ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH NGHĨA KÝ

QUYỂN 10

Biên soạn: Sa-môn Thích Huệ Viễn, chùa Tịnh Ảnh (Đời Tùy)


PHẦN ĐẦU

Dưới đây là đoạn hai, nói phàm phu tín, thiện, cầu “Hữu”. Ở đây có hai nghĩa:

  1. Nghĩa thường chìm, thường chìm trong ba cõi.
  2. Có nghĩa tạm trồi lên rồi lại chìm, lại chìm trong ba đường.

Trong văn, trước nói về nghĩa thường chìm. Lại có thường chìm.

Chẳng phải Nhất Xiển-đề, phân biệt trước khởi sau.

“Người nào? v.v… Trở xuống là giải thích”.

“Đó gọi là v.v… trở xuống là kết”.

Sau đây, là nói lại chìm, chia làm bốn câu:

1. Nói về bốn việc lành, mắc quả báo ác. Đầu tiên là nêu, kế là trình bày, sau là tổng kết.

2. Dựa vào người kia, là nói nghĩa nổi chìm: Nếu tu bốn việc lành này, gọi là chìm rồi nổi, nổi rồi chìm, là lược để nêu lên.

Sau đây, là nói giải thích rộng:

Trước, nói về người chìm. Kế là giải thích người nổi kia. Sau là giải thích lại chìm. Văn rõ ràng rất dễ hiểu.

3. Dẫn thuyết chứng thành.

Trong bài kệ, hai người ở trước vì tạo nghiệp nên chìm. Hai người sau vì phiền não của họ đã biểu lộ rõ, nên chìm.

4. Nêu dụ để phục theo, trước là nêu thí dụ đó.

“Như hai người ở trên v.v… trở xuống là dùng pháp để phục theo”.

Như Phiền não trong bài kệ trên và người của hai thứ nghiệp, như con cá khổng lồ kia tạm nổi lên rồi lại lặn xuống, nên nói “Như thế”.

Dưới đây là đoạn ba, nói Phàm phu tin điều lành, cầu ra khỏi, ở đây có hai nghĩa:

  1. Gặp bạn ác, tạm ra khỏi, lại chìm.
  2. Gặp bạn lành, ra khỏi rồi, liền dừng lại.Trong văn có hai:
  1. Giải thích chung về người ấy.
  2. “Người này không đủ năm việc lành “Như thế” v.v… trở xuống là y theo năm việc lành đó mà phân tích hai nghĩa: Trở lui và đứng lại.

Trong phần trước có bốn:

  1. Nói có người ưa chấp đắm ba cõi, đó gọi là chìm, là nhắc lại trước khởi sau. “Nổi lên từ chỗ kia đến, cho nên”, nhắc lại.
  2. “Được nghe v.v… trở xuống là đối với chìm, nói về nổi”.
  3. “Vì sao? v.v… Trở xuống là giải thích, giải thích rõ nghĩa xuất (nổi): Lìa ác, sinh thiện, nên gọi là xuất. Trước là hỏi; kế là giải thích, sau kết, rất dễ hiểu.”
  4. “Người này dù v.v… trở xuống là nói không có ra khỏi, trong đó, đầu tiên là nói không có lòng tin. Người này dù có tin, nhưng cũng không đủ, nói chung để nêu. Sau, phân biệt riêng, có bảy lần “Lại nữa”.

1. Y theo Niết-bàn của Phật, để nói về niềm tin không đủ. Tín trực tiếp vào thường, lạc, ngã, tịnh của Niết-bàn, không tin Như lai.

2. Chỉ y theo Niết-bàn, để nói không có đức tin. Thuyết đó có hai: a) Hữu vi. b) Vô vi.

Niết-bàn vô vi: Thường, lạc, ngã, tịnh.

Hữu vi là Vô thường, vô “Ngã”, lạc, tịnh.

3. Y theo Phật tánh để nói về niềm tin không đủ.

Dù tin Phật tánh là cái “Có” của chúng sinh, đều có Phật tánh.

4. Y theo thể của đức tin, để nói không đủ, chỉ tin mà không đủ.

5. Y theo khởi nhân, là nói niềm tin không đủ, chỉ vì từ nghe mà sinh, không từ tư duy mà sinh.

6. Y theo Thánh đạo để nói về niềm tin không đủ, vì chỉ tin có đạo, không tin có người đắc đạo.

7. Dựa vào pháp tướng nhân quả của Tam bảo, để nói không có niềm tin, trong đó, trước nêu hai niềm tin tà, chánh. Kế là nêu danh, sau là giải thích.

Sau đây, là y theo chánh tín để nói về không đủ:

  1. Dù tin Tam bảo nhưng không tin đồng thể. Dù tin nhân quả, nhưng không tin có người đắc quả, nên gọi là không đủ.
  2. Nói về người kia không có giới, trở thành niềm tin không có.

Sau đây, là nói riêng để chỉ bày rõ, có bảy lần “Lại nữa”:

1. Y theo để khởi nhân, là nói giới không đủ, gọi là dùng lòng tin ở trước làm nhân của giới.

2. Chỉ có giới oai nghi, không có giới của giới kia, gọi là giới không đủ. “Vô tác” của đạo định được sinh ra từ giới oai nghi. Vì từ giới sinh ra giới, nên gọi là giới giới, trong đó, đầu tiên là hỏi sau là đối lại để giải thích. Trước là nêu, kế là nêu danh, sau giải thích, dưới là kết.

3. Có giới “Hữu tác”, không có giới “Vô tác”, gọi là giới không đủ. Bắt đầu tu, gọi là “Tác”, thành gọi là “Vô tác”. Qua đó, đầu tiên là nêu, kế là nêu danh, sau là giải thích.

“Cho nên v.v… trở xuống là kết”.

4. Tuy giữ giới thân, miệng, nhưng vì xen lẫn với tà mạng, nên gọi là giới không đủ.

5. Có cầu giới mà không có xả giới, gọi là giới không đủ. Không có xả giới tướng, gọi là không có xả giới.

6. Có giới cầu “Hữu”, không có giới theo đạo, gọi là giới không đủ.

7. Thiện, ác có cả lòng tin, không có phân biệt, gọi là giới không đủ, trong đó, trước nêu hai giới thiện, ác. Kế là nêu danh, sau là giải thích.

Dưới là giải thích, sau là kết.

Đoạn ba, nói về nghe không đầy đủ.

Tín, giới không đủ, nghe cũng không đủ, là nhắc lại trước khởi sau, nói chung là không đủ. Sau đây, là nói riêng, để chỉ bày rõ, có bốn lần “Lại nữa”:

1. Y theo mười hai bộ kinh để nói về nghe không đủ, chỉ tin ở sáu bộ, không tin sáu bộ còn lại, lại nói về thật lý của sáu bộ để giải thích. Tùy đối tượng không tin trong mười hai bộ, đều gọi là không đủ.

2. Dù gánh chịu sáu bộ, nhưng không đọc tụng, giải thích cho người khác hiểu, gọi là nghe không đủ.

3. Dù thọ sáu bộ, chỉ vì giải thích nghĩa là hơn người v.v… gọi là nghe không đủ.

4. Gần gũi bạn lành, nghe pháp suy nghĩ, đúng như lời dạy tu hành, cho đến giải thoát. Không có các công hạnh này, thì gọi là nghe không đủ.

“Người này không có v.v… trở xuống là đối với họ nói lên nghe không đầy đủ”.

Trong phần trước, đầu tiên nói: “Ta nói nghe đủ” là nêu chung biểu.

“Thế nào v.v… trở xuống là nói riêng. Trước là hỏi, sau giải thích, trong đó trước nói về gần gũi bạn lành”.

“Các thầy v.v… ở đây, đối với người này v.v… trở xuống là nói về nghe chánh pháp”.

“Được trí tuệ đã có thể khéo tư duy v.v… trở xuống là buộc niệm tư duy”.

Được chánh nghĩa, thân tâm mình vắng lặng là nói đúng như lời dạy tu hành, trong đó có sáu câu, theo thứ lớp rất dễ hiểu. Sau, là ứng với nghĩa trước, để nói về nghe không đủ, tướng cũng có thể biết được.

Đoạn bốn là nói về sự bố thí của người kia không đầy đủ. Không đầy đủ, ba thí cũng không đầy đủ. Là nhắc lại trước, khởi sau, nói chung là “Không đủ”.

Sau đây, là nói riêng, để chỉ bày rõ, có ba lần “Lại nữa”:

1. Y theo hai thí của pháp để nói “Không đủ”. Trước là nêu, kế là trình bày, sau là giải thích, dưới là kết.

2. Y theo hai thứ thí của phàm, Thánh để nói lên không đủ. Thọ xong mới tin, tức là cúng dường, gánh chịu pháp mà không tin, thì không cúng dường, nên gọi là không đủ. Trong đó, trước nêu, kế trình bày giải thích, sau là nói, dưới là kết.

3. Y theo người thọ pháp là nói bố thí không đầy đủ.

Đoạn năm là nói về tuệ của người kia không đầy đủ. Không đủ, bốn tuệ trên cũng không đủ, là nêu trước, khởi sau, nói chung là “Không đủ”.

Sau đây, là nói riêng, để chỉ bày rõ, có năm lần “Lại nữa”:

  1. Không thể phân biệt Như lai thường và vô thường, gọi là tuệ không đủ.
  2. Trong kinh này nói Như lai tức giải thoát v.v… không thể phân biệt, gọi là tuệ không đủ.
  3. Trong kinh này nói phạm hạnh, tức Như lai v.v… không thể phân biệt, gọi là tuệ không đủ.
  4. Không thể phân biệt tánh tức Như lai, Như lai tức là pháp Bất cộng,… gọi là tuệ không đủ.
  5. Không thể phân biệt bốn chân đế v.v… gọi là tuệ không đủ.

Trên đây là đoạn thứ nhất, đã nói chung về người ấy. Sau đây, là y theo người ấy để nói về sự lui sụt và chỉ bày về trụ.

“Không đủ” có hai, là nhắc lại trước, mở bày sau.

Không có năm việc như tín v.v… từ trước đến nay, thêm thiện

thêm ác, nêu ra hai tên gọi. Sau đây, là nói tướng thiện, ác ấy:

Trước là nói về thêm ác thì tạm trồi lên, rồi lại lặn xuống, trong đó, trước là nói về hành động tăng thêm điều ác:

“Ai là v.v… trở xuống là người tăng thêm điều ác.”

“Như cá lớn v.v… trở xuống là nêu dụ để nhắc lại”

Trong phần trước, đầu tiên là hỏi, kế là giải thích, sau là kết.

Trong giải thích có hai:

1. Thêm nhân ác.

“Vì ba nghiệp bất tịnh, nên thêm v.v… trở xuống là nói chịu quả báo. Trong nhân có ba:

a) Nói người kia si mê, ngạo mạn, tự cao, người này chẳng nhận thấy mình không đầy đủ, là sự ngu si kia. Tự nói đủ v.v… là ngạo mạn, tự cao.

b) “Cho nên, gần gũi v.v… trở xuống là vì gần gũi bạn xấu ác, nên thêm pháp ác, trong đó, đầu tiên là nói gần gũi bạn ác”.

“Đã gần v.v… trở xuống là nói nghe pháp tà”.

“Nghe xong, mừng v.v… trở xuống là nghe, liền sinh chấp đắm”.

“Khởi lên tính ngạo mạn v.v… trở xuống là tập làm pháp ác, khởi phiền não ngạo mạn, thường hành động tạo nghiệp”.

c) Nhân buông lung v.v… trở xuống là vì gần gũi tại gia, nên tăng thêm pháp ác. Đầu tiên là gần gũi tại gia. Kế là nghe nói việc tại gia, xa lìa pháp xuất gia.

“Vì nhân này v.v… trở xuống là nói nói tăng thêm ác. Vì nhân duyên này thêm lớn pháp ác, nói khởi phiền não. Thân v.v… bất tịnh là nói gây ra nghiệp ác.

2. Trên, thêm nhân ác, chịu quả có thể biết trước tăng thêm hành vi ác. Dưới phát nêu ra người kia. Ai là gạn hỏi? Nghĩa là đối với Đề-bà v.v…, hỏi về giải thích, trong đó theo thứ lớp bốn chúng, nêu danh. Dưới nói tăng thêm việc lành, nổi lên rồi liền trụ, trong đó có bốn:

  1. Tăng thêm hạnh lành.
  2. Xuất phát từ người kia.
  3. Giải thích nghĩa trụ.
  4. Dẫn thuyết chứng thành.

Y theo đoạn đầu, trước là nói về gần bạn. Vì gần gũi bạn lành, nên ưa hỏi han những điều mình chưa được nghe, nói nghe chánh pháp.

Gánh chịu xong, nghĩ rằng: là nói về năng tư duy khéo. “Tư duy tốt rồi, có thể như pháp v.v… trở xuống là nói nương theo pháp thực hành. Vì đúng như pháp mà trụ, nên pháp lành thêm lớn, kết thành tăng thêm điều lành. Vì tăng thêm pháp lành, nên không bao giờ còn ngụp lặn nữa, đó gọi là trụ, kết thành nghĩa trụ.

Kế là nêu ra người ấy. “Ai?” là câu hỏi. Nghĩa là đối với Xá-lợiphất v.v… hỏi để giải thích, trong đó, theo thứ lớp bốn chúng, mà nêu danh:

“Xá-lợi-phất v.v… là A-La-hán, dưới nước, trên mặt đất đều đi.

Nay, vì sao nói là trụ?”

Có người giải thích rằng: “Theo trong kinh xưa, Xá-lợi-phất v.v…

dưới nước, trên mặt đất liền đều đi, nay, trong kinh này chỉ gọi là trụ, nghĩa này không đúng!”

“Không đúng là sao?” Nay, trong kinh, lẽ ra phải nói Bồ-tát là trụ Đại thừa, vì sao lại nói Thanh văn là trụ? Vả lại, người của bốn quả trong Tiểu thừa chưa đến Hiền thủ trong Đại thừa làm sao gọi là “trụ” trong Đại thừa được?” “Chỉ Xá-lợi-phất v.v… có đủ tất cả hạnh trong Tiểu thừa, cho nên người kia được gọi là “trụ”, cũng gọi là nhìn phương hướng, cho đến cũng được gọi là “đều cùng vận hành”. Nay nói bổn nhân của người kia là “trụ”, chẳng phải sau khi đắc quả mới gọi là “trụ”, bởi những người này đã chứng quả Thánh, chứng tỏ nghĩa “trụ” rõ ràng, nên mới chỉ ra “trụ”.

“Như thế v.v… trở xuống là tổng kết là “trụ”, kế là giải thích nghĩa trụ, trước là hỏi, sau là giải thích. Trong giải thích đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau là hợp. Đầu tiên là nói: “Ưa thấy điều lành sáng suốt, nghĩa là vì tiến đến việc lành nên trụ.”

“Vì duyên này v.v… trở xuống là vì không lui sụt, nên “trụ”. Dụ cho hợp rất dễ hiểu. Sau đây, hai bài kệ đầu trong dẫn chứng là nói “Trụ” trong Tiểu thừa. Nếu con người phân biệt, nói tu chánh giải, dốc lòng cầu quả, thì chứng tỏ đó là đối tượng ưa thích của họ. Nếu quở “Có”, nói là đối tượng nhàm chán của họ, thì gọi là “Trụ”, tổng kết. Bốn bài kệ sau nói là trụ trong Đại thừa, trong đó, hai bài kệ đầu nói vì việc lành của đời trước, nên “Trụ”; hai bài kệ sau, nói vì sự hiện tu của hai người kia, nên “Trụ” trong đó, nói về sự gần bạn, nghe pháp, suy nghĩ, tu hành của người kia. Trong tu hành, đầu tiên là nói nhân, sau nói về đắc quả.

Dưới đây, là đoạn bốn là nói về người có năm pháp quán dừng tâm. Việc này có đủ hai nghĩa:

  1. Gặp bạn ác, tạm thời xuất hiện rồi lại chìm,
  2. Gặp bạn lành, xuất hiện rồi, liền trụ. Tuy nhiên trong văn nay, có người ấy, lược bỏ không nói về hai nghĩa lui, trụ của họ, trong đó có bốn câu:

a) Nhắc lại trước, khởi sau là nêu chung lỗi của họ.

“Người trí không đầy đủ”, là nhắc lại hạnh ở trước. Trước nói năm hạnh Tín v.v… không đủ là y theo hạnh sau để nhắc lại. Cho nên nói nghiêng về một bên là người trí không có.

Gồm có năm việc, là nêu lỗi: Tham dục, sân si, chấp “Ngã” và giác quán là năm việc của người kia.

b) Là con người biết v.v… trở xuống là vì đối trị lỗi ở trước là sự gần gũi bạn lành.

c) “Như thế v.v… trở xuống là bạn lành quán lỗi vì nói đối trị”.

Đối với người nặng về ngu si, thì nói nhân duyên cho họ nghe, văn lược bỏ không nói. Với mười hai duyên mà Phật nói, vì đồng nên lược bỏ không nêu.

Chấp “Ngã”, phân tích mười tám giới: Trong luận Tạp Tâm nói là quán sáu giới, đó là đất, nước, lửa, gió, không và thức”.

Trong đức ban đầu ở trước, cũng đồng với thuyết Tạp Tâm kia. Quán mười tám giới này đều được phá “Ngã”. Về nghĩa này đã giải thích rộng, như chương Năm Độ.

d) Nói người ấy nghe xong, thì lãnh thọ thực hành của người kia.

Dưới đây là đoạn thứ năm, nói về con người của niệm xứ với tướng mạo riêng. Người này cũng có đủ hai nghĩa: Lui và trụ. Văn lược bỏ không nói, đầu tiên là nói: “Thực hành xong, kế là được bốn Niệm xứ”, nhắc lại trước, khởi sau. Thân, thọ, tâm, pháp, nêu bốn tên gọi đó:

Quán riêng sắc ấm, là thân niệm xứ. Quán riêng thọ ấm là Thọ niệm xứ. Thức ấm là tâm, tưởng hành là Pháp, nên gọi là tướng riêng (Nghĩa này là giải thích rộng, như trong chương Đạo phẩm).

Thứ lớp lại được mười hai duyên, là niệm xứ của tướng chung thứ sáu. Trong kinh luận khác, căn cư năm ấm để nói về niệm chung. Quán chung năm duyên, thực hành pháp niệm xứ, không vô ngã. Trong đây y theo mười hai duyên là nói quán mười hai duyên đều là không, vô ngã, cũng là pháp niệm xứ quán của tướng chung. Y theo tất cả pháp đều được làm ra niệm xứ quán chung, chẳng phải chỉ có năm ấm. Ở đây, cũng có đủ hai nghĩa thoái và trụ. Văn lược qua không nói.

Dưới đây là đoạn bảy, nói về được người Noãn tâm. Bốn tâm như Noãn v.v…, như chương riêng đã giải thích. Ở đây nên nói đủ.

Trong người được Noãn tâm có đủ ba nghĩa:

  1. Gặp bạn ác, nổi rồi lại chìm.
  2. Gặp bạn lành, trụ vững chắc, không lui sụt.
  3. Học quán bốn đế, tức gọi là quán phương.

Trong văn, đầu tiên là nhắc lại trước, sinh sau.

“Ca-diếp bạch v.v… trở xuống là hỏi, đáp, giải thích rộng để chỉ rõ”.

“Những người như thế, không bao giờ dứt v.v… trở xuống là y theo người để chia riêng lui và trụ. Đoạn đầu rất dễ hiểu.

Trong ứng có ba:

  1. Phân biệt khác với chung, chỉ bày giới hạn của chung đó.
  2. Giải thích danh, nói về thể.
  3. Nói về người được nhiều, ít.

Trong phần đầu, Ca-diếp trước là hỏi để khởi phát. Trong phần hỏi là chấp chung, để phủ nhận sự khác nhau của người kia. “Tất cả chúng sinh đều có pháp Noãn”, là lập chung, chẳng phải riêng. Ca-diếp được nghe quán nhân duyên, sau mới được Noãn. Cho nên, lập chung, chẳng phải riêng.

“Vì sao? v.v… trở xuống là nói chung, phá riêng.”

Trước vặn hỏi, sau là nói. Như lời Phật nói: “Ba thứ hòa hợp gọi là chúng sinh” là nêu chung thuyết xưa; thọ, noãn, thì thức, là nêu riêng thuyết xưa, ở đây nói hỏa đại, dùng làm Noãn. Vì sự giữ gìn của hỏa đại trong bốn đại, nên thân không hư hoại. Vì công năng mạnh mẽ này, nên nêu nghiêng về một bên.

Noãn tức là sắc, thức tức là tâm, thọ chẳng phải sắc, tâm. Vì ba pháp này gom nhóm thành chúng sinh, nên thuyết xưa có nói: “Ba pháp này hợp thành chúng sinh”.

“Nếu theo nghĩa này, thì tất cả ở trước đã có nói rộng về Noãn. Sao lại có thuyết nói “Nhân bạn lành mà sinh?” Vặn hỏi, để phá nghĩa riêng.

Sau đây là Phật đáp:

Nói thuyết hiện nay là cuộc hạn, chẳng phải cùng khắp, có bốn lượt giải thích:

1/ Y theo người để, giải thích.

“Như điều ông đã hỏi cho đến Nhất Xiển-đề đều có v.v…” là nói lên chung khác với riêng.

Nay, ta đã nói, chủ yếu là nhân phương tiện, phân biệt riêng khác với chung.

“Vì nghĩa này v.v… trở xuống là kết chẳng phải thuyết ở trước nói.”

“Cho nên v.v… trở xuống là kết, chẳng phải “Đều có”.

2/ Y theo giới để giải thích.

Pháp Noãn như thế, là pháp của cõi sắc, là nói lên riêng chẳng phải chung.

“Nếu nói tất cả chúng sinh đều có v.v… trở xuống là phá chung thành riêng”.

“Cõi Dục không có v.v… trở xuống là kết, chẳng phải “Đều có”.

3/ Y theo theo nội đạo, ngoại đạo để, giải thích cõi Sắc dù có, nhưng chẳng phải tất cả “Đều có”, chứng tỏ riêng, chẳng phải chung.

“Vì sao? v.v… trở xuống là giải thích”.

Vì trong có, ngoài không, nên chẳng phải tất cả.

“Vì nghĩa này v.v… trở xuống là kết”.

4/ Y theo trong, ngoài, y theo của cảnh để, giải thích. Tất cả ngoại đạo quán sáu hạnh, phân biệt ngoại đạo khác với nội đạo.

Ngoại đạo dứt kết, duyên bám trên, nhàm chán dưới, như dứt kết dục. Trước, quán tất cả hữu lậu cõi Dục là khổ, là thô, hoặc là chướng. Quán địa Sơ thiền là chỉ, là diệu, hoặc là xuất, gọi là sáu hạnh. Lúc bắt đầu quán, sáu hạnh đều quán. Sau cùng, khi thành, đối với trên, dưới đều quán một hạnh, không quán cả sáu. Các đệ tử ta đều có đủ mười sáu, chứng nội khác ngoại.

Nói mười sáu là khổ phẩm hạ có bốn, đó là khổ, vô thường, không và vô ngã. Tập phẩm hạ có bốn: Nhân, tập, hữu và duyên. Diệt phẩm hạ có bốn: Đạo, như, dầu vết, thừa.

“Mười sáu hạnh này v.v… trở xuống là kết, chẳng phải “Đều có”.

Dưới đây là giải thích danh, nói về thể.

Đầu tiên, Ca-diếp hỏi:

“Pháp Noãn đã nói, sao gọi là Noãn?” Là hỏi về danh nghĩa của Noãn.

“Vì tự tánh Noãn, hay vì khác nên Noãn?” Là hỏi thể tánh của Noãn”.

Sau đây, trong phần Phật đáp, trước là đáp, sau là hỏi, không đáp câu hỏi đầu. Phần tế có bốn:

  1. Đối với câu hỏi sau ở trên, là nói về thể của Noãn nhất định.
  2. Ca-diếp v.v… trở xuống là hỏi, đáp, chỉ rõ lại.
  3. “Như ông hỏi v.v… trở xuống là đối với câu hỏi đầu ở trên, giải thích danh nghĩa của Noãn.
  4. “Ca-diếp bạch v.v… trở xuống là hỏi, đáp để chỉ rõ lại.

Tánh Noãn trong phần đầu chẳng phải nhân người khác, nghĩa là thể của Noãn là tuệ, chẳng phải đồng thời lại có thể của Noãn, nhân thể nói Noãn, Hỏi rằng v.v… trở xuống là nói Noãn tức là tướng lửa của Thánh đạo. Tướng lửa của Thánh đạo này là nhân cái khác, sao vừa rồi lại nói rằng chẳng phải nhân Noãn khác?”

Giải thích: “Pháp Noãn dùng tuệ làm thể. Thể của trí tuệ nhân lửa Thánh mà khác, gọi là Noãn, chứ chẳng phải nhân Noãn khác, mới gọi là Noãn, gọi là “chẳng phải nhân khác”.

Trong đoạn hai, trước là Ca-diếp hỏi:

Hỏi: “Do đâu sinh?” Do ở trước kia, Phật đã nói: “Tự tánh là Noãn”.

Vì chưa ra khỏi tánh ấy, nên hỏi để cho ra.

Hỏi: “Tướng như thế nào?”

Trước đây, Ca-diếp nghe Mã Sư không tin, tức là không có pháp Noãn, vì hoài nghi Noãn là đức tin, nên lại hỏi.”

“Trước kia, Như lai đã nói Mã Sư không có Noãn” là nêu Như lai kia đã nói chung khi xưa”.

“Vì sao? v.v… trở xuống là nêu lời giải thích của Phật.”

“Vì không có đức tin, cho nên không có, phải biết rằng v.v… trở xuống là dựa vào lời nói xưa của Phật, chấp niềm tin là Noãn. Sau đây, là Phật đáp.

“Niềm tin chẳng phải là Noãn”, trái với lối chấp của Mã Sư kia”.

“Vì sao? v.v… Trở xuống là giải thích chung lời nói xưa, nhân tín mà sinh Noãn. Mã Sư không có niềm tin: Vì pháp Noãn bất sinh, nên nói là ông ấy không có niềm tin.

Nói về Noãn là tuệ, chính là phát ra thể của Noãn.

“Vì sao? v.v… Trở xuống là giải thích. Vì quán bốn đế, nên y theo chung bốn đế, chứng minh Noãn là Tuệ.

“Cho nên gọi là v.v… trở xuống là y cứ hạnh riêng, chứng minh Noãn là Tuệ. Vì đế quán này, nên gọi là mười sáu hạnh, vì hạnh nên là tuệ.

Trong đoạn ba, trước là nhắc lại lời hỏi. Sau là Phật giải thích.

Vì tướng lửa của đạo, nhắc lại gọi là Noãn, trong đó, đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau là hợp.

Trong đoạn bốn, trước là Ca-diếp hỏi:

“Nói Noãn là “Hữu”, không nên chấp Thánh đạo có tướng”.

Pháp “Hữu” này: Là pháp ba “Hữu”. Là Hữu vi: Vì tạo ra quả “Hữu”, là pháp Báo.

Vì được năm ấm của cõi Sắc, nên gọi là “Hữu”: Y theo quả để chỉ rõ nhân, nói thể của năm ấm kia là pháp ba hữu.

Vì là nhân duyên, nên gọi là hữu vi: Có thể làm tác nhân cho năm ấm cõi Sắc, vì tạo ra ấm kia, nên gọi là hữu vi. Có thể làm tướng cho đạo vô lậu là sao? Là kết vặn hỏi lời Phật nói. Phật đáp:

“Đúng thế! Đúng như ông nói, tin vào có pháp hữu vi của tâm Noãn ở trước”.

“Noãn như thế v.v… trở xuống là trái với ở trên, chẳng thể chấp là đạo có tướng trong đó, đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau hợp.

“Cho nên v.v… trở xuống là kết”.

Trong pháp, nói về Noãn, dù là “Hữu” nhưng vì có thể phá “Hữu”, nên là tướng của đạo.

Trong dụ “Như người”, là dụ cho người tu hành. Ngựa dụ cho tâm

Noãn, vì con người nương tựa tâm Noãn để tu hành tinh tấn, nên gọi là “Thừa”. Tâm Noãn chấp đắm vị, cũng gọi là ái. Nhàm chán các “Hữu” đầy tai hoạn, cố gắng tu tâm Noãn, nói là “Cũng cố gắng khích lệ ở trên.”

Hỏi: “”Noãn” này chính nó tự ái hay còn có pháp “Hữu” ái chấp đắm Noãn này. Nếu Noãn tự ái, thì đáng lẽ ngựa tự ái, chứ chẳng phải người ái ngựa? Nếu lại còn pháp “Hữu” ái chấp đắm Noãn này thì tâm ái chấp đắm tự nó có thể thọ sinh, không có quan hệ gì đến sự Noãn, do đâu mà nêu pháp “Hữu” này để thành Noãn hữu vi?”

Giải thích: “Phiền não trong thiền vị của Thượng địa đã ái chấp đắm tâm Noãn, chứ chẳng phải tâm Noãn tự ái. Tuy nhiên tâm Noãn kia vì bị ái thấm nhuần, nên cõi trên vì thọ thân, nên gọi là Hữu vi”.

Lại hỏi: “Người cố gắng là Noãn tự cố gắng hay là có pháp “Hữu” khích lệ tâm Noãn. Nếu Noãn tự cố gắng khích lệ thì ngựa lẽ ra tự đánh đập. Nếu còn có pháp “Hữu” đốc suất tâm Noãn, thì người năng cố gắng kia sẽ có khả năng tạo ra tướng cho Thánh đạo kia, tâm Noãn chẳng phải sách tấn, thì đâu thể tạo ra tướng của Thánh đạo kia.

Giải thích: “Tâm tiền phương tiện của Noãn đã nhàm chán, sợ sinh tử, tu khởi tâm Noãn, gọi là năng lực cố gắng, chứ chẳng phải Noãn tự cố gắng. Do Noãn có sức cố gắng của người kia, làm cho Noãn hướng về Thánh. nên gọi là tướng tạo tác của Thánh đạo. Văn kết rất dễ hiểu.

Trên đây là đoạn hai, giải thích danh và nói về thể của pháp Noãn. Sau đây, là nói về số người được Noãn nhiều, ít. Người được pháp Noãn gồm có bảy mươi ba hạng, là nói chung để nêu. Kế là nói về tướng của Noãn.

Có người từ trước đến giờ, chưa dứt phiền não, đây là người còn bị ràng buộc. Đầu tiên là tu nhập Noãn, tức là một.

Hỏi: “Tâm Noãn phải dựa vào thiền Vị lai mà khởi. Lúc thiền kia khởi, lẽ ra đã dứt phiền não mới phải, sao lại còn bị ràng buộc mà nhập Noãn được?”

Giải thích: “Vì chưa hẳn tâm của định vị lai đều dứt phiền não. Có người tu định, đầu tiên được tâm trụ là thiền vị lai. Vì chưa dựa vào định này để thực hành sáu hành quán, nên chẳng dứt kiết. Nương vào tâm trụ này để tu khởi pháp Noãn, gọi là còn bị ràng buộc. Dựa vào thiền vị lai, tạo nên sáu quán hạnh, dứt trừ kiết cõi Dục, bắt đầu từ một phẩm cho đến chín phẩm, tức là chín người, chung với một người ở trước là mười. Tiến tu Đẳng trí, dứt kiết Sơ thiền cho đến Vô sở hữu. Trong mỗi địa đều có chín phẩm, thành sáu mươi ba, hợp chung với mười vị trước thành bảy mươi ba vị. Một địa Phi tưởng chẳng có địa nào trên, có khả năng duyên bám Đẳng trí không dứt, cho nên không nói.

Trong văn, đầu tiên là nói: “Ở cõi Dục có đủ mười người, y theo dục để nêu chung. Người thứ nhất trong mười người còn bị phiền não ràng buộc, dứt trừ một đến chín, hợp chung với một người trước thành mười. Như Sơ thiền cõi Dục, cho đến Vô sở hữu cũng giống như thế, nói sáu mươi ba hạng người sau là riêng, đó gọi là Kiết phẩm hạ.

Trên đây là đoạn hai đã nói rộng tướng của Noãn kia. Sau đây, là y theo người tu hành ấy, để phân tích sự khác nhau về thối, trụ, quán phương v.v… của người ấy: Những người ấy không còn khả năng dứt mất gốc lành v.v… là nói về nghĩa trụ của người kia. Như trong luận Tạp Tâm chép: “Noãn v.v… chỉ không dứt mất gốc lành, tạo ra Nhất Xiển-đề, gây ra năm tội nghịch, trái phạm bốn giới trọng. Trong đây dù là năm tội nghịch, bốn tội trọng, cũng đều không làm, vì không làm, cho nên trụ.

“Người này là hai v.v… trở xuống là nói về nghĩa quán phương, là chìm của người tu hành kia. Trước là nêu, kế là trình bày, sau là giải thích rất dễ hiểu.

Dưới đây là đoạn tám là nói về người của pháp Đảnh: Người này cũng có ba nghĩa: Thối, trụ và quán phương. Văn lược qua không nói. Trong văn, đầu tiên là nói: “Quán phương tức đảnh, nhân trước, khởi sau, cùng cực thoái lui, gọi là Đảnh. Quán phương của bốn Học trước, quán ấy thêm lớn thì gọi là Đảnh. Dù là năm ấm, nhưng nói về thể tánh của chúng, tương ưng với Đảnh này, không có làm ra chung, tức là sắc ấm. Thức ấm tâm vương, tâm sở thọ ấm, số tưởng là tưởng ấm. Ngoài ra các tâm pháp khác, được gọi là hành ấm. Vì cũng “Duyên” bốn đế, nên gọi là quán phương, giải thích quán nghĩa phương. Vì quán đế đồng với quán trước, cho nên nói “Cũng”, cũng có thể đồng với quán sau.

Dưới đây là đoạn chín, nói về người của pháp Nhẫn: Người này cũng có Trụ và hai thứ nghĩa của quán phương. Văn lược qua không nói. Trong văn đầu tiên là nói Đảnh, kế là đắc Nhẫn, nhân trước, khởi sau:

An trụ gọi là nhẫn. Cũng là tánh của năm ấm, cũng “Duyên” với bốn đế, giải thích nghĩa quán phương.

Dưới đây là đoạn thứ mười, nói về Thế đệ nhất. Người này cũng có trụ và quán phương. Văn lược bỏ, không nói. Kế là được đệ nhất, nhân trước khởi sau. Cùng cực trong thế gian, gọi là Thế đệ nhất. Kế là nói về tánh của pháp ấy. Văn kinh khác nhau: Có kinh nói tánh là năm ấm” về nghĩa như cách giải thích ở trên.

Lại có kinh nói: “Tánh là năm căn, cái gọi là Tín, tấn, niệm, định, tuệ v.v… tuệ là chủ chánh, bốn căn còn lại là bạn giúp đỡ. Cũng “Duyên” bốn đế, là giải thích nghĩa quán phương.

“Pháp Thế đệ nhất chỉ có một niệm”. Luận khác nói về khổ đế” v.v… trở xuống là chỉ “Duyên” một hạnh. Nay, vì sao lại nói “Duyên” bốn đế?”

Giải thích: “Quán đế có hai thứ:

1. “Hạnh tu” do hiện tại sanh khởi. 2. “Đắc tu” là do vị lai được thành.

Tu pháp Đệ nhất ở hiện tại, chỉ quán một hạnh. Nói thêm về bốn đế bên cạnh ở vị lai. Nay y theo “Đắc tu”, gọi là “Duyên” bốn đế.

Sau đây là đoạn thứ mười một, nói về người mười lăm tâm kiến đế kia. Dứt hoặc của kiến đế có mười sáu tâm, tám Nhẫn và tám Trí:

Nói tám Nhẫn: Quán bốn đế của cõi Dục có bốn pháp Nhẫn; quán bốn đế ở trên có bốn Tỉ Nhẫn.

Nói tám Trí: Quán bốn đế cõi Dục có bốn pháp Trí, quán bốn đế ở trên có bốn Tỉ Trí.

Trong mười sáu tâm này, mười lăm tâm trước, gọi là kiến đạo. Nay, kế là nói về kiến đạo: Người này chỉ có một nghĩa quán phương. Còn nghĩa “Trụ”, vì chung với nghĩa sau rõ ràng, cho nên không nói.

Trong văn, đầu tiên là nói về khổ pháp Nhẫn là con người. Theo thứ lớp, được Khổ pháp nhẫn, nhân trước, khởi sau. Tánh nhẫn là tuệ, nói về thể tánh của tuệ.

“Vì sao trên đây đều nói năm ấm, ở đây lại nói gồm thâu riêng tuệ?”

“Về lý thật ra giống nhau, vì thấy pháp trong kiến đạo, vì công dụng của tuệ rõ ràng, mạnh mẽ, nên nói nghiêng về một bên. “Duyên” một đế, nghĩa là nói nghĩa quán phương.

“Đối với khổ đế v.v… trở xuống là hướng về duyên một hạnh. Nếu người của hạnh ái, thi hoặc quán khổ hạnh, hoặc hạnh vô thường. Người của hạnh kiến, hoặc quán “Không hạnh”, hoặc hạnh Vô ngã.

Hỏi: “Trong một hạnh hiện duyên của pháp Thế đệ nhất ở trước, y theo đắc tu ở vị lai của người kia, gọi là “Duyên” bốn đế. Khổ pháp nhẫn này vì sao không được như vậy mà nói là “Duyên” “Một”?

Giải thích: “Có lý do, vì một pháp Thế đế vẫn còn hạn chế rộng, hẹp ở thế gian, bên cạnh đời vị lai, vì tu rộng nhiều, nên nói duyên với bốn. Tâm Khổ Nhẫn v.v… là bên cạnh đạo nhanh chóng, cao vời vợi, tu hẹp hòi, ít ỏi ở vị lai chỉ đối với đồng bốn hạnh của đế mà được thêm sáng suốt, vì không bằng đế khác, nên nói “Duyên” “Một”, cho đến kiến đoạn, là nêu Nhẫn Trí khác.

Sau đây là đoạn thứ mười hai, nói về Tu-đà-hoàn. Tâm Tỉ Trí của đạo thứ mười sáu kia là thể của Tu-đà-hoàn. Người này chỉ có một nghĩa “Quán phương”. Trong văn có ba:

  1. Lược nêu.
  2. Nêu lên, giải thích.
  3. Kết pháp đồng dụ.

Trong phần đầu, nói được quả Tu-đà-hoàn, nghĩa là nêu sở đắc. Đó gọi là quán phương khắp thứ tư là nói về pháp đồng dụ.

Dù đã học quán phương trong Noãn v.v… ở trước, nhưng chưa thành tựu. Các Tâm như Khổ nhẫn v.v… tuy quán phương đã thành tựu mà chưa được cùng khắp. Đến đây, vì cùng khắp, nên nói quán khắp. Phương tức là bốn đế, nói về sở quán kia.

Trong phần nói rộng, đầu tiên là Ca-diếp hỏi để khởi phát, kế là Như lai đáp:

“Ca-diếp bạch Phật: “Vì trước đắc đạo, nên gọi là Tu-đà v.v… trở xuống là trong nghĩa trước, vì có người khó hiểu, nên hỏi đáp để chỉ bày rõ lại;

Trong phần trước, Ca-diếp đặt ra đủ bốn câu hỏi:

1. Hỏi Tu-đà-hoàn dứt trừ “Hoặc” ít nhiều? Như trước, Phật nói: “Hoặc” mà Tu-đà đã dứt, giống như nước sông chiếm diện tích bốn mươi dặm, chỉ còn bằng một giọt, nêu lời nói xưa của Phật.

“Sao trong đây lại nói dứt ba kết?” Nêu nhiều, vặn hỏi ít. Trước kia, trong phẩm Hiện Bệnh, Như lai đã nói dứt ba kết, được Tu-đà-hoàn nên nay, mới gạn hỏi.

Sau nêu ba danh: Chẳng phải nhân mà chấp nhân là giới thủ. Giới quạ, gà v.v… chẳng phải thật là nhân của diệt mà cho là nhân, nên gọi là chẳng phải nhân mà chấp là nhân. Hai danh còn lại rất dễ hiểu.

2. Hỏi về nghĩa quán khắp phương của Tu-đà.

3. Hỏi về danh của Tu-đà: “Vì sao gọi là Tu-đà-hoàn?”

4. Hỏi về Tu-đà dụ cho nghĩa Thố ngư.

Sau đây, theo thứ lớp câu hỏi, Phật sẽ, giải thích.

Trong giải thích câu hỏi đầu, văn chia làm ba:

  1. Đương tướng là nói, giải thích.
  2. “Là ba cặp v.v… trở xuống là y theo đối trị để giải thích”.
  3. “Có chúng sinh v.v… trở xuống là tùy theo hóa độ để giải thích”.

Y theo đoạn đầu, trước là mở ra hai môn, lại làm một môn, cũng gồm thâu tất cả chỗ dứt của Tu-đà làm môn thứ hai. Sau là giải thích rộng:

Trước là giải thích lớp đầu, trong đó, trước là dụ: “Như nhà vua du ngoạn v.v… là nêu sự dụ.

“Vì sao? v.v… trở xuống là giải thích. Vì chú trọng, nên nói nghiêng về.”

“Ba việc này như thế” là hợp để nói về pháp. Như vua thế gian, vì chú trọng nên nói nghiêng về.”

“Vì sao? v.v… Trở xuống là giải thích trước hỏi, sau giải thích.”

Tất cả chúng sinh thường sanh khởi: Phần nhiều vì hạnh, nên chú trọng. Như bệnh thường phát, gọi là bệnh nặng. Sâu kín khó biết, nghĩa là vì tiềm ẩn, sâu xa nên nặng, như bệnh khó phân biệt, gọi là bệnh nặng. Ba thứ này khó dứt, vì có sức mạnh cho nên nặng.

Ở đây, là giải thích môn đầu, có thể là nhân của tất cả phiền não, là giải thích môn sau ở trên.

“Có thể là nhân của tất cả phiền não là sao?”

“Y theo năm kiến và nghi trong mười sử, vào thời gian kiến đạo đã hết, cùng với đoạn tên của chúng. Tham, sân, si, mạn, kiến, đoạn không hết, không nên gọi là dứt.

Y theo chỗ dứt, có ba gốc, ba tùy: Thân kiến là gốc, biên kiến là tùy, giới thủ là gốc, kiến thủ là tùy, Sử nghi là gốc, Tà kiến là tùy. Vì nghĩa này, nên Phật nói ba kết là nhân tố của tất cả.

Dưới đây là đoạn hai, y theo pháp đối trị để, giải thích:

Vì ba kết này là ba hạnh giới, định, tuệ, vì oán lớn nên nói nghiêng về một bên. Về nghĩa này như thuyết của luận Tỳ-bà-sa kia đã nói: “Thân kiến là oán lớn của giới học kia. Do chấp thần là thường, khổ, vui không thay đổi, không sợ nghiệp quả, tha hồ gây ra tội.”

Chút đỉnh từ nghĩa này, nói là kẻ thù của giới. Giới thủ là kẻ thù của định. Chấp giới là trở ngại của đạo, đạo tu thiền định, lìa dục. Con người nhận lấy tán thiện của cõi Dục, làm chướng ngại đạo, tu pháp thiền định của thượng địa. Nghi là oán của tuệ, vì nghi ngờ đối với pháp, sẽ chướng ngại chánh trí.

Dưới đây là đoạn ba, tùy hóa độ để giải thích: có các chúng sinh nghe nói Tu-đà-hoàn dứt trừ vô lượng kiết, thì sinh tâm lui sụt, nên Phật chỉ nói ba. Kế là Phật đáp câu hỏi thứ hai. Trước là nêu lời hỏi, sau là đáp trình bày, giải thích. Quán đạt được bốn việc, là nêu chung; kế là trình bày; sau là giải thích, giải thích câu đầu rất dễ hiểu.

Giải thích câu hỏi thứ hai: “Đều có thể quở trách phiền não trong, ngoài. Do mê lý đối với mười sử mà sinh ra, gọi là phiền não trong, duyên vào việc mà sinh, gọi là phiền não ngoài. Hai câu hỏi sau, rất dễ hiểu.

Kế là Phật đáp câu hỏi thứ ba, trước là nhắc lại giải thích.

Ca-diếp nói: v.v… trở xuống là hỏi đáp, chỉ bày rõ lại:

“Tu-đà-hoàn này, gồm có hai v.v… trở xuống là nói về sự khác nhau giữa nhạy bén và chậm lụt của Tu-đà-hoàn.

Trong phần trước, trước là nêu, sau, giải thích danh nghĩa Tu-đà, nói đủ thì lẽ ra có ba:

  1. Gọi là tu tập vô lậu.
  2. Gọi là nghịch lưu.
  3. Gọi là dứt nợ ba đường.

Trong văn, chỉ có y theo hai tên gọi trước để giải thích. Tu, Hán dịch là vô lậu; Đà-hoàn dịch là tu tập, là nghĩa đầu. Tu Hán dịch là lưu v.v…, là nghĩa thứ hai.

Tu Hán dịch là lưu, Hán giải thích nghĩa tu, sau đây là giải thích nghĩa Đà-hoàn:

Đà-hoàn Hán dịch là Nghịch. Trước, là nêu hai lưu (dòng chảy) là thuận và nghịch, là nêu tên gọi.

Vì nghịch, lưu v.v… trở xuống là nói giải thích rõ Đà-hoàn. Sau đây, trong phần chỉ bày rõ lại, trước là Ca-diếp hỏi:

Nếu theo nghĩa này, thì vì sao từ Tu-đà cho đến A-La-hán, không gọi là Tu-đà, là chấp chung vặn hỏi riêng.

“Nếu trên đây, với nghĩa tu tập vô lậu, ngược dòng sinh tử, gọi là Tu-đà, thì Tư-đà-hàm v.v…, đều có nghĩa này, chẳng lẽ gọi là Tu-đàhoàn, mà gọi là nghiêng về sơ quả Tu-đà-hoàn?” Phật đáp có hai:

  1. Đối với câu hỏi ở trước, nói nghiêng về một thứ Tu-đà có chung, có cuộc hạn.
  2. Người này cũng gọi là Tu-đà-hoàn v.v… trở xuống là nhân nói về tên gọi tất cả hiền, thánh, để nói có thông suốt, có cuộc hạn.

Trong phần trước, trước nói Tu-đà là gọi chung. Tên của tất cả chúng sinh có hai v.v… trở xuống là chỉ rõ nghĩa cuộc hạn kia.

Trong chung, từ Tu-đà cho đến chư Phật, cũng gọi là Tu-đà, chính là chỉ rõ nghĩa chung. Nếu Tư-đà-hàm, cho đến chư Phật không có Tuđà-hoàn, thì làm sao được gọi là Tư-đà cho đến Phật, là giải thích trái lại nghĩa chung. Nghĩa này thế nào? Nếu Tư-đà-hàm không tu vô lậu, không ngược dòng sinh tử, thì làm sao gọi là “Mỏng”? Cho đến chư Phật không tu vô lậu, không ngược dòng sinh tử, thì sao gọi là giác?

Trong cuộc hạn, nói chỉ có người chứng Sơ quả được gọi là Tu-đàhoàn, ngoài ra đều không được. Trong đó, đầu tiên là phân biệt , Thánh khác với phàm, tên chúng sinh có hai, nói rộng, là nêu rộng. Khách, cựu, là nêu tên gọi.

Sau, y theo danh nói về khác. Phàm phu có tên đời, chứng tỏ phàm khác với Thánh. Đã đắc đạo rồi, lại được đặt tên gọi là Tu-đà-hoàn, nói lên đầu khác với sau. Vì được sau, nên gọi là Tư-đà, nói sau khác với đầu.

Trên đây, là giải thích thẳng nghĩa chung, nghĩa cuộc hạn của một tên gọi Tu-đà. Sau đây, sẽ giải thích rộng về nghĩa chung, cuộc hạn danh hiệu của tất cả bậc Thánh. Văn chỉ nói chung nêu, lược bỏ, không nói lên tên cuộc hạn. Chia làm bốn câu:

1. Nói người này cũng gọi Tu-đà, cho đến Phật nói sơ quả kia có tất cả tên gọi.

2. Lưu có hai v.v… trở xuống là nói Hiền, Thánh khác nhau, có đủ tất cả tên gọi. Vì nói Thánh khác, nên gọi là Tu-đà-hoàn, nên phải lập hai lưu. Trước là nêu, kế là trình bày, công đức hữu vi gọi là giải thoát, công đức vô vi gọi là Niết-bàn. Tất cả bậc Thánh đều có hai công đức này, cũng gọi là Tu-đà, y theo người để phân biệt. Đủ hai lưu ở trước ngược với sinh tử, cho nên, tất cả đều gọi là Tu-đà, mà cũng gọi Tư-đà cho đến gọi Phật.

3. Người Tu-đà, gọi là Bồ-tát v.v… trở xuống là y theo đoạn đầu ở trên, nói về ngưởi Sơ quả có đủ tất cả tên gọi, trong đó, chỉ giải thích vì sao gọi là Phật, Bồ-tát. Tên gọi khác, so sánh có thể biết, vì lược bỏ không giải thích.

Bậc Tu-đà-hoàn, cũng gọi là Bồ-tát, là lược nêu.

Vì sao? v.v… Trở xuống là giải thích. Bồ-tát kia gọi là chúng sinh đạo, vì cầu đạo, nên gọi là chúng sinh đạo. Vì vậy mà giải thích:

Nói về đạo Bồ-đề trong Tiểu thừa, tức là La-hán. Tận cùng trí sinh, Tu-đà vì cầu trí này, nên gọi là Bồ-tát. Bậc Tu-đà-hoàn cũng gọi là giác.

“Vì sao?” v.v… Trở xuống là giải thích.

Bậc Chánh giác thấy đạo dứt phiền não, nghĩa là chánh quán đế lý, dứt trừ phiền não.

Nhân quả của giác, nghĩa là năng giác, biết quả khổ; nhân tập; quả diệt; nhân đạo là chánh giác, đạo chung. Đạo không chung là đối tượng quán là hạnh Thánh, đối với ấm là chung; đối với đế là không chung.

Đối với bốn Đế v.v… trở xuống, vì nghĩa hạnh đều khác nhau, nên gọi là không chung.

Ba đế trước v.v… trở xuống là vì mỗi hạnh đều chung năm ấm, nên gọi là cộng.

Vì có nghĩa này nên Tu-đà-hoàn được gọi là Phật.

4. Tư-đà v.v… trở xuống là y theo câu hai ở trước, nói về các Hiền, Thánh khác có thể đủ tất cả tên gọi, trong đó nói nghiêng về Hiền, Thánh của Tiểu thừa đều có đủ hai tên gọi Phật, Bồ-tát. Đại thừa có đủ tên Tiểu thừa, lược bỏ không nói. Cho nên trong văn hiện nay nói rằng: “Tư-đà cho đến La-hán cũng giống như thế, cũng như Tu-đà được gọi là Phật, Bồ-tát.

Trên đây là hỏi đáp để chỉ bày rõ lại.

Dưới đây là đoạn ba, nhân nói về Tu-đà khái niệm về nhạy bén, chậm lụt, Tu-đà có hai, nói chung để nêu. Nhạnh bén, chậm lụt là nêu tên gọi. Sau đây là nói về tướng:

Trước là nói về người chậm lụt, y theo sinh để giải thích: Tu-đà rất chậm lụt, phải bảy lần thọ sinh lại trong cõi người, cõi trời, mới được Niết-bàn, ít nhất là hai lần thọ sinh. Nên nay nói: bảy lần thọ sinh lại trong cõi trời, cõi người, nêu lên sự rất chậm lụt của tu phải bảy lần thọ sinh lại trong cõi người, cõi trời, mới được Niết-bàn, ít nhất là hai lần thọ sinh. Nên nay nói: bảy lần thọ sinh trở lại trong cõi trời, cõi người là nói tính rất chậm lụt của Tu-đà.

Lại có năm thứ nói về năm bậc khác. Sau đây là, nêu riêng. Sáu lần trở lại cho đến hai là năm. Người căn cơ nhạy bén, hiện tại chứng được Tu-đà cho đến A La-hán, là nói về người căn cơ nhạy bén. Hỏi: “Một lần trở lại, vì sao không nói?”

Giải thích: “Tu-đà có đủ tám phẩm, bảy lần trở lại, đến một tức là bảy phẩm. Hiện bát là tám. Bảy lần trở lại trong tám lần, đến hai, chắc chắn là chậm lụt. Loại hiện bát chắc chắn là nhạy bén.

Trong văn giải thích đủ một lần trở lại không nhất định. Có người căn cơ nhạy bén lẽ ra được hiện bát, vì các nhân duyên hiện tại không được trải qua thọ sinh mới được, đây là căn cơ nhạy bén. Có người căn cơ chậm lụt hiện tại, siêng tu trong thế gian, không cần trải qua thọ sinh mới được, đây là căn cơ chậm lụt. Vì căn cơ nhạy bén, chậm lụt không nhất định, nên ẩn đi không nói.

Sau đây là Phật đáp câu hỏi thứ tư. Trước là nhắc lại lời hỏi. Sau là giải thích.

Thố ngư có bốn, y theo ví dụ để nêu số, xương, nhẹ là y theo dụ, để nêu danh.

Trong vật hàm ngựa cứng chắc, đầu tiên là y theo dụ để chỉ rõ pháp.

Như Ma vương v.v… trở xuống là đoạn ba, dẫn xưa để chứng thành, trước hỏi, kế đáp. Dưới đây là thứ ba, trong nghĩa trước, có người khó hiểu, nên hỏi đáp để chỉ bày rõ lại.

Chỉ bày lại, trong giải thích danh ở trước, về nghĩa có hai lần hỏi đáp.

Y theo câu hỏi đầu, Ca-diếp đầu tiên nêu đưa ra hai quyết định tới, lui là: trước hết được đạo, gọi là Tu-đà-hoàn, hay là vì Sơ quả nên gọi Tu-đà-hoàn? Sau là y theo lập ra câu hỏi:

Nếu trước đã được đạo, gọi là Tu-đà-hoàn thì vì sao vào thời điểm khổ – pháp – nhẫn, không được gọi là Tu-đà-hoàn? Nếu do sơ quả, gọi Tu-đà-hoàn, thì người ngoại đạo ở trước đó đã dứt phiền não, đến vô sở hữu, lúc được Na-hàm, vì sao không gọi là Tu-đà-hoàn? Đây là nêu Na-hàm siêu vượt để đặt ra câu hỏi:

Thế nào là siêu vượt? Tu-đà, Na-hàm đều có nghĩa siêu vượt.

Có người lúc còn là phàm phu, dựa vào thiền tịnh thế gian, thực hành sáu quán hạnh, dứt trừ hết năm phẩm kết cõi Dục, rồi nhập kiến đạo, khi đến Đạo tủ trí thứ mười sáu vẫn như cũ, gọi là thứ lớp Tu-đàhoàn. Nếu dứt hết phẩm sáu, bảy, tám đều nhập vào đạo kiến đế. Đến lúc tỉ trí của đạo thứ mười sáu, không làm Tu-đà hoàn Tư-đà-hàm, siêu vượt quả Tư-đà-hàm thứ phiền não sở đoạn của người Tư-đà-hàm trước đã dứt, dứt hết dục kiết, đến vô sở hữu, sau nhập kiến đạo, khi đến đạo Tỷ trí thứ mười sáu không làm Tu-đà-hoàn và Tự-đà-hàm mà siêu chứng quả A la hán thứ ba, Na-hàm trước đó đã hết, nên siêu vượt như thế.

Đặt câu hỏi ra sao? Nếu người theo thứ lớp, đến thời điểm tỉ trí của đạo thứ mười sáu, do sơ quả nên gọi Tu-đà thì người siêu vượt thứ lớp kia, trước đó đã dứt hết phiền não cõi Dục, đến Vô sở hữu, nhập đạo kiến (thấy) đế, đến thời điêm tỉ trí của đạo thứ mười sáu, cũng đầu tiên được quả, thì vì sao không được gọi Tu-đà-hoàn, mà gọi là Na-hàm?

Phật sẽ đáp sau đây:

“Vì sơ quả nên gọi là Tu-đà-hoàn, giải thích câu hỏi đầu, bởi vì sơ quả gọi Tu-đà, nên vào thời điểm khổ – pháp – nhẫn, chưa chứng sơ quả, do đó, chẳng được gọi là Tu-đà-hoàn.”

Như ông hỏi v.v… trở xuống là giải thích, loại bỏ câu hỏi ở sau. Trước là nêu lời của môn, sau là trình bày, giải thích, ý giải thích như thế nào?

“Nói người sơ quả gọi Tu-đà-hoàn, vượt lên Na-hàm, siêu chứng thứ ba, không phải là người sơ quả, cho nên, không được gọi là Tu-đàhoàn.”

Trong văn, đầu tiên là nói: “Vì sơ quả, nên gọi là Tu-đà-hoàn, chính là đáp câu hỏi kia. Người này, lúc bấy giờ, đã đủ tám trí và mười sáu hạnh, là nói về tướng của sơ quả. Bốn pháp, bốn tỉ, là tám trí kia. Khổ, vô thường v.v…, là mười sáu hạnh. Người này chỉ thực hành một quán hạnh sau đạo hiện tại, bên cạnh vị lai, tăng thêm sáng suốt ở mười sáu, được gọi là đủ mười sáu hạnh.”

Ca-diếp trở xuống lại chấp làm câu hỏi:

“Siêu việt Na-hàm, cũng đủ tám trí, đủ mười sáu hạnh, vì sao không gọi Tu-đà-hoàn?” Sau đây là Phật, đáp:

“Nói chỉ Tu-đà, vì được sơ quả, nên gọi là Tu-đà. Người kia chứng thứ ba, chẳng phải Sơ quả, không gọi là Tu-đà.”

Trong văn, Phật đáp riêng thứ lớp Na-hàm, giải thích Tu-đà, là nghĩa sơ quả, còn vượt lên Na-hàm thì hoàn toàn không nói, vì thứ lớp của hạnh phi thường kia, trong đó văn có hai:

Y theo hạnh tu để nói về quả đầu khác với quả sau.

Tu-đà-hoàn duyên bốn Đế v.v… trở xuống là y theo đối với “Duyên” cảnh, để giải thích sử dụng sơ quả khác với quả sau.

Trong phần trước, đầu tiên là nói sơ quả khác với quả sau. Bậc Na-hàm thì không phải như thế, nói lên quả sau khác với sơ quả.

Cho nên v.v… trở xuống là kiết.

Trong sơ quả khác với quả sau, là nói Tu-đà-hoàn đã bỏ phàm, nhập Thánh vì bỏ “Hướng”, được quả, nên gọi là sơ quả, trong đó trước kia chia ra làm mười sáu hạnh riêng; kế là chia ra tám trí; sau là dựa vào trí, hạnh này, để giải thích Tu-đà là nghĩa sơ quả.

Trong phần đầu, trước là phân tích mười sáu hạnh hữu lậu thành hai thứ, có hai nêu số: Chung và không chung, nêu hai tên gọi đó. Về nghĩa này thế nào? Mười sáu hạnh kia được y theo ở cõi trên, cõi dưới có ba mươi hai. Đối với mỗi hạnh đều quán sát lại, được gọi là quán chung, riêng và không chung. Vì nói về nghĩa này, thì phải nói lên sự khác nhau của bốn tâm như noãn, v.v… Đối với chỉ, quán của ba mươi hai hạnh trên, dưới ấy về sau sẽ bỏ tâm thường quán sát, gọi là Noãn. Thường quán sát chưa sáng suốt, gọi là phương tiện Noãn; thường quán rõ ràng, được gọi là thành tựu Noãn. Sau chỉ quán của mỗi hạnh, đều dứt trừ tâm quán sát, để đơn giản dần, cho đến sau mỗi hạnh kia, đều quán nhất, tâm gọi là Đảnh. Hai tâm quán ở trước, gọi là phương tiện; một tâm quán sau gọi là thành tựu. Quán nhất tâm này giống như sơ quán trong nhẫn sau, như Nhẫn tăng thượng giống với Pháp đệ nhất. Trong mỗi hạnh đều có quán nhất tâm, gọi là sơ tâm Nhẫn. Lại, từ sau tới trước lược bỏ, cho đến sau cùng chỉ “Duyên” một hạnh: Khổ phẩm hạ cõi Dục, gọi là Nhẫn, gọi là thành tựu. Đối với đối sở duyên sau cuối của tâm Nhẫn ở trước, quán nhất tâm lần nữa, gọi là Thế đệ nhất.

Hỏi: “Hạnh lành càng nhiều thì lẽ ra càng tốt, vì sao lại phải đơn giản hóa?”

Như trong A-Tỳ-đàm, Ca-chiên-diên nói: “Ví như người giàu có muốn đến nước khác, phải lo sao cho mình có nhiều tài sản để đổi ra tiền. Cũng ngờ vực ở tiền, lại đem tiền đổi lấy vàng. Cũng lo lắng vàng, lại đem vàng đổi lấy châu báu có giá trị lớn, hầu đem đến nước khác.” Cũng như thế, hành giả muốn vào đạo xuất thế, phải lo hữu lậu kia có nhiều hạnh, vì phiền muộn, nên phải đơn giản dần.

Hai lớp quán đầu trong bốn bậc này, gọi là mười sáu hạnh chung; hai thứ bậc sau, quán riêng, gọi là không chung.

Sau đây, là phân tích vô lậu có hai nêu số. “Hướng” được nêu tên gọi. Sở quán trong mười lăm tâm của kiến đạo kia, được gọi là hướng. Sở quán lúc đạo tỉ trí, được gọi là “Đắc”. Tâm của đạo tỉ trí duyên riêng một hạnh, làm sao được có mười sáu hạnh khác nhau?

Giải thích: “Tâm của đạo tỉ trí kia, trong hiện tại, dù “Duyên” một hạnh, nhưng bên cạnh vị lai, vì ở mười sáu hạnh đã tăng thêm sáng suốt, nên khi đắc quả cũng vẫn đủ mười sáu hạnh.

Kế là, nói về tám trí. Có hai nêu số. “Hướng” được nêu tên gọi.

Quả “Hướng” có tám: trong đạo kiến đế chỉ có bốn pháp và ba tỉ trí. “Xứ nào có tám?” “Hướng” có gần xa. Bốn tâm hiện nhẫn trước của đạo kiến đế, học quán bốn đế, gọi là “Hướng” xa, gồm thâu một đẳng trí trong trí này, trong đạo kiến đế, lại còn có bảy trí, hợp thành tám trí.

Hỏi: “Quả” “Hướng” trong mười sáu hạnh trước của “Hướng”, mười sáu hạnh này không thuộc về hữu lậu. Nghĩa nào trong trí của Hướng quả được gồm thâu chung?”

Giải thích: “Hai xứ hữu lậu, vô lậu trong mười sáu hạnh trước của “Hướng”, vì nói riêng, nên trong quả “Hướng” không gồm thâu hữu lậu. Hữu lậu, vô lậu trong tám trí này, vì không nói riêng, nên được gồm thâu chung.

“Vì sao không khác nhau?” Vì trước kiến đạo, chỉ có một đẳng trí, hơn nữa, vì không có nghĩa “Khác”, nên không nói riêng.

Đắc quả có tám: lúc chứng quả bỏ bảy trí vô lậu trong kiến đạo, lại khởi đắc quả mới. Được bảy trí vô lậu kia dùng làm quả chung, đều là đạo tỉ trí, hợp chung thành tám.

Đẳng trí hữu lậu trong “Hướng” xa ở trước, được quả không xả bỏ, cũng không đắc quả mới, vì không gồm thâu làm quả, nên chỉ có tám.

Sau đây, y theo hai trí trước để giải thích Tu-đà, phải bỏ mười sáu hạnh chung, để được mười sáu hạnh không chung; bỏ tám trí “Hướng”, để được tám trí của quả, nên gọi là sơ quả. Văn này lược bớt. Nếu nói đủ, thì nên nói: “Bỏ mười sáu hạnh chung, được mười sáu hạnh không chung; bỏ mười sáu hữu lậu, được mười sáu vô lậu; bỏ mười sáu hạnh của “Hướng”, để được mười sáu hạnh của quả; bỏ tám trí của “Hướng”, để được tám trí của quả.

Y theo sơ quả, so sánh với quả sau, vì trung rất dễ hiểu, nên sơ lược không nêu.

Bỏ mười sáu chung, được không chung: không làm gọi là bỏ, chẳng được gọi là đoạn, bỏ là bỏ tám trí của “Hướng”, được tám trí quả, nghĩa là một đẳng trí đầu trong tám quả “Hướng”, lúc nhập chánh đạo không thực hành, gọi là xả, giống với mười sáu hạnh chung của xả ở trước, không phải được đoạn, xả. Một đẳng trí ở trước thì xả mà không được. Bảy trí sau là vô lậu, xã mà lại được. Tỉ trí của đạo chung hợp thành tám.

Trên đây, một đoạn, đã nói sơ quả khác với quả sau. Người A-nahàm thì không như thế, nói lên quả sau khác với sơ quả. Theo thứ lớp, Na-hàm không như Tu-đà, bỏ mười sáu chung được không chung v.v… Cho nên, không được gọi là sơ quả, vì chẳng phải sơ quả, cho nên không gọi là Tu-đà.

Cho nên v.v… trở xuống là hkết. Y theo bắt đầu kể kết.

Người Tu-đà này, vì là sơ quả, nên gọi là nghiêng về Tu-đà. Xem văn như thế. Lại nữa, phân biệt người của ba quả trước, đều có hai Hướng:

  1. “Hướng” chung.
  2. “Hướng” không chung.

Tâm kiến đạo hướng chung ba quả, gọi là “Hướng” chung của người thứ lớp, nhập đạo kiến đế, hướng Tu-đà-hoàn. Trước là dứtn hết sáu phẩm kết cõi Dục, nhập đạo kiến đế, vì hướng A-na-hàm, nên gọi là hướng chung. Bốn tâm như noãn v.v…, hướng nghiêng về một bên Tu-đà. Sau quả Tu-đà, tiến đến dứt hết kiết cõi Dục, cho đến sau đạo vô ngại thứ chín, hướng nghiêng về Na-hàm, gọi là hướng không chung, tất cả đều tu Noãn v.v…, thú nhập kiến đạo.

Vì sao kiến đạo, nghiêng về gọi là “Hướng” chung? Bốn tâm như Noãn v.v… không gọi là “Hướng” chung mà hướng nghiêng về Tu-đà?

Giải thích: “Kiến đạo ấn chứng, siêu vượt Tư-đà, Na-hàm, trước đó đã tu được hết kết, vì vô vi, nên hướng chung. Bốn tâm như Noãn v.v… vì chưa thể ấn chứng, nên không thể hướng về hai quả còn lại, mà hướng riêng Tu-đà.

Nghĩa đã như thế, người theo thứ lớp kia, có đủ hai thứ chung, không chung từ Tu-đà; vì hướng về sau mà được quả Thánh, nên gọi là Tu-đà-hoàn, người siêu việt ấy chỉ từ Tu-đà-hoàn không từ hướng chung của Tu-đà mà được. Cho nên, chẳng được gọi là Tu-đà-hoàn. Người siêu vượt thứ lớp kia, nhập đạo kiến đế, chỉ được gọi là siêu vượt hướng. Trước, y theo hạnh tu để nói sơ quả khác với quả sau. Sau, dựa vào cảnh để nói về người Tu-đà-hoàn duyên bốn đế, để nói sơ quả khác với quả sau. Na-hàm “Duyên” một đế, chứng tỏ quả sau khác với sơ quả. Thú hướng trong bốn đế, “Duyên” một thứ dứt liên kiết cõi Dục, không đồng với Tu-đà. Ở đây cũng nói về Na-hàm của thứ lớp kia, không nói về siêu vượt, vì thứ lớp của hạnh phi thường của người kia.” “Cho nên v.v… trở xuống là hết.

Trên đây, đã nói rộng.

Vì nghĩa này v.v… trở xuống là kết pháp đồng dụ.

Sau đây là đoạn thứ mười ba, nói về “Quán” đã vận hành. Đầu tiên là lược nêu.

Buộc tâm tu hành là nói về hành tướng. Như cá kia, nói lên pháp đồng dụ.

Sau đây là đoạn mười bốn, nói về “Hạnh” đã trụ. Trước, lược nêu lên. Hạnh xong sau là trụ, nghĩa là A-na-hàm dùng làm một môn. Được ăn xong, trụ lại là một môn. Sau là nói rộng:

Trước nói rộng môn đầu; nói rộng môn sau. Trong phần trước có ba:

  1. Khai hợp, nói về tướng.
  2. Chúng sinh cõi Dục, cõi Sắc có hai nghiệp v.v… trở xuống là theo giải thích rộng ở trước.
  3. Ca-diếp bạch: Trung bát lợi căn v.v… trở xuống là trong nghĩa trước, vì có người khó hiểu, nên hỏi đáp để Phật chỉ rõ lại.

Trong phần đầu có bốn:

1. Y theo chung vào cõi trên, cõi dưới để nói về hai thứ: Y theo từ cõi Sắc trở lên, nói có năm thứ trung bát.

2. Y theo chung cõi trên, cõi dưới nói có sáu, bảy trung bát.

3. Y theo riêng cõi Vô sắc là nói có hai, ba trung bát.

4. Y theo đoạn đầu có hai nêu số. Sau, nói rất dễ hiểu. Trong đoạn hai, trước nêu, sau liệt kê:

Nói trung bát, các luận đều giải thích khác nhau:

Theo luận Thành Thật, bỏ thân cõi Dục, hướng về cõi Sắc, vì bỏ thọ thân trung gian mà được Bát-niết-bàn, gọi là trung bát.

Luận Thành Thật không lập thân trung ấm. Luận này và Tỳ-đàm, bỏ thân trung ấm chính giữa, sinh trên cõi Dục, mà được Bát-niết-bàn, nên gọi là trung bát.

Không có thọ sinh riêng mà thọ thân Bát-niết-bàn: Chỗ khác gọi là Na-hàm sinh bát. Với hành, không có hành, đồng ở một chỗ, tùy nghĩa phân tích mà có khác. Tướng khác ra sao? Kinh, luận nói bất đồng:

Gồm có ba điểm khác nhau:

1. Y theo Tỳ-đàm, bỏ trên cõi Dục, lên đến giữa cõi Sắc, tùy thọ thân lần đầu tiên ở chỗ nào, mới sinh trong thân này được Bát-niết-bàn, gọi là sinh bát. Tức là trong đời này có người căn cơ nhạy bén, quán sát mười sáu Thánh hạnh, được bát, gọi là Hành bát. Lại nữa, quán sát hạnh hữu vi của Khổ, Tập và Đạo mà được bát, cũng là Hành bát, tức trong đời sống này có người căn cơ chậm lụt, tu tập đẳng trí hữu lậu dứt kết, không quán mười sáu Thánh hạnh, dứt kết. Như thế mà được bát, gọi là vô hành bát.

2. Lại, lập ra quán đế, chỉ quán sát pháp thù thắng vô vi của Diệt Đế, mới được gọi là bát, gọi là bát vô hành. Hai người sau này đều hết tuổi thọ, mới được bát, khác với người ban đầu. Sinh bát trong ba người này rất nhạy bén, Hành bát là kế đó, Vô hành rất chậm lụt.

3. Nếu theo luận Thành Thật, thì sinh bát đồng với căn cơ nhạy bén ở trước, vô hành là kế đó. Người này tự biết định mình đã được đạo hạnh không lay động của Niết-bàn, tuổi thọ đã hết, được bát, gọi là vô hạnh bát. Hành bát rất chậm lụt,tinh tấn siêng năng hành đạo, tuổi thọ hết được bát, gọi là Hành bát. Kinh này đã nói: “Thọ thân bát, đồng với Na-hàm. Hành bát trong luận Thành Thật. Tinh tấn, siêng năng hành đạo, tuổi thọ đã hết, được Bát-niết-bàn, gọi là thọ thân bát. Hành bát trong đây giống với Sinh bát trong luận Thành Thật. Tinh tấn, siêng năng hành đạo, không đến sau cùng của tuổi thọ mà được Niết-bàn, gọi là Hành bát. Vô hành trong luận này, đồng với đạo hạnh bất động trong luận Thành Thật, tuổi thọ đã hết, được Bát-niết-bàn, gọi là vô Hạnh Bát.

Thượng lưu bát, nghĩa là từ cõi Sắc trở lên, tùy hai đời sinh ở chỗ nào về sau mà được bát, gọi là thượng lưu bát, trong đó, chia kỹ có bốn thứ:

  1. Thượng lưu bát: Thọ thân theo thứ lớp, đến trời Quảng quả, mà được Niết-bàn.
  2. Ưa tuệ: Cho đến trời Quảng quả không được Niết-bàn, sinh lên năm tầng trời Tịnh cư.
  3. Ưa định: Đến trời Quảng Quả không được Niết-bàn, sanh lên cõi Vô sắc.
  4. Bát bất định, khoảng giữa chưa đến trời Quảng quả mà được bát. Bốn thứ này nói chung, là Thượng lưu.

Dưới đây là đoạn ba, y theo chung vào cõi trên cõi dưới, nói sáu, bảy trung bát. Trước hết, nói sáu thứ, năm thứ trước như trên, thêm một hiện bát. Y theo hiện bát chia kỹ có hai:

Hiện bát trực tiếp, hiện đang dựa vào thân phàm, tu được Na-hàm, sau cùng đến Niết-bàn.

Hiện bát “Chuyển thế”, trải qua sự thọ sinh trên thân bậc Thánh.

Về sau, tu được Na-hàm, sau cùng đến Niết-bàn, trong đó có bốn: Trải qua Sinh đắc bát trong Tu-đà-hoàn Trải qua Sinh đắc bát trong hạnh Tư-đà. Trải qua Sinh đắc bát trong quả Tư-đà Trải qua Sinh đắc bát trong quả Na-hàm.

Cho nên, bốn xứ “Chuyển thế” mà đến. Xưa nói: Ba xứ “Chuyển thế” mà đến: lời nói ấy là sai lầm!

Kế là nói thêm bảy trung bát, trong sáu trung bát trước, thêm bát

của vô sắc. “Bát-niết-bàn của vô sắc này đâu có khác gì với ưa định trong Thượng bát, mà phải nói riêng?” Giải thích khác nhau.

Ưa định kia là từ Quảng quả trở lên. Bát của vô sắc này từ cõi Dục trở lên, vì trải qua sinh lên cõi Vô sắc, nên phải giải thích riêng. Như trong luận Thành Thật đã nói mười một hiện bát là một, “Chuyển thế” là hai; Trung bát là ba. Ba người trong Sinh bát, chung với trước thành sáu. Ưa định, ưa tuệ chung với trước thành tám. Tín, giải thoát, kiến đạo và thân chứng, chung với trước là mười một. Tám hiện bát ở trước rất dễ biết. Căn cơ chậm lụt trong tám thứ trước, được gọi là tín, giải thoát. Căn cơ nhạy bén, gọi là kiến đạo. Được định diệt tận, gọi là thân chứng. Trong mười một hiện bát kia, lược bỏ không có thượng lưu bát và bất định bát.

Dưới đây là đoạn bốn y theo nghiêng về vô sắc mà nói hai, nói ba trung bát.

“Hành bát này với bát của vô sắc ở trước đâu có khác nhau mà cần phải nói riêng?”

Giải thích: “Khác nhau, bát của vô sắc ở trước là từ cõi Dục trở lên mới sinh vô sắc.”

Từ sau đây, đối tượng giải thích là trải qua sự sinh trong vô sắc về sau.

Hành bát ở cõi trên: Vì khác nhau so với hành bát ở trước, nên phải giải thích riêng.

Trong văn, đầu tiên nói về quả của hành bát kia.

Lại có hai v.v… trở xuống. Trong nói phần giải thích nhân, quả nhất định của hành bát, đầu tiên là nói: “Hành Bát-niết-bàn lại có hai, thứ riêng, nêu số. Vì tu hành được Bát-niết-bàn trên trong cõi Sắc lẽ ra gọi là Hành bát, chẳng phải hành bát thứ ba trong năm hành bát ở trước.

Hành bát trong năm v.v… trở xuống là văn, giải thích riêng.

Hành bát ở cõi trên này, y theo nhân có ba. Văn nêu hai biên, và nói hai. Hai thân, bốn thân là phân biệt danh tự của thân ấy. Thọ hai, gọi là nhạy bén; thọ bốn gọi là chậm lụt. Trình bày, giải thích tướng của chúng, nghĩa này thế nào? Trong cõi Vô sắc có bốn Không xứ. Na-hàm ở trong đó không bao giờ sanh lại. Nếu từ cõi Dục sanh lên bốn không xứ, một thân.

Được bát, gọi là bát vô sắc. Nếu từ Sơ thiền, cho đến Quảng quả, sinh bốn Không xứ và một thân được Bát-niết-bàn, thì gọi là Na-hàm ưa định trong Thượng lưu.

Hai người trước này sinh lên cõi Vô sắc, là một thân, chẳng được hai thân. Về sau, mới được bát, gọi là Thượng hành bát, trong đó, nói đủ, người thọ hai thân được gọi là căn cơ nhạy bén; ba thân gọi là trung bình; bốn thân gọi là chậm lụt. Nay trong nêu hai biên, lược bỏ không nói. Trong nhân có hai thứ pháp: Hai pháp của một thứ đầu là nhân của phẩm trung; hai pháp của một thứ sau là nhà nhân của hai phẩm nhạy bén, chậm lụt ở trước. Nghĩa này là thế nào? Tinh tấn đủ, chắc chắn thọ cả hai thân, không có một người nào thọ đến ba thân. Tinh tấn, thiền định đều không có, mới thọ bốn thân.

Trong hai pháp trước, trước là nêu, sau trình bày: Siêng tu quán, giải, gọi là tinh tấn. Tâm định khó hiện, gọi là không tự tại. Biếng nhác có định, trái với ở trước rất dễ hiểu.

Trong hai pháp sau, trước là nêu, sau là trình bày.

Trên đây là đoạn thứ nhất, khai hợp, nói về tướng.

Dưới đây là đoạn hai, dựa vào đoạn trước để nói rộng, giải thích: Chỉ nói về năm hạng Na-hàm ở trước, trước là nói về Trung bát, văn chia làm ba:

Trong y theo nghiệp để giải thích, trước là nêu hai nghiệp: Tác, thọ nêu danh. Tạo ra duyên khởi ban đầu, gọi là tác nghiệp. Bị ái thấm nhuần, sinh ra quả sau, gọi là nghiệp thọ sinh. Sau, trong y theo, chỉ bày rõ Trung Niết-bàn: Có tác, không có thọ, nên gọi là Trung Niết-bàn.

Trong y theo về xứ để giải thích, bỏ thân cõi Dục, chưa đến cõi Sắc, vì căn cơ nhạy bén, nên ở trung Niết-bàn.

Trong y theo tâm để giải thích, trước là nêu tâm. Kế là nêu bốn danh. Đầu tiên nói: “Phi học, phi vô học”: Là tâm thọ sinh, thọ trung ấm sinh.

Nói tâm học: Là nhân vô lậu, nói vô học: là quả vô lậu. Sau là nói: “Phi học, phi vô học” là khi qua đời, tâm bỏ thân trung ấm. Như luận tạp tâm nói: “Quả báo của La-hán sinh tâm và ý oai nghi. Vì tâm tùy thuận đã diệt, nên thú hướng Bát-niết-bàn.”

Sau, dựa vào bốn tâm này để nói trung Niết-bàn. Trước là hỏi, kế là giải thích. Hai tâm sau trong bốn tâm là Niết-bàn. Hai tâm đầu là “Phi”. Tâm vô học, chứng diệt hữu dư; phi học, vô học nhập diệt vô dư.

Cho nên, hai tâm sau, gọi là tâm Niết-bàn.

Cho nên v.v… trở xuống là kết.

Sau đây là nói về thọ thân. Đầu tiên là nói giải thích.

Ca-diếp nói v.v… trở xuống là hỏi đáp, để chỉ rõ lại.

Trong phần trước, đầu tiên là nói về hai nghiệp kia, kế là nói người kia dựa vào nghiệp thọ thân. Sau, nói về người kia dựa vào thân được bát. Bát này giống như hành bát của luận Thành Thật nói.

Sau đây, sẽ chỉ rõ lại: Trước là hỏi; sau là đáp văn rõ ràng dễ hiểu. Kế nói về hành bát.

Thường tu hành đạo nghiệp, đều do năng lực tam-muội hữu vi, có công năng dứt trừ phiền não, tuổi thọ không cùng tận, nhập vào Niếtbàn, gọi là hành bát. Hành bát này tương tự với sinh – bát của Thành Thật.

Kế là nói về vô hành: Là nghĩa người lười biếng, có giải, không có hạnh, nhờ năng lực tam-muội, nên tuổi thọ đã hết, được bát, gọi là vô hạnh bát.

Kế là nói về thượng lưu, trong đó, trước là nói về lui sụt pháp trên, sinh ra kết dưới. Lưu có hai phẩm hạ: Tự hạ đến thượng. Trước hết, là nêu hai lưu; kế là nêu tên gọi của hai lưu ấy.

Lui sụt pháp lành phẩm trên mà sinh kiết phẩm dưới, gọi là phiền não lưu lại. Lại dứt trừ kết phẩm hạ, sinh ra phiền não phẩm thượng, cũng được gọi là dòng phiền não. Đạo đối trị tăng lên dần, gọi là dòng Đạo.

Sau, y theo Đạo lưu để giải thích nghĩa thượng lưu.

Từ sơ đến tứ thiền cũng giống như thế, nói về nghĩa Thượng lưu hạ phẩm của Quảng quả.

Lại có hai v.v… trở xuống là nói về nghĩa thượng lưu phẩm thượng của Quảng quả, trong đó có ba:

Lược chia ra thành hai người.

Hai người như thế, một người ưa v.v… trở xuống là giải thích nhân, hiển bày quả.

Đó gọi là v.v… trở xuống là kết, phân tích tướng nhân, quả ấy. Đoạn đầu rất dễ hiểu, văn trong đoạn hai lại có bốn:

Nói về sự khác nhau giữa ưa định và ưa tuệ: Trước là nói về đối tượng của ưa thích. Sau là chỉ bày đối tượng nhập.

Nói về điểm khác nhau giữa huân tu thiền và nhất tu thiền có năm thứ bậc khác nhau; người thứ hai, không tu thiền, sơ lược để nêu tiêu biểu.

Sau đây, sẽ giải thích lại tướng của tu năm thứ bậc tu thiền kia. Trước là hỏi, kế là nêu danh. Sau, y theo nói về quả. Nghĩa này thế nào? Người này tu được bốn thiền định xong, trước là huân tu bốn thiền. Trước là nhập vào tâm vô lậu của tứ thiền, kế là nhập vào tâm hữu lậu của bốn thiền. Sau là nhập vào tâm vô lậu của bốn thiền, là trong mỗi thiền, đều có nhiều tâm nối. Tiếp nhau, để đơn giản dần, cho đến mỗi thiền đều phân biệt hai tâm, gọi là huân thiền. Đạo phương tiện thành tựu đều do phân biệt nhất tâm, gọi là huân tu thiền thành tựu. Trong thành tựu, có năm lớp qua, lại, có mười lăm tâm(mười tâm vô lậu, năm tâm hữu lậu). Kế là huân tu ba thiền, có hai tâm kế đó. Kế là đầu, tác pháp đồng với trước, lượt đầu trong năm lượt này là phẩm hạ; lượt thứ hai là phẩm trung; lượt thứ ba là phẩm thượng; lượt thứ bốn là phẩm trung thượng; lượt thứ năm là phẩm thượng thượng.

Tu phẩm hạ trong đệ tứ thiền, tức là không sinh lên cõi trời Vô phiền. Ở đó gọi là Thiểu quảng. Đến phẩm trung tức là thôi sinh lên cõi trời Vô nhiệt. Đến phẩm thượng thì thôi sinh lên Thiẹn hà kiến. Đến phẩm trung thượng, sinh lên cõi trời Thiện kiến. Đến phẩm thượng thượng thì sinh lên cõi trời A-ca-nị-tra, ở đây gọi là Vô tửu. Nếu người không lui sụt, qua đời ở cõi Dục, sinh lên năm tầng trời Tịnh cư. Tam thiền trở xuống, vì kết ái đã hết, cho nên bất sinh. Bốn thiền vì hữu ái, cho nên vãng sinh. Sinh như thế, không gọi là thượng lưu.

Nếu người có lui sụt, đối với Tam thiền phẩm hạ, cho đến sau Quảng quả, lại dứt kiết, lại huân tu thiền, mới sinh lên cõi Tịnh cư. Vãng sinh như thế, mới gọi là Thượng lưu. Đây là đoạn hai đã nói xong.

3. Nói lại tướng của ưa tịnh, ưa tuệ:

Nghĩa ưa biện luận là ưa tuệ.

Ưa vắng lặng là ưa định. Ưa vắng lặng, là ưa thích vô sắc, nói về ngũ tịnh là y theo nhân nói về quả.

Nói lại điểm khác nhau giữa huân tu thiền và không huân tu thiền, đâu có khác so với trước, mà phải nói lại. Trước là mới huân tu, đây là lui sụt, sau sinh lên cõi trên lại huân tu. Lại cả hai nêu chung. Huân tu và không huân tu, nêu hai tên gọi ấy. Nghĩa huân tu như trước. Huân tu nhập ngũ tịnh; không huân tu vô sắc, y theo nhân để chỉ rõ quả. Tuổi thọ đã hết mà bát, là nói không có diệt giữa chừng.

Trên đây là đoạn hai, nói về nhân, chỉ rõ quả. Dưới đây là đoạn ba, kết. Phân tích về tướng của nhân quả đó. Đó gọi là thượng lưu, là tổng kết. Sau, nói lên sự khác nhau của thượng lưu.

Muốn nhập vô sắc, thì không thể được năm thứ bậc tu thiền. Nếu tu huân tập thiền, thì quở vô sắc, vì là định riêng.

Trên đây là đoạn hai, dựa vào đoạn trước, để giải thích rộng. Dưới đây là đoạn ba, vì có người khó hiểu, nên hỏi đáp để chỉ rõ lại. Chỉ rõ lại trung bát Na-hàm ở trước. Đầu tiên là hỏi, kế là đáp, sau là nói trung bát thượng, trung, hạ riêng.

Trong câu hỏi, đầu tiên là nói: “Trung Niết-bàn, chính là người căn cơ nhạy bén, sao không nhập Niết-bàn ngay trong hiện tại?” Y theo thời gian để vặn hỏi:

“Vì sao cõi Dục có trung Niết-bàn, còn cõi Sắc thì không có?” Y theo xứ để vặn hỏi. Sau đây Phật sẽ đáp:

Trước hết là đáp câu hỏi đầu, nói có ba duyên hiện tại không được:

1. Bốn đại rất yếu kém, vì không thể tu đạo, nên không hiện được.

2. Vì dụng cụ của cải ít, nên không hiện được. Đầu tiên là giải thích đúng.

Xưa, ta v.v… trở xuống là dẫn việc để chứng thành.

Vô lượng chúng sinh nên nhập v.v… trở xuống là tổng kết.

3. Có chúng sinh vì ưa giáo hóa nhiều, nên không hiện được.

Như ông hỏi v.v… trở xuống là Phật đáp câu hỏi sau của người kia. Trước là nêu lên, sau giải thích. Có bốn lần “Lại nữa”:

Y theo nhân duyên trong, ngoài để phân biệt. Nhân duyên phiền não cõi Dục có hai, nói chung để nêu tiêu biểu. Trong, ngoài, nêu danh. Tánh của “Sử” là trong; cảnh trần là ngoài. Vì trong cõi Dục có duyên ngoài đáng nhàm chán, nên có trung bát. Ở cõi trên không có duyên ngoài đáng chán, nên không có trung bát.

Dựa vào ái của hai cõi Sắc, Dục để phân biệt: trước là nêu, kế là trình bày danh. Chấp đắm công cụ cấp dưỡng sự sống của năm dục ngoài, gọi là dục ái. Ái chấp đắm nữ sắc, gọi là ái sắc. Trong địa cõi Dục vì có ái này đáng chán, nên có Trung bát. Cõi trên vì không có ái này, nên không có trung bát.

Y theo lỗi thô của tánh keo kiệt v.v…, để phân biệt: Cõi Dục có keo kiệt, tham, giận, ganh ghét, không có hổ thẹn kia, vì đáng chán, nên có trung bát. Ở cõi trên vì chẳng có các tánh xấu này, nên không có trung bát.

Y theo tâm tánh đó để phân biệt. Vì tính chất của cõi Dục mạnh mẽ, nên có trung bát, vì được bốn quả, vì cõi trên không phải như thế, nên không có trung bát. Trước là hỏi, kế là đáp; sau là nói về sự khác nhau giữa phẩm thượng, trung, hạ. Trước nêu; kế là trình bày; sau giải thích rất dễ hiểu. Trước là nói rộng về Na-hàm. Sau, kế là, nói rộng cõi trên được ăn xong rồi trụ. Thí dụ do cá khố được ăn xong rồi trụ, nêu lên thí dụ ở trước.

Người này cũng thế, y theo thì dụ để chỉ rõ pháp.

Thế nào v.v… trở xuống là giải thích. Có sáu lần “Lại nữa”:

Cõi trên vì thọ, thân nên gọi là đã trụ.

Vì không thọ thân của tất cả cõi dục, nên gọi là trụ. Hai lần “Lại nữa” này y theo quả; bốn lần “Lại nữa” sau, y theo nhân.

Dứt trừ vô lượng kết, ít ở, gọi là trụ.

Sau cùng vì không gây ra các việc của phàm phu chung, nên gọi là trụ.

Tự không có sợ sệt, vì bảo cho người khác “Vô úy”, nên gọi là trụ. Vì tự không có tội ác, nên tự không có sợ. Vì không não hại người khác, nên người khác không sợ.

Vì xa lìa hai ái của cõi Sắc, Dục và keo kiệt, tham v.v…, nên gọi là trụ.

Sau đây, kế là nói về La-hán, Bích-chi, Bồ-tát và Phật, vì nghĩa là đều đến bên kia bờ giác. Đến bờ giác bên kia, dụ cho La-hán v.v…, lược nêu người kia. Sau đây là nói về tướng của người đó:

Nhu con rùa đều cùng bò, là nêu lên thí dụ ở trên, sau y theo dụ, chỉ bày rõ pháp, trong đó, trước là nói về giữ gìn căn, như con rùa. Trước hỏi kế là giải thích.

Cho nên v.v… trở xuống là kết. Sau là nói về người ấy trông giống như con rùa, đều cùng bò đi. Nước dụ cho thế gian, đất liền dụ cho xuất thế, ra khỏi từ chỗ người ấy. Dưới là nói về cùng đi, có thể quán phiền não như con rùa bò đi dưới nước. Đến bờ giác bên kia, như rùa bò trên đất liền.

Cho nên v.v… trở xuống là kết.

Trước, chia ra bảy người; sau nói có tánh. Trước là nêu dụ kia; sau y theo dụ để chỉ rõ pháp. Như bảy hạng chúng sinh ở dưới sông Hằng, dù có rùa, cá, nhưng không lìa nước, là nêu dụ kia. Không lìa tánh chất nước, chứ chẳng phải là không lìa nước dưới sông. Nước dưới sông dụ cho sinh tử. Tánh nước của chúng sinh dụ cho Phật tánh, vì nưước sông sinh tử này cần phải riêng. Sau y theo dụ để nói lên pháp:

Trong đại Niết-bàn nhiệm mầu như thế, hợp với sông Hằng. “Từ Xiển-đề cho đến Phật”, là hợp với bảy hạng chúng sinh. “Dù có tên khác”, là hợp với ở trước; dù có tên rùa, cá, nhưng không lìa Phật tánh, là hợp với “Không lìa nước”. Sau đây, sẽ giải thích lại:

Bảy hạng chúng sinh này, nêu chung bảy người. Nếu là pháp lành thì nêu riêng tín, thiện, cầu có phàm phu. Nếu là người bất thiện, thì nêu riêng, trước là Xiển-đề thường ngụp lặn. Nếu là đạo phương tiện thì nêu cá biệt năm pháp quán dừng tâm, đến bảy người phương tiện của Thế đệ nhất. Nếu là đạo giải thoát thì nhắc lại riêng khổ nhẫn, cho đến Tu-đà. Nếu là đạo thứ đệ, thì nêu riêng Tư-đà, cho đến Na-hàm. Nếu là nhân, thì nhắc lại La-hán, Bích-chi và Bồ-tát trên là nhân Phật. Nếu là quả, thì nhắc lại Phật. Cũng có thể nếu là nhân thì nêu nhân của ba thừa. Nếu là quả, thì nêu quả của ba thừa kia, đều là Phật tánh, y theo Phật tánh đó để lý luận.

Đó gọi là tùy tự ý ngữ của Như lai, kết để hiển bày lý sâu xa.

Dưới đây là đoạn ba, trong nghĩa trước, vì có người khó hiểu, nên đặt ra hỏi đáp để chỉ bày rõ hơn. Chỉ bày rõ lại nghĩa bờ giác ở đoạn trước. Ở đoạn trước đã nói: “La-hán cho đến chư Phật, đều đến bên kia bờ giác. Vì nói bờ kia chưa được rõ ràng lắm, nên sau đây sẽ giải thích sáng tỏ hơn: Vì nói cũng chưa rõ, nên phải giải thích thêm.

Trước là nói về bờ giác kia. Sau, là nói về nghĩa đến ấy.

Trong đoạn trước, đầu tiên là Ca-diếp hỏi để khởi phát, trong đó, trước là hỏi về bờ không giác bên kia của Đại thừa:

“Có nhân, có quả; chẳng có nhân thì chẳng có quả, lập rộng đạo lý. Vì Niết-bàn được gọi là quả thường, nên không có nhân”, nêu lời nói trên đây của Phật.

Trong phẩm Sư Tử Hổng ở trước, đã nói Niết-bàn là quả, không có nhân, nên nay nêu lên. Sau đây, chính là đặt ra câu hỏi:

“Nếu Niết-bàn không có nhân thì sao gọi là quả?” Cho nên nêu ra câu hỏi này là vì Bồ-tát Ca-diếp muốn cho Như lai nói về nhân, chỉ bày rõ quả để giúp người tu chứng. Sau đây, lại hỏi bờ giác bên kia của Tiểu thừa; cũng gọi là Sa-môn, nêu nhân của Tiểu thừa; gọi là quả Sa-môn, là nêu quả của Tiểu thừa. Dưới đây, là hỏi vì sao?

Vặn hỏi với ý muốn cho Như lai giải thích cụ thể để giúp người tu chứng. Phật sẽ đáp sau đây:

Trước hết là ứng với câu hỏi đầu, nói Đại Niết-bàn vì có nhân, nên quả chẳng phải hoàn toàn không có nhân. Trong đây, vì nói Niết-bàn có nhân, do nêu tất cả loại để hiển bày rõ. Trước, nêu bảy quả, kế là trình bày bảy danh. Sau, sẽ giải thích rộng về quả để y theo để chỉ rõ nhân.

Còn quả tàn dư của môn thứ tư, được ích lợi sống lâu năm của thân thứ ba, là thể của quả kia. Sau đây, là nói về nhân xa. Lại nói: “Tức là tuổi thọ, ích lợi của sống lâu năm. Nghĩa là cơm áo v.v…, có công năng kéo dài tuổi tác: Có thể giúp ích tuổi thọ, nói là nhân xa, không nói về thể của tuổi thọ.

Trong môn thứ bảy, trước nói về thể của quả, tức là Niết-bàn lìa

tất cả phiền não. Sau, y theo nói về nhân có ba lần để giải thích:

Phân biệt tướng chung, tất cả pháp là nhân Niết-bàn.

Phân biệt gần, xa, trước nêu; kế là trình bày tên gọi; sau là giải thích rất dễ hiểu.

Phân biệt sinh nhân và liễu nhân trong đó, trước nêu sinh nhân, liễu nhân có thế gian. Kế là y theo luận để nêu ra.

Xuất thế cũng có sinh nhân và liễu nhân. Sau nói về tướng của hai nhân đó.

Ba môn giải thoát, ba mươi bảy phẩm vì tất cả phiền não không sinh, nhân sinh cũng là tác nhân liễu nhân của Niết-bàn. Đối với quả phương tiện, nói là nhân sinh, quả phương tiện vì có công năng dứt trừ phiền não, nên làm cho tất cả phiền não bất sinh. Vì có phiền não khiến cho bất sinh, nên thể là pháp có. Vì từ nhân tu khởi, nên ba giải thoát, ba mươi bảy phẩm, có thể là quả của nhân tu đó mà làm sinh nhân, chẳng phải trực tiếp đối với vô vi số diệt, mà nói là sinh nhân, tức sinh nhân trước có thể hiểu rõ quả Niết-bàn của tánh tịnh, nói là liễu nhân. Cho nên v.v… trở xuống là kết. Sau đây là Phật đáp câu hỏi sau:

Nói về bờ giác bên kia, chỗ đến của Tiểu thừa, trong đó, đầu tiên là nhắc lại câu hỏi, lược giải thích. Trước là nhắc lại lời hỏi, kế là giải thích; sau là kết.

“Ca-diếp nói v.v… trở xuống là hỏi đáp, nhằm chỉ rõ lại. Trước là hỏi:

Vì sao tám Chánh đạo gọi là Sa-môn-na? Sau đây, Phật sẽ giải thích:

Sa-môn-na, Hán dịch là “Tức”, vì dứt các lỗi, nên từ nhân này được quả, gọi là quả Sa-môn.

Trong văn có ba lần:

1. Làm dứt sự thiếu thốn, gọi là Sa-môn-na. Sa-môn gọi là thiếu, nêu chỗ dứt của Sa-môn, là nghiệp phiền não, đuổi xua chạy rong sáu đường, nên gọi là thiếu. Na, dịch là đạo, nêu năng dứt kia. Thể của “Na” này chẳng phải là nghĩa giải thích Na, gọi là “Tức”. Nên A-na trong năm độ là hơi thở ra; Ban-na là hơi thở vào.

Đạo như thế, dứt tất cả thiếu thốn, là giải thích đúng nghĩa “Na”, vì dứt tất cả sự thiếu thốn, nên gọi là “Tức”. Sau là nhắc lại kết. Đạo dứt trừ tất cả, là nhắc lại cho đạo năng đoạn tất cả thiếu thốn ở trước.

Vì nghĩa này, nghĩa là vì dứt thiếu thốn của đạo Thánh này, nên gọi tám Chánh đạo là Sa-môn-na, từ đạo này được quả, gọi là quả Samôn.

2. Có khả năng dứt ác, gọi là Sa-môn-na. Như người đời ưa tĩnh, cũng gọi là Sa-môn, nêu danh nghĩa của thế gian. Danh từ này sơ lược ít, nếu nói đủ thì nên nói: “Ưa tĩnh, dứt rối loạn, gọi là Sa-môn-na”.

Đạo như thế, nghĩa cũng như thế v.v… trở xuống là y theo đạo này để làm sáng tỏ pháp.

3. Thôi dứt v.v… trở xuống, gọi là Sa-môn-na ở trên, như người thế gian v.v… trở xuống là con người có thể làm Thượng nhân, đó gọi là Sa-môn, là nêu danh nghĩa của thế gian.

Đạo như thế v.v… trở xuống là y theo đạo này để chỉ bày pháp.

Trước, đã nói về nghĩa bên kia bờ giác. Sau, là nói về nghĩa “Đến”, trong đó, trước là nói về sự đến bờ giác của Tiểu thừa, Bồ-tát, Phật. Sau, là nói về đến bờ giác của Đại thừa.

Trong Tiểu thừa, trước là nói về La-hán đến bên bờ giác. Sau giải thích Bích-chi.

Y theo Sa-môn và quả Sa-môn, để nói nghĩa đến bên kia bờ giác.

Y theo năm phần pháp thân, để nói về “Đến”. Đầu tiên là nêu; kế là trình bày; giải thích, sau là kết.

Y theo bốn trí để nói về đến bờ giác.

Về nghĩa bốn trí, rộng như chương riêng. Ở đây, nên giải thích đủ.

Trong văn, đầu tiên là nêu; kế là giải thích rộng, không giải thích:

“Sự sanh tử của ta đã hết”, theo Tỳ-bà-sa, là dứt tập trí; theo kinh Thắng-man là trí dứt khổ. Trong văn, đầu tiên là nói: “Dứt hẳn nhân duyên sinh của ba đời”. Là nói nhân của ba đời kia đã mất, cũng là dứt thân năm ấm của ba cõi, chứng tỏ quả của ba cõi đã mất. Theo Tỳ-bàsa, thì nêu quả sau, nói rõ nhân ở trước. Nếu theo kinh Thắng-man thì nêu nhân ở trước, chỉ rõ quả sau: “Phạm hạnh đã lập:” Theo Tỳ-bà-sa, là trí tu đạo; nếu theo Thắng-man là trí chứng diệt.

Trong văn, đầu tiên là nói: “Tu phạm hạnh đã rốt ráo, nghĩa là bày tỏ nhân phạm hạnh đã trọn vẹn. Lại xả đạo học, chứng tỏ quả của phạm hạnh đã cùng cực. Theo Tỳ-bà-sa là nêu quả sau, hiển bày nhân trước; nếu theo kinh Thắng-man, thì nêu quả trước, bày tỏ nhân sau.

“Các việc đã xong”, Y Tỳ-bà-sa là trí chứng Diệt; theo Thắngman là trí tu đạo.

Trong văn, đầu tiên là nói: “ Như xưa đã cầu, nay đã được”, là nói quả kia cùng cực. Tu đạo, đắc quả, chứng tỏ nhân kia tròn. Theo luận Tỳ-bà-sa thì nêu nhân sau, nói lên quả ở trước. Nếu theo kinh Thắngman thì nêu nhân trước, chỉ rõ quả sau “Không thọ lãnh “Hữu” ở sau, theo Tỳ-bà-sa là trí dứt khổ; nếu theo Thắng-man là trí dứt tập. Cho nên kinh Thắng-man nói: “Đã dứt phiền não, lại không thọ thân sau”, gọi là không thọ thân sau.

Trong văn, đầu tiên là nói: “Chứng được tận trí, là nói rõ nhân kia mất; trí vô danh, nói lên quả nọ mất”. Theo Tỳ-bà-sa thì nêu nhân trước, hiển bày quả sau; nếu theo kinh Thắng-man thì nêu nhân sau, bày tỏ quả trước. Trước nêu; kế là giải thích.

Vì nghĩ này v.v… trở xuống là kết.

Sau đây, là giải thích nghĩa đến bên kia bờ giác của Bích-chi: Như La-hán ở trước, Bích-chi cũng như thế. Dưới đây là nói về nghĩa đến bờ giác của Đại thừa kia:

Bồ-tát và Phật hội đủ sáu Ba-la-mật, gọi là đã đến bờ giác bên kia, là nêu nhân, hiển bày quả.

“Phật, Bồ-tát này đã chứng đắc Bồ-đề v.v… trở xuống là y theo quả, nêu bày rõ nhân. Trước trình bày, sau giải thích văn rõ ràng, rất dễ hiểu.

Từ câu: “Như sông Hằng v.v… đến đây, là đoạn thứ nhất, đã nói rộng bảy vị đều có Phật tánh.

Dưới đây là đoạn hai, Đức Phật khuyên nên từ bỏ mọi chấp đắm, trong đó có hai:

Nêu tin tưởng, chê bai, khuyên bỏ chấp.

Phật tánh không gọi là một pháp v.v… trở xuống là nói về “Tánh” chỉ là “Tùy ý ngữ” của Phật, khuyên nên từ bỏ các chấp.

Trong đoạn trước, đầu tiên là Phật chỉ bày rộng, rõ ràng tướng chê bai, để cho con người tránh xa, từ bỏ.

Nếu nói Xiển-đề chưa sinh ra pháp lành v.v… trở xuống là nêu sự chê bai, chỉ rõ niềm tin, sao cho người tập học.

Trong phần nói về sự chê bai ở trước, văn chia ra làm ba:

Y theo sự tu hành được, mất của bảy người, để chỉ rõ sự chê bai.

Y theo nghĩa thông suốt, cuộc hạn của bảy người, để nói rõ sự chê bai.

Nói về lý do hai câu trước khởi lên chê bai. Y theo đoạn đầu, chia làm ba câu:

Nói về cái mật của bảy người không tu, không tu thân v.v…, tức gây ra năm tội nghịch v.v…, vì thường chìm trong ba đường, nên gọi là mất.

Nói về “Được” của bảy vị tu hành: gần bạn lành, nghe pháp, tư duy, tu học, vì đến bên kia bờ giác, nên gọi là “Được”

Nêu rõ sự chê bai, vì bảy người không tu thân v.v…, vì thường đắm chìm, nên nói:”Nhất Xiển-đề chắc chắn được Bồ-đề, đó gọi là đắm nhiễm. Vả lại, vì bảy người gần bạn lành, nghe pháp, suy nghĩ, tu hành, vì đã đến bên kia bờ, nên nói: Xiển-đề hoàn toàn không được Vô thượng Bồ-đề”, đó gọi là luống dối.

Trong đoạn hai, trước nói về nghĩa suốt qua, cuộc hạn của bảy vị. Đầu cuối nói chung một người có đủ bảy. Chia riêng trước sau bảy vị, mỗi vị đều có một. Sau, y theo chỉ rõ sự chê bai, trong đó, đầu tiên là y theo Bồ-đề, để nói về chê bai. Kế là y theo chánh đạo, sau y theo Phật tánh, vì bảy người có y theo Bồ-đề, mỗi người đều có riêng một, nên tâm, miệng với tưởng khác là nói Nhất Xiển-đề, chắc chắn được Bồđề, là chê bai Phật, Pháp, Tăng, vì ở hiện tại chưa được, nên nội tâm trái với pháp, gọi là tưởng khác. Miệng nói trái với pháp, gọi là thuyết khác. Lại, vì một người có đủ bảy, nên nói rằng Xiển-đề không được Bồ-đề, thì cũng gọi là chê bai Phật, Pháp, Tăng. Vì “Sẽ được”, nên y theo chánh đạo, vì bảy người đều có riêng một, nên nói rằng phàm phu trong tám đạo đã được chê bai Phật, Pháp, Tăng vì hiện chưa được. Lại, vì một người có đủ bảy, nên nói rằng, tám đạo phàm phu chẳng được, nên cũng gọi là chê bai Phật, Pháp, Tăng. Vì tương lai “Sẽ được”, nên y theo Phật tánh, cũng do bảy người đều riêng có một nên có người nói rằng: “Chúng sinh phàm phu có tánh của Phật tánh, chê bai Phật, Pháp, Tăng. Vì hiện chưa chứng, nên cũng vì một người có đủ bảy, do đó là nói rằng chúng sinh chắc chắn không có Phật tánh, thì cũng gọi là chê bai Phật, Pháp, Tăng, vì sẽ được.

Dưới đây là đoạn ba là nói về lý do chê bai, do không có tín giải, cho nên, ta mới có hai hạng người chê bai, sơ lược để nêu tiêu biểu. Không tin, không hiểu, nêu hai tên gọi đó.

“Nếu lòng tin của con người không có tuệ… trở xuống là đủ chứng tỏ sự phát sinh lỗi lầm của hai người khác nhau: Người có niềm tin, không có trí, thì sẽ thêm lớn vô minh; kẻ có trí không có niềm tin thì sẽ thêm lớn tà kiến.

“Người không tin với tâm giận dữ… trở xuống là nói đều khởi chê bai; người không tin vì giận dữ nên chê bai; người không có trí tuệ vì không hiểu, nên chê bai.

“Cho nên, ta… trở xuống là kết thành thuyết xưa của Phật đã nói”.

Trên đây đã nói về sự chê bai, để nêu rõ niềm tin. Văn chia ra bốn phần:

Y theo Bồ-đề, nêu trái với sự chê bai của người kia. Nếu nói Xiểnđề chưa sinh gốc lành, mà vẫn được Bồ-đề là một sự chê bai. Nếu nói Xiển-đề xả bỏ nhất Xiển-đề, kế là với thân khác thì được Bồ-đề là hai sự chê bai.

Y theo Bồ-đề, trái với sự chê bai, để nói về niềm tin: Nếu nói Xiển-đề sinh ra việc lành, không dứt, về sau “Sẽ” được Bồ-đề, thì không gọi là chê bai.

Y theo Phật tánh nêu trái lại sự chê bai của người kia, trong đó, đầu tiên là nói “Có” Phật tánh, sẽ trở thành chê bai. Nghĩa là nói rằng, chúng sinh có Phật tánh, quả đức của báo thân Phật kia, thường lạc, ngã, tịnh không tạo tác, không sinh phiền não, vì bị phiền não che lấp nên không thấy, thì phải biết rằng, người này đã chê bai Phật, Pháp, Tăng.

Sau lại nói về thuyết kia nói “Không có” Phật tánh trở thành chê bai. Nói người Xiển-đề không có Phật, tánh của pháp, cũng như sừng thỏ từ phương tiện sinh ra, xưa vốn “Không” mà nay “Có”, “Đã có” rồi lại “Không”, điều này cũng gọi là sự chê bai của Phật, Pháp, Tăng. Cũng có thể thuyết trước đã nói: “Trong thân chúng sinh “Đã có” thể của quả, cho nên trở thành chê bai; thuyết sau nói “Không có nhân”, cho nên trở thành chê bai.

Y theo Phật tánh, chê bai ngược lại, nói về niềm tin, trước là nêu thuyết đã nói, sau kết không chê bai. Trong đoạn trước có bốn câu: Đầu tiên là nói: “Chẳng phải có” như hư không v.v…, là phân biệt “Đúng” khác với “Sai”. Giải thích có hai nghĩa:

Y theo nhân quả của Phật tánh để phân biệt, chẳng phải là quả hiện có, như hư không kia; chẳng phải hiện không có nhân như sừng thỏ có một bề là “Không”.

Y theo hai tánh pháp và báo để phân biệt, chẳng phải hiện đang có thể tánh của báo thân Phật kia, như hư không của thế gian xưa nay có tự thể, chẳng phải hiện tại không có tánh của Phật pháp kia, như sừng thỏ kia, xưa nay không có tự thể.

Như trong văn trên đã nói: “Phật tánh của pháp chẳng phải như hư không, chẳng thể nhìn thấy được. Nói thật tánh của báo thân Phật, không như sừng thỏ, không thể sinh được. Thuyết trong đây hợp với trước.

Vì sao? Trở xuống là nói “Sai” khác với “Đúng” giải thích cũng có hai:

Y theo nhân quả của Phật tánh để phân biệt, thì ra hư không “Thường” có, chẳng phải như quả Phật tánh chẳng phải vốn có, sừng thỏ thường “Không”, chẳng phải như nhân của tánh, chẳng phải là cái vốn “Không”.

Y theo hai tánh pháp và báo để phân biệt: cái “Thường có”của hư không, chẳng như tánh của báo thân Phật, chẳng phải “Vốn có”; sừng thỏ là cái hằng “Không”, chẳng phải như Phật tánh của pháp thân chẳng phải vốn “Không”, đây là một cặp trước.

Cho nên…. Trở xuống là nói nói về đạo lý, giải thích cũng có hai:

Y theo nhân quả của Phật tánh để phân biệt, là vì chẳng đồng với hư không v.v…, nên xưa nay có nhân mà chẳng có quả của Phật tánh kia.

Y theo hai tánh của pháp, để phân biệt, là vì khác với hư không ở trước, nên xưa nay chỉ có “Thể” Phật tánh của pháp thân Phật, không có “Thể” của báo thân Phật.

Vì “Có”, nên phá… trở xuống là dựa vào “Đúng” để phá “Sai”.

Vì Phật tánh là có, nên đả phá thuyết khác nói tánh là “Không” như sừng thỏ. Vì Phật tánh là “Không”, nên phá thuyết khác nói tánh là “Có”, như hư không, đây là một cặp sau. Trước nêu thuyết đã nói.

“Như thế không chê bai”, là kết thành nghĩa tín. Trước, Phật nêu tin, chê, nhằm khuyên nên bỏ chấp đắm.

Sau nói về Phật tánh.

Phật tùy ý ngữ, người khác chẳng biết Phật khuyên nên bỏ chấp đắm, trong đó có bốn quan điểm:

  1. Nói Phật tánh không nhất định ở một pháp, cho đến muôn pháp, tất cả đều “Đúng”.
  2. Nói các pháp này, hoặc ở nhân nói quả, hoặc ở quả nói nhân.
  3. Tổng kết, thuyết này là Như lai kia tùy tự ý ngữ.
  4. Nói vì Như lai tùy ý ngữ, nên gọi là Như lai v.v…

Như lai, tiếng nước ngoài gọi là Đa-đà A-già-độ A-la-ha, Hán dịch là Ứng Cúng Tam-miệu Tam-phật-đà, Hán dịch là Chánh chân Chánh giác.

Dưới đây là đoạn thứ sáu, y theo hư không giải thích tám thứ “Đồng”, “Khác”, để con người từ bỏ sự hiểu biết bất chính.

Bởi trên đây, thường nói “Phật tánh giống như hư không”, vì con người cho rằng, Phật tánh hoàn toàn đồng với hư không, nên phải nói “Khác”. Kế là đoạn trước nói “Tánh chẳng phải như hư không”, vì con người cho rằng hoàn toàn khác nhau, nên phải nói đồng.

Trong văn, đầu tiên là nói tánh giống như hư không. Trở xuống là nói lên tánh khác với hư không.

Trong đoạn trước, Ca-diếp trước là hỏi, để khởi phát:

Như Phật đã nói: “Tánh như hư không”, “Như” là sao? Sau, Phật giải thích. Trước giải thích, sau là kết.

Trong giải thích có ba:

  1. Nói Phật tánh chẳng thuộc về ba đời, giống như hư không.
  2. Chẳng phải trong, ngoài giống như hư không.
  3. Chẳng có ngăn ngại, giống như hư không.

Trong đoạn trước, đầu tiên là nói: “Hư không chẳng phải là quá khứ, vị lai, hiện tại, Phật tánh cũng thế là. Giải thích sơ Lược nghĩa “Đồng”

“Này người thiện nam… trở xuống là rộng, làm rõ nghĩa “Đồng”, trong đó có bốn:

  1. Nói rộng hư không chẳng phải thuộc về ba đời.
  2. Phật tánh cũng như thế, là nói pháp đồng với dụ.
  3. Vì hư không “Là vô”, nên chẳng thuộc ba đời, là kết câu thứ nhất ở trước.
  4. Phật tánh là thường, nên chẳng phải thuộc về ba đời, là giải thích câu thứ hai ở trước.

Trong câu đầu lại có hai:

Nói đúng về hư không chẳng thuộc ba đời.

Vì “Hư không” chẳng có… trở xuống là phá “Có”để nói hư không, trở thành chẳng phải ba đời.

Trong đoạn trước, trước là nói riêng, sau nói chung để kết.

Trong phần nói riêng, đầu tiên là nói:”Hư không chẳng phải quá- khứ, sơ lược để nêu lên.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích”.

“Không có hiện tại”, là giải thích sơ lược: Sau đây là giải thích lại:

Pháp hiện khởi “Duyên” đã lìa dứt, quá khứ có thể nói là quá khứ. Vì hư không chẳng có hiện khởi, nên không có quá khứ, không có hiện tại, lược nêu lên.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích”. “Chẳng có vị lai”, là giải thích sơ lược. Sau đây sẽ giải thích lại để chỉ rõ không có vị lai”.

Pháp vị lai từ duyên bắt đầu nhóm họp, có thể gọi là hiện tại. Hư không chẳng phải như thế, nên không có hiện tại. Không có vị lai, lược nêu lên.

“Vì sao? Trở xuống là giải thích”. Không có hiện tại, quá khứ là đáp câu hỏi, lược giải thích. Sau giải thích lại, để chỉ rõ không có hiện tại quá khứ.

Nếu là hiện khởi phát quá khứ đã dứt, chưa khởi, chưa dứt, nói là vị lai. Vì hư không chẳng phải như thế, nên không có vị lai.

“Vì nghĩa này… trở xuống là kết”.

Dưới đây là đoạn hai, phá “Hữu”để chỉ rõ “Không”, trở thành chẳng phải ba đời, vì các ngoại đạo nói “Không” là “Hữu”, nên phải phá bỏ quan niệm đó. “Có” tức là ba đời, cho nên phải phá. Vì hư không “Chẳng có”, nên chẳng có ba đời, giải thích về “Không vô”của. Không vì “Có”nên phá “Có”, để chỉ rõ “Vô”. Kế là dụ, sau là hợp. Không có vật thể là hư không, giải thích thành nghiã “Không” ở trên.

Trên đây nói rộng về hư không chẳng phải ba đời. Phật tánh cũng thế, là nói pháp đồng dụ.

Hư không chẳng có… trở xuống là kết câu thứ nhất ở trước.

“Phật tánh thường… trở xuống là giải thích câu thứ hai ở trước. Vì Phật tánh thường nên chẳng phải thuộc về ba đời, nói lược về lý do Phật tánh chẳng phải ba đời.

“Như lai đã được Bồ-đề… trở xuống là y theo người để chỉ bày rõ điều đó. Khi Phật chứng quả, là đã chứng cùng cực thật tánh, biết tánh xưa nay thường vắng lặng không dao động, nên tánh đã có. Tấ cả Phật pháp thường không thay đổi.

“Vì nghĩa này trở xuống là kết pháp đồng dụ dưới đây là đoạn hai, là nói về Phật tánh chẳng phải trong ngoài, giống như hư không. Vì hư không “Chẳng có”, nên chẳng phải trong, ngoài, nói dụ giống với pháp. Vì Phật tánh là thường, nên chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, là giải thích pháp đồng với dụ.

Dưới đây là đoạn ba, là nói chẳng có ngăn ngại.

Như thế, chẳng có trở ngại, gọi là hư không, nói dụ giống với pháp. Như lai đã chứng đắc rồi, tất cả đều vô ngại, giải thích pháp đồng với dụ, cũng vì Như lai khi chứng được Bồ-đề là đã chứng đắc cùng tận thật pháp, thấy tất cả pháp bình đẳng, vô ngại, nên cần phải giải thích. Cho nên nói: “Phật tánh cũng giống như hư không”, là kết pháp đồng dụ.

Trên đây đã ba lần nói rộng như hư không.

“Vì nghĩa này… trở xuống là kết. Vì ba nghĩa này giống như nhân, duyên của hư không, nên ta nói như hư không.

Sau đây, kế là giải thích khác, văn chia làm bốn:

1. Ca-diếp vặn hỏi dụ đồng với pháp, khiến cho “Không” là “Hữu”.

2. Phật giải thích cho nghe về khác.

3. Ca-diếp nêu dụ so sánh với “Không”, khiến “Không” là “Hữu”.

4. Phật giải thích lại về “Khác”.

Trong phần đầu, Phật tánh, Niết-bàn của Như lai chẳng phải thuộc ba đời, mà gọi là “Hữu”, là nêu pháp so sánh với “Không”. Hư không cũng chẳng phải thuộc về ba đời, vì sao chẳng phải “Hữu”, là vặn hỏi “Không” đồng với pháp.

Sau đây, Phật sẽ giải thích, Niết-bàn đồng có, xứ không có, nên đối với “Không” nói “Có”.Thể của hư không chẳng có, cho nên chẳng được đối với “Không” mà gọi là “Có”; trong đó, đầu tiên là nói pháp khác với “Không”, vì chẳng phải Niết-bàn gọi là Niết-bàn; vì chẳng phải Như lai, gọi là Như lai; vì chẳng phải Phật tánh, gọi là Phật tánh, là lược nêu lên.

Sau đây, Phật sẽ giải thích rộng vấn đề trên. Trước giải thích Niếtbàn, đầu tiên là hỏi, sau là giải thích:

“Tất cả phiền não, sinh tử hữu vi chẳng phải là Niết-bàn”. Vì phá Như lai là hữu vi, phiền não, chẳng phải Niết-bàn, nên nói Niết-bàn do đây là “Có”. Kế là giải thích Như lai, trước là nhắc lại; sau là giải thích.

“Xiển-đề, cho đến Bích-chi-phật v.v…, chẳng phải là Như lai”. Vì đã phá “Chẳng phải Như lai” này, nên Phật nói Như lai do đó là “Có”.

Sau đây, là nói về Phật tánh, trước nhắc lại , sau giải thích:

Vật vô-tình: Tường, vách, ngói, đá chẳng phải Phật tánh. Vì phân biệt với những vật vô tri chẳng phải Phật tánh này, nên nói “Tánh” là có. Tánh có hai thứ:

1/ Tánh năng tri, nghỉa là tâm chân-thức. Pháp ngoài cái có của tâm chân thức trong chúng sinh này, tức là “Không”, nên ở trên đã nói: “Nói về Phật tánh, nghĩa là chúng sinh. Lại, xứ của vọng tâm có chân tâm này. “Không có chỗ của tâm vọng thì không có chân tâm. Cho nên trên đã nói: “Thông thường người có tâm đều có Phật tánh.

2/ Tánh “Sở tri”, cái gọi là tất cả pháp môn “Có”; “Không”; “Chẳng phải có”; chẳng phải “Không” v.v… Các pháp môn này suốt qua trong, ngoài, không chỉ nội tại. Nay, điều ở đây nói được y theo lời nói ở đầu.

Tất cả thế gian đều là hư không, đối với hư không, giải thích “Không” khác với pháp. Tất cả thế gian không có một chỗ nào chẳng có hư không, biết đối với thuyết nào nói “Không” là “Có”.

Đoạn ba, Ca-diếp nêu bốn đại kia, so sánh với “Không”, làm cho “Có”. So sánh ra sao? Nếu Phật nói thế gian không có một chỗ nào chẳng có hư không, thì không được đối với “Không” mà nói hư không là “Có”. Sắc xứ thế gian đều có bốn đại, cũng chẳng có chỗ không có bốn đại, không có chẳng thể đối, lẽ ra cũng không được nói đại là “Có”. Thế gian “Không có” cái “Có”, không có bốn đại, xứ để hình thành đối nhau mà cũng được gọi bốn đại là “Có”. Dù rằng thế gian chẳng có xứ, chẳng có “Không” để hình thành đối, vì sao không được nói không là có.

Ca-diếp nói lời này, Như lai chẳng đáp. Vì sao không đáp? Vì chẳng phải câu hỏi, chẳng phải câu hỏi là sao? Không xứ của thế gian thì chẳng có bốn đại. Vì đối với không xứ kia “Chẳng có”, nên nói đại là “Có”. Không có một xứ nào chẳng có hư không. Biết đối lập với cái “Không” nào, để nói “Không” là “Hữu”, vì không đáp.

Dưới đây là đoạn bốn, Đức Như lai một lần nữa, đáp lại câu hỏi đầu ở trên, để phân biệt pháp khác với “Không”:

“Nếu nói rằng Niết-bàn chẳng thuộc về ba đời, hư không cũng như thế”, thì nghĩa này không đúng! Là nêu để nói chung là sai lầm!

Vì sao?… trở xuống là giải thích. Trong giải thích có ba:

  1. Nói pháp khác với hư không.
  2. “Tánh hư không… trở xuống là nói hư không khác với pháp.
  3. “Cho nên, ta nói Phật tánh là thường… trở xuống là tổng kết sự khác nhau đó.

Y theo Niết-bàn trong đoạn đầu là “Có” là nói chung; khác với “Không”… trở xuống là nói riêng để chỉ bày rõ:

Vì do trí chiếu soi nếu gọi là có thể nhìn thấy. Vì là tâm khế hội, gọi là có thể chứng. Thân đầy đủ pháp môn bình đẳng và thân biến-hóa không thể nghĩ bàn luận, nên nói là sắc. Có thể vì người tu hành tìm cầu thu nhập, gọi là các dấu vết chân. Cho nên ngôn luận, gọi là chương, câu. Thể đủ muôn đức, gọi đó là “Có”. Thể trạng của đức được chia ra đặc thù, nói là tướng.Vì tâm duyên bám, từng trải, nên gọi là “duyên”. Nơi mà các thánh đồng thú hướng, gọi là chỗ quy y. Lìa bỏ chốn ồn ào lăng xăng của thế gian gọi là vắng lặng. Thể không có bóng tối ngăn che, gọi là ánh sáng chiếu suốt. Dứt hẳn nỗi nguy hiểm, sợ hãi, gọi là yên ổn. Vì chỗ đến rốt ráo, nên nói là bờ bên kia.

“Cho nên, gọi là chẳng thuộc về ba đời”, là nói tổng quát để kết luận.

Dưới đây là đoạn hai là nói về “không” khác với pháp. “Không” vô là pháp. Cho nên, gọi là không có ánh sáng, “Không” là “Vô”.

Nếu “Có” thì lìa… trở xuống là phá “Có” để chỉ rõ “vô rước hết là phá “Có” của đạo kia, để chỉ rõ cái “Không” của họ. Vì các ngoại đạo chấp “Không” là “Hữu”, nên trước là Phật đả phá, quở trách, trong đó gồm có mười một lần “Lại nữa”:

Một lần đầu, y theo pháp chẳng phải sắc, tâm, để phá “Không” là “Có”. Một lần kế là dựa vào tâm để phá “Không” là “Hữu”; chín lượt sau, y theo sắc, để ông” là “Có”.

Trong lượt đầu, “Nếu lìa các pháp như thế v.v…, lại còn có pháp”, là nêu chỗ thành lập của ngoại đạo, nói là lìa pháp Niết-bàn trước kia lẽ ra thuộc về ba đời. Phật dùng lý để vặn hỏi, quở trách:

Nếu hư không đồng là pháp “Có” là nhắc lại lập trường của ngoại đạo, thì không được chẳng phải thuộc về ba đời là dùng lý để ngăn ngừa quở trách.

Lần thứ hai, trong y theo tâm để phá “Không”, “Hữu”, người đời nói “Không” là “Không có” sắc v.v…, là nêu chỗ lập của họ, tức là tâm sở, vặn hỏi đồng với tâm pháp.

“Nếu đồng với tâm… trở xuống là vặn hỏi về ba đời.

“Nếu ba đời… trở xuống là vặn hỏi về bốn ấm.

“Cho nên, lìa… trở xuống là kết thành chẳng có “Không”.

Y theo chín lần sau, trong dựa vào sắc để phá:

  1. Phá thể hư không là ánh sáng.
  2. Phá chỗ ở của vật thể, cho là hư không.
  3. Phá thứ lớp của hư không.
  4. Phá ba thứ “Không thật v.v… của ngoại đạo kia, cho là hư không.
  5. Phá hư không có thể làm ra.
  6. Phá chỗ không có ngăn ngại cho là hư không.
  7. Phá hư không hợp chung với vật thể.
  8. Phá chỉ ra chỗ ở, cho là hư không.
  9. Phá hư không là chỗ dựa của vật thể.

Trong lượt đầu, ngoại đạo nói: “Hư không là ánh sáng, là nêu chỗ lập của người.

“Nếu là ánh sáng… trở xuống là vặn hỏi cho là sắc.

“Nếu hư không… trở xuống là vặn hỏi cho là vô thường.

“Là vô thường… trở xuống là vặn hỏi về ba đời.

“Nếu ba đời… trở xuống là vì là ba đời, vặn hỏi là chẳng phải “Không”.

“Cũng có thể nói… trở xuống là lập hư không là “Thường”, phá ngược lại chấp ở trước, hư không là thường, tức là chẳng phải ba đời, cho đến chẳng phải sắc.

“Ngoại đạo nói hư không là ánh sáng, là gì?” Dựa theo ý của ngoại đạo kia, giải thích nói hư không là “Thường”. Vì chưa thể chuyên quyết định, nên nói rằng “Cũng có thể”.

Trong lượt thứ hai, có người nói: “Hư không tức là trụ xứ (chỗ ở), nêu chỗ lập của ngoại đạo.

“Nếu có trụ xứ… trở xuống là vặn hỏi về sắc pháp.

“Mà tất cả…trở xuống là vặn hỏi về vô thường, thuộc về ba đời, vặn hỏi về ba đời.

“Hư không cũng trở xuống là nói hư không là thường, (không lệ thuộc ba đời), phá trái với chấp trước thường, chẳng phải ba đời, tức chẳng phải sắc pháp, sao lại nói là xứ?”

“Nếu nói là xứ… trở xuống là kết để chỉ rõ sai trái.

Trong lần thứ ba lại có thuyết nói:“Không” tức là thứ lớp, nêu lập luận của ngoại đạo kia, như đập bỏ vách tường, thì tướng “Trống rỗng” sẽ hiển hiện dần, gọi là thứ lớp.

“Nếu là thứ lớp… trở xuống là vặn hỏi về pháp số.

“Nếu có thể đếm… trở xuống là vặn hỏi về ba đời.

“Nếu ba đời… trở xuống là vặn hỏi về vô thường.

Trong lần thứ tư là lập luận về hư không, không lìa ba pháp, nêu lập tông của ngoại đạo kia:

  1. “Không”.
  2. Thật.
  3. “Không”, “Thật”, nêu tông chỉ do ngoại đạo lập ra:

Có người nói ở chỗ không có vật thể là cõi (lĩnh vực) hư không, cho nên nói “Không”.

Lại có chỗ nói: “Ngay chỗ ở của vật thể là cõi hư không, vì thế không nên nói là thật.”

Có người nói:“Vì đều nên nói “Không” là thật. Sau đây Phật y theo đó để phá:

“Nếu nói “Không” là nhắc lại câu đầu. Hư không là vô thường? vặn hỏi để chỉ rõ chỗ sai trái.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích: Vì chỗ thật “ Không”, cho nên vô thường.

“Nếu nói “Thật” là…, là nhắc lại lượt thứ hai không cũng vô thường, là vặn hỏi để chỉ rõ sai trái.

“Vì sao… trở xuống là giải thích: “Nếu” “Không” thật là nhắc lại là nêu lượt thứ ba. “Không” cũng vô thường, là vặn hỏi để chỉ rõ chỗ sai trái.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích: vì hai chỗ “Không có” lẫn nhau, nên là vô thường.

“Cho nên trở xuống là kết, “Không” là “Vô”.

Trong lượt thứ năm, như nói “Hư không là pháp có thể làm ra, nêu lập luận của ngoại đạo. Như nói “đi v.v… là nói về lập luận của họ.

“Tất cả tạo tác… trở xuống là vặn hỏi để làm cho vô thường, trong đó, đầu tiên là pháp; kế là dụ; sau là hợp.

Trong lần thứ sáu, “Không có chỗ ngăn ngại đối với pháp, mà người đời đã nói, gọi là hư không”, là nêu lập luận của ngoại đạo. Đối với một pháp được làm ra đầy đủ và chia ra tới, lui, vặn hỏi nhất định.

Sau đây là Phật đối phá:

“Nếu đầy đủ chỗ khác thì “Không”, phá bên đủ kia.

“Nếu chia ra “Có”… trở xuống là phá bên phần “Có” đó.

Nếu chia ra có thể đếm là một lỗi, có thể đếm vô thường là hai lỗi.

Trong lượt thứ bảy, trước nêu thuyết khác nói, đều là sai, không đúng! Nói “Không” chẳng có ngăn ngại, hợp chung với hữu là một môn.

Lại nói ở vật thể, như trái cây trong rổ là hai môn. Vì hai môn đều không đúng, nên nói là không đúng.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích để chỉ rõ sai trái. Trước là phá môn đầu:

“Nếu nói đều hợp, thì có ba thứ, do vặn hỏi “Lập ra” chắc chắn là “Khác” v.v…, là nêu tên gọi.

“Không” tĩnh, là vật động, một chỗ của hai nhóm, gọi là hợp với nghiệp “Khác”. Như đàn chim đậu trên cây, so sánh để chỉ rõ nghiệp khác. Chim dụ cho nghiệp của chúng sinh. Cây dụ cho nghiệp của hư không.

“Không” và “Vật thể”, đều dao động, một chỗ của hai nhóm, gọi là với nghiệp chung, như hai con dê cụng nhau, để chỉ rõ nghiệp chung.

Vật thể ở trước,”Không” co rút lại; vì vật thể lui sụt, “Chẳng” tiến tới, nên nói giống như hai con dê cung nhau.

Có thuyết nói: “Vật thể này trước hợp với “Không”; vật thể kia cũng trước hợp chung với “Không”, hai hợp đồng nhóm, đã hợp, hợp chung. Nghĩa này thế nào? Như gốc cây, trước hợp chung với hư không; đàn chim trước hợp chung với hư không. Đàn chim bay đến đậu trên cây, thì được gọi là đã hợp, hợp chung, tất cả như thế. Như hai ngón tay song song, hợp ở một chỗ, so sánh để chỉ rõ nghĩa hợp chung đó”.

Y theo phá, quở trách: “Nếu hợp với nghiệp “Khác”, nêu lên môn đầu, thì có hai phần nhất định hai nghiệp của “Không” kia: nghiệp đầu là nghiệp hư không, nêu ra hai tên gọi của “Không” đó. Sau đây, sẽ y theo “Không” để phá, qua đó có hai:

Dùng hợp phá thường.

Nếu nói như hư không là thường… trở xuống là y theo “Thường” phá hợp:

Trong phần trước, đầu tiên là nói: “Nếu “Không” hợp với vật thể, thì “Không” tức là vô thường, là một phá”. Đồng với vật thể vô thường, mới gọi là hợp; vì khác với vô thường, không gọi là hợp. Nếu vật thể hợp với “Không”, thì vật sẽ không khắp. Nếu vật thể đó không cùng khắp, thì cũng vô thường, là hai phá. Nghĩa này thế nào?

Nghiệp của vật thể không cùng khắp, hợp chung với “Không”, “Không” tùy theo vật “Có” lẽ ra cũng không khắp. Vì chẳng khắp, nên

“Không” lẽ ra vô thường

Sau đây, trong phần y theo “Thường” để phá hợp:

“Nếu nói “Không” thường, thì hợp với động-vật”, nghĩa này không đúng!” là nêu để nói chung sai trái.

“Vì sao… trở xuống là giải thích để chỉ rõ sai quấy.

“Nếu “Không” là thường, thì vật thể lẽ ra cũng là thường”, ý nói lỗi “Không”, “Hữu” đồng với vật thể”.

“Nếu nói hư không vừa thường vừa vô thường, thì sẽ ngăn ngừa được “Đều lập” của ngoại đạo kia, vì người trước đã bị vặn hỏi về nỗi mừng rỡ, lập ra hai nghĩa, nên nêu để chỉ rõ sai trái. Một hư không thế nào là thường? Còn gọi là vô thường, vì có lỗi này, cho nên chẳng được nói “Không” là hợp với vật thể”.

Kế là phá thứ hai, nghiệp chung hợp nhau, trước nhắc lại sai lầm chung.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích, để chỉ rõ sai trái.

Hư không gọi là khắp, là lập thẳng đạo lý:

“Nếu với nghiệp… trở xuống là vặn hỏi “Có”, đồng với “Không”, để cho cũng khắp.

“Nếu là khắp… trở xuống là vặn hỏi để cho đồng với khắp.

“Nếu tất cả… trở xuống là vặn hỏi để cho để cho đồng với hợp.

“Không nên nói… trở xuống là trách hợp với phần kia.

Sau đây, sẽ phá thứ ba: Đã hợp, hợp chung, trước là nhắc lại để bác bỏ chung.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích, để chỉ rõ sai trái, trong đó, đầu tiên là pháp; kế là dụ; sau là hợp.

Trong đó, trước “Không sau có”, là vô thường chính là cùng hợp, nghĩa là nói về lý do vô thường hợp chung kia.

“Trước “Không”, sau “Có”, là “vô thường” ý nói đúng lỗi hợp chung vô thường.

“Cho nên… trở xuống là kết phá hợp chung; hợp với dụ rất dễ hiểu. Môn đầu này đã nói xong.

Kế là trong lần phá thứ hai: Hư không ở trong vật, trước là nhắc lại để bác bỏ thẳng.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích, để chỉ bày sai trái, trong đó, trước là y theo khi không có đồ đựng, để phá:

“Hư không như thế, trước khi không có đồ đựng, thì trụ ở chỗ nào? Y theo chỗ ở của hư không.

“Nếu chỗ ở… trở xuống là nói về có trụ xứ, hư không tức là nhiều. Chỗ ở của hư không kia, trước có hư không, như hư không bị đựng trong đồ đựng, ở trụ xứ kia, là do nói nhiều.

“Như trụ xứ kia nhiều… trở xuống là lấy nhiều để phá thường: “Có nhiều, có ít, sao gọi là thường?

“Sao nói là khắp?” dùng nhiều để phá khắp: chỗ này phá khắp nhiều, đâu được nói là khắp.

Sau đây, lại y theo khi có đồ đựng hư không để phá: Nếu hư không lìa trống không có ở, là nêu chỗ ở của hư không kia để phá. Khoảng trống trong đồ đựng, lúc chưa có đồ đựng, sẽ ở chỗ trống rỗng khác. Khi đồ đựng khởi thì, nó sẽ bỏ chỗ vốn trống rỗng để đến ở trong đồ đựng sau. Cho nên, gọi là lìa hư vô trụ. Có vật thể lẽ ra cũng lìa hư không ở, dùng “Có” so sánh phá:

“Thế gian có vật thể, trước đó đã dựa vào hư không mà trụ, vật thể khác lúc khởi, lẽ ra cũng bỏ “Không”, để ở trong “Có” khác. Vật thể “Có” của thế gian, không có khả năng được lìa hư không mà ở; hư không cũng như thế. Sao lại được bỏ chỗ trống rỗng cũ, để ở trong “Có” sau.

“Cho nên, phải biết rằng, chẳng có hư không”, kết “Không” thành “Không có”.

Sau đây là lần thứ tám, phá chỗ ở của ngón tay, cho là hư không, cùng với chỗ ở của vật thể thứ hai ở trước, gọi là hư không lại so sánh giống nhau. Vì phương pháp phá khác nhau, nên phải giải thích lại:

Hoặc có thuyết nói: “Chỗ ở của ngón tay gọi là hư không”, là nêu cái mà ngoại đạo lập ra.

“Phải biết rằng… trở xuống là vặn hỏi để cho vô thường”.

“Vì sao? Trở xuống là giải thích, trong đó, đầu tiên là nói về chỗ ở của ngón tay gọi là hư không, nên theo ngón tay có phương hướng”.

“Tất cả thường… trở xuống là nói hễ có nơi chốn, tất nhiên là vô thường, trong đó, trước là nói pháp “Thường” không có phương hướng.

“Vì có phương… trở xuống là chứng minh về có phương, nên tất nhiên là vô thường.”

“Nếu vô thường… trở xuống, nói là vô thường không lìa năm ấm”.

“Phải lìa… trở xuống nói là chẳng phải năm ấm đều “Có”.

Sau đây là lần thứ chín, phá hư không kia là chổ dựa của vật, trong đó có ba:

  1. Nói rộng pháp nương vào cái khác trụ, đều là vô thường, nêu pháp này, vì chỉ rõ pháp nương tựa) là vô thường.
  2. “Ví như… trở xuống là nêu gốc, bày ngọn, nói vì đối tượng kia là vô thường, nên năng nương tựa là vô thường, trong đó có bốn cặp:
  1. Cỏ, cây nương vào đất.
  2. Đất nương vào nước.
  3. Nước nương vào gió.
  4. Gió dựa vào hư không, là chỉ rõ lần thứ tư, nêu pháp khác để so sánh với hư không..

Trong mỗi cặp, đầu tiên đều nói về ngọn kia đến nương tựa vào gốc. Sau, y theo gốc, để giải thích vô thường, so sánh; để chỉ rõ ngọn.

Trong đây, nói hư không là vô thường, khiến cho gió vô thường, là theo ý người khác nói, chứ chẳng phải tự nghĩa của Phật. Nói về tự nghĩa của Phật, thì hư không chẳng có pháp, không làm chỗ nương cho vật.

“Nếu vô thường… trở xuống là dùng hư không vô thường, để phá “Thường”, phá“Khắp”. Đây là hỏi ngược lại, chứ chẳng phải chỉ rõ nghĩa đúng. Nếu nói về nghĩa đúng thì hư không là thường, khắp, chẳng phải vô thường. Vì chẳng phải vô thường, nên chẳng phải chỗ nương của vật thể.”.

Trên đây gồm có mười một lần “Lại nữa” để phá “Không” là “Có”:

– Vì hư không “Chẳng có”, nên chẳng phải quá khứ… trở xuống là nói rõ “Không” là “Vô”. Trước là pháp, sau là dụ.

Đoạn thứ nhất ở trước, đã nói pháp khác với “Không”. Kế là đoạn hai nói lên “Không” khác với pháp. Sau là tổng kết: Vì khác với pháp, khác với “Không” nên ta nói: “Phật tánh là thường, chẳng phải ba đời; vì “Chẳng” khác với pháp, nên đều là ba đời dứt nhân ba đời, gọi là dứt thiện về sau, nói Phật biết năm ấm của Phật tánh hóa độ, chúng sinh tin, hiểu.

Dưới đây là đoạn hai, nói Phật biết năm ấm của pháp tướng, hóa độ khởi hạnh đối trị, trong đó là phần thô có hai:

  1. Biết ấm nhiễm.
  2. Biết ấm tịnh.

Chia kỹ có bốn:

  1. Biết quả nhiễm, là năm ấm của phàm phu.
  2. Biết nhân nhiễm, là nghiệp phiền não.
  3. Biết quả tịnh, là năm ấm của Phật.
  4. Biết nhân tịnh, là Thánh đạo.

Biết đủ tướng này, gọi là biết các ấm. Trong văn có ba:

1. Biết ấm quả của hai thứ thường và vô thường.

2..“Ca-diếp bạch Phật: “Thế nào là sắc từ phiền não sánh… trở xuống” là giải thích nhân để làm sáng tỏ quả.

3. Ca-diếp bạch: “Như Phật đã nói ba lậu… trở xuống là nói rộng về nhân của ba lậu đó.

Trong đoạn trước, đầu tiên là nói về năm ấm sinh tử.

“Ca-diếp bạch Phật: “Người Trí tức là Bồ-tát… trở xuống là nói về năm ấm của Phật. Trong phần đầu có bốn:

1. Như lai nói lược tự mình không tranh luận với thế gian.

2. Vì sao?… Trở xuống là chỉ rõ sự không tranh luận, nói có thuyết chủ trương “Vô”, đều đồng với người trí, nên nói là không tranh luận.

3. “Ca-diếp nói… trở xuống là nêu rõ về lý do không tranh luận của đoạn đầu. Trước là hỏi, sau là giải thích. Trong giải thích, đầu tiên là nêu; kế là trình bày mười tên gọi. Mười tên gọi này và người tu trong phẩm Sư Tử Hống ở trước tương tự nhau. Tín giới gần bạn chính là đồng với trước. Bên trong khéo suy nghĩ, gọi là vắng lặng ở trước, tinh tấn, chánh niệm, cũng đồng với trước. Trí tuệ trong đây, là thứ mười ở trước, ở đây là thứ bảy. Chánh ngữ, pháp ưa cũng đồng với trước. Thương xót chúng sinh, trước đó gọi là tuệ thí.

“Như thế… trở xuống là kết.

4.“Ca-diếp bạch… trở xuống là làm rõ thuyết thứ hai ở trước: “Có” nói “Không”, trước là hỏi, sau là giải thích, văn rõ ràng dễ hiểu.

Dưới đây là đoạn ba, nói về năm ấm của Phật, trước là hỏi, sau là đáp. Trong phần hỏi, đầu tiên là khẳng định người trí kia chính là Bồtát, tất cả bậc Thánh. Sau, là y theo lập ra câu hỏi, hỏi vặn có bốn câu:

1. “Trách Phật khác với thế trí nói “Có”. Thế trí nói ấm là “Có” vô thường, khổ, không, vô ngã. Sao Như lai chẳng nói đồng với họ, mà là nói thân Phật thường hằng không thay đổi?”

2. “Trách Phật khác với thuyết của thế trí nói “Là vô”, thế trí nói ấm không có thường, lạc v.v…, sao Như lai nói là “Có”?.

3. Trách Phật không một lời tranh cãi với đời mà nói rằng: “Sao không tranh cãi”

4. Trách Phật nói lời xa lìa điên đảo, trong đó có bốn câu:

Dùng lý nói Phật xa lìa ba điên đảo.

Nêu ra ba tên gọi.

“Lẽ ra nói… trở xuống là nói Phật đã lìa tưởng điên đảo, lẽ ra phải nói sắc Phật là vô thường v.v… ?.

“Nay chính là… trở xuống: Phật nói là thường, vặn hỏi là phá lìa điên đảo.

Sau đây, trong phần Phật đáp, đầu tiên là nói về sắc của phàm phu sinh ra từ phiền não, nói lên người trí kia nói lý do có vô thường, khổ, không. Sau nói về sắc của Phật đã xa lìa phiền não, thành-tựu rõ ràng, đã nói lý do thường hằng.

Trên đây đã nói về quả. Dưới đây là đoạn hai, nói về nhân, bày tỏ quả, trong đó có bốn:

1. Nói về hai thứ nhân ấm của phàm phu và Phật

2. Nói về đắc quả.

3. Kết luận là pháp thuộc về người.

4. Kết, Phật đáp câu hỏi trên.

Trong phần trước, trước là nói về nhân ấm của phàm phu, đầu tiên là hỏi để khởi phát:

“Thế nào là sắc sinh ra từ phiền não? Lại hỏi về sắc ấm, các ấm còn lại, so sánh rất dễ hiểu. Sau là Phật giải thích:

Phiền não có ba là nói chung để nêu: Dục, hữu, vô minh, nêu ba tên gọi.

“ Trí giả lẽ ra… trở xuống là nói về nhân ấm của Phật, trong đó có năm:

Quán thẳng về nhân lậu.

Nói phải quán nhân

Quán quả lậu.

Quán lậu nhẹ, nặng.

Tu đạo, dứt lậu.

Trong phần đầu có bốn:

Quán lỗi của lậu.

Dạy sinh ý tưởng nhàm chán.

Phật dạy ý tu đoạn.

Nhân tu có thể lìa lậu.

Trong phần đầu này lại có bốn:

1. Lược quán lỗi lậu, người trí nên quán tai hại lỗi lầm của ba lậu.

2. Cho nên… trở xuống là nói lược về ích lợi của quán sát. Biết tội lỗi rồi, sẽ được xa lìa. Đầu tiên là hỏi; sau là giải thích. Trong phần giải thích, trước là pháp, sau là dụ rất dễ hiểu.

3. “Như người đem… trở xuống là đối với đoạn đầu chỉ rõ lại lỗi lầm của lậu. Trước là dụ; sau là hợp. Trong dụ, như người là dụ cho ba lậu kia: Mù hữu lậu, dụ cho phàm phu, mù không có mắt tuệ, hoặc khởi, lôi kéo họ đến chỗ sinh tử, gọi là đem người mù vào rừng gai. Tánh “Hoặc” vô thường, khởi rồi dứt diệt trong quá khứ, gọi là bỏ rồi trở lại. Cũng có thể tánh “Hoặc” này đã hình thành ở tâm, tạm thời nổi dậy, dắt dẫn con người trở lại bản tánh, gọi là bỏ xong trở lại. Phàm phu không có mắt tuệ, vì đang quờ-quạng trong chốn đầy các khổ, tai nạn. Vì muốn thoát khỏi, nên nói: “Người mù khó ra khỏi nơi ấy.”. Dù cho được thoát khỏi, vì đã từng oằn oại trong các khổ đau, nên nói: “Dù cho may mắn được thoát khỏi rừng gai đi nữa, thì thân thể họ cũng mang đầy vết trầy trụa, tan tát.

Sau đây, là hợp để chỉ rõ lỗi: Phàm là hợp với người mù; không nhận thấy lỗi lậu, hợp với sự mù quáng của họ, thuận theo sự thực hành, hợp với “Bị dẫn dắt vào trong rừng đầy gai chông!.”

4.“Như người kia thấy… trở xuống là đối với phần hai trước nói biết được lợi ích của sự quan sát, thấy thì xa lìa, biết được quả báo lỗi lầm, nói lược là biết ích lợi.

“Có bốn người… trở xuống là nói rộng biết ích lợi, trong đó, đầu tiên là nêu rộng bốn người; kế là nêu bốn danh.

“Nếu con người có thể… trở xuống là y theo bốn người này, để nói biết được lơi ích của sự quan sát: Quan sát được phiền não gây ra, thọ lãnh quả báo chỉ nhẹ đối với một, hai, ba người để khuyên quán lỗi lầm.

Dưới đây là đoạn hai, Phật dạy sinh ý tưởng nhàm chán:

1. Người trí nghĩ rằng: “Ta nên xa lìa, sinh tâm muốn lìa đừng khởi lỗi.

“Lại nữa… trở xuống là kiềm chế ý không nghĩ đến trong khi chưa khởi lỗi.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích.

Dưới đây là đoạn ba, Phật dạy ý tu đoạn, chia làm bốn câu:

Nghĩ đến tu có ích. Nếu ta tu đạo, thì phải nhờ năng lực quán sát này, nhằm phá tan mọi đau khổ.

2.“Người này quán sát… trở xuống là do ý nghĩ ở trước đã làm cho “Hoặc” được nhẹ, mỏng.

3. Đã nhận thấy… trở xuống là do “Hoặc” nhẹ, mỏng, tâm sinh vui mừng.

“Lại nghĩ rằng… trở xuống là biết được oai lực của đạo, hạ quyết tâm tu tập tích cực.

Dưới đây là đoạn bốn, nhờ tu được lìa lỗi. Đầu tiên là lìa phiền não. Sau nói lìa khổ.

Trên đây là đoạn thứ nhất, đã quán sát trực tiếp nhân lậu, cho nên, “Ta nói v.v… trong kinh”, là nêu thuyết xưa Phật đã nói, nói cần phải quán sát nguyên nhân, là quán lậu ở trước, “Vì có lợi ích, nên ta nói phải quán sát lậu và nhân.

“Vì sao?… Trở xuống là quán sát lỗi lầm. Trước là hỏi; sau là giải thích. Về sau nói quán sát ích lợi, trước là hỏi, sau là giải thích. Trong giải thích, đầu tiên là pháp; kế là dụ; sau là hợp.

Dưới đây là đoạn ba, kế là quán sát quả lậu, trong đó, đầu tiên là kết trước, sinh sau.

“Biết từ việc lành… trở xuống là nói quán sát quả lậu.

“Quán sát quả báo… trở xuống là nói quán sát lợi ích.

“Từ sau đây là đoạn bốn, quán sát lậu nhẹ, nặng, trong đó, đầu tiên là kết trước, sinh sau.

“Quán sát lậu nhẹ, nặng xong, trước là lìa lỗi nặng… trở xuống là tùy biết, dứt lậu dần.

“Nếu người trí biết nhân phiền não… trở xuống là đoạn thứ năm tu đạo, dứt lậu, trong đó, trước là pháp; kế là dụ; sau là hợp.

Trên đây là nói rộng về ấm nhân của phàm phu, Phật.

Dưới đây là đoạn hai, nói về nhân được quả. Đầu tiên là nói: “Nếu con người biết được nhân phiền não của phiền não,” là nói về nhân tố của Phật được quả ở đoạn sau, vì nhân lời nói thuận tiện.

“Nếu không thể… trở xuống là nói về nhân tố của phàm phu được quả ở đoạn đầu”.

Dưới đây là đoạn ba, kết pháp thuộc về con người. Đầu tiên là biết phiền não, nhân của phiền não v.v…, kết vô lậu được quả thuộc về Phật ở trước. Trước là kết thuộc về Phật; sau là y theo nói về “Thường”

“Không biết phiền não…trở xuống là kết hữu lậu trong được quả, thuộc về phàm; sau là y theo người kia, nói ấm là vô thường.

Dưới đây là đoạn bốn, kết đáp câu hỏi ở trên. Ca-diếp trách thuyết Phật đã nói ở trước, khác với thuyết của người trí nói, đồng thời trách Như lai không gọi, không tranh luận. Nay là Phật đáp.

Trước kia đã khẳng định người trí là Phật, Bồ-tát và tất cả bậc Thánh. Sau là y theo bậc Thánh, Phật đáp câu hỏi:

“Bồ-tát, chư Phật đã nói hai nghĩa này, ta cũng nói như thế,” nói về thuyết mà Phật đã nói đều đồng với thuyết của người trí, nghĩa là nói trước nay, năm ấm của chư Phật không có ra từ phiền não sinh là vô thường, khổ; năm ấm của chư Phật không sinh ra từ phiền não là thường, lạc,ngã, gọi là hai nghĩa. Cho nên, ta nói “Không tranh luận với đời”, kết thành thuyết Phật nói không tranh luận với chúng sinh.

Trên đây là đoạn hai, nói về nhân được quả.

Dưới đây là đoạn ba, nói rộng về nhân của Phật, Bồ-tát, trong đó, nói nghiêng về một bên nhân vô lậu, còn nhân hữu lậu không nói. Văn có năm phần:

  1. Tu đạo, dứt lậu
  2. Ca-diếp bạch: “Sao gọi là hạnh thanh tịnh?”. Sau đây, Phật sẽ giải thích, phát ra thể đạo.
  3. “Pháp hữu lậu cũng lại có thể làm nhân cho vô lậu… trở xuống là nói lên giới hạn của Đạo.
  4. “Nếu có biết căn, biết nhân… trở xuống là nói phương pháp gồm thâu đạo.
  5. Ca-diếp nói: “Rốt ráo tức là Niết-bàn… trở xuống là nói về nghi thức thú hướng đạo, cũng gọi là phương tiện thú hướng đạo.

Trong phần trước, đầu tiên là dứt trừ phiền não. Kế là nói dứt nghiệp; sau là nói dứt khổ. Trong dứt phiền não, đầu tiên là dứt thể lậu.

“Quán thọ, biết nhân gần của lậu này… trở xuống là dứt nhân duyên lậu.

Trong phần trước có bốn:

  1. Quán thể của lậu.
  2. Quán nhân của lậu.
  3. Quán quả của lậu.
  4. Tu đạo, dứt lậu.

Trong phần quán thể của lậu, đầu tiên Ca-diếp là hỏi:

“Sao gọi là dục, cho đến vô minh?” Sau đây, là Phật đáp:

Trước là nói dục lậu. Đầu tiên là nói: “Giác trong, nhân duyên ngoài v.v…, là giải thích về dục lậu.

“Cho nên, ta…trở xuống là dẫn thuyết chứng thành. Kế là nói về hữu lậu. Đầu tiên là nói. Sau là phân biệt lỗi của dục. Sau đây, Phật là nói về vô minh. Văn chia làm ba:

  1. Ngay nơi tướng giải thích.
  2. “Vô minh tức là gốc của tất cả… trở xuống là bày tỏ lỗi của vô minh, có thể là gốc của “Hoặc”.
  3. Ca-diếp bạch Phật… trở xuống là trong nghĩa trước, vì có người khó hiểu, nên Bồ-tát đặt ra hỏi, đáp để chỉ bày lần nữa.

Trong phần trước, đầu tiên là nói: “Không thể biết rõ “Ngã” và xứ của “Ngã”, không phân biệt trong ngoài,” là nói về tướng của “Ngã” và “Ngã sở”, giải thích rộng có bốn:

  1. Chủ thần là “Ngã”; các ấm là “Sở” (sỡ hữu của ngã), chẳng biết “Ngã”, “Ngã sở” này “Là vô”, gọi là vô minh.
  2. Con người giả, gọi là “Ngã”; pháp giả là “Sở”, chẳng biết “Ngã”, “Sở” này “Không”, gọi là vô minh.
  3. Pháp nội gọi là “Ngã”; pháp ngoại gọi là “Sở”, chẳng biết “Ngã”, “Sở” này là “Là vô”, gọi là vô minh.
  4. Phật tánh, gọi là tất cả nghĩa đức khác nhau, trong chân ngã, nói là có ngã sở. Cho nên văn trên nói: “Biết” “Ngã”, “Ngã sở”, là người xuất thế; không biết nghĩa này, gọi là vô minh.

Sự hiểu biết trong và ngoài cũng có nhiều thứ:

  1. Chúng sinh gọi là trong; pháp ngoại là ngoài. Không hiểu rõ nghĩa này, gọi là vô minh.
  2. Sự tướng của ấm, giới v.v… ngoài; pháp tướng của khổ, vô thường v.v… là trong. Không biết được các nghĩa này, gọi là vô minh.
  3. Pháp “Có” là ngoài; lý “Không” là trong. Không nhận biết được sự lý này, gọi là vô minh.
  4. Pháp chân là trong; tướng hữu tình là ngoài, không biết được nghĩa này gọi là vô minh.
  5. Chân-tánh là trong, công dụng của chân là ngoài, không nhận thúc được nghĩa này gọi là vô minh.

“Gọi là… trở xuống là kết.

Trong đoạn hai, đầu tiên là nói: “Vô minh là gốc các lậu, là nói nói về lỗi của lậu.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích.

Nhân duyên của vô minh nhớ tưởng, tạo ra tướng về ấm, nhập, giới, gọi là chúng sinh v.v…, nói dựa vào vô minh sinh ra ba điên đảo. Do nhân duyên này sinh ra tất cả lậu, nghĩa là dựa vào ba điên đảo. Sinh ra bốn đảo khác và tất cả các kiết như tham, giận v.v…, nên nói là vô minh là gốc các lậu.

“Cho nên, ta… trở xuống là dẫn thuyết chứng thành.

Đoạn ba, trong hỏi đáp để chỉ bày rõ lại, có hai lượt hỏi đáp: Đầu tiên, Ca-diếp nêu thuyết xưa của Phật nói, để vặn hỏi thuyết của Phật hiện nay:

Xưa, Như lai đã nói; “Tư duy bất thiện, sinh tâm tham, giận v.v…

nay, vì sao Phật lại nói vô minh?” Sau đây là Phật giải thích. Giải thích có ba câu:

  1. Nói lên vô minh và tư duy bất thiện làm lớn thêm lẫn nhau.
  2. “Vô minh và tư duy bất thiện kia có thể sinh… trở xuống là nói hai thứ này đều có công năng sinh ra các phiền não khác, trong đó, đầu tiên là rộng, tất cả phiền não lớn lên, đều gọi là nhân duyên phiền não, nghĩa là sáu trần v.v…

Sau đây là nói về nhân duyên gần gũi phiền não, sinh ra phiền não đều là vô minh, suy nghĩ bất thiện. Cho nên, hai thứ này đồng sinh ra tất cả phiền não.

  1. “Như hạt… trở xuống là phân định gần, xa, như hạt nẩy mầm. Hạt là nhân gần; bốn đại là nhân xa; phiền não cũng thế. Suy nghĩ bất thiện dùng làm nhân gần; vô minh là xa.

“Ca-diếp… trở xuống là lại nêu trước, vặn hỏi sau:

“Trước kia, Như lai đã nói vô minh là lậu, sao nay lại nói “Vì nhân vô minh nên sinh ra các lậu?”.

Sau đây, Phật giải thích cho Bồ-tát. Trong phần giải thích có ba:

1. Nói vô minh Trụ địa căn bản là vô minh lậu. Ba điên đảo v.v… còn lại là thô, khởi phiền não, đều là chỗ sinh ra.

Trong văn, đầu tiên là nói: “Vô minh lậu: Là địa vô minh của vô minh nội. Bên trong mê chân như, vì không hiểu rõ, chẳng thấy nên gọi là nội. Nhân vô minh sinh ra các lậu, là nhân trong, ngoài. Nói đối tượng sinh của vô minh kia sinh ra ba điên đảo v.v…, thô khởi phiền não, làm nhân cho phiền não sinh khởi.

Y theo tâm ba điên đảo trong phiền não đã khởi, vì mê mờ che lấp lý nhân duyên vô thường, khổ, không, vô ngã, lập thành cái có nhất định, gọi là nội. Bốn điên đảo v.v… trong pháp chắc chắn có đã lập ở trước, không hiểu rõ, không biết điên đảo, lập ra “Ngã”, “Ngã sở” v.v…, gọi là ngoài.

2. Y theo trực tiếp phân tích trong pháp đã sinh ở trước, để nhận lấy ba điên đảo, tâm mê nội là vô minh lậu. Bốn điên đảo v.v… thô khởi phiền não, đều là chỗ sinh.

Trong văn, đầu tiên là nói vô minh lậu, đó gọi là nội đảo, là ba đảo. Sau nói về tướng đảo ấy. Vì không biết được vô thường, khổ, không, vô ngã nên gọi là nội. Nếu nói tất cả nhân duyên phiền não thì đó gọi là không biết “Ngã”, “Ngã sở” ngoại; bốn điên đảo v.v… này thô, khởi phiền não trong pháp sự thô trong ấm giới v.v…, không hiểu rõ, không nhận thức được chấp ngang trái là “Ngã”, hoặc là cái ngã có, gọi là không biết được “Ngã” “Ngã sở” bên ngoài.

3. Tất cả vô minh là vô minh lậu, sinh ra qua sinh tử ấm, giới v.v…

Trong văn, đầu tiên là nói vô minh lậu, vô thỉ, vô chung, là “Hoặc” của tất cả vô minh kia, không phân biệt khác nhau giữa gốc, ngọn, đầu cuối. Tất cả nói chung là vô minh lậu, gọi là không có đầu cuối, không nói là vô minh ở trước không có nguyên thỉ; sau không có chung tận, gọi là không có đầu cuối. Từ đây, tất cả vô minh phiền não sinh ra ấm, giới v.v… kế là quán nhân lậu có hai lần hỏi đáp:

Đầu tiên, Ca-diếp nêu lời Phật đã nói xưa, thỉnh Phật giải thích, trình bày. Phật đáp có bốn:

1. Phật dạy quán sát duyên sinh phiền não. “Vì sao sinh ra phiền não?” Là nói chung.

“Tạo tác… trở xuống là nói riêng.

2. Phật dạy quán sát chuyển duyên phiền não. “Vì sao chuyển?… Trở xuống là như thế v.v…

3. “Khởi lên quán này… trở xuống là nói về lợi ích của quán.

4. “Cho nên, ta… trở xuống là kết thành thuyết xưa, để đáp câu hỏi ở trước.

“Ca-diếp… trở xuống là hỏi lại:

“Bạch Như lai! Một thân chúng sinh làm sao khởi nhiều thứ phiền não?” Phật giải thích, trước là dụ, sau là hợp.

Kế là quán quả lậu, có hai lần hỏi đáp:

Trước là Ca-diếp thỉnh, “Quán quả ra sao?”. Sau là Phật giải thích, văn chia làm ba phần:

1. Phật dạy quán các lậu có công năng sinh ra quả khổ, trong đó, trước nói sinh các quả đường ác. Sau, sinh lên cõi trời, cõi người. Thân của trời, người, vì chúng sinh phần nhiều tham chấp, nên y theo nói về lỗi, để cho con người chán lìa, được thân người, trời, tức là vô thường, khổ, không, vô ngã, nói đủ bốn lỗi.

Sau đây, lại nói về tướng khổ, vô thường, được ba khổ, là khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Ba vô thường là sinh, trụ, diệt. Lại nữa, phần đoạn, niệm tánh không thành, cũng là ba.

2. Phật dạy quán sát lậu sinh ra nghiệp ác, khiến cho chúng sinh gây ra năm tội nghịch…

3. Phật dạy người trí với ý khích lệ không tạo: “Ta được thân này không nên sinh phiền não, chịu quả báo ác.

“Ca-diếp… trở xuống là lại đem quả vô lậu để ứng với câu vặn hỏi ở trước. Chia làm ba câu:

1. Nhân lời Phật nói ở trước, để hỏi: “Quả vô lậu có ở trong đoạn không?” Trong đó, đầu tiên là nói: “Có quả vô lậu, nêu thể của pháp đó”. Lại nói: “Người trí dứt các quả báo”, là nhắc lại lời nói ở trước của Phật “Quả báo vô lậu ở trong đoạn, không đúng đối với câu hỏi”.

2. Trên, đã nói bậc Thánh cầu quả vô lậu, sao Phật lại nói là đoạn? Trong đó, đầu tiên là nói: “Các người đắc đạo, đã có quả vô lậu”, là nêu thể của pháp vô lậu đó. Dưới là y theo lập ra câu hỏi:

– “Như người trí kia đã cầu quả vô lậu, sao Phật lại nói tất cả người trí nên dứt quả báo?”.

3. Hỏi: Bậc Thánh đã dứt các quả báo, làm sao có quả báo vô lậu?

“Vì người nêu câu hỏi này muốn cho Như lai giải thích quả vô lậu khác với chỗ dứt ở trước. Cho nên mới hỏi vặn”. Sau đây, Phật sẽ giải thích. Ý giải thích thế nào? Nói về thể của pháp vô lậu phải là quả, cũng không có báo, cho nên không xếp vào báo bị dứt trừ. Bậc Thánh dù cầu quả vô lậu, nhưng không ngại gì dứt trừ quả hữu lậu. Dù còn dứt trừ quả hữu lậu, nhưng vẫn không ngại gì có quả vô lậu.

Trong văn có ba:

1. Nói thể vô lậu chẳng phải quả, mà là từ quả báo được gọi tên, gọi là quả vô lậu. Vì nói về nghĩa này, nên trong văn, nêu rộng các pháp, để so sánh chỉ rõ: Như lai có khi trong nhân nói quả trong quả nói nhân, lược mở ra hai môn, như người đời đều dựa vào lời nói của thế gian để làm sáng tỏ vấn đề. Ta cũng đồng với Như lai, y theo thuyết mình đã nói để chỉ bày rõ.

Trong đây, chính là nhận lấy trong nhân nói quả, so sánh để nói rõ quả báo vô lậu của bậc Thánh, là trong nhân nói quả.

2. Tất cả bậc Thánh… trở xuống là nói pháp vô lậu không sinh quả sau, chỉ vì năng lực tu đạo của các bậc Thánh, nên không còn sinh lậu. Lậu bất sinh này là do năng lực đạo, nên được gọi là quả vô lậu.

Trong văn, đầu tiên là nói: “Tất cả bậc Thánh đều không có quả vô lậu” là nói không sinh quả sau. Quả báo tu đạo của bậc Thánh, vì không còn sinh lậu nữa, nên gọi là quả, nghĩa là công đức vô lậu đối với đạo, gọi là quả.

3. “Người có trí quán như thế… trở xuống là nói về lợi ích của quán sát.

Sau đây là đoạn bốn nói về tu đạo dứt lậu. Đầu tiên là nói giải thích.

“Ca-diếp bạch… trở xuống là hỏi đáp để định liệu lựa chọn, có hai hỏi đáp.

Đầu tiên là Ca-diếp dùng nhân quả phiền não của chúng sinh đều cùng ác, để vặn hỏi, phá “Có” tu. Văn chia làm bốn:

  1. Nói về nhân quả phiền não đều là ác.
  2. Vặn hỏi, phá “Có” tu.
  3. Nói phiền não tức là chúng sinh.
  4. Hỏi vặn, đả phá “Có” tu.

Trong phần đầu, trước là pháp; kế là dụ; sau là hợp. Trong pháp có bốn quan điểm:

  1. Nói chúng sinh từ phiền não sinh khởi.
  2. Nói phiền não là ác không phải thiện.
  3. Nói phiền não, năng sinh là ác; chỗ sinh cũng ác.
  4. Y theo phiền não để phân định nhân quả. Trước là nêu; kế là trình bày; sau nói đều cùng ác. Văn dụ rất dễ hiểu. Trong hợp có bốn trường hợp:
  1. Nói nhân, quả đều là chúng sinh.
  2. Nói nhân, quả đều là phiền não.
  3. Nói chúng sinh tức là phiền não.
  4. Nói chúng sinh tức là phiền não.

Ba pháp còn lại, rất dễ hiểu. Sau đây, Phật sẽ đáp: Trước là khen; kế là răn dạy; sau là trình bày, giải thích.

“Ca-diếp… trở xuống là vì các phiền não sinh nhau không dứt, hỏi vặn, phá “Có” tu. Phật giải thích, nói có phiền não vì không gây ra nhân sau, nên có tu đạo. Trước là dụ; sau là hợp. Kế là trước, dứt phiền não. Thọ, tưởng, xúc, dục là nhân duyên “Hoặc”. Trước là nói về dứt thọ; kế là nói về dứt tưởng, sau nói về đoạn dục. Xúc, là nói ở trong đoạn thọ, văn lại có bốn:

  1. Quán thể của thọ.
  2. Quán nhân của thọ.
  3. Quán quả báo của thọ.
  4. Tu đạo dứt thọ.

Trong quán thọ ở trước, chia làm sáu trường hợp:

  1. Quán tâm thọ có thể là nhân gần của tất cả lậu, nói là trong, ngoài, nghĩa là dứt tất cả lậu, vô minh, ba điên đảo, gọi là lậu trong; các lậu khác, gọi là ngoài.
  2. Nói do thọ không dứt các lậu.
  3. Nói do thọ không ra khỏi ba cõi.
  4. Nói do thọ, phát sinh ba điên đảo.
  5. Nói do thọ, khởi lên kiết ái.
  6. Nói do thọ sinh ra các nghiệp.

Đầu tiên là nói đúng:

“Cho nên, ta… trở xuống là dẫn thuyết chứng thành.

“Cho nên, trí… trở xuống là kết khuyên quán sát.

Kế là quán nhân của thọ, gồm có sáu trường hợp:

  1. Tìm sở nhân của thọ.
  2. “Nếu nhân duyên… trở xuống là biết thọ không có nhân.
  3. “Tại quán… trở xuống là biết thọ không sinh ra, từ Tự tại,…
  4. “Thọ này đều từ hòa hợp… trở xuống là biết từ ái sinh.
  5. “Là hòa hợp… trở xuống là biết thể tánh của thọ chẳng phải có, chẳng phải không .
  6. “Cho nên… trở xuống là kết ý dứt trừ.

Kế là quán quả của thọ, trong đó, đầu tiên là kết trước, sinh sau.

Sau là nói quán sát. Văn có ba phần:

  1. Quán thọ sinh ràng buộc, nghĩa là vời lấy khổ, dứt cội lành.
  2. Sinh ra giải thoát.
  3. Lợi ích của quán sát: Trừ nhân, lìa quả. Lúc khởi quán sát này, không gây ra nhân quả của thọ, nói lược ích lợi của quán sát.

Sau đây, là nói rộng để chỉ bày rõ sự quán sát. Trước là hỏi; sau là giải thích:

“Thọ nào tạo ra ái?” Tìm cái mà thọ sinh ra.

“Ái nào sinh ra thọ?” Là tìm chỗ sinh của ái.

“Nếu có thể quán sâu sắc… trở xuống là nói về lợi ích của quán.

Sau đây, kế là nói về tu đạo của người kia dứt thọ. Văn có rộng, lược. Trong lược có năm trường hợp:

  1. Tìm xem ái, thọ diệt ở chỗ nào?
  2. Do quán, bèn thấy có diệt một ít, liền biết sẽ có chỗ diệt rốt ráo.
  3. Nhờ biết mà sinh tín.
  4. Tìn tòi sở nhân của giải thoát, biết từ tám chánh.
  5. Biết đã tu hành chân chánh.

Sau đây, là nói rộng để chỉ bày rõ:

“Thế nào là tám chánh?” Hỏi trước, khởi sau. Dưới đây, sẽ đối ứng để giải thích. Văn có năm phần:

  1. Quán ba thọ, làm tăng thêm thân, tâm.
  2. Quán sát nhân của thọ.
  3. Lại quán sát thọ.
  4. Quán quả của thọ.
  5. Hễ biết, thì liền dứt trừ.

Y theo đoạn đầu, trước là nêu ba thọ, kế là nêu tên ba thọ. Sau là nói lên ba lỗi làm tăng thêm thân, tâm.

Trong đoạn hai, “Nhờ đâu mà làm tăng thêm nhân duyên xúc?” Gạn hỏi trước, khởi sau.

Sau đây, là nói rộng để nói về xúc. Trước là nêu ba xúc; kế là nêu tên xúc:

Xúc là tâm sở sinh ra tất cả pháp. Nay, tùy theo sở sinh, mở ra làm ba. Như trong luận Tạp Tâm có nói năm thứ “Tăng ngữ” và “Hữu đối”, nói là năm thứ trong xứ vô minh.

Tăng ngữ hữu đối, y theo thức nhân biệt tương ưng với ý thức, có thể phát ra ngôn ngữ, gọi là tăng ngữ xúc. “Xúc” tương ứng với năm thức, đối với hiện cảnh, gọi là xúc hữu đối. Ba thứ sau, y theo pháp làm sinh ra Thánh đạo, gọi là “Xúc minh”. Sinh ra phiền não: Gọi là xúc vô minh. Trong các xứ danh còn lại, cũng gọi là xúc chẳng phải minh, chẳng phải vô minh. Nay, chỉ bày ba thứ sau, lược bỏ không có hai thức trước. Sau đây là nói về tướng của ba thứ ấy. Nói tức tám chánh, ngoài ra, còn thêm thân, tâm và ba thứ thọ.

Cho nên, ta… trở xuống là tùy lỗi dứt bỏ.

Trong đoạn ba, đầu tiên là nói tâm thọ vừa là nhân, vừa là quả.

“Phải quán… trở xuống là Phật khuyên con người nên quán sát”.

“Cho nên… trở xuống là kết

Trong đoạn bốn, trí quán thọ xong, lại quán kiết ái, sinh trước, thỏ báo sau, gọi là ái, giải thích chung tưởng trạng của ái. Có hai, sau là giải thích riêng. Trước là nêu; kế là trình bày; sau là nói về tướng của ái.

“Nói ăn tạp nhạp, nhân ái sinh, già v.v… ”, lời nói ấy điên đảo. Nếu đúng thì nên nói: “Tất cả sinh, già,… này có nhân, không có ăn, rất dễ hiểu.

Dưới đây là đoạn thứ năm, hễ biết liền dứt trừ, trong đó có ba câu:

  1. Phật dạy tìm trở lại, không dứt cái ăn, thì ái sẽ không lìa sinh…
  2. Nay tìm trở lại, không dứt trừ nhân ái, sẽ không được đạo quả.
  3. “Cho nên… trở xuống là theo thứ lớp dứt trừ: Trước là dứt tâm sở xúc; kế là thọ, kế là ái; sau kết gọi là đạo.

“Nếu có khả năng… trở xuống là kết thành “Có” tu.

 

 

PHẦN CUỐI

Sau đây, là quán tưởng, trong đó cũng có bốn:

  1. Chánh quán tưởng.
  2. Nhân quán tưởng.
  3. Quả quán tưởng.
  4. Tu đạo đoạn tưởng.

Trong phần đầu có năm:

  1. Tìm ngọn, tìm gốc. Quán thọ, ái ở trước từ tưởng mà sinh.
  2. Giải thích rộng để chỉ rõ lỗi của tưởng.
  3. Nói về quán tưởng
  4. Biết phân biệt giới hạn của tưởng.
  5. Nói đoạn có ích.

Đoạn đầu rất dễ hiểu. Trong đoạn hai, đầu tiên là vì sao nên gạn hỏi trước, khởi sau? Kế là đối nhau để phân biệt lỗi. Chúng sinh thấy sắc cũng không sinh tham, phân biệt thức khác với tưởng. Thọ cũng chẳng sinh, là phân biệt thọ khác với tưởng.

“Nếu đối với sắc… trở xuống là nói chỉ rõ lỗi của tưởng…

Trong đoạn ba, quán tưởng thế nào? Là hỏi để khởi phát. Nghĩ đến tất cả chúng sinh chưa được chánh đạo, đều có ý tưởng trái ngược (đảo), đối với câu hỏi lược giải thích.

“Thế nào là tưởng đảo? Là hỏi lại để khởi phát. Sau là đối với nói rộng.

Trong đoạn bốn, nói về phân định giới hạn của tưởng khác nhau có ba. Trước là nêu; kế là trình bày; sau nói về tướng. Có ba lần để giải thích:

  1. Y theo cảnh để phân biệt: Do nhân duyên tiểu sinh, gọi là tưởng tiểu, như thế…
  2. Y theo phân biệt: Chưa nhập gọi là tiểu; đã nhập gọi là đại.

Mười: “Nhất thiết nhập”, gọi là vô lượng.

  1. Y theo giới để phân biệt: Cõi Dục tiểu, cõi Sắc đại; cõi Vô sắc thì vô lượng.

Trong đoạn thứ năm, đầu tiên là nói đúng về lợi ích của tưởng đoạn. Vì ba tưởng diệt nên thọ, tưởng được giải thoát.

“Ca-diếp… trở xuống là hỏi đáp, để chỉ rõ thêm. Đầu tiên là Cadiếp chấp chung, hỏi riêng:

“Diệt tất cả pháp, gọi là giải thoát, sao Như lai lại nói tưởng, thọ diệt gọi là giải thoát?”

Sau đây là Phật giải thích. Ý giải thích như thế nào? Nói tưởng và thọ là căn bản của “Hoặc”, nêu gốc gồm thâu ngọn, nên chỉ nói hai mà gồm thâu tất cả.

Trong văn, Như lai nêu so sánh để chỉ bày rõ.

Tướng so sánh như thế nào? Có pháp nương tựa người, thì nói là người hiểu pháp. Có người dựa vào pháp thì nói là pháp giải thoát người. Chỗ so sánh là như vậy. Tất cả phiền não, vì dựa vào tưởng, thọ, sinh nên nói là tưởng, thọ, sinh, tức là biết tất cả phiền não đều diệt. Trong phần so sánh, đầu tiên là nói: “Đôi khi Như lai do chúng sinh mà nói pháp, người nghe hiểu pháp nói chúng sinh, người nghe hiểu chúng sinh”, sơ lược nêu. Kế là nói về tướng ấy.

Sau đây, là y theo để chỉ bày rõ pháp: Dù nói tưởng, thọ, tức là đã nói chung tất cả đều có thể dứt. Kế là quán sát nhân tưởng, văn có ba phần:

  1. Chính là quán tưởng nhân.
  2. Sinh khởi quả sau.
  3. Trong nhân trước, vì có người khó hiểu, nên đặt ra hỏi đáp để chỉ rõ lại.

Trong phần trước có bốn phần:

  1. Kết trước, sinh sau.
  2. “Là vô lượng… trở xuống là tìm quả biết nhân.
  3. Xúc có hai… trở xuống là y theo nhân để phân biệt. Trước là nêu; kế là trình bày; sau là giải thích rất dễ hiểu.
  4. Quán xúc sinh ra tưởng. Đoạn đầu này đã nói xong, Đoạn hai, rất dễ hiểu. Trong đoạn ba có hai hỏi đáp:

Đầu tiên là Ca-diếp chấp thánh đồng với phàm, nói thánh có điên đảo, xin Phật giải thích.

Trong văn, đầu tiên là nói: “Nếu vì tưởng phiền não này sinh điên đảo là nhắc lại lời nói trên của Phật.

Văn trước nói: “Vì xúc với phiền não nên sinh ra tưởng điên đảo”. “Đây là nêu lại văn trước, vì sao lại nói rằng, nhân tưởng phiền não sinh ra tưởng điên đảo?”.

“Vì theo thuyết của luận Thành Thật nói tưởng là xúc, xúc tức là tưởng, nên nay, Ca-diếp y theo tưởng để nêu. Nếu theo luận Tỳ-đàm, thì xúc và tưởng đều có, là từ bạn để nêu. Cho nên nói: “Từ tưởng phiền não sinh ra tưởng điên đảo.

Sau đây sẽ y theo đối tượng đã nêu, y theo Thánh để đặt câu hỏi:

“Thánh có tưởng đảo mà không có phiền não. Nghĩa này thế nào?” là Như lai hỏi ngược lại: “Sao bậc Thánh mà có tưởng điên đảo?”.

“Ca-diếp… trở xuống là lại nói về đảo đối với Phật.

Sau đây, Phật sẽ giải thích:

Nói về tưởng chấp đắm của phàm, có thể gọi là điên đảo. Bậc Thánh đều có tưởng chuyển đi khắp cho đời, sao lại là điên đảo? Trước nêu hai tưởng; kế là trình bày; sau là giải thích. Trong giải thích, bậc Thánh có tưởng truyền bá khắp cả thế gian, là y theo Thánh, chính thức giải thích.

“Tất cả phàm… trở xuống là nêu phàm, nói rõ thánh, trước giải thích, sau là kết. Quán quả tu đoạn, văn đều rất dễ hiểu.

Sau đây, là nói về quán sát dục. Văn lại có bốn:

  1. Chánh là quán dục.
  2. Quán nhân của dục.
  3. Quán quả của dục.
  4. Tu đạo dứt dục.

Y theo đoạn đầu, tâm dục là thể. Văn nêu nghiêng về cảnh. Người trí quán dục, tức là sắc v.v…, là lược nêu, tức là Như lai nói quả trong nhân, giải thích là nghĩa dục. Năm dục này chẳng phải là thứ dục có công năng sinh ra tâm dục. Vì trong nhân nói quả, nên gọi là dục. Từ dục này sinh ra dục, thật ra không phải dục, là giải thích, chỉ bày rõ việc ấy.

Kế là quán sát nhân của dục, phải biết rằng, tư tưởng điên đảo của tâm dục là nguyên nhân.

Trong văn có năm:

  1. Nói về người si mê đối với sắc v.v…, ở trước, tham cầu, thọ lãnh, sinh ra tưởng điên đảo, tham cầu dục vong. Muốn khởi tham cầu, trước sinh tư tưởng điên đảo.
  2. Dựa vào tưởng mà sinh thọ.
  3. Dựa vào tưởng điên đảo ở trước sinh ra mười thứ tưởng.

Nói mười tưởng, đó là tưởng, sắc, thanh, hương, vị, xúc; tưởng, sinh, trụ, diệt và tưởng nam nữ. Năm tưởng điên đảo ở trước, tức cho là năm, khởi thêm năm tưởng sau, gọi là sinh mười tưởng, cũng có thể đối với cảnh giới năm trần trước, khởi lại tâm tưởng, chung với tưởng khác, nói là mười.

  1. Nói dựa vào tư tưởng sinh ra tâm dục, gây ra nghiệp ác.
  2. Kết, là Phật khuyên quán tưởng, quán đảo, tu dứt. Văn đều rất dễ hiểu.

Sau đây, là quán nghiệp. Văn lại có bốn:

  1. Quán thể của nghiệp.
  2. Quán nhân của nghiệp.
  3. Quán quả của nghiệp.
  4. Tu đạo dứt nghiệp.

Trong phần trước, đầu tiên là kết trước sinh sau. “Vì sao? v.v… Trở xuống là nói về lý do phải quán nghiệp. Vì phiền não ở trước tạo ra nghiệp sinh và nghiệp thọ. Trước vặn hỏi; sau giải thích. Thọ, tưởng, xúc v.v…, nêu phiền não ở trước, tạo ra nghiệp sinh, không tạo ra định nghiệp, ẩn giấu chung, giải thích thỉ. Đầu tiên là phát ra thiện, ác sinh ra quả sau, gọi là nghiệp tác sinh, chưa thấm nhuần quả thọ, gọi là không tác thọ. Phiền não như thế, hoạt động chung với nghiệp, tức là có hai: Nói về chung là thỉ chung. Nghiệp tác là sinh trước, lại thấm nhuần giữa quả sinh, chung với trước nói là hai sinh, thọ, nêu ra tên gọi.

“Cho nên v.v… trở xuống là kết, là phiền não ở trước có thể là hai nghiệp, nên phải quán nghiệp.

Sau đây, là nói về tướng của nghiệp. Y theo đủ nói là ba. Đầu tiên là nêu; kế là trình bày, sau phân biệt rộng, có bốn nghĩa, để nói về nghiệp:

  1. Phân biệt nghiệp và quả nghiệp đối nhau. Hai thứ thân, miệng sinh khởi tạo tác, gọi là nghiệp. Vì từ ý nghiệp sinh, nên gọi là quả nghiệp. Ý năng tư duy, suy lường, tạo tác, gọi là nghiệp, vì không từ nghiệp sinh, nên không gọi là quả. “Vì nghiệp nhân, nên tức gọi là nghiệp”, giải thích để chỉ rõ nghiệp.
  2. Phân biệt trong, ngoài: thân, miệng gọi là ngoài; ý nghiệp gọi là trong.
  3. Phân biệt sinh, thọ, về nghĩa như giải thích ở trước.
  4. Phân biệt đúng thời gian định ở trước: chánh nghiệp được gọi là nghiệp thân miệng của thời hạn định ở trước của ý, lược chia ra hai tướng. Dựa vào sự hội ngộ của thời hạn định ở trước trong thân, miệng của ý nghiệp ở trước mà thành, nên gọi là thân, miệng dùng làm nghiệp của thời hạn định ở trước. Trước là phát, sau giải thích.

“Cho nên… trở xuống là kết.

Kế là quán sát nhân nghiệp, trong đó, đầu tiên là kết trước, sinh sau. Sau là giải thích đúng về nghiệp ái, vô minh, xúc là nhân của nghiệp. Từ vô minh xúc, sinh ra tâm ái. Từ ái khởi ra nghiệp thân, miệng, ý.

Kế là quán sát quả nghiệp, trong đó, đầu tiên là kết trước, sinh sau. Sau, chính là giải thích về nghiệp, trong giải thích có hai:

  1. Thứ lớp y theo bốn nghiệp đen, trắng.
  2. Thứ lớp y theo hai nghiệp thiện, ác.

Trong phần trước, trước là nêu, kế là nêu bốn danh, về nghĩa có giải thích trong chương riêng. Ở đây, nên nói đủ, sau là nói về tướng của nghiệp thiện, ác.

“Ca-diếp bạch… trở xuống là hỏi đáp phân biệt. Đầu tiên là Cadiếp hỏi. Kế là trước kia, Phật đã nói bất luận đều không có quả báo. Nay, sau lại có quả báo không đen, không trắng kia?” Sau đây, Phật sẽ đáp: Nói pháp vô lậu vì từ hữu lậu sinh, nên được gọi là quả. Vì không sinh quả sau, nên không gọi là báo, trong đó, y theo đối với hữu lậu để làm sáng tỏ vô luận. Trước là nêu hai số, kế là trình bày, sau là giải thích.

Ba nghiệp trước trong bốn nghiệp vừa là quả, vừa là báo. Vì từ nhân ở trước sinh, nên gọi là quả. Lại vì sinh quả sau, nên gọi là báo. Không đen, không trắng là quả, chứ chẳng phải báo, về nghĩa như giải thích ở trước.

“Ca-diếp… trở xuống là Bồ-tát lại vặn hỏi:

“Vô lậu chẳng phải đen, sao không gọi là trắng?” Sau đây, là Phật giải thích:

Vì không có quả báo, nên là một nghĩa. Do không có báo, vì tướng trắng không rõ ràng, nên không gọi là trắng. Đối với đen, gọi là trắng là hai nghĩa: Thiện hữu lậu, đối với đen, gọi là trắng; vô lậu đối song song, cho nên, gọi là không đen, không trắng. Lại, đây là tuyệt đối, nên cũng gọi là không đen, không trắng.

Nay, ta chính là… trở xuống là giải thích lại nghĩa đầu, gọi là vắng lặng, để chỉ bày nghĩa thứ hai. Vì vắng lặng, nên dứt tướng đen, trắng, gọi là không đen, trắng.

Sau đây là y theo hai nghiệp thiện, ác, nói về quả. Nghiệp như thế, có chỗ thọ nhất định là nói chung để nêu.

“Như mười điều ác… trở xuống là lược chia ra chỗ sinh. Sau đây, là nói rộng để chỉ rõ mười điều ác:

Mười điều ác có ba: Phẩm thượng; trung; hạ. Phẩm thượng đọa vào địa ngục; phẩm trung đọa vào súc sinh; phẩm hạ đọa vào ngạ quỷ.

Theo luận Đại trí, nghiệp lành cũng có ba; đó là phẩm thượng, trung, hạ. Phẩm thượng, sinh lên cõi trời; phẩm trung sinh vào cõi người; phẩm hạ đọa vào Tu-la. Nay, trong luận này để nghiêng về loài người, được chia làm bốn:

Đầu tiên là nêu; kế là trình bày; sau nói về chỗ sinh:

Uất-đơn-việt sinh phẩm hạ; Phất-ta sinh phẩm trung; Cù-da sinh phẩm thượng; Diêm-phù-đề sinh phẩm thượng thượng”.

Hỏi: “Phẩm thượng là nói phương bắc là trên. Nay, vì sao Uấtđơn-việt sinh phẩm hạ; Diêm-phù sinh phẩm thượng thượng? Vấn đề này đều có lý do: Nếu nói về quả báo thì phương Bắc là thượng, Diêmphù là hạ. Nếu nói về khởi đạo thì Diêm-phù hơn hết; Uất-đơn rất kém. Nay, vì đối với xây dựng, nên nói thiện phẩm thượng sinh về Diêmphù-đề; Uất-đơn sinh phẩm hạ.

Sau đây, là nói về tu đoạn… Người trí nghĩ rằng:”Thế nào là dứt quả? Tìm cầu cách dứt?”.

“Lại nghĩ… trở xuống là nói về biết nghĩa dứt.

“Cho nên… trở xuống là dứt.

“ Là tức… trở xuống là kết.

Sau đây, là nói về quán khổ, văn cũng có bốn:

  1. Chính là quán khổ.
  2. Quán nhân khổ.
  3. Quán quả khổ.
  4. Tu đạo dứt khổ.

Trong phần trước, đầu tiên là nói: “Quán nghiệp phiền não rồi. Kế là quán sát quả báo mà hai thứ này đã được, kết trước, sinh sau.

“Báo này tức… trở xuống là bác bỏ thể của quả nghiệp phiền não kia. Đã biết là khổ, tức lìa thọ sinh, nói về lợi ích của quán sát. Vì biết khổ, dứt tập, nên lìa thọ sinh. Người trí lại quán duyên phiền não.

Sau đây, là nói rộng về sự khổ, tr đó có bốn:

  1. Quán khổ của mười hai nhân duyên.
  2. Quán năm đường.
  3. Quán ba cõi.
  4. Quán tám khổ.

Trong phần trước, đầu tiên là nêu mười hai nhân duyên, kế là tổng

kết, sau là nói về lợi ích quán sát. Nghĩa mười hai nhân duyên có chia làm sáu:

  1. Y theo năm đời để nói về mười hai nhân duyên, như đã nói trong bảy mươi bảy trí kia.
  2. Y theo ba đời.
  3. Y theo hai đời.
  4. Y theo phân biệt trước sau của một đời.
  5. Y theo phân biệt thể khác nhau đồng thời.
  6. Phân biệt đồng thời và đồng thể. Năm môn sau, có giải thích trong chương riêng:

Trong đây, y theo năm đời để phân biệt: Quá khứ của quá khứ, là lập ra hai chi của năm đời kia.

Nhân duyên phiền não sinh phiền não, nghĩa là từ phiền não quá khứ của quá khứ kia sinh ra vô minh quá khứ thứ lớp kia. Vì nhân duyên của nghiệp, nên sinh ra phiền não, nghĩa là từ hành nghiệp quá khứ của quá khứ của người kia sinh ra vô minh quá khứ nối nhau. Quá khứ kế là kia cũng lập ra hai chi.

Nhân duyên phiền não sinh ra nghiệp: Vô minh quá khứ sinh ra chi hành.

Nghiệp sinh khổ: Từ hành trước kia sinh ra chi thức hiện tại, lập ra bốn chi thức ở đời hiện tại.

Nói nhân duyên khổ sinh ra phiền não: Từ năm quả như thức v.v… ở hiện tại khởi ra ái thủ.

Nhân duyên phiền não sinh ra “Hữu”: Từ ái, thủ hiện tại, sinh khởi chi “Hữu” hiện tại.

“Hữu” sinh ra “Khổ”: Từ chi “Hữu” hiện tại sinh ra kế là vị lai sinh ra chi già chết. Có khi sanh hữu từ chi hữu ở hiện tại sinh ra chi “Hữu” ở vị lai. Hai nghiệp thiện, ác ở đời hiện tại, là nhân tự phần. Xa, vì sinh ra nghiệp thiện, ác ở vị lai, nên sẽ lập ra ba chi vị lai của vị lai kế là.

“Hữu” sinh ra nghiệp: Hành nghiệp ở vị lai trước sau sinh nhau.

Nói nhân duyên nghiệp sinh phiền não: Từ nghiệp đã gây ra ở đời vị lai, làm cho lên phiền não nhuận sinh ở đời vị lai.

Phiền não sinh ra khổ: từ phiền não nhuận sinh ở đời vị lai sinh ra chi sinh vị lai ở vị lai. Vị lai của vị lai chỉ lập một chi.

Khổ sinh khổ: Từ chi sinh vị lai của vị lai kia, tức là sẽ sinh, chi già, chết ở đời vị lai kia.

Trên đây đã giải thích rộng. Sau đây là kết: nếu người trí quán sát,

thì phải biết rằng người này sẽ quán nỗi khổ của nghiệp. Y theo chủ yếu, sơ lược kết, nói sơ lược. Nếu nói đủ thì nên nói: “Người này có thể quán sát nỗi khổ của nghiệp phiền não. “Vì sao?… Trở xuống là giải thích.

Sở quán như trên, tức là mười hai nhân duyên sinh tử. Thể của mười hai nhân duyên là thuộc về nghiệp khổ phiền não. Cho nên, người quán gọi là năng quán phiền não nghiệp khổ.

“Nếu người nào có thể… trở xuống là nói về lợi ích của quán:

do quán sát nhàm chán, nên không gây ra nghiệp mới, làm phá hoại nghiệp cũ.

Kế là quán năm đường, trước là quán địa ngục, đầu tiên là nói chung, nêu tiêu biểu. Quán một cho đến ba mươi sáu địa ngục riêng, để chỉ bày rõ:

Ngục lớn có tám:

  1. Địa ngục Đẳng hoạt.
  2. Địa ngục Hắc thằng.
  3. Địa ngục Chúng hợp.
  4. Địa ngục Khiêu hoán.
  5. Địa ngục Đại khiêu hoán.
  6. Địa ngục Nhiệt.
  7. Địa ngục Đại nhiệt.
  8. Ngục A-tỳ.

Tám ngục lớn này, mỗi ngục đều có sáu quyến thuộc, hợp chung với ngục gốc có một trăm ba mươi sáu.

“Mỗi ngục… trở xuống là nói về tướng khổ.

“Đều là… trở xuống là nói nhân, để cho dứt, kế là quán quỷ, súc. Sau là quán trời, người. Đoạn hai này đã nói xong.

Kế là quán ba cõi đều từ nghiệp phiền não, sơ lược để nêu. Sau, sẽ giải thích rộng, để chỉ bày rõ hai dụ, hai hợp.

Sau đây, sẽ quán tám khổ, chỉ giải thích rộng, ở trên.

Trên đây đã quán khổ, kế là quán nhân khổ, trong đó, đầu tiên là kết trước, sinh sau, tức ái, vô minh, chính thức phát ra thể nhân. Sau là nói về tướng của chúng, chia làm hai nghĩa:

  1. Y theo cầu thân, cầu của, chia làm hai: Trước nêu, kế là trình bày.
  2. Đều là khổ, nói về lỗi lầm, để cho nhàm chán.

“Cho nên sẽ… trở xuống là nói về nhân để cho dứt cả hai. Y theo tham thân, tham sắc được chia làm hai: Trước nêu, kế là trình bày. Ái thân, gọi là trong, chấp đắm sắc, gọi là ngoài. Sau là bày tỏ lỗi lầm ấy, có ba lượt để nói về nhân:

1. Y theo nghiêng về khởi nghiệp để chỉ rõ lỗi lầm. Trong tạo nghiệp; ngoài làm cho thêm lớn, hiện đang tham thân, ưa gây ra tội nghiệp, gọi là tác nghiệp. Chấp đắm cảnh sắc ngoài làm cho tội lỗi càng lừng lẫy, gọi là thêm lớn.

2. Nói chung, đối với nghiệp quả để chỉ rõ lỗi lầm của nghiệp. Bên trong thì gây ra nghiệp; bên ngoài thì gây ra quả nghiệp. Vì cầu thân sau, nên gây ra các hành nghiệp, gọi là tác nghiệp. Do tham cảnh sắc vào thời gian thọ thân nhuận sinh quả báo sau, gọi là quả của tác nghiệp. Do tác nghiệp bên trong, nên dứt nghiệp ái bên trong, liền được dứt. Do tạo tác quả bên ngoài, nên dứt ái bên ngoài, quả liền được dứt.

3. Đối với nghiêng về quả khổ, để chỉ rõ lỗi của khổ. Bên trong sinh ra nỗi khổ ở vị lai; bên ngoài sinh ra khổ hiện tại. Bên trong, tham thân mình tạo nghiệp, vì hướng về mong cầu, nên sinh ra khổ ở vị lai; bên ngoài, tham sắc dục, vì đeo đuổi, mưu cầu, sinh ra phiền não, nên sinh ra khổ ở hiện tại.

Kế là quán quả khổ. Phiền não ái thủ từ khổ ở hiện tại sinh ra gọi là quả khổ. Nay, là quán sát các khổ ấy, trong đó, đầu tiên là kết trước, sinh sau. Sau đây, là nói về khổ đó:

– Quả khổ tức nhuận lấy y theo khổ, nói về tâm nhận lấy ái, cũng chính là y theo chung cuộc để nêu quả ái, gọi là “Thủ”; y theo ái nói về “Thủ”. Nhân duyên của “Thủ” này tức là ái trong, ngoài. Y theo “Thủ”, nói về ái trong, ngoài như trên, tức là có khổ của ái, y theo ngọn, làm sáng tỏ gốc. “Thủ” từ ái sinh, nên có “Thủ” tức là có ái của thủ kia. Ái từ khổ sanh ra, nên hễ có ái thì sẽ có nỗi khổ đau của ái. Hơn nữa, “Thủ”, nghĩa là xa từ khổ sinh, cho nên có “Thủ”, cũng biết có khổ. Cũng có thể lời nói này là y theo gốc để chỉ rõ ngọn. “Thủ” này chẳng phải trực tiếp sinh ra từ ái, mà cũng có thể sinh ái, nên người có “Thủ” tức là có ái. Cho nên văn dưới nói: “Nhân duyên ái thủ, vì ái chịu khổ, nên nói “Có” khổ. Sau đây, là nói về tu đoạn. Gồm có bốn câu:

  1. Quán ái, thủ làm nhân sinh khởi lẫn nhau.
  2. Biết dứt nghiệp ái thủ, thì khổ sẽ không sinh.
  3. Chính là tu đoạn.
  4. “Nếu người… trở xuống là kết.”.

Trên đây là đoạn thứ nhất, nói về tu tạo dứt lậu. Dưới đây là đoạn hai nói về thể của đạo xuất thế, trong đó, đầu tiên là nói: “Dùng kinh Đại Bát-niết-bàn làm pháp đạo”. Sau, nói: “Dùng ba mươi bảy phần Bồ-đề để làm hạnh của đạo.

Trong pháp, đầu tiên là Ca-diếp hỏi chung: “Thế nào là phạm hạnh?” Như lai đáp chung rằng: “Tất cả pháp như vậy. Ca-diếp hỏi lại:

“Tất cả không nhất định, thế nào là tất cả v.v… ?”.

Sau đây, trước là Phật khen; sau là giải thích không nhất định, chính là kinh Niết-bàn, trong đó, đầu tiên dùng bốn mươi hai câu riêng để khen kinh thù thắng. Sau là tổng kết khen.

Trong hạnh, đầu tiên là nói: “Ta nói kinh này dù gồm thâu tất cả phạm hạnh, tức ba mươi bảy đạo phẩm, thể của đạo xuất thế”. Sau, Phật khen, chỉ bày rõ cương yếu.

Nếu lìa khổ mà không được quả v.v… của Thanh văn, khen ngược lại, để chỉ bày chỗ cốt yếu.

“Vì duyên này… trở xuống là khen thuận để chỉ rõ cương yếu.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích.

Trong giải thích có bốn câu nói về tánh đạo, có công năng thành tựu nghĩa cốt yêu của tánh đạo đó.

Dưới đây là đoạn ba là nói về phạm vi giới hạn của đạo, có bốn lần hỏi đáp.

1. Đầu tiên là Ca-diếp hỏi:

“Hữu lậu có thể tạo ra nhân-tố của pháp vô lậu. Vì sao không gọi là phạm hạnh?” Sau đây, là Phật đáp:

“Vì hữu lậu điên đảo, nên chẳng phải phạm hạnh”.

2. Lần thứ hai là Ca-diếp hỏi:

“Thế đệ nhất là lậu hay vô lậu?” Phật đáp: “Là hữu lậu”.

3. Lần thứ ba, Ca-diếp y theo hữu lậu để đặt câu hỏi:

“Tánh kia không điên đảo, vì sao không gọi là phạm hạnh thanh tịnh? Phật đáp câu hỏi thứ nhất: “Vì vô lậu giống với vô lậu, vì hướng về vô lậu, nên không gọi là điên đảo. Vì một niệm không nối nhau, nên chẳng phải phạm hạnh.

4. Lần thứ tư là Ca-diếp nêu năm thức của chúng sinh kia để đặt câu hỏi.

Năm thức chẳng phải điên đảo, lại chẳng phải một niệm, vì sao không gọi là phạm hạnh? Ca-diếp dùng tâm của năm thức kia chấp lấy cảnh không sai lầm, nên nói chẳng điên đảo. Tâm sở trước sau sanh khởi, đều chẳng phải một niệm. Không nói mỗi niệm có nhiều niệm nối nhau mà nói là chẳng phải một niệm?”. Phật đáp: “Năm thức vì điên đảo hữu lậu, nên chẳng phải phạm hạnh. Trước là nêu, kế là giải thích, thêm hữu lậu, gọi là lậu, hiểu là lậu. Chấp đắm ý tưởng điên đảo v.v…, giải thích là đảo”.

Hỏi: “Chấp đắm tưởng, là tưởng chứ chẳng phải thức. Nay, vì sao nói năm thức dùng làm tưởng chấp đắm?”.

“Theo luận Thành Thật thì tưởng là tên chung, thuộc về ý thức”. Nếu theo Tỳ-đàm thì tưởng là tâm pháp, chẳng phải thể của sáu thức, mà là tâm sở đều có chung với sáu thức. Thuyết của kinh này nói phần nhiều đồng với luận A-Tỳ-đàm. Tâm năm thức có chung với tưởng bạn để hiển bày, gọi là tư tưởng điên đảo.

“Tánh của ba mươi bảy phẩm chẳng phải điên đảo… trở xuống là nêu là nói lên chẳng thành phi phạm hạnh ở trước, dưới đây thứ tư là . Nếu biết nhân của căn, cho đến rốt ráo, gọi là phạm hạnh thanh tịnh.

“Ca-diếp bạch… trở xuống là hỏi đáp để giải thích rộng. Trước hỏi; sau đáp. Trong phần đáp, trước là khen, sau Phật trình bày, giải thích. Trong giải thích, đầu tiên là giải thích chung chín pháp, nhân căn bản tăng thêm.

“Sao lại khác?… trở xuống là giải thích riêng. Đầu tiên là ba tướng khác nhau.

Trong phần giải thích chung ở trước, gồm có năm lần đầu nói về thể nhất định; ba lần giữa, y theo tu để nói tướng; một lần sau, so sánh giải thích.

Y theo tám thứ đầu trong lượt đầu là nhân; một thứ sau cùng là quả. Tám thứ trong nhân tức là mười thứ, suốt qua tâm sở của tám thứ trong đại địa. mười thứ thông qua địa, nghĩa là như luận Tỳ-đàm chép: “Tưởng, dục, xúc, tuệ, niệm, tư, giải thoát, ghi nhớ nhất định và thọ. Trừ tưởng và ký-ức, ngoài ra đều đúng: căn là tâm sở dục; nhân là tâm sở xúc; gồm nhiếp là tâm sở thọ; tăng là tâm sở của tư; chủ là tâm sở niệm; đạo là tâm sở định; thắng là tâm sở tuệ.

Tâm sở thật sự giải thoát, thọ, niệm, định, tuệ trong tám thứ này được nêu đủ tên gọi trong pháp đạo phẩm, các thứ khác dù không nêu danh, nhưng về lý thì có đủ”.

Hỏi: “Tư duy này đâu khác gì với chánh tuy duy trong đạo phẩm?”

“Tư duy ấy là tâm sở giác, còn tư duy ở đây là tâm sở tư, thể của cả hai thứ hoàn toàn khác nhau”.

Hỏi: “Vì sao nêu nghiêng về tám thứ này?”.

“Vì tâm sở chung này thường theo nhau, thành yếu nghĩa của đạo”.

Hỏi: Tưởng nhớ cũng là tâm sở chung, vì sao không nêu?”

“Vì tưởng chẳng phải không có năng lực trong phương tiện xa của việc hướng về đạo. Nghĩa giả trong chánh đạo sâu kín, phương pháp nhớ về đạo không có công năng lớn, cho nên chẳng nêu. Tâm pháp khác nhau vì “Có”, “không” chẳng nhất định, nên lược bỏ không nêu. Từ nhân của đạo này được quả Niết-bàn, gọi là rốt ráo.

Ba lượt giữa, trong y theo tu để giải thích, đầu tiên là y theo hạnh thành thục của xuất thế; kế là y theo môn từ đầu đến cuối, để phân biệt chín pháp. Sau, y theo môn từ tiểu nhập đại, để phân tích chín pháp. Y theo lượt đầu, trước là giải thích tâm dục để làm nghĩa căn, trong đó, đầu tiên là pháp; kế là dùng thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa căn.

Gồm có bốn dụ:

“Ca-diếp bạch… trở xuống là hỏi đáp để hội thông. Có hai lần hỏi đáp. Trước là Ca-diếp nêu tâm không buông lung đối với dục để thưa hỏi; sau là Phật giải thích:

“Dục là nhân của sự sinh, không buông bỏ liêu nhân”. “Ca-diếp trở xuống là lại nêu Phật đáp câu hỏi, Như lai giải thích. Đầu tiên là biết nhân Phật, tự chứng nhờ dục. Kế là giải thích “Xúc”, để làm nghĩa của nhân. Trước là hỏi, sau là giải thích. Trong giải thích, gồm có mười thứ bậc; gồm chín cặp.

Trong mười bậc này, nhờ trước, sinh sau,đều gọi là xúc, chẳng phải chỉ một thứ. Y theo cặp đầu, trước là chắc chắn thể của xúc. Hoặc nói là tuệ, hoặc nói là tu, đây là dùng niềm tin tiếp cận với bạn lành để giải thích nghĩa xúc. Gần bạn với hy vọng được nghe, tức lại gọi là xúc. Tất cả như thế.

Kế là giải thích tâm thọ để làm nghĩa gồm cả thân. Trước là nêu, sau giải thích. Trong giải thích, lúc thọ, có thể gây thiện ác, tướng chung giải thích chung, vì nhân duyên của thọ, nên sinh ra phiền não v.v… đối lập để nói lên đối trị. Tăng thêm v.v…, rất dễ hiểu.

Trong giải thích rốt ráo, dù được vui v.v… thế gian, vui xuất thế gian, xuất thế, phân biệt sai khác với đúng.

Nếu có thể dứt v.v…, là nói lên đúng khác với sai, phải dứt duyên đối trị, mới là nghĩa vô vi vắng lặng cuối cùng của Niết-bàn, nên dứt đối tượng hoạt động của ba mươi bảy phẩm, gọi là Niết-bàn. Vì trí vọng là chướng, cho nên phải dứt bỏ.

“Cho nên ta… trở xuống là kết Niết-bàn kia là nghĩa rốt ráo.

Dưới đây là đoạn hai y theo trực tiếp vào Đại thừa từ đầu đến cuối để phân biệt chín pháp. Bốn pháp đầu rất dễ hiểu. Nhân bốn pháp này có thể sinh ra và nuôi lớn đạo, dục, niệm, định, trí, nêu pháp rất nhiều. Thêm lớn một chữ “Dục”, phải do tâm niệm theo nhau của dục chung, đều là bạn, vì nêu chung, nên mới có dục này, giống như nhớ nghĩ trong chi thiền. Dục đó, chính là nói về niệm, nêu chung với nhớ nghĩ. Nhớ nghĩ này cũng đồng như vậy. Các Pháp khác đều rất dễ hiểu.

Trong lần thứ ba, từ Tiểu hướng Đại, để phân biệt chín pháp, văn cũng rất dễ hiểu.

Trên đây, ba lượt hợp thành đoạn ba, y theo tu để nói rộng. Sau đây, là so sánh để chỉ bày. Y theo mười hai duyên, so sánh để chỉ bày chín pháp:

Dục gọi là thức: Nghĩa là tâm thức “Duyên” cảnh, nói là dục. Nghĩa sáu nhập xúc đối với sáu cảnh giới trần, nói là xúc thọ vì năng thọ lãnh, nên gọi là gồm thâu. Vì vô minh mê hoặc làm thêm lớn hạnh nghiệp, nên gọi là thêm lớn. Gọi là tâm vô minh là thức vô minh. Danh và sắc là thể tánh của báo, nên nói là chủ. Ái có công năng dẫn dắt sinh ra các kết sử phiền não, nên gọi là đạo. vì thêm mạnh trong ái, mới gọi là thủ, nên nói là thắng. Vì có thật sự đắc quả, nên nói là thật. Cùng cực trong nhân duyên sinh, già, bệnh, chết, gọi là rốt ráo. Các pháp này đều y theo nghĩa tương tự, nên nói không theo thứ lớp.

Trên đây là một đoạn giải thích chung chín pháp. Sau đây, là giải thích riêng: Ba pháp căn, nhân và tăng khác nhau. Ba nghĩa này thô, vì so sánh tương tự, nên phải giải thích khác. Trước là hỏi, sau là giải thích, trong giải thích có năm lượt:

1. Lượt đầu, y theo trực tiếp vào khởi nhân mà giải thích khác. Căn tức phát nhân đầu tiên, tức nối nhau tương tự sinh, giống với tương tự sinh, tương tự của diệt “Tăng” trước kia, nghĩa là từ bỏ tự phần trước, lại khởi thắng tấn.

2. Y theo khởi nhân được quả, để nói về “Khác”. Căn tức là tác, tác nhân ban đầu. Nhân tức là quả: do tác nhân trước dẫn dắt sinh ra quả đương lai, quả đương lai đã sinh và tác dụng của quả ở hiện tại, mai sau là gốc, nên gọi là quả đương lai, lấy quả đó làm nhân. Tác dụng hiện tại của quả kia được gọi là tăng.

Sau, sẽ giải thích lại để chỉ bày. Quả vị lai vì chưa gánh chịu, nên gọi là nhân, lúc thọ, gọi là “Tăng”.

3. Dựa vào ba nghĩa: Tăng nhân, được quả và khởi dụng, để nói về “Khác”. Căn tức cầu: Tạo nhân cầu quả. Được tức nhân: Quả đã được, vì là gốc của tác dụng, nên gọi là nhân.

Dụng tức tăng: Dựa vào quả mà khởi dụng, nói là tăng.

4. Y theo phần vị, để giải thích “Khác”. Căn tức kiến đạo; nhân tức tu đạo; “Tăng” vô học.

5. Hai nhân: Duyên vào chánh được quả là nói về “Khác”. Căn là chánh nhân, như hạt giống thế gian. Nhân tức là phương tiện, như đất, nước ở đời, được quả gọi là “Tăng”.

Dưới đây là đoạn năm, nói về khuôn mẫu hướng về đạo, cũng được gọi là phương tiện thú hướng đạo.

Trước là Ca-diếp hỏi:

“Làm sao để được Rốt ráo Niết-bàn?”

Sau là Phật giải thích. Nói vì tu mười tưởng, nên được Niết-bàn, trong đó có bốn:

  1. Mở ra môn chương.
  2. Tổng kết, khen.
  3. Giải thích, rộng.
  4. Tổng kết, khen.

Trong phần trước, đầu tiên là nêu; sau trình bày danh.

Sáu tưởng đầu trong danh, nói về đối trị nhiếp; bốn tưởng sau là nói lìa lỗi-lầm. Ba tưởng đầu trong đối trị nói về nghĩa chung của ba pháp quán trong đối trị. Ba tưởng sau, quán sát các việc trong, ngoài. Về sau, quán lỗi trong lìa lỗi, sinh ra nhàm chán, gọi là tưởng nhiều lỗi. Không ngại “Chánh đoạn”, gọi là tưởng lìa. Chứng giải thoát dứt trừ, gọi là diệt tưởng. Chứng vắng lặng, lìa nhiễm, gọi là không có tưởng ái. Nếu y theo phần vị, thì trước địa tu nhàm chán, gọi là tưởng nhiều lỗi lầm. Kiến đạo dứt “Hoặc”, gọi là tưởng lìa; tu đạo dứt kiết, gọi là tưởng diệt. Vô học thanh tịnh, gọi là không có tưởng ái. Bốn tưởng này cũng dựa vào sự nhàm chán diệt, hồi hướng xả.

Trong đoạn hai là kết khen, rất dễ hiểu.

Trong đoạn ba là giải thích, sáu tưởng đầu gồm thâu đối trị một xứ, giải thích. Đầu tiên là giải thích đúng; sau nói về lợi ích của quán có thể thành bảy tưởng. Trong phần giải thích đúng ở trước, đầu tiên là quán vô thường, trước là hỏi, sau giải thích. Trong giải thích có ba việc:

  1. Quán sắc vô thường.
  2. Quán tâm vô thường.
  3. Tổng kết, khen.

Trong y theo quán sắc, văn lại có ba:

  1. Chia người làm hai:
  2. Phát ra hạnh lâu.
  3. Chia pháp làm hai: Thô và tế.

Y theo người, nói về quán, trước y theo mới phát ra, nói về quán thô. Sau, y theo hạnh lâu dài, nói lên quán tế.

Trong thô, y theo trong, ngoài khởi quán chúng sinh gọi là trong, vật ngoài gọi là ngoài. Trước mở ra hai môn; kế là giải thích; sau là kết.

Trong giải thích có bốn:

  1. Y theo pháp nội đã thấy mà khởi quán.
  2. Y theo pháp ngoại đã thấy mà khởi quán.
  3. Y theo pháp ngoài đã nghe mà khởi quán.
  4. Y theo pháp ngoại đã nghe mà khởi quán.

Trong phần đầu có bốn trường hợp:

  1. Quán chúng sinh trong sáu thời đổi khác, cho nên thuộc về vô thường.
  2. Quán chúng sinh vì mập, ốm không nhất định, nên thuộc về vô thường.
  3. Quán chúng sinh vì nghèo, giàu không nhất định, nên thuộc về vô thường.
  4. Quán chúng sinh thiện ác không nhất định, nên thuộc về vô thường. Văn đều dễ hiểu.

Trong phần hai, pháp ngoài đã thấy vô thường văn cũng dễ hiểu.

Trong phần ba, nghe vô thường bên trong, đã quán thấy, lại quán pháp nghe, kết trước, sinh sau.

Sau đây, là nói về thấy, nghe. Đầu tiên là quán các vị trời, kế quán tất cả chúng sinh của kiếp sơ sau, là quán luân vương.

Phần thứ tư, pháp ngoài đã nghe vô thường, văn cũng rất dễ hiểu.

Trên đây, là nói về pháp trong, ngoài vô thường.

“Cho nên, phải biết trong, ngoài vô thường là tổng kết.

Trước nói về quán thô. Sau là dựa vào hạnh lâu dài, nói về quán tế. Đã quán thô rồi, kế là quán tế: Kết trước, sinh sau. Sau đây, chính là nói, trong đó, đầu tiên là nghe; kế là giải thích; sau là kết. Trong giải thích, đầu tiên là y theo pháp vị lai quán vô thường tế. Sau, y theo hiện tại.

Trong y theo vị lai, sắc ở trong, ngoài, cho đến cát bụi, lúc ở vị lai đã là vô thường, sơ lược để nêu.

“Vì sao? Trở xuống là giải thích. Trong giải thích, đầu tiên là nói sáu xứ của hạnh, nghĩa là duyên cảnh khác nhau, chứng tỏ tâm vô thường, hoặc sinh hỷ v.v… đổi thay không nhất định, chỉ rõ tâm vô thường. Trước là sắc; kế là tâm; sau là tổng kết, khen.

“Cho nên, phải biết rằng, pháp sắc, phi sắc đều là vô thường, là kết luận nghĩa vô thường.

“Bồ-tát có thể… trở xuống là kết quán vô thường. Người trí tu đã xa lìa thường ngạo mạn, khen nói về ích lợi của tu. Trong khổ, đầu tiên là kết trước sinh sau. Kế là giải thích, sau kết. Trong giải thích có bốn:

  1. Quán chung nhân khổ đối với vô thường.
  2. Vì quán vô thường, nên chịu khổ sinh, già, bệnh, chết.
  3. Vì quán vô thường, nên chịu khổ khổ.
  4. Vì quán vô thường, nên sinh ra năm thịnh ấm.

Kế là quán vô ngã, trong đó, đầu tiên là dùng vô thường và khổ để chỉ rõ pháp vô ngã.

“Người trí lại quán khổ tức vô thường… trở xuống là phá tình, nói rõ lý, trong đó có năm:

1. Dùng khổ, vô thường để phá chấp chắc chắn có ngã. Khổ tức vô thường; vô thường tức khổ, quán pháp chẳng phải “Ngã”.

“Nếu khổ, vô thường thì làm sao nói… trở xuống là vặn hỏi, để phá chấp của hữu tình.

“Khổ, chẳng phải “Ngã”… trở xuống là nói lên chẳng phải “Ngã”, chúng sinh, sao lại nói là “Nó” “Ngã”, lại phá chấp của hữu tình.

2. Dùng hòa hợp vô tánh để phá “Ngã”. Quán tất cả pháp có hòa hợp khác, nói chung về pháp hòa không từ một hòa sinh tất cả pháp; cũng chẳng phải một pháp là quả của tất cả, chỉ rõ riêng về pháp hòa. “Tất cả hòa hợp đều không có tự tánh, nói chung là vô tánh. “Cũng không có “Một” tánh, cũng không có “Khác”… trở xuống là chỉ rõ riêng về vô tánh.

“Nếu các pháp có tướng như thế… trở xuống là kết phá nói về “Ngã”.

3. Quán các pháp không có đơn độc để tạo tác, phá nhất định có “Ngã”. Trong tất cả pháp không có một pháp nào để tạo tác riêng, suy ra không có tạo tác.

“Nếu “Một” không… trở xuống là dùng “Một” để so sánh với pháp khác là nói đều không có tạo tác.

4. Quán các pháp không có sinh diệt riêng, để phá nhất định có “Ngã”, trong đó, đầu tiên là nói chẳng sinh, diệt đơn độc.

Kế là nói các pháp hòa hợp sinh diệt. Pháp này sinh xong, chúng sinh có ý tưởng điên đảo mà nói là hòa hợp, từ hòa hợp mà sinh, nói sự mê hoăc đảo của phàm phu. Chúng sinh nói: “Hòa hợp sinh diệt từ hòa hợp của thần ngã mà sinh ra.

“Chúng sinh ý tưởng điên đảo không có chân… trở xuống là phá chấp của hữu tình, để nói lên “Không có”.

5. Y theo “Một” “Khác”, để phá nhất định có “Ngã”, trong đó, trước tìm tòi xem vì sao nên chúng sinh, nói là “Ngã”?

Sau đây, sẽ chính thức phá “Ngã”, trong đó, trước là y theo “Một” để phá nhất định có “Ngã”. Kế là y theo phá “Một” “Khác”. Trước, y theo “Một” để phá; sau y theo “Nhiều” để phá. “Một” và “Nhiều” đều “Không có” là tổng kết phá.

Kế là nói về sự nhàm chán cái ăn, trong đó, đầu tiên là kết trước, sinh sau. Kế là giải thích; sau là kết. Trong giải thích, trước là Phật dạy tu tập ý tưởng nhàm chán; sau dạy về chánh nguyện.

Trước, trong dạy tư tưởng nhàm chán, đầu tiên là quán bốn cách ăn, vô thường, khổ v.v… là điều xấu ác đáng nhàm chán. Sau là quán đoạn thực bất tịnh sinh ra nhàm chán. Lại, y theo phần trước, trước là nói riêng, sau là kết. Trong nói riêng, trước là quán về đoạn thực sinh tư tưởng nhàm chán, có ba lần “Lại nữa”:

  1. Quán các pháp vô thường, khổ, không nên vì cái ăn mà khởi ba thứ ác. Nếu vì tham ăn, khởi ba thứ ác mà được của, thì khổ chung, không có riêng.
  2. Quán do ăn, sinh ra khổ của thân, tâm. Được cái ăn trong nỗi khổ, không nên tham ưa.
  3. Quán uống ăn làm cho thêm lớn thân. Vì xả thân, ta không nên tham ăn. Quán ba cách ăn còn lại và sau tổng kết, văn rõ ràng rất dễ hiểu.

Trong quán bất tịnh, đầu tiên là giải thích đúng:

“Ca-diếp nói… trở xuống là giải thích quán hư, thật, trước là hỏi, sau là đáp, rất dễ hiểu.

Trong phần Phật dạy tu nguyện, trước nêu tà nguyện, khuyên nên bỏ. Sau nêu lên chánh nguyện, khen khuyên nên tu học.

Kế là nói tu tưởng không đáng ưa thích, qua đó, đầu tiên là kết trước, sinh sau. Sau là nói giải thích. Trong giải thích có năm:

  1. Tất cả mọi nơi vì đều có sinh, già, bệnh, chết, nên không đáng ưa thích.
  2. Tất cả xứ vì không có tiến, không có lùi, nên không đáng ưa thích.
  3. Tất cả thế gian vì chịu đủ khổ, vui, trôi lăn không nhất định, nên không đáng ưa.
  4. “Quán sát nhà cửa ở thế gian… trở xuống là nói tất cả vật đều là khổ.
  5. Quán thế gian vì không phải là chỗ quy y, nên không đáng ưa.

Kế là nói về tư tưởng chết, qua đó, đầu tiên là kết trước, sinh sau. Kế là giải thích, sau là kết. Trong giải thích, đầu tiên là chỉnh thức tu ý tưởng chết.

“Nay, ta dù được bảy ngày… trở xuống là ý gắng sức tu đạo. trong phần trước có hai:

1. Quán niệm vô thường, trước là pháp; kế là dụ.

“Ca-diếp nói… trở xuống là hỏi đáp, nói về tướng.

2. Người trí quán mạng lệ thuộc với cái chết… trở xuống là quán phần đoạn vô thường, trong đó, đầu tiên là quán sát mạng, lệ thuộc cái thết. “Người trí lại quán mạng như bờ sông… trở xuống là quán cái chết làm hư hoại mạng. Trước là nêu sáu dụ; sau hợp rất dễ hiểu. Sau là dùng ý tưởng chết với ý cố gắng tu đạo.

Trên đây là khởi quán. Sau đây, là nói về ích lợi của quán, có thể trở thành bảy tưởng. Sáu tưởng trên, là nhân tố của bảy tưởng, nêu trước, sinh sau. Sau đây, là nói về bảy tưởng. Đầu tiên là hỏi; kế là trình bày. Vì sợ chết, nên cố gắng tu, gọi là tưởng thường tu. Ưa cầu pháp thường, gọi là tưởng ưa tu. Quán các chúng sinh đang bị nỗi khổ nung nấu, gây ép ngặt, sinh ra tâm Từ bi, không muốn xúc não, hãm hại, gọi là tưởng không có giận. Nghĩ đến các chúng sinh vô thường, trôi nổi, đổi thay, không có chỗ nương cậy, không sinh tâm ganh ghét, gọi là không có ý tưởng ganh ghét. Vào thời gian khất thực thường xuyên tu chánh nguyện, gọi là tưởng của thiện nguyện.

Quán thân có “Ngã”, lìa bỏ ngã mạn, tự cao, gọi là không có tưởng ngạo mạn. Lìa thế gian, chuyên tâm, định ý, gọi là tưởng tự tại đối với tam-muội. Sau đây là Phật khen, chỉ bày rõ sự thù thắng. Trước là khen có hạnh; “Nói khéo hiểu… trở xuống là khen người tu hành kia có hiểu biết. Trong phần trước, đầu tiên là khen người kia tự tu hành.

“Gọi là thầy thuốc giỏi v.v… trở xuống là khen hạnh lợi tha.

Trong phần lợi mình, đầu tiên nói: “Đó gọi là Sa-môn, là Bà-lamôn, là khen người kia. Vì dứt được ác, nên gọi là Sa-môn. Phạm hạnh vô nhiễm, gọi là Bà-la-môn. Sau là Phật khen hạnh của họ. Trước là khen nhân tròn, quả cùng cực là đến bên bờ giác. Vắng lặng, trong sạch giải thoát trong nhân, là khen đức đoạn. Không sinh ra nghiệp ác, gọi là vắng lặng. Lìa nhiễm phiền não gọi là trong sạch. Lìa các khổ đau, gọi là giải thoát. Người trí thấy chân chính, là khen trí đức của họ. Vì biết cầu ra khỏi, nên gọi là trí giả. Thức là thấu rõ sự sai lầm, gọi là chánh kiến. Còn quả, rất dễ hiểu, hạnh lợi tha rất dễ hiểu.

Sau đây, trong phần nói về sự hiểu biết, gọi là hiểu tốt mật ý của Như lai, nghĩa là hiểu ba thứ ngữ: Tùy tự; tùy tha; tùy tự tha v.v… của Như lai ở trên. Cũng biết được bảy thứ ngữ của chư Phật: biết nhân ngữ ở trên, cho đến Như ý ngữ, đầu tiên là tự biết; sau dứt nghi của người. Sau là giải thích bốn ngữ sau, quở trách ba cõi, giải thích ý tưởng nhiều lỗi. Xa lìa ba cõi; giải thích ý tưởng lìa ở trước. Dứt trừ ba cõi, giải thích ý tưởng diệt ở trên. Đối với ba cõi, không sinh ái chấp đắm, giải thích không có ý tưởng ái.

Dưới đây là đoạn bốn, là tổng kết, khen “Đây gọi là đủ mười, là tổng kết”: Nếu có đủ… trở xuống là Phật khen người tu hành kia là tổng kết. “Nếu có đủ… trở xuống là Phật khen người tu hành kia.

Trên đây là lần thứ nhất, hỏi đáp để giải thích pháp.

Dưới đây là Ca-diếp gánh vác, khen ngợi.

Phẩm Trần-như: Y theo phần giải thích tu thành đức, phán quyết lớn được chia làm hai, ba lần báo cáo, đến đây, y theo ứng với ảnh hưởng, giải thích tu thành đức. Do trước kia, Phật đã giải thích rộng về các Tỳ-kheo v.v…, vì tức là có khả năng ngộ nhập, nên lượt thứ hai ở dưới, sẽ lại đối đáp để giải thích tu thành đức.

Trong người đã thực hành, Trần-như là người đứng đầu. Phật đối đáp nghiêng về một bên, tức y theo người kia để nêu chương mục, gọi là phẩm Trần-như.

Y theo phẩm này, từ câu đầu… cho đến “Đạt được sắc vắng lặng về sau, là thuộc về giải thích tu thành đức của người kia. Nhân diệt ấm vô thường, khổ, không v.v…, gọi là nói về tu. Chứng đắc ấm thường, lạc, ngã tịnh v.v…, nói là thành đức. Có mười lăm câu: sáu câu đầu, là y theo đối với ấm quả, giải thích tu thành đức. Y theo theo văn chứng nghiệm ở đây. Theo người xưa truyền rằng: “Phật không có sắc!” Thật là quá sai lầm! “Nếu có người nào biết được như thế… trở xuống là đoạn bốn là phá tà, suốt qua phần chánh. Trong phần này, đối phá ngoại đạo để suốt qua chánh nghĩa. Đối phá chúng ma để thông qua chánh thuyết, nên gọi là “phá tà, suốt qua phần chánh. Trong văn có ba:

  1. Khen chánh, phá hủy tà, để kêu gọi đồ chúng tà vạy.
  2. Các tà nhóm họp.
  3. Như lai đối phá.

Trong phần đầu lại có ba:

1. Khen thuyết chân chính của người kia. Nếu người nào biết được thì đó gọi là Sa-môn, là Bà-la-môn, nói “Có người kia. Đầy đủ pháp Sa-môn, Bà-la-môn, nói về pháp có của họ.

2. Phá hư tà kia, đầu tiên là nói thẳng về sai lầm. Nếu lìa pháp Phật, thì sẽ không có Sa-môn, không có Bà-la-môn, nói không có người kia, cũng không có pháp của Sa-môn. Bà-la-môn, nói lên không có pháp kia.

“Tất cả ngoại đạo giả dối… trở xuống là nêu lên sự giả dối để nói lên “Không”. Đầu tiên giải thích thẳng vể. “Vì sao… trở xuống là giải thích.

3. “Ta thường… trở xuống là chỉ bày tiếng rống của mình, so sánh để khuyên Trần-như. Khen ngợi chánh, chê bai tài, gọi là tiếng rống của sư tử.

Trong đoạn hai, văn gồm có bốn:

  1. Các ngoại đạo nghe chê bai đều nổi giận, định tố cáo lên Đức Phật nói rằng, trong chúng có người có pháp.
  2. Các ngoại đạo chê bai Như lai đã dùng tưởng để an ủi.
  3. Nhân chê bai ở trước, có người khen ngợi Phật, đại chúng nghe, tìm đến để xin tỉ thí.
  4. Đến vua, xin được nghe, vua dẫn họ đến gặp Phật.Trong phần đầu, trước giận, sau là bàn luận chung.

Trong đoạn hai, có bốn người phát ngôn:

  1. Người đầu tiên nói: “Việc làm của Phật, như người điên, không đáng lo lắng”.
  2. Người thứ hai nói: “Phật nói thường v.v…, là để dụ dỗ đệ tử của ta, thật là đáng buồn!”
  3. Người thứ ba nói: “Phật đã dùng trò ảo thuật yêu quái không chân thật, chẳng bao lâu sẽ bị hao mòn, tiêu diệt! Không đúng lo buồn!”
  4. Người thứ tư nói: “Đáng buồn rầu vì vật, nói lên mình đã có thể dứt trừ, để ổn định tâm của chúng. Đây là đoạn hai đã nói xong.

Trong đoạn ba, văn cũng có bốn:

  1. Có ngoại đạo khen ngợi Phật có đức, không nên tranh luận với Phật.
  2. Đại chúng nghe, tức giận, quở trách.
  3. Nhân đại chúng quở trách mà khen rộng đức độ của Phật.
  4. Đại chúng nghe nói, mong được thử nghiệm. Văn đều rất dễ hiểu.

Trong đoạn bốn, văn cũng có bốn:

  1. Họ cùng nhau đến chỗ vua, vua thấy họ liền, tức giận, quở trách.
  2. Khen vua, cầu xin thử nghiệm.
  3. Nhà vua lại ngờ vực, quở trách. Họ chê vua, khen vua, vua liền cho phép.
  4. Vua dẫn đến gặp Phật, nói lên người kia muốn thưa hỏi; Phật giải đáp. Văn đều dễ hiểu.

Trong đoạn hai là chúng tà nhóm họp.

Dưới đây là lượt thứ ba, Như lai đối phá để giải thích chánh nghĩa.

Người hỏi có mười, bắt đầu từ Xà-đề; sau cùng đến Tu-bạt. Trong mười người này, có chia làm có ba môn:

1. Dựa vào kiến để phân biệt. Ngoại đạo tà-kiến Xà-Đề-Bà-Tư nói pháp Niết-bàn là vô thường. Ngoại đạo chấp ngã Tiên-ni Ca-diếp. Ngoại đạo Nghi tâm kia, nghi là đạo “Có”, “Không”, đều nghi người chứng được, nạp y là ngoại đạo tự nhiên kia, nói tất cả pháp đều tự nhiên có, không từ duyên sinh. Ngoại đạo này cũng thuộc về ngoại đạo biên kiến. Ngoại đạo giới thủ như hoằng. Quảng, Tu-bạt: Hoằng Quảng chấp khất thực là đạo; Tu-bạt chấp khổ hạnh là đạo.

2. Phân biệt chỗ hiển bày, đối với hai người đầu, nói về pháp Niết-bàn. Đối với Xà-đề kia, nói về liễu nhân đã hiển bày Niết-bàn tánh tịnh. Đối với Bà-tư-tra, nói do dứt chứng mà được Niết-bàn phương tiện. Đối với bốn người, kế là nói về pháp lý của họ, trong đó, đầu tiên là đối với Tiên-ni Ca-diếp, nói về lý vô ngã. Đối với hai người sau, nói về lý trung đạo chẳng phải đoạn, thường. Đối với bốn người sau, nói về pháp Thánh đạo. đối với Độc Tử kia, nói về người có đạo và có chứng đắc. Đối với Nạp y, nói đạo do duyên sinh, chẳng phải tự nhiên. Đối với Hoằng Quảng, nói về người tu thì chứng đắc, không tu thì không chứng đắc. Đối với Tu-bạt kia, nói về điều phục tâm là đạo, chẳng phải là khổ hạnh. Phật-quán là đạo, chẳng phải tám thiền thế gian.

3. Tùy văn, giải thích…

Y theo người đầu tiên, văn có bốn phần.

  1. Nêu người hỏi.
  2. Chấp tà vặn hỏi Phật, Như lai đối phá.
  3. Thỉnh Phật về nghĩa đúng. Như lai giải thích.
  4. Cầu xuất gia, Như lai cho pháp.

Đoạn đầu rất dễ hiểu. Trong đoạn hai, trước là hỏi vặn, sau là giải thích. Trong hỏi vặn, đầu tiên là hỏi vặn, để phá Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh:

“Nếu Cù-đàm nói cũng thường… trở xuống ngăn ngừa hai ngữ của Phật. Trong phần trước, trước là nói riêng; sau là tổng kết, hỏi vặn.

Trong riêng, đầu tiên là hỏi vặn, phá nghĩa thường. Trước là khẳng định Như lai: “Ông hỏi: “Niết-bàn có phải là pháp thường hay không? Phật đáp: “Đúng thế!”. Sau, là y theo đặt câu hỏi:

“Nếu thường thì không đúng!” Nêu để tổng kết là sai lầm.

“Vì sao?…Trở xuống là giải thích. Như pháp thế gian, là nêu sự việc, so sánh, vặn hỏi:

“Cù-đàm thường nói: “Tu vô thường… trở xuống là ngay nơi pháp, chính là hỏi vặn, có bốn lần “Lại nữa”:

  1. Vì tu tưởng vô thường, đạt được Niết-bàn, cho nên là vô thường.
  2. Vì dứt tham v.v… cho là Niết-bàn, nên là vô thường.
  3. Vì từ nhân giải thoát, nên là vô thường.
  4. Nói nếu Niết-bàn đồng với năm ấm, tức là vô thường. Nếu lìa năm ấm thì tức là hư không, trong đó, đầu tiên là nói năm ấm vì duyên sinh, nên là vô thường. Sau là dùng giải thoát, đối với vô thường để vặn hỏi:

“Đồng” tức là vô thường, “Khác” tức là “Không”. Nếu đồng với hư không tức chẳng phải sinh nhân, vặn hỏi ngã, lạc, tịnh, đều có riêng một câu, tất cả sinh nhân đều vô thường… trở xuống là tổng kết, vặn hỏi. Xà-đề sợ Phật bị vặn hỏi, sẽ thay đổi chấp, nên nói vừa thường, vừa vô thường v.v…, nên sau đây, sẽ ngăn ngừa, trong đó có ba câu:

  1. Chấp chặt trái với thuyết Phật nói, suy ra thành hai ngữ: “Nếu Cù-đàm nói vừa thường, vừa vô thường, vừa khổ, vui v.v…, há chẳng phải là hai ngữ ư?
  2. Nêu đã nghe thuyết xưa Phật nói, là nói lên Phật chẳng có hai.
  3. Nay, Cù-đàm… trở xuống là y theo hai ngữ để vặn hỏi Phật: “Nói về hai ngữ, tự nói là Phật, nghĩa này thế nào?”

Sau đây là trong phần Phật đáp, trước là đối với câu hỏi ở trước, đã giải thích Niết-bàn là thường, bỏ đi sự ngăn ngừa sau, để nói mình không có hai. Trong giải thích thường ở trước, đầu tiên là nhận lấy nhân tánh mà người kia đã lập, quyết định suốt qua nghĩa của mình: “Trong pháp của các ông có hai nhân… trở xuống là y theo hai nhân sinh và liễu đã hiểu biết kia để giải thích nghĩa của mình.

Trong phần trước có sáu:

1- Yếu-tố chung nhất định, nay ta hỏi ông, tùy ý ông đáp”. Người kia đáp: “Vâng!”.

2- Hỏi: “Tánh của ông là thường hay vô thường?” Người kia đáp: “Là thường”.

3- Hỏi: “Tánh này của ông có khả năng tạo tác tất cả nhân trong, ngoài phải không? Người kia đáp: “Đúng thế!”.

4- Phật hỏi thế nào? Người kia giải thích đầy đủ. Họ nói: “Từ tánh sinh ra đại v.v… Đây là lối chấp của tiên Ca-tỳ-la. Tiên kia đã chứng được năm thông của thế tục, thấy việc trong tám muôn kiếp của đời quá khứ. Ngoài tám muôn kiếp, với năng lực thần thông không thể thấy được, và chỗ mờ mờ không thấy bèn nói rằng: “Ngoài tám muôn kiếp, chẳng nên không có pháp, nên có “Minh tánh” (tánh mờ tối). Từ “Minh tánh” ấy khởi lên tâm hay biết đầu tiên, gọi là sinh đại. Vì sinh đại này là nguyên nhân đầu tiên của sự thọ sinh, nên trong Bách luận gọi là “Giác sơ sinh”. Từ giác sơ sinh này lại sinh ra tâm ngã thọ sinh trong trung ấm kia, nói là mạn. Vì “Ngã” là mạn, nên trong Bách luận gọi là tâm “Ngã”. Từ tâm “Ngã” này sinh ra hai pháp:

5- Sắc;

6-  Tâm.

Trong sắc, gồm có hai mươi mốt thứ, nghĩa là từ tâm “Ngã” sinh ra năm vi trần, đó là sắc, thinh, hương, vị và xúc. Từ năm vi trần sinh ra năm đại, đó là đất, nước, lửa, gió và không. Từ năm đại đó sinh ra năm căn, đó là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Từ sắc trần sinh ra hỏa đại; hỏa đại sinh sinh ