Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng ký 1
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

(Kinh) “Hiền Hộ! Kim hữu Bồ Tát tam-muội danh viết Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Nhược hữu Bồ Tát, cụ túc tu tập như thị tam-muội, đương đắc thành tựu như thượng sở vấn chư công đức đẳng. Hiền Hộ đương tri! Cánh hữu vô lượng vô biên thắng thượng công đức, thuyết bất khả tận”. Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: “Thiện tai Thế Tôn! Duy nguyện thuyết thử Bồ Tát Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền tam-muội, linh thử thế gian thiên, nhân, Phạm, Ma, sa-môn, Bà La Môn, chư long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, đa hoạch lợi ích, đa thọ an lạc cố. Diệc linh đương lai vô lượng chúng sanh đa đắc lợi ích, thọ an lạc cố. Hựu vị vị lai chư Bồ Tát bối, tác đại quang minh, thừa Phật oai lực cố. Hựu nguyện hiện tại, vị lai chư Bồ Tát đẳng, phổ đắc văn thử Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền tam-muội. Bỉ ký văn dĩ, giai tất thọ trì. Ký thọ trì dĩ, nhất thiết giai đương như thật tu học, như giáo phụng hành. Ký học hành dĩ, đương linh đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Hiện tiền tức năng cụ túc thành tựu như thị công đức, cập dư thắng thượng công đức đẳng”. Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: “Hiền Hộ! Như nhữ ngôn giả, nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim vị nhữ phân biệt giải thoát”. Hiền Hộ phục ngôn: “Thiện tai, Thế Tôn! Ngã thâm nhạo văn Như Lai sở thuyết”.

()賢護今有菩薩三昧名曰思惟諸佛現前三昧。若有菩薩具足修習如是三昧當得成就如上所問諸功德等。賢護當知更有無量無邊勝上功德說不可盡。爾時賢護菩薩復白佛言善哉世尊唯願說此菩薩念一切佛現前三昧令此世間天沙門婆羅門諸龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人等多獲利益多受安樂故。亦令當來無量衆生多得利益受安樂故。又爲未來諸菩薩輩作大光明承佛威力故。又願現在未來諸菩薩等普得聞此念一切佛現前三昧。彼既聞已皆悉受持。既受持已一切皆當如實修學如教奉行。既學行已當令得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。現前即能具足成就如是功德及餘勝上功德等。爾時世尊復告賢護菩薩言賢護如汝言者汝當諦聽善思念之吾今爲汝分別解脫。賢護復言善哉世尊我深樂聞如來所說

(Kinh: Này Hiền Hộ! Nay có tam-muội của hàng Bồ Tát tên là Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Nếu có Bồ Tát tu tập trọn đủ tam-muội như thế, sẽ được thành tựu các công đức như đã hỏi trên đây. Hiền Hộ hãy nên biết, lại có vô lượng vô biên công đức thắng thượng, chẳng thể nói hết được”. Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: “Lành thay Thế Tôn! Xin hãy nói môn tam-muội Bồ Tát Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền ấy, khiến cho trời, người, Phạm vương, Ma, sa-môn, Bà La Môn, các loài rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… trong thế gian này đạt được nhiều lợi ích, hưởng nhiều an vui. Cũng khiến cho vô lượng chúng sanh trong đời vị lai được nhiều lợi ích, hưởng an lạc. Lại làm đại quang minh cho các hàng Bồ Tát trong vị lai, do nương vào oai lực của Phật. Lại nguyện các vị Bồ Tát trong hiện tại và vị lai đều được nghe môn Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền tam-muội này, đã nghe xong, thảy đều thọ trì. Đã thọ trì rồi, hết thảy đều sẽ như thật tu học, phụng hành đúng như lời dạy. Đã học và hành rồi, sẽ khiến cho họ được chẳng thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Hiện tiền liền có thể thành tựu đầy đủ các công đức như thế và các công đức thắng thượng khác”. Lúc đó, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: “Này Hiền Hộ! Như ông đã nói, hãy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy, ta nay sẽ vì ông phân biệt giải thoát”. Hiền Hộ lại thưa: “Lành thay! Bạch Thế Tôn! Con ưa thích sâu xa được nghe lời dạy của đức Như Lai”).

Lành thay! Thuận theo văn tự, chúng ta có thể thâm nhập, phân tích tâm trí hiện tiền của chính mình, ấn khế pháp tắc Thập Phương Chư Phật Hiện Tiền, mở mang cái đạo nơi tâm địa của chúng ta, mở kho pháp tạng trong tâm địa của chúng ta, khải phát tâm trí Như Lai, cũng là tâm trí cội nguồn của hết thảy chúng sanh, khiến cho công đức tạng của hết thảy chúng sanh có thể thật sự nương cậy vào oai đức trong giáo ngôn của đức Phật mà chín muồi.

“Kim hữu Bồ Tát tam-muội, danh viết Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội”  (Nay có môn tam-muội của hàng Bồ Tát, tên là Tư Duy

Chư Phật Hiện Tiền tam-muội). Hai chữ Tư Duy hết sức trọng yếu! Hành pháp Ban Châu cũng có khi được phiên dịch là Định Ý tam-muội. Chữ Tư Duy này khiến cho chúng ta có thể khá linh động cảm nhận chỗ y chỉ trong cách tu môn tam-muội này.

“Nhược hữu Bồ Tát cụ túc tu tập như thị tam-muội, đương đắc thành tựu như thượng sở vấn chư công đức đẳng” (Nếu có Bồ Tát tu tập trọn đủ tam-muội như thế, sẽ được thành tựu các công đức như đã hỏi trong phần trước), cũng có nghĩa là tam-muội như thế có thể trọn vẹn tất cả các công đức được đề cập trong một trăm hai mươi hai câu hỏi do Hiền Hộ Bồ Tát đã nêu ra.

“Hiền Hộ đương tri! Cánh hữu vô lượng vô biên thắng thượng công đức, thuyết bất khả tận” (Hiền Hộ hãy nên biết! Cũng có vô lượng vô biên công đức thắng thượng, chẳng thể nói trọn hết được). Ở đây, đức Thế Tôn trả lời rõ ràng: Hiền Hộ! Ông nêu ra một trăm hai mươi hai câu hỏi về công đức thù thắng. Thật ra, đó chỉ là chút phần công đức của Ban Châu tam-muội, hoặc nói cách khác là Tư Duy Phật Hiện Tiền tam-muội, thậm chí chưa được một chút phần nữa! Pháp Ban Châu tam-muội quả thật có công đức chẳng thể diễn tả được, có ý nghĩa rộng lớn rốt ráo, chỉ có Phật đích thân hay biết. Kinh này tuyên nói chút phần của một ít phần lợi ích rốt ráo ấy để chúng ta được nghe, được biết.

“Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: – Thiện tai Thế Tôn! Duy nguyện thuyết thử Bồ Tát Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền tam-muội” (Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: – Lành thay, bạch Thế Tôn! Xin Ngài hãy nói tam-muội Bồ Tát Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền ấy): Có công đức và lợi ích rộng lớn như thế, xin đức Thế Tôn hãy tuyên nói cho chúng con.

“Linh thử thế gian thiên, nhân, Phạm, Ma, Sa-môn, Bà La Môn, chư long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, đa hoạch lợi ích, đa thọ an lạc cố” (Khiến cho trời, người, Phạm vương, Ma, Sa-môn Bà La Môn, các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… trong thế gian này, được hưởng nhiều lợi ích, hưởng nhiều yên vui): Đồng thời ban lợi ích chân thật rốt ráo rộng khắp cho đủ loại sanh mạng khác biệt. Chư Phật, Bồ Tát xuất hiện trong cõi đời, chỉ do một đại sự nhân duyên: “Muốn khiến cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến của Phật, thành tựu đạo nghiệp thanh tịnh”. Điều đó được diễn tả là “viên thành Bồ Đề, lìa khổ, được vui”. Thành tựu lợi ích chân thật, khiến cho lợi ích của sanh mạng được tiếp tục vận dụng nơi pháp tánh, pháp tánh tác dụng vào sanh mạng, xa lìa sự mờ mịt vì vô minh, khiến cho hết thảy chúng sanh đắc Vô Ngại Trí.

“Diệc linh đương lai vô lượng chúng sanh đa đắc lợi ích, thọ an lạc cố” (Vì cũng khiến cho vô lượng chúng sanh trong tương lai đạt được nhiều lợi ích, hưởng an lạc): Không chỉ hữu ích cho hữu tình hiện tại, tức hữu tình trong đời này, mà còn khiến cho hữu tình trong đời vị lai, trong đời mai sau, đều đạt được các sự yên vui.

“Hựu vị vị lai chư Bồ Tát bối, tác đại quang minh, thừa Phật oai lực cố” (Lại làm quang minh to lớn cho các hàng Bồ Tát trong đời mai sau, do nương vào oai lực của Phật): Tức là tạo duyên khởi thanh tịnh. Trong pháp Niệm Phật, bước khởi đầu là đại quang minh tạng bố thí như thế, đại trang nghiêm an trụ như thế, trọn đủ công đức thủ hộ, thuận tùng như thế. Tức là do duyên khởi đại quang minh tạng, xa lìa các nghiệp tướng sai biệt của hết thảy chúng sanh, trực tiếp tiến nhập quang minh tạng! Quang minh tạng ấy chính là trong sát-na khởi tâm động niệm, trong sát-na động tướng của pháp giới thể tánh vốn trọn đủ, động tướng ấy còn chưa bị nhuốm bẩn, cũng có nghĩa là duyên khởi ấy chính là duyên khởi thanh tịnh, chẳng phải là duyên khởi đắm nhiễm. Đối với tâm niệm của bọn phàm phu chúng ta trong hiện tiền, toàn thể khởi tâm động niệm nối tiếp trong dòng nghiệp, tiếp nối trong tri kiến mông muội, tiếp nối trong nghiệp tập (nghiệp chướng, tập khí) “tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến”, chẳng biết pháp tánh từ vô thỉ tới nay chưa hề bị ô nhiễm, chẳng tạo, chẳng tác, nhưng tất cả tạo tác quả thật là hư giả, thật sự là vô thường, vô ngã. Trong các nghiệp vô thường, vô ngã hư giả ấy, oan uổng hứng chịu luân hồi, cưỡng chấp luân hồi, đúng là oan uổng! Chư Phật Như Lai thương xót hữu tình, ban cho lợi ích chân thật từ Phật pháp, khiến cho họ thấy tự tâm, lựa chọn sự an lạc rốt ráo. Vì thế, “hựu vị vị lai chư Bồ Tát bối, tác đại quang minh, thừa Phật oai lực cố” (lại làm quang minh to lớn cho các hàng Bồ Tát trong đời vị lai, do nương vào oai lực của Phật). Công đức nhân duyên thù thắng nhất của hết thảy Phật pháp chính là “duyên Phật thành Phật”. Đây là chỗ quy kết của công đức chủng tánh chân thật chẳng thể nghĩ bàn!

Có nhiều chúng sanh hư vọng, kiêu ngạo, điên cuồng, tà kiến, cho rằng chính mình có pháp để có thể tu, có Phật để có thể thành, có lợi ích để tự đạt được, chẳng biết hết thảy công đức và lợi ích xuất phát từ sự bố thí chiếu kiến do chính chư Phật, Bồ Tát đã đích thân chứng đắc, khiến cho chủng tánh thành thục. Nếu chẳng như thế, sẽ mê mất trong sự đặt bày giả dối hư vọng của chính mình, chẳng thành tựu đạo nghiệp Bồ Đề. Trong Hán truyền Phật giáo, có nhiều hữu tình tự phụ, tự cho là đúng, chẳng nhận lãnh công đức. Vì cớ sao? Chẳng tùy thuận sự gia bị từ oai lực của chư Phật Như Lai, chẳng tiếp nhận sự hồi thí từ chủng tánh của chư Phật, chẳng tiếp nhận sự nhiếp hóa thanh tịnh của chư Phật. Đối với pháp chưa đạt được mà lại tự phụ là đã đạt được, cho nên đau khổ hứng chịu luân hồi. Trong nỗi khổ luân hồi, lại đèo thêm một nỗi khổ vì có pháp để có thể đạt được, cưỡng chấp là tự đạt được. Đấy quả thật là một vấn đề khá lớn mà chúng ta cần phải cảnh giác trong học Phật.

“Hựu nguyện hiện tại, vị lai chư Bồ Tát đẳng, phổ đắc văn thử Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền tam-muội” (Lại nguyện trọn khắp các Bồ Tát trong hiện tại và vị lai đều được nghe môn tam-muội Niệm Nhất Thiết Phật Hiện Tiền này): Được nghe trọn khắp là vì môn tam-muội này bình đẳng hồi thí cho phàm lẫn thánh, hết thảy hữu tình đều được hành trì, chẳng chọn lựa căn tánh. Quý vị nói người thân thể không khỏe làm sao có thể hành trì hành pháp Ban Châu ư? Vừa khéo là tôi có thấy một số tài liệu nói ở Đài Loan, thường là những người thực tập kinh hành Ban Châu, phần lớn đều là những bệnh nhân nan y. Họ chẳng còn con đường nào khác, bèn hành trì pháp này. Vì thế, pháp này đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Bệnh nhân vẫn có thể hành trì, bệnh nan y mà vẫn có thể hành trì, chúng ta thuộc loại khỏe mạnh thì sao? Chúng ta là những người hướng đến Phật pháp thì sao? Chúng ta là những người đang còn trẻ tuổi, thân thể tráng kiện thì sao?

“Bỉ ký văn dĩ, giai tất thọ trì. Ký thọ trì dĩ, nhất thiết giai đương như thật tu học, như giáo phụng hành. Ký học hành dĩ, đương linh đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Hiện tiền tức năng cụ túc thành tựu như thị công đức, cập dư thắng thượng công đức đẳng” (Họ đã nghe, thảy đều thọ trì. Đã thọ trì rồi, hết thảy đều sẽ được tu học như thật, phụng hành đúng như lời dạy. Đã học và hành rồi, sẽ được bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Hiện tiền liền có thể thành tựu trọn đủ công đức như thế, và các công đức thắng thượng khác). Hành pháp Ban Châu cho đến hành pháp Tịnh Độ, chính là pháp thành tựu hoàn tất trong một đời, quả thật là giáo pháp rộng lớn rốt ráo thỏa thích bổn hoài xuất thế của chư Phật. Do vậy, chúng ta hễ nói đến Tịnh Độ, sẽ nói “phổ độ chúng sanh là bổn hoài xuất thế của chư Phật, thỏa thích bổn hoài của Phật chỉ được hiển lộ qua pháp Tịnh Độ”. Vì sao? Sự giáo hóa trọn khắp rộng lớn như thế, các pháp môn khác chẳng thể thâu nhiếp. Chẳng phải là tán thán thiên vị, ai nấy đều thủ hộ giáo pháp này.

“Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát: – Như nhữ ngôn giả, nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi. Ngô kim vị nhữ phân biệt giải thoát” (Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát: – Như lời ông đã nói, ông hãy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta nay sẽ vì ông phân biệt giải thoát): “Nhữ” ở đây là đại chúng hiện tiền. Đừng nên bỏ lỡ nhân duyên, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ. “Nhữ” được nói ở đây có phải là các vị Bồ Tát và thiện tri thức nhóm họp về Trúc Lâm Tinh Xá thuở đức Thế Tôn tại thế hay chăng? Chẳng phải! Chính là đại chúng hiện tiền chúng ta!

“Hiền Hộ phục ngôn: – Thiện tai Thế Tôn! Ngã thâm nhạo văn Như Lai sở thuyết” (Hiền Hộ lại thưa: – Lành thay, bạch Thế Tôn! Con ưa thích sâu xa nghe lời Như Lai dạy): Hiện tiền đại chúng nghe giáo pháp thù thắng, rất quan trọng!

(Kinh) Phật phục cáo ngôn: – Hiền Hộ! Vân hà danh vi Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội?

()佛復告言賢護云何名爲菩薩思惟一切諸佛現前三昧

(Kinh: Đức Phật lại bảo rằng: – Này Hiền Hộ! Thế nào là Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội?)

Vì sao nói “chúng ta học tập kinh Ban Châu Tam Muội là phân tích tâm địa”? Vì hết thảy các ngôn thuyết đều từ tâm địa của chư Phật, mà cũng là từ tâm địa của chúng sanh. Biển hết thảy các nghiệp phiền não do tâm địa của chúng sanh hiển hiện, do biển Chánh Biến Tri và tâm trí của hết thảy chư Phật hiển hiện, mà cũng là tự tánh tâm trí của chúng ta hiển hiện. Trong pháp môn tâm địa này, kinh giáo mà chúng ta đọc cũng phát xuất từ tâm địa, phân tích tâm địa, khiến cho tự được thọ dụng.

“Phật phục cáo ngôn: – Hiền Hộ! Vân hà danh vi Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội” (Đức Phật lại bảo rằng: – Này Hiền Hộ! Như thế nào là Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội): Nay chúng ta đang học phẩm Tư Duy. Hai chữ Tư Duy được đặt vào vị trí rất quan trọng, vì bước khởi đầu của hành pháp Ban Châu là do được oai thần của chư Phật gia bị, khiến cho chúng ta khéo tư duy, quan sát. “Thiện” là nương theo lời dạy của đức Phật, nương theo công đức từ oai thần của đức Phật, nương theo sự gia bị của Phật Như Lai để khéo quan sát, khéo tư duy, chẳng phải do nghiệp tập và sự suy lường vọng tưởng của chính mình mà quan sát, tư duy. Do vậy, hãy nên niệm Phật tư duy như thế. Nương theo công đức thù thắng của Phật để tư duy. Nương vào sự gia bị của công đức chẳng thể nghĩ bàn từ lời dạy của đức Phật để tư duy. Buông bỏ tâm niệm tạp nhiễm và bất bình đẳng của chính mình để tư duy.

(Kinh) Nhược hữu Bồ Tát cụ túc thành tựu thử tam-muội giả, tức hoạch như tiền chư công đức sự, diệc đắc kỳ dư thù dị công đức.

()若有菩薩具足成就此三昧者即獲如前諸功德事亦得其餘殊異功德。

(Kinh: Nếu có Bồ Tát thành tựu trọn đủ tam-muội này, sẽ liền đạt được các chuyện công đức như trên, và cũng đạt được các công đức thù thắng, lạ lùng khác).

Do vậy, công đức và lợi ích được nêu trong một trăm hai mươi hai câu hỏi trên đây là chân thật, chẳng dối. “Kỳ dư thù dị công đức” (Các công đức thù thắng, lạ lùng khác): Chẳng phải chỉ bao gồm một trăm hai mươi hai công đức, mà là trong công đức rộng lớn vô tận, một trăm hai mươi hai công đức [như ngài Hiền Hộ đã hỏi] chỉ là chút phần, thậm chí còn chưa xứng là chút phần nữa!

(Kinh) Sở vị tâm niệm chư Phật giai hiện tại tiền. Kỳ tâm bất loạn, bất xả tác nghiệp, cầu thắng thượng trí, dũng mãnh tinh cần, hà phụ trọng đảm, độ thoát chúng sanh.

()所謂心念諸佛皆現在前。其心不亂不捨作業求勝上智勇猛精勤荷負重擔度脫衆生。

(Kinh: Có nghĩa là tâm nghĩ chư Phật đều đang ở trước mặt, tâm chẳng loạn, chẳng xả nghiệp đang tạo, cầu trí tối thượng thù thắng, dũng mãnh, siêng ròng, gánh vác gánh nặng độ thoát chúng sanh).

Hết thảy các pháp tắc trong lời dạy của đức Phật, không gì chẳng nhằm độ thoát chúng sanh, gánh vác gia nghiệp thật sự của Như Lai.

(Kinh) Thừa sự, cung cấp chư thiện tri thức. Thường tu không tịch quảng đại tư duy.

()承事供給諸善知識。常修空寂廣大思惟。

(Kinh: Thừa sự, cung cấp các vị thiện tri thức. Thường tu tư duy không tịch rộng lớn).

“Không tịch quảng đại tư duy”“thừa sự, cung cấp thiện tri thức” có mối nhân duyên gì? “Thừa sự thiện tri thức” là đối với hết thảy chúng sanh bèn sanh ý tưởng cung kính, sanh ý tưởng họ là thiện tri thức, sanh ý tưởng khó gặp gỡ. Đối với hết thảy các cơ duyên, sanh ý tưởng tôn quý, tức là thừa sự thiện xảo. Thường là chúng ta chọn lựa điều lành khi có cơ hội, chẳng biết điều lành ngay trong một niệm hiện tiền. Do vậy “điều thiện trong thiện tâm là hoàn thiện, là điều thiện chân thật của chúng ta”. Nếu phát khởi cái tâm cung kính, tôn trọng, thừa sự hết thảy thiện tri thức, tức là hết thảy đại chúng hiện tiền đều nên thừa sự. Sự thừa sự ấy chẳng phải là làm, hoặc chẳng làm, mà chỉ là dùng tấm lòng chân thành để nêu bày Phật pháp cho nhau, yêu mến, tôn trọng lẫn nhau. Sự thừa sự này mười phần trọng yếu. Đương nhiên cũng có thừa sự về mặt vật chất, thừa sự hình tượng, thừa sự bằng cách cung kính, lễ bái, nhưng các chuyện thừa sự ấy chỉ giả đặt ra, là một thứ phương tiện! Hãy như thật thừa sự; đó là lợi ích chân thật trong Phật pháp, là công đức tự lợi và lợi tha chân thật.

(Kinh) Thân thiện tri thức, diệt trừ chư Cái.

()親善知識滅除諸蓋。

(Kinh: Thân cận thiện tri thức, diệt trừ các Cái).

Điều này mười phần trọng yếu. Trong hành pháp tại đất Hán, chuyện này bị bỏ mất khá nhiều. Chúng ta thường coi nó như một câu nói suông, chẳng biết đấy chính là pháp tắc! Khi chúng ta nghĩ đến ân đức của cha mẹ đối với chúng ta lúc chính mình còn là trẻ thơ, sẽ thường đau lòng rơi lệ. Đau lòng rơi nước mắt có thể tiêu trừ khá nhiều chướng ngại nơi tâm lý. Thậm chí khi nghĩ nhớ sự gia bị của đức Phật đối với chúng ta, chúng ta sẽ đau lòng trào lệ, sẽ cảm ơn đội đức. Do vậy, cũng có thể tiêu trừ các Cái như hôn trầm, vô ký, cùng với tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, nhất thời [các món Cái bị] gột rửa hết sạch. Từ trong nỗi niềm cảm kích ấy, từ trong cái tâm thanh tịnh, có thể gột rửa Cái Chướng của chúng ta. Nếu nhờ vào các pháp khác [để gột rửa], sẽ rất khó khăn!

Vì lẽ đó mà nói “thân cận thiện tri thức có thể trừ Cái Chướng”. Đấy là một kỹ xảo trong tu hành đã có từ xưa. Nói “kỹ xảo” thì có phải là chỉ chăm chú đạt được lợi ích, bất cần hậu quả hay chăng? Chẳng phải! Ắt cần phải hành như vậy thì mới có thể trừ các Cái. Chẳng hạn như có kẻ do tâm kiêu mạn mà nhiều hôn trầm, hoặc do Tùy phiền não[1] lừng lẫy mà nhiều hôn trầm; hoặc do chẳng hổ thẹn mà nhiều hôn trầm; hay do chẳng đạt được lợi ích trong Phật pháp mà nhiều hôn trầm. Nếu chúng ta dùng phương pháp để trừ khử hôn trầm, ngăn chặn sự hôn trầm, sẽ rất khó trừ, rất khó ngăn chặn. Nhưng nếu chúng ta sanh khởi một niệm tâm cung kính thật sự mạnh mẽ, sanh tâm khó được, khó gặp gỡ, thì sẽ có thể trừ [các Cái Chướng]. Giống như khi chúng ta mất công tốn sức rất lớn để xin gặp một ai đó, sẽ chẳng hôn trầm, cũng sẽ chẳng lao chao, cũng sẽ chẳng vô ký. Vì sao? Do tôn trọng, do yêu mến, do ngưỡng mộ, do quý trọng, do thủ hộ như thế, sẽ chẳng bị Hôn Cái (cái chướng hôn trầm) che lấp.

Trong tu pháp hiện tiền, nhất là trong Tăng chúng, dễ bị hôn trầm nhất! Vì sao? Đã lâu ngày, thiện tâm, tức cái tâm cung kính thiện tri thức, tâm cung kính thiện duyên, tâm tôn trọng sẽ dần dần đều bị tiêu mất. Kết quả, đa số trở thành hôn trầm, vô ký! Chẳng phải là người ấy không muốn tiến nhập pháp tắc, nhưng do có chỗ tiêu mất, cho nên Tùy phiền não sẽ bừng bừng! Hôn trầm là một món Cái. Ngủ nghê trong “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê” biểu hiện thành hôn trầm hiện tiền trong cái chướng, nhưng nếu quý vị sanh khởi cái tâm tôn trọng, khó gặp gỡ, hy hữu, sẽ chẳng hôn trầm. Giống như quý vị chuẩn bị suốt ba ngày, mong gặp mặt một người đã nhiều năm khát vọng gặp gỡ, dù là thiện tri thức cũng thế, mà thân nhân cũng thế, quý vị sẽ chẳng hôn trầm, buồn ngủ, mà cũng chẳng mê mất tự tâm.

Trong Tùy phiền não, lười nhác và cẩu thả chính là cái tâm giải đãi. Tướng phiền não này dễ sanh khởi nhất. Thường là khó khắc phục nhất vào mùa Hạ. Trong mùa Hạ, nó dễ biểu hiện nhất: Đầu gục xuống, mắt nhòa đi, ngủ tít luôn. Ngày này qua ngày nọ, cứ thế mà qua đi. Đấy là một hiện tượng rất phổ biến, bị cái chướng che lấp rồi! Tiêu trừ bằng cách nào? Hãy thân cận thiện tri thức, [sanh tâm] khó được, khó gặp, sanh lòng tôn trọng, quý vị sẽ chẳng bị [hôn trầm] như vậy! Giả thiết là vào thời đại đế vương trong quá khứ, vì các thứ nhân duyên, quý vị muốn gặp đế vương, vì chuyện ấy, phải chuẩn bị rất lớn, thông qua rất nhiều phương pháp thì mới có thể gặp. Nếu gặp đế vương mà quý vị bò toài ra đất rồi ngủ khì, chẳng thể nào có chuyện như thế được! Lại chẳng hạn như chúng ta đến chỗ rất xa xôi để cầu thiện tri thức, cầu pháp, [trải qua] ngàn vạn nỗi cay đắng, nhọc nhằn, trải qua lắm phen gian nan, [khi được gặp gỡ], quý vị sẽ chẳng ngủ. Vì sao? Do cái tâm cung kính thúc giục, cái tâm cảm nhận khó có thôi thúc, quý vị sẽ chẳng thể hôn trầm được!

Vì vậy, khi chúng ta hành pháp Ban Châu, phải thật sự sanh khởi ý tưởng như đối trước chư Phật, tưởng như Phật đang hiện tiền. Quý vị ngủ khì trước Phật là vì chẳng muốn gặp Phật! Một vị Bồ Tát đã bảo tôi: “Trời ơi! Tôi muốn hành Ban Châu, chuẩn bị kinh hành ba ngày ba đêm. Nay tôi đã ngủ suốt bốn ngày”. Tôi hỏi: “Vì sao?” Người ấy nói: “Ngủ đẫy giấc, ngủ đầy đủ rồi”. Tôi nói: “Quý vị có ngủ tám trăm năm cũng chẳng ngủ đủ! Cứ nghĩ ngủ đẫy giấc ở nhà để đủ sức tới đây hành Ban Châu ư? Nếu nói ngủ đủ giấc sẽ bù đắp được thì là chẳng tương ứng!”

(Kinh) Viễn ly ác hữu, tức thế ngữ ngôn.

()遠離惡友息世語言。

(Kinh: Xa lìa bạn ác, dứt bặt các ngôn từ thế gian).

“Ác hữu” (Bạn ác) là kẻ dùng ngôn ngữ thế tục để bầu bạn, xâm hại lẫn nhau, ai nấy đều mê hoặc. Kẻ ăn nói thao thao, nhưng tâm trí phiền não, bộp chộp, thì chính là “ác hữu”; nhất định phải khéo xa lìa. Đó cũng là yêu thương, che chở đối phương, vì mọi người tụ lại, nói các chuyện thế tục, sẽ xâm đoạt lẫn nhau, khiến cho tâm trí mê hoặc. Tâm trí càng ngày càng khổ. Đó là bầu bạn với ác hữu!

Các vị thiện tri thức ơi! Phải nên thật sự hành trì pháp tắc! Hành pháp trong quá khứ, “chỉ ngữ” (止語, không nói chuyện) là quy định nhất định. Tới đạo tràng, ít nói năng, niệm Phật nhiều, có thể trao đổi về pháp tắc, đừng nói các ngôn luận thế tục, để khỏi chịu nhiều đau khổ, bị nhiều thương tổn! Càng nói nhiều, sẽ tạo ác càng nhiều, thương tổn càng to! Mai sau quý vị sám hối, quả thật khó thể sám trừ. Chẳng hạn như thốt ra một lời ác trước mặt mười người, dẫu đã sám hối trước chín người, khi chẳng sám hối đối với một người còn lại, ác nghiệp của quý vị vẫn còn đó! Ác ngữ dễ tổn thương kẻ khác, dễ khiến cho kẻ khác xa cách, sợ sệt, do ác nghiệp sẽ tự phải hứng chịu [quả báo]. Một mình quý vị tạo ác nghiệp, làm thì đã làm rồi, quý vị tự làm, tự chịu, nhưng ác ngữ lưu truyền rộng khắp. Đó gọi là “ác ngữ huân nhiễm”, thương tổn mọi người, khó thể sám hối! Thốt ra một câu ác ngữ, nó sẽ được lan truyền rất rộng. Quý vị nói [câu ấy] rất khoái trá, nhưng sám trừ rất khó, vì kẻ nghe nói, kẻ truyền đạt, quý vị chẳng thể sám trừ với từng người được. Kẻ truyền đạt ác ngữ đông lắm, kẻ truyền đạt sự sám hối của quý vị ít ỏi, các Bồ Tát ơi! Vì thế, nhất định phải chú ý điều này!

(Kinh) Tắc chư căn môn, sơ, trung, hậu dạ, giảm tổn thụy miên, bất tham y phục, ẩm thực, thang dược, đường, phòng, ốc vũ, sàng, tòa chúng cụ, hằng nhạo không nhàn, trụ A Lan Nhã, bất ái kỷ thân, bất trọng ngã mạng, bất trước hình sắc, bất túng kỳ tâm.

()塞諸根門初中後夜減損睡眠不貪衣服飲食湯藥堂房屋宇牀座衆具恆樂空閒住阿蘭若不愛己身不重我命不着形色不縱其心。

(Kinh: Đóng lấp các căn, đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm, giảm bớt ngủ nghê, chẳng tham đắm y phục, thức ăn, thuốc men, tòa viện, nhà cửa, giường, tòa các vật, luôn thích thanh vắng, trụ trong A Lan Nhã, chẳng yêu mến thân mình, chẳng coi trọng mạng mình, chẳng chấp trước hình sắc, chẳng buông lung cái tâm).

“Bất trước hình sắc” (Chẳng chấp trước hình sắc): Đừng nên tham đắm hình sắc của chính mình. Hình sắc của chúng ta rốt cuộc sẽ bị sanh, lão, bệnh, tử, rốt cuộc sẽ tan hoại, rốt cuộc là bất tịnh. Nhiều hữu tình tham đắm sắc tướng và sắc thân của chính mình. Hành pháp cũng thế, làm chuyện gì cũng thế, đều xoay chuyển quanh nó, xoay tới, xoay lui, chỉ rơi vào tà mạn, ngã chấp, khổ chẳng thể nói nổi. Đó gọi là “dục đắc kỳ dung, phản thọ kỳ hại” (muốn được hình dung đẹp đẽ, đâm ra mắc hại).

“Bất túng kỳ tâm” (Chẳng buông lung cái tâm): Đừng dung túng nghiệp tập (nghiệp chướng và tập khí) của chính mình. Hãy nên vâng theo pháp để hành, đừng đắm nhiễm!

(Kinh) Tu dĩ Từ tâm, huân dĩ bi hạnh.

()修以慈心薰以悲行。

(Kinh: Dùng Từ tâm để tu, dùng bi hạnh để huân tập).

Đừng coi các giáo ngôn ấy như lời nói suông, hãy biến chúng thành quang minh nơi tâm địa, thành âm thanh nơi tâm địa, thành cảm nhận nơi tâm địa, thành sự thuần thục nơi tâm địa, thủ hộ tâm địa của chính mình! Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta có thể y giáo mà hành như thế. Lời ấy chẳng phải do đức Phật nói, mà là tâm địa nói. Chẳng phải do đức Phật dạy, mà là do tâm địa nẩy mầm, tâm địa thành thục. Các vị thiện tri thức ơi! Đừng coi đó là Phật nói. Nếu coi là Phật nói, đùn đẩy cho Phật, quý vị độ thoát sao được? Có liên quan gì đến quý vị đâu chứ? Nếu chẳng liên can gì đến quý vị, vậy thì quý vị ngồi ở đây để làm gì? Có ý nghĩa thực tế chi đâu? Do vậy, lời của chư Phật không gì chẳng phải là tiếng lòng của chúng sanh. Lời Phật dạy, không gì chẳng phải là quang minh chân thật trong tâm địa!

(Kinh) Nhất thiết thời hỷ, thường hành xả tâm.

()一切時喜常行舍心。

(Kinh: Vui mừng trong hết thảy mọi lúc, thường hành tâm xả).

Hữu tình thời Mạt Pháp tham cầu các dục, ít chú trọng tịnh hạnh. Đấy là sự hiển hiện do cộng nghiệp của chúng ta trong thời đại này, chẳng phải là lỗi của một ai. Quý vị cũng chẳng cần phải sợ hãi, vì hữu tình thời Mạt Pháp phước đức mỏng ít. Do đó, phải cậy vào vật tư, phải cậy vào hoàn cảnh, để khiến cho tự tâm được an lạc. Quả thật, [những thứ đó] chẳng đáng tin cậy, chẳng tương ứng! Trong quá khứ, hành pháp của tỳ-kheo là “ba y, một bát”, ít so đo những chuyện vặt vãnh, an trụ trong pháp ích, trong các thứ tự tại thiện xảo, dùng các sức thần thông để rạng rỡ thế gian. Nhưng hiện thời, dùng đủ loại vật chất để “trang nghiêm chói lòa” thế gian: Hãy coi ta có bao nhiêu món đồ, có bao nhiêu của cải, có bao nhiêu căn nhà, bao nhiêu chiếc xe, có sự nghiệp gì, có thân thể trẻ trung chi đó, tướng mạo đẹp đẽ. Những thứ ấy vô dụng, chẳng có lợi ích thực tế, rốt cuộc chúng sẽ tan hoại, là vô thường, là nhân duyên tụ tập nhất thời, trọn chẳng phải là công đức an lạc to tát!

(Kinh) Phá hoại phiền não, thành tựu chư Thiền.

()破壞煩惱成就諸禪。

(Kinh: Phá hoại phiền não, thành tựu các môn Thiền).

Thiện tri thức ơi! Chúng ta muốn đạt được công đức và lợi ích chân thật trong Phật pháp, nhưng các Thiền Định chẳng hiện tiền, đừng nên nói suông! Dẫu chúng ta nói nhiều cách mấy, vẫn là ngày này qua ngày nọ như thế, luống uổng của tín thí, chẳng thể thâm nhập pháp tắc thiện xảo rộng lớn! Như thế thì có được hay chăng? Được chứ! Nhưng sau đó, quý vị phải trả nợ! Trả nợ trong đời này, hoặc trả nợ trong đời khác. Đời đời kiếp kiếp nợ nần vô tận, khó sạch nợ được! Nay chúng ta thấy trâu, ngựa, lạc đà, lừa chở nặng; cát, đá, vôi vữa chúng nó đều phải chở. Ai chuyên chở? Cái tâm mắc nợ, tất nhiên phải trả nợ. Vì lẽ nào vậy? Mười phương tín thí mong cho chúng ta thành tựu đạo nghiệp, chọn lựa pháp tắc xuất thế, tạo thành phước điền thật sự thanh tịnh. Nguyện vọng tốt đẹp và công đức của tín thí đặt vào đấy, nếu chúng ta nhờ vào tín thí của kẻ khác để dưỡng dục tham, sân, si, mạn, nghi, và nghiệp lực của chính mình, tất nhiên sẽ là kẻ mắc nợ. Món nợ ấy là vì chẳng đảm đương cái nghiệp của tín thí vậy.

(Kinh) Ư trung tư duy, bất trước tư vị, quan sát sắc tưởng, duy đắc không tâm, bất loạn chánh niệm.

()於中思惟不着滋味觀察色想唯得空心不亂正念。

(Kinh: Tư duy trong ấy, chẳng chấp trước mùi vị, quan sát sắc tưởng, tâm chỉ là rỗng rang, chánh niệm chẳng loạn).

Nếu chẳng nương theo các môn Thiền Định hoặc Niệm Phật để nhất tâm tu trì, các điều tư duy sẽ chẳng tương ứng. Có kẻ tư duy phiền não, có kẻ tư duy cố chấp, tức là cưỡng chấp cách nghĩ “ta luôn đúng”, “ta luôn chánh xác”. Có kẻ tư duy kiêu mạn, cho là chính mình có công đức. Do vậy, sẽ thuận theo công đức của chính mình mà quẩn quanh, lẩn quẩn, giống như con lừa đi lòng vòng kéo cối xay. Tuy đi rất đúng, bước nào cũng đều đúng, nhưng vĩnh viễn chẳng thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn! Càng tự bào chữa, càng chịu khổ, chịu hại, chẳng thể sanh khởi lợi ích rộng lớn, tự xâm đoạt cái tâm của chính mình. Vì thế, chẳng thể chánh quán, chẳng thể như thật quán, chẳng thể như thật tư duy. Có các Bồ Tát tư duy hỗn loạn, tư duy cứng ngắc, tư duy hẹp hòi, tư duy tự phụ, rất đáng thương, giống như hữu tình mười phần ương bướng, ngu độn, ngồi xổm nơi góc tường, tự tung hô chính mình: “Ta luôn đúng”. Kẻ đó đối trước bức tường nói một vạn vạn năm, vẫn là “ta luôn đúng”, nhưng bất cứ hữu tình nào trong thế gian cũng đều chẳng đạt được lợi ích, đối với chính mình cũng chẳng có lợi ích!

Đối với những người hữu duyên hành pháp trong hiện tiền, hạng Bồ Tát như thế đặc biệt nhiều! Làm một tí sự tướng, liền tự cho là có công đức to đùng. Sau đấy, đối trước góc tường, cũng là đối trước cái tâm của chính mình, tự mình mê muội, nói: “Ta luôn đúng! Ta làm chẳng ít chuyện”. Hằng ngày nghĩ tới chuyện ấy, nói ta làm được nhiều thứ lắm, hồi thí [công đức, phước đức cho người khác] ít ỏi, hoặc tự phụ về những thứ chết cứng! “Thứ chết cứng” là gì vậy? Vô ký, hôn trầm! Chẳng thể có thiện xảo tiến nhập Phật pháp, phần nhiều giữ lấy những thứ “thiện xảo” nhỏ nhặt! Còn Thường Tinh Tấn Bồ Tát từ các kiếp nhiều như cát sông Hằng đến nay thường tinh tấn, chẳng nghỉ ngơi! Ngài chẳng cho đó là công đức của chính mình, chỉ tán thán chư Phật gia bị. Nay chúng ta là bọn hữu tình căn cơ mỏng tanh, ít phước, đạt được một tí đã sướng rơn, làm một tí đã nghĩ là được rồi, tự phụ chính mình đã chứng đắc. Kết quả là nhọc nhằn, bất an, hẹp hòi, yếu kém, chẳng thể phát khởi lợi ích rộng lớn. Đối với chuyện này, các vị thiện tri thức nhất định phải sốt sắng trừ khử tự ngã. Nếu chẳng trừ khử tự ngã, quý vị sẽ đối trước góc tường, tự phạt mình trong cái góc chết ấy! “Góc chết” gì vậy? Chính là giống như con lừa kéo cối xay vậy! Quý vị tự bịt mắt mình mà nói: “Ta đi đúng chóc, ta đi chánh xác”. Quý vị vĩnh viễn đi đúng lắm, nhưng vĩnh viễn chẳng đi ra khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy! Vòng luẩn quẩn gì thế? Tự ngã! Tức cái vòng “tự cho chính mình là đúng”. Vòng càng tròn, quý vị càng chẳng thoát ra được! Đúng là rất đáng thương xót. Vì thế, người có mắt thanh tịnh trông thấy, hiểu biết, thương xót hạng hữu tình ấy. Loại hữu tình ấy thường là hai mắt bị bịt kín, chẳng thể tự thấy. Vì lẽ nào? Chẳng có con mắt trí huệ, chẳng có từ bi, chỉ vì mắt đã bị bịt kín bởi thói tự đại. Quả thật phải nên cảnh giác! Hiện thời, rất nhiều người hành pháp đã bị hạn chế, ước thúc ở chỗ này, đình trệ chẳng thể tiến lên được, hôn trầm, điệu cử, vô ký, vô lực, chẳng còn tiến lên được nữa, chẳng có sức mạnh và nguyện vọng tăng tấn!

(Kinh) Bất thủ chư Ấm.

()不取諸陰。

(Kinh: Chẳng giữ lấy các Ấm).

Chẳng hạn như có người có thọ giác, cho đến có thần biến, có thiện xảo, mà cũng chấp lấy các cái nhân. Thật sự là chẳng có pháp nào để có thể đạt được, chỉ thẳng thừng tiến nhập, hành các pháp đạt được niềm vui, nhưng chẳng đắm nhiễm, chẳng vướng bận, chớ nên quay lại! Hễ quay đầu lại, nói chung sẽ chẳng đạt được pháp ích. Những kẻ hành pháp mà lo trước ngại sau, sẽ giậm chân tại chỗ, hãy nên quở trách chính mình nặng nề, phải thoát khỏi chỗ ấy, muốn thoát khỏi chỗ ấy! Nếu chẳng thoát ra được, sẽ hãm nhập trong trạng thái nào đó. Năm này qua năm khác, ngày này qua ngày nọ như thế, thực tế là đọa trong giải đãi, chẳng hề hổ thẹn! Hiện thời, trong cơ chế chung quanh chúng ta, trạng thái như vậy khá phổ biến. Vì thế, siêng ròng, khích lệ sẽ là mười phần trọng yếu.

(Kinh) Bất trước chư Nhập.

()不着諸入。

(Kinh: Chẳng chấp các Nhập).

“Chư nhập”: Có mười hai Nhập pháp, hoặc có sáu Nhập pháp, đều có xuất xứ.

(Kinh) Bất tư chư giới, bất tham sanh xứ.

()不思諸界不貪生處。

(Kinh: Chẳng nghĩ các giới, chẳng tham chỗ sanh).

Đối với tam hữu giới (tam giới), dù là trong Thiền Định, hay trong các pháp thiện ác, hoặc trong Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, chớ nên tham đắm các chỗ ấy. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng còn chớ nên tham đắm, các món Thiền Định mà còn chẳng thể tham đắm, huống hồ tham, sân, si, mạn, nghi ư? Huống hồ tri kiến bất chánh ư? Quý vị đắm chấp nơi đó, khổ và chẳng khổ, chính mình tự biết ngay!

(Kinh) Điều phục mạn cao, bất đố tha tài.

()調伏慢高不妒他財。

(Kinh: Điều phục tâm ngạo mạn, kiêu căng, không ghen ghét tài sản của kẻ khác).

Quả thật, đây là chỗ người hành pháp trong thời đại này phải nên quan sát cặn kẽ. Tôi đã gặp một vị Bồ Tát, là phụ nữ, sau ba mươi ngày hành pháp, rất mạnh mẽ. Từ ngàn dặm xa xôi tới đây, mười phần khiêm cung, lễ kính, thưa: “Bạch pháp sư! Con nghe đại danh của thầy đã lâu. Thầy tu pháp Ban Châu, chúng con từ chỗ X… đến tham bái thầy. Thầy có thể khai thị cho chúng con hay không?” Tôi thấy vị Bồ Tát ấy ăn nói khiêm nhường, trong tâm kiêu căng, bèn nói: “Thưa Bồ Tát! Quả thật tôi chẳng tu pháp Ban Châu, tôi niệm Phật một ngày một đêm thôi”. Vị Bồ Tát ấy đổi sắc mặt ngay lập tức, nói: “Ủa! Thầy chưa tu Ban Châu à?” Tôi đáp: “Quý vị cứ thong thả uống nước, chờ đôi chút. Ở đây chúng tôi có vị Bồ Tát Y… đã hành Ban Châu. Các vị có thể trao đổi với nhau”. Bà ta ngay lập tức lột mặt liền, tâm trí gặp bậc tri thức và gặp phàm phu sai khác quá to! Vừa mới gặp thì thấy rất cung kính, thật ra, chẳng phải vậy! Trong tâm tràn ngập kiêu mạn. Sự kiêu mạn ấy được biểu hiện như thế nào? Do tri kiến tăng thượng của chính mình, trọn chẳng phải là thật sự đến cầu pháp, hoặc đến tiêu trừ ngạo mạn. Cuối cùng, tôi bảo bà ta: “Trước hết, bà hãy rót nước uống đi!” Vị Bồ Tát ấy nói: “Ủa! Thầy chẳng tu Ban Châu thì ngồi ở đây làm gì chớ?” Tôi đáp: “Mọi người cùng nhau học tập, cùng nhau thực hành Phật pháp!” Bà ta bắt đầu giáo huấn tôi, bảo thầy phải làm thế này thế nọ. Một là, hai là, ba là, bốn là… Chẳng thể nói bà ta kiêu căng, cao ngạo, bà ta cảm thấy gì? “Ta mạnh hơn ngươi! Vì nhà ngươi mới niệm một ngày một đêm, còn ta đã niệm ba mươi ngày rồi!” Nhưng lúc rời đi, bà ta bảo tôi: “Ối trời ơi! Ban Châu khổ quá, tàn nhẫn quá!” Vì sao lọt vào tình trạng thân tâm bị bức bách, chẳng tăng trưởng pháp ích như thế? Do kiêu mạn!

Trong phòng tôi, có giữ một tấm hình lão hòa thượng Diệu Liên ở Đài Loan do người khác tặng. Chẳng biết Ngài bao nhiêu tuổi, hẳn là phải bảy tám mươi tuổi rồi, nhưng hễ ai trông thấy bức hình ấy đều nói: “Đây là vị pháp sư nào vậy? Chắc ba bốn mươi tuổi?” Là vì trong suốt mười mấy năm, Ngài đều như một ngày mà hành Ban Châu, đạt được lợi ích và thiện xảo của hành pháp. Gần đây, tôi biết các vị hành Ban Châu, kể cả các vị lão nhân thường trụ trong các tự viện ở phương Nam, sau khi họ kinh hành Ban Châu, tuy đều đã bảy tám mươi tuổi, chín mươi tuổi, vẫn còn rất phong nhã, hào hoa, rất trẻ trung. Có các vị thiện tri thức, chúng tôi không dám nhắc đến, sợ thế tục kinh hãi. Có các vị thiện tri thức đích xác là trụ thế chẳng đổi! Trước kia, tôi đã ở chung với một vị thiện tri thức. Có người từ nơi rất xa đến lễ kính vị ấy. Tôi nói: “Nếu mọi người yêu mến vị thiện tri thức này, hãy hỏi pháp với vị ấy cho nhiều, giảm bớt lễ kính. Lễ kính vị ấy nhiều quá, sợ rằng sẽ xui khiến vị ấy nẩy sanh kiêu mạn. Xui khiến gì vậy? Tự cầu tăng thượng mạn, chẳng cầu pháp tắc”. Tăng thượng mạn là gì? Chẳng giải quyết vấn đề của chính mình thì gọi là tăng thượng mạn, chỉ tăng thêm kiến thức của chính mình, chẳng tăng thêm lợi ích cho chính mình. Lợi ích gì vậy? Lợi ích nơi pháp tắc, tức là tiêu trừ phiền não của chính mình, tiêu trừ nghi hoặc và chướng ngại nơi pháp tắc, chẳng phải là mong tăng thêm sự quen biết, khoe: “Tôi đã gặp vị nào đó”, “tôi đã lễ bái vị thầy nào đó”, chỉ tổ tăng thêm kiêu mạn!

Có người hỏi: “Thầy đã gặp những vị thiện tri thức nào?” Tôi đáp: “Ai nấy đều là thiện tri thức”. Có những vị thật sự là bậc hành pháp thiện xảo rất chẳng thể nghĩ bàn trong thế gian, chúng tôi quả thật chẳng dám dễ dãi nói với người đời. Vì sao? Sẽ quấy nhiễu, xâm hại họ. Vì tâm địa của chúng ta hiện thời đã tự vun bồi sự kiêu mạn của chính mình quá nhiều, vun bồi danh phận của chính mình thì nhiều, mà giải quyết phiền não, nghiệp tập của chính mình thì ít, mười phần ít ỏi! Như thế đâm ra chẳng tương ứng. Rất nhiều vị Bồ Tát hành pháp đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, nhưng mười người thì có tới tám người do được kẻ khác đến cúng dường, tán thán, đề cao họ, kết quả là xong luôn! Bị chết tươi trong sự tán thán, ca ngợi ấy! Cũng có rất nhiều vị hành pháp có công đức và lợi ích đúng là rất chẳng thể nghĩ bàn, nhưng họ rất bình phàm. Cho nên tôi đặc biệt kính ngưỡng và quý mến loại thiện tri thức ấy!

Do đó, ở đây, [đức Thế Tôn] nêu ra “điều phục cao mạn, bất đố tha tài” (điều phục kiêu căng, ngạo mạn, chẳng ghen ghét của cải của người khác). Cái tâm đố kỵ và tâm kiêu mạn là cộng nghiệp hiển hiện trong thời đại này. Các vị thiện tri thức ơi! Hành trì Ban Châu mà nếu chẳng sanh khởi sự chọn lựa và tùy thuận đối với pháp tắc tùy hỷ, sẽ khó thể hành trì Ban Châu! Vì cái tâm chẳng tịch tĩnh. Như thế thì quý vị sẽ ganh ghét hữu tình. Do cái tâm kiêu mạn, sẽ khiến cho chính mình nhiệt não, tâm trí chẳng đạt được cân bằng, chẳng thể thanh lương, chẳng tĩnh được, chẳng an ổn được. Chúng ta khéo tư duy, khéo quan sát, hãy nên khéo điều chỉnh, khéo xuất ly đối với cộng nghiệp trong thời đại này!

(Kinh) Vị chư thế gian, đa tác nhiêu ích.

()爲諸世間多作饒益。

(Kinh: Vì các thế gian, tạo nhiều lợi ích).

Học tập kinh điển, thật sự là phân tích tự tâm, chẳng lìa ý niệm hiện tiền, chuyện trong hiện tại, người trong hiện tại. Chúng ta hãy như thật ấn khế tự tâm có tương ứng với pháp tắc hay không? Có khế cơ, khế lý với Phật pháp hay chăng? Có thể thật sự vận dụng mỗi niệm hiện tại của chính mình hay chăng, khiến cho Phật pháp ấn khế cuộc sống, cuộc sống ấn khế tự tâm, tự tâm sẽ như Phật pháp tiếp nối trong thế gian, tiêu trừ lo ngờ, lợi ích rộng rãi hữu tình hay không? Lợi ích và nội hàm thực chất của pháp Ban Châu đã được trần thuật khá nhiều trong một trăm hai mươi hai câu “vân hà”, ở đây, [đức Phật] lại chỉ dạy tổng quát, nhằm khiến cho hữu tình phát khởi ý nguyện ưa thích tu trì đối với hành pháp Ban Châu, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội, cũng như nhận thức công đức này.

(Kinh) Ư chư chúng sanh, khởi bình đẳng tâm.

()於諸衆生起平等心。

(Kinh: Khởi tâm bình đẳng đối với chúng sanh).

Công đức sanh khởi từ cái tâm bình đẳng ắt có thể lợi ích rộng rãi các thế gian. Hết thảy hữu tình đều do mê muội tâm trí bình đẳng, cho nên dấy lên sự phân biệt cao, thấp, lấy, bỏ, tri kiến phàm thánh khác biệt, nhuốm bẩn tự tâm, khuất lấp tự tâm, phần nhiều đánh mất sự an trụ trong an lạc thanh tịnh, tạo thành sự nguy hại lẫn nhau, tức là bị phân biệt và chấp trước não loạn, mê hoặc. Sanh khởi tâm trí bình đẳng, tức là đối trước hết thảy các tướng sai biệt của hết thảy chúng sanh, bèn thủ hộ bình đẳng như thật, ban cho chúng sanh công đức thiện xảo chân thật. Tiếp đó, đức Thế Tôn nêu ra các thí dụ.

(Kinh) Hựu ư chúng sanh, sanh phụ mẫu tưởng.

()又於衆生生父母想。

(Kinh: Lại sanh ý tưởng coi chúng sanh như cha mẹ).

Hết thảy chư Phật Như Lai tưởng hết thảy hữu tình như cha mẹ, cảm ơn cuộc sống, cảm ơn mỗi niệm hiện tiền, cảm ơn hết thảy hữu duyên; điều này chân thật, chẳng giả. Vì sao? Do thấu triệt cội nguồn, liễu giải tự tâm chẳng khác. Trong cuộc sống bình phàm, trong sự cảm nhận của chúng ta, nếu dựa theo phàm tình, nếu dựa theo nghiệp tập, nếu dựa theo tri kiến phân biệt, thường là chẳng thể sanh khởi tâm trí cảm ơn hết thảy chúng sanh, nhưng ở đây chư Phật Như Lai lựa chọn, đối với hết thảy hữu tình, “sanh phụ mẫu tưởng” (sanh ý tưởng coi như cha mẹ). “Sanh tưởng” tức là khởi ý niệm nghĩ như thế, hay là như thật mà tưởng? Nếu dựa theo sự kiện từ vô lượng kiếp tới nay, đời đời kiếp kiếp luân hồi; như thế thì “hết thảy hữu tình đều là cha mẹ lẫn nhau” chính là lời thành thật. Nếu xét theo đời này, đời kia, nhiều đời, thì ở đây sẽ là nói theo sự tưởng tượng, nói thí dụ, nói giả thiết, có thể khiến cho chúng sanh rốt ráo an lạc. Thiết lập như thế sẽ có thể khiến cho chúng sanh đạt được an lạc rốt ráo và thủ hộ tâm trí bình đẳng, báo đáp ân đức của hết thảy hữu tình như cha mẹ.

Do vậy, chư Phật Như Lai là người tri ân, người báo ân, thực hành ân đức, cho nên nói “trọn đủ ân đức”. Tam đức[2] trong công đức thù thắng trụ thế của chư Phật Như Lai, ân đức trọn đủ nhất. Khi tiếp xúc hết thảy hữu tình, đều chẳng bỏ lỡ thời cơ ban bố lợi ích chân thật cho chúng sanh, hòng báo ân chúng sanh. Vì sao vậy? Chư Phật Như Lai coi hết thảy chúng sanh như cha mẹ từ vô thỉ đến nay, dùng nhân duyên ấy để báo đáp ân dưỡng dục lẫn nhau.

(Kinh) Diệc ư chúng sanh, sở tác nhất tử tâm.

()亦於衆生所作一子心。

(Kinh: Tâm cũng coi chúng sanh như con một).

Trong nhất tâm như thế, tôn trọng hết thảy, lợi lạc rộng rãi hết thảy hữu tình. Trong tâm trí phàm phu, do thường dùng sức biện định, nhận biết từ nghiệp tập để xem xét, sẽ cho chuyện này là lời lẽ quá lố, hoặc ăn nói lớn lối, hoặc lời lẽ chẳng tương ứng, là lời lẽ khoa trương sự cao minh. Thật ra, chẳng phải vậy! Chư Phật Như Lai Thế Tôn đã chọn lựa như thế. Chúng ta là hạng phàm phu lè tè sát đất, nếu thuận theo cách suy nghĩ và nhìn nhận của chư Phật Như Lai để tư duy, nhìn nhận, thuận theo tri kiến của chư Phật để hiểu biết, thuận theo nhận thức của chư Phật để nhận thức, dẫu tùy thuận trong khoảng sát-na, sẽ đạt được sự gia trì chẳng thể nghĩ bàn và sự biến đổi nơi tâm trí, ấn khế tâm trí.

Ở đây, cũng có thể coi là sự giả thiết, quý vị chẳng ngại thử xem, chẳng ngại quan sát, chẳng ngại vận dụng. Chỗ “chẳng ngại” tức là chỗ ấn tâm. Do đó, tiếp xúc, va chạm, in vào, quý vị sẽ liễu đạt “tự tâm, Phật tâm, chúng sanh tâm, cả ba chẳng sai biệt”.

Vì lẽ nào? Tự tâm, Phật tâm, chúng sanh tâm, tâm nào cũng đều vốn là nhất tâm, nhưng sử dụng hư vọng, sử dụng chánh đáng, sử dụng phân biệt, sử dụng viên mãn, sử dụng sai biệt, sử dụng tà vạy, sử dụng chân thật, sử dụng rốt ráo, mỗi cách dùng khác biệt. “Khác biệt” là vì chấp trước. Chư Phật Như Lai đã sớm nhận biết diệu dụng chân thật vô sai biệt, cho nên dùng cái tâm bình đẳng để lợi ích rộng khắp hết thảy chúng sanh.

(Kinh) Nhất thiết pháp trung, vô hữu tránh tưởng.

()一切法中無有諍想。

(Kinh: Trong hết thảy các pháp, chẳng có ý tưởng tranh chấp).

Trong kinh điển, đức Thế Tôn đã dạy “pháp này bình đẳng, pháp chẳng cao thấp”. Chư Phật Như Lai ban bố các lời dạy, khiến cho hết thảy chúng sanh thấy thấu suốt hiện duyên như mộng, như huyễn, chẳng có thực chất, nhưng tự tánh trọn đủ các loại tác nghiệp có diệu dụng duy trì liên tục. Chúng sanh do nhận thức hư vọng, ngỡ tướng của nghiệp lưu là Ngã. Chư Phật Như Lai dùng các thứ tác dụng duy trì tiếp nối của bi trí và nguyện lực để lợi ích chúng sanh rộng rãi, nhưng chẳng có Ngã để có thể đạt được. Do đó, đạt được tự tại vô tránh, nhập Vô Tránh tam-muội để rộng lợi ích thế gian.

(Kinh) Tuy niệm trì giới, nhi bất chấp trước.

()雖念持戒而不執着。

(Kinh: Tuy nghĩ đến trì giới, nhưng chẳng chấp trước).

Tâm trí của chư Phật Như Lai rộng lớn viên mãn rốt ráo. Hết thảy những người hành pháp cũng nên như thế, tức là trì giới mà chẳng chấp trước, tạo lợi ích cho hữu tình trọn khắp, nhưng thật sự chẳng có chúng sanh để tạo lợi ích. Đấy chính là khuôn phép và lợi ích của tâm trí bình đẳng trong cái tâm chẳng đắm nhiễm. Nếu người trì giới cho rằng chính mình thật sự trì giới, thì sẽ là phạm giới. Vì sao? Do tâm trí bị ô nhiễm, do tâm trí có cao, thấp, do có tướng ta, tướng người, kẻ đó sẽ trầm luân trong sanh tử mê muội, trong Ngã Kiến và Ngã Chấp.

(Kinh) Thường tại Thiền Định, diệc vô đam nhiễm.

()常在禪定亦無躭染。

(Kinh: Thường ở trong Thiền Định mà cũng chẳng đắm nhiễm).

Phần văn tự dưới đây diễn tả sự thủ hộ vi tế và vô tạo tác đối với pháp tắc này. Nếu hơi có tạo tác, chắc chắn sẽ đắm nhiễm.

(Kinh) Hảo nhạo đa văn, bất khởi phân biệt.

()好樂多聞不起分別。

(Kinh: Ưa thích đa văn, chẳng dấy lên phân biệt).

Tức là thanh tịnh vui sướng tiếp nhận đa văn, rộng tu tập các pháp, chẳng sanh tâm ngạo mạn. Hữu tình thời Mạt Pháp phần nhiều trái nghịch đạo. Do vậy, chúng ta dùng kinh điển để gột rửa trần cấu nơi thân tâm của chính mình, ưa thích đa văn, nhưng chẳng kiêu mạn. Điều này rất trọng yếu. Nếu chẳng như thế, chúng ta sẽ sanh đắm nhiễm. Đối với các văn tự ấy, chúng ta có thể dùng để đối chiếu với tâm niệm hiện tiền của chính mình, đối chiếu với nghiệp do chính mình tạo tác trong hiện tiền. Đừng nghĩ tưởng chi khác. Chúng ta chớ đếm của báu giùm kẻ khác, cũng chẳng đem Phật pháp đùn đẩy cho người khác. Nếu đùn đẩy cho họ, nói chung là chẳng thể khế nhập, nói chung là chẳng khởi tác dụng, nói chung là chẳng liên can! Bánh vẽ nói chung chẳng thể no lòng, chẳng có cơ hội dung nhập.

(Kinh) Giới tụ bất khuyết.

()戒聚不缺。

(Kinh: Giới tụ chẳng khuyết).

“Giới tụ” là ba tụ giới, tức là Oai Nghi Giới, Thiện Pháp Giới, và Nhiêu Ích Hữu Tình Giới. “Giới tụ bất khuyết” tức là trong ba giới tụ, chẳng hề bỏ sót giới nào. Trong nhận thức thông thường của chúng ta đối với giới pháp, ai nấy có cách gìn giữ khác biệt. Nếu là Thanh Văn giới tụ thì chú trọng oai nghi. Nếu là Bồ Tát giới tụ thì chú trọng thiện pháp. Nếu đối với giáo ngôn vô thượng thừa thì chú trọng nhiều hơn nơi Nhiêu Ích Hữu Tình. Chọn lựa như thế, trong ba giới tụ, chẳng có khiếm khuyết, chẳng phạm, chẳng nghi ngờ, chẳng báng bổ lẫn nhau! “Khuyết phạm” là sanh khởi lắm nghi báng, vì tam tụ tịnh giới đều có chỗ dung thông. Kẻ phàm phu xằng bậy chê trách. Có kẻ khi trì giới Thanh Văn thì bèn phạm giới Bồ Tát, khi trì giới Bồ Tát lại phạm giới Thanh Văn. Ở đây, [“bất khuyết”] là chẳng có chỗ nào sai phạm; nhưng vì lợi ích hữu tình, chỉ vì dùng oai nghi trụ thế, [cho nên] đều có thể trì giới, chẳng phạm. Hễ phạm bèn sám, [hễ đã sám trừ thanh tịnh thì] cũng là chẳng phạm, cũng có lợi ích, cũng thanh tịnh!

(Kinh) Định tụ bất động.

()定聚不動。

(Kinh: Định tụ bất động).

Trong các thứ pháp tắc Thiền Định thuộc về Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, và Tứ Thiền, hữu tình thâm nhập pháp vị của Thiền pháp, vượt khỏi tất cả các đắm nhiễm của bọn hữu tình chúng ta trong Dục Giới, có sức tự tại đối với Sắc Giới. Tức là đối với thế gian thuộc Sắc Giới, phần nhiều được du hý tự tại, trang nghiêm tự tâm. “Định tụ bất động” có nghĩa là trong các môn Định cũng chẳng bị đắm nhiễm. Nói “bất động” tức là chẳng ra ngoài giới này, chẳng vào giới kia, chỉ trụ trong niềm vui sướng của pháp vị.

(Kinh) Trí tụ bất vọng.

()智聚不妄。

(Kinh: Trí tụ chẳng vọng).

Thông thường, Trí được quy nạp theo ba cách nói: Chư Phật đích thân chứng Nhất Thiết Chủng Trí, chư đại A La Hán đích thân chứng Nhất Thiết Trí, chư Bồ Tát phương tiện vận dụng Đạo Chủng Trí. Trong ba trí ấy, chớ nên lầm loạn. Chẳng hạn như trong Nhất Thiết Trí, dùng Tổng Tướng để thấy, nhưng chẳng diệt mất trí phân biệt, [trí phân biệt] tức là Đạo Chủng Trí. Tâm trí an lạc như thế. Có kẻ dễ mê mất tự tâm nơi sự tướng, hư vọng sanh phân biệt, nói cao, nói thấp. Thật ra, Tổng Tướng và Biệt Tướng nói chung đều là tướng danh tự, chứ tâm trí chẳng khác, đều lưu xuất từ Như Lai Tạng Tánh, đều trọn đủ trang nghiêm. Mỗi trí đều là nói phương tiện.

(Kinh) Chư pháp vô nghi.

()諸法無疑。

(Kinh: Chẳng nghi ngờ các pháp).

Chúng ta tu tập Phật pháp, có ngờ vực hay không? Có chướng ngại hay không?

(Kinh) Bất bối chư Phật.

()不背諸佛。

(Kinh: Chẳng trái nghịch chư Phật).

Chư Phật Như Lai ban bố giáo ngôn rộng lớn, tám vạn bốn ngàn pháp tắc để đối ứng tám vạn bốn ngàn tâm trí của chúng sanh, mà cũng là đối trị tám vạn bốn ngàn loại chấp trước. Những điều này đều là danh từ, danh tướng. Các danh từ ấy nói thật ra, đều chẳng phải là thật sự có, cũng chẳng phải là cụ thể, nhưng nói thí dụ giả thiết. “Tám vạn bốn ngàn” nhằm biểu thị vô cùng, mà cũng có thể biểu đạt một niệm hiện tiền của chúng ta.

(Kinh) Bất báng chánh pháp.

()不謗正法。

(Kinh: Chẳng phỉ báng chánh pháp).

Thời đại Mạt Pháp, lắm kẻ báng pháp, vì sao? Do tâm trí ô nhiễm, xằng bậy tự phân biệt, lấy bỏ, xằng bậy tự cho là “đúng, sai”, diệt mất chánh kiến!

(Kinh) Bất hoại chúng Tăng.

()不壞衆僧。

(Kinh: Chẳng phá hoại chư Tăng).

“Bất hoại chúng Tăng” là hòa hợp với thế gian, chẳng cho chính mình là đúng, chẳng chê người khác sai bét. Vì sao phải thủ hộ như thế? Hòa hợp với thế gian, gánh vác cái nghiệp của chúng sanh. Dành chuyện tốt cho người khác, tự mình nhận lấy chuyện tệ ác, khen ngợi thiện đức của kẻ khác, sám hối lầm lỗi của kẻ khác. Do vậy, chánh hạnh của Bồ Tát có thể khiến cho Tăng chúng hưng thịnh trong đạo tràng của thế gian.

(Kinh) Bất háo quai ly.

()不好乖離。

(Kinh: Chẳng thích chống trái).

“Chống trái” thì sẽ ruồng bỏ thiện duyên, phần nhiều sẽ trái nghịch đạo, buông lung pháp tắc.

(Kinh) Thân cận chúng thánh, viễn ly ngu si.

()親近衆聖遠離愚癡。

(Kinh: Thân cận chư thánh, xa lìa ngu si).

Thường thân cận thiện tri thức, sẽ đạt được nhiều diệu dụng. Thường ở chung với kẻ ngu, sẽ mê mất tự tâm. Vì sao? Kẻ mê hướng dẫn kẻ mê, kẻ mù dắt dẫn người mù, ai nấy ví như kẻ mù sờ voi, tranh cãi với nhau, nhưng chẳng chính mắt trông thấy! Bậc trí, bậc thánh có thể hướng dẫn chúng ta, mở mang mắt ta, xa lìa ngu si, mở con mắt trí huệ, khiến cho chúng ta trông thấy toàn bộ con voi, ngay lập tức trọn đủ. Người đời tham cầu Phật pháp, cũng giống như kẻ mù sờ voi, chạm được một tí ti đã tự phụ, cứ nghĩ mình đúng. Kết quả, đánh mất toàn thể, chẳng đạt được công đức chân thật trong Phật pháp.

(Kinh) Bất chí cầu xuất thế. Tuy văn ngữ ngôn, ý bất nhạo thính, diệc bất đam trước thế gian lục vị.

()不志求出世。雖聞語言意不樂聽亦不耽著世間六味。

(Kinh: Chí chẳng mong cầu xuất thế. Tuy nghe ngôn ngữ, ý chẳng chuộng nghe, cũng chẳng đắm nhiễm sáu vị của thế gian).

Chẳng cầu xuất thế, mà chẳng nhập thế. Đó là phương tiện của định tâm, là phương tiện chẳng đắm nhiễm. Đó gọi là sức công đức trí huệ chân thật chẳng đắm nhiễm. Chẳng xuất thế, chẳng nhập thế, chẳng vào sanh tử, cũng chẳng chấp Niết Bàn, chẳng nhập phiền não, cũng chẳng chứng Bồ Đề, chân thật an trụ, trí huệ quang minh. Đấy là thiện xảo để huân tập pháp ngũ giải thoát[3].

(Kinh) Tập cận huân tu, ngũ giải thoát pháp.

()習近薰修五解脫法。

(Kinh: Tu tập thân cận, huân tu năm pháp giải thoát).

Giải thoát và giải thoát tri kiến là do dùng Giới, Định, Huệ để thanh tịnh an lập. Chúng ta học tập Phật pháp, nếu chẳng tùy thuận năm pháp giải thoát, cũng như ba môn tam-muội Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, sẽ khó thể tiến nhập.

(Kinh) Trừ diệt Thập Ác, niệm tu Thập Thiện.

()除滅十惡念修十善。

(Kinh: Trừ diệt Thập Ác, niệm tu Thập Thiện).

Cái gọi là Thập Ác chính là giết, trộm, tà dâm, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, tham, sân, si. Thập Thiện thì tương phản, không giết, không trộm, không tà dâm, không ác khẩu, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói đôi chiều, không tham, không sân, không si. Những điều này thật sự là chỗ an ổn vui sướng cho cả thế gian lẫn xuất thế gian. Vì sao có thể nói thiện pháp là chỗ vui sướng? Xuất thế gian có thể vui với thiện pháp bằng cách nào? Chúng ta đều biết, trong Tục Đế có nói “do Ngũ Giới, Thập Thiện, sẽ sanh trong thiện đạo”. Nhìn từ đó, Thập Thiện và Thập Ác có thiện xảo xuất thế như thế nào? Chính là nói bổn tướng của hai Đế (Chân Đế và Tục Đế) dung thông, chỉ là nói hư giả. Trong các thứ khổ, kẻ ngu hứng chịu, thánh nhân cũng hứng chịu, nhưng thánh nhân từ trong khổ mà đắc lạc. Lạc gì vậy? Ở trong khổ mà được giải thoát, ở trong khổ mà thành tựu Bồ Đề, nhưng chúng sanh khổ nạn bị Khổ Khổ bức bách, Khổ Khổ tiếp nối, mê muội trong khổ. Vì thế, chẳng được giải thoát. Do đó, khổ cũng là thiện xảo để xuất thế. Trong mười thiện pháp, cũng giống như thế. Pháp tắc Thập Thiện và Thập Ác chính là cơ sở an ổn trong cuộc đời. Khi nào mất đi cơ sở ấy, sẽ bị nhiều nỗi khổ sở bức bách, tăng thêm nhiều nguồn khổ. Bậc trí nương vào Khổ Khổ mà xuất ly, kẻ ngu nương theo Khổ Khổ mà trầm luân. Do vậy, trong khổ tất nhiên là khổ tướng, trong lạc tất nhiên là lạc tướng. Đó là chuyện tất nhiên, tức là Thọ thì chẳng thể thay thế. Các vị đại thánh, bậc trí, và bậc thiện xảo dạo chơi tự tại trong các khổ và lạc, diệu dụng ở chỗ này. Phàm nhân sẽ trầm luân ở nơi đây chẳng nghỉ, chẳng thể tự thoát ra được, như thế mà thôi!

(Kinh) Đoạn diệt chúng sanh cửu chủng não xứ.

()斷滅衆生九種惱處。

(Kinh: Đoạn diệt chín chỗ não hại cho chúng sanh).

Chín chỗ khổ não là nhân duyên trong quá khứ của đức Thế Tôn. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật do nương vào sự nhiếp thọ của năm trăm lời nguyện, mới có thể thành Phật trong đời ác ngũ trược này, nhưng vẫn thị hiện chín loại não hại.

1) Sáu năm khổ hạnh: Đức Thế Tôn bỏ trời Đâu Suất, giáng sanh trong vương cung, bỏ ngôi vị xuất gia, sáu năm khổ hạnh. Sáu năm khổ hạnh thật sự là khổ sở; đó là sự khổ não thứ nhất. Vì sao có sự khổ não này? Đức Phật nói: – Xưa kia, có hai thiếu niên, một người tên là Hỏa Man thuộc dòng Bà La Môn. Người kia tên là Hộ Hỷ, là con của thợ ngõa, tức con trai của thợ nề. Hộ Hỷ rủ Hỏa Man cùng đến gặp Ca Diếp Như Lai. Chúng ta đều biết Ca Diếp Như Lai (Kāśyapa) là đức Thế Tôn thứ ba trong Hiền Kiếp. Bốn vị Phật trong Hiền Kiếp lần lượt là Câu Lưu Tôn (Krakucchaṃda), Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamuni), Ca Diếp, và Thích Ca Văn (Shakyamuni, Thích Ca Mâu Ni Phật). Khi Ca Diếp Phật xuất thế, con người thọ hai vạn tuổi. “Hỏa Man viết: – Hà dụng kiến thử thốc đầu đạo nhân? Hộ Hỷ cưỡng chi tái tam, thỉ cộng kiến Ca Diếp Như Lai. Hỏa Man kiến Phật tướng hảo, tâm sanh hoan hỷ, xuất gia học đạo. Phật ngôn: – Thời Hỏa Man giả ngã thân thị. Dĩ báng Phật nhân duyên, thọ khổ vô lượng. Kim lâm thành Phật, dư ương vị tận, phục thọ lục niên khổ hạnh” (Hỏa Man nói: “Đến gặp đạo nhân trọc đầu ấy để làm gì?” Hộ Hỷ cưỡng ép đôi ba lượt, [Hỏa Man] mới cùng [Hộ Hỷ] đến gặp Ca Diếp Như Lai. Hỏa Man thấy tướng hảo của Phật, tâm sanh hoan hỷ, xuất gia học đạo. Đức Phật nói: “Hỏa Man khi ấy chính là thân ta. Do nhân duyên báng Phật, chịu khổ vô lượng. Nay sắp thành Phật, dư ương chưa hết, lại chịu sáu năm khổ hạnh”). Đó là nguyên do của sáu năm khổ hạnh, là điều khổ não thứ nhất.

Đức Thế Tôn tu hành, muốn khiến cho tất cả các Phật tử hữu duyên miễn trừ chín điều khổ não. Hiện thời có các hữu tình nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật hứng chịu bao nhiêu khổ sở, chúng ta cũng hứng chịu bao nhiêu khổ sở!” Đấy chẳng phải là nguyện lực xuất thế của Thích Ca Mâu Ni Phật, mà cũng chẳng phải là công đức xuất thế thực tế của Thích Ca Mâu Ni Phật. Vì sao? Nêu một tỷ dụ dễ hiểu. Ví như cha mẹ trong thế gian sanh nở con cái, muốn cho đứa con của chính mình tránh khỏi những nỗi khổ mà chính mình đã hứng chịu, bèn siêng năng, nhọc nhằn làm việc, kiến lập gia nghiệp. Chư Phật Như Lai cũng giống như thế, coi hết thảy hữu tình hữu duyên như con một, dùng tất cả phước đức, công đức, nhân duyên của chính mình để nhiếp thọ, thủ hộ đứa con một ấy, khiến cho nó lìa khỏi nỗi khổ ấy. Do đó, chư Phật Như Lai vì diệt trừ hết thảy khổ não cho chúng sanh nên xuất thế, tức là [diệt trừ] khổ não luân hồi, khổ não “sanh, lão, bệnh, tử”, khổ não vì Phần Đoạn Tử và Biến Dịch Tử, để rốt cuộc tiến nhập A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Hỏa Man do một lời báng bổ Ca Diếp Phật mà chịu vất vả sáu năm. Đức Phật Thích Ca nói ra duyên khởi ấy, đúng là muốn khiến cho các hữu tình hữu duyên tránh khỏi nỗi khổ sáu năm ấy.

Tôi tới một tùng lâm, có người bảo tôi: “Thế Tôn làm gương cho chúng ta để chúng ta khổ tu”. Tôi đáp: “Đức Thế Tôn bố thí giải thoát cho chúng ta, bố thí Giới, Định, Huệ, bố thí trí huệ và từ bi để chúng ta xa lìa khổ não”. Rốt cuộc giáo ngôn ấy có phải là như thế hay không? Chúng ta hãy xem sự liên tục trong giáo ngôn của đức Thế Tôn, sẽ thấy: Thật ra, sáu năm khổ hạnh chính là do đức Phật phương tiện thị hiện, chẳng phải là Ngài thật sự thọ báo. Tuy là như thế, khó tránh khỏi báo ấy, nhưng các vị đại Bồ Tát do nương vào công đức rất sâu bèn thấy đức Phật nhập định suốt sáu năm, chẳng có chuyện khổ. Thích Ca Mâu Ni Phật đã thành Phật từ bao kiếp lâu xa, đã ở trong thế gian này tám ngàn lần, qua lại thế gian này độ thoát hữu tình hữu duyên, độ thoát hữu tình có phước đức nhân duyên chín muồi. Nếu [hữu tình nào] phước đức nhân duyên chưa chín muồi, đức Thế Tôn chẳng thể độ thoát, chỉ tạo các thứ phương tiện gia trì cho tới thành thục thiện căn.

2) Hai là dâm nữ Tôn Đà Lợi (Sundarī) báng Phật. Đây là loại khổ não thứ hai. Đức Phật nói: – Xưa kia có người cờ bạc tên là Tịnh Nhãn, có dâm nữ tên là Lộc Tướng. Tịnh Nhãn dụ Lộc Tướng ra ngoài thành vui chơi. Khi đó, có vị Bích Chi Phật tu đạo trong rừng. Tịnh Nhãn giết chết Lộc Tướng, vu cáo Bích Chi Phật, đến nỗi Bích Chi Phật [bị bắt và bị tra khảo] gần chết. Sau đó, lương tâm của Tịnh Nhãn nổi dậy, liền tự nhận tội. Quốc vương giết chết Tịnh Nhãn. Đức Phật nói: “Tịnh Nhãn khi ấy chính là thân ta, còn Lộc Tướng là Tôn Đà Lợi. Ta do nhân duyên ấy, chịu vô lượng khổ. Nay tuy thành Phật, do dư ương ấy, vẫn bị kẻ nữ phỉ báng”. Đó là nói do từ vô lượng kiếp tới nay, do giết Lộc Tướng và vu báng Bích Chi Phật, do hai pháp ấy mà chịu vô lượng khổ. Khi đã thành Phật, vẫn thị hiện hứng chịu dư ương “bị nữ nhân phỉ báng”. Chư Phật Như Lai do mười tám pháp Bất Cộng, biết hết thảy chuyện quá khứ, vị lai, thấu suốt triệt để. Do vậy, trong Tam Minh và Tứ Trí có Lậu Tận Minh, Thiên Nhãn Minh, Túc Mạng Minh, có thể biết thấu đáo hết thảy, nhìn thấy hết thảy rốt ráo chẳng chướng ngại.

3) Bị cái giáo bằng gỗ đâm vào chân. Đức Phật nói: – Xưa kia có hai người thủ lãnh các lái buôn vào trong biển thu nhặt chất báu. Về sau, do nước lụt, tranh giành thuyền, chiến đấu với nhau. Người thủ lãnh thứ hai cầm mâu đâm người thứ nhất bị thương, người ấy liền mạng chung. Đức Phật bảo: “Người thủ lãnh lái buôn thứ hai khi đó chính là thân ta, còn người thủ lãnh lái buôn thứ nhất là Đề Bà Đạt Đa. Do nhân duyên ấy, hứng chịu các khổ báo. Nay tuy được thành Phật, nhưng do tàn duyên ấy, vẫn bị cái giáo gỗ đâm vào chân”. Đấy là nhân duyên khiến cho đức Thế Tôn bị thương ở chân tại núi Linh Thứu (Gṛdhrakūṭa, núi Kỳ Xà Quật). Chúng ta đều biết Thích Ca Mâu Ni Phật chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề trong thế giới Sa Bà, tuy thị hiện ứng hóa thân, vẫn đạt được sức vô ngại, vì cớ gì mà hứng chịu sự suy não này? Thật ra là khiến cho dư ương hiển nhiên trong thế gian, ngõ hầu chúng sanh được thấy, được nghe, cho đến biết chư Phật cũng có nhân quả tiếp nối. Do đó, có thể yêu mến Tu Đức, xa lìa nỗi kiêu mạn tầm thường. Nếu không, hết thảy phàm phu hữu tình sẽ đều chửi bới Như Lai: “Chư Phật Như Lai các ông là kẻ hóa hiện, là người biến hóa, chẳng phải là người thật sự, không cha, không mẹ”. Do vậy, họ sẽ đọa địa ngục, oan uổng hứng chịu nỗi khổ ấy, chẳng có cơ hội thân cận [Phật]!

Đấy là điều khổ não thứ ba trong chín loại khổ não. Vì sao ở đây nói tới chín điều khổ não ấy? Đoạn chín điều khổ não cho chúng ta chính là nhân duyên xuất thế của đức Phật Thích Ca. Nếu chẳng như vậy, đức Phật Thích Ca xuất thế đúng là chẳng từ bi, đúng là chẳng có trí huệ. Nếu là bậc có trí, biết nghiệp của chúng sanh từ vô thỉ tới nay, tuy có đủ loại khổ nghiệp, nhưng nương theo sự hồi thí của pháp tánh thanh tịnh, sẽ khiến cho chúng sanh trông thấy, trực tiếp thoát khỏi sự xâm hại của nghiệp lực. Như thế là cái tâm có trí huệ. Khiến cho chúng sanh chẳng hề lặp lại nỗi khổ hứng chịu nghiệp báo; điều đó được gọi là “bi tâm”. Nếu chẳng trọn đủ hai pháp Bi và Trí, Phật sẽ chẳng thể gọi là Phật. Chúng ta chớ nên dùng tâm trí của chính mình để suy lường Phật. Nếu Phật có thể suy lường được, sẽ chẳng gọi là Phật nữa!

4) Ba tháng ăn lúa mạch dành cho ngựa. Đức Phật nói: “Xưa kia trong thời Tỷ Bà Diệp Như Lai cùng với các tỳ-kheo nhóm họp tại thành Bàn Đầu Ma Bạt. Vua Bàn Đầu cúng dường to lớn. Khi ấy, trong thành có Bà La Môn dẫn dắt năm trăm đứa bé trai, thấy Phật ứng cúng, dấy lòng ghen tỵ, nói: ‘Bọn sa-môn trọc đầu đáng phải nên ăn lúa mạch dành cho ngựa, chẳng nên ăn các món ngon lành’. Bà La Môn thuở đó chính là thân ta. Năm trăm đứa bé trai tức là năm trăm vị La Hán. Do nhân duyên ấy, chịu các khổ báo. Nay tuy đã thành Phật, do tàn duyên ấy, trong ba tháng An Cư, chẳng được cúng dường, chỉ ăn lúa mạch dành cho ngựa”. Bà Diệp Như Lai chẳng phải là vị Như Lai trong Hiền Kiếp, mà là vị Thế Tôn cuối cùng trong Trang Nghiêm Kiếp. Thích Ca Thế Tôn có quả báo ba tháng ăn lúa mạch dành cho ngựa là vì có quốc vương nói: “Bạch Thế Tôn! Con sẽ dâng thực phẩm cúng dường trong ba tháng An Cư mùa Hạ”. Đức Thế Tôn im lặng [chấp thuận lời thỉnh]. Nhà vua ấy biết đức Thế Tôn đã đáp ứng tiếp nhận cúng dường trong ba tháng. Sau khi về cung, quên bẵng lời hứa ấy. Do đã chấp thuận [được nhà vua] cúng dường trong ba tháng ấy, [Tăng đoàn] chẳng có nhân duyên ứng cúng khác. Có kẻ lái buôn ngựa thấy đức Thế Tôn chẳng có ai cúng dường, bèn dùng lúa mạch dành cho ngựa ăn dâng cúng. Ngài A Nan sanh nghi, nói: “Đức Thế Tôn đã có thể thành thục, có thể thành tựu, có thể an trụ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Vì cớ gì lại chẳng có phước đức viên mãn?” Đức Thế Tôn bảo: “Đến đây!” Ngài A Nan bèn tiến đến. Đức Thế Tôn bảo: “Hãy lấy lúa mạch dành cho ngựa ăn”. Ngài A Nan liền bỏ lúa mạch dành cho ngựa ăn vào bát của đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn bảo A Nan ăn. A Nan liền ăn, suốt một tháng chẳng biết đói khát, giống như uống cam lộ. Đấy thật sự là công đức bí mật của chư Phật Như Lai.

Do đó, ba tháng ăn lúa mạch dành cho ngựa, tuy là tướng khổ báo, nhưng thật ra là để khiến cho chúng sanh tăng thêm hiểu biết. Nếu chẳng hiểu biết, hữu tình trong thế gian sẽ cho rằng chẳng có nhân quả, mê mất cái tâm nhân quả, cho rằng chẳng có tự tánh, xằng bậy sanh Đoạn Diệt Kiến, hủy diệt pháp tắc thế gian, nẩy sanh đại tà kiến, chịu khổ luân hồi. Vì tránh cho chúng sanh nẩy sanh tà kiến, cho nên đức Thế Tôn vẫn giữ dư tập, dư báo, để khiến cho chúng sanh được trụ trong an lạc. Chúng ta thấy đức Thế Tôn còn có báo, tâm được an ổn. Quý vị đừng cho đó là hư giả. Nếu đức Thế Tôn chẳng thọ báo, quý vị sẽ chẳng có duyên để nắm níu, chẳng có pháp để thâu nhiếp, chẳng có gì để trao đổi, cho nên chín thứ khổ não này thật sự là do đức Phật đại bi trí huệ, thuận theo căn cơ mà thị hiện.

5) Vua Lưu Ly (Virūḍhaka)[4] sát hại dòng họ Thích Ca. Đức Phật nói: – Xưa kia, tại thành La Duyệt (Rājagṛiha, Vương Xá), có thôn đánh cá. Nhằm lúc đói kém, trong thôn có cái ao nhiều cá, mọi người đều bắt cá ăn. Trong ao, có hai con cá [thủ lãnh], một tên là Phu, hai tên là Đa Thiệt, đều ôm lòng báo oán. Khi đó, có một đứa trẻ ở trên bờ, thấy cá nhảy lên, bèn dùng gậy đập đầu cá. Người ở La Duyệt thuở ấy nay là những người họ Thích. Con cá tên Phu nay là vua Lưu Ly. Cá Đa Thiệt nay là Phạm Chí Háo Khổ (ông ta xúi vua Lưu Ly giết dòng họ Thích Ca). Đứa nhỏ là thân ta. Do nhân duyên ấy, vua Lưu Ly giết họ Thích Ca, ta bị đau đầu. Đức Thế Tôn đập đầu cá ba lượt, về sau bị đau đầu ba ngày. Vua Lưu Ly diệt dòng họ Thích Ca, đức Thế Tôn ngăn trở ba lần chẳng được. Đấy là chỗ khổ não thứ năm. Chúng ta đừng cho rằng thật sự có quả báo này. Nếu đức Thế Tôn chẳng thị hiện như thế, dùng đại oai đức che chở dòng họ Thích Ca, khiến cho nhân quả ấy chẳng tiếp nối, tuy ai nấy đều được thoát lìa, nhưng Phật pháp sẽ bị diệt mất trong thế gian! Do vậy, tuy ngài Đại Mục Kiền Liên chẳng nỡ lòng thấy tộc Thích Ca nhất thời bị diệt chủng, bèn chứa năm trăm người thuộc họ Thích Ca trong bát, ngõ hầu vua Lưu Ly chẳng thể sát hại họ. Sau khi vua Lưu Ly tàn sát thành trì, ngài Mục Kiền Liên đổ những người ấy từ bát ra. Kết quả là họ đều hóa thành máu loãng! Vì sao nhân quả tiếp nối như thế? Muốn cho hữu tình chưa thoát khỏi đối đãi, sẽ sanh tri kiến quyết định. Tri kiến quyết định ấy hoàn toàn chẳng phải là nhân quả quyết định, mà là “tin sâu nhân quả, chẳng lầm lạc nhân quả”. Chẳng lầm lạc nhân quả, tiến hướng pháp tánh, trực tiếp thoát khỏi sanh tử. Nhưng nếu chẳng tin nhân quả, chúng sanh sẽ sanh tử không nơi nương tựa! Thậm chí thuyết pháp cũng chẳng có chỗ y cứ. Do vậy, đấy là mấu chốt trong việc diệt trừ chín điều khổ não.

6) Khất thực, bát trống rỗng: Đức Phật từng vào làng xóm Bà La Môn khất thực mà chẳng được gì, ôm bát rỗng trở về. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đi khất thực trong một thôn xóm Bà La Môn. Một ngày, hai ngày, ba ngày chẳng xin được thức ăn, ôm bát rỗng trở về. Có một tỳ-kheo tự bán cái bát, nói: “Đức Thế Tôn là đấng Nhất Thiết Trí, do lẽ nào mà chẳng có thức ăn? Tôi thà nguyện bán y bát để đổi lấy thức ăn, khiến cho đức Thế Tôn chẳng bị suy yếu, khổ não vì thức ăn!” Do đó, thầy ấy dâng một bát cơm cúng dường đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nói: “Này tỳ-kheo! Ta chẳng tiêu nổi thức ăn này. Thầy hãy nên cúng dường thức ăn này lên cha mẹ thầy. Vì sao? Do cha mẹ sanh dưỡng thân thầy”. Vị tỳ-kheo ấy nói: “Đức Thế Tôn là đấng Nhất Thiết Trí, là đấng thủ hộ hết thảy các công đức, là tròng mắt của trời, người, là đạo sư của trời, người, đầy đủ hết thảy các phước đức, lẽ nào chẳng thể tiêu nổi thức ăn này?” Đức Thế Tôn bảo: “Ta thúc đẩy sự sanh thành Pháp Thân huệ mạng của hết thảy chúng sanh, chẳng xuất sanh sắc thân của thầy như thế. Cho nên hãy nên dâng cúng cha mẹ. Nếu sau khi đã khiến cho cha mẹ thầy thọ Tam Quy thì có thể dùng thức ăn này”. Đấy là nỗi khổ não ba ngày bát rỗng không của đức Thế Tôn. Các tỳ-kheo chúng ta trong hiện thời, trong nhân duyên thông thường, sẽ chẳng bị cái ăn bức bách. Đức Thế Tôn sức trí đức đã viên mãn, là đạo sư của trời, người, là tròng mắt của thế gian, là đấng đáng được trời, người cúng dường, vì sao có ba ngày bát rỗng như thế? Thật ra, chẳng phải là như thế. Ngài thật sự vì muốn khiến cho hữu tình thật sự trông thấy nhân quả có tác dụng tiếp nối như thế, cho nên dùng phương tiện để chỉ dạy.

7) Cô Chiên Trà (Ciñca Mānavika)[5] báng Phật. Khi đức Phật đang thuyết pháp cho đại chúng, có Đa Thiệt đồng nữ buộc cái bát vào bụng, báng Phật rằng: “Sa-môn vì sao chẳng nói đến chuyện nhà, mà cứ nói chuyện khác? Ông trước đã ăn nằm với ta, nay cần phải lo liệu bơ, dầu để nuôi con thơ chứ!” Đức Phật tự thuật chuyện bổn sanh như sau: – Xưa kia có đức Phật tên là Tận Thắng. Có hai tỳ-kheo, một vị tên là Vô Thắng, vị kia tên là Thường Hoan. Khi ấy, tại thành Ba La Nại có vợ của ông trưởng giả Đại Ái tên là Thiện Huyễn. Hai tỳ-kheo cùng đến nhà ông ta để nhận cúng dường. Tỳ-kheo Vô Thắng do đã đoạn hữu lậu, cho nên được cúng dường chẳng thiếu khuyết. Tỳ-kheo Thường Hoan chưa đoạn kết sử, cúng dường có thiếu sót. Thường Hoan dấy lòng ganh tỵ, vu báng Vô Thắng lẹo tẹo với Thiện Huyễn. Thường Hoan khi đó là thân ta, còn bà Thiện Huyễn nay là Chiên Trà. Do nhân duyên ấy, chịu các khổ báo. Do dư ương ấy, bị đồng nữ phỉ báng”.

8) Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa) đẩy đá. Đức Phật nói: – Xưa kia tại thành La Duyệt, có trưởng giả tên Tu Đàn, có con tên là Tu Ma Đề. Sau khi cha chết, Tu Ma Đề có đứa em cùng cha khác mẹ tên là Tu Da Xá. Tu Ma Đề sợ phải chia tài sản cho em, lừa em lên núi Kỳ Xà Quật, đẩy cho rơi xuống vách đá, lấy đá phang chết. Trưởng giả Tu Đàn [hiện thời] là phụ vương ta. Tu Ma Đề là thân ta. Tu Da Xá là Đề Bà Đạt Đa. Do tàn duyên ấy, Đề Bà Đạt Đa dùng đá gieo xuống đầu ta, sơn thần dùng tay đón lấy đá, có mảnh đá nhỏ làm ngón chân ta bị thương”.

9) Gió lạnh đắp y. Đức Thế Tôn ở trong rừng A La Bà Già, đêm lạnh, từng phải đắp ba y chống lạnh. Đối với tỳ-kheo thì dùng cái y nào để chống lạnh? Đầu đêm thì dùng y năm điều sẽ có thể chống lạnh. Giữa đêm dùng y bảy điều. Cuối đêm có cảm giác rét mướt thì dùng đại y (y tăng-già-lê). Ba loại y để chống lạnh. Do vậy, đức Thế Tôn nói ba y của tỳ-kheo đủ để tránh giá lạnh, đủ để hành đạo. Cho nên hành trì pháp “ba y, một bát”.

Chín chỗ khổ não ấy là sở chứng của đức Thế Tôn, do nhân quả hiển hiện, tức là tướng nhân quả hiển hiện sau khi chứng đắc Bồ Đề. Nếu phàm phu hữu tình chúng ta chẳng tin nhân quả, sẽ chẳng thể siêng năng hành các pháp. Như đối với pháp Ban Châu, sẽ nói “biết đạo lý là được rồi, chẳng thể hành trì”, nhưng nhân quả chẳng sai mảy may. Do đó, chúng ta thường hành một đạo, tâm niệm chư Phật, đích thân chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, được nghe chư Phật dạy bảo, hiện tiền sẽ chẳng thoái chuyển đối với Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao? Do đích thân thấy tự tánh, chọn lựa pháp tắc, do thấy Phật ngộ Vô Sanh, do được Phật đích thân thọ ký.

(Kinh) Tâm thường bất ly Cửu Tưởng Quán Môn.

()心常不離九想觀門。

(Kinh: Tâm thường chẳng lìa Cửu Tưởng Quán Môn).

Cửu Tưởng chính là một thứ thiện xảo trong pháp tu của tỳ-kheo, là một loại thiện xảo để quán Bất Tịnh, muốn trừ cái tâm tham dục của hết thảy chúng sanh, tiêu trừ các nghiệp. Nghiệp gì vậy? Nghiệp đắm nhiễm, nghiệp tham dục. Vì tham dục mà sanh ra hai nghiệp sân và ngu. Trong Cửu Tưởng, một là tưởng trương phềnh, hai là tưởng xanh bầm, ba là tưởng hư nát, bốn là tưởng máu tóe tràn lan, năm là tưởng rữa nát, sáu là tưởng giòi trùng đục khoét, bảy là tưởng tan nát, tám là tưởng [thịt đã rữa hết, chỉ còn] xương, chín là tưởng bị đốt cháy. Đấy là chín loại phép quán bất tịnh, người xuất gia trong Phật giáo Nam truyền tất nhiên sẽ tu pháp như thế. Các hành giả Du Già tại Tây Tạng cho đến các hành giả thật sự, phần nhiều tu pháp này ở chỗ rét mướt để cái tâm xuất ly có thể thật sự thành tựu, nhưng Tăng nhân nơi đất Hán ít hành trì pháp này, hư vọng xưng là Đại Thừa, ai nấy đều trưng ra giáo ngôn Đại Thừa, nhưng trong tâm chẳng có sự thiện xảo của Đại Thừa. Lợi ích trong Thanh Văn Thừa còn chưa thể đạt được, hư giả lập bày Đại Thừa. Đấy chính là biểu hiện của nghiệp tướng phần nào rỗng tuếch nơi đất Hán!

(Kinh) Thường tư khí quyên bát chủng giải đãi.

()常思棄捐八種懈怠。

(Kinh: Thường nghĩ vứt bỏ tám thứ giải đãi).

Trong Phật pháp có Bát Chánh Đạo, tức Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Niệm, Chánh Định, Chánh Trí. Có thể nói Bát Chánh Đạo là một pháp siêng ròng. Chẳng thủ hộ pháp này, tức là chẳng thích tu trì Bát Chánh Đạo, sẽ sanh ra tám thứ giải đãi.

(Kinh) Nhất tâm tu tập bát đại nhân giác.

()一心修習八大人覺。

(Kinh: Nhất tâm tu tập tám điều giác ngộ của bậc đại nhân).

Có một bản kinh là kinh Bát Đại Nhân Giác, kinh rất ngắn. Tám điều giác ngộ của bậc đại nhân: Một là thiểu dục, hai là biết đủ, ba là xa lìa, bốn là tinh tấn, năm là chánh ức niệm, sáu là định tâm, bảy là trí huệ, tám là chẳng hý luận. Thiểu dục và tri túc có gì khác biệt? Vì sao nói như thế? Người thiểu dục tự có pháp dụng thiểu dục, người tri túc tự có pháp dụng tri túc. Thường là bọn phàm phu hữu tình chúng ta do có phiền não thô trọng, Kiến Tư Hoặc thô trọng nhiễu loạn, phần nhiều chẳng biết chỗ vi tế! Nói theo chỗ vi tế thì là sự giác ngộ của bậc đại nhân, là sự giác ngộ của người trí, Bồ Tát phải nên thủ hộ, phàm phu thường mê mất ở chỗ này!

(Kinh) Bất trước Thiền vị.

()不著禪味。

(Kinh: Chẳng chấp trước Thiền vị).

Nếu là người có các Thiền Định thiện xảo, chớ nên đắm chấp Thiền vị. Trong thực tế, pháp vị dễ khiến người hành trì mê đắm nhất. Trong giáo ngôn của đức Thế Tôn, theo các kinh điển ghi chép, vì điều này mà các tỳ-kheo đọa lạc trong sự vui sướng, hoan lạc của thế tục rất nhiều. Cận đại, có một câu chuyện rằng có một sa-di theo Nam truyền. Vị sa-di ấy có thần thông thiện xảo rộng lớn, do Thiền Định mà đạt được. Về sau, do nhiễm đắm mà đọa lạc vào thế tục, thậm chí khi đủ tuổi bèn xả giới hoàn tục. Vị sa-di ấy đại khái là người Thái Lan, rất nổi tiếng. Sức thần thông của ông ta to cỡ nào? Có lần, sư phụ của ông ta nói: “Ngày mai là thánh đản của đức Thế Tôn, chúng ta nên cúng dường”. Ông ta bèn dùng sức thần thông đến một hang núi bên Ấn Độ hái rất nhiều hoa, khiến cho đạo tràng khắp nơi tràn ngập các lẵng hoa. Sức thần thông rất lớn, tự tại trong không gian. Sư phụ chẳng có thần thông, nhưng tin sâu nhân quả, có sức quan sát rất khéo léo. Hòa thượng nói: “Sa-di ơi! Chỉ thủ hộ tự tâm, đừng đắm nhiễm Thiền vị”. Ông ta chẳng nghe lời thầy dạy, đại khái là vào lúc hai mươi tuổi, vì đắm nhiễm Thiền vị, thậm chí do sức thần thông, tham đắm đủ loại vui sướng Tự Thọ Dụng, có cái tâm đắm nhiễm. Trong sát-na tâm đắm nhiễm sanh khởi, nghiệp duyên Dị Thục Quả chín muồi, người nữ hữu duyên trong đời trước bèn xuất hiện trước mặt ông ta, thoáng đến, thoáng đi, ông ta chẳng thể kiềm chế chính mình bèn xả giới hoàn tục. Đấy là một câu chuyện rất nổi tiếng!

(Kinh) Bất thị đa văn.

()不恃多聞。

(Kinh: Chẳng cậy đa văn).

Có nhiều kẻ kiêu mạn, do tu hành mà kiêu mạn, do đa văn mà kiêu mạn, do có các thứ thiện xảo mà kiêu mạn, lừa dối tự tâm, khinh rẻ người khác.

(Kinh) Tồi phục ngã mạn.

()摧伏我慢。

(Kinh: Dẹp tan ngã mạn).

Có kẻ do đa văn mà sanh tâm kiêu mạn, có người do tu hành nhiều mà sanh tâm kiêu mạn, có kẻ do có nhiều tài sản mà sanh tâm kiêu mạn, có kẻ do có quyền thế mà sanh tâm kiêu mạn. Do có chủng tánh ngã mạn, cho nên phải đập tan ngã mạn.

(Kinh) Nhất tâm thính thọ, cầu pháp ân trọng, tu đạo chứng tri, lân mẫn chúng sanh, ly ngã phân biệt, cầu thọ mạng tưởng, tất cánh nan đắc.

()一心聽受求法殷重,修道證知憐愍衆生離我分別求壽命想畢竟難得。

 (Kinh: Nhất tâm nghe nhận, ân cần, trân trọng cầu pháp, tu đạo chứng biết, thương xót chúng sanh, lìa sự phân biệt vì chấp ngã, có ý tưởng mong cầu thọ mạng, rốt cuộc khó được).

Thọ mạng khó được vì vô thường, vô ngã. Trong kiến địa quy y, vô thường, vô ngã, khổ, không là các pháp ắt phải tu, mà cũng là các pháp ắt phải hành đối với hết thảy mọi người trong Phật pháp. Ấn khế tự tâm như thế thì là Tam Quy Y, mà cũng là kiến địa quy y, hoặc nói là trí địa quy y, giải địa quy y, thuận địa quy y. Sự quy y ấy là bất hoại quy y. Danh tự quy y là như cầm lấy một tờ điệp quy y chi đó. Ta xuất gia làm sa-môn v.v… thì có phải là quy y hay không? Nếu chẳng dùng bốn pháp ấn[6] để ấn khế tự tâm, chẳng thể coi là quy y. Do đó nói: Trong kiến địa, phải nên quy y. “Cầu thọ mạng tưởng, tất cánh nan đắc” (Tưởng cầu thọ mạng, rốt ráo khó được). Điều này rất quan trọng, do chúng ta phần nhiều vì trường thọ, hy vọng sống lâu, cứ ngỡ sắc thân bất hoại, hoặc muốn cho sắc thân này bất hoại, nào có biết hết thảy chúng sanh chẳng ai tránh khỏi sanh, lão, bệnh, tử; rất công bằng!

(Kinh) Quán sát chư Ấm, vô hữu vật tưởng, bất trụ Niết Bàn, bất trước sanh tử.

()觀察諸陰無有物想不住涅槃不著生死。

(Kinh: Quán sát các Ấm, chẳng có ý tưởng là “có sự vật”, chẳng trụ trong Niết Bàn, chẳng chấp sanh tử).

Chẳng trụ Niết Bàn, chẳng chấp trước sanh tử, hành nhân Đại Thừa phải nên thủ hộ điều này.

(Kinh) Chư hành phiền não, luân phát đại khủng bố tưởng.

()諸行煩惱輪發大恐怖想。

(Kinh: Phát khởi ý tưởng sợ hãi to lớn đối với các hành phiền não luân).

Đối với phiền não luân, sanh sợ hãi to lớn; đối với sanh tử luân, sanh lòng sợ hãi to lớn. Hiện thời, rất nhiều phàm phu hữu tình, phiền não hữu tình chẳng sợ phiền não, chẳng sợ sanh tử, đúng là kẻ lỗ mãng! Khi sanh tử bức bách, đúng là chẳng thể tự dẹp trừ được. Lúc phiền não bức bách, quả thật không thể xuất ly. Do vậy, trong lúc bình thời, trọn đủ các nhân duyên, hãy nên đoạn phiền não, trừ sanh tử. Đó là nhiệm vụ trọng yếu, tức nhiệm vụ trọng yếu của hết thảy người học Phật. Quý vị nói: “Tôi cầu phước báo nhân thiên, chuyện ấy chẳng trở thành nhiệm vụ trọng yếu!” Nhưng chúng ta là người học Phật thì phải khéo chọn lựa lợi ích trong Phật pháp.

(Kinh) Chư Ấm oán gia tưởng.

()諸陰怨家想。

(Kinh: Tưởng các Ấm như oán gia).

Ấm (陰), dịch theo lối cũ (cách phiên dịch trước thời ngài Huyền Trang) là Ấm, dịch theo lối mới là Uẩn (蘊). Nói “Ngũ Uẩn giai Không” (năm uẩn đều là không), bao gồm Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức [đều là Không]. “Chư Ấm oán gia tưởng” tức là tưởng Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều là oán gia. Hết thảy phàm phu không ai chẳng mê muội trong ấy. Đối với các Ấm hay các Uẩn, đều chẳng thể tự kiềm chế được!

(Kinh) Chư Nhập không trạch tưởng, chư Giới độc xà tưởng.

()諸入空宅想諸界毒蛇想。

(Kinh: Tưởng các Nhập như nhà trống, tưởng các Giới như rắn độc).

“Chư giới”: Giới là gì? Nếu thuộc vào một địa vị mà cho đó là thật, thì sẽ có giới (giới hạn). Giới bao gồm mười tám giới, tức là sáu căn, sáu trần, sáu thức diễn bày, huyễn hóa thành mười tám giới. Hãy nên coi mười tám giới như rắn độc, đừng nên đắm chấp!

(Kinh) Tam giới suy não tưởng.

()三界衰惱想。

(Kinh: Tưởng tam giới là suy bại, khổ não).

Có hữu tình nói: “Ta chẳng trụ trong Dục Giới”, tức là nói phải dùng Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng để nhập Vô Sắc Giới. Trong thế gian có cách tu tập như thế. Tôi đã gặp một số pháp môn [tuyên truyền] kết ấn chi đó, niệm một chân ngôn đặc biệt chi đó, vào Mạn Đà La thọ quán đảnh, sẽ rất nhanh chóng tiến nhập cái được gọi là “Thiền Định thiện xảo”, thậm chí nói là sẽ đạt được đại phương tiện. Đối với những điều ấy, chớ nên chấp trước. Hễ chấp trước, vẫn bị tam giới suy bại, khổ não bức bách y hệt. Chúng ta ở trong Dục Giới, còn chưa thoát lìa thiện ác, vẫn còn nhiễm thị phi, cho nên chẳng thể đắc Thiền Định, cũng có nghĩa là chưa thể tiến nhập Sắc Giới! Vì Sắc Giới là nương vào các tầng trời Thiền Định mà kiến lập. Các loài hữu tình thiện ác, các loài hữu tình trì giới hay phạm giới sẽ chẳng thể nhập. Hữu tình chấp trước thị phi, tâm sanh phân biệt, khó thể nhập được! Hiện thời, có rất nhiều người học Phật, đối với Thiền Thiên (các tầng trời thuộc Tứ Thiền Thiên) còn chẳng ưa thích, đắm nhiễm thị phi, chấp trước đối đãi, cho nên chẳng đắc Thiền Định. Do đó, người tu pháp trong hiện thời khá đáng thương, khá khổ sở, khá hẹp hòi!

(Kinh) Niết Bàn lợi an tưởng.

()涅槃利安想。

(Kinh: Tưởng Niết Bàn là lợi ích, an ổn).

Chư Phật Như Lai đích thân chứng các thứ thiện xảo. Trong các thứ thiện xảo ấy, giải thoát, trí huệ, và Niết Bàn là ba pháp tồn tại theo thế chân vạc. “Thế chân vạc” là gì? Chính là toàn thể Phật pháp. Nếu thiếu một pháp [trong ba pháp trên đây], sẽ là Niết Bàn của ngoại đạo. Nếu thiếu một pháp, sẽ là trí huệ của ngoại đạo. Nếu thiếu một pháp, sẽ là giải thoát của ngoại đạo. Các thứ ngoại đạo ấy, tức là trong chín mươi sáu loại ngoại đạo tại Ấn Độ đều có [các pháp ấy, nhưng chẳng đồng thời trọn đủ ba pháp]. Trọn đủ ba pháp (trí huệ, giải thoát, và Niết Bàn) chính là chánh hạnh của Phật pháp. Đối với ba điều ấy, chẳng thể phế bỏ điều nào, giống như ba chân của cái đỉnh; bỏ một, sẽ hoàn toàn hỏng. Do đó, trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Thế Tôn đã bảo: Giải thoát, trí huệ, Niết Bàn, như ba chân của cái đỉnh, chống đỡ Phật pháp.

(Kinh) Quán chư dục ác, do như thóa thế, thâm nhạo xuất gia, bất vi Phật giáo. Ư chúng sanh sở, khuyến hành công đức. Ư chư thế giới, vô phục nhiễm tâm, kiến nhất thiết Phật, giai tất hiện tiền.

()觀諸欲惡猶如唾涕深樂出家不違佛教。於衆生所勸行功德。於諸世界無復染心見一切佛皆悉現前。

(Kinh: Quán các dục ác ví như đờm rãi, rất thích xuất gia, chẳng trái lời Phật dạy. Đối với các chúng sanh, khuyên hành công đức. Trong các thế giới, chẳng còn tâm đắm nhiễm, thấy hết thảy Phật thảy đều hiện tiền).

Đối với chuyện hành trì Ban Châu tam-muội, các thứ hướng dẫn này đều quy kết về công đức to lớn Kiến Nhất Thiết Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền (thấy hết thảy chư Phật thảy đều hiện tiền) nhằm thành thục thiện căn.

(Kinh) Thọ nhất thiết thân, giai nhược huyễn mộng. Nhất thiết chư tướng, quán sát diệt trừ.

()受一切身皆若幻夢。一切諸相觀察滅除。

(Kinh: Thọ hết thảy các thân đều như huyễn mộng. Quan sát, diệt trừ hết thảy các tướng).

[Nếu thấy] các tướng chẳng phải là tướng, sẽ thấy diệu dụng của trí huệ, sẽ thấy diệu dụng của Như Lai. Biết hết thảy các nghiệp đều là huyễn hóa, biết hết thảy các thân đều là huyễn hóa, chẳng có thực chất. Chúng ta hiện thời có phải là huyễn tướng hay không? Do huyễn duyên như thế sanh ra huyễn tướng, kết cục hư huyễn, chẳng có thực chất.

(Kinh) Tư duy vãng lai, bất kiến tam thế.

()思惟往來不見三世。

(Kinh: Tư duy qua lại, chẳng thấy tam thế).

Do một niệm ba đời, một niệm chân tâm chớm nẩy, chẳng mê mất tướng cảnh giới nơi pháp giới, chính là “hồi quy”. Khi mê mất, Năng và Sở kiến lập, sanh ra các thứ thế giới, các cảm giác thô nặng đều kiến lập, tam hữu, tam giới cùng lúc sanh khởi.

(Kinh) Ư tín thanh tịnh, thâm tín chân diệu, niệm nhất thiết Phật, tam thế bình đẳng.

()於信清淨深信真妙念一切佛三世平等。

(Kinh: Tín tâm thanh tịnh, tin sâu lẽ chân diệu, niệm hết thảy chư Phật, ba đời bình đẳng).

Quá khứ, hiện tại, vị lai, một niệm có thể tỏ lộ. “Tam thế vi nhất niệm, nhất niệm vi tam thế” (Một niệm là ba đời, ba đời là một niệm), chẳng cần nói cặn kẽ, chỉ nên quan sát.

(Kinh) Vô hữu động chuyển, nhi năng trì chư thiện căn, nhất thiết chư Phật tam-muội tự tại, chung bất nhiễm trước chư Phật tướng thân.

()無有動轉而能持諸善根一切諸佛三昧自在終不染著諸佛相身。

(Kinh: Chẳng có động chuyển mà có thể trì các thiện căn, hết thảy chư Phật tam-muội tự tại, trọn chẳng đắm nhiễm thân tướng của chư Phật).

Vì trong sự tu trì hết thảy các tam-muội, thấy các tướng hết sức thiện xảo, hết sức an lạc. Sự thiện xảo an lạc ấy có thể khiến cho hết thảy chúng sanh thấy chư Phật, muốn thấy bèn thấy. Do sức tam-muội. muốn xuất bèn xuất, [tức là] xuất các Thiền Định. Chớ nên đắm nhiễm chỗ này, mà cũng chớ nên hủy hoại. Vì sao? Chẳng có đến, đi, chẳng có pháp thật sự, chẳng có Thật Tướng, do nhân duyên mà tu, tâm tịnh bèn thấy. Người hiện thời dùng các loại thuốc gây huyễn tưởng (hallucinogen) rất mạnh mẽ, có kẻ đắm nhiễm Thiền vị cũng bị trúng độc giống như dùng thuốc gây huyễn tưởng vậy. Hễ dùng thuốc gây huyễn tưởng, tưởng gì bèn thấy đó. Những người thiện xảo trong Thiền Định tam-muội cũng giống như thế, muốn thấy gì bèn thấy điều đó, do sức Chánh Thọ, sức bình đẳng, sức vô ngại cùng gia trì, sẽ nẩy sanh thành sự thật. Nếu đắm nhiễm các duyên ấy, người ta sẽ trúng độc, đọa vào niềm vui thế tục.

(Kinh) Ư nhất thiết pháp, giai tất bình đẳng, bất dữ nhất thiết thế gian cộng tránh. Sở khả ưng tác, bất tương vi bội, thông đạt thậm thâm Thập Nhị Nhân Duyên.

()於一切法皆悉平等不與一切世間共諍。所可應作不相違背通達甚深十二因緣。

(Kinh: Trong hết thảy các pháp thảy đều bình đẳng, chẳng tranh chấp cùng hết thảy các thế gian. Chẳng chống trái các chuyện đáng nên làm, thông đạt rất sâu mười hai nhân duyên).

Do trong hết thảy các tam-muội, nói theo quả thì quả là tướng thành thục, hễ động tâm bèn thấy. Nói theo nhân, cái nhân là siêng năng, phấn chấn tư duy. Chẳng có nhân, sẽ chẳng thấy quả. Khéo lập thì nhân quả đồng thời, thiện căn chín muồi, nhanh chóng đạt được diệu dụng. Kẻ thiện căn mỏng ít, nhân quả sai khác rất lớn, sức tiếp nối sẽ kéo dài. Nói là “kéo dài” thật ra là một huyễn giác (cảm nhận hư huyễn), thật sự chẳng phải là thật, do huyễn hóa nối tiếp như thế, tiếp nối liên tục như thế.

“Ư nhất thiết pháp, giai tất bình đẳng, bất dữ nhất thiết thế gian cộng tránh. Sở khả ưng tác, bất tương vi bội, thông đạt thậm thâm thập nhị nhân duyên” (Trong hết thảy các pháp thảy đều bình đẳng, chẳng tranh chấp cùng hết thảy thế gian. Chẳng chống trái các chuyện đáng nên làm, thông đạt rất sâu mười hai nhân duyên): Mười hai nhân duyên được tu trì rộng khắp trong Phật pháp, nhưng tại đất Hán, chúng ta khá ít bén mảng tới.

Nhiều người cho rằng: “Đó là pháp để riêng hàng Duyên Giác ngộ, chẳng phải dành cho người có tâm Đại Thừa như chúng ta”. Thật ra, đó là hiểu lầm! Nếu muốn trừ phiền não, ngoại trừ dùng tâm trí hiện tiền, thì mười hai nhân duyên rất thuận tiện. Tuy nói Nam truyền Phật giáo là Thanh Văn Phật giáo, hoặc Tiểu Thừa Phật giáo, nhưng họ có rất nhiều thiện xảo, chúng ta tuyệt đối có thể suy xét để nương cậy, có thể vận dụng, đừng nên tự xưng xằng bậy [ta là kẻ tu học] Đại Thừa, [không cần biết đến pháp Tiểu Thừa].

Do vậy, nếu có nhân duyên, mọi người cần phải nên học tập pháp Mười Hai Nhân Duyên. Nếu quý vị nói, ta hành pháp Ban Châu, sẽ chẳng học pháp ấy, có được hay không? Nếu nghe nhiều pháp này, chẳng đắm chấp, chẳng sanh kiêu mạn, đa văn cũng là phương tiện, đa văn cũng là thiện căn chín muồi!

(Kinh) Cùng tận nhất thiết Như Lai đạo địa, đắc thắng thượng nhẫn, nhập chân pháp giới, kiến chúng sanh giới.

()窮盡一切如來道地得勝上忍入真法界見衆生界。

(Kinh: Cùng tận hết thảy các địa vị thuộc đạo Như Lai, đắc nhẫn thắng thượng, nhập pháp giới chân thật, thấy chúng sanh giới).

“Nhập chân pháp giới, kiến chúng sanh giới” (Nhập pháp giới chân thật, thấy chúng sanh giới). Vì lẽ nào? Do chư Phật Như Lai nhập Pháp Giới Thể Tánh Trí, mười pháp giới rạng ngời. Nay chúng ta nhìn vào thế giới này, do mỗi giới cách biệt với các giới khác, chúng ta nhìn vào thế giới của loài người, chín giới kia sẽ mất đi. Quý vị nói: “Ta có thể thấy súc sanh giới”, nhưng quý vị thật sự chẳng thấy súc sanh giới, chỉ thấy sanh mạng của súc sanh, chẳng biết tâm của súc sanh, cho nên nói “chẳng thấy giới ấy”. Có người nói: “Tôi có thể biết quỷ giới, thiên giới”. Quý vị chỉ nghe danh tự, chẳng thấy hình sắc của họ. Do vậy, một pháp giới hiển, chín pháp giới mất, mất trong điều gì? Mất trong vô trí. Chư Phật Như Lai hiển lộ triệt để nơi bốn đức (thường, lạc, ngã, tịnh) mà hết thảy chúng sanh đều cùng có, chúng ta cũng trọn đủ trí câu sanh (trí bẩm sanh, trí sẵn có) ấy, nơi thánh chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm. Pháp giới đã có sẵn trong trí câu sanh của chúng ta, nhưng phàm phu chẳng dùng được. “Nhập chân pháp giới, kiến chúng sanh giới” (Vào chân pháp giới, thấy chúng sanh giới): Vì mười pháp giới chỉ do tâm sanh. Nếu câu sanh trí hiện tiền, sẽ có thể liễu đạt, giác tri cái tâm ấy. Nếu không, ắt là một giới hiển, chín giới mất. Nếu quý vị nói: “Nhập Thanh Văn giới, có thể thấy người, trời, A Tu La, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh”, do Thanh Văn đã vượt thoát tam giới, có thể thấy tam giới như huyễn, biết tam giới như huyễn, cho nên chẳng bị xâm nhiễu. Nhập Niết Bàn, hữu dư lẫn vô dư đồng thời tiến nhập. Người ấy sẽ có thể lìa bỏ thế gian, nhưng vẫn là một pháp giới hiển lộ, chín pháp giới mất đi.

(Kinh) Tánh vô sanh diệt, kiến Niết Bàn giới.

()性無生滅見涅槃界。

(Kinh: Tánh chẳng sanh diệt, thấy Niết Bàn giới).

“Tánh vô sanh diệt”, nhất tâm tịch tĩnh. Thủ hộ như thế, tịch diệt hiện tiền.

(Kinh) Bổn lai hiện tiền, huệ nhãn thanh tịnh, quán pháp vô nhị.

()本來現前慧眼清淨觀法無二。

(Kinh: Vốn sẵn hiện tiền, huệ nhãn thanh tịnh, quán pháp chẳng hai).

“Huệ nhãn thanh tịnh, quán pháp vô nhị”: Trong thế giới này, nỗi khổ lớn nhất của bọn phàm phu chúng ta là “nhị nguyên đối đãi”, nhất là nhân loại hữu tình, vì Tu La lo đấu tranh, chẳng quản được họ. Chư thiên buông lung, cũng chẳng quản được họ. Chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ, [súc sanh] đang chịu khổ, đang ở trong tối tăm, không có sức tự thoát. Như chúng sanh trong địa ngục đang chịu hình phạt, súc sanh đạo đang bị xua đuổi, bị giết chóc, ngạ quỷ đang bị đói khát bức não, bọn họ chẳng có thời gian nào khác. Chỉ có nhân đạo vốn nhiều tinh lực để làm gì vậy? Đối đãi nhị nguyên, lẩn quẩn trong ấy, được, mất, thiện, ác, đúng, sai, trì giới, phạm giới, nam, nữ, lớn, nhỏ, vô lượng vô biên nhị nguyên như thế đó! Đó là chỗ lẩn quẩn, khổ não, loanh quanh của nhân loại hữu tình, siêng khổ trong đó. Nhưng huệ nhãn thanh tịnh, quán các pháp chẳng hai, thì sẽ vĩnh viễn đoạn dứt mệt nhọc, xuất ly đối đãi nhị nguyên ấy. Ở trong đối đãi mà chẳng thấy có đối đãi để có thể đạt được, liền ngay lập tức thanh lương, ngay lập tức an trụ!

(Kinh) Bỉ Bồ Đề tâm, vô trung, vô biên.

()彼菩提心無中無邊。

(Kinh: Tâm Bồ Đề ấy chẳng ở chính giữa, chẳng ở bờ mé).

Tâm Bồ Đề rộng lớn, chẳng tạo tác, quả thật là bổn tâm sáng suốt làu làu, do bổn tâm ấy chẳng lay động, chẳng tăng giảm.

(Kinh) Nhất thiết chư Phật thể vô sai dị, nhập ư vô ngại thanh tịnh trí môn, minh kiến Bồ Đề tự nhiên giác trí. Ư thiện tri thức, khởi chư Phật tưởng.

()一切諸佛體無差異入於無礙清淨智門明見菩提自然覺智。於善知識起諸佛想。

(Kinh: Thể của hết thảy chư Phật chẳng sai khác, nhập vào trí môn thanh tịnh vô ngại, thấy rõ giác trí Bồ Đề tự nhiên. Đối với thiện tri thức, dấy lên ý tưởng coi họ như là Phật).

Hết thảy thiện tri thức và chư Phật khác biệt ở chỗ nào? Chẳng có sai khác! Do thiện tri thức có thể hướng dẫn tâm trí của chúng sanh, nên gọi là “thiện tri thức”. Thiện tri thức vô danh, vô tướng, dùng danh tướng để an lập. Chúng ta nói người nào đó là “đại thiện tri thức”, [là vì người ấy] có chứng ngộ, đích thân chứng pháp tắc, có các thiện xảo, có các bi tâm, lợi ích hữu tình rộng khắp. Nếu chúng sanh được gặp gỡ, sẽ tạo thành sự hướng dẫn tăng thượng nơi Vô Thượng Bồ Đề, có thể an trụ trong pháp. Vậy thì hết thảy hữu tình thì sao? Cũng là thiện tri thức. Nói “thiện tri thức” là [nói theo phương diện] thấu triệt bản chất, thiện tri thức trông thấy [bản chất của các pháp]. Chẳng thấu triệt bản chất, chúng ta nói có ác hữu tình, thiện hữu tình, có ác tri thức, có thiện tri thức. Nếu nhìn từ cái tâm bình đẳng, sẽ thấy hết thảy chúng sanh đều là thiện tri thức.

(Kinh) Ư Bồ Tát sở, bất niệm quai ly, dĩ ư sanh tử, phá hoại ma quân. Nhất thiết chúng sự, giai tất như hóa.

()於菩薩所不念乖離已於生死破壞魔軍。一切衆事皆悉如化。

(Kinh: Đối với Bồ Tát, chẳng nghĩ chống trái, do trong sanh tử, phá hoại ma quân. Đối với hết thảy các sự, thảy đều như hóa).

Trong tu pháp ở đất Hán, tư tưởng chủ thể để mọi người y chỉ là tư tưởng Bát Nhã, tức là tu trì như huyễn. Trong hành pháp Ban Châu, nếu siêng năng, sốt sắng tu trì, chẳng nghỉ ngơi, sẽ rất dễ đạt được như huyễn. Điểm cốt lõi, trọng yếu trong hành pháp Ban Châu là “chẳng ngưng nghỉ”, cho nên chẳng để cho bản thân mong mỏi ngơi nghỉ. Nếu nghỉ ngơi, tức là chúng ta tránh né hiện duyên, chẳng thể xuất ly. Trong chướng ngại mà hành vô ngại, sẽ thấy chư Phật. Chướng ngại gì vậy? Bị mệt mỏi chính là chướng ngại. Đau đớn là chướng ngại. Đói bụng là chướng ngại. Bị lạnh là chướng ngại. Khổ sở là chướng ngại. Từ trong các chướng ngại ấy mà hành vô ngại. Chẳng có ý niệm nghỉ ngơi! Vì hễ có ý niệm nghỉ ngơi, hành nhân sẽ ngay lập tức ngưng nghỉ. Nếu là như thế, khó lòng dẹp tan ma quân, khó thể tiến nhập như huyễn, như hóa.

Nói thông thường, nếu thật sự nghiêm khắc, chẳng nghỉ ngơi hành Ban Châu ba ngày, tri kiến đều chẳng dấy lên, sẽ có đôi chút giống như si, như say. Vì dốc sức nhẫn nại vào đó, chỉ cần hành trì như thế, ngày hôm sau, ý thức sẽ lập tức trống rỗng, vô lực. Hiện thời, người hành pháp sợ hãi điều này, chẳng thể buông xuống chuyện ngơi nghỉ, cho nên ma quân sẽ quấy nhiễu, [dấy lên tâm niệm] mong được an nhàn. An nhàn chính là chất dinh dưỡng ma quân ban cho quý vị. Chân đã mỏi rồi, đứng lại, mệt thì ngủ một giấc, đói thì bổ sung chất gì đó, lạnh thì mặc thêm áo. Hãy đừng nghĩ tới những điều đó, [nếu nghĩ tới], sẽ chẳng đánh bại mỗi tên ma quân được! Trong chướng ngại bèn có chướng ngại, chướng ngại sẽ liên tục tiếp nối. Vì sao? Quý vị không chỉ có chướng ngại, mà còn khiến cho chướng ngại chín muồi. Đã mệt bèn ngủ, đói thì ăn thứ gì đó, lạnh thì mặc thêm áo; đó chính là trong chướng ngại bèn sanh thêm chướng ngại. Như thế thì sẽ khó phá ma quân, khó nhập như huyễn. Đói có phải là như huyễn hay không? Chúng ta thường nghe nói: “Đói quá sức, chẳng thể ăn nổi”, còn nói: “Vì sao chẳng ngủ được? Ôi chao! Buồn ngủ quá!” Dẫu bình thường chẳng hành Ban Châu, chúng ta luôn có cảm giác như thế. Cảm giác như huyễn, cảm giác như hóa. Nếu chúng ta đói bụng, sẽ ăn; mệt nhọc sẽ ngủ. Đó là chướng ngại trong chướng ngại. Nếu trong chướng ngại mà sợ chướng ngại thì vẫn là cái tâm phàm phu. Trong chướng ngại mà chẳng bị ngăn ngại, tự đạt được giải thoát. Trong chướng ngại mà chẳng ngăn ngại, tự đạt được pháp lạc. Pháp lạc chẳng thể chọn lựa từ đâu khác, phải từ ngay trong chướng ngại. Vì thế, chúng tôi nói “vô ngại trong chướng ngại” rất quan trọng!

(Kinh) Kiến chư Như Lai, như kính trung tượng. Ưng đương cầu bỉ Bồ Đề chi tâm.

()見諸如來如鏡中像。應當求彼菩提之心。

(Kinh: Thấy các Như Lai như hình bóng trong gương. Hãy nên cầu cái tâm Bồ Đề ấy).

Thấy Như Lai để làm gì? Chẳng vì sắc tướng trang nghiêm mà cầu, chẳng vì diệu dụng mà cầu, chẳng cầu thần thông, chỉ cầu Bồ Đề tâm, cho nên có thể hỏi pháp. Điều này rất quan trọng. Chúng ta thấy chư Phật, mà nếu chẳng hỏi pháp, đúng là đáng tiếc! Có người hành Ban Châu, thấy Phật liền hoan hỷ, chỉ lo cười, chẳng biết hỏi pháp! Như thế là đã mê mất chánh nhân hành pháp của chính mình. Thiện căn chín muồi là do hỏi pháp. Thiện căn chín muồi là do tu pháp. Thiện căn chín muồi là do ấn khế tự tâm, đó chính là quán đảnh. Quý vị có thể nói như thế này: “Đức Thế Tôn ơi! Hãy quán đảnh cho con, truyền dạy pháp cho con, thọ ký con khi nào sẽ xả báo, khi nào thành tựu?” Quý vị phải yêu cầu. Nếu chẳng yêu cầu, thiện căn của quý vị sẽ chẳng chín muồi. Có người thấy Phật, chỉ lo mừng, chỉ lo khóc, chỉ lo cười, có kẻ đến nỗi trợn mắt, cứng họng, kết quả là đã đánh mất pháp ích.

Trước kia, khi niệm chân ngôn Dược Sư, tôi đã nẩy sanh sự sợ hãi to lớn. Lúc ấy, tôi niệm Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, kết quả là bảy đức Thế Tôn[7] theo thứ tự xuất hiện. Tôi sợ rởn cả lông tóc, sợ hãi, trốn vào phòng đi ngủ, chẳng dám niệm nữa. Vì niệm một vị Phật Dược Sư, cớ sao bảy vị Phật xuất hiện? Sanh khởi lòng sợ hãi. Thật ra là do phước đức và nhân duyên chẳng chín muồi. Đã chín muồi, sẽ vui thích đức Thế Tôn, thấy Phật, nghe pháp. Chẳng thành thục thì sao? Sẽ ngay lập tức sanh tâm sợ hãi! Khi ác tánh của tôi chín muồi, có lần niệm A Di Đà Phật, thấy tướng sắc thân mầu nhiệm của Dược Sư Phật, tâm sanh phiền não. Tôi nói: “Con chẳng cầu thấy Ngài, vì sao con lại thấy?” Tuy có nhân duyên thấy Phật, nhưng chẳng có thiện căn thấy Phật, cũng chẳng có ước muốn thấy Phật. Lúc ấy, tôi đang tưởng niệm A Di Đà Phật, vì sao Dược Sư Phật đến làm gì? Đấy quả thật là trong tâm trí có lắm tri kiến mông muội. Do vậy, lúc bình thời, chúng ta phải làm sao cho tri kiến rõ ràng. Nếu không, quý vị tu pháp, sẽ nẩy sanh nhiều chướng ngại. Chẳng hạn như có một lần tôi ở trong tòa nhà hiện thời tôi đang dùng, đi tới, đi lui (kinh hành), bỗng dưng thế giới xuất hiện tướng quang minh. Quang minh ấy khó thể diễn tả, thí dụ được. Tầng tầng lớp lớp đều là quang minh. Lúc đó, tâm sanh sợ hãi, sợ mất đi, sợ tiến vào, ngay lập tức đứng đờ ra đó, chẳng dám động đậy! Tâm niệm chẳng dám động, thân thể chẳng dám động, thậm chí thế giới đều ngưng lặng trong trạng thái ấy. Đó là sự sợ hãi cực lớn, vì tri kiến bất chánh. Nếu nương theo cái tâm chẳng đắm nhiễm, tâm cảm ơn, tâm niệm Phật, há có gì đáng kể đâu? Do đó, tri kiến rất quan trọng. Thông qua thực tiễn của một số pháp, tôi mới biết tri kiến là quan trọng nhất, là sự dẫn đường. Các vị Bồ Tát ơi! Gặp chuyện mà hoảng hốt, gặp chuyện mà mê muội, gặp chuyện mà điên đảo. Thật ra, chuyện này và chuyện bình thường giống nhau, quả thật chẳng sai biệt. Chẳng có chút sai biệt nào! Do vậy, “ưng đương cầu bỉ Bồ Đề tâm” (hãy nên cầu Bồ Đề tâm ấy), cầu Bồ Đề tâm của ai? Cầu Bồ Đề tâm của Phật!

(Kinh) Chư Ba La Mật mạc bất bình đẳng, Thật Tế vô tận, tập Phật công đức. Hiền Hộ! Thị vi Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội.

()諸波羅蜜莫不平等實際無盡集佛功德。賢護是爲菩薩思維諸佛現前三昧。

(Kinh: Các Ba La Mật không gì chẳng bình đẳng, Thật Tế vô tận, tu tập công đức của Phật. Này Hiền Hộ! Đó là Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội).

Tư Duy tam-muội hết sức trọng yếu. Nay chúng ta đang học phẩm Tư Duy. Nếu chúng ta chẳng siêng năng tư duy, chẳng thể nào thấy được cái quả tam-muội. Vì trước đó, chẳng có nhân duyên tư duy đúng lý, tôi đã bị mấy lần chấn động to lớn, thiếu chút nữa là điên rồi! Mấy lần bế quan, vừa thấy cảnh giới to lớn, thần kinh gần đứt luôn, tâm trí sẽ trở thành điên mất. Do đó, sau đấy chẳng chú trọng siêng ròng tu trì, mà chú tâm huân tu tri kiến, đặc biệt coi trọng tri kiến. Vì sao? Chẳng nắm vững tri kiến, hễ gặp phải đại cảnh giới, con người sẽ trở thành điên cuồng, tiến vào trạng thái điên cuồng. Nguy hiểm quá! Trong lúc ấy, có một chiêu cứu mạng là ngưng dứt nhân duyên đó. Nếu không, người ấy sẽ thật sự bị điên, thậm chí giết chết sanh mạng của chính mình. Trước kia, thầy đương gia chùa Kim Đảnh [tại núi Kê Túc] có kể với tôi. Họ có một vị xuất gia sư phụ, siêng năng tọa Thiền, xuất hiện cảnh giới rất lớn. Sau đó, [thầy ấy] từ Hoa Thủ Môn nhảy xuống. Tôi cảm thấy thầy ấy thấy tướng cảnh giới diệu sắc. Nhảy xuống thì kết quả là gì? Người khác cho là thầy ấy tự gieo mình xuống vách đá. Thật ra, thầy ấy chuộng ngồi Thiền, thấy tướng cảnh giới xuất hiện, bèn theo tướng cảnh giới mà đi! Trong hành pháp Ban Châu, [những trường hợp] bị chuyển theo ấm cảnh, chúng tôi đã thấy quá nhiều. Chẳng hạn như một lần, có vị cư sĩ hành pháp ở Lư Sơn, hộ pháp quả thật chẳng thể ngăn trở ấm cảnh của người hành pháp. Nói như thế nào cũng đều chẳng được, quý vị nói với kẻ đó một đằng, kẻ đó trả lời quý vị một nẻo. Bởi lẽ, một đằng nói theo ấm cảnh, một đằng nói theo hiện thực. Hai đằng chẳng thể trao đổi với nhau! Tôi đọc kinh ở đó, tôi nói hai người ấy đang diễn tuồng, tuồng gì vậy? Một người diễn tuồng ấm cảnh. Người kia diễn cảnh hiện duyên, chẳng thể trao đổi với nhau, ai nấy giữ riệt cái lý của chính mình! Các cảnh ấy thật ra đều là như thật. Gọi là “như thật” vì mỗi đằng đều trọn đủ nhân quả báo ứng. Kẻ kia là ấm cảnh báo ứng, còn quý vị là hiện duyên báo ứng. Nếu cho là có thật, sẽ chẳng thể trao đổi. Do vậy, nếu có chánh kiến, sẽ lập tức có thể trao đổi, lựa chọn.

Trong pháp tắc Ban Châu, huân tập chánh kiến rất quan trọng! Trong phần trước, chúng ta đã học một trăm hai mươi hai điều “vân hà”, đều là huân tập chánh tri kiến. Nay học tập tất cả các giáo ngôn trong phẩm Tư Duy, [những giáo ngôn ấy] đều nhằm sanh khởi tư duy chánh tri kiến, tư duy chánh quán sát, đừng lọt vào trong ấm cảnh, thấy chư Phật, gặp Phật nghe pháp, thiện căn chín muồi! Nhất định phải nhớ kỹ khẩu quyết này: “Thấy Phật, nghe pháp”. Đừng nên thấy Phật mà sanh ý tưởng khác, đừng sanh ý tưởng tội ác giống như tôi, sanh ý tưởng sợ hãi. Ở đây, tôi chẳng dám gạt gẫm mọi người.

Trước kia, tôi niệm A Di Đà Phật, thấy Dược Sư Phật, liền sanh sân tâm, nói: “Chẳng mong thấy Ngài. Ngài tới làm gì?” Có nghĩa là: Tôi mong thấy A Di Đà Phật, Ngài (Phật Dược Sư) tới làm chi? Đấy là tà kiến. Do vậy, ngày Ba Mươi tháng Chín là thánh đản của Phật Dược Sư. Có người đưa tôi đến chùa Long Hưng tại huyện Chánh Định, tỉnh Hà Bắc để triều yết Phật Dược Sư, vì tượng Dược Sư Phật và A Di Đà Phật cùng một thân thể, cùng hiện hai tướng. Vì thế, tôi biết khi đó là báng Phật, trực tiếp báng Phật, phá hoại thiện căn nhiều kiếp của tôi. Vì sao? Chẳng có chánh kiến. Gặp Phật chẳng khó, chánh kiến khó lập! Thiện căn thành thục cũng rất dễ dàng, nhưng nếu quý vị chẳng vận dụng thiện căn, cũng sanh ra tà kiến. Đối với chỗ này, nhất định phải chánh tư duy, chánh quán sát, chánh kiến, Bồ Đề tâm, tư duy tỉ mỉ, quan sát tỉ mỉ, tư duy chọn lựa, quan sát chọn lựa! Như thế thì chúng ta do tam-muội thành thục, sẽ thấy chư Phật rất thuận tiện. Khi rất nhiều người nói “khó gặp Phật”, tôi cảm thấy đích xác là người như vậy rất ngu si, hư vọng tự đặt ra chướng ngại. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta cách Phật chẳng xa, vì lẽ nào? Do Phật nhiếp trọn hữu tình trong pháp giới, hết thảy chúng sanh đều trụ trong quang minh của Phật. Hết thảy chư Phật Như Lai đều hàm nhiếp hết thảy chúng sanh, phóng đại quang minh trong tâm trí của hết thảy chúng sanh.

Chúng ta dựa theo văn tự để ấn khế tự tâm, phân tích pháp tắc, tùy thuận nhân duyên để thâm nhập quan sát A Di Đà Phật, cho đến pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập như thế. Kinh điển cũng chẳng phải là lời lẽ ngoài tâm. Sở chứng của chư Phật đều chẳng phải là lời nói ngoài tâm. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta có nhân duyên học tập, nhận biết kinh điển này, hoặc nói tới pháp tắc này, đều là do thiện căn trong tâm địa chín muồi. Do chín muồi, cho nên chiêu cảm tướng cảnh giới hiện tiền. Cảnh ấy và tâm trí nơi bổn tâm của chúng ta chẳng hai, chẳng khác. Đừng nhận sai nhân duyên. Mỗi ngôn từ đều có vô lượng ý, tùy theo tâm duyên của chính mình mà chọn dùng, tức là dùng kinh Ban Châu Tam Muội, hay kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ để nói, những điều được khai hiển [trong các kinh ấy] không gì chẳng ngoài “khiến cho hiện tiền hữu tình nhập tri kiến của Phật”, hoặc có thể đích thân chứng Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội như thế. Nói là “tam-muội” thì đó chính là tên gọi khác của Chánh Thọ. Đó cũng là “giác thọ” (nhận biết, cảm nhận) như thật chân chánh trong tâm địa của chúng ta, chẳng bị che lấp, là giác thọ như ý chẳng bị lừa dối, hoặc là giác thọ được thuần thục bởi sức tự tại, nguyện thấy Phật sẽ thấy Phật, nguyện thấy mười phương Phật sẽ thấy mười phương Phật, nguyện nghe pháp thì sẽ được nghe pháp. Vì sao? Nương vào pháp tắc này để tu trì, thâm nhập thực tiễn!

Có người sẽ nêu ra nghi vấn như thế này: “Chúng tôi tu tập hành pháp Ban Châu đã có một thời gian nhất định rồi, vì sao chưa thấy Phật?” Đây quả thật là một vấn đề cần phải xem xét kỹ càng! Hoặc có thể nói là một vấn đề cần phải xem xét thẳng thừng. Nhân duyên và thiện căn nghe pháp chín muồi thì chẳng thể nghĩ bàn, nhưng nghe pháp có tương ứng với thiện căn đã chín muồi hay không, quả thật vẫn phải do các vị thiện tri thức tự mình thông qua hành pháp để nghiệm chứng, người khác chẳng thể làm thay được! Nếu chúng ta chẳng thể như thật quan sát pháp tắc mà chính mình được tiếp xúc, tu tập thâm nhập, sẽ khó thể thật sự nhanh chóng tương ứng. Vì tự tánh tuy bình đẳng nhất vị, tức là như chúng ta thường nói: “Nơi Phật chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm”. Nhưng nói theo Tu Đức, nói theo sự vận dụng, sẽ là muôn ngàn sai khác! Trong ngàn vạn sai biệt ấy, tuy không có một vật để có thể đạt được, nhưng do đã huân tập từ vô thỉ đến nay, chúng ta thường cho là thật sự có sai biệt. Khi thật sự có ý thức sai biệt ấy, sẽ khó vượt qua, nó sẽ hạn chế mức độ cảm nhận, hay biết của chúng ta trong hiện tại, khiến cho chúng ta thường lẩn quẩn trong nhân duyên của sự hay biết, chẳng thể tự dẹp trừ được, thường cho nó là có thật, thường cho là nó chân thật. Thông qua học tập và tu tập kinh Ban Châu, chúng ta có thể lột bỏ sự mông muội ấy, [có thể trừ khử] sự mông muội của chính mình lẫn người khác!

(Kinh) Nhược hữu Bồ Tát Ma Ha Tát, dục cụ thành tựu như thị tam-muội, đương tiên thành tựu như thị công đức.

()若有菩薩摩訶薩欲具成就如是三昧當先成就如是功德。

(Kinh: Nếu có Bồ Tát Ma Ha Tát muốn thành tựu trọn đủ tam-muội như thế, hãy nên trước hết thành tựu công đức như thế).

Công đức như thế, tức là thủ hộ một trăm hai mươi hai công đức như đã tuyên thuyết trong phần trước, cũng tức là như đức Thế Tôn đã tuyên nói: Công đức và lợi ích được nêu ra trong một trăm hai mươi hai câu hỏi về Ban Châu tam-muội, hay gọi cách khác là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền, vẫn chưa nêu được chút phần thật sự, chỉ là nêu ra chút phần cho mọi người được thấy, được nghe.

(Kinh) Hiền Hộ! Đương tri cánh hữu vô lượng công đức, nhiên diệc duyên thử tam-muội nhi sanh.

()賢護當知更有無量功德然亦緣此三昧而生。

(Kinh: Này Hiền Hộ! Hãy nên biết còn có vô lượng công đức cũng do tam-muội này mà sanh).

Chúng ta học Phật, đều biết câu nói: “Các pháp do nhân duyên sanh”. “Các pháp do nhân duyên sanh” có thể khiến cho hết thảy hữu tình đều có pháp để duyên theo, nương tựa. Đã do nhân duyên sanh, hễ duyên mất, pháp sẽ diệt. Cho nên chẳng đắm nhiễm, tự tánh vốn là không. Trong pháp tắc duyên khởi tánh Không, hữu tình có thể thật sự sanh khởi diệu dụng nhưng vô nhiễm, trong vô nhiễm thường sanh diệu dụng, chẳng sợ hãi nhân duyên vị lai, hiện tiền, chẳng sợ hãi nhân duyên quá khứ, đối với nhân duyên giải thoát sạch làu, tâm chẳng vướng mắc. Do vậy, “diệc duyên thử tam-muội nhi sanh” (cũng do tam-muội này mà sanh), sanh ra gì vậy? Như dưới đây [sẽ nói].

(Kinh) Phật phục cáo Hiền Hộ ngôn.

()佛復告賢護言

(Kinh: Đức Phật lại bảo Hiền Hộ rằng).

[Nghe đức Phật dặn dò] Hiền Hộ, đừng đùn đẩy cho Bồ Tát. Thật ra, Ngài tượng trưng cho mỗi người nghe pháp và tu tập pháp trong hiện tiền!

(Kinh) Thị trung, hà đẳng tam-muội năng sanh như thị chư công đức hạnh? Sở vị Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, năng sanh như thị chư công đức pháp. Phục thứ, Hiền Hộ! Vân hà danh vi Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội dã? Hiền Hộ! Nhược hữu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thanh tịnh trì giới, cụ túc chư hạnh, độc xử không nhàn, như thị tư duy: Ư nhất thiết xứ, tùy hà phương sở, tức nhược Tây Phương A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Thị nhân nhĩ thời, như sở văn dĩ, tức ưng tự tác như thị tưởng niệm: Như ngã sở văn, bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, kim tại Tây phương, kinh đồ khứ thử quá bách thiên ức chư Phật quốc độ, bỉ hữu thế giới, danh viết An Lạc. Như thị Như Lai, kim hiện tại bỉ, vị chư Bồ Tát châu táp vi nhiễu, xử đại chúng trung, thuyết pháp giáo hóa. Nhiên nhi thị nhân y sở văn cố, hệ niệm tư duy, quán sát bất dĩ, liễu liễu phân minh, chung hoạch kiến bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác dã.

()是中何等三昧能生如是諸功德行所謂菩薩思惟諸佛現前三昧能生如是諸功德法。復次賢護云何名爲菩薩思惟諸佛現前三昧也賢護若有比丘比丘尼優婆塞優婆夷清淨持戒具足諸行獨處空閒如是思惟於一切處隨何方所即若西方阿彌陀如來應供等正覺。是人爾時如所聞已即應自作如是想念如我所聞彼阿彌陀如來應供等正覺今在西方經途去此過百千億諸佛國土彼有世界名曰安樂。如是如來今現在彼爲諸菩薩周匝圍繞處大衆中說法教化。然而是人依所聞故繫念思惟觀察不已了了分明終獲見彼阿彌陀如來應供等正覺也。

(Kinh: Trong ấy, tam-muội như thế nào thì sẽ có thể sanh ra hạnh công đức như thế? Đó là nói Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội có thể sanh ra các pháp công đức như thế. Lại này, Hiền Hộ! Thế nào là Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội? Này Hiền Hộ! Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di trì giới thanh tịnh, trọn đủ các hạnh, ở một mình nơi thanh vắng, tư duy như thế này: Trong hết thảy các chốn, ở bất cứ phương nào, đều như [đối trước] Tây Phương A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Lúc đó, người ấy đúng như những điều đã được nghe, liền tự tưởng niệm như thế này: Như con được nghe A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác nay đang ở Tây phương, cách nơi đây trăm ngàn ức các cõi Phật. Nơi đó có thế giới tên là An Lạc. Đức Như Lai như thế, nay đang ở đó, được các vị Bồ Tát vây quanh, ở trong đại chúng, thuyết pháp giáo hóa. Người ấy nương theo điều đã được nghe mà hệ niệm, tư duy, quán sát chẳng thôi, rành rẽ, phân minh, rốt cuộc được thấy A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác).

Đoạn văn tự này chỉ dạy chúng ta, pháp tắc trong ấy có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, tức là một pháp dành cho tứ chúng tu tập, chẳng riêng hiền thánh, chẳng riêng tại gia hay xuất gia, mà là dù tại gia hay xuất gia, mọi loài phàm thánh đều có thể an trụ, hành theo, đều có thể hành trì như thế, nhưng có một phương tiện tiền đề[8]! Đó chính là “thanh tịnh trì giới, cụ túc chư hạnh, độc xử không nhàn, như thị tư duy” (trì giới thanh tịnh, đầy đủ các hạnh, ở một mình chỗ thanh vắng, tư duy như thế). Ở nơi tư duy như thế, lúc ở một mình như thế, trên thực tế là xa lìa tâm địa ồn náo, cũng như sự ồn náo nơi y báo và chánh báo.

Xa lìa ồn náo mười phần quan trọng đối với hành pháp tam-muội. Dẫu cho chúng ta tĩnh lặng, xa lìa ồn náo dù chỉ một phút, tịch tĩnh đọc đoạn kinh văn này, quán sát chỉ trong một phút đồng hồ, quý vị đã gieo chủng tử chẳng thể nghĩ bàn. “Xa lìa ồn náo” tức là lìa hết thảy cái tâm nắm níu, tâm xả duyên, tâm ở trong tịch tĩnh. “Tâm xử tịch tĩnh” (Tâm trụ trong tịch tĩnh) là ở trong chỗ ồn náo mà chẳng có ồn náo để có thể thấy, ở chỗ tịch tĩnh mà chẳng có tịch tĩnh để có thể thấy. Nếu ở chỗ tịch tĩnh mà thấy có tịch tĩnh thì chẳng gọi là [người trụ trong] A Lan Nhã, mà là kẻ buông lung. Vì lẽ nào? Chúng ta thường thấy có người đến rừng sâu núi thẳm để tu trì. Nếu tham tịch tĩnh, sẽ chẳng phải là người tu trì trụ trong A Lan Nhã, dẫu hành pháp mà chẳng đạt được lợi ích to lớn. Quý vị hãy khéo quan sát! Nếu người sống trong đời hiện tại mà tâm nhàn tĩnh, thủ hộ pháp tắc, dẫu ở trong chỗ ồn náo mà chẳng nhiệt não, ở trong chỗ nhàn tĩnh mà chẳng nắm níu, sẽ là người thật sự đạt được tịch tĩnh, thâm nhập và quan sát pháp, ắt sẽ đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là tư tưởng Trung Quán trong tu hành Phật pháp, hoặc có thể nói là tư tưởng chánh quán!

Người tu hành hiện thời thích hướng đến ồn náo. Vì lẽ nào? Do chẳng đạt được lợi ích nơi pháp tắc tịch tĩnh. Hoặc là hướng tới tịch tĩnh để xa lìa ồn náo, tham cầu tịch tĩnh. Kẻ tham cầu nhiệt náo, kẻ tham cầu nhiệt náo phần nhiều là hạng người sợ hãi tịch tĩnh, sợ đọa vào đoạn diệt tịch tĩnh. Còn kẻ hướng đến cuộc sống tịch tĩnh, là do hy vọng xa lìa ồn náo, tham cầu cảnh tĩnh lặng. Những hạng người ấy đều bị ma biến đổi, chẳng thuộc vào [hạng người được hưởng] lợi ích trong Phật pháp. Nếu chẳng quan sát như thế, phần nhiều sẽ sanh ra tự ngã phiền não. Rất nhiều người tìm cầu khắp nơi một đạo tràng tịch tĩnh, thần thánh, hy hữu, nhưng do tâm địa chẳng tương ứng, cho nên tới một đạo tràng như thế, cũng sẽ thường nẩy sanh ý kiến, cho rằng đạo tràng ấy chẳng phải như người ta nói, vì chẳng tương ứng. Nếu tâm địa chẳng tương ứng, tâm địa ồn náo, sẽ ở nơi tịch tĩnh mà chẳng tịch tĩnh. Nếu tâm địa tịch tĩnh, sạch làu, chẳng có một chuyện gì, dẫu ở trong ồn náo, nhưng chẳng bị ồn náo hay nhiệt não bức bách. Các vị thiện tri thức ơi! Hãy tự khéo quan sát.

Một mình ta có thể ngồi lặng lẽ nơi thanh vắng. Chỗ thanh vắng ấy xa lìa hết thảy nắm níu, xa lìa hết thảy các duyên tụ tập. Chỗ thanh vắng ấy chẳng có dấu vết, chẳng có gì để đạt được, có phải là yêu cầu quá cao hay không? Chỗ ấy không cao! Nếu làm như thế, sẽ đạt được phương tiện. Quan sát như thế liền đạt được thanh tịnh. Tùy thuận như thế liền được an lạc. Thực tập như thế, tất nhiên thành tựu. Có nhiều vị tri thức tìm Bồ Đề khắp Giang Nam, Giang Bắc, truy tìm đạo tràng, tìm kiếm tri thức, nào có biết đã đánh mất tri thức thật sự, đạo tràng thật sự, pháp tắc thật sự, tịch tĩnh thật sự ngay trong hiện tiền! Tìm nhiều nơi chốn, nắm níu nơi chốn khá nhiều, có nhiều điều lấy bỏ, kết quả là tu pháp càng ngày càng xa, chẳng đạt được lợi ích, sanh khởi hoạn nạn phiền não, do chẳng lập chánh kiến, hư vọng vun đắp tâm trí phân biệt, chấp trước. Muốn đạt được pháp tắc thanh tịnh an lạc, pháp tắc bình đẳng, pháp tắc thiện xảo trong tâm trí chấp trước, cũng giống như nấu cát mong thành cơm hay cháo vậy! Chúng ta học giáo ngôn Bát Nhã Ba La Mật, sự tịch tĩnh trong núi rừng chẳng phải là tịch tĩnh thật sự. Có thể coi sự tịch tĩnh nơi núi rừng là tịch tĩnh, [cũng như quán] các thứ ồn náo chẳng phải là ồn náo. Có thể gây nên ồn náo là vì chúng chẳng có tự tánh. Thấy “chẳng có tự tánh” chính là thủ hộ tịch tĩnh, xa lìa nắm níu, xa lìa duyên sợ hãi, chẳng sợ hãi nhân duyên cũng chính là “trụ trong an lạc tịch tĩnh”. Thoạt nhìn lời này dường như rất cao, thật ra là yêu cầu rất bình thường. Hãy khéo tư duy, khéo quan sát!

“Ư nhất thiết xứ, tùy hà phương sở, tức nhược Tây Phương A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Thị nhân nhĩ thời, như sở văn dĩ, tức ưng tự tác như thị tưởng niệm” (Trong hết thảy mọi nơi, ở bất cứ phương nào, đều như đối trước Tây Phương A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Khi đó, người ấy đúng như những gì đã được nghe, hãy nên tưởng niệm như thế này). Chúng ta thấy văn tự trong phẩm này toàn là hướng dẫn mọi người vận dụng tư duy chánh đáng, quan sát bình thường, chẳng có gì là “pháp tắc đặc thù, chẳng thể nghĩ bàn, huyền diệu”, mà toàn là tột bậc bình thường, chánh quán tư duy thật thà, chánh quán quan sát.

“Như ngã sở văn, bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, kim tại Tây Phương” (Như con được nghe, đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác nay ở phương Tây): Đối với phương Tây, Quán Kinh đã chép mười phần cụ thể, đó là phương hướng mặt trời lặn. Chúng tôi đến núi Linh Thứu, nơi đức Thế Tôn giảng kinh Vô Lượng Thọ, nơi giảng đài Linh Thứu, phương hướng đối trước đại chúng chính là phương hướng mặt trời lặn. Đức Thế Tôn đối diện phương Đông. Thiện Đạo đại sư miêu tả phương Tây càng tiêu chuẩn hơn! Chẳng hạn như Ngài nói: Trong hai mùa Đông và Hè, mặt trời chênh về hướng Nam hay hướng Bắc, chẳng thể coi là hướng chánh Đông hay chánh Tây. Nhưng tại Trung Hoa vào hai mùa Xuân và Thu, quỹ tích quỹ đạo của mặt trời cũng khá đúng tiêu chuẩn. Lúc đó, coi phương vị của mặt trời lặn chính là phương Tây. Đấy thật sự vẫn là vì khiến cho mọi người đặt ý niệm nơi đó. Vì thế, các vị thiện tri thức và người niệm Phật trong quá khứ, chẳng xoay lưng về phía Tây.

Giữ ý niệm đối diện như thế, dùng làm phương tiện để tư duy tu hành, dù đắc tam-muội hay chẳng đắc tam-muội. Ví như người xuất gia chúng ta lúc từ biệt thân nhân, sắp xuống tóc, thọ giới sa-di, hãy nên lễ kính cha mẹ. Nếu cha mẹ hiện tiền, bèn lễ kính ngay trong hiện tiền. Nếu [cha mẹ] chẳng hiện tiền, liền hướng về phương hướng nơi cha mẹ đang ở mà lễ kính từ biệt. Sự từ biệt ấy rất có ý nghĩa. Lễ kính hướng vọng về phương hướng ấy cũng là mười phần có ý nghĩa. Vì lẽ nào? Do là nơi nghiệp báo. Do cái này có mà cái kia có, chân thật chẳng dối. Nếu quý vị tưởng là hư vọng, sẽ chẳng được tương ứng. Nếu tưởng là hư vô, tưởng là đoạn diệt, sẽ chẳng có công đức chân thật. Giống như hiện thời chúng ta thấy Dược Sư Phật, hay thấy A Di Đà Phật, quý vị phải có cái gọi là “phương hướng, đối tượng để quan sát” thì mới có thể khiến cho quý vị được thấy, được biết, chẳng phải là sử dụng tâm trí vọng tưởng. Như vậy thì khi quý vị thấy, sẽ chẳng phải là vọng tưởng, sẽ có thể như thật được thấy, được nghe nơi hiện duyên. Tuy bản chất [của các cảnh giới được thấy] là vô tự tánh, nhưng khi quan sát, liền sanh diệu dụng. Khi tương ứng, chắc chắn nghe pháp. Khi được gia trì, chắc chắn sẽ đạt được phương tiện vô úy, và sức thần thông tự tại rộng lớn. Ở đây, trọn chẳng thể luông tuồng, qua quít, chẳng có mảy may nào mê mờ. Có nhiều kẻ dùng “tánh Không” để phê phán giáo ngôn Tịnh Độ, thật sự là [những ngôn luận] vô ý nghĩa! Vì sao? Chúng sanh trong thế gian, báo đức có sai khác.

Tịnh độ và trược độ (uế độ) rốt cuộc là do các nghiệp [sai khác] mà hiển hiện sai biệt. Sự sai biệt ấy tuy xét theo bản chất thì chẳng khác, nhưng khởi dụng (dấy lên tác dụng), ắt cũng có khác biệt. Do vậy, khiến cho chúng sanh ai nấy đều xả trừ nghiệp khổ não, tiến hướng pháp tắc thanh tịnh an lạc, quốc độ an lạc, chọn lựa pháp như thế, thành tựu Bồ Đề, đắc bất thoái chuyển ngay trong một đời. Các vị thiện tri thức ơi! Phải như thật tư duy, như thật quan sát, nương theo lời dạy của đức Thế Tôn, đừng nương theo vọng tưởng, đừng vâng theo lời của ai khác! Nếu chúng ta chẳng tùy thuận kinh điển để chánh tư duy, quan sát, sẽ nương theo cách nghĩ của chính mình mà tư duy, quan sát. Nhưng chúng ta từ vô thỉ đến nay, tư duy phần nhiều là bị tham, sân, si, mạn, nghi, và tri kiến chẳng chánh đáng sai khiến, bị che lấp bởi tập khí của chính mình, tức là tư duy trong nghiệp tướng của Ngũ Cái, Nhị Chướng, và Tam Chướng[9], chẳng thể sanh khởi lợi ích thật sự thanh tịnh trong học Phật.

“Kinh đồ khứ thử quá bách thiên ức chư Phật quốc độ. Bỉ hữu thế giới, danh viết An Lạc. Như thị Như Lai, kim hiện tại bỉ, vị chư Bồ Tát châu táp vi nhiễu, xử đại chúng trung, thuyết pháp giáo hóa” (Cách đây trăm ngàn ức các cõi Phật, nơi đó có thế giới tên là An Lạc. Đức Như Lai như thế nay đang ở đó, được các vị Bồ Tát vây quanh, ở trong đại chúng, thuyết pháp giáo hóa). Đấy đều là nội dung quan sát thực tế. Quán Kinh mô tả càng cụ thể hơn. Ở đây là đức Thế Tôn nói kinh giáo để chúng ta tư duy. Chúng ta tùy thuận lời dạy của đức Phật để chánh tư duy. Tư duy như thế rất trọng yếu. Trong việc tu trì tam-muội, do tu trì tam-muội, dẫu chưa thấy Phật, nhưng đã gieo chủng tử thấy Phật, đã an lập thanh tịnh, chẳng khác gì thấy Phật. Người quán như thế thì sẽ được an lạc.

“Nhiên nhi thị nhân y sở văn cố, hệ niệm tư duy” (Nhưng người ấy do nương theo điều đã được nghe mà hệ niệm, tư duy): Đấy là từng bước hướng dẫn chúng ta tư duy đúng như lời dạy. Hiện thời, thiện tri thức tư duy đúng như giáo pháp càng ngày càng ít. Vọng tưởng tơi bời! Nói cái gì mà “tôi niệm Phật, nhưng tôi không tin thế giới Cực Lạc, cũng chẳng hướng đến thế giới Cực Lạc”. Chẳng biết nỗi khổ luân hồi trong thế giới Sa Bà, chẳng biết nỗi khó khăn điên đảo trong thế giới Sa Bà này. Giống như tòa điện đường này, chúng ta không ngừng trang nghiêm nó, nhưng bất luận trang nghiêm như thế nào đi nữa, sử dụng một khoảng thời gian, tất nhiên nó sẽ bị suy hoại, tất nhiên sẽ mất đi. Cũng giống như vậy, sanh mạng của chúng ta có thể là rất trẻ trung, khỏe mạnh, nhưng sẽ già đi rất nhanh, chết đi. Tướng vô thường ấy trong cuộc sống của ai cũng đều luôn luôn biểu hiện, đừng nghĩ là có cái thường hằng. Nếu người nào chẳng cho là thường hằng, tất nhiên sẽ hướng đến một pháp tắc, pháp tắc gì vậy? Liễu giải pháp tắc bản chất của hết thảy vạn sự vạn vật, tức là tiến hướng đạo nghiệp Bồ Đề. Đối với đạo nghiệp, sẽ phần nhiều chọn lựa. Như thế thì sẽ trọn chẳng tham nhiễm thế giới Sa Bà, hoặc là sẽ sợ hãi thế giới Sa Bà này mà sanh về Cực Lạc. Vì lẽ nào? Do có thể độ thoát hữu tình trầm luân trong thế giới Sa Bà. Chúng ta cầu vãng sanh cũng thế, chính mình và người khác cùng vãng sanh cũng thế, hoặc khiến cho chúng sanh vãng sanh trước, còn bản thân sẽ vãng sanh cuối cùng cũng thế, hoặc khiến cho hết thảy chúng sanh vãng sanh thành Phật trước, bản thân ta thành Phật cuối cùng cũng thế, trong các thứ pháp tắc, đều là lợi ích chân thật, lợi ích như thật, như đức Thế Tôn đã tuyên nói trong khắp các kinh.

Trong đoạn văn tự này, đức Thế Tôn đã đối trước Hiền Hộ Bồ Tát tuyên nói một phương pháp chánh tư duy quan sát, cũng là một pháp tắc để mong đạt được Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Pháp tắc này mười phần đơn giản, giống như pháp tắc để tu trì hòng thấy Phật trong mộng do Thiện Đạo đại sư đã dạy. Tôi gặp rất nhiều vị xuất gia và tại gia học tập Tịnh Độ, nhưng coi thường pháp tắc ấy! Khéo sao, pháp tắc ấy lại là một pháp tắc rất then chốt! Tư duy như thế, quán sát cặn kẽ như thế, mười phần trọng yếu! Thông thường, các vị Bồ Tát học Phật ở đất Hán đa số tôn sùng tri kiến cao thượng, tức là cái được gọi là Không Kiến, hay giải thoát tri kiến v.v… Thật ra, chính mình chẳng thể thiết lập một pháp tắc cao thượng, lại chẳng thể có một pháp tắc như thật để rành rẽ quan sát kỹ càng, chẳng thể như thật thâm nhập để quán sát chánh đáng, vi tế, thuần thục!

“Quán sát bất dĩ, liễu liễu phân minh, chung hoạch kiến bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác dã” (Quán sát chẳng ngơi, rành rẽ phân minh, rốt cuộc thấy A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác): Trong đoạn văn tự này, đức Thế Tôn ân cần dặn dò đại chúng, tức hiện tiền đại chúng, quý vị hãy nên chọn lựa như thế nào? Vẫn là phải nên từ bỏ lối tư duy tạp loạn, chẳng rõ ràng của chính mình. Đừng tư duy về chuyện huyền diệu hay chẳng huyền diệu, tư duy cao thấp, tư duy thiện ác, tư duy tương ứng hay chẳng tương ứng. Hãy nương theo giáo ngôn của đức Thế Tôn mà tư duy, sẽ rất thuận tiện, trực tiếp. Đó gọi là do y giáo mà đạt được lợi ích nơi Phật pháp. Do tín thuận giáo, cho nên công đức chẳng thể nghĩ bàn. Do tùy thuận Phật lực nên trừ khử các chướng hiện tiền. Hiện thời, chúng ta có chướng gì vậy? Sở Tri Chướng và Phiền Não Chướng.

Hơn nữa, người Hán có chấp trước Sở Tri Chướng tột bậc sâu dầy, ngoan cố, rất nặng nề! Vì nhân duyên giao thiệp của người Hán mười phần rộng khắp, nhất là trong tình trạng hiện thời, Nam Bắc xuyên suốt, tùy ý di chuyển, tham học chẳng trở ngại, học pháp chẳng trở ngại. Tuy là chẳng trở ngại, nhưng khắp nơi chẳng hiển hiện công đức và lợi ích! Chỉ là học tạp, học cho cố vào, chẳng thể thâm nhập, tâm trí rã rời, giống như nước lũ, chẳng thể đắc lực trong ấy. Vì thế, tham học càng rộng mà nếu chẳng thể tập trung vào một pháp môn, tức là có vấn đề về sự thâm nhập, tu tập, quan sát. Kết quả là tự tâm rời rã, lãng phí nhân duyên sanh mạng. Các vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải tư duy sâu xa, tinh tế điều này!

[1] Tùy phiền não (Upakleśa) là các phiền não phụ thuộc so với căn bản phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến). Tùy phiền não bao gồm hai mươi món phiền não, tức phẫn, hận, phú (giấu giếm), não (làm kẻ khác khó chịu, khổ sở, quấy rối kẻ khác), tật (ghen ghét), xan (keo kiệt), cuống (lừa dối), siểm (nịnh bợ), kiêu (kiêu căng), hại (làm hại, gây tổn hại cho kẻ khác), vô tàm (chẳng hổ), vô quý (chẳng thẹn), hôn trầm, điệu cử (lao chao, xáo động), bất tín (chẳng tin tưởng), giải đãi, phóng dật (buông lung), thất niệm (đánh mất chánh niệm), tán loạn, bất chánh tri (tri kiến chẳng chánh đáng).

[2] Tam đức là ân đức, trí đức, và đoạn đức.

[3] Ngũ giải thoátcòn gọi là Ngũ Phần Pháp Thân (Pañca-dharma-skandhāḥ). Đó là năm pháp công đức (Guṇa-dharma) để thành tựu Pháp Thân của chư Phật, gồm Giới (Śīla), Định (Samadhi), Huệ (Prajñā, Bát Nhã), Giải Thoát (Vimukti), và Giải Thoát Tri Kiến (Vimukti-jñāna-darśana, tức là khéo thông đạt giải thoát, đúng như thật liễu tri phiền não, đoạn trừ phiền não).

[4] Vua Lưu Ly gọi đầy đủ là Tỳ Lưu Ly, hoặc phiên âm là Tỳ Lô Trá Ca, là con trai của vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) nước Kiều Tát La (Kośala, nay là vùng Awadh của tiểu bang Utattar Pradesh). Vua Ba Tư Nặc muốn cưới một công chúa của dòng họ Thích Ca. Nhưng dòng họ Thích Ca cao ngạo, cho là Ba Tư Nặc không xứng lấy công chúa của họ, bèn chọn một tỳ nữ xinh đẹp, nói dối cô ta là con gái của vương tử Ma Ha Nam, đặt tên là Phược Sa Bà Sát Lỵ (Vāsabhakhattiyā). Bà này trở thành vương phi, sanh hạ hoàng tử Tỳ Lưu Ly. Khi còn bé, Tỳ Lưu Ly về thăm quê ngoại ở thành Ca Tỳ La Vệ, bị người hầu của vương tộc Thích Ca khinh rẻ là con của kẻ hạ tiện. Tỳ Lưu Ly phẫn hận, thề sẽ báo thù. Lúc tròn hai mươi tuổi, Tỳ Lưu Ly đảo chánh, khiến vua cha phải lưu vong rồi chết nơi quê người. Ông ta giết chết anh ruột là thái tử Kỳ Đà (Jeta), tự lên ngôi vua. Sau khi ổn định tình hình trong nước, Tỳ Lưu Ly xua quân tấn công Ca Tỳ La Vệ, đức Phật ba lần xuất hiện ngăn trở, khiến Tỳ Lưu Ly phải rút quân. Lần cuối cùng, vẫn tiếp tục tấn công, tàn sát thành Ca Tỳ La Vệ. Sau đó, vua hoang dâm tửu sắc, say rượu ngủ vùi bên sông, bị nước lụt cuốn trôi. Nước Kiều Tát La bị vua A Xà Thế nước Ma Kiệt Đà thôn tính, xóa tên trên bản đồ.

[5] Cô này còn được phiên âm là Chiến Giá Ma Na, hoặc Chiên Xà, hoặc Giá Ma Na, dịch nghĩa là Đa Thiệt (lắm lưỡi). Theo Hưng Khởi Hạnh Kinh, cô ta nhét một cái bát sắt vào bụng buộc lại, giả vờ có mang. Khi đến vu cáo đức Phật, đức Phật trả lời: “Chuyện này chỉ có ta biết và cô biết rõ, chẳng cần phải nhiều lời!” Đại chúng xôn xao, Đế Thích đang đứng hầu quạt cho Phật, bèn hóa ra hai con chuột chui vào áo cô ta, cắn đứt dây buộc, bát sắt rơi đánh choang xuống đất, khiến cô ta xấu hổ, phải tháo chạy trong nhục nhã.

[6] Tứ pháp ấn là các hành vô thường, các lậu là khổ, các pháp vô ngã, và Niết Bàn tịch tĩnh.

[7] Theo Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh (do ngài Nghĩa Tịnh dịch vào đời Đường), phuơng Đông lần lượt có bảy vị Phật cũng vì chúng sanh mà phát nguyện tiêu tai, diên thọ, trừ bệnh khổ, nên gọi chung là Dược Sư Thất Phật. Danh xưng của các vị ấy như sau:

1. Thiện Danh Xưng Cát Tường Vương Như Lai trong thế giới Vô Thắng, cách thế giới Sa Bà bốn Hằng hà sa quốc độ, phát ra tám đại nguyện.

2. Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai ở thế giới Diệu Bảo, cách thế giới Sa Bà năm Hằng Hà sa quốc độ, cũng phát tám đại nguyện.

3. Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai ở thế giới Viên Mãn Hương Tích, cách thế giới Sa Bà sáu Hằng hà sa quốc độ, phát ra bốn đại nguyện.

4. Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai ở thế giới Vô Ưu, cách thế giới Sa Bà bảy Hằng hà sa quốc độ, phát ra bốn đại nguyện.

5. Pháp Hải Lôi Âm Như Lai trong thế giới Pháp Tràng cách thế giới Sa Bà tám Hằng hà sa quốc độ, phát ra bốn đại nguyện.

6. Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như Lai trong thế giới Thiện Trụ Bảo Hải, cách thế giới Sa Bà chín Hằng hà sa quốc độ, phát bốn đại nguyện.

7. Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja), trong thế giới Tịnh Lưu Ly (Vaiḍūryanirbhāsa), cách thế giới Sa Bà mười Hằng hà sa quốc độ, phát ra mười hai đại nguyện.

Xét ra, phần cuối quyển thượng và quyển hạ của Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh đại đồng tiểu dị so với bản kinh Dược Sư do ngài Huyền Trang dịch.

Trong các bức vẽ thangka của Phật giáo Tây Tạng, thường là vẽ Dược Sư Phật ở trung tâm, màu xanh dương đậm (màu ngọc lưu ly, tay cầm bát, trong bát có quả Ha Lê Lặc (Harītaki), và nhánh cỏ thuốc chiêu liêu (Myrobalan, ha tử), vây quanh là sáu vị Phật trên đây. Đôi khi, phía trên Phật Dược Sư, vẽ thêm Thích Ca Mâu Ni Phật, gọi là Bát Dược Sư Phật. Đôi khi họ chỉ vẽ Dược Sư Phật đơn lẻ, hay vẽ Duợc Sư Phật có hai vị Nhật Quang và Nguyệt Quang Bồ Tát đứng hầu hai bên.

[8] Có thể hiểu như điều kiện cần phải có để tu tập thành công pháp này.

[9] Nhị Chướng là Sở Tri Chướng và Phiền Não Chướng. Tam Chướng là Phiền Não Chướng, Nghiệp Chướng và Báo Chướng (đây là giáo nghĩa được nói trong kinh Đại Bát Niết Bàn). Tuy vậy, sách Hoa Nghiêm Khổng Mục (tức sách Hoa Nghiêm Kinh Nội Chương Môn Đẳng Tạp Khổng Mục Chương của ngài Trí Nghiễm) lại phán định ba loại Phiền Não Chướng như sau, và cũng gọi chúng là Tam Chướng:

1. Bì Phiền Não Chướng (phiền não chướng ngoài da), tức là Tư Hoặc trong tam giới như tham, sân, si… do đối ứng với lục trần mà sanh khởi phiền não.

2. Nhục Phiền Não Chướng (phiền não chướng trong thịt), tức Kiến Hoặc, như các kiến chấp đoạn, thường v.v… đều do nội tâm sanh khởi phân biệt.

3. Tâm Phiền Não Chướng tức là căn bản vô minh. Do mê chân tâm mà có loại phiền não này, nên gọi là Tâm Phiền Não Chướng.