Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng ký 1
大方等大集賢護經講記
慈法法師
Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
1. Đôi nét về pháp sư Từ Pháp
Pháp sư Từ Pháp, pháp danh Quả Trung, pháp hiệu Từ Pháp, là người huyện Tây Bình, tỉnh Hà Nam, sanh năm 1960. Xuất gia năm 1992 tại chùa Phổ Đồng thuộc huyện Nam Cung tỉnh Hà Bắc, thọ giới Sa Di với luật sư Hoằng Xuyên. Năm sau, Sư được đặc cách thọ Cụ Túc Giới tại chùa Bạch Mã, Lạc Dương. Sau đó, Sư xin phép thầy đi tham học tại các đạo tràng Linh Nham, Quảng Hóa (tỉnh Phước Kiến), Bình Sơn, Đại Phật Tự (tỉnh Cam Túc), chùa Đa Bảo (tại Chiết Giang), chùa Song Lâm (tỉnh Giang Tây) v.v… Kể từ năm 1997, Sư trụ tích ở chùa Hoa Thủ Phóng Quang (Hằng Dương Am là ni viện thuộc chùa này) tại núi Kê Túc, huyện Đại Lý, tỉnh Vân Nam cho đến nay. Tuy học rộng kinh tạng, siêng năng tham lễ các vị tôn túc để cầu học các pháp Đại Thừa, Sư đặc biệt quy túc nơi pháp môn Tịnh Độ. Tuy học rộng và giảng nhiều pháp khác nhau để rộng kết thiện duyên độ chúng, Sư lập thệ trì giới tinh nghiêm, chuyên tu Tịnh Độ, cầu bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề.
2. Duyên khởi
Hôm nay, chúng tôi từ trong mười hai bộ kinh giáo thuộc Tam Tạng của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật được lưu truyền rộng rãi trong Hiền Kiếp, chọn lấy một bộ kinh là kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ, còn gọi là kinh Ban Châu Tam Muội, ứng theo nhu cầu của mười phương tín chúng, ứng với nhu cầu về pháp môn tu hành. Mười phương chư Phật, Bồ Tát gia bị cho chúng ta tụ tập tại tòa điện đường mới vừa bắt đầu sử dụng của Hằng Dương Am để học tập, tu tập, nhận biết giáo ngôn thanh tịnh này, hòng khiến cho chúng ta đạt được căn cơ chẳng thoái thất Vô Thượng Bồ Đề, đắc pháp bất thoái, tu tập bất thoái, cho đến thành tựu bất thoái.
Hôm nay là ngày Rằm tháng Bảy âm lịch, chính là Phật Hoan Hỷ Nhật trong Tự Tứ Tăng pháp của đức Phật Thích Ca, cũng là ngày Tự Tứ, mà cũng là ngày đại chúng hoàn tất gìn giữ chín mươi ngày thanh tịnh trong mùa An Cư Kết Hạ, là ngày tu tập giới pháp viên mãn. Trong nước, có rất nhiều chùa miếu, đạo tràng đều cử hành pháp hội Vu Lan Bồn. Pháp hội này lấy nhân duyên tôn giả Đại Mục Kiền Liên cứu độ mẹ làm duyên khởi, giải trừ sự treo ngược cho hết thảy chúng sanh, độ thoát các vong linh hữu tình, cha, mẹ, thầy, trò, từ vô thỉ tới nay, khiến cho họ được tăng trưởng phước đức, tăng trưởng thiện căn, tăng trưởng pháp duyên, cho tới thành tựu Bồ Đề.
Ngày Rằm tháng Bảy là ngày Phật Hoan Hỷ, do được oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Phật Thích Ca cho đến mười phương chư Phật, và hết thảy Bồ Tát, do mọi người cầu thỉnh, mong mỏi và tích cực chuẩn bị, Tăng chúng chùa Phóng Quang[1] và chúng thường trụ cùng nhau phát khởi pháp hội học tập này. Các duyên hòa hợp, đúng là phước đức, nhân duyên thù thắng chẳng thể nghĩ bàn chín muồi, cũng do oai thần thiện xảo của chư Phật hiển lộ, thật sự là khó có, khó gặp! Nhất là mọi người do nghe giảng, hướng theo hành pháp Ban Châu, từ các nơi trong nước mong đắc chẳng thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề trong một đời, sẽ liễu giải và nhận biết rành rẽ pháp tắc, tu tập, nương theo biển giáo pháp của đức Thế Tôn để y giáo phụng hành. Nếu không, sẽ gặp rất nhiều mê lầm trong quá trình hành trì, khó thể thành tựu.
Tại Trung Hoa, kinh Ban Châu Tam Muội có bảy loại bản dịch, nay còn ba loại:
1) Phật Thuyết Ban Châu Tam Muội Kinh (佛說般舟三昧經, Pratyutpanna Buddha Saṃmukhāvasthita Samādhi Sūtra), gồm một quyển, chia thành tám phẩm.
2) Ban Châu Tam Muội Kinh (般舟三昧經), gồm ba quyển, mười sáu phẩm.
3) Bản còn lại là bộ Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh (大方等大集賢護經) mà chúng ta đang học tập. Bản này dịch trễ nhất trong bảy loại bản dịch. Khối lượng văn tự lớn nhất, gồm năm quyển, mười bảy phẩm, nhưng văn tự khá rõ ràng, giản dị, khiến cho người học như chúng ta trong hiện thời dễ lý giải và thực hành[2].
Do thời gian hạn chế, chúng tôi tính bỏ ra năm mươi tiếng đồng hồ để học tập một lượt trong hai mươi lăm ngày, khiến cho mọi người do được Tam Bảo gia trì, đức Thế Tôn khải phát, sẽ có thể nhận biết rõ ràng, hoàn chỉnh, rốt ráo về pháp Ban Châu. Sau đó, khi tu tập, pháp tắc này sẽ trở thành mười phần đơn giản, sáng sủa, nhẹ nhàng. Tuy nói là giảng một lượt, nhưng quả thật chẳng có gì để giảng, chúng tôi chỉ noi theo văn tự để khuyên chỉ, hướng dẫn quý vị mổ xẻ tự tâm. Bởi lẽ, văn tự không gì chẳng từ trong Như Lai Tạng lưu xuất, là lời chân thật của Như Lai, mà cũng là bản chất của tâm trí chúng ta, chớ chẳng phải là điều chi khác!
Dưới đây, chúng ta sẽ phân tích tâm địa của chính mình, hòng nhận biết pháp tắc này để ấn khế tự tâm, tức là “dùng kinh ấn chứng, hứa khả tự tâm”, khơi gợi, phát khởi tâm trí của chính mình, chứng thực “hết thảy chúng sanh vốn sẵn là Phật”.
Đấy là nguyện vọng xuất thế duy nhất của chư Phật, là giáo ngôn thanh tịnh do hết thảy chư Phật truyền đạt, khiến cho chúng sanh trở về đúng với vị trí vốn có, vượt thoát biển khổ sanh tử luân hồi, chẳng còn bị luân hồi oan uổng.
3. Tựa đề kinh
Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ kinh.
大方等大集賢護經。
3.1. Hiền Hộ Bồ Tát
Nay chúng ta đang học kinh Hiền Hộ (賢護), tức là dùng tên người để đặt tên kinh. Do vậy, đối với [danh xưng] Hiền Hộ, cũng phải nên liễu giải nhất định. Đối với ngài Hiền Hộ, phần nhiều Ngài được gọi bằng danh xưng Bồ Tát, hoặc Khai Sĩ, hay Đại Sĩ. Trong mười hai bộ loại kinh điển của Tam Tạng do đức Thế Tôn giảng giải, Ngài (Hiền Hộ Bồ Tát) xuất hiện khá nhiều lần. Tên của Hiền Hộ Bồ Tát (Bhadra-pāla) được dịch theo rất nhiều cách, như Bạt Đà Hòa, Bạt Đà Bà La, Bạt Đà La Ba Lê v.v… Như trong phẩm Bất Tư Nghị của kinh Lăng Nghiêm và trong Phật Thuyết Ban Châu Tam Muội Kinh, đều dùng danh tự Bạt Đà Hòa. Danh xưng có khác biệt, nhưng chỉ là một vị.
Trong Phật Thuyết Đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp Kinh, có chép Hiền Hộ Bồ Tát là vị cầm đầu của mười sáu vị Chánh Sĩ, là bậc tại gia Bồ Tát làm nhân vật đại biểu hộ trì giáo pháp thù thắng. Trong rất nhiều kinh điển, có nhắc đến mười sáu vị Khai Sĩ, hoặc mười sáu vị Chánh Sĩ, như kinh Vô Lượng Thọ có nói nhóm mười sáu vị Chánh Sĩ do ngài Hiền Hộ làm Thượng Thủ, từ chỗ ngồi đứng lên, đến lễ dưới chân đức Phật. Trong kinh Ban Châu Tam Muội, bậc thượng thủ thành tựu của hàng xuất gia là Ma Ha Ca Diếp, còn vị đứng đầu truyền bá, thủ hộ trong hàng tại gia là Hiền Hộ Bồ Tát, mà kinh Ban Châu Tam Muội là do Hiền Hộ Bồ Tát khải vấn, cũng như do đức Thế Tôn trả lời mà triển khai thành một cơ chế giáo ngôn, và cũng là một cơ chế tu hành hoàn chỉnh. Ngài Hiền Hộ chính là bậc đương cơ, người khải phát, người thủ hộ, và truyền bá pháp Ban Châu Tam Muội.
3.2. Đại Phương Đẳng
Chúng ta biết Trung Hoa có rất nhiều tạng kinh, như Tích Sa Tạng, Long Tạng, Tần Già Tạng, Tự Tạng, Đại Chánh Tạng, Trung Hoa Tạng[3] v.v… không dưới mấy chục loại. Trong quá trình kết tập các tạng ấy, đối với chuyện phán định bộ loại, chia khoa mục, mỗi tạng đều có cách phán định khác nhau. Như trong nước (Trung Quốc) thì so ra Long Tạng lưu thông rộng hơn. Trong tạng ấy, có cách phán định [chia các kinh luận thành] Đại Tập, Bảo Tích, Mật Bộ, Tiểu Thừa, Luật Bộ, Tạp Dịch, trước tác nghị luận của cõi này và cõi khác. Trên thực tế, Đại Phương Đẳng (大方等) là danh từ chung để gọi các giáo điển Đại Thừa, còn gọi là Đại Phương Quảng (大方廣, Mahāvaipulya), như Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Đại Phương Quảng Viên Giác Kinh, Đại Phương Quảng Như Lai Tạng Kinh đều là các kinh điển thuộc loại này. Bộ kinh nay chúng ta đang học có tên là Đại Phương Đẳng; vì thế, chúng ta biết giáo pháp này là liễu nghĩa giáo ngôn (những lời dạy về pháp liễu nghĩa), khai Quyền hiển Thật (chỉ ra phương tiện quyền biến nhằm hiển thị thật pháp), là giáo ngôn chân thật dành cho chúng sanh, lợi ích chân thật, cho nên là lời giảng về Đại Thừa. “Đẳng” là bình đẳng ban bố an lạc cho chúng sanh, là lời dạy đúng lý, hiển thị pháp giới chân thật bình đẳng an trụ.
Chúng ta muốn thật sự thành tựu Ban Châu Tam Muội, mà nếu chẳng thuận theo kinh điển để tu trì, sẽ rất khó thành thục. Hiện thời, trong ngoài nước, người tu tập hành pháp Ban Châu rất nhiều; nhưng chúng sanh đời mạt giải đãi, buông lung, chẳng có đủ sức để tu tập liên tục các pháp, cho nên chẳng thể thâm nhập tu tập hai pháp Bi và Trí, phần nhiều khó thể thành tựu, đối với rất nhiều hành pháp, đâm ra chỉ đạt được lợi ích hạn hẹp, ngoài rìa. Trong khá nhiều kinh điển, đức Thế Tôn đã thọ ký rành rành: Trong thời đại này, chẳng hạn như trong thời đại của chúng ta, ít ai có sức thần thông thiện xảo. Người đắc Tam Minh, Tứ Trí, Ngũ Nhãn, Lục Thông càng khó thấy trên cõi đời. Nếu có bậc thành tựu, họ phần nhiều ở trong chốn phước địa nơi núi non thù thắng, chẳng thể ở trong cõi đời, vì cớ sao vậy? Như trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật Thích Ca đã nói: Trong đời ác ngũ trược này, ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu hết sức lừng lẫy. Đó là một cơ chế chủ yếu trong nghiệp lực của chúng sanh thuộc thời đại này!
Tựa đề kinh có chữ Đại Phương Đẳng, biểu thị chúng ta đang học liễu nghĩa giáo ngôn, khiến cho các hữu tình thiện căn mỏng ít trong thời mạt này sẽ có thể thành tựu đại thiện xảo. Trong thời đại Mạt Pháp này, gặp được giáo ngôn rốt ráo, liễu nghĩa, triệt để thì mới có thể thành tựu. Nếu tuân theo thứ tự, pháp tắc nhân quả tiếp nối, sẽ rất khó thành tựu[4]. Vì thế, trong thời đại này, các giáo ngôn thuộc về quả địa, cũng tức là giáo ngôn liễu nghĩa, phần nhiều được truyền bá trong cõi đời. Như thế thì mới có thể lợi lạc thế gian, có thể cứu tế các hữu tình thiện căn hiếm hoi, tự kiêu mạn, có thể độ thoát, thành tựu các hữu tình kiêu mạn, ương ngạnh, khó giáo hóa trong đời mạt. Nêu một thí dụ, nếu một người rơi xuống hầm hố rất nông, sẽ rất dễ tự thoát ra; nhưng nếu rơi xuống hang sâu, hoặc giếng sâu, muốn cứu vớt các loại hữu tình ấy, sẽ cần đến sức lực to lớn, cần đến phương tiện đại thiện xảo. Do đó, thuở đức Thế Tôn tại thế, pháp cơ bản của đại chúng xuất gia là quy y, cho tới khi thọ giới Sa Di, sẽ có thể chứng đắc từ Sơ Quả cho đến Tứ Quả A La Hán. Thế nhưng trong thời đại này, hữu tình đấu tranh kiên cố, Ngã Chấp kiên cố, coi phi pháp là chánh pháp, coi tri kiến bất chánh là chánh kiến. Kết quả là họ phần nhiều tu tập tri kiến chẳng chánh đáng, chẳng buồn nói đến Tam Quy Y! Dẫu hằng ngày tụng cả đống kinh điển, lễ sám, tâm trí chúng ta rất khó có cơ chế tương ứng được, làm sao có thể thật sự tương ứng với pháp cho được? Vì thế, trong thời đại Mạt Pháp, điều rõ ràng triệt để là giáo ngôn về quả địa sẽ khiến cho chúng sanh rốt ráo quy y, rốt ráo nương nhờ, rốt ráo tùy thuận. Vì lẽ nào? Nó bình đẳng bố thí, chẳng bỏ sót bất cứ một kẻ hữu duyên nào, thí giáo rộng khắp các căn cơ, tức là thí giáo bình đẳng. Bộ kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ này cũng giống như thế, ban bố cơ hội ngộ nhập bình đẳng cho hết thảy chúng sanh.
Giảng kinh Ban Châu Tam Muội quả thật là một đại nhân duyên, vì đã nhiều năm ngần ấy, tuy có khá nhiều vị xuất gia và tại gia Bồ Tát tu tập hành pháp Ban Châu, nhưng mọi người đối với pháp Ban Châu liễu giải rất ít. Thường có người nói: Hành pháp Ban Châu là hành pháp để bậc hiền thánh, hoặc người đại lực, người thành tựu thủ hộ, tu tập; chứ kẻ phàm phu, hoặc cũng có thể nói là “tôi” có thể tu tập được sao? Hoặc “các vị là người như vậy thì mới tu tập được”. Đúng không? Ở đây, bộ kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ sẽ cung cấp cho quý vị sự nhận thức, giáo huấn và hướng dẫn cặn kẽ, rõ ràng cho mỗi người chúng ta. Nếu kinh điển chẳng thể thật sự lưu thông trong xã hội, khiến cho mọi người đối với hành pháp này có cách nhìn chánh xác, nhận thức sâu đậm, hoặc nói cách khác là có sự liễu giải chánh xác đối với Ban Châu Tam Muội, sẽ rất khó tu tập tương ứng, sẽ rất khó thể thành tựu được!
Hiện thời, người hành Ban Châu càng ngày càng nhiều, trong cơ duyên như thế, mọi người đề xuất học tập kinh Ban Châu Tam Muội. Trước kia, cũng có rất nhiều thiện tri thức đề nghị học tập kinh điển này, tôi đề nghị mọi người hãy cùng nhau đọc tụng thì sẽ rất tốt. Vì đức Thế Tôn đã thọ ký: Trong thời Mạt Pháp, pháp sư giảng kinh phạm nhiều lầm lỗi, còn pháp sư tụng kinh thì giống như Phật tuyên dương, giáo hóa, có nhiều công đức. Vì sao vậy? Hữu tình thời Mạt Pháp cho đến những vị thuộc vào địa vị thiện tri thức, cũng có rất nhiều vị tâm thức bị ô nhiễm, khiến cho các tri kiến chẳng tương ứng với Phật pháp được lưu hành trong thế gian, nhuốm bẩn thế gian, khiến cho hữu tình mờ mịt, khiến cho các hữu tình vốn đã nghi hoặc Phật pháp càng thêm mê mờ, càng chẳng tương ứng với Phật pháp. Đó là điều đại kỵ trong giảng kinh thời Mạt Pháp, mà cũng là lỗi lầm dễ phạm nhất trong khi giảng kinh vào thời Mạt Pháp. Do vậy, đích xác là trong thời Mạt Pháp, người giảng kinh chẳng đạt được thiện xảo, chẳng thể trực tiếp đạt được công đức và lợi ích như người tụng kinh! Vì thế, trước khi chúng ta học tập kinh Ban Châu, đại khái dùng thời gian một tháng để đọc tụng. Nay giảng bộ kinh này, thật ra cũng là vì để nhiều người đọc tụng hơn, liễu giải nguyên văn của bộ kinh điển này, liễu giải ý nghĩa chân thật và như thật của đức Thế Tôn, cũng như để trực tiếp cúng dường bộ kinh này, hồi thí cho kẻ hữu duyên, khiến cho chúng ta nương theo kinh này mà tu tập pháp tắc, nương theo kinh mà thành tựu pháp tắc. Như thế thì mới sẽ chẳng có bất cứ chuyện ủy khuất hay đi đường vòng. Đó cũng là duyên khởi và mục đích học tập của chúng ta, mong cho càng nhiều hữu tình liễu giải hành pháp Ban Châu, mong sao sẽ càng nhiều hữu tình đạt được bất thoái chuyển đối với Vô Thượng Bồ Đề ngay trong một đời!
Trong pháp Ban Châu, hiện thời, mọi người chưa bàn đến cơ chế để đích thân chứng nhập môn tam-muội này, phần lớn là trong khi tu tập, quan sát, trong khi tu hành, sẽ không ngừng thâm nhập liễu giải. Nếu muốn thật sự liễu giải hoàn chỉnh pháp này, cần phải học tập kinh điển, học tập sự nhận thức đối với pháp này của lịch đại tổ sư và các vị thiện xảo trải các đời. Cũng như thông qua sự tu tập của chúng ta, khiến cho Ban Châu Tam Muội được truyền bá rộng khắp trong cõi đời, lợi ích rộng khắp trời, người. Dựa trên nguyện vọng tốt đẹp như vậy, chúng ta học tập kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ. Do ngôn ngữ trong kinh này khá đơn giản, rõ ràng, chúng ta có thể trực tiếp hồi thí [công đức ấy], cho đến giao lưu rộng rãi, cổ vũ, khích lệ mọi người trực tiếp thâm nhập kinh tạng và pháp tắc tu tập. Do vậy, nói giảng kinh chẳng qua chỉ là sự học tập, cổ vũ, khích lệ, mang tâm trí tùy hỷ mà thực hiện vậy!
Vì sao học tập tại Hằng Dương Am[5]? Quả thật là một cơ hội thù thắng, khó có, cũng là vì chúng thường trụ ở đây tuy hiện thân nữ, thật sự là Bồ Tát. Vì sao vậy? Một năm rưỡi qua, họ niệm Phật, kinh hành chẳng gián đoạn, dùng hình thức đoàn thể liên tục thay phiên để hành trì pháp tắc Ban Châu, mười phần cảm động lòng người, mười phần khó có! Nhưng cũng xuất hiện khá nhiều vấn đề; do vậy, cơ hội học tập ở nơi đây càng thêm chín muồi! Hiện thời, Hằng Dương Am có số người thường trụ nhất định, mười mấy người, hai mươi mấy người, hoặc ba mươi mấy người, nhưng một năm trước vẫn chưa phải là như thế. Đấy là một pháp duyên khởi, vì có nhóm các bà ấy tập thể tu tập Ban Châu, có cơ chế luân phiên tu tập Ban Châu suốt ngày đêm, khiến cho người khác rất cảm động. Họ tu tập suốt một năm rưỡi, thật sự kéo dài đến nay. Mọi người đối với đạo tràng “khăng khăng chẳng mệt, thường hằng, tập thể thủ hộ pháp tắc” này, đều rất cảm động, hoặc thật sự ngưỡng mộ. Khá nhiều người được hành vi của các bà gia trì, cảm động, cũng tu tập pháp tắc Ban Châu. Chúng thường trụ tại chùa Phóng Quang, cũng như các vị thuộc các đạo tràng khác cũng đều đề nghị có thể học tập kinh Ban Châu Tam Muội hay không, nhưng do nhân duyên thuộc các phương diện khác chẳng chín muồi, mãi cho đến nay vẫn chưa học tập. Lần này, chúng thường trụ tại Hằng Dương Am đề xướng là vì có tòa điện đường mới được đưa vào sử dụng, cũng như do nhu cầu hành pháp của đạo tràng mà học tập kinh Ban Châu Tam Muội. Các duyên hòa hợp, cho nên chúng ta tới học tập tại đây. Trên đây cũng là duyên khởi và mục đích chúng ta tới nơi này để học tập kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ; ở đây, tôi cũng thưa trình luôn cùng mọi người.
3.3. Đại Tập
Chúng ta hãy xem hai chữ Đại Tập (大集). Trong tạng kinh có Đại Tập Bộ[6], bộ phận kinh điển này là do đức Thế Tôn đối trước các vị đại Bồ Tát trong Dục Giới và Sắc Giới, tuyên thuyết rộng khắp giáo ngôn liễu nghĩa Đại Thừa. Các giáo pháp ấy được tụ tập lại, gọi chung là Đại Tập Kinh[7]. Nay chúng ta học tập kinh này, trên thực tế cũng là do được chư Phật Như Lai gia trì, [cũng như vì] cơ hội của các vị đại Bồ Tát chúng ta, tức là cơ duyên đại giác ngộ, cơ duyên dụng công đã chín muồi. Bởi lẽ, Bồ Tát, [hay nói đầy đủ là] Bồ Đề Tát Đỏa, tức là những vị gặp pháp bèn dũng mãnh, tu tập thanh tịnh. Người hiện thời buông lung, dẫu gặp pháp, phần nhiều chẳng hành, dẫu gặp pháp chẳng sanh lòng tôn trọng, vuột mất cơ hội ngay trong tầm tay, [trôi lăn] trong dòng sanh tử, chẳng thể tự thoát ra được, đúng là khiến cho chư Phật thương xót!
“Đại Tập” còn có thể nói cách khác, tức là [kinh pháp được] đức Phật nói trước đại chúng. Nói tới “đại chúng” thì không chỉ là bậc đại Bồ Tát, mà còn là nói tổng quát các hữu tình trong chín pháp giới, cũng đều được gọi là Đại Tập. Nay chúng ta tiếp xúc, học tập kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ, đúng là chuyện chẳng thể nghĩ bàn, vì kinh Ban Châu được truyền bá rất rộng tại Trung Hoa, nhưng người thật sự học tập, tu tập kinh điển này, tuy hiện thời dần dần nhiều hơn, nhưng nếu so với khá nhiều bộ kinh điển khác như kinh A Di Đà, kinh Kim Cang, và kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì người liễu giải kinh này vẫn là rất ít. Nhưng chúng ta có cơ duyên như thế này để liễu giải, nhận biết kinh này, quả thật là đời trước chúng ta đã có nhân duyên rất sâu với pháp Ban Châu. Nếu chẳng có nhân duyên như vậy, dẫu một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, bốn kiếp muốn nghe pháp này, cũng chẳng thể có cơ duyên chín muồi được! Đối với nhân duyên như thế nào thì mới có thể học tập hành pháp Ban Châu này, trong kinh này, đức Phật đã bình đẳng rộng rãi tuyên nói, trong phần sau, chúng tôi sẽ nói đến.
3.4. Kinh
Chữ Kinh có nghĩa là “xuyên suốt”, hoặc “tiếp nối”, ví như đường nẻo có thể khiến chúng sanh noi theo mà đi. Chúng ta học tập kinh điển này, cũng là cậy nhờ Tam Bảo gia trì, Phật Thích Ca gia trì, Hiền Hộ Bồ Tát khơi gợi mà có thể thâm nhập kinh tạng, liễu giải Ban Châu, liễu giải Ban Châu tam-muội, liễu giải cách tu nơi nhân địa và cách tu nơi quả địa của Ban Châu tam-muội, liễu giải nội dung thành tựu chân thật, cội nguồn và điều kiện cần thiết của Ban Châu tam-muội. Nếu chẳng liễu giải những điều ấy, nói Ban Châu thì chẳng đắc tam-muội, nói tam-muội sẽ chẳng thể tương ứng với Ban Châu, nói Ban Châu tam-muội, chẳng thể liên quan đến bản thân chúng ta. Nếu là như vậy, dẫu pháp tắc tốt đẹp, đối với chúng ta có lợi ích chi đâu? Vì vậy, nói theo phía chúng ta, chuyện học tập đâm ra mười phần quan trọng. Bất luận các vị Bồ Tát từ bên ngoài tới, hay vốn ở đây từ trước, chúng ta có cơ hội học tập, nhận biết pháp tắc này, lại còn đặc biệt ấn định ngày Phật Hoan Hỷ làm ngày khởi đầu học kinh Ban Châu Tam Muội, cũng tức là kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ, đúng là thiện căn, phước đức, nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn! Cơ hội như vậy thật sự là do oai thần và phước đức của Tam Bảo, chư Phật, Bồ Tát gia trì, ban bố, cũng như do cơ chế thiện căn chín muồi của bản thân chúng ta cùng hòa hợp thành. Chúng ta thấy chúng thường trụ trong đạo tràng này vận dụng tâm tư rất lớn, mua rất nhiều hoa tươi, biểu thị pháp này nhất định sẽ tạo ra kết quả chẳng thể nghĩ bàn, giống như hoa thơm ngát thế gian, tịnh hóa thế gian. Chúng ta học tập kinh Ban Châu Tam Muội cũng phải như thế, khẳng định là có một duyên khởi rất tốt đẹp và thanh tịnh.
3.5. Dịch giả
Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa cập Cấp Đa đẳng dịch.
隋天竺三藏闍那崛多及笈多等譯。
(Đời Tùy, Tam Tạng pháp sư xứ Thiên Trúc là Xà Na Quật Đa và các vị như Cấp Đa v.v… dịch).
“Tùy” tức là nhà Tùy[8].
Thiên Trúc (Sindhu) tức là Ấn Độ. Cổ nhân gọi là Ngũ Thiên Trúc, tức Ngũ Ấn Độ, [tức là Ấn Độ thuở ấy] được chia thành năm phần Nam, Bắc, Đông, Tây, Trung Ương. Vùng Đại Lý hiện thời từ đời Nguyên trở về trước vẫn là nước Đại Lý, tức nước Nam Chiếu[9]. Cương giới rất lớn, đại khái là gần như cương vực của Trung Quốc hiện thời. Phía Tây đến Việt Nam, phía Bắc đến tận cùng Khang Tạng của Tứ Xuyên, Tây giáp ranh Ấn Độ. Xét theo ghi chép thì cũng từng là xứ Ma Yết Đà của Ấn Độ[10].
“Tam Tạng” ở đây là “Tam Tạng pháp sư”. Tam Tạng bao gồm Kinh Tạng, Luật Tạng, Luận Tạng. Tại Trung Hoa, xưa nay những vị có thể gọi là Tam Tạng pháp sư rất ít. Mọi người quen thuộc Đường Tam Tạng pháp sư, tức pháp sư Huyền Trang đời Đường, là một nhân vật vĩ đại, là nhân vật có tánh chất lịch sử chẳng thể nghĩ bàn, cũng là một nhân vật mang tánh chất thế giới. Tại Ấn Độ, tiếng tăm của Ngài còn vang dội hơn so với tất cả những người khác tại Trung Hoa, gần như không ai chẳng biết tới Ngài. Hiện thời, rất nhiều di tích cổ được khai quật đều dựa theo [các ghi chép] trong Đại Đường Tây Vực Ký của ngài Đường Tam Tạng như một bản hướng dẫn khảo chứng.
“Xà Na Quật Đa cập Cấp Đa” là tên của [các vị dịch sư] người Ấn Độ. Chúng ta biết người Ấn Độ có hai đại ngữ hệ, ngữ hệ tiếng Phạn (Sankrit, Saṃskṛta) và ngữ hệ Ba Lỵ (Pāḷi), gần giống như thể loại Văn Ngôn và Bạch Thoại trong kết cấu ngôn ngữ của Trung Hoa. Tiếng Ba Lỵ chỉ có ngôn ngữ, không có văn tự. Văn bản tiếng Ba Lỵ được ghi chép như thế nào? Có khi dùng Anh văn (tức là dùng mẫu tự Latin) để ghi chép, có khi dùng tiếng Dai (傣, Thái)[11] vùng Bản Nạp (thuộc khu tự trị Tây Song (Sibsongbanna) tỉnh Vân Nam) để ghi chép, có khi dùng văn tự Thái Lan để ghi chép. Sử dụng rất nhiểu văn tự địa phương trong từng quốc gia để ghi chép cách đọc trong tiếng Ba Lỵ, gọi là “ngữ hệ Ba Lỵ”.
“Xà Na Quật Đa cập Cấp Đa”, danh tự này rất dài, thông thường chúng ta không phiên dịch. Nếu dịch ra, sẽ nói đơn giản là Đức Chí (Jñānagupta). Vị này thuộc chủng tánh Sát-lợi, trong nhà có năm anh em, ngài Quật Đa nhỏ nhất. Ngài xuất gia từ bé, là một vị Tam Tạng pháp sư giỏi về du hóa (đi khắp nơi thuyết pháp giáo hóa). Theo [sử liệu] ghi chép, thoạt đầu cùng xuất phát sang Trung Hoa, Ngài có mười người làm đồng bạn. Hành trình rất gian khổ, sáu người mất mạng, chỉ còn lại bốn người. Thoạt đầu, họ tới Trường An, tới chùa Thảo Đường. Hiện thời, tại Tây An còn có chùa Thảo Đường, cũng là nơi dịch kinh sớm nhất của La Thập đại sư. Tùy Văn Đế khá ưu đãi ngài Quật Đa Tam Tạng, thỉnh Ngài phiên dịch kinh Phật. Trong quá khứ, các vị Tam Tạng pháp sư đến Trung Hoa, đều do được đế vương thỉnh mà kiến lập đạo tràng dịch kinh. Do vậy, nay chúng ta đọc các bản dịch này, cũng là do hoàng quyền của Tùy Văn Đế gia trì, chấp thuận, mới được phiên dịch. Quật Đa Tam Tạng suốt đời phiên dịch ba mươi bộ kinh, gồm một trăm bảy mươi sáu cuốn. Nay chúng ta học tập năm quyển Đại Tập Hiền Hộ trong số đó. Ngài viên tịch vào năm Khai Hoàng 20 (600), thọ bảy mươi tám tuổi.
4. Phẩm thứ nhất: Tư Duy
(Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh quyển đệ nhất.
Hiền Hộ Phần Tư Duy phẩm đệ nhất.
(經)大方等大集賢護經卷第一。
賢護分思惟品第一。
(Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ, quyển thứ nhất.
Hiền Hộ phần. Phẩm thứ nhất: Tư Duy).
Mỗi bộ kinh đều có ba bộ phận lớn là Tự Phần, Chánh Tông Phần, và Lưu Thông Phần. Nay chúng ta học tập Tự Phần.
(Kinh) Như thị ngã văn. Nhất thời, Phật tại Vương Xá thành, Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, dữ đại tỳ-kheo chúng ngũ bách nhân câu.
(經)如是我聞。一時,佛在王舍城迦蘭陀竹園精舍,與大比丘眾五百人俱。
(Kinh: Tôi nghe như thế này. Một thời, đức Phật ngự tại Trúc Viên Tinh Xá Ca Lan Đà thành Vương Xá, cùng với năm trăm vị tỳ-kheo nhóm họp).
Kinh điển vừa mở đầu, đã bao gồm sáu loại thành tựu:
“Như thị ngã văn” biểu thị Chánh Tín Thành Tựu và Văn Thành Tựu. Thuở đó, trong khi kết tập kinh điển với năm trăm vị A La Hán, tôn giả A Nan thăng tòa tuyên thuyết, hiện quang minh và tướng hảo giống như đức Thế Tôn, âm thanh mỹ diệu giống như đức Thế Tôn, nội dung ngôn từ giống như đức Thế Tôn, có người sanh nghi nói “chẳng phải là A Nan đã thành Phật ư?” Vì thế, Ngài dùng câu “như thị ngã văn” để trừ bỏ nghi vấn ấy, nêu rõ [những điều tôi đang nói] là do nghe đức Thế Tôn nói. Do đó, “như thị ngã văn” bao gồm Tín Thành Tựu và Văn Thành Tựu.
“Nhất thời” là Thời Thành Tựu.
“Phật” là Chủ Thành Tựu.
“Vương Xá thành, Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá”[12] là Xứ Thành Tựu.
“Dữ đại tỳ-kheo chúng ngũ bách nhân câu” là Chúng Thành Tựu. Phần sau có nói năm trăm vị ấy “giai thị A La Hán” (đều là bậc A La Hán), biểu thị quyến thuộc trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Trong sự thành tựu của hết thảy các pháp hành trì, nếu chẳng biểu đạt quyến thuộc, pháp tắc ấy sẽ trơ trọi, sẽ chẳng có sức, chẳng thể tiến nhập được, sẽ chẳng thể truyền bá rộng rãi được!
Sáu loại thành tựu này chính là cách thức cơ bản của kinh điển. Trong lời dạy về cơ cấu truyền pháp của Long Thọ Bồ Tát, Ngài cũng đề ra năm loại thành tựu. Nói chung, dùng các loại thành tựu ấy để chứng thực kinh điển này vốn là chân thật, khiến cho chúng sanh lìa nghi ngờ, lo ngại. Giảng giải kinh điển thì cần phải nêu bày như thế, chứng tỏ kinh điển này chân thật chẳng dối, chẳng phải do người đời sau bịa đặt. Vì nếu một bộ kinh điển có nguồn gốc chẳng rõ ràng, nhận thức của chúng ta đối với căn cứ của bộ kinh điển sẽ trở thành ngờ vực, băn khoăn, rất khó y pháp phụng hành, rất khó thâm nhập tu tập thành tựu được!
(Kinh) Giai thị A La Hán.
(經)皆是阿羅漢。
(Kinh: Đều là A La Hán).
La Hán là “sở tác dĩ biện, phạm hạnh dĩ lập” (việc làm đã hoàn tất, phạm hạnh đã lập), là bậc Ứng Cúng (đáng tiếp nhận sự cúng dường) trong tam giới, tức là hết thảy trời, người trong Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới đều nên cúng dường Ngài, đều nên đảnh lễ, đều nên tôn trọng. Vì thế, A La Hán còn được gọi là Ứng Cúng (應供). Chúng ta đều biết trong mười tôn hiệu của Như Lai, cũng có danh hiệu Ứng Cúng này.
(Kinh) Chư lậu dĩ tận.
(經)諸漏已盡。
(Kinh: Các lậu đã hết).
“Sở tác dĩ biện, phạm hạnh dĩ lập, bất vi hậu hữu” (việc làm (tức việc tu học hữu lậu) đã hoàn tất, phạm hạnh đã lập, chẳng còn tạo nghiệp cho thân sau); đó là tiêu chuẩn của bậc A La Hán.
(Kinh) Vô phục phiền não, hàm đắc tự tại.
(經)無復煩惱,咸得自在。
(Kinh: Chẳng còn phiền não, đều được tự tại).
Trong phiền não của hữu tình, “tham, sân, si, mạn, nghi” là năm món Tư Hoặc phiền não thô nặng, là các phiền não khá trì độn (năm Độn Sử). Ngoài ra, còn có Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ Kiến, và Giới Cấm Thủ Kiến là năm món Kiến Hoặc phiền não, được gọi là năm Lợi Sử, tổng cộng là mười căn bản phiền não. Ngoài ra, còn có Tùy phiền não, trong đó lại có thượng phẩm Tùy phiền não, trung phẩm Tùy phiền não, và hạ phẩm Tùy phiền não.
“Vô phục phiền não” (Chẳng còn phiền não), tức là các phiền não trên đây đều đã hết. A La Hán chưa hết tập khí, nhưng đã hết phiền não. Trong kinh điển của đức Thế Tôn, rất nhiều vị A La Hán vẫn còn biểu hiện tập khí rất lớn, nhưng đã hết phiền não. Cũng có nghĩa là nói theo sự đích thân chứng đắc trong tâm trí thì nhân duyên phiền não đã bị đoạn trừ, nghiệp duyên tập khí tái sanh cũng đã đoạn trừ, giống như cội cây to đã bị nhổ bật gốc rễ, đặt trên một tảng đá lớn, vĩnh viễn chẳng thể mọc lại. Nhưng trong khi ấy, chính nó vẫn có thể do lượng nước trong bản thân mà trổ một số mầm non. Do đó, A La Hán chưa hết tập khí, nhưng cội rễ sanh tử, cội rễ phiền não đã đoạn trừ, được gọi là “vô phục phiền não, hàm đắc tự tại” (chẳng còn phiền não, đều được tự tại). Gánh nặng đã buông xuống, vĩnh viễn giã biệt luân hồi, đó là bậc A La Hán. Nhưng bọn phàm phu hữu tình chúng ta vẫn đeo gánh nặng luân hồi, gánh nặng phiền não, chẳng thể tự chế ngự được!
(Kinh) Tâm thiện giải thoát, huệ thiện giải thoát.
(經)心善解脫,慧善解脫。
(Kinh: Tâm khéo giải thoát, huệ khéo giải thoát).
Từ ngữ “giải thoát” có nghĩa là đối với ác duyên và các thứ nhân duyên nghịch cảnh đều chẳng vướng mắc, liễu đạt nguồn cội. Đó là nói đến tướng trạng của giải thoát. Chúng ta thấy có kẻ sau khi phạm pháp, sẽ bị xiềng xích, còng tay. Đó gọi là “triền phược” (纏縛, trói buộc), nhưng “tâm thiện giải thoát” tức là vĩnh viễn giã biệt hết thảy trói buộc. “Huệ thiện giải thoát” cho thấy không chỉ tâm chẳng vướng mắc, mà huệ cũng chẳng vướng mắc, chẳng vướng mắc trong các thứ pháp, cũng chẳng đắm nhiễm, mà cũng chẳng dính mắc các loại diệu dụng. Thường là trong các hành pháp, đã phá Ngã Chấp thì Pháp Chấp lại xuất hiện.
(Kinh) Điều phục nhất thiết, do như đại long.
(經)調伏一切,猶如大龍。
(Kinh: Điều phục hết thảy giống như rồng lớn).
Người Hoa tự xưng là “truyền nhân của rồng”, hoàng đế lại xưng là “chân long thiên tử”. Trong Phật giáo, Long là mạnh mẽ, đại oai đức, là kẻ thủ hộ của kho tàng to lớn.
(Kinh) Sở tác dĩ biện, chúng hạnh cụ bị, khí xả trọng đảm, bất thọ hậu sanh.
(經)所作已辦,眾行具備,棄舍重擔,不受後生。
(Kinh: Việc làm đã xong, trọn đủ các hạnh, buông bỏ gánh nặng, chẳng nhận lấy đời sau).
Thông thường, khi A La Hán đã chứng quả, tự nhiên sẽ nói ra bốn câu kệ. Cũng có thể nói bốn câu ấy là tiêu chí (logo) của A La Hán, nhưng mỗi kinh điển đều có cách nói khác nhau, như “bất thọ hậu sanh” thì có kinh ghi là “bất vi hậu hữu”. Chúng ta có thể quan sát cử tâm động niệm của chính mình trong hiện tiền có “hậu hữu” (後有, thân trong đời sau) hay không? Các vị đại thiện tri thức, A La Hán, cùng với các vị Bồ Tát đã chứng đắc từ Bát Địa trở lên, tâm trí hậu hữu rất khó sanh khởi. Bởi lẽ, các vị ấy đã cắt đứt phiền não, đạt tới địa vị vô công dụng, hết thảy hành vi đều chẳng cậy vào tạo tác, chẳng nhờ vào tư duy, chỉ dựa vào phương tiện quyết trạch (抉擇, chọn lựa), cũng có nghĩa là hết thảy các hành vi đều là phương tiện, chẳng phải dùng đến sức lực, chẳng giống như chúng ta [do phải luôn vận dụng thể lực và tâm lực] thường có cảm giác mệt mỏi, nhọc nhằn!
Tâm lực giữa phàm và thánh sai biệt rất lớn; đấy chẳng phải là lời lẽ hư giả. Năm nay, tôn giả Hỗ Ba Ôn Trung (Khruba Bonchum)[13] của Nam truyền Phật giáo tới chỗ chúng ta. Có một lần, tôi dùng thời gian nửa ngày để so sánh khối lượng công việc của chính mình với Ngài. Sau đó, tôi nói: “Ngài Hỗ Ba, Ngài là Bồ Tát, còn tôi tuyệt đối là phàm phu!” Vì sao tôi có thể phán định địa vị của chính mình? Mật độ hoạt động của Ngài hết sức lớn, cơ bản là chẳng gián đoạn. Tất cả các hành động đều có tánh chất liên tục, chẳng cần phải suy nghĩ! Nếu quý vị phải suy nghĩ, sẽ mệt mỏi rất nhanh, cần phải nghỉ ngơi, còn mật độ xử lý công việc trong tâm Ngài chẳng phải do tư duy mà có được! Quý vị có thể trực tiếp cảm nhận, có thể lãnh hội, quan sát, so sánh [mà nhận biết]. Hễ so sánh, liền biết chính mình thuộc phàm hay thánh, chẳng cần phải nói chi nữa! Quý vị chẳng cần phải khoe chính mình như thế nào! Ngài làm rất nhiều chuyện, tâm lực của quý vị chẳng thể theo kịp nổi! Do vậy, tôi vẫn cổ vũ, khích lệ mọi người hãy khéo tu tập Phật pháp, hòng đạt được niềm vui thù thắng nơi pháp, tức là niềm vui thuộc về địa vị thánh nhân. Dẫu chẳng nhập quả vị, [chỉ là] địa vị tương tự, vẫn là chẳng thể nghĩ bàn. Quý vị sẽ có đại thiện xảo, đại phương tiện, đại oai đức, sự liên tục to lớn, tức là dẫu phải liên tục lo liệu mọi việc mà ít tốn sức, đỡ tốn sức mà khởi tác dụng, an ủi thế gian mà đỡ tốn sức!
Từ sự so sánh ấy, nhìn vào mỗi chuyện tôn giả thực hiện, tôi bèn suy xét chính mình sẽ làm như thế nào, Ngài làm một chuyện, tôi suy nghĩ đôi chút. Khoảng hai mươi chuyện, tâm tôi đã có chút mệt mỏi. Từ năm mươi chuyện trở đi, tôi có cảm giác nhọc nhằn. Tới một trăm lẻ tám chuyện, tôi làm không nổi nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục, vẫn trước sau như một đối đãi mỗi nhân duyên trong hiện tiền. Tôi kiểm lại các chuyện, xét theo con số khởi tâm động niệm thì tuy cũng được, nhưng quan sát, bèn thấy sức tác dụng sai khác quá lớn! Thông thường, chúng ta làm chuyện đầu tiên rất nghiêm túc, chuyện thứ hai còn tạm được, chuyện thứ ba còn gắng gượng. Chuyện thứ tư, thứ năm, cơ bản là đã bớt chú ý, sự nhạy bén, nhanh nhẹn bị giảm thấp, tri kiến lui sụt, nguyện vọng giảm bớt, sự yêu thích hạ thấp, sự chuyên chú hạ thấp. Kể từ hai mươi chuyện trở đi, sẽ chẳng muốn làm, sẽ bắt đầu phải cổ vũ chính mình: “Hãy làm đi! Như thế sẽ có lợi ích cho thế gian. Hãy làm đi, đây là thiện sự. Hãy làm đi, như thế sẽ khiến cho Phật pháp trụ thế”, cũng có nghĩa là bắt đầu mệt mỏi. Đợi cho tới khi [phải làm] năm mươi chuyện, đã bắt đầu mệt mỏi, chán ngán. “Ối trời! Chuyện này có thể lợi ích mọi người, nhưng chẳng lợi ích gì cho ta hết, chẳng cần làm nữa!” Nẩy sanh ý niệm ấy, bắt đầu chán ngán, dần dần bắt đầu buông bỏ. Sức liên tục của tâm trí chúng ta là do tạo tác, do chọn lựa, tức là từ so sánh được mất mà ra. Vì thế, tánh [quyết tâm thực hiện] liên tục chẳng dễ dàng đâu nhé, rất dễ chán chường! “Phàm” là tầm thường, chẳng có sức, chán ngán, so với sự hiểu biết của bậc thánh, bậc trí, bậc thành tựu. Vì thế, mỗi địa vị trước chẳng bằng địa vị sau. Các vị thiện tri thức vẫn phải cổ vũ, khích lệ mọi người thâm nhập, tu tập Phật pháp, thành tựu các loại đức thù thắng, quả thù thắng, lợi ích thù thắng nơi pháp, đó là chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, học tập pháp Ban Châu thì ắt phải hành, lại còn cần phải nghiêm túc tu tập, quan sát pháp tắc này.
(Kinh) Hành ư bình đẳng, hoạch chân kỷ lợi, an trụ chánh giáo, đắc đáo bỉ ngạn, duy trừ trưởng lão A Nan nhất nhân.
(經)行於平等,獲真己利,安住正教,得到彼岸,唯除長老阿難一人。
(Kinh: Hành bình đẳng, đạt được lợi ích chân thật cho chính mình, an trụ trong chánh giáo, đã đạt tới bờ kia, chỉ trừ một mình trưởng lão A Nan).
Trong năm trăm vị ấy, chỉ có trưởng lão A Nan chưa chứng Tứ Quả, hãy còn lẩn quẩn nơi Sơ Quả. Chúng ta đều biết, khi đức Phật Thích Ca nhập diệt, ngài A Nan còn thuộc Sơ Quả, tôn giả Ca Diếp thấy tám lầm lỗi của ngài A Nan[14], không chấp thuận Ngài kết tập kinh điển. Kinh này nhắc đến năm trăm vị tỳ-kheo, cũng có thể là năm trăm vị A La Hán tỳ-kheo kết tập kinh điển.
(Kinh) Nhĩ thời, phục hữu ngũ bách chư tỳ-kheo, ư thần triêu thời, các tùng trụ xứ, nghệ Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時,復有五百諸比丘,於晨朝時,各從住處,詣世尊所,恭敬合掌,頂禮佛足,退坐一面。
(Kinh: Lúc bấy giờ, lại có năm trăm vị tỳ-kheo, vào lúc sáng sớm, mỗi vị từ chỗ ở, đến chỗ đức Thế Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân Phật, lui qua ngồi một phía).
Người xưa khi giải thích “thoái tọa nhất diện”, nói có sáu điều nên tránh: Một là đừng quá xa; hai là đừng quá gần; ba là chẳng ở nơi đầu gió[15]; bốn là chẳng ở chỗ cao; năm là chẳng nên ở ngay trước mặt; sáu là chẳng ở phía sau. Trước kia, khi chúng tôi theo hầu thầy, chẳng hạn như đeo đãy của ân sư, đã có yêu cầu không thể dẫm lên bóng của thầy (tức là không đi quá gần thầy), không thể đứng trước đầu gió, chẳng thể đứng hay đi nơi vị trí tốt hơn thầy. Đấy là yêu cầu trong việc phụng sự thầy. Quý vị chớ nên gây khó khăn cho thầy, phải tạo sự thoải mái và thuận tiện cho thầy. “Thoái tọa nhất diện” ở đây cũng giống như thế, nhằm thuận tiện cho sự tuyên dương giáo hóa của đức Thế Tôn, thuận tiện cho việc tiếp đãi người đến sau. Do thời gian hạn chế, chúng tôi chẳng thể giảng kinh cặn kẽ được. Nếu nói cặn kẽ, chắc là một trang này phải dùng cả hai mươi lăm ngày mới nói xong! Vì vậy, chỉ đành nêu ra sơ sài, đại lược mà thôi!
(Kinh) Nhĩ thời, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục Liên.
(經)爾時,尊者舍利弗,尊者大目連。
(Kinh: Lúc bấy giờ, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục Liên).
Chúng ta mười phần quen thuộc các vị Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Đấy là hai vị đại đệ tử thân cận đức Phật, một vị trí huệ bậc nhất, vị kia thần thông bậc nhất.
(Kinh) Tại Xá Vệ thành, Hạ an cư dĩ.
(經)在舍衛城,夏安居已。
(Kinh: Ở thành Xá Vệ, an cư kết hạ đã xong).
Dựa theo cách nói trong quá khứ, hôm nay là ngày Tự Tứ trong mùa An Cư kết hạ, ngày mai khi minh tướng (tướng hừng đông) xuất hiện, mùa An Cư đã kết thúc. Thông thường, tối nay mọi người sẽ niệm Phật thâu đêm, hoặc tu hành để mong chứng quả. Có người nói: “Tôi vẫn chưa được, ba tháng chín mươi ngày dụng công chẳng đủ, tôi vẫn muốn thêm một tháng”. Tức là tu hành suốt một trăm hai mươi ngày! Thêm một tháng, đó là “công đức nguyệt” (tháng công đức), [nhằm mục đích] nếu chẳng chứng quả, sẽ không ra khỏi An Cư. Do lấy bốn tháng làm một thời, được gọi là “mãn phần tu pháp”. Đức Thế Tôn đã xếp đặt cho chúng ta một cách tu thong dong hơn, tức là trong một thời, lấy ra ba phần để tu pháp, phần còn lại để chúng ta tự lựa chọn. Nay thêm vào tháng Bảy, tức là công đức nguyệt (tháng công đức), chẳng cho “mãn phần tu trì”, do sợ có hữu tình chẳng thể gánh nổi “mãn phần tu trì” vì tâm lực chẳng đủ, phước đức chẳng đủ! Do vậy, Ngài lập thêm tháng Bảy, tạo phương tiện cho mọi người. Thuở đức Thế Tôn tại thế, bậc “thiện lai tỳ-kheo” (tỳ-kheo khéo đến) vừa nghe giảng liền chứng A La Hán, râu tóc tự rụng; còn kẻ độn căn hơn thì có vị bảy ngày sau sẽ chứng quả. Nếu chúng ta hiện thời mà có thể chứng quả trong vòng bảy ngày, mọi người sẽ sốt sắng kinh hành ở đây bảy tháng cũng được! Có thể chứng quả hay không? Giáo pháp của đức Phật Thích Ca đã trụ thế năm ngàn năm, luôn luôn có cơ hội chứng thánh quả, mọi người hãy yên lòng. “Hạ an cư dĩ” (Kết hạ an cư đã xong) cũng có nghĩa là khi minh tướng đã xuất hiện trong ngày Mười Sáu. Minh tướng chưa xuất hiện, chẳng thể nói là “Hạ an cư dĩ”. Minh tướng xuất hiện (trời vừa tảng sáng), có thể thấy rõ đường chỉ trong lòng bàn tay, An Cư mùa Hạ bèn viên mãn. Khi đó, hết thảy công khóa và pháp tắc trong mùa An Cư kết hạ đều có thể kết thúc. Mùa An Cư năm nay tại chùa Phóng Quang kéo dài thành một trăm hai mươi ngày, chúng ta hãy còn một tháng nữa. Nếu chẳng phải là tháng nhuận thì gọi là thêm tháng Bảy, tức là “công đức nguyệt”.
(Kinh) Diệc dữ ngũ bách chư tỳ-kheo câu, thứ đệ du hành thành ấp, tụ lạc.
(經)亦與五百諸比丘俱,次第遊行城邑、聚落。
(Kinh: Cũng cùng với năm trăm vị tỳ-kheo, theo thứ tự du hành các thành ấp, làng xóm).
Theo thứ tự du hành, tức là từ chỗ này sang chỗ khác, tùy duyên mà đi.
(Kinh) Chí Vương Xá thành, nhập Ca Lan Đà Trúc Viên tinh xá, nghệ Thế Tôn sở. Đáo dĩ, cung kính đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện. Nhĩ thời, Thế Tôn dĩ thần thông lực.
(經)至王舍城,入迦蘭陀竹園精舍,詣世尊所。到已,恭敬頂禮佛足,退坐一面。爾時,世尊以神通力。
(Kinh: Tới thành Vương Xá, vào Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, tới chỗ đức Thế Tôn. Đã đến nơi, cung kính đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui sang ngồi một bên. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn dùng sức thần thông).
Các vị thiện tri thức! Chớ nên coi thần thông là thứ quái lạ chi cả, nó thật sự do phước đức mà thành tựu. Chớ nên coi thần thông là thứ vốn có của yêu ma, quỷ quái. Thật ra, nó là do đại hùng, đại lực, đại từ bi, đại thiện xảo trọn đủ, sử dụng thiện xảo chẳng có dấu vết. Hễ có dấu vết thì cũng là phương tiện tự tại!
(Kinh) Phóng đại oai quang.
(經)放大威光。
(Kinh: Phóng quang minh oai đức to lớn).
“Oai quang” là do sức tự tại hiển hiện. Khi tâm trí của một người thanh tịnh, khi tu trì khá tốt đẹp, tức là một khi quý vị đã đủ sức, sẽ tỏa ra quang minh năm màu. Lại như rất nhiều tượng Phật đều có quang tướng, cũng như trong các ghi chép về các bậc tiền hiền của các đại tôn giáo từ xưa thì họ đều có vòng hào quang. Gia Tô Cơ Đốc (Jesus Christ), Mặc Hãn Mục Đức (Mohammed, Muhammad), hoặc Lão Tử của Trung Hoa v.v… Đấy là lời chân thật, là lời thành thật. Rất nhiều đứa bé có quang tướng trên thân rất tốt, nhưng quang minh của lũ bình phàm chúng ta đã chìm ngập trong nghiệp lực phiền não, bị chính mình tiêu hao mất, sức tự tại chẳng đủ! Có những người niệm một câu chân ngôn riêng biệt, phát ra những lời thề riêng biệt, vận dụng bi tâm riêng biệt, hoặc là khi có các pháp tắc riêng biệt, cũng có thể phóng ra quang tướng. Trong tâm trí và nhân duyên thông thường của chúng ta, những điều ấy là bình thường. Do vậy, nói đức Thế Tôn dùng sức thần thông phóng đại oai quang, đúng là lời thành thật, chớ nên nói: “Đó có phải là thần thoại hay không?” Người có trí lực, thắng lực, công đức lực thành tựu sẽ biết ngay. Nếu ai có công phu Thiền Định, cũng rất dễ thấy thân thể người khác phóng quang. Nếu chúng ta có thể lìa bỏ các triền phược thô nặng nơi thân thể, nhìn lại sắc thân này, trên cơ bản, sẽ có thể trông thấy quang tướng. Khi đã thấy được, cơ bản là quý vị biết người ấy mắc bệnh gì, thân thể như thế nào, tánh tình như thế nào? Chúng ta chẳng có Thiền Định, chẳng có thần thông thiện xảo, cho nên mắt chúng ta là nhục nhãn, mắt chẳng nhìn xuyên qua các vật được, chẳng có sức mạnh ấy. Phật giáo nói tới nhục nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, và Phật nhãn. Nhục nhãn của chúng ta chẳng chánh xác, chẳng sáng tỏ, nhanh nhạy, thiên nhãn chẳng thông đạt, huệ nhãn chẳng trọn đủ, pháp nhãn chẳng thanh tịnh, chúng ta chẳng thể thấy thế gian viên mãn được! Do vậy, chẳng phải là Phật nhãn. Thiện Đạo đại sư dạy chúng ta phải nên “từ tâm tương hướng, Phật nhãn tương kiến” (dùng từ tâm để hướng về nhau, dùng Phật nhãn để thấy nhau), hãy mở toang Phật nhãn của chúng ta!
(Kinh) Linh bỉ chư quốc, thành ấp, tụ lạc, nhất thiết chư hữu chư tỳ-kheo chúng, hàm các lai nghệ Vương Xá đại thành.
(經)令彼諸國,城邑聚落,一切諸有諸比丘衆,咸各來詣王舍大城。
(Kinh: Khiến cho các vị tỳ-kheo trong các thành ấp, thôn xóm của các nước, và hết thảy các cõi, đều đến thành lớn Vương Xá).
Hiện thời, chúng ta còn có “lệnh”: Sáng sớm thức dậy bèn khua chuông, gióng trống. Đó là một thứ lệnh. Đánh mộc bản vang ra tiếng, đó là lệnh. Kèn hiệu xung phong của bộ đội, chính là Lệnh. Ở đây, đức Thế Tôn dùng sức thần thông, dùng đại oai quang chiếu vào trọn khắp tâm trí của chúng sanh, lay tỉnh tâm trí họ, khiến cho họ đều đi đến đại thành Vương Xá.
Có kẻ thắc mắc: “Thế Tôn có sức mạnh như thế, có phải là thần thoại hay không?” Họ còn cho đó là văn chương do các vị Bồ Tát trong Phật giáo viết ra, [cho rằng] thần thông thiện xảo như trong Phật giáo đã nói thật ra là mê tín, là chẳng thật sự có, do con người đặt ra để ca tụng, thần thoại hóa Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đó thôi! Nếu nói như thế, cõi trời sẽ quá nhỏ! Sắc Giới lẫn Dục Giới, cho tới mười pháp giới như chúng ta đã nói đều trở thành hý luận. Mười phương pháp giới vốn chẳng khác biệt, nương vào tâm mà hiện, nhưng sự khác biệt trong những cái được hiện quá lớn. Tôi nêu một thí dụ đơn giản nhất, so sánh giữa một người và một con kiến. Sức con người so với sức con kiến đúng là chẳng thể nghĩ bàn, nhưng quý vị chẳng thể dùng tư tưởng của con kiến để phán đoán hành vi của con người! So với Phật Đà Thế Tôn, sanh mạng lực của bọn phàm phu chúng ta giống như con kiến, đừng nên dùng tâm lực ấy để tư duy tâm lượng của Phật Đà Thế Tôn! Nếu cho rằng chính mình chẳng có trí huệ rộng lớn, chẳng có sức nhìn thấu suốt rộng lớn, chẳng có sức thần thông thiện xảo, [rồi kết luận xằng bậy] “chắc là Phật cũng chẳng có!” Chính mình chẳng có sự cảm nhận, hiểu biết thiện xảo rộng lớn rốt ráo, chẳng có oai đức thiện xảo dường ấy, [bèn đoan quyết] “chắc là Phật cũng chẳng thể có”. Đó là đọa lạc trong tri kiến và sự cảm nhận của chính mình! Trên thực tế, chúng ta dùng khoa học kỹ thuật hiện đại có thể biểu đạt [chuyện này]. Những ai từ bốn mươi lăm tuổi trở lên, đối với Cách Mạng Văn Hóa[16] rất quen thuộc. Khi đó, người lãnh đạo quốc gia vừa nói, các loa phóng thanh trên toàn quốc đồng loạt phát ra tiếng, tức là tâm quang của một cá nhân thông qua luồng điện và loa phát thanh truyền đi, người trong cả nước đều biết các chỉ thị mới nhất từ tầng lớp tối cao. Ngay trong ngày hôm ấy, [các chỉ thị đó] lan truyền đi khắp cả nước; các cấp thực hiện tuyệt đối đồng bộ! Đấy chẳng phải là “tâm quang riêng chiếu” đó ư? Chẳng qua là thông qua chánh trị, qua các máy móc do con người tạo ra mà truyền bá. Thế nhưng, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng dùng loa lớn, cũng chẳng dùng chánh sách, Ngài an vị trong đại quang minh tạng, dùng sức thần thông thiện xảo to lớn, khiến cho hết thảy các chúng sanh hữu duyên đều có thể cảm nhận. Máy móc hiện thời có thể tạo ra năng lực như thế, đức Thế Tôn nhất định có năng lực như thế. Nếu chẳng có niềm vui do oai đức thù thắng nơi pháp để hướng về, chúng ta sẽ chẳng tiến nhập tu pháp, sẽ đọa lạc trong nỗi kiêu mạn tầm thường, chôn vùi cơ chế giáo ngôn rộng lớn của Phật pháp, cũng có nghĩa là chẳng thể nào cổ vũ, khích lệ quý vị được! Rất nhiều người học Phật chẳng thể tiến nhập lợi ích chân thật trong Phật pháp, là vì đọa lạc trong tri kiến hạn lượng của chính mình, chìm đắm trong sự sanh tồn thuộc phạm trù Sở Tri Chướng của chính mình, dẫu tu tập Phật pháp mà chẳng thể vượt thoát. Do đó, đức Thế Tôn gọi hạng người không thể vượt ra ngoài cảm nhận và tri kiến của chính mình là “kẻ đáng thương xót”, vì họ chẳng thể thành tựu tâm trí Vô Thượng Bồ Đề.
