳng phân biệt là chẳng có tư duy).

“Hết thảy các pháp” là nói theo bản chất, vốn chẳng thể phân biệt. Vì vốn chẳng thể phân biệt, chẳng có tư duy. Do chẳng có tư duy, có gì để lấy hay bỏ, có gì để chấp giữ ư?

(Kinh) Vô tư duy giả, đương tri bỉ trung vô pháp khả kiến.

()無思惟者當知彼中無法可見。

(Kinh: Chẳng tư duy: Hãy nên biết trong ấy chẳng có pháp để có thể thấy).

Thật sự chẳng có một pháp để có thể đạt được. Đức Thế Tôn sư tử hống, nhưng hữu tình trong thế gian chẳng phải là như thế, phần nhiều nói thiện, nói ác, nói đúng, bàn sai, đúng đúng sai sai, nối tiếp sanh tử, thiện thiện ác ác, tạo tác luân hồi. Dẫu chúng ta mười phần hiểu rõ các pháp tắc ấy, nhưng cứ gặp lúc nhân duyên thành thục, thường là sẽ nhiễm đắm pháp, sẽ chấp trước pháp. Khi nói điều thiện thì mắt lóe ánh vàng, khi nói ác thì đau đầu buốt tim, quả thật chẳng liên can, cứ hư vọng tự nhận biết, chấp giữ, cãi chày cãi cối đúng sai, cưỡng lập đúng sai, đối với pháp tắc vô tự tánh bèn cưỡng lập tự tánh, cho nên thế gian kiên cố!

Thế giới Sa Bà ô nhiễm này là do sự cưỡng chấp của chúng ta tạo nên, nhưng trong cõi nước thanh tịnh của mười phương chư Phật có thể vô ngại hành pháp, thần thông tự tại, cho đến cúng dường, phước đức, nhân duyên v.v… đủ loại tự tại đều do chẳng cưỡng chấp, do chẳng chọn lựa giữ lấy, do thanh tịnh bình hòa, do một mực chân thật, do chẳng lấy, chẳng bỏ, cho nên vận dụng tự tại trong sức vô ngại, dùng phương tiện trí huệ và từ bi chẳng đắm nhiễm mười phương hữu tình. Vì thế, chẳng có tướng thế giới kiên cố, chỉ có tướng thế giới thanh tịnh vô ngại.

Thế giới Sa Bà của chúng ta cho đến chúng sanh trong Diêm Phù Đề vì do chấp trước kiên cố đã tạo thành núi, sông, đại địa, cùng với các thứ vật chất kiên cố. Nếu có người yêu thích tu tập các thứ thiện pháp, có ý tưởng cứng cỏi, sẽ tạo thành đủ loại các nơi trân bảo. Nếu là kẻ thủ hộ ác tánh, thành tựu các loại chúng sanh tánh ác, cho đến các vật vô tình, núi, sông, đại địa sẽ cùng lúc hư vọng cưỡng chấp hóa  hiện.

Thật ra có một vật để có thể đạt được, [tức là] bậc trí đích thân chứng tánh Không, cho nên du hý tự tại, như các bậc thiện xảo có thể đi lại trong núi đá vô ngại, đi trên hư không vô ngại, vào nước chẳng chết đuối, vào lửa chẳng bị đốt cháy, chẳng bị đao, thương tổn hại, vì sao? Do tâm trí vô nhiễm, do xa lìa đối đãi. Vì thế, chẳng bị đối đãi gây thương tổn. Chúng ta đời đời kiếp kiếp huân tập chẳng ngừng, cưỡng chấp cái tâm đối đãi, tất nhiên sẽ bị pháp đối đãi thương tổn. Thuở đức Thế Tôn tại thế, có nhiều vị tỳ-kheo do từ tâm mà đao thương chẳng thể tổn hại, chất độc chẳng thể khiến cho họ bị trúng độc chết. Nhưng trong thời đại hiện tại, có nhiều hữu tình bệnh tật ngặt nghèo, có nhiều tổn thương trọng đại, có nhiều nhân duyên xấu ác, vì lẽ nào? Do cưỡng chấp nghiệp duyên từ vô thỉ tới nay!

Bản thân chúng ta có thể chẳng ngại mà tự thí nghiệm. Quý vị dùng hai mươi phút để sanh sân tâm, sau đấy cắn ngay vào da thịt của chính mình, nó sẽ sưng phù. Nếu tâm trí của quý vị rất từ bi, tốt lành, chẳng hạn như dùng hai mươi phút vận dụng Từ Bi Quán để quán tự tâm, dẫu dùng kim chọc rách da thịt, vết thương sẽ lành miệng rất nhanh. Chúng ta có thể thí nghiệm, sanh mạng chính là tư lương để du hý của chúng ta. Đó là tướng phước đức. Nếu quý vị yêu mến, bảo vệ nó, sẽ bị nó xỏ mũi, đâm ra phước đức trong vị lai bị lỡ làng, tức là phước đức xuất ly, nhưng có nhiều hữu tình bị sắc thân này, bị tri kiến chẳng chánh đáng xâm hại. Do đó, đức Thế Tôn trực tiếp dạy chúng ta quán như thế nào trong pháp tắc bình nhật.

(Kinh) Hiền Hộ! Vô khả kiến cố, tiện vi vô ngại.

()賢護無可見故便爲無礙。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Do chẳng thể thấy, sẽ là vô ngại).

Chúng ta học pháp, trong đạo tràng, trong xã hội, trong đơn vị công tác, cho đến xuất gia hay tại gia, hành pháp, hay chẳng hành pháp, vâng giữ pháp, hay chẳng vâng giữ pháp, nếu hết thảy các chỗ đều vô úy, tức là vô ngại. Nếu là vô ngại thì sẽ không bị ngăn chướng. Nếu đã là không chỗ nào bị ngăn chướng thì chính là đại từ, tức là đại thiện. Thiện xứ ấy chẳng đối đãi. Chẳng đối đãi chính là thật sự chọn lựa Chánh Thọ. Vì sao chúng ta hành pháp có nhiều chỗ chướng ngại? Do sanh khởi đối đãi, sanh khởi chọn lựa, sanh khởi chấp giữ, trong pháp chẳng phân biệt mà kiến lập!

(Kinh) Nhất thiết pháp trung vô chướng ngại cố, tức thị Bồ Tát hiện tiền tam-muội.

()一切法中無障礙故即是菩薩現前三昧。

(Kinh: Do chẳng chướng ngại trong hết thảy các pháp, chính là hiện tiền tam-muội của Bồ Tát).

Ở đây nói tới “Bồ Tát hiện tiền tam-muội”. Bồ Tát là giác thế gian, tự giác và giác tha, tự lợi, lợi tha, hai pháp thiện xảo trọn đủ. Vì sao? Xa lìa đối đãi, tức là tự lợi và lợi tha. Xa lìa đối đãi, từ tâm, bi tâm, trí tâm tự nhiên sanh khởi. Do chẳng đối đãi, cho nên chẳng bị mệt nhọc, chẳng bị nặng nề, chẳng bị chướng ngại, chẳng có gì sợ hãi. Do chẳng có gì sợ hãi, sẽ đắc lực trong thế gian, lợi ích rộng khắp hữu tình, phương tiện trụ thế. Chư Bồ Tát Ma Ha Tát đều dùng nguyện lực lợi ích rộng khắp thế gian để duy trì sanh mạng, cho nên trong một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, cho tới chẳng thể diễn tả kiếp, như đức Thế Tôn nói “Hằng hà sa kiếp” (kiếp nhiều như cát sông Hằng), hoặc nhiều Hằng hà sa kiếp duy trì sanh mạng. Sanh mạng ấy có nền tảng là nguyện để duy trì. Vì thế nói “các vị Bồ Tát dùng nguyện, dùng tam-muội-da để thủ hộ”. Nói “tam-muội-da” tức là Chánh Thọ. Chánh Thọ nương vào nguyện để biểu đạt. Nếu lìa bỏ hết thảy các thọ (sự tiếp nhận khi căn tiếp xúc trần), hết thảy chấp giữ, và hết thảy đối đãi, tự nhiên trọn đủ Chánh Thọ. Sanh mạng như thế một đời, hai đời, một kiếp, hai kiếp, nhiều kiếp, Hằng hà sa kiếp, cho đến bất khả ngôn thuyết Hằng hà sa kiếp tiếp nối không ngừng. Đó là thọ mạng rộng lớn của Bồ Tát, thanh tịnh chân thật, chẳng sợ hãi; nhưng phàm phu do chấp trước, chấp giữ nghiệp tướng, bèn có thiện, ác, đúng, sai v.v… cho nên sanh mạng có nhiều nỗi khốn đốn.

Vì thế, phần nhiều chán ngán sanh, hoặc sợ hãi tử. Khi khổ nạn, sẽ sanh khởi ý tưởng “chán ngán, vứt bỏ” đối với sanh mạng. Khi sanh mạng gặp nguy nan, lại tham tiếc sanh mạng, sợ hãi tử vong. Đó là sự chấp giữ của tâm đắm nhiễm, tâm đối đãi. Nếu chúng ta từ trong cái tâm đối đãi mà có thể lập tức tiêu trừ đối đãi, sẽ là sức vô ngại, sanh mạng như thế sẽ tươi sáng, tiếp nối rộng lớn, mà chẳng đắm nhiễm. Vì thế, phần nhiều dùng sắc thân vi tế, mầu nhiệm để lợi ích rộng khắp thế gian, tối thiểu là lìa khỏi cái chết thô nặng, hoặc có thể nói là Phần Đoạn Sanh Tử. Nỗi khổ và chướng ngại của Phần Đoạn Sanh Tử là do chính mình tự cưỡng chấp lấy bỏ, chúng ta phải khéo quan sát.

(Kinh) Bồ Tát thành tựu thị tam-muội cố, tức đắc đổ kiến vô lượng vô số quá A-tăng-kỳ chư Phật Thế Tôn, tịnh sở tuyên thuyết, giai tất thính văn.

()菩薩成就是三昧故即得睹見無量無數過阿僧祇諸佛世尊並所宣說皆悉聽聞。

(Kinh: Bồ Tát thành tựu tam-muội như thế, liền được trông thấy vô lượng vô số quá A-tăng-kỳ chư Phật Thế Tôn, và những gì các Ngài tuyên nói thảy đều nghe thấy).

Người tu trì như thế, dù là sơ phát tâm, hay đã phát tâm, hoặc là cái tâm đã thuần thục, chọn lựa phương tiện tự tại nơi sức tam-muội, lợi ích rộng khắp hữu tình chẳng hề sợ hãi, chẳng hề chán mệt. Hữu tình trong thế gian phần nhiều do chẳng đạt được sức Chánh Thọ, cho nên ai nấy tự tiêu hao. Cho đến vì tiêu hao mà chẳng có sức tự lợi, lợi tha, vác gánh nặng trầm trọng bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nơi sanh mạng, cho đến tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, cho đến nghiệp tướng hiện tiền của vạn sự vạn vật trong thế gian. Tự lợi là đạt được tự tại trong các chỗ khinh an, bất luận là chí tĩnh khinh an, tịch diệt khinh an, hay từ bi khinh an. Chí tĩnh khinh an (sự an lạc nhẹ nhàng do đã đạt đến tĩnh lặng tột bậc) là đã được ngơi nghỉ. Tịch diệt khinh an là có thể xuất ly. Từ bi khinh an là lợi ích rộng khắp hữu tình, chẳng chán mệt. Chúng ta thường gặp các vị đại thiện tri thức trong khi hành pháp và lợi ích thế gian, chẳng hề chán mệt, chẳng nghỉ ngơi, khiến cho tâm linh kẻ khác rúng động và cảm kích. Vì sao bọn phàm phu chúng ta có lắm nỗi mệt nhọc, chán ngán, lắm điều đối đãi, cho đến bị hại bởi danh tự, bị hại bởi nghiệp tướng? Tức là kẻ khác dựa vào danh tự của chúng ta để thốt ra lời nguy hại, ta sẽ chẳng thể tiếp nhận. Như thế tức là coi danh tự là Ngã, coi sắc thân là Ngã, coi nghiệp tướng là Ngã, coi phiền não nghiệp tập là Ngã. Khi chấp giữ, lầm tưởng là có Ngã, sẽ sanh ra đủ thứ đau khổ. Vì sao? Do bị đối đãi và lấy bỏ bức bách. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta phải nên khéo tư duy, khéo quan sát.

(Kinh) Văn bỉ pháp dĩ, hàm năng thọ trì. Bỉ chư Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác, sở hữu nhất thiết vô ngại giải thoát, giải thoát tri kiến, diệc tức năng đắc bỉ vô ngại trí.

()聞彼法已咸能受持。彼諸如來應等正覺 所有

一切無礙解脫解脫知見亦即能得彼無礙智。

(Kinh: Đã nghe pháp ấy, đều có thể thọ trì. Các đức Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác ấy tất cả hết thảy giải thoát, giải thoát tri kiến vô ngại cũng chính là có thể đắc vô ngại trí).

Ở chỗ này, hết thảy những điều đức Thế Tôn tuyên nói như cái ấn đem in vào nhau, như khế[3] phù hợp nhau. Nếu chúng ta chẳng lấy, chẳng chấp, mà thanh tịnh tiếp nhận, tiếp nhận toàn bộ, đó là Nhất Thiết Vô Ngại Trí. Chư Phật có các trí như thế nào? Chúng ta do Chánh Thọ, cũng có thể ở yên nơi Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Khi “tâm, Phật, chúng sanh vốn chẳng sai biệt” cùng lúc hiện tiền, hiển hiện rõ rệt toàn thể nơi Chánh Thọ, hiện tiền đại dụng lập tức sanh khởi, sanh khởi pháp lạc vô úy, pháp lạc thiện xảo, pháp lạc lợi ích hữu tình chẳng chán mệt, các thứ lạc trong thế tục chẳng thể sánh bằng các loại pháp lạc ấy.

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Bồ Tát quán sát Tứ Niệm Xứ thời, vô pháp khả kiến, vô thanh khả văn. Vô kiến văn cố, tắc vô hữu pháp khả đắc phân biệt.

()復次賢護菩薩觀察四念處時無法可見無聲可聞。無見聞故則無有法可得分別。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Khi Bồ Tát quán Tứ Niệm Xứ, chẳng có pháp nào để có thể thấy, chẳng có tiếng nào để có thể nghe. Do chẳng thấy nghe, cho nên chẳng có pháp nào để có thể phân biệt).

Trong phần trước đã nói “chẳng tư duy, chẳng chướng ngại”. Ở đây, bèn nói “chẳng phân biệt”. Vì sao chẳng phân biệt? Do chẳng thấy nghe, cho nên “chẳng có pháp để có thể phân biệt”.

(Kinh) Diệc vô hữu pháp khả đắc tư duy.

()亦無有法可得思惟。

(Kinh: Cũng chẳng có pháp để có thể tư duy).

Cội nguồn của chẳng phân biệt, chẳng tư duy là do chẳng thể thấy, chẳng thể nghe. Đó là chánh tư duy. Quý vị nói: “Tôi thấy thì cũng thấy, nghe thì cũng nghe, tư duy thì cũng tư duy“, nào có biết đấy chính sự tiếp nối của chủng tử tư duy bất chánh. Chúng ta hãy nên nương theo lời dạy của Phật Thế Tôn, nương theo ngôn thuyết chánh tư duy để hướng dẫn chánh tư duy cho chính mình, nhập phương tiện chánh tư duy, chẳng nhờ vào pháp nào khác. Như thế thì chúng ta sẽ có thể tùy thuận Phật giáo để được giải thoát, giống như người ngồi thuyền bèn được thuyền chở, ngồi xe bèn được xe chở, ngồi máy bay liền được máy bay chở đi! Chúng ta tùy thuận lời dạy của đức Thế Tôn để tư duy, cũng được lời dạy và sự tư duy ấy chuyên chở, khiến cho chúng ta đạt tới bờ trí huệ bên kia.

(Kinh) Nhi diệc phục phi cổ manh lung loại.

()而亦復非瞽盲聾類。

(Kinh: Mà cũng chẳng thuộc loại mù, lòa, điếc).

Chẳng phải là không thấy, không nghe! Vì sao? Hiểu rõ ràng, rành rẽ, sạch làu, vô nhiễm, thể chất hiển hiện, nhưng tướng vẫn là không. Tướng là phi tướng, do nhân duyên mà hiện. Tướng là vô thường, tướng là chẳng có vật chất, vì thể chất chẳng có vật chất. Do vậy, trông thấy chánh tướng. Chánh tướng được hiểu rõ ràng phân minh, cho nên chẳng lấy, chẳng chấp, chẳng nghĩ, chẳng niệm. Vì sao? Do trong ấy chẳng được, chẳng mất, chẳng đối đãi. Vì thế, chẳng phải là mù, cũng chẳng phải là điếc, thật sự là như thế, rành rẽ, phân minh, có thể thấy, có thể biết!

(Kinh) Đản thị chư pháp vô khả kiến cố, thị cố quán thời, bất sanh trụ trước nhi kiến chư đạo.

()但是諸法無可見故是故觀時不生住著而見諸道。

(Kinh: Chỉ vì các pháp chẳng thể thấy, cho nên khi quán, chẳng sanh tâm chấp trước mà thấy các đường).

“Đạo” là chỗ nghiệp tướng hiện tiền.

(Kinh) Tư duy đạo cố, tức ư chư pháp vô hữu nghi võng.

()思惟道故即於諸法無有疑網。

(Kinh: Do tư duy đạo, liền đối với các pháp chẳng có lưới nghi).

Vì sao? Thanh tịnh tùy thuận, chẳng đối đãi, nhị nguyên bị tán hoại, kiến lập tâm trí viên mãn. Sự kiến lập ấy là không có gì để kiến lập. Vì chúng ta sống trong không gian đối đãi nhị nguyên, một khi tất cả các pháp tắc dấy động, sẽ liền có đối đãi bầu bạn. Vì thế, nẩy sanh sự cưỡng chấp Biên Kiến, cưỡng chấp lấy bỏ, cưỡng chấp đắm nhiễm, cho đến các thứ được gọi là khổ và lạc, thiện và ác, đúng và sai của hữu tình trong thế gian, đều sẽ cùng khiến cho tự ngã trong ấy mạnh hơn, chẳng đạt được thiện xảo. Nhưng kẻ thiện xảo vô nhiễm, kẻ thiện xảo chẳng cậy vào tư duy, kẻ thiện xảo chỉ nhận biết tự tánh, kẻ có thiện xảo của Như Lai Đẳng Chánh Giác, sẽ ở trong biển pháp tánh Chân Như, sạch làu chẳng có một điều thiện hay lẽ ác. Vì sao? Chẳng có mảy trần để có thể đạt được! Thật ra, chúng ta thường như “Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác”, Đẳng là chẳng đối đãi, Đẳng là giống hệt như nhau, nhưng hữu tình phiền não vọng chấp thiện ác, trầm luân trong thế gian.

Đức Thế Tôn nói “tánh có thiện và ác”, chư Phật đích thân chứng tánh “vốn trọn đủ thiện và ác” của hết thảy chúng sanh. Khi sự đối đãi giữa thiện và ác tiêu tan, sẽ là lúc chân thật trọn đủ. Nói là “đủ”, tức là có thể trọn đủ tạo thiện, trọn đủ tạo ác. Giáo pháp Thiên Thai Tông đã phán định “sự đối đãi giữa hai pháp thiện và ác” thật sự là phương tiện để chư Phật Như Lai xuất thế độ sanh, nhưng chúng sanh đắm chìm trong đối đãi thiện ác, quả thật là tư lương để tạo ác luân hồi, trầm luân trong lục đạo. Trong một pháp, sanh khởi hai thứ tướng, có tự tại và chẳng tự tại, có giác và mê, chúng ta làm thế nào để thật sự giải thoát chính mình, tùy thuận giáo ngôn của Phật? Điều này rất trọng yếu. Nếu quý vị nương vào thức tâm của chính mình, chắc chắn sẽ là chấp giữ Biên Kiến, lấy bỏ bởi vọng thức. [Khi đó], quý vị chẳng lấy hay bỏ sẽ đau khổ, chẳng phân biệt sẽ khó tiếp nhận, lo âu nhọc nhằn sẽ khó đoạn. Vì sao? Phân biệt lấy hay bỏ trở thành sự cưỡng chấp liên tục trong sanh mạng, chính là chỗ tồn tại của nội dung sanh mạng. Nghiệp tập như thế, phiền não là như thế, cội nguồn của tội nghiệp cũng ở tại đó. Vì thế, kẻ khéo nói thiện ác, kẻ cưỡng nói thiện ác, kẻ nói nhiều về thiện ác, thì nghiệp tướng khổ nạn của kẻ đó cứ tiếp nối chẳng dứt. Vì sao? Tạo tác khổ nạn là ở chỗ này! Nhưng trong tâm trí của bậc trí, phân biệt thiện ác lập tức bị trừ sạch, thủ hộ thanh tịnh, hồi thí từ bi, cho nên trong cái tâm trí huệ chẳng có đối đãi, sức trí huệ chẳng đắm chấp chói rực trong thế gian, cùng lúc được thoát khỏi thiện ác.

Thiện ác chỉ là pháp tắc cưỡng chấp bởi hữu tình trong Dục Giới, Sắc Giới sẽ chẳng thấy. Hữu tình trong Sắc Giới chẳng chấp trước thiện, ác, đúng, sai, nhưng bọn chúng ta là hữu tình trong Dục Giới phần nhiều khoa trương sự thiện ác của chính mình. Nếu chính mình là thiện, sẽ cưỡng chế kẻ ác, nào có biết “ác giả, thiện chi tư; thiện giả, ác chi sư” (ác là chỗ dẫn dắt thiện phát khởi, thiện là thầy của ác)[4]. Nếu biết điều này, thì sẽ là người khéo dùng pháp. Nếu có ác pháp, đúng là lúc vận dụng tốt lành, đó là chánh thiện, tăng thượng thiện. Nhưng nếu thấy kẻ khác phạm lầm lỗi bèn chán ghét, quở trách, người ấy chẳng đắc thiện đạo, mà là cái tâm tà mạn. Chúng ta vận dụng trong Phật pháp, cũng phần nhiều bị Biên Kiến và tà mạn che lấp, mê mờ, cho nên kẻ xâm hại lẫn nhau thì nhiều, kẻ lợi ích lẫn nhau ít ỏi! Kẻ quan tâm yêu thương lẫn nhau hiếm hoi, kẻ cảm ơn lẫn nhau rất thưa thớt. Nếu chúng ta thật sự sống trong tâm trí cảm ơn, cảm ơn hết thảy chúng sanh bầu bạn, cảm ơn hết thảy thế gian chuyên chở, cảm ơn hết thảy hiện duyên chúng sanh, y báo và chánh báo đã che chở, chúng ta sẽ sống trong tâm trí rộng lớn, trong sự yên vui chẳng có đối đãi, sẽ sanh khởi vô úy, sanh khởi thiện xảo, sanh khởi lợi ích phước huệ chân thật.

Đối với hữu tình tánh ác, phần nhiều quở trách, thực tế là giữ lấy điều thiện, để lại điều hại cho cõi đời. Chẳng giữ lấy điều thiện, vẫn là phương tiện; một khi giữ lấy điều thiện, sẽ quở trách kẻ khác, thương tổn người khác, giống như khi giữ lấy vật sắc bén để tổn thương người khác! Người học Phật chúng ta chẳng như vậy, phải nên là chẳng chấp trước thiện ác hòng tạo lợi ích cho hữu tình có tánh ác, cứu chữa ác tánh hữu tình. Vì sao vậy? Ác tánh hữu tình mười phần khổ nạn, chìm đắm trong đớn đau chẳng được cứu thoát, họ chẳng thể tự thoát ra, nhưng thiện pháp hữu tình còn có trụ xứ an lạc. Cổ nhân Trung Hoa đã nói: “Ác giả, thiện chi tư; thiện giả, ác chi sư” chính là do ý nghĩa này! Trong xã hội thuộc thời đại hiện tại, chúng ta gần như đã đánh mất đạo đức tăng thượng cơ bản nhất, cho nên đâm ra: “Kẻ ác là đối tượng trừng phạt của thiện”. Như thế thì thiện đã đánh mất bản chất giúp đỡ cho kẻ ác [thoát khỏi điều ác]. “Giúp đỡ” chính là cơ sở để tăng trưởng thiện pháp, là cơ duyên để tăng trưởng thiện pháp.

Chúng ta thường nói “bùn lầy có thể sanh ra hoa sen”. Nếu muốn gột trừ sạch hết bùn lầy, nào có biết nguồn cội giúp sức cho hoa sen sanh trưởng chính là đó! Chư Phật Như Lai dạy chúng ta: “Chúng sanh hoan hỷ thì chư Phật hoan hỷ”. Vì sao nói như vậy? Có nghĩa là hết thảy chúng sanh là nguồn gốc của chư Phật, là thầy của chư Phật. Do vậy, chư Phật Thế Tôn chẳng hề khinh báng bất cứ hiện duyên hữu tình nào. Vì sao? Do tri ân, biết hết thảy chúng sanh là cội nguồn thiện xảo oai đức xuất thế của chư Phật, lại là thầy để hết thảy chư Phật thành Phật. Nếu chẳng xét kỹ như thế, chúng ta học Phật sẽ chẳng có tư lương, chẳng có cơ sở, giống như quý vị cho rằng đất dưới chân mình bị ô nhiễm, muốn dẹp sạch nó đi, vậy thì quý vị đứng ở chỗ nào? Nhất định là chẳng được an lạc!

(Kinh) Vô nghi võng cố, kiến Phật Như Lai. Kiến Như Lai cố, vĩnh ly mê mậu. Vô mê mậu cố, tri nhất thiết pháp chung vô khả kiến.

()無疑網故見佛如來。見如來故永離迷謬。無迷謬故知一切法終無可見。

(Kinh: Do chẳng có lưới nghi bèn thấy Phật Như Lai. Do thấy Như Lai, vĩnh viễn lìa khỏi mê muội, lầm lạc. Do chẳng mê muội, lầm lạc, biết hết thảy các pháp trọn chẳng thể thấy).

Tư Hoặc được gọi là “nghi võng” (疑網, lưới nghi). Tư Hoặc dính chặt quá sâu, từ vô thỉ tới nay đã khiến cho hữu tình khốn khó, chúng sanh trói buộc lẫn nhau, chẳng thể tự thoát ra. Do vậy, chư Phật Thế Tôn lập bày phương tiện, khiến cho chúng ta yêu thích. Từ sự tu trì như thế đó, có thể trực tiếp đoạn trừ Tư Hoặc của chính mình, khiến cho chúng ta thoát khỏi triền phược Tư Hoặc “tham, sân, si, mạn, nghi”.

(Kinh) Hà dĩ cố? Bồ Tát nhược hữu như tư kiến giả, tắc thủ bỉ kiến.

()何以故菩薩若有如斯見者則取彼見。

(Kinh: Vì cớ sao? Nếu Bồ Tát có kiến giải như thế, sẽ chấp lấy kiến giải đó).

“Thủ bỉ kiến” (Chấp giữ kiến giải ấy) là điều chẳng nên. Trong phần trước đã nói: Trọn chẳng nên có chấp lấy, chẳng có gì để thấy, chẳng có gì để tư duy, chẳng có gì để phân biệt.

(Kinh) Thủ bỉ kiến cố, tắc thủ pháp tướng. Thủ pháp tướng cố, tắc thủ sự nghiệp. Thủ sự nghiệp cố, tắc kiến chúng sanh.

()取彼見故則取法相。取法相故則取事業。取事業故則見衆生。

(Kinh: Do giữ lấy kiến giải đó, sẽ giữ lấy pháp tướng. Do giữ lấy pháp tướng, sẽ giữ lấy sự nghiệp. Do giữ lấy sự nghiệp, sẽ thấy chúng sanh).

Đấy đều là do chấp giữ các tri kiến chẳng chánh đáng!

(Kinh) Kiến chúng sanh cố, tắc kiến thọ mạng. Kiến thọ mạng cố, tắc kiến Phú-già-la. Kiến Phú-già-la cố, tắc kiến chư Ấm. Kiến chư Ấm cố, tắc kiến chư Nhập. Kiến chư Nhập cố, tắc kiến chư Giới. Kiến chư Giới cố, tắc kiến chư tướng. Kiến chư tướng cố, tắc kiến chư vật. Kiến chư vật cố, tắc kiến bỉ nhân. Kiến bỉ nhân cố, tắc phục kiến duyên. Dĩ kiến duyên cố, tắc tiện cầu thủ. Dĩ cầu thủ cố, tắc hữu  Hữu sanh.

()見衆生故則見壽命。見壽命故則見富伽羅。見富伽羅故則見諸陰。見諸陰故則見諸入。見諸入故則見諸界。見諸界故則見諸相。見諸相故則見諸物。見諸物故則見彼因。見彼因故則復見緣。以見緣故則便求取。以求取故則有有生。

(Kinh: Do thấy chúng sanh, bèn thấy thọ mạng. Do thấy thọ mạng, bèn thấy Phú-già-la (Pudgala). Do thấy Phú-già-la, bèn thấy các Ấm. Do thấy các Ấm, bèn thấy các Nhập. Do thấy các Nhập, bèn thấy các Giới. Do thấy các Giới, bèn thấy các tướng. Do thấy các tướng, bèn thấy các vật. Do thấy các vật, bèn thấy cái nhân. Do thấy cái nhân, lại thấy cái duyên. Do thấy cái duyên, bèn cầu chấp giữ. Do cầu chấp giữ, bèn có Hữu sanh).

Trong phần trước, đức Thế Tôn đã nêu lên pháp tắc tư duy. Ở đây, Ngài nói tới những điều chúng sanh chấp trước.

(Kinh) Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Nhất thiết chư pháp, chung bất khả thủ.

()何以故賢護一切諸法終不可取。

(Kinh: Vì cớ sao? Này Hiền Hộ! Hết thảy các pháp trọn chẳng thể lấy được).

Ở đây, phủ định tướng ngu si chấp trước, tướng cưỡng chấp của chúng sanh, cho đến tướng y báo và chánh báo mang lại đau khổ cho thế gian này. Trong các pháp chẳng thể đạt được, chúng sanh lại cưỡng chấp một pháp. Do vậy, gọi là chấp trước vọng tưởng điên đảo và nghiệp tập phiền não. Các danh từ ấy đã cho chúng ta biết: Cưỡng chấp là do vọng tưởng nẩy sanh.

(Kinh) Vô khả thủ cố, Bồ Tát ư bỉ nhất thiết chư pháp, bất tư, bất niệm, bất kiến, bất văn.

()無可取故菩薩於彼一切諸法不思不念不見不聞。

(Kinh: Do chẳng thể giữ lấy, Bồ Tát đối với hết thảy các pháp chẳng nghĩ, chẳng nhớ, chẳng thấy, chẳng nghe).

Như thế chính là cái tâm thanh tịnh. Chúng ta thường nói “nhất tâm”, như niệm Phật nhất tâm bất loạn. Cái tướng nhất tâm ấy chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng đến, chẳng đi. Trong cái tâm như thế, niệm Phật thanh tịnh, thanh tịnh niệm Phật, chính là nhất tâm niệm Phật. Nếu nói chẳng chứng tam-muội thì là lời lẽ chẳng tương ứng.

Cận đại, Trung Hoa có một vị đại thiện tri thức giảng kinh Lăng Nghiêm, tức người sáng lập Viên Minh Giảng Đường: Pháp sư Viên Anh. Trong lúc Nhật Bản xâm chiếm Trung Hoa, Ngài nhiều lượt sang Đông Nam Á quyên tiền và vật dụng kháng Nhật. Thậm chí, tổ chức tăng nhân cứu hộ đội v.v… Vì thế, người Nhật bắt Sư vào tù, dùng cái chết để uy hiếp, hòng khuất phục những ai chống đối Nhật Bản xâm lược. Thông thường, pháp sư Viên Anh giảng kinh Lăng Nghiêm tại Trung Hoa lục địa rất có oai danh, thậm chí tại các quốc gia ở Đông Nam Á cũng thế. Nhưng khi ấy, tâm trí của Ngài đặt nơi chuyên giảng kinh Lăng Nghiêm, dẫu cho tâm trí chứng ngộ của Ngài tại chùa Tuyết Phong cũng không thể nương cậy được [trong khi đối diện với cái chết]. Nếu Ngài chết vào lúc ấy, sẽ lấy gì để nương về? Khi đó, Ngài nghĩ đến pháp môn Niệm Phật thường nhật. Pháp sư Viên Anh hiểu rõ niệm Phật, Ngài tổng kết bằng hai câu: “Rành rành phân minh, trọn chẳng có gì để đạt được”. Ngài dùng tâm trí ấy để niệm Phật, đạt được rành rành phân minh, thanh tịnh niệm Phật, trọn chẳng có gì để đạt được, quyết định y chỉ thanh tịnh niệm Phật, chọn lựa pháp môn Niệm Phật. Sau đó, người Nhật thấy Ngài bèn chẳng áp bức nữa, vì sao? Vì trong nhân duyên ấy, Ngài đã chứng đắc tướng Tương Tự Niệm Phật tam-muội. Trong lúc tai nạn tột cùng, pháp sư Viên Anh quy hướng Tịnh Độ, đạt được đại lợi. Sau khi ra khỏi tù, Ngài bèn truyền bá rộng rãi pháp môn Niệm Phật, hướng dẫn chúng sanh sanh khởi lòng tin quyết định đối với niệm Phật.

Lúc bình thời, chúng ta chẳng biết sanh tử bức bách, cứ cho là thường hằng, cho nên chẳng thể “rành rành phân minh, trọn chẳng có gì đạt được” mà niệm Phật. Nói chung là có mong mỏi, có mong chờ đối với tương lai, thậm chí có mong mỏi đối với danh tự của tam-muội, chẳng biết “chẳng nhiễm, chẳng chấp” chính là chánh nhân của tam-muội, “chẳng được, chẳng mất” chính là cái duyên của tam-muội. “Chẳng tạo tác” chính là cái Thể của tam-muội. Lúc chẳng biết, cứ khăng khăng tạo tác, hư vọng giữ lấy thiện ác, hư vọng giữ lấy cảnh giới tốt xấu, cho đến hư vọng giữ lấy khinh an, hư vọng giữ lấy giác thọ, hư vọng giữ lấy ấm cảnh v.v… các thứ cảnh giới, cho nên đã vuột mất pháp ích trong hiện tiền.

(Kinh) Hiền Hộ! Chung bất như chư ngoại đạo, nhược ngoại đạo đệ tử thủ trước Phú-già-la, cập dĩ Ngã Kiến dã.

()賢護終不如諸外道若外道弟子取著富伽羅及以我見也。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Trọn chẳng như các ngoại đạo, hoặc các đệ tử ngoại đạo chấp giữ Phú-già-la cùng với Ngã Kiến).

Hiện thời trong Phật pháp, có nhiều vị xuất gia hay tại gia tuy tu trì, nhưng tà kiến lừng lẫy! Vì sao vậy? Tham cầu, so đo cái thân, muốn do sự nhận biết [từ các giác quan] mà chứng đắc Bồ Đề, nhưng chẳng biết, chẳng thấy sự lựa chọn “nhất tâm thanh tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng đối đãi”, chẳng dám lựa chọn. Chẳng dụng công nơi pháp tánh vô tạo tác và cái tâm chân thật, cứ từ trong cái tâm hư vọng mà lấy, bỏ nhiều lượt. Kết quả là rơi vào tri kiến của ngoại đạo.

Nếu là đệ tử Phật, chuyện liên quan đến “khổ, không, vô thường, vô ngã, Niết Bàn tịch tĩnh, pháp chẳng có tự tánh”, quả thật là pháp tắc trọng yếu hàng đầu, là sự nhận biết để lựa chọn. Nếu chẳng đặt vững tri kiến ấy, sẽ chẳng phải là đệ tử Phật! Dẫu hành trì Phật pháp, niệm Phật hiệu, tụng kinh Phật, lễ tượng Phật, nhưng chủng tử trong tâm trí là chủng tử ngoại đạo, chẳng tương ứng! Vì thế, trong “thuyết pháp ấn” của đức Thế Tôn, Ngài đã nhiều lượt dùng ấn khế để in vào tâm chúng sanh, khiến cho chúng ta thoát lìa tri kiến và chủng tánh ngoại đạo. Nếu chẳng phải như thế, dẫu chúng ta suốt kiếp đọc kinh Phật, vẫn trọn chẳng tương ứng. Kết quả là thường bị cảnh giới xoay chuyển, chẳng biết chuyển cảnh, vì chúng ta chẳng có pháp tắc để tu tập kinh giáo, chẳng dựa theo kinh giáo để nhận biết tự tâm, ấn chứng, hứa khả tự tâm, coi vọng chấp trong tự tâm là kinh điển [để vâng theo]. Như thế thì dẫu suốt năm trọn tháng tu tập, niệm tụng, vẫn chỉ là nhân duyên xa vời vợi trong vị lai, chứ lợi ích trong hiện tiền nói chung sẽ chẳng mong đạt được!

Tri kiến của các ngoại đạo và tri kiến của Phật pháp đích xác là có sai khác như vậy đó! Do vậy, đức Thế Tôn nói ra ba pháp ấn, hay bốn pháp ấn, nói Thật Tướng ấn, chúng ta nhất định phải từ trong các ấn khế ấy mà thật sự ấn khế xem chính mình có phải là đệ tử Phật hay không? Tức là khởi tâm động niệm của chúng ta có phải là vô thường, vô ngã hay không? Có phải là Niết Bàn tịch tĩnh hay không? Có phải là lựa chọn “pháp chẳng có tự tánh” hay không? Nếu chẳng lựa chọn [như thế], chúng ta sẽ cho rằng có thiện, có ác, có đúng, có sai, có yêu, có ghét, có phàm, có thánh, như thế thì chính là cái tâm phàm phu trong Dục Giới, mà cũng là tâm ngoại đạo. Nhưng trong Tăng chúng, trong giới cư sĩ hiện tiền, cái tâm ngoại đạo lại càng phổ biến! Tuy nói như vậy khá nặng nề, nhưng chúng ta có thể xét kỹ chính mình, đối với khởi tâm động niệm của chính mình trong mỗi sát-na, có phù hợp pháp ấn của Phật Đà hay không? Có phải là thanh tịnh vô nhiễm, chẳng vướng, chẳng mắc, chẳng đối đãi hay không? Nếu là phải, thì là đệ tử Phật. Nếu không, sẽ là tri kiến ngoại đạo. Hễ có cưỡng chấp thì chính là chủng tánh ngoại đạo. Dẫu vào trong biển tri kiến của Phật pháp, vẫn giống như dùng cái bình chứa ít nước, niêm kín, vứt vào biển, [nước trong bình ấy] chẳng thể dung nhập, khế hợp với biển cả. Vì thế, trong biển trí sâu rộng, chúng ta luôn dùng tri kiến của chính mình để cưỡng chấp cách ly, chẳng thể dung nhập!

(Kinh) Hiền Hộ! Bồ Tát chung bất tác như thị kiến, vân hà kiến Bồ Tát kiến giả? Như Như Lai kiến, chung bất thoái chuyển.

()賢護菩薩終不作如是見云何見菩薩見者如如來見終不退轉。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Bồ Tát trọn chẳng có cái thấy như thế, thấy cái Thấy của Bồ Tát như thế nào? Như cái Thấy của Như Lai, trọn chẳng thoái chuyển).

Như Lai dùng gì để thấy? Vì thế, nói quả địa giác rất trọng yếu. Kinh Viên Giác đã xiển thuật cặn kẽ bốn loại tri kiến, tức cái gọi là “tùy thuận giác tánh”, bao gồm chúng sanh tùy thuận giác tánh, Bồ Tát tùy thuận giác tánh, Đăng Địa Bồ Tát tùy thuận giác tánh, và chư Phật Như Lai tùy thuận giác tánh. Trong chư Phật Như Lai tùy thuận giác tánh, tiêu trừ đối đãi, diệt mất thiện ác, tỏ lộ rõ rệt Phật Tánh, trọn đủ chân thật. Đó gọi là “linh đệ nhất thiên cung hàm vi Tịnh Độ, trì giới, phạm giới, giai vi phạm hạnh” (khiến cho cung trời bậc nhất đều là Tịnh Độ, trì giới hay phạm giới đều là phạm hạnh). Vì sao nói như vậy? Trong biển tịch diệt của đức Thế Tôn, đã chiếu soi, biết rõ tướng Chân Như, chứ phàm phu do phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng thể kiến lập. Nếu chẳng thể nhận biết tri kiến của Như Lai là như thế, chúng ta sẽ chẳng thể tùy thuận cái Thấy của Như Lai. Có nhiều hữu tình vọng chấp, dùng tri kiến của chính mình để phân tích, đồng hóa Phật pháp. Kết quả là Phật pháp hoàn toàn  bị  họ “xử  lý” một  lượt, hoàn  toàn  trở  thành  rác rưởi. Đó gọi là “rác rưởi tri kiến”, nói chung là chẳng tương ứng.

Đây là một chuyện rất khó khăn, vì trong thời đại này, sách vở lưu truyền rất rộng, phương tiện để duyệt đọc, trao đổi, phương tiện ngôn thuyết, phương tiện tư duy [rất nhiều], kết quả là chẳng dạy theo thứ tự, học pháp theo kiểu xen tạp, loạn xạ, quá nhiều! Trong quá khứ, khi tôi mới xuất gia, có thiện tri thức chỉ điểm sách để xem, không cho phép xem loạn xạ. Vì chẳng hạn như xem các giáo ngôn của các vị tổ sư từ đời Tống, đời Minh trở đi, tuy là chẳng thể nghĩ bàn, nhưng giống như một bầu sữa thêm vào mười bầu nước! Nếu chẳng khéo phân biệt, coi nước là sữa, sẽ chẳng thể tự lợi, chẳng thể dưỡng dục Pháp Thân huệ mạng. Còn từ đời Tùy – Đường trở về trước, các lời dạy của thiện tri thức chẳng tăng giảm giáo ngôn của đức Thế Tôn, ví như thuần là sữa. Tuy có chút phần nước, nhưng giống như vài nét chấm phá, vị sữa vẫn mười phần trọn đủ. Hễ đọc, sẽ có thể tiêu hóa. Nếu một cân sữa thêm vào một trăm cân nước, dùng sữa như thế để dưỡng dục sanh mạng, có ý nghĩa gì chăng? Chỉ có sắc, chẳng có vị sữa! Nếu phước đức của chúng ta giống như ngỗng chúa, khéo có thể chọn sữa từ trong nước, như thế thì sẽ hấp thụ chất dinh dưỡng, lợi lạc Pháp Thân huệ mạng của chính mình. Nhưng nếu chẳng có phước đức như vậy, nước lẫn sữa đều cùng dùng, sẽ chẳng đạt được lợi ích ấy! Vì thế, chúng ta học biết rất nhiều thứ mà chẳng đắc lực, vì sở học chẳng thể dưỡng dục Pháp Thân huệ mạng của chúng ta, chẳng thể tăng thêm các Thiền Định và trí huệ. Khi đó, thiện tri thức quở trách, dạy bảo tôi như thế, đích xác là đã khiến cho tôi được gia trì và lợi ích rất lớn. Nhưng người hiện thời xem sách, muốn xem thứ gì liền xem thứ đó, muốn học gì bèn học thứ đó. Tri kiến hễ tiếp xúc thứ nào trước, thứ đó sẽ là chủ chốt. Đả động tri kiến còn nguy hại hơn giết sanh mạng nữa! Đấy cũng là tướng cộng nghiệp!

Vì thế, học Phật mà nếu chẳng có sức truyền thừa chân thật, cũng có nghĩa là chẳng thể trừ khử lo ngờ, khiến cho cái tâm quý vị tịnh, mà là chấp trước tri kiến. Chấp trước cái gọi là “đa văn”, quý vị sẽ rất khó loại trừ nghiệp tướng độc hại ấy. Vì quý vị đã bị gánh nặng trân bảo của chính mình đè sụp, giống như con trùng nhỏ thích cõng vật nặng trong Phù Bản Truyện. Trong lúc cùng mọi người học tập đã gần một tháng, điều tôi nhắc tới nhiều nhất là “chúng ta đừng cõng gánh nặng trân bảo của chính mình”, “đừng cõng gánh nặng lầm lỗi của kẻ khác”. Hai gánh nặng ấy có thể đè sụp con người. Do vậy, “nhập Như Lai kiến, chung bất thoái chuyển” (vào trong cái Thấy của Như Lai, trọn chẳng thoái chuyển). Nếu chẳng biết cái Thấy của Như Lai là thấy như thế nào ư? Chính là Như Lai ấn, chính là Như Lai giác tánh, chính là quả địa giác của Như Lai, chính là giải thoát tri kiến. Toàn bộ kinh Hiền Hộ không ngừng dạy bảo chúng ta về tri kiến của Như Lai. Nếu quý vị chẳng biết, làm sao vận dụng được?

(Kinh) Bồ Tát kiến, như Bích Chi Phật kiến, như A La Hán kiến. Bồ Tát đương ưng tác như tư kiến. Như tư kiến cố, bất ức, bất niệm, bất kiến, bất văn. Dĩ bất ức niệm cập kiến văn cố, diệt chư vọng tưởng, tức đắc tư duy như tư tam-muội dã.

()菩薩見如辟支佛見如阿羅漢見。菩薩當應作如斯見。如斯見故不憶不念不見不聞。以不憶念及見聞故滅諸妄想即得思惟如斯三昧也。

(Kinh: Cái Thấy của Bồ Tát giống như cái Thấy của Bích Chi Phật, như cái Thấy của A La Hán. Bồ Tát hãy nên thấy như thế. Do thấy như thế, chẳng nhớ, chẳng nghĩ, chẳng thấy, chẳng nghe. Do chẳng nghĩ nhớ và thấy nghe, diệt các vọng tưởng, liền được tư duy tam-muội như thế).

Do nhân duyên “chẳng nhớ, chẳng nghĩ, chẳng thấy, chẳng nghe”, đạt được chánh tư duy tam-muội, tức là tư duy chẳng đắm nhiễm. Có người dùng học vấn để tư duy sẽ chẳng thể phù hợp. Có kẻ dùng tri kiến để tư duy, cũng chẳng phù hợp. Nếu xét theo hai câu khẩu quyết niệm Phật “rành rẽ phân minh, trọn chẳng có gì để đạt được” của pháp sư Viên Anh, dùng cái tâm hữu sở đắc (có điều gì để đạt được) sẽ rất mệt. Dùng cái tâm vô sở đắc để niệm Phật mà nếu cưỡng chấp, cũng rất mệt. Vì thế, hiểu rành rẽ, phân minh, trọn chẳng có gì để đạt được, chẳng có gì nhiễm, thanh tịnh niệm Phật, chẳng chấp trước, đỡ tốn sức mà niệm Phật, đúng là cảm ân đội đức! Vì sao vậy? Thật sự giải thoát tâm linh của chính mình, tháo bỏ gánh nặng của chính mình, tất cả gánh nặng thiện ác, gánh nặng đối đãi, gánh nặng thánh phàm, cùng lúc được giải thoát, sẽ thật sự cảm kích Phật Đà Thế Tôn.

Chỉ có bản thân chúng ta chẳng mang nặng nữa, chẳng tạo khổ nữa! Nếu không, chúng ta đúng là chẳng có gì để cảm kích, chẳng biết ân thì báo ân bằng cách nào? Ân còn chẳng thể được, có thể cảm ơn bằng cách nào? Ân ở chỗ nào? Ở chỗ trừ khử gánh nặng lấy bỏ, gánh nặng phân biệt, gánh nặng chẳng chánh kiến của chúng ta từ vô thỉ đến nay, khiến cho chúng ta hiểu rõ ràng, an lạc, chẳng vướng mắc, chẳng  đối đãi, chẳng nghĩ ngợi, chẳng thấy, chẳng nghe, thanh tịnh một bề, chân thật niệm Phật!

Trong Ngẫu Ích Đại Sư Toàn Tập chép: Có người tới hỏi Ngẫu Ích đại sư: “Thưa đại sư! Ngài thông đạt giáo lý. Dù là Hoa Nghiêm, hay là Thiên Thai, hay là Tam Luận, Ngài đều tiến nhập vô ngại. Sao Ngài chẳng giảng các bộ đại luận, đại giáo? Cớ sao cứ khuất mình giữ gìn pháp tắc Niệm Phật như thế?” Ngẫu Ích đại sư nói: “Thiện tri thức! Ông hãy thôi đi! Chẳng cần phải nói nữa!” Sau đó, Ngài bảo: “Một niệm hiện tiền của ông, nếu chẳng niệm Phật thì ông sẽ niệm gì?” Lúc đó, tôi đọc những câu ấy, đúng là òa khóc tuôn lệ, vì sao vậy? Đúng là một niệm sẽ là như thế nào? Một niệm tỏ lộ tam thiên, tam thiên dung nhập trong một niệm. Một niệm ấy có thể làm gì? Ai biết, ai hiểu? Thiện tri thức tự biết, nhưng kẻ mê muội đã mê mất công dụng rộng lớn của một niệm, tức là tam giới sẽ kéo dài, ba đời sẽ tiếp tục! Chúng ta hãy khéo tư duy, quan sát!

(Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Thí như hư không, bổn vô hình sắc, bất khả quán kiến, vô hữu chướng ngại, vô sở y chỉ, vô hữu trụ xứ, thanh tịnh vô nhiễm, diệc vô cấu trược. Chư Bồ Tát bối, kiến nhất thiết pháp, diệc phục như thị.

()復次賢護譬如虛空本無形色不可觀見無有障礙無所依止無有住處清淨無染亦無垢濁。諸菩薩輩見一切法亦復如是。

(Kinh: Lại này Hiền Hộ! Ví như hư không vốn chẳng có hình sắc, chẳng thể xem thấy, chẳng có chướng ngại, không gì để nương tựa, chẳng có trụ xứ, thanh tịnh vô nhiễm, cũng chẳng có nhơ bẩn. Các vị Bồ Tát thấy hết thảy các pháp cũng giống như thế).

Quan sát sâu sắc, quan sát rành rẽ, quan sát không ngừng, quan sát chân thật rồi kết luận như thế, dùng [các điều quan sát] như thế để phá trừ lưới nghi, chọn lựa pháp nghĩa như thế.

(Kinh) Sở vị ư bỉ hữu vi, vô vi nhất thiết pháp trung, vô hữu xứ chướng ngại.

()所謂於彼有爲無爲一切法中無有處障礙。

(Kinh: Tức là trong hết thảy các pháp hữu vi và vô vi, chẳng có chỗ chướng ngại).

Vì sao? Hữu vi, vô vi là các danh tự giả lập, ắt chẳng có tự tánh. Chúng ta tạo nghiệp nơi danh tự, vì sao hư vọng lấy bỏ? Vì sao cưỡng chấp phân biệt thiện ác? Vì sao hư giả giữ lấy yêu ghét?

(Kinh) Nãi chí diệc vô xứ sở. Dĩ nhãn thanh tịnh vô chướng ngại cố, nhất thiết chư pháp tự nhiên hiện tiền.

()乃至亦無處所。以眼清淨無障礙故一切諸法自然現前。

(Kinh: Cho đến cũng chẳng có xứ sở. Do mắt thanh tịnh chẳng có chướng ngại, hết thảy các pháp tự nhiên hiện tiền).

Do tâm thanh tịnh, mắt thanh tịnh, do tâm và mắt tương ứng, cho nên được thấy chư Phật. Tâm chẳng thanh tịnh, mắt ắt ô trược! Nếu lúc chúng ta đối trước thiện duyên và ác duyên, đều có thể khéo tư duy, đối phương (đối tượng trông thấy bởi mắt) sẽ là thiện tri thức. Nếu chúng ta chẳng khéo tư duy, cứ tìm kiếm nơi sự tướng, tìm kiếm nơi âm thanh tốt đẹp như khen ngợi, ghét âm thanh xấu như phỉ báng, chúng ta sẽ bị mê muội bởi ác ngôn, ác ngữ, bị thiện ngôn, thiện ngữ cưỡng chế. Như thế thì sẽ chẳng tự tại, chẳng hiểu rõ cái tâm. Vì thế, kẻ bị cảnh chuyển, mê mất tự tâm, được gọi là “chúng sanh”. Người thường có thể chuyển cảnh, an ủi thế gian, thì là Bồ Tát, là bậc giác ngộ. Vốn chẳng khác biệt, chỉ vì sử dụng và chấp trước cái Thấy và cách dùng khác biệt. Chúng ta xét kỹ như thế nào? Ở đây, phải nên rất nghiêm túc. Đáng nên nghiêm túc thì nên nghiêm túc. Chẳng nghiêm túc là như chấp giữ, đắm nhiễm, tư duy hư vọng. Đó là chẳng nghiêm túc.

(Kinh) Bỉ chư Bồ Tát như thị niệm thời, tức kiến chư Phật. Kỳ sở trang nghiêm, trạng như kim liễn, cụ túc oai nghi. Như bách thiên quang, viêm hách tư chiếu. Như Thu mãn nguyệt, chúng tinh vi nhiễu. Như Chuyển Luân Vương, quân chúng xí thịnh. Như Thiên Đế Thích, tứ phụ trung tôn. Như Đại Phạm Vương, xử bỉ thiên tòa. Như sư tử vương, oai phục chúng thú. Như tiên bạch hộc, xử không nhi phi. Như Tu Di sơn vương, an trụ đại hải. Như Đại Tuyết Sơn, xuất chư lương dược. Như Thiết Vi sơn, nhiếp trì mãnh phong. Như bỉ thủy giới, trụ trì đại địa. Như đại phong luân, tịnh hư không giới. Như Tu Di đảnh, tráng lệ thiên cung.

()彼諸菩薩如是念時即見諸佛 。其所莊嚴 狀如

金輦具足威儀。如百千光炎赫斯照。如秋滿月衆星圍繞。如轉輪王軍衆熾盛。如天帝釋四輔中尊。如大梵王處彼天座。如師子王威伏衆獸。如鮮白鵠處空而飛。如須彌山王安住大海。如大雪山出諸良藥。如鐵圍山攝持猛風。如彼水界住持大地。如大風輪淨虛空界。如須彌頂壯麗天宮。

(Kinh: Các vị Bồ Tát ấy khi nghĩ như thế, liền thấy chư Phật. Các Ngài trang nghiêm, hình dạng như cỗ xe bằng vàng, trọn đủ oai nghi. Như trăm ngàn quang minh, chiếu rực rỡ, chói ngời. Như trăng tròn mùa Thu, các ngôi sao vây quanh. Như Chuyển Luân Vương, quân đội đông đảo. Như Thiên Đế Thích tôn quý trong bốn vị đại thần phù tá. Như Đại Phạm Vương, ngự trên tòa trời. Như sư tử chúa, oai thế hàng phục các loại thú. Như chim hộc trắng sạch, bay trên hư không. Như núi chúa Tu Di, an trụ trong biển cả. Như Đại Tuyết Sơn, sanh ra các thứ thuốc tốt lành. Như núi Thiết Vi nắm giữ các luồng gió mạnh. Như thủy giới giữ yên đại địa. Như vầng gió lớn, thanh tịnh cõi hư không. Như trên đỉnh núi Tu Di, cung trời tráng lệ).

“Tức kiến chư Phật” (Liền thấy chư Phật), chư Phật có hình dạng như thế nào? Ở đây, [đức Thế Tôn] không ngừng dùng các vật mà chúng ta có thể thấy, có thể biết để tỷ dụ, hướng dẫn, hòng tăng cường sự nhận biết và sự vui thích, yêu mến của chúng ta!

(Kinh) Như thị Hiền Hộ! Bỉ chư Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác, dĩ trí đức quang chiếu minh nhất thiết tam thiên đại thiên chư Phật thế giới, kỳ sự nhược thử.

()如是賢護彼諸如來應等正覺以智德光照明一切三千大千諸佛世界其事若此。

(Kinh: Như thế đó Hiền Hộ! Các đức Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác ấy dùng quang minh trí đức để chiếu sáng hết thảy tam thiên đại thiên các thế giới chư Phật, chuyện là như thế đó).

Trí đức quang minh của chư Phật Như Lai chiếu sáng hết thảy tam thiên đại thiên thế giới chư Phật. Phàm phu hữu tình thì một tiểu thế giới cũng chẳng léo hánh được! Trong các vị đã chứng Tứ Hướng, Tứ Quả, trí lực của thánh giả Tu Đà Hoàn quả có thể khéo biết một tiểu thế giới, A La Hán có thể biết các tướng trang nghiêm trong một đại thiên thế giới, có thể vận dụng tự tại trong một đại thiên thế giới. Công đức của vị thánh ấy chẳng phải là hư giả đặt ra. Thánh giả trong Phật pháp chẳng phải là lập ra hư giả. Nếu là thánh nhân xuất thế, sẽ hiện nhân duyên đại phước đức. Như lần trước, tôn giả Hỗ Ba (Khruba Boonchum) đến đây, trong tay Ngài có bảo châu do long vương hiến tặng. Khi Ngài chứng quả, đại địa chấn động. Các vị hộ pháp có lòng yêu mến từ cung trời, hoặc long vương đều đến cúng dường như thế. Ngài đã đánh mất hạt châu ấy ba bốn lần, nhưng mỗi lần đều có người dùng các thứ nhân duyên đưa trả lại. Vì sao? Người khác chẳng giữ nổi viên châu ấy. Nhân duyên oai đức và phước đức của thánh nhân như thế chẳng phải là hư giả đặt ra. Bậc thánh nhân đều có oai đức thiện xảo, phước đức thiện xảo, Thiền Định thiện xảo, sức thần thông thiện xảo, vô úy thiện xảo, biết trọn khắp thiện xảo, được trời, rồng thủ hộ, trời, rồng tôn sùng, hết thảy trí giả và thánh giả yêu mến. Tất cả những điều ấy khiến cho oai đức bất cộng và phước đức bất cộng nẩy sanh. Phàm thì chính là phàm, chúng ta chẳng thể dùng phàm loạn thánh. Thánh chính là thánh, dẫu có ngăn trở, che lấp, vẫn chẳng thể ngăn trở, che lấp được. Sở dĩ thánh là thánh, chẳng phải là do ngôn thuyết mà thành thánh, mà là thánh vì oai đức, là thánh vì công đức chân thật. Ở đây, chẳng thể lập bày hư giả, chẳng thể hư vọng, chẳng dám coi thường, nói dối đôi chút cũng chẳng được, nói lời khác lạ một tí cũng chẳng được. Kẻ hư vọng thật sự đáng buồn, vì chẳng có đôi vai ấy, sẽ chẳng thể gánh vác các thứ này!

Ở đây, tôi lại chẳng ngại nêu một thí dụ, vì sợ mọi người đem phàm loạn thánh. Vì tôn giả Xá Lợi Phất phát nguyện làm đệ tử đứng đầu của chư Phật, và luôn nhập diệt trước chư Phật. Do đó, trước khi đức Thế Tôn nhập diệt, Ngài bạch cùng đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn! Con sẽ nhập diệt”. Đức Thế Tôn im lặng chấp thuận. Ngài Xá Lợi Phất trở về thôn xóm nơi chính mình đã sanh trưởng, tức là thành phố Na Lan Đà hiện thời, vào trong ngôi nhà đã nuôi lớn Ngài. Mẹ Ngài vẫn còn sống, trông thấy Ngài, bèn sanh nghi hoặc to lớn: “Ối chao ơi! Vì sao đến tuổi già, con lại xả giới hoàn tục vậy? Nhà mình tài sản vô số, lúc trẻ tuổi con chẳng biết lấy dùng, tuổi già hoàn tục, có ích gì đâu chứ?” Mẹ ngài Xá Lợi Phất tôn kính Đại Phạm, chẳng ưa thích Phật pháp, chẳng biết Phật pháp, thường lo ngờ Xá Lợi Phất. Tuy trong lúc hoài thai Xá Lợi Phất, trí huệ và biện tài của bà ta thiện xảo bậc nhất, chẳng bị chướng ngại, nhưng bà chẳng học Phật. Do vậy, trước khi nhập diệt, ngài Xá Lợi Phất trở về nhà, bà mẹ sanh lòng nghi hoặc, nghĩ Xá Lợi Phất đã hoàn tục. Mẹ đang tựa cửa, trông thấy đứa con của chính mình đã già khọm. Khi đó, Đại Phạm hiện đến, phóng quang minh, đảnh lễ dưới chân ngài Xá Lợi Phất, thốt lời tán thán. Bà mẹ hết sức kinh sợ, nói: “Vì sao đại thiên tới chỗ này? Con ơi! Con hành pháp gì mà vị này đến kính ngưỡng con?” Ngài Xá Lợi Phất chẳng đáp. Cho đến các loại trời, rồng đến lễ kính, cúng dường, khuyến thỉnh Ngài trụ thế. Mẹ Ngài hết sức nghi hoặc. Khi đó, ngài Xá Lợi Phất nói: “Ưu-bà-di! Bà thấy vị thiên tôn này hay không?” Mẹ Ngài hỏi: “Ta thờ phụng vị thiên tôn này, cớ sao Ngài đến lễ kính dưới chân con?” Ngài Xá Lợi Phất đáp: “Con đã có thể thủ hộ pháp rất sâu. Việc làm đã xong, phạm hạnh đã lập, chẳng còn thân sau, là bậc Ứng Cúng trong tam giới, là thầy hướng dẫn của tam giới, là ruộng phước cho tam giới”. Ngài nói lời quyết định; do vậy, mẹ Ngài được Ngài thành tựu, cuối cùng trở thành một vị ưu-bà-di quy y Tam Bảo. Thánh giả tự có thánh công đức, thánh giả tự có thánh tướng. Ngay như bậc Sơ Quả trong thánh quả Thanh Văn, biết một tiểu thiên hạ mà đạt được sức tự tại: Khi đi lại, tự nhiên lìa khỏi mặt đất, chẳng gây hại sát sanh. Đó là điều quyết định chẳng nghi. Nói đến chỗ này, chỉ sợ mọi người hễ đạt được sự khinh an tương tự, lợi ích, cảnh giới tương tự v.v… liền nhận lầm đầu với chân, tự chuốc lấy phiền não, cho nên tôi nhắc nhở đôi chút.

(Kinh) Hiền Hộ! Bỉ chư Bồ Tát ư chánh quán trung, phục như tư niệm: “Nhi chư Như Lai hữu sở tuyên thuyết, ngã tích thính văn, văn dĩ độc tụng, thọ trì, tu hành”. Như thị niệm dĩ, tùng tam-muội khởi. Như bỉ định trung sở văn chư pháp, tư duy kỳ nghĩa, vị tha tuyên thuyết. Hiền Hộ! Đương tri thị tam-muội vương, vị chư Bồ Tát tác tư lợi ích, năng dữ như thị chư công đức tụ, sở vị thế gian, xuất thế gian nhất thiết chư pháp dã.

()賢護彼諸菩薩於正觀中復如斯念 而諸如來有所宣說我昔聽聞聞已讀誦受持修行。如是念已從三昧起。如彼定中所聞諸法思惟其義爲他宣說。賢護當知是三昧王爲諸菩薩作斯利益能與如是諸功德聚所謂世間出世間一切諸法也。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Các vị Bồ Tát ấy trong chánh quán, lại nghĩ như thế này: “Đối với các lời tuyên thuyết của các đức Như Lai, xưa kia, ta đã được nghe, nghe xong đọc tụng, thọ trì, tu hành”. Nghĩ như thế rồi, từ tam-muội khởi, đối với các pháp được nghe trong Định đều suy nghĩ ý nghĩa, vì người khác tuyên nói. Này Hiền Hộ! Hãy nên biết tam-muội vương này vì các Bồ Tát tạo lợi ích ấy, có thể ban cho các khối công đức như thế, tức là hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian).

Tướng quang minh công đức của tam-muội vương khiến cho chúng ta thấy rõ tam thiên đại thiên thế giới chư Phật. Có người niệm A Di Đà Phật, chứng đắc Niệm Phật tam-muội, cũng có thể biết rõ vô lượng thế giới. Thời cận đại, có ghi chép một số ít người chứng tam-muội. Trong lịch sử, có Hám Sơn đại sư chứng đắc Tùy Ý tam-muội. Khi Ngài ở một chỗ trên Ngũ Đài Sơn, lúc bấy giờ, trời đổ một trận tuyết lớn, tuyết dày vùi kín gian nhà của Ngài. Mọi người vốn cho rằng Ngài đã bị chết cóng, nhưng sau khi tuyết tan, trông thấy Ngài đang ngồi thiền trong ấy, mọi người đều hết sức rúng động. Lại như Hám Sơn đại sư chép kinh Hoa Nghiêm, tay vừa chép kinh, vừa nói chuyện với người khác, chữ chẳng chép sai, hàng lối chẳng sai lệch, lời nói cũng không lầm loạn, Tùy Ý tam-muội tự tại mà! Đấy chẳng phải là Ngài nói suông, mà là Ngài làm được. Quý vị đừng nên cho rằng chính mình đã chứng hay không, cứ sử dụng là biết ngay. Mảy may hư giả đều chẳng được. Nếu không, đại vọng ngữ sẽ gây tổn thương rất dữ dội!

(Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, nhược bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, tùy dục cầu chứng Vô Thượng Bồ Đề, đương ưng thính văn như thị tam-muội. Văn dĩ, thư tả, độc tụng, thọ trì, tu tập, tư duy, quảng vị tha thuyết, linh thị diệu pháp lưu bố thế gian.

()賢護是故若彼善男子善女人隨欲求證無上菩提當應聽聞如是三昧。聞已書寫讀誦受持修習思惟廣爲他說令是妙法流佈世間

(Kinh: Này Hiền Hộ! Do vậy, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy muốn cầu chứng Vô Thượng Bồ Đề, hãy nên nghe tam-muội như thế. Nghe rồi biên chép, đọc tụng, thọ trì, tu tập, tư duy, rộng vì kẻ khác nói, khiến cho diệu pháp này được truyền bá trong thế gian).

Đoạn văn tự này vẫn nhằm khuyên chúng ta nghe pháp này, cầu pháp này, tư duy, biên chép, đọc tụng, truyền bá pháp tắc như vậy, chứng thực pháp tắc như vậy. Bộ kinh này chỗ nào cũng đều tuyên nói như thế, rốt cuộc chúng ta tiếp nhận được bao  nhiêu? Chuyện  này  đúng là tùy thuộc nhân duyên của mỗi người!

Chúng ta đã nghe tiếng bước chân sắp viên mãn của An Cư kết hạ, còn năm ngày nữa. Sinh hoạt tập trung học tập trong một trăm hai mươi ngày an cư sắp kết thúc viên mãn. Thuận theo nhân duyên ấy, chúng ta học tập kinh Ban Châu Tam Muội cũng sắp viên mãn. Vốn là bộ kinh như thế này, nếu chiếu theo lối khoa phán để học tập, sẽ tốn rất nhiều thời gian; vì văn tự của kinh này khá bình dị, chúng ta liền đọc tụng, để mọi người rộng kết nhân duyên hành trì Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Vạn sự đều do nhân duyên mà khởi, do nhân duyên mà diệt. Nếu chẳng có duyên khởi, pháp chẳng thể tự sanh một mình được. Trong cõi đời, chẳng có bất cứ pháp nào có thể trơ trọi sanh khởi, cũng chẳng có bất cứ đoạn diệt nào để có thể đạt được! Trong pháp tắc “vốn chẳng có một pháp nào để đạt được”, chúng ta nhờ nương theo một kinh, nương cậy một pháp tắc, thông qua cảm nhận liên tục, sẽ có thể thành thục một sanh mạng [tồn tại] liên tục để nương vào.

Đối với toàn thể chỗ nương cậy để sanh mạng được tiếp nối đến tận tương lai, kẻ không có pháp tắc sẽ mê mờ. Kẻ chẳng có pháp tắc rõ rệt, sẽ mong chủ động vận dụng trí huệ và từ bi sáng suốt, hòng dần dần thuần thục sanh mạng của chính mình. Cơ chế như thế cũng chẳng thể đạt được! Do vậy, chúng ta có thể gặp gỡ một pháp môn, một cơ chế pháp, nhất là kinh Hiền Hộ khá có hệ thống như thế, là một giáo điển đã giới thiệu hoàn thiện pháp tắc bất cộng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, đích xác là phước đức của mọi người. [Phước đức ấy] khó lìa khỏi oai đức gia bị của đức Thích Ca Thế Tôn, mà thiện căn của chúng ta cũng được chín muồi chẳng ít. Do thiện căn chín muồi và được Phật Đà Thế Tôn gia bị, mọi người được gặp kinh điển này. Chúng ta đừng nên học xong bèn hời hợt bỏ qua. Nếu chẳng thể thâm nhập tu tập, đúng là khá đáng tiếc, chỉ có thể trở thành chủng tử của một nhân duyên xa xôi!

Nếu chúng ta gặp pháp tắc này mà có thể thật sự tu tập nó, sẽ giống như kinh văn đã chỉ dạy: Trong các pháp xuất thế và nhập thế, pháp này tạo lợi ích rộng khắp cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát. Người muốn cầu Vô Thượng Bồ Đề, nghe nói tam-muội này, đọc tụng, biên chép, khéo tư duy, rộng vì người khác nói tam-muội này, cho đến người đích thân chứng tam-muội này, đều được đức Thế Tôn tán thán, được đức Thế Tôn thủ hộ, có thể khiến cho pháp này tồn tại trong thế gian, khiến cho vô lượng chúng sanh thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thật sự là biểu hiện của tâm trí cội nguồn rõ ràng, hoàn thiện nhất, oai đức trọn đủ, sức tự tại thành thục trọn vẹn nơi hết thảy chúng sanh mà thôi! Chúng ta biết trong biển “pháp tánh tịch diệt”, chẳng có mảy trần để có thể đạt được, chẳng có một pháp thật sự có bản chất, vô lượng chúng sanh trong các thứ nghiệp tướng đối với mười pháp giới hoặc tự do, hoặc chẳng tự do, hoặc thiện xảo, hoặc chẳng thiện xảo, hoặc sáng, hoặc tối, cho đến xuất hiện sanh mạng khổ, vui, phàm, thánh, trí, ngu khác biệt như thế. Sanh mạng khác biệt do ai lựa chọn? Chính là từ ngay trong bản thể của chúng ta mà thiện xảo đúng pháp chọn lựa, hay mê mất sự chọn lựa thiện xảo ấy. Nếu nắm vững sự chọn lựa thiện xảo ấy, sẽ có pháp để nương theo, thành tựu trong một đời sẽ chẳng phải là chuyện khó, chứng tam-muội cũng chẳng phải là chuyện khó, lợi ích thế gian rộng rãi cũng chẳng phải là chuyện khó, chỉ là chuyện thuộc vào địa vị của chính mình. Do đó, “tầm đắc bổn vị, tức đắc an lạc” (tìm được địa vị vốn có, liền được an vui). Nếu chúng ta chẳng tìm được bổn vị, tự lầm lạc mê mất nơi sự tướng, sẽ ở ngay trong các sự tướng biến đổi, vô thường, tự cho là có thật rồi xâm hại lẫn nhau, sẽ đánh mất lợi ích thanh tịnh to lớn.

Giáo điển này giống như chư Phật xuất thế, chỉ nương theo một đại sự nhân duyên, tức là “muốn khiến cho chúng ta đoạn trừ phiền não, trừ khử tập khí, vượt thoát sanh tử, lại còn tự tại trong sanh tử, chẳng nhiễm sanh tử, chẳng giữ lấy Niết Bàn, lợi ích trời, người rộng khắp”. Trong thực tế, cũng có nghĩa là sanh mạng tất nhiên có chỗ nương tựa. Chúng ta thấy trong Thanh Văn Thừa, có hai loại Niết Bàn là Hữu Dư và Vô Dư. Người thiện xảo chứng đắc quả A La Hán là người đã đạt tới cực quả trong giáo ngôn của Thanh Văn Thừa, nhưng trong Đại Thừa Phật giáo, chẳng chấp sanh tử, chẳng giữ lấy Niết Bàn, vãng sanh cõi vô sanh của A Di Đà Phật, gột sạch sành sanh hết thảy sanh tử bức bách từ vô thỉ tới nay. Bất luận Biến Dịch Sanh Tử hay Phần Đoạn Sanh Tử, đều cùng lúc tận diệt. Chỉ trong một đời thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, oai đức đến tận đời vị lai. Oai đức ấy chẳng phải là hành vi do kiêu mạn, do tà kiến, hay do làm bộ làm tịch, mà thật sự là tự tánh vốn có, là quang minh từ pháp tánh, là oai đức của pháp tánh, ai nấy đều có thể duyên theo nó, có thể sử dụng nó, mà cũng có thể thành tựu nó. Nói “thành tựu”, tức là chuyện thuộc về bổn phận, duyên theo chuyện ấy liền sử dụng nó, chọn lựa nó. Chúng ta duyên theo cái nghiệp của tam đồ, sẽ có thể thành tựu sanh mạng tiếp nối trong tam đồ y hệt! Chúng ta thấy lừa, ngựa, lạc đà thồ đồ vật, bèn sanh khởi tâm niệm thương xót. Thật ra, chúng vốn cũng trọn chẳng khác biệt chư Phật! Chư thiên thấy chúng ta phiền não nặng nề, do thiếu thốn vật chất, do thiếu thốn ngũ dục bèn đau khổ tìm kiếm, sẽ thấy chúng ta chẳng khác gì trâu ngựa. Họ sẽ cảm thấy đau khổ không chịu nổi, sẽ sanh khởi tâm niệm xót thương. Còn các vị thánh giả, trí giả, trông thấy chư thiên tuy có sanh mạng tám đại kiếp, cho đến sanh mạng tám vạn đại kiếp, nhưng đối với các sanh mạng, hiện đủ loại tướng chẳng thể tự khống chế, chẳng thể tự hiểu rõ, chẳng thể tự liễu thoát. Do vậy, cũng sanh một tâm niệm thương xót, còn chư Phật Như Lai thì sao? Thấy hết thảy hữu tình trong chín pháp giới, dù là vi tế Hoặc, dù là Vô Minh Hoặc, hay Kiến Tư Hoặc, trong vô tận vô biên các thứ hoặc loạn, dù nặng nề, hay vi tế, dù cực vi tế, đều sanh khởi tâm bi mẫn rộng lớn. Do đó, tôn trọng, yêu thích hết thảy hữu tình trong thế gian. Vì sao? Do đồng thể, đồng dụng. Do nhân duyên này, cho nên có thể thiện xảo thí giáo rộng lớn, dạy hết thảy hữu tình trong chín pháp giới triệt để thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Có người đã băn khoăn quá sớm “sau khi thành Phật, tôi sẽ làm như thế nào?” Quý vị chẳng cần nghĩ tới chuyện đó, cứ thong thả! Nếu đối với bộ kinh Ban Châu Tam Muội này, chúng ta có thể gặp được pháp tắc như thế, giáo ngôn như thế, thật sự có thể được nghe pháp tắc như thế, nghe danh tự như thế, chính là chẳng thể nghĩ bàn! Nếu ai nghĩ là “chẳng thể nghĩ bàn”, người ấy chính là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu kẻ nào khinh thường, trái phạm, kẻ ấy là phường khinh dễ, trái phạm. Nếu ai tôn trọng, thủ hộ, truyền bá pháp này, sẽ do tôn trọng, thủ hộ, truyền bá, tất nhiên thành tựu lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, dụng tâm gì vậy? Chọn lựa gì vậy? Chỉ là trong hiện duyên, mỗi người tự lựa chọn, có liên quan với người khác hay chăng? Hữu tình thời Mạt Pháp lãng phí thời gian của chính mình quá nhiều, dùng một lượng lớn thời gian và tinh lực vào sự tướng vô thường, biến đổi, đổ công dốc sức nơi lời lẽ và cử chỉ của người khác. Người như thật biết tự tâm, như thật vận dụng tự tâm, như thật liễu giải cơ hội chẳng tăng, chẳng giảm, rõ ràng, rộng lớn, trọn đủ hết thảy các pháp trong tâm địa quá ít! Đối với chuyện này, đức Phật thương xót chúng ta, dùng sức oai thần gia bị, khiến cho nhân duyên thiện căn của chúng ta thành thục. Do vậy, tuyên nói giáo điển chẳng thể nghĩ bàn như thế. Chúng ta tối thiểu đã có cơ chế thành thục như vậy, cho nên mới có thể học tập, lắng nghe, trao đổi, thật sự là chuyện chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, đừng coi tự duyên (các duyên của chính mình) là duyên nhỏ nhặt, đừng vì tự duyên mà kiêu mạn, chớ nên coi rẻ tự ngã, cũng như đừng coi rẻ nhân duyên của người khác. Đương nhiên là cũng chớ nên kiêu mạn. Như thế thì tâm trí của chúng ta sẽ yên tĩnh, bình hòa, sẽ thấy thấu suốt pháp tắc, ấn khế pháp tắc, như thật thủ hộ pháp tắc mà chúng ta đang tu tập, chẳng đánh mất duyên khởi thật sự tốt đẹp, thanh tịnh.

Con đường thành Phật ở ngay dưới chân, duyên khởi thành Phật ngay trong một niệm hiện tiền, sự chọn lựa thành Phật cũng ở trong hiện tiền. Sở dĩ vận dụng ngay trong hiện tiền là vì nhận biết một niệm hiện tiền. Một niệm hiện tiền vô nhiễm, chính là chân tâm vô nhiễm. Nếu chúng ta lập tức duyên theo sự lựa chọn thanh tịnh của Phật Đà Thế Tôn, như đối với sáu loại “ngũ pháp” đã nói trong phần trước, cùng với công đức nơi một trăm hai mươi hai câu hỏi “như thế nào” mà thủ hộ, tập luyện xuyên suốt, tức là chúng ta đã lập tức lựa chọn duyên khởi thiện xảo và thanh tịnh “xa lìa sự bức bách của sanh tử để lợi ích rộng khắp hữu tình”.

Hành Ban Châu, chẳng qua chỉ là khiến cho duyên khởi thanh tịnh được tiếp nối, như thật công nhận, như thật vận dụng, chỉ như thế mà thôi! Cái tâm liên tục ấy, từ trong tâm trí thay đổi từ vô thỉ tới nay, trong tâm trí nắm níu của chúng ta, cho đến trong giả duyên như huyễn, phần nhiều chẳng thể tự khống chế. Chúng ta phần nhiều cưỡng chấp, đắm nhiễm [các giả duyên ấy], cho nên hình thành lòng yêu mến và truy tầm sự vô thường đổi khác. Chúng ta hướng tới sự đổi khác ấy, hoặc có thể nói là vô ký, vô minh, mà sự vô ký, vô minh ấy đã đem lại cho chúng ta điều gì? Chính là chẳng làm sao được, vô tri, chẳng có năng lực, như thế thì quý vị sẽ chẳng có cách nào giải quyết vấn đề của chính mình!

(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết.

()爾時世尊爲重明此義以偈頌曰。

(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì nói rõ lại nghĩa này, dùng kệ tụng rằng).

Vì chúng ta đối với chuyện huân tập pháp tắc còn khá xa lạ, đức Thế Tôn nhiều lượt giáo huấn chúng ta, không ngừng hướng dẫn chúng ta tư duy như thế, quan sát như thế. Ngài dùng các đoạn văn tự dưới đây để tổng kết rõ ràng, tóm tắt, đơn giản phần Trường Hàng trước đó, khiến cho chúng ta thật sự hiểu rõ. Ngoài thời gian lên lớp học tập, chúng ta hễ có thời gian hãy nên đọc tụng, đàm luận, trao đổi về kinh Hiền Hộ cho nhiều, bớt nói chuyện gẫu. Như thế thì sẽ có thể khiến cho pháp được tiếp nối, khiến cho những ngày học tập này có được một cơ chế pháp tắc thuần thục. Nếu không, cứ gián đoạn, sẽ vẫn quay về với nghiệp tập!

(Kinh) Chư Phật thanh tịnh ly trần cấu, công đức thâm quảng, vô sở y.

()諸佛清淨離塵垢功德深廣無所依。

(Kinh: Chư Phật thanh tịnh, lìa trần cấu. Công đức sâu rộng, chẳng tựa nương).

Qua lời dạy của đức Thế Tôn, Ngài đã bóc gỡ cái tâm nắm níu của hết thảy chúng sanh. Hoặc có thể nói là khiến cho hết thảy chúng sanh từ trong cái tâm nắm níu ấy mà biết: “Thật ra, chẳng có pháp nào để có thể nắm níu!” Trong tâm trí vịn nắm của phàm phu, nếu chẳng chấp trước một thứ chi đó, chẳng nắm bắt một thứ chi đó, cái tâm chẳng có [thứ gì để vịn nắm], sẽ trở nên trống trải, mê muội, bỗng dưng chẳng biết làm như thế nào! Một khi chúng ta đã vượt khỏi chỗ ấy, như trong quá khứ đã nói, sau khi “đình tâm” (ngưng lặng cái tâm), sẽ tự đạt được phương tiện. Nói “đình tâm” chính là vĩnh viễn đoạn trừ lo ngờ; khi đó, cái tâm nắm níu liền ngưng dứt. Chúng ta sẽ hiểu pháp tắc tương tự rõ ràng. Nhưng “chư Phật thanh tịnh ly trần cấu” tức là triệt để lìa khỏi những cái gọi là Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, và Vô Minh Hoặc, biết rốt ráo thanh tịnh. Chư Bồ Tát, hiền thánh là bậc phương tiện thanh tịnh, còn phàm phu là kẻ chưa đạt được thanh tịnh. Vì sao nói là “chưa đạt được?” Vì ở trong trần lao, trong trần cấu, vẫn chưa giác ngộ, vẫn mê mất nơi vọng chấp trần lao, ở trong trần lao “vọng tưởng nắm níu”, chẳng thể tự thoát ra!

“Công đức thâm quảng vô sở y” (Công đức sâu rộng, chẳng nương tựa vào đâu): Chẳng nương, chẳng dựa vào sức trí huệ, chính là trí huệ vốn sẵn có của hết thảy chúng sanh; đó gọi là “vô tạo, vô tác” (chẳng tạo tác), chẳng nhiễm mảy trần, chẳng nhơ, chẳng sạch. Đấy chẳng phải là một câu nói thường hằng, mà thật ra là dùng ngôn ngữ quyền biến để biểu đạt một loại phương tiện trí huệ. Nếu nói với hữu tình vô minh cố chấp, thì cũng là bất đắc dĩ mà nói. Nếu nói với bậc trí giả, nói vừa đủ rồi thôi, tức là biết ẩn sau ngôn ngữ, sẽ thật sự là thanh tịnh, chẳng nhiễm, chẳng chấp!

(Kinh) Chung cổ khanh thương chúng diệu âm, vạn chủng hàm bị tu cúng dường. Bố tán chư chủng siêu thế hương, tinh dị hoa man, thượng bảo cái. Nhiên đăng cúng dường chúng tháp miếu, sở vị cầu thử tam-ma-đề.

()鐘鼓鏗鏘衆妙音萬種咸備修供養。佈散諸種超世香精異花鬘上寶蓋。然燈供養衆塔廟所爲求此三摩提。

(Kinh: Chuông trống réo rắt các diệu âm, muôn thứ đều vẹn tu cúng dường. Rải rắc các hương tuyệt diệu nhất, tinh xảo tràng hoa, lọng báu dâng. Cúng dường đèn soi các tháp miếu, đều vì cầu đắc chánh định này).

Dùng ca múa, âm thanh hay đẹp, ca ngợi, cho đến sắp đặt các loại đồ vật, các thứ hoa tươi v.v… để cúng dường. Quả thật vì cầu tam-ma-đề này, tức là vì để thành tựu Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Tam-muội là một danh từ có đủ cả danh xưng nơi tướng trạng của cái nhân lẫn tướng trạng của cái quả. Tam-ma-đề là tên gọi theo quả tướng. Tam-muội thành tựu thì gọi là tam-ma-đề. Chẳng hạn như chúng ta nói đến Tứ Hướng và Tứ Quả, địa vị Tứ Hướng chẳng gọi là quả. Vì sao? Do mang ý nghĩa hướng đến. Nếu đã đạt tới quả vị, thì có ý nghĩa “an trụ”. An trụ mà thật sự chẳng có gì để an trụ. Đó là nội hàm chân thật nơi quả đức.

Chúng ta học tập một pháp tắc, nếu chẳng hiểu rõ nguyện vọng và mục đích, sẽ đứt gánh nửa đường, hoặc bị nghịch duyên làm dang dở, hoặc là bị thuận duyên làm lỡ làng. Nếu là thuận duyên, do nhiễm đắm nhân duyên, cũng sẽ đâm quàng vào ngõ rẽ. Nếu là nghịch duyên, do chẳng hiểu rõ nguyện vọng và mục đích, nhất định sẽ thoái đọa. Nếu chúng ta học Phật trong tình huống mười phần hiểu rõ mục đích và nguyện vọng, thì sanh mạng lẫn cuộc sống đều suông sẻ, chẳng có chướng ngại! Chẳng hạn như người thường phải làm việc nơi đất khách, hễ mong trở về nhà, đúng là hết sức nôn nóng mong trở về. Hễ nhắm mắt là thấy người nhà. Cũng giống như thế, là người xuất gia, là người học Phật, phải nên đối với mục đích của chính mình, tức là chỗ thành tựu của pháp tắc, thật sự phải có nhận thức rõ ràng, đích xác như người nóng lòng mong trở về, phải có khát vọng chẳng điều gì có thể chướng ngại được! Nếu chẳng như thế, giữa chừng sẽ nẩy sanh quá nhiều nhân duyên gây chướng ngại. Trong thời đại này, do mọi người chẳng hiểu rõ nguyện vọng và sự thủ hộ thệ nguyện, cho nên phần nhiều chẳng thể thường hằng gìn giữ một pháp, hay một sự. Kết quả là khiến cho nhân duyên chẳng thể thành thục, gãy gánh giữa đường nhiều lắm, người trước sau vẹn toàn cực hiếm hoi! Trong thế gian này, bất luận là làm chuyện thế tục, hay học Phật, bất luận xuất gia hay tại gia, người có thể vẹn toàn từ đầu đến cuối đều làm các chuyện có ý nghĩa đối với thế gian, hoặc có thể khiến cho thế gian đạt được các khơi gợi cụ thể.

Ở đây, [kinh văn] nhắc tới các loại cúng dường, bất luận là cúng dường bằng tràng hoa, cúng dường bằng các vật, cúng dường bằng diệu âm niệm tụng, đều là vì tam-ma-đề này, cũng là để đích thân chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội. Nếu phát thệ nguyện như thế, tâm như thế, vậy thì hết thảy các chướng ngại đều chẳng còn là chướng ngại. Nếu phát tâm rõ ràng, chướng ngại chẳng gọi là chướng ngại. Nếu phát tâm chẳng rõ ràng, dường như đúng mà thật ra là sai, chướng ngại sẽ xuất hiện, sẽ bị chướng ngại. Ngay cả thuận duyên xuất hiện, cũng hình thành chướng ngại. Kết quả là thuận duyên lẫn nghịch duyên đều có nhiều chướng ngại. Chúng tôi nêu một thí dụ. Chẳng hạn như từ đây du hành qua Trung Điện[5], mục đích của quý vị mười phần rõ ràng, tư duy của quý vị do phát tâm sẽ mười phần rõ ràng, xác đáng. Vì thế, tới Đại Lý[6], quý vị sẽ không kẹt luôn tại Đại Lý, [trong khi ở lại Đại Lý, quý vị] cũng có thể tùy duyên xem xét [phong cảnh, phong tục ở Đại Lý], rồi lại ra đi. Tới Ly Giang, quý vị chẳng kẹt lại Ly Giang, vì sao vậy? Mục đích của quý vị là Trung Điện, chẳng phải là không thấy, không nghe quang cảnh dọc đường. Quý vị đã thấy, cũng nghe, nhưng chẳng ảnh hưởng đích đến của quý vị. Có người trong tình huống mục đích chẳng rõ ràng, chắc là sau khi đã tới Đại Lý, bèn nói: “Thôi được rồi! Chắc là tới Trung Điện cũng giống như thế chớ gì!” Hoặc cảm thấy ngồi xe đúng là khốn đốn quá, bèn nghĩ: “Thôi đi! Vất vả như thế thì chẳng đi nữa!” Cũng có thể là sau khi đến Ly Giang, bèn nói: “Chẳng sai biệt nhiều lắm, cũng bất quá như thế đó”. Cứ như thế, chuyện đến Trung Điện vĩnh viễn đều chẳng làm được! Vì sao? Phát tâm chẳng rõ ràng, chẳng chọn lựa, chẳng hiểu rõ, chẳng thấy thấu triệt. Vì thế, bị cảnh tượng trên đường, dù nghịch hay thuận, thoải mái hoặc chẳng thoải mái, hai pháp ấy làm cho mai một.

Nay chúng ta chuẩn bị nhiều tư lương như thế, là vì lẽ nào? “Sở vị cầu thử tam-ma-đề” (Vì cầu tam-ma-đề này). Nếu đấy là nguyện vọng của ta, tốt lắm, đối với phong cảnh dọc đường, dù tốt, hay xấu, dù thuận hay nghịch, chúng ta cứ thẳng thừng nhìn ngắm, vì sao? Chẳng trở ngại ngắm nghía, chẳng trở ngại hay biết. Dưới tình huống chẳng trở ngại, sẽ tiến thẳng đến mục đích. Người như thế thật sự có oai đức, có trí huệ trong thế gian. Nếu một chuyện là như thế, hai chuyện là như thế, mọi chuyện đều là như thế, người ấy sẽ đắc tự tại lực, tức là chẳng có chướng ngại, có sức tự tại như người tiến nhập cảnh giới không chướng ngại. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Bồ Tát thanh lương nguyệt, thường hành tất cánh không” (Bồ Tát như trăng trong mát, thường hành Không rốt ráo), soi rõ, nhận biết thế gian, chẳng bị trở ngại. Do tâm trí vô ngại, mục đích rõ ràng, chỉ nhằm chiếu sáng thế gian, khiến cho chúng sanh đạt được thanh lương, quang minh, và vui sướng. Làm một người học Phật, nguyện vọng của chúng ta, rốt cuộc là “vì cầu” điều gì? Nếu chẳng hiểu rõ ràng, hành xử sẽ như cỏ đầu tường, gió Đông thổi bèn ngả qua phía Tây, gió Tây thổi bèn ngả rạp sang phía Đông, chẳng thể nào không nghiêng ngả! Như thế thì sẽ rất khó đạt được phương tiện.

[1] Ý nói pháp tắc ấy mọi người đều có thể dễ dàng thấy thấu suốt, hiểu rõ ràng.

[2] Đây là một thuật ngữ tâm lý học nhằm mô tả một hiện tượng: Nếu có sự kiện nào đó tạo thành ấn tượng trong tâm lý một người, bất luận thời gian đã qua đi lâu thế nào, khi thấy kẻ khác gặp phải một sự kiện tương tự, người đó vẫn nẩy sanh phản ứng tâm lý gần giống như ấn tượng tâm lý ban đầu mà chính người ấy đã kinh nghiệm. Đó gọi là “chiết xạ tâm lý”.

[3] Chữ Khế (契) vốn có nghĩa cổ là “dùi khắc lên mai rùa, xương thú, hoặc đá để ghi nhớ một sự kiện hoặc một sự thỏa thuận nào đó”. Từ đó, mở rộng thành ý nghĩa khế ước, tức văn kiện ghi chép những điều thỏa thuận của đôi bên. Ở đây, pháp sư Từ Pháp chỉ dùng từ ngữ này theo ý nghĩa “đôi bên phù hợp khít khao”.

[4] Câu này nếu hiểu theo nghĩa gốc thì có nghĩa là nếu người thiện quá khoan dung, người ác sẽ lợi dụng lòng khoan dung ấy để làm chuyện xấu xa. Do thấy điều ác của người khác, mà người thiện được cảnh tỉnh, phát tâm hướng thiện. Tức là thiện hay ác đều có tánh chất bổ trợ nhau, kích phát lẫn nhau. Pháp sư Từ Pháp sử dụng theo nghĩa “khoan dung với kẻ ác để kẻ ác tăng trưởng thiện tâm, do thấy điều ác mà người thiện tự cảnh tỉnh mình, hăng hái làm lành”.

[5] Trung Điện vốn là một huyện thuộc tỉnh Vân Nam, gọi theo tiếng Tây Tạng là Gyaitang Zong, nằm ngay ranh giới của Tứ Xuyên, Vân Nam, và Tây Tạng. Ở đây, có một thị trấn nổi danh là Shangrila (người Tây Tạng gọi là Gyalthang) thuộc Địch Khánh Tạng Tộc Tự Trị Khu. Thị trấn này vốn cũng gọi là Trung Điện, nhưng từ ngày 16 tháng 12 năm 2014, đã chính thức đổi tên thành Shangrila, dựa theo tên miền đất huyễn tưởng trong tác phẩm Lost Horizon của James Hilton. Hilton mô tả vùng đất ấy nằm ở phía Tây rặng Côn Luân, được coi như thiên đường hạ giới, dân ở đó sống bất tử. Để hấp dẫn khách du lịch, do Trung Điện phong cảnh đẹp đẽ, lại gần Côn Luân, nhà cầm quyền Hoa Lục bèn đổi tên Trung Điện thành Shangrila. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Shangrila được gợi hứng từ vương quốc bí mật Shambala dành cho những người chứng ngộ, như mật điển Kalachakra (Thời Luân) của Mật giáo Tây Tạng đã đề cập.

[6] Đại Lý (sắc dân Bạch gọi thành phố này là Guiphet) là thành phố cấp huyện của tỉnh Vân Nam, là thủ phủ của Đại Lý Bạch Tộc Tự Trị Châu. Đây là thành phố được hình thành sớm nhất ở tỉnh Vân Nam. Khu vực Đại Lý đã được kiến thiết từ thời Hán Vũ Đế trong nỗ lực kiểm soát Tây Vực mà không phải đi vào đất Thục (Tứ Xuyên). Gia Cát Lượng đã lập ra Vân Nam Quận tại vùng này. Sắc dân Bạch kiến thiết khá nhiều thành ấp quanh khu vực, hình thành sáu bộ lạc lớn gọi là Lục Chiếu. Thủ lãnh Mông Xá chiếu là Bì La Các đã thôn tính năm chiếu kia, thành lập nước Nam Chiếu. Năm 902, quyền thần Trịnh Mãi Tự của Nam Chiếu đoạt quyền, xóa sổ Nam Chiếu, lập ra Đại Trường Hòa Quốc. Nội chiến liên miên, cuối cùng Đoàn Tư Bình chiến thắng, chiếm vùng này, lập ra Đại Lý Quốc, bắt đầu quá trình Hán hóa vùng Vân Nam. Đến thời Nguyên, vùng này trở thành Đại Lý Lộ rồi biến thành Đại Lý Phủ dưới thời Minh, rồi trở thành huyện Đại Lý dưới thời Dân Quốc.