(Kinh) Nhập Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, chí Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện. Nhĩ thời, Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá hữu bách thiên số chư tỳ-kheo đẳng, thừa Phật oai quang, giai dĩ vân tập chí Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện. Nhĩ thời, phục hữu bỉ Ma Ha Ba Xà Ba Đề tỳ-kheo-ni, diệc thừa Thế Tôn oai thần lực cố, diệc dữ nhị vạn tỳ-kheo-ni câu, tất giai đại tập, nhập Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, nghệ Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)入迦蘭陀竹園精舍,至世尊所,恭敬合掌,頂禮佛足,退坐一面。爾時,迦蘭陀竹園精舍有百千數諸比丘等,承佛威光,皆已雲集至世尊所,恭敬合掌,頂禮佛足,退坐一面。爾時,復有彼摩訶波闍波提比丘尼,亦承世尊威神力故,亦與二萬比丘尼俱,悉皆大集,入迦蘭陀竹園精舍,詣世尊所,恭敬合掌,頂禮佛足,退坐一面。
(Kinh: Vào Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, tới chỗ đức Thế Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía. Lúc bấy giờ, Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá có đến trăm ngàn vị tỳ-kheo nương theo oai quang của đức Phật, đều đã như mây nhóm đến chỗ đức Thế Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía. Lúc đó, lại có tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề cũng nương theo sức oai thần của đức Thế Tôn, cũng cùng với hai vạn tỳ-kheo-ni thảy đều tụ tập đông đảo, vào Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, tới chỗ đức Phật, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía).
Tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāprajāpatī Gautamī) cũng là dì của đức Thế Tôn. Chúng ta biết: Đức Thế Tôn sanh ra không lâu, mẹ Ngài liền sanh lên trời Đao Lợi. Đức Thế Tôn được bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi nấng. Sau khi bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề xuất gia, được gọi là Đại Ái Đạo tỳ-kheo-ni, là thủ lãnh của các vị tỳ-kheo-ni. Trong cơ chế giáo ngôn của đức Phật Thích Ca, nữ chúng phải vượt qua các chướng duyên nhất định thì mới được xuất gia.
(Kinh) Nhĩ thời, Vương Xá đại thành hữu Ưu-bà-tắc.
(經)爾時,王舍大城有優婆塞。
(Kinh: Lúc bấy giờ, thành lớn Vương Xá có một vị Ưu-bà-tắc).
Ưu-bà-tắc (Upāsaka) là người nam tại gia học Phật. Người Hoa gọi người tại gia tu tập Phật pháp là cư sĩ, nhưng trong thời đức Thế Tôn, “cư sĩ” (gṛhapati) là bậc tại gia tu hành đã chứng đắc Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả.
(Kinh) Danh viết Hiền Hộ, vi chúng thượng thủ.
(經)名曰賢護,爲衆上首。
(Kinh: Tên là Hiền Hộ, là thượng thủ của đại chúng).
Hiền Hộ Bồ Tát là vị khải phát chủ yếu trong bộ kinh này. Kinh này dùng danh tự của Ngài để đặt tên, vì Ngài khiến cho chúng ta sau khi có được pháp này, sẽ học tập, thực hành pháp Ban Châu, cho đến có thể thành tựu tam-muội, có thể thấy mười phương chư Phật thảy đều đứng trước mặt. Pháp tắc như thế đó.
(Kinh) Diệc dữ ngũ bách Ưu-bà-tắc câu, thọ trì Ngũ Giới, cụ túc oai nghi, thị đại Bồ Tát, cửu dĩ trụ ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề hạnh. Bổn nguyện lực cố, thường tùy Thế Tôn, nhạo văn chánh pháp, hằng cần tinh tấn, vị mãn nhất thiết trợ đạo pháp cố.
(經)亦與五百優婆塞俱,受持五戒,具足威儀,是大菩薩,久已住於阿耨多羅三藐三菩提行。本願力故,常隨世尊,樂聞正法,恆勤精進,爲滿一切助道法故。
(Kinh: Cũng cùng với năm trăm vị Ưu-bà-tắc thọ trì Ngũ Giới tụ tập, trọn đủ oai nghi, là bậc đại Bồ Tát, trụ trong hạnh Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác từ lâu. Do sức bổn nguyện, họ thường theo đức Thế Tôn, thích nghe chánh pháp, luôn siêng năng tinh tấn hòng viên mãn hết thảy các pháp trợ đạo).
Hiền Hộ Bồ Tát đã đích thân chứng Vô Thượng Bồ Đề từ lâu, Ngài thường thủ hộ chánh hạnh, chỉ là chưa chứng Phật quả. Do vì nguyện lực, Ngài “thường tùy Thế Tôn, nhạo văn chánh pháp, hằng cần tinh tấn, vị mãn nhất thiết trợ đạo pháp cố” (thường theo đức Thế Tôn, thích nghe chánh pháp, luôn siêng năng tinh tấn hòng viên mãn hết thảy các pháp trợ đạo), tức là Hiền Hộ Bồ Tát phát ra thệ nguyện khiến cho hết thảy chúng sanh tinh tấn nơi pháp, khơi mở các pháp tu làm trợ duyên hòng thành tựu Vô Thượng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cho hết thảy chúng sanh.
(Kinh) Ư triêu đán thời, thừa Phật oai thần, tùng bổn trụ xứ, nhập Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, chí Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)於朝旦時,承佛威神,從本住處,入迦蘭陀竹園精舍,至世尊所,恭敬合掌,頂禮佛足,退坐一面。
(Kinh: Vào lúc sáng sớm, nương theo oai thần của đức Phật, từ chỗ ở của chính mình, vào Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá, tới chỗ đức Thế Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một bên).
Bất luận là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, hay Ưu-bà-tắc, đều lui qua ngồi một bên.
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Da Ly đại thành hữu nhất Ly Xa tử, danh viết Bảo Sanh, vi chúng thượng thủ, diệc dữ nhị vạn bát thiên chư Ly Xa câu, ư thần triêu thời, thừa Phật thần lực, giai tự bỉ thành phát lai, nhập thử Ca Lan Đà viên, chí Như Lai sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時,毗耶離大城有一離車子,名曰寶生,爲衆上首,亦與二萬八千諸離車俱,於晨朝時,承佛神力,皆自彼城發來,入此迦蘭陀園,至如來所,恭敬合掌,頂禮佛足,退坐一面。
(Kinh: Lúc bấy giờ, nơi thành lớn Tỳ Da Ly (Vaiśālī)[17] có một vị thuộc tộc Ly Xa, tên là Bảo Sanh, là thượng thủ của đại chúng, cũng cùng với hai vạn tám ngàn các vị Ly Xa, vào lúc sáng sớm, nương thần lực của đức Phật, đều phát xuất từ thành ấy ra đi, vào vườn Ca Lan Đà này, đến chỗ Như Lai, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía).
Ly Xa là một tộc thuộc dòng Sát-lợi.
(Kinh) Nhĩ thời, Chiêm Bà thành hữu nhất trưởng giả tử, danh viết Tinh Tạng, vi chúng thượng thủ, diệc dữ nhị vạn bát thiên trưởng giả tử câu. Ư thần triêu thời, thừa Phật thần lực, tự Chiêm Bà thành phát lai, nhập thử Ca Lan Đà viên, chí Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時,瞻婆城有一長者子,名曰星藏,爲衆上首,亦與二萬八千長者子俱。於晨朝時,承佛神力,自瞻婆城發來,入此迦蘭陀園,至世尊所,恭敬合掌,頂禮佛足,退坐一面。
(Kinh: Lúc bấy giờ, nơi thành Chiêm Bà[18] có một vị trưởng giả[19], tên là Tinh Tạng, là thượng thủ của đại chúng, cũng cùng với hai vạn tám ngàn các vị trưởng giả, vào lúc sáng sớm, nương thần lực của đức Phật, đều phát xuất từ thành Chiêm Bà ra đi, vào vườn Ca Lan Đà này, đến chỗ đức Thế Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía).
Từ văn tự, chúng ta có thể thấy từ tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, chủng tánh Sát-lợi, các vị trưởng giả v.v… không ai chẳng nương vào oai thần của đức Phật. Do nương vào sức oai thần của đức Phật, cho nên tụ tập nơi đây.
(Kinh) Nhĩ thời, phục hữu nhất Ma Na Bà (Tùy ngôn Tịnh Trì, diệc vân Thiếu Niên, diệc vân Nhân Đồng Tử đẳng), danh Na La Đạt Đa, vi chúng thượng thủ, diệc dữ nhị vạn bát thiên nhân câu, ư thần triêu thời, tự bổn trụ xứ phát lai, nhập thử Ca Lan Đà viên, nghệ Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時,復有一摩那婆(隋言淨持,亦云少年,亦云仁童子等),名那羅達多,爲衆上首,亦與二萬八千人俱,於晨朝時,自本住處發來,入此迦蘭陀園,詣世尊所,恭敬合掌,頂禮佛足,退坐一面。
(Kinh: Lúc bấy giờ, lại có một Ma Na Bà (tiếng đời Tùy (tiếng Hán) dịch là Tịnh Trì, cũng dịch là Thiếu Niên, còn dịch là Nhân Đồng Tử (bé trai có lòng nhân) v.v…) tên là Na La Đạt Đa làm thượng thủ của đại chúng, cũng cùng với hai vạn tám ngàn người, vào lúc sáng sớm, từ chỗ mình ở ra đi, vào vườn Ca Lan Đà này, đến chỗ đức Thế Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía).
Ma Na Bà (Mānavaka) tức là thiếu niên học đạo.
(Kinh) Nhĩ thời, Xá Vệ quốc, phục hữu trưởng giả, danh Đại Thiện Thương Chủ, tịnh bỉ Cấp Cô Độc trưởng giả, vi chúng thượng thủ, diệc dữ nhị vạn bát thiên nhân câu, tự bỉ Xá Vệ quốc, nghệ Vương Xá thành, nhập Ca Lan Đà viên, chí Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện. Nhĩ thời, Vương Xá đại thành, phục hữu trưởng giả, danh viết Thủy Thiên, vi tối thượng thủ, diệc dữ nhị vạn bát thiên nhân câu, tùng bổn trụ xứ phát lai, nhập thử Ca Lan Đà viên, nghệ Thế Tôn sở, cung kính hiệp chưởng, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện. Nhĩ thời, Ma Già Đà quốc chủ Vi Đề Hy tử, A Xà Thế vương, diệc dữ bách thiên chư quyến thuộc câu, ư thần triêu thời, diệc lai nhập thử Ca Lan Đà viên, nghệ Thế Tôn sở, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時,舍衛國,復有長者 ,名大善商主 ,並彼給
孤獨長者,爲衆上首,亦與二萬八千人俱,自彼舍衛國,詣王舍城,入迦蘭陀園,至世尊所,恭敬合掌,頂禮佛足,退坐一面。爾時,王舍大城,復有長者,名曰水天,爲最上首,亦與二萬八千人俱,從本住處發來,入此迦蘭陀園,詣世尊所,恭敬合掌,頂禮佛足,退坐一面。爾時,摩伽陀國主韋提希子,阿闍世王,亦與百千諸眷屬俱,於晨朝時,亦來入此迦蘭陀園,詣世尊所,頂禮佛足,退坐一面。
(Kinh: Lúc bấy giờ, nước Xá Vệ lại có trưởng giả tên là Đại Thiện Thương Chủ và trưởng giả Cấp Cô Độc là thượng thủ của đại chúng, cũng cùng với hai vạn tám ngàn người từ nước Xá Vệ đến thành Vương Xá, vào vườn Ca Lan Đà, tới chỗ đức Thế Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía. Lúc bấy giờ, thành lớn Vương Xá lại có trưởng giả, tên là Thủy Thiên, là thượng thủ cao nhất, từ chỗ mình ở, cũng cùng với hai vạn tám ngàn người, phát xuất từ chỗ mình ở ra đi, vào vườn Ca Lan Đà, tới chỗ đức Thế Tôn, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía. Lúc bấy giờ, chúa nước Ma Già Đà là vua A Xà Thế, tức là con của bà Vi Đề Hy, cũng cùng với trăm ngàn quyến thuộc, vào lúc sáng sớm, cũng vào trong vườn Ca Lan Đà này, tới chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía).
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn lấy vua A Xà Thế (Ajātaśatru) làm chủ thể để giảng bộ kinh ấy. Đó cũng là kinh điển y chỉ chủ yếu của Tịnh Độ. Phụ vương của A Xà Thế là vua Tần Bà Sa La (Bimbisāra), mẹ là Vi Đề Hy (Vaidehi). Do vua Tần Bà Sa La tuổi đã rất cao mà chưa có con trai, ngôi vua không có người kế thừa, bèn cầu xin tiên nhân chuyển thế. Tiên nhân nói ba năm sau mới có thể xả báo. Vì thế, vua Tần Bà Sa La dùng các phương pháp ép ông ta đầu thai. Do vậy, lúc chưa sanh ra, tiên nhân đã kết oán với vua Tần Bà Sa La, cho nên gọi là Vị Sanh Oán (未生怨, oán thù từ lúc chưa sanh ra). Sau đó, tiên nhân xả thân đầu thai, do oán hận mà sanh làm A Xà Thế: “Ngươi bắt bớ, giết hại ta; ta cũng bắt bớ, giết hại ngươi”. Do vậy, sau đó, bèn giam cầm vua Tần Bà Sa La trong bảy tầng lao ngục, tạo tội giết cha. A Xà Thế bị Đề Bà Đạt Đa cổ vũ, mê hoặc, bèn giết cha để làm tân vương, còn Đề Bà Đạt Đa thì hại Phật để làm tân Phật. Do nghịch hạnh, họ gặp rất nhiều quả báo ác khổ. Sau đó, A Xà Thế chân thành sám hối, vâng giữ lời dạy của đức Thế Tôn, trở thành người hộ pháp cho cuộc kết tập kinh điển của năm trăm vị A La Hán.
Trong phần trên, [kinh văn] đã nhắc tới tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni v.v… Vì sao chẳng nói tới Ưu-bà-di? Đây là phong tục tập quán của Ấn Độ, có khi nói tới Ưu-bà-tắc, sẽ tỉnh lược chẳng nhắc tới Ưu-bà-di. Từ kinh văn, chúng ta có thể thấy, tánh chất phân chia chủng tộc của Ấn Độ mười phần rõ ràng, họ theo thứ tự, từ các nơi tụ tập, đến chỗ đức Thế Tôn. Tới đây, các loại hữu tình nhân loại đã nhóm họp xong.
(Kinh) Nhĩ thời, phục hữu Tứ Đại Thiên Vương, cập Thiên Đế Thích, nãi chí Dục Giới nhất thiết thiên chúng, các dữ vô lượng bách thiên ức na-do-tha quyến thuộc thiên chúng câu, diệc ư thần triêu, tất lai nhập Ca Lan Đà viên, chí Như Lai sở, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時,復有四大天王,及天帝釋,乃至欲界一切天衆,各與無量百千億那由他眷屬天衆俱,亦於晨朝,悉來入迦蘭陀園,至如來所,頂禮佛足,退坐一面。
(Kinh: Lúc bấy giờ, lại có Tứ Đại Thiên Vương và Thiên Đế Thích, cho đến hết thảy thiên chúng trong Dục Giới, mỗi vị cùng với vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha quyến thuộc thiên chúng, cũng vào lúc sáng sớm, đều đi vào vườn Ca Lan Đà, tới chỗ Như Lai, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một bên).
“Nãi chí Dục Giới nhất thiết thiên chúng” (Cho đến hết thảy thiên chúng thuộc Dục Giới): Trong phần trước là nhân loại hữu tình, sau đó là chư thiên. Vì kinh Đại Tập bao gồm các vị đại Bồ Tát thuộc Sắc Giới và Dục Giới, đối với loại hữu tình ấy mà tuyên nói kinh điển. Từ Tứ Đại Thiên Vương cho đến Tha Hóa Tự Tại Thiên, hữu tình trong một tiểu thiên thế giới đều vân tập một chỗ. Tứ Đại Thiên Vương và Thiên Đế Thích thuộc loại Địa Cư Thiên, Ma Tây La thiên cung là Đâu Suất Thiên, cho đến Tha Hóa Tự Tại Thiên, đều là Dục Giới Thiên, từng tầng lên cao hơn, là các tầng trời thuộc về Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền.
“Vô lượng bách thiên ức na-do-tha quyến thuộc thiên chúng”: Con số này chẳng phải là số lượng nhân loại [tới tham dự pháp hội].
“Chí Như Lai sở, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện” (Đến chỗ Như Lai, đảnh lễ dưới chân Phật, lui qua ngồi một phía): Chư thiên lui qua ngồi một phía và xếp đặt tòa ngồi, có thể là khác biệt rất lớn với nhân loại chúng ta. Vì chư thiên là sắc thân vi tế, mầu nhiệm, mỗi vị đều có quang tướng. Sắc thân của chúng ta là cái thân Tứ Đại do ăn uống tạo thành, còn gọi là thân Ngũ Uẩn, là thân thô nặng. Thân thô trọng bèn có tòa ngồi thô nặng.
(Kinh) Nhĩ thời, phục hữu Sa Bà thế giới chủ Đại Phạm thiên vương, diệc dữ vô lượng bách thiên ức na-do-tha quyến thuộc thiên chúng câu, ư thần triêu thời, tất nhập Ca Lan Đà viên, chí Như Lai sở, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時,復有娑婆世界主大梵天王,亦與無量百千億那由他眷屬天衆俱,於晨朝時,悉入迦蘭陀園,至如來所,頂禮佛足,退坐一面。
(Kinh: Lúc bấy giờ, lại có chủ của thế giới Sa Bà là Đại Phạm thiên vương, cùng với vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha quyến thuộc thiên chúng, vào lúc sáng sớm, đều vào vườn Ca Lan Đà, tới chỗ đức Như Lai, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía).
Thế giới Sa Bà là một tam thiên đại thiên thế giới ứng hóa của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Chủ của thế giới Sa Bà là Đại Phạm thiên vương, khác biệt với địa vị Trụ Trì Pháp Vương của Phật Thích Ca. Đối với các danh từ ấy, chúng tôi thật sự rất khó có thời gian đầy đủ để trình bày, chúng ta học tập kinh Ban Châu Tam Muội không nhằm giải thích danh từ. Do vậy, đối với danh từ, danh tướng thông thường, sẽ chẳng giải thích quá nhiều, mọi người có thể tìm các tài liệu tương ứng để tiếp tục học tập. Chúng tôi muốn trình bày tư tưởng chủ thể của kinh Ban Châu Tam Muội để mọi người học tập, khiến cho mọi người trong khi tu tập pháp Ban Châu sẽ có sự gia trì tăng thượng và hướng dẫn rõ ràng hơn. Như thế thì sẽ chẳng đánh mất mục đích học tập kinh Ban Châu Tam Muội của chúng ta. Giải thích danh từ quá nhiều sẽ tốn thời gian. Do vậy, ở đây, tôi chỉ nói lướt qua.
(Kinh) Nhĩ thời, phục hữu Đại Tự Tại thiên vương, diệc dữ vô lượng bách thiên Tịnh Cư chư thiên chúng câu, ư thần triêu thời, tất nhập Ca Lan Đà viên, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện. Nhĩ thời, phục hữu tứ A Tu La vương, các dữ vô lượng bách thiên quyến thuộc A Tu La chúng câu, diệc ư thần triêu, nhập Ca Lan Đà viên, nghệ Như Lai sở, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện. Nhĩ thời, phục hữu Nan Đà long vương, cập Bạt Nan Đà long vương, các dữ vô lượng bách thiên quyến thuộc chư long chúng câu, diệc ư thần triêu, nhập Ca Lan Đà viên, nghệ Như Lai sở, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
(經)爾時,復有大自在天王,亦與無量百千淨居諸天衆俱,於晨朝時,悉入迦蘭陀園,頂禮佛足,退坐一面。爾時,復有四阿修羅王,各與無量百千眷屬阿修羅衆俱,亦於晨朝,入迦蘭陀園,詣如來所,頂禮佛足,退坐一面。爾時,復有難陀龍王,及跋難陀龍王,各與無量百千眷屬諸龍衆俱,亦於晨朝,入迦蘭陀園,詣如來所,頂禮佛足,退坐一面。
(Kinh: Lúc bấy giờ, lại có Đại Tự Tại thiên vương, cũng cùng với vô lượng trăm ngàn các Tịnh Cư thiên chúng, vào lúc sáng sớm, đều vào vườn Ca Lan Đà, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một bên. Lúc bấy giờ, lại có bốn A Tu La vương, mỗi vị cùng với vô lượng trăm ngàn quyến thuộc A Tu La chúng, cũng vào sáng sớm, vào vườn Ca Lan Đà, tới chỗ Như Lai, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía. Lúc bấy giờ, lại có Nan Đà (Nanda) long vương, và Bạt Nan Đà (Upananda) long vương, mỗi vị cùng với vô lượng bách thiên quyến thuộc các long chúng cũng vào sáng sớm, vào vườn Ca Lan Đà, tới chỗ Như Lai, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía).
Đây là một quang cảnh gì vậy? Phàm phu hữu tình phần nhiều chẳng thể thấy được! Chúng ta đều biết khi đức Thế Tôn giảng một số bộ kinh lớn, các vị A La Hán đều như điếc, như đui, như kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã nói. Trong rất nhiều kinh điển Đại Thừa khác cũng giống như thế.
(Kinh) Nhĩ thời, phục hữu Sa Già La long vương, A Na Bà Đạt Đa long vương, cập Ma Na Tư long vương, Y Bạt La long vương đẳng, các dữ vô lượng bách thiên quyến thuộc chư long chúng câu, diệc ư thần triêu, nhập Ca Lan Đà viên, nghệ Như Lai sở, đảnh lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện. Nhĩ thời, thử tam thiên đại thiên thế giới, nhất thiết chư tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cập dĩ nhất thiết thiên, long, dạ-xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nãi chí nhân phi nhân, cập chư vương đẳng, tín Như Lai giả, vị thính pháp cố, nhất thiết giai tập Ca Lan Đà viên, nghệ Như Lai sở, đảnh lễ Phật túc, các tọa nhất diện.
(經)爾時,復有娑伽羅龍王,阿那婆達多龍王,及摩那斯龍王,伊跋羅龍王等,各與無量百千眷屬諸龍衆俱,亦於晨朝,入迦蘭陀園,詣如來所,頂禮佛足,退坐一面。爾時,此三千大千世界,一切諸比丘、比丘尼、優婆塞、優婆夷,及以一切天、龍、夜叉、乾闥婆、阿修羅、迦樓羅、緊那羅、摩睺羅伽,乃至人非人,及諸王等,信如來者,爲聽法故,一切皆集迦蘭陀園,詣如來所,頂禮佛足,各坐一面。
(Kinh: Lúc bấy giờ, lại có Sa Già La (Sāgara) long vương, A Na Bà Đạt Đa (Anavatapta) long vương, và Ma Na Tư (Manasa) long vương, Y Bạt La (Erāpattra) long vương v.v… mỗi vị đều cùng với vô lượng trăm ngàn quyến thuộc các long chúng, cũng vào sáng sớm, vào vườn Ca Lan Đà, tới chỗ đức Như Lai, đảnh lễ dưới chân đức Phật, lui qua ngồi một phía. Lúc bấy giờ, trong tam thiên đại thiên thế giới này, hết thảy các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng với hết thảy trời, rồng, dạ-xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, cho đến hàng nhân phi nhân và các vị vua, là những kẻ tin Như Lai, vì nghe pháp mà hết thảy đều tu tập nơi vườn Ca Lan Đà, tới chỗ Như Lai, đảnh lễ dưới chân đức Phật, mỗi người ngồi một phía).
Giới thiệu mười phần rõ ràng, thứ tự cũng mười phần rõ rệt, hết thảy đều là “tín Như Lai giả, vị thính pháp cố” (người tin Như Lai vì nghe pháp) mà vân tập ở nơi đây.
(Kinh) Nhĩ thời, Ca Lan Đà viên, kỳ địa hoằng quảng.
(經)爾時,迦蘭陀園,其地弘廣。
(Kinh: Khi ấy, cuộc đất trong vườn Ca Lan Đà rộng lớn).
Giống như cái thất vuông vức một trượng của ngài Duy Ma Cật có thể chứa đựng vô lượng hữu tình.
(Kinh) Như thử tam thiên đại thiên thế giới, sở hữu địa phương, đại chúng sung mãn, vô không khuyết xứ.
(經)如此三千大千世界,所有地方,大衆充滿,無空缺處。
(Kinh: Tất cả mọi nơi trong tam thiên đại thiên thế giới như thế, tràn ngập đại chúng, chẳng có chỗ nào hở trống).
Đây đều là do oai đức của Thế Tôn biến hiện. Do sức phước đức và sức oai thần của đức Thế Tôn trọn đủ, tràn trề, Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng đều chân thật, chẳng dối. Cho nên chẳng có chỗ nào hở trống!
(Kinh) Nhược trượng đầu hứa, nhi bất biến giả.
(經)若杖頭許,而不遍者。
(Kinh: Như bằng đầu gậy mà chẳng trọn khắp).
Cũng có nghĩa là ngay cả chỗ để cắm một cây gậy cũng chẳng có. Do quang minh oai đức thiện xảo, công đức oai thần thiện xảo, và phước huệ trọn đủ thiện xảo của đức Thế Tôn có thể khiến cho chúng sanh hướng tới, khát vọng vân tập về nơi đây!
(Kinh) Như thị thượng chí Hữu Đảnh, hạ đãi Phạm cung, sở hữu nhất thiết đại oai đức thần thông chư thiên đại chúng, nãi chí nhất thiết chư long, dạ-xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, giai lai tập hội.
(經)如是上至有頂,下逮梵宮,所有一切大威德神通諸天大衆,乃至一切諸龍、夜叉、乾闥婆、阿修羅、迦樓羅、緊那羅、摩睺羅伽、人非人等,皆來集會。
(Kinh: Như thế thì từ trên là tới trời Hữu Đảnh[20], dưới tới cung Phạm Thiên, tất cả hết thảy các đại chúng chư thiên có oai đức thần thông, cho đến hết thảy các rồng, dạ-xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… đều tới tụ tập).
Trên đây là bộ phận Tự Phần của kinh này, đều nhằm cho chúng ta thấy sự vân tập của đại hội: Đấng thuyết pháp chủ là Thích Ca Mâu Ni Phật đã dùng oai quang nhiếp thọ trọn khắp mười phương hữu tình, từ tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cho đến các vua Sát-lợi, các vị trưởng giả, vua rồng, thiên long bát bộ, cho đến Tứ Thiên, Đao Lợi Thiên, Phạm Thiên v.v… hết thảy những vị có oai đức thiện xảo, hết thảy những ai được cảm ứng, tin pháp, hướng về pháp, đều cùng đến tụ tập.
(Kinh) Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng hướng Phật, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngã ư kim giả, dục đắc tư vấn Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, tâm trung sở nghi, bất thẩm Thế Tôn, kiến thùy thính phủ?” Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: “Hiền Hộ! Như Lai Thế Tôn tùy nhữ sở nghi, tứ nhữ sở vấn, vị nhữ tuyên thích, linh nhữ hoan hỷ”. Thời, bỉ Hiền Hộ Bồ Tát, ký mông thính hứa, phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc thành tựu hà đẳng tam-muội, nhi năng đắc bỉ đại công đức tụ?”
(經)爾時,賢護菩薩摩訶薩即從座起,偏袒右肩,右膝著地,合掌向佛,白佛言:「世尊!我於今者,欲得諮問如來,應供,等正覺,心中所疑,不審世尊,見垂聽不?」爾時,世尊復告賢護菩薩言:「賢護!如來世尊隨汝所疑,恣汝所問,爲汝宣釋,令汝歡喜」。時,彼賢護菩薩,既蒙聽許,復白佛言:「世尊!菩薩摩訶薩具足成就何等三昧,而能得彼大功德聚?」
(Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay hướng về đức Phật, bạch cùng Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nay muốn thưa hỏi đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác điều nghi trong tâm, chẳng rõ đức Thế Tôn có rủ lòng chấp thuận hay không?” Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: “Này Hiền Hộ! Như Lai Thế Tôn thuận theo lòng nghi của ông mà cho phép ông hỏi, ta sẽ vì ông tuyên nói, giải thích, khiến cho ông hoan hỷ”. Lúc đó, Hiền Hộ Bồ Tát đã được chấp thuận, lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu đầy đủ các môn tam-muội như thế nào mà đạt được khối công đức to lớn?”)
Sau đây, Hiền Hộ Bồ Tát sẽ nêu ra một trăm hai mươi hai điều “vân hà” (như thế nào) để hỏi. Một trăm hai mươi hai câu hỏi ấy đều là các thắc mắc chi tiết về tác dụng của hết thảy các pháp thuộc về thiện xảo, thần thông, công đức, trí huệ và phương tiện v.v… trong Phật pháp, nhằm chỉ dạy chúng ta theo từng góc độ: Hành Ban Châu sẽ có thể đạt được lợi ích như thế nào? Tam-muội Thập Phương Châu Phật Tất Giai Hiện Tiền (Ban Châu tam-muội) vì sao lại gọi là “vua của hết thảy các tam-muội?” Vì sao có công đức và lợi ích thù thắng nhiều ngần ấy? Hiền Hộ Bồ Tát thay mặt cho hết thảy các chúng sanh muốn tu tập Phật pháp, muốn thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề mà khải vấn, vì muốn cho các hữu tình thiện căn đã chín muồi do nghe pháp sẽ siêng năng tu hành, chứng đạo mà khải vấn, vì tạo cơ sở khơi gợi cho các hữu tình thiện căn chưa chín muồi sẽ hướng tới thiện căn chín muồi, mà nêu ra một trăm hai mươi hai tướng công đức ấy. Trong bản dịch kinh Phật Thuyết Ban Châu Tam Muội chỉ gồm một quyển [trong ba loại bản dịch của kinh này] có nhắc đến hai mươi mốt công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, cũng chính là từ hai mươi mốt khía cạnh mà nêu ra câu hỏi. Ở đây, kinh này nêu ra một trăm hai mươi hai vấn đề, cũng chính là từ một trăm hai mươi hai khía cạnh để nêu bày thực chất của công đức và lợi ích do hành pháp Ban Châu quả thật chẳng thể nghĩ bàn!
“Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên” (Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát Ma Ha Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải), đấy là phong tục tập quán của người Ấn Độ. Người xuất gia lẫn tại gia đều khoác một tấm khăn choàng to. Trang phục dân tộc hiện tại của người Ấn Độ vẫn còn sử dụng khăn choàng, rất thực dụng, có thể sử dụng làm mền, làm vải bạt căng lều, có thể ngăn gió lạnh, tro bụi, sâu bọ v.v… rất nhiều tác dụng! “Thiên đản hữu kiên” (Trật vai áo phải) cũng là một phong tục tập quán nhằm biểu đạt lòng tôn trọng. “Hữu tất trước địa” (Gối phải chấm đất) chính là quỳ một gối xuống. Tức là trong lúc hỏi pháp, bèn trật vai áo phải, quỳ xuống, hai đầu gối hoặc một đầu gối ép sát đất, thưa hỏi đức Phật. Thông thường, chúng ta hỏi pháp bèn hai đầu gối đều đặt sát đất, vì Ngài là bậc đại Bồ Tát, hiện phương tiện để kết duyên. Phương thức lễ kính của chúng ta trong hiện thời phần nhiều từ Ấn Độ truyền qua, tức là phương thức lễ [đầu diện] tiếp túc.
“Hiệp chưởng hướng Phật, bạch Phật ngôn: – Thế Tôn! Ngã ư kim giả, dục đắc tư vấn Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, tâm trung sở nghi, bất thẩm Thế Tôn, kiến thùy thính phủ?” (Chắp tay hướng về đức Phật, bạch cùng Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nay muốn thưa hỏi đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác điều nghi trong tâm, chẳng rõ đức Thế Tôn có rủ lòng chấp thuận hay không?”): Con muốn nêu câu hỏi, đức Thế Tôn có chấp thuận trả lời cho con hay không?
“Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: – Hiền Hộ! Như Lai Thế Tôn tùy nhữ sở nghi, tứ nhữ sở vấn, vị nhữ tuyên thích, linh nhữ hoan hỷ” (Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: – Này Hiền Hộ! Như Lai Thế Tôn thuận theo lòng nghi của ông mà cho phép ông hỏi, ta sẽ vì ông tuyên nói, giải thích, khiến cho ông hoan hỷ): Chẳng phải là đức Thế Tôn không cho bọn phàm phu hữu tình chúng ta sanh nghi. Tham, sân, si, mạn, nghi là chuyện thuộc bổn phận của phàm phu. Chư Phật Như Lai hiểu biết, có thể biết, đã biết, nhưng chúng sanh vẫn kéo dài sanh mạng trong tham, sân, si, mạn, nghi. Một trăm hai mươi hai câu hỏi thật ra nhằm giải đáp về nội hàm thực chất của công đức trong hành pháp này, trực tiếp tuyên nói, giải thích, khiến cho chúng ta phải nên chú ý tới khía cạnh nào, hãy nên đạt được lợi ích như thế nào?
“Thời, bỉ Hiền Hộ Bồ Tát ký mông thính hứa” (Lúc đó, Hiền Hộ Bồ Tát đã được chấp thuận): Đức Thế Tôn đã cho phép Bồ Tát thưa hỏi. “Phục bạch Phật ngôn: – Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát cụ túc thành tựu hà đẳng tam-muội, nhi năng đắc bỉ đại công đức tụ?” (Lại bạch cùng đức Phật rằng: – Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu đầy đủ các môn tam-muội như thế nào mà đạt được khối công đức to lớn?”): Do vậy có thể biết, hành pháp Ban Châu, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội là khối công đức to lớn. Trước kia, chúng tôi chuẩn bị tạo một cái ao phóng sanh ở trước sơn môn, đặt tên là Đức Tụ (德聚), tức là lấy ý từ kinh này, có nghĩa là “đạo đức tụ tập, công đức tụ tập, phước đức tụ tập, pháp tắc chân thật tụ tập, khiến cho hữu tình trong thế gian có thể thọ dụng”.
Phần sau bắt đầu bằng một trăm hai mươi hai câu hỏi chính là Phát Khởi Tự Phần. Kinh này thông qua Chánh Tự Phần trong phần trước và Phát Khởi Tự Phần trong phần này, dẫn đến nội dung lời đáp của đức Thế Tôn trong Chánh Tông Phần, sẽ khiến cho chúng ta thật sự liễu giải nội dung của Ban Châu và công đức chân thật của hành pháp Ban Châu, hòng khích lệ những kẻ thiện căn chưa chín muồi được nghe pháp tắc này, [cũng như] khích lệ người thiện căn đã chín muồi đích thân tu tập pháp tắc này, khích lệ những người thiện căn đã chín muồi đích thân chứng đắc pháp tắc này, khích lệ những người thiện căn đã chín muồi sau khi đã đích thân chứng đắc sẽ truyền bá pháp này, khích lệ những người thiện căn chín muồi do biết rõ pháp tắc này, sẽ cùng nhau trao đổi, thủ hộ, an trụ trong pháp tắc này. Những người ấy đều chẳng lìa khỏi lời dạy của đức Thế Tôn, chẳng lìa khỏi sự khải giáo đúng như lý của Hiền Hộ Bồ Tát. Hữu tình thời Mạt Pháp khó thể khải giáo đúng lý, vì lẽ nào? Do chẳng biết phương tiện để khải giáo (khải thỉnh đức Thế Tôn truyền dạy giáo pháp), do chẳng có thiện xảo để khải giáo. Vì thế, trong Trúc Lâm Tinh Xá (Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá), Hiền Hộ Bồ Tát thay cho chúng ta nêu ra nghi vấn về một trăm hai mươi hai phương diện, để đức Thế Tôn sẽ giải đáp viên mãn, đối với nội dung của khối công đức to lớn đều nhất nhất nêu bày. Đọc một lượt một trăm hai mươi hai câu hỏi này, chúng ta biết tâm trí Bồ Tát chu đáo, cẩn mật, tường tận, cẩn trọng cỡ nào, hòng tiêu trừ các nghi hoặc và giải trừ nỗi mơ hồ đối với pháp nghĩa trong tâm chúng ta.
(Kinh) Vân hà đắc nhập đa văn đại hải, hoạch trí huệ tạng, vấn vô nghi hoặc cố?
(經)云何得入多聞大海,獲智慧藏,問無疑惑故?
(Kinh: Làm thế nào để vào biển cả đa văn, đạt được kho trí huệ, hỏi han chẳng nghi hoặc?)
Đại trí huệ rốt ráo lấy mãi chẳng tận, dùng chẳng cạn. Nếu gặp lúc kẻ khác có nghi vấn, sẽ có thể giải đáp, khéo léo trừ nghi, cho nên nói “đa văn đại hải” trọn đủ phương tiện trí huệ, khiến cho hữu tình có nghi hoặc sẽ tiêu trừ hết thảy nghi hoặc, nhập Vô Ngại Trí. Câu hỏi thứ nhất chính là làm theo cách nào thì mới có thể vào trong biển đại trí huệ, tức là biển cả đa văn? Cũng là hỏi hành pháp như thế nào thì mới có thể sanh khởi đại trí huệ, trừ nghi hoặc cho hết thảy chúng sanh, đạt được phương tiện vô thượng đối với hết thảy chúng sanh?
[1] Chùa này có tên gọi đầy đủ là Hoa Thủ Phóng Quang Tự, ở núi Kê Túc, thành phố Đại Lý, tỉnh Vân Nam. Chùa Phóng Quang ở ngay dưới chân Hoa Thủ Môn (nơi tương truyền là cửa vào hang ngồi Thiền của tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Trước khi đức Phật nhập Niết Bàn, đã trao y ca-sa cho ngài Ma Ha Ca Diếp lưu giữ để giao lại cho Phật Di Lặc. Sau khi trà-tỳ di thể của đức Phật và kết tập Tam Tạng xong, ngài Ca Diếp đã phó pháp cho tôn giả A Nan rồi vào hang đá tại núi Kê Túc nhập Định). Chùa này do thiền sư Vô Cùng khai sơn trong niên hiệu Gia Tĩnh nhà Minh, sau đó, cư sĩ Lý Nguyên Dương xuất tiền xây dựng thành một đạo tràng lớn. Tới cuối đời Thanh, do chiến tranh loạn lạc, chùa hoang tàn đổ nát thành vùng đất cỏ tranh gai góc. Năm 1997, pháp sư Từ Pháp dẫn năm vị Tăng đến đây dọn dẹp gai góc trên nền cũ, dựng lều tranh, trùng kiến chùa Phóng Quang, biến thành một đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ.
[2] Tuy có bảy bản dịch, nhưng chỉ có hai bản dịch hoàn chỉnh và một bản dịch thất truyền. Theo mục lục kinh điển hiện thời, hãy còn giữ lại được các bản như sau:
1. Phật Thuyết Ban Châu Tam Muội Kinh (còn gọi là Thập Phương Hiện Tại Phật Tất Tại Tiền Lập Định Kinh), do các vị Trúc Sóc Phật và Chi Lâu Ca Sấm dịch vào năm Quang Hòa thứ hai (179) thời Hán Linh Đế, thị giả Mạnh Phước và Trương Liên làm bút thọ.
2. Đại Tập Hiền Hộ Phần (còn gọi là Hiền Hộ Bồ Tát Kinh) do ngài Xà Na Quật Đa và Cấp Đa dịch vào Khai Hoàng thứ tư (594) nhà Tùy tại chùa Đại Hưng Thiện, các vị như sa-môn Minh Phân v.v… làm bút thọ.
3. Ban Châu Tam Muội Kinh gồm một quyển, cũng do ngài Chi Lâu Ca Sấm dịch (theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục), nhưng có thuyết nói là do ngài Trúc Pháp Hộ dịch. Bản này là bản dịch khác của bản đầu tiên, nhưng tàn khuyết.
4. Bạt Bà Bồ Tát Kinh (còn gọi là Bạt Bả Đa Bồ Tát Kinh), không rõ tên người dịch, chỉ gồm bốn phẩm đầu của kinh Ban Châu Tam Muội.
5. Ban Châu Tam Muội Kinh do Trúc Pháp Hộ dịch, bị tàn khuyết.
6. Ban Châu Tam Muội Niệm Phật Chương Kinh một quyển, chỉ là bản dịch khác của phẩm Hành trong kinh Ban Châu Tam Muội, không rõ tên người dịch.
[3] Tích Sa Tạng là Đại Tạng Kinh được khắc vào cuối đời Nam Tống tại Diên Thánh Viện thuộc Tích Sa châu, phủ Bình Giang (nay là khu Ngô Trung thuộc tỉnh Giang Tô). Các nhà nghiên cứu ước đoán tạng kinh này được bắt đầu khắc ván trong niên hiệu Bảo Khánh (1225-1227) thời Tống Lý Tông, nhưng mãi cho đến năm Chí Trị (1322) đời Nguyên Anh Tông mới hoàn tất, gồm 1.532 bản kinh.
Long Tạng là Càn Long Đại Tạng Kinh, còn gọi là Thanh Tạng, do triều đình nhà Thanh chủ trì khắc in vào năm Ung Chánh 13 (1735). Tạng kinh này do các vị Hòa Thạc Trang Thân Vương Doãn Lộc, Hòa Thạc Hòa Thân Vương Hoằng Thư, và trụ trì chùa Hiền Lương là pháp sư Siêu Thịnh chủ trì biên tập, giảo chánh. Mãi cho đến năm Càn Long thứ ba (1738) mới xong, gồm 1.669 bộ kinh, chia thành 7.168 quyển. Tạng kinh này chủ yếu dựa theo Vĩnh Lạc Bắc Tạng đời Minh. Hiện thời, tạng kinh này được sử dụng phổ biến tại Trung Hoa hơn Đại Chánh Tạng. Đại Tạng Kinh do hòa thượng Tịnh Không ấn hành và biếu tặng các trường đại học, viện nghiên cứu, và tự viện các nơi trên thế giới đều là Long Tạng.
Tần Già Tạng là Đại Tạng Kinh được in vào cuối đời Thanh đầu thời Dân Quốc do Tần Già Tinh Xá ấn hành, xuất bản vào năm Tuyên Thống nguyên niên (1919), gồm 1.916 bộ kinh, chia thành 413 tập. Tạng kinh này dựa theo bản in của Hoằng Giáo Tạng của Nhật Bản, đối chiếu với các bản Tư Phước Tạng, Phổ Ninh Tạng, Gia Hưng Tạng, Long Tạng, và Cao Ly Tạng, nhưng lược bỏ các trước tác của người Nhật. Tạng kinh này có khuyết điểm giảo chánh không tinh tường, bị sai ngoa nhiều chỗ, cho nên chỉ có giá trị tham khảo, không được phổ biến rộng rãi.
Tự Tạng chính là Vạn Chánh Tạng Kinh (tên gọi đầy đủ là Đại Nhật Bản Giảo Đính Huấn Điểm Đại Tạng Kinh), còn gọi là Nhật Bản Tàng Kinh Thư Viện Đại Tạng Kinh, hay Vạn Đại Tạng Kinh, do Đông Đô Tàng Kinh Thư Viện biên tập và ấn hành từ năm 1902-1905, gồm 1.625 bộ kinh được tuyển chọn trên cơ sở Cao Ly Tạng và Vĩnh Lạc Bắc Tạng. Về sau, các vị chủ biên của tạng kinh này như Tiền Điền Huệ Vân (Maeda Eun) và Trung Dã Đạt Huệ (Nakano Tatsue) lại sưu tập các bộ kinh sách và trước tác chưa được thâu nhập vào Vạn Chánh Tạng, tạo thành bộ Vạn Tự Tục Tạng Kinh.
Đại Chánh Tạng có tên gọi đầy đủ là Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Cao Nam Thuận Thứ Lang (Takakusu Junjiro) và Độ Biên Hải Húc (Watanabe Kaikyoku) chủ biên, Tiểu Dã Huyền Diệu (Ono Genmyō) giảo khám từ năm 1924 đến năm 1934 mới hoàn thành. Tạng kinh này được coi là Đại Tạng Kinh đầy đủ nhất vì đã dựa trên nhiều bản Đại Tạng trước đó như Thục Tạng, Cao Ly Tạng, Liêu Tạng, Khiết Đan Tạng, Hồ Châu Tạng, Phổ Ninh Tạng, Kính Sơn Tạng v.v… chia thành 100 tập, bao gồm 5.320 bộ kinh sách, cũng như có nhiều trước tác của Nhật Bản mà các tạng kinh khác không có. Tuy thế, các vị giảng sư Trung Hoa thường chê cách chấm câu trong tạng kinh này không hợp lý, cũng như có một số bản kinh bị lược bớt một số chi tiết, và nhất là Đại Chánh Tạng có khá nhiều trước tác của người Nhật chứa đựng quan điểm thiên kiến, đả kích các tông phái khác nặng nề của Nhật Liên Tông.
Chúng tôi không tìm được thông tin về Trung Hoa Tạng.
[4] Ý nói theo thứ tự tu tập các pháp môn tự lực.
[5] Hằng Dương Am là hạ viện của chùa Hoa Thủ Phóng Quang tại núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam. Hiện thời, Hằng Dương Am thường được gọi là Hoa Thủ Phóng Quang Tự Tịnh Độ Viện. Vị trí ở trên núi Kê Túc cao hơn mặt biển khoảng 2.400 m. Hằng Dương Am là đạo tràng Ban Châu, chúng thường trụ luân phiên hành pháp Ban Châu suốt ngày đêm, thủ hộ suốt năm liên tục chẳng đoạn. Cho tới thời gian giảng kinh lần này, tức tháng Tám năm 2006, chúng thường trụ trong đạo tràng đã tu hành pháp này một năm rưỡi chẳng gián đoạn (chú thích của người biên tập lời giảng).
[6] Đại Tập Bộ là danh xưng được đặt ra bởi sách Khai Nguyên Thích Giáo Lục để chỉ các kinh không thuộc hệ thống A Hàm, Hoa Nghiêm, Bát Nhã, và Pháp Hoa. Trong bộ Duyệt Tạng Tri Tân, ngài Ngẫu Ích đổi thành danh xưng Phương Đẳng Bộ. Đại Tập Bộ bao gồm hai bộ kinh lớn là Đại Tập Kinh và kinh Đại Bảo Tích, cũng như các kinh nhỏ khác như kinh Đại Ai, kinh Bảo Nữ Sở Vấn, kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, kinh Bảo Tinh Đà La Ni, kinh Đại Tập Đại Hư Không Tạng Bồ Tát Sở Vấn, kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân… Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh lại tách các kinh thuộc loại này thành ra hai bộ là Bảo Tích Bộ và Đại Tập Bộ.
[7] Đại Tập Kinh (Mahāsaṃnipāta Sūtra) còn gọi là Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh, bao gồm nhiều bộ kinh nhỏ. Mỗi bộ kinh ấy được gọi là Phần, như bản kinh chúng ta đang học được gọi là Hiền Hộ Phần. Nội dung của kinh Đại Tập rất rộng, lấy Trung Quán và Thật Tướng làm tông chỉ. Kinh này gồm sáu mươi quyển. Theo ngài Xà Na Quật Đa, nguyên bản tiếng Phạn có đến mười vạn bài kệ (một kệ là bốn câu không phân biệt dài ngắn), nếu dịch ra toàn bộ, sẽ thành ba trăm quyển. Bản đầu tiên của Đại Tập Kinh là ngài Đàm Vô Sấm (Dharmarasksha) mang đến Tây Kinh Châu dưới thời Tấn An Đế, được Hà Tây Vương là Thư Cừ Mông Tốn dịch sang tiếng Hán, gồm hai mươi chín quyển. Sau đó, ngài Na Liên Đề Da Xá (Narendrayaśas) dịch thêm hai bộ Nguyệt Tạng Kinh (mười hai quyển) và Nhật Tạng Kinh (mười lăm quyển). Sau đó, lại có các vị Đạt Ma Cấp Đa dịch thêm Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Phần, ngài Xà Na Quật Đa dịch Hiền Hộ Phần, Ban Châu Tam Muội Kinh, Đại Tập Thí Dụ Vương Kinh, Hư Không Dựng Bồ Tát Kinh, ngài Huyền Trang dịch Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân Kinh, ngài Bất Không dịch Bách Thiên Tụng Đại Tập Kinh Địa Tạng Bồ Tát Thỉnh Vấn Pháp Thân Tán v.v…
[8] Tùy là triều đại tiếp sau thời Nam Bắc Triều, do Tùy Văn Đế (Dương Kiên) sáng lập, tồn tại từ năm 581-605, truyền được hai đời vua, kinh đô là Trường An. Danh xưng của triều đại là do cha của Dương Kiên là Dương Trung từng được nhà Bắc Châu phong là Tùy Quốc Công. Dương Kiên được tập ấm, về sau, được sắc phong thành Tùy Vương, cai quản mười hai quận. Tuy tồn tại không lâu, nhà Tùy đã có công thống nhất Trung Hoa sau một thời gian dài bị phân hóa do Ngũ Hồ (năm sắc dân du mục ở phía Bắc và phía Tây Trung Hoa) xâm lấn Trung Nguyên, lập ra nhiều triều đại (tức thời Nam Bắc Triều), liên tục gây chiến, tiêu diệt lẫn nhau. Nhà Tùy đã có những cải cách nâng cao sản lượng nông nghiệp, hoàn thành hệ thống quản trị, thống nhất đúc tiền, tích cực hộ pháp cho Phật pháp, phát triển hệ thống kênh đào khiến cho giao thông thuận tiện hơn. Tuy vậy, do tánh hiếu chiến, Tùy Dượng Đế đã liên tục mở các chiến dịch tốn kém để tấn công Cao Câu Ly (Goguryeo) khiến quốc khố trống rỗng, thuế má nặng nề, dẫn đến các cuộc bạo loạn, tướng lãnh quân phiệt cát cứ, gây nên sự sụp đổ của nhà Tùy. Tùy Dượng Đế bị quyền thần Vũ Văn Hóa Cập bức tử, lập ra nhà Bắc Châu, mở ra một thời kỳ loạn lạc mãi cho đến khi Lý Thế Dân dẹp tan các phe phái, thống nhất Trung Hoa vào năm 626, mở ra thời thịnh trị của nhà Đường.
[9] Nam Chiếu là một vương quốc cổ tồn tại từ năm 738 đến năm 902, gồm hai sắc dân chủ yếu là Ô Man (người Di, hoặc còn gọi là Lolo, hay Nuosuo. Sắc dân này có một số sống tại miền thượng du Bắc Việt, tự xưng là người Lô Lô) và Bạch Man (Baipho). Vương quốc này do thủ lãnh của chiếu Mông Xá là Bì La Các (Khun Borom Rachathirath) sáng lập (Chiếu là danh xưng của một bộ tộc. Thời ấy, họ bao gồm các bộ tộc Mông Xá, Mông Huề, Lãng Khung, Thi Lãng, Việt Tích v.v…), kinh đô là thành Thái Hòa (tức thành phố Đại Lý hiện thời). Thời cực thịnh vương quốc này bao gồm toàn bộ tỉnh Vân Nam, miền Nam Tứ Xuyên, khu vực Tây Nam của Quý Châu, vùng Đông Nam của Tây Tạng, miền Bắc Miến Điện, Bắc Lào, và một phần Bắc Thái Lan cũng như một số vùng đất thuộc biên giới Việt Nam. Tới năm 902, Trịnh Mãi Tự xưng đế, diệt Nam Chiếu, lập ra nước Đại Trường Hòa. Sau đó, Đại Trường Hòa lại bị Đông Châu Tiết Độ Sứ Dương Can Trinh (có sách viết là Dương Can Chân) diệt quốc, tôn Triệu Thiện Chánh làm hoàng đế, lập ra nước Đại Thiên Hưng. Năm sau, Dương Can Trinh phế Triệu Thiện Chánh, tự xưng đế, đổi quốc hiệu là Đại Nghĩa Ninh. Năm 937, Thông Hải Tiết Độ Sứ Đoàn Tư Bình soán ngôi, đổi quốc hiệu là Đại Lý (Dablit Guaif). Đại Lý rất cường thịnh cho đến đời Đoàn Hưng Trí thì Đại Lý diệt vong sau khi tướng Mông Cổ là Ngột Lương Cáp Đài (Uriyanqadai, có khi phiên âm là Ngột Lương Hợp Thai) bắt sống Đoàn Hưng Trí. Dân Nam Chiếu thiện chiến, đã ba lần gây chiến tranh có quy mô lớn với nhà Đường.
[10] Ở đây, pháp sư Từ Pháp nhầm lẫn, Ma Yết Đà (Maghada, Ma Kiệt Đà, Ma Già Đà) là một trong mười sáu đại quốc thời đức Phật, nằm ở Bắc Ấn (vùng Bihar ngày nay) bao gồm các khu Patna, Jehanabad, Nalanda, Aurangabad, Arwal, Nawada và Gaya của Bihar, hoàn toàn không liên quan gì đến địa bàn của Nam Chiếu.
[11] Người Dai (còn gọi là Thái Tộc) là sắc dân thiểu số, chủ yếu sống tại tỉnh Vân Nam, có liên hệ huyết thống rất gần với người Thái tại Lào và Thái Lan, bao gồm nhiều sắc dân như Thái Lặc (Tây Song Bản Nạp, Sibsongpanna), Thái Na (Tai Nua), Thái Đảm (Tai Dam), Thái Bằng (Tay Pong), Thái Đoan (Tai Khao), Thái Nhã (Tai Ya), và Thái Hữu (Tai Yo). Họ theo đạo Phật Nam truyền và chia sẻ rất nhiều đặc điểm văn hóa và ngôn ngữ với người Thái tại Thái Lan và Lào.
[12] Ca Lan Đà Trúc Viên Tinh Xá (Kalaṇḍaka Veṇu-vana, Kāraṇḍa-veṇūvana), còn dịch là Trúc Lâm Tinh Xá, hoặc Đại Lâm Tinh Xá, chính là khu rừng trúc do trưởng giả Ca Lan Đà nước Vương Xá (Rājagṛiha) hiến cúng. Đây là tinh xá đầu tiên được dâng cúng cho Tăng đoàn của đức Phật. Vương Xá là kinh đô của nước Ma Kiệt Đà (Ma Yết Đà, Ma Già Đà, Magadha), nay là thành phố Rajgir. Thời cổ, đại tự viện Nalanda đặt ở đây.
[13] Đây là một vị trưởng lão rất được tôn trọng của Nam truyền Phật giáo, Ngài có pháp danh là Ñāṇasaṃvara, thường được người Thái Lan gọi là Khruba Bonchum, hay Phra Khuva Boonchum. Ngài theo truyền thống Tăng lữ hành Thiền trong rừng (Kammaṭṭhāna, thường gọi là Thai Forest Tradition, sáng lập bởi trưởng lão Ajahn Mun Bdhuridatto vào năm 1900). Ngài thuộc sắc tộc Shan, sanh năm 1965 tại Mae Kham thuộc tỉnh Chiang Rai. Ngài từng được mời tới thuyết pháp cho người Dai tại Vân Nam, nên pháp sư Từ Pháp có dịp gặp gỡ.
[14] Trước khi kết tập kinh điển lần thứ nhất, tôn giả Ma Ha Ca Diếp quở ngài A Nan đã phạm tám điều lầm lỗi:
1. Thỉnh Phật cho phép nữ chúng xuất gia, khiến thời kỳ Chánh Pháp bị giảm mất năm trăm năm.
2. Dẫu đức Thế Tôn đã nói bậc tinh tấn có bốn thần túc sẽ có thể trụ thế từ một kiếp đến nhiều kiếp, A Nan chưa hề thỉnh Phật trụ thế, đừng nhập Niết Bàn.
3. Được Phật sai làm thị giả mà thoạt đầu từ chối.
4. A Nan đã từng vô ý đạp lên pháp y của đức Phật (có bản như Thập Tụng Luật chép là khi may y cho đức Phật, Ngài đã đạp lên y để dùng dao xén mép y cho dễ, có bản chép là khi giặt y).
5. Trên đường đến rừng Sa La Song Thụ, đức Phật sanh bệnh, muốn uống nước, A Nan thoái thác chẳng múc nước (có bản chép là Ngài múc nước đục vì không tìm được nguồn nước trong).
6. Khi đức Thế Tôn giảng về các giới vụn vặt, A Nan chẳng thưa hỏi cặn kẽ để người đời sau biết rõ chi tiết khai, giá, trì, phạm như thế nào.
7. A Nan đã cho nữ chúng thấy thân tử kim của đức Phật sau khi Ngài nhập diệt, khiến họ khóc lóc, nước mắt, nước mũi rơi xuống làm bẩn chân đức Phật.
8. Vẫn còn có phiền não, chưa chứng quả A La Hán.
Vì phạm tám lỗi ấy, và chưa phải là A La Hán, A Nan không đủ tư cách kết tập kinh điển, nhưng kết tập lại không thể thiếu ngài A Nan. Vì thế, ngài A Nan đã cực lực sám hối và dốc sức chứng quả A La Hán ngay đêm trước ngày kết tập.
[15] Do sợ thân thể có mùi hôi sẽ khiến cho thầy khó chịu.
[16] Cách Mạng Văn Hóa, gọi tắt là Văn Cách, là một phong trào chánh trị do chính quyền Hoa Lục phát động từ ngày 16 tháng Năm 1966 cho đến ngày 6 tháng 10 năm 1976 mới chấm dứt. Nhằm đập tan những thế lực và tư tưởng chống đối Mao Trạch Đông cai trị Trung Hoa theo đường lối sắt máu và điên rồ của Stalin, nhất là sau các kế hoạch ngũ niên và “đại nhảy vọt” liên tiếp thất bại của họ Mao, khiến cho kinh tế Hoa Lục trì trệ, dân chúng mất niềm tin, ngay cả các cộng sự thân tín của Mao như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, Đặng Tiểu Bình… đều bất đồng ý kiến với họ Mao. Mao Trạch Đông đã kết tội các thế lực chống đối là tuân theo đường lối xét lại của Khrushchev, có âm mưu khôi phục chủ nghĩa tư bản. Dựa vào các cáo buộc ấy, Mao Trạch Đông phát động cuộc cách mạng này. Dùng tuyển tập Sách Đỏ (Hồng Bảo Thư) của Mao như một loại kinh thánh, bè lũ tay chân của Mao đả đảo những tư tưởng truyền thống, sách động những kẻ cơ hội kết đoàn thành Hồng Vệ Binh tấn công vào hàng ngũ trí thức. Toàn thể nhân dân Hoa Lục mỗi ngày nghe kẻng đều vội vã lao ra khỏi nhà, cầm sách đỏ lớn tiếng đọc liên thanh để khỏi bị kết tội là phản động. Các trường trung học và đại học bị đóng cửa, các nhà máy trì trệ và công nhân chia thành phe phái đấu tố lẫn nhau. Các bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, y tá, kỹ sư, giáo viên, giáo sư, văn nghệ sĩ, các tầng lớp trí thức bị bắt đi lao động khổ sai, lăng nhục, đấu tố, đập phá chùa chiền, miếu mạo, các cơ sở tôn giáo, các di tích lịch sử, Tăng lữ, tu sĩ bị đi tù, hay đuổi khỏi chùa, miếu, đạo quán, giáo đường. Hàng triệu người bị kết tội thuộc phe cánh hữu, theo phe xét lại đã chết vì bị hành hạ, tra tấn, hay chịu không nổi phải tự tử. Các lãnh tụ như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, nguyên soái La Thụy Anh, Đặng Tiểu Bình, Bành Chân, Lục Định Nhất… đều bị tù đày, lăng nhục. Trong cách mạng Văn Hóa, Diêu Văn Nguyên, Lâm Bưu, Giang Thanh (vợ Mao Trạch Đông), Trương Xuân Kiều là những tên tay sai đắc lực trong việc đàn áp phe đối lập. Lợi dụng sự nhiệt tình của các tầng lớp nghèo khổ và bọn thanh niên mới lớn, họ Mao đã xúi giục họ mở các cuộc vũ đấu (đấu tranh bằng bạo lực) để nghiền nát những ai bị quy kết là phản cách mạng hay có tư tưởng tiểu tư sản, dẫn đến các vụ tàn sát trên quy mô lớn đẫm máu như tháng Tám đỏ tại Bắc Kinh, vụ tàn sát tại Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam và Hồ Nam. Không có con số chính xác về các nạn nhân, nhưng các nhà sử học ước tính, số người chết có thể lên đến 20 triệu người, kinh tế Hoa Lục bị thiệt hại nặng nề, nhiều người bị tù đày, thương tật, rất nhiều vật phẩm di tích văn hóa bị hủy hoại không thể khôi phục.
[17] Tỳ Da Ly còn được phiên âm là Tỳ Xá Ly, Phệ Xá Ly, hoặc dịch nghĩa là Quảng Nghiêm Thành, ở phía Bắc thành phố Patna hiện thời. Đây là kinh đô của nước Bạt Kỳ (Vajji) thuộc bộ tộc Licchavi (Ly Xa). Nơi này ghi dấu nhiều sự kiện quan trọng trong Phật giáo: Sau khi vượt hoàng cung xuất gia, đức Phật tìm đến đây học đạo với Uất Đầu Lam Phất (Udraka Ramaputtra). Sau khi đắc đạo, Ngài thường giảng kinh tại đây, chẳng hạn kinh Dược Sư được nói thành Quảng Nghiêm tức là nơi này. Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề cũng được đức Phật chấp thuận cho xuất gia tại đây. Mùa An Cư kết hạ cuối cùng cũng tại thành Tỳ Xá Ly trước khi đức Phật tuyên bố Ngài sẽ nhập Niết Bàn. Các Ly Xa tử theo Ngài mãi đến rừng Câu Thi Na, đức Phật bèn lưu lại bình bát khất thực cho dân chúng thành này. Đây cũng là trụ xứ của một vị tại gia Bồ Tát nổi danh là ngài Duy Ma Cật. Tại đây còn có trụ đá của vua A Dục và cũng là nơi các vị đại A La Hán nhóm họp để kết tập kinh tạng lần thứ hai vào năm 383 trước Công Nguyên.
[18] Chiêm Bà (Campa, Champapuri) là kinh đô của nước Ương Già (Aṅga), một trong mười sáu đại quốc thời ấy, hiện thời thuộc quận Bhagalpur của tiểu bang Bihar, Ấn Độ.
[19] Ở đây, chúng tôi dịch từ ngữ “trưởng giả tử” tuân theo cách giải thích của ngài Linh Thừa trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Khoa Chú. Theo đó, ngài Linh Thừa nói chữ Tử sau “trưởng giả” chỉ có ý nghĩa tôn trọng như ta nói Khổng Tử, Lão Tử v.v…
[20] Hữu Đảnh là tên gọi khác của Sắc Cứu Cánh Thiên (Akaniṣṭha, A Ca Ni Trá Thiên), tức tầng trời cao nhất trong Sắc Giới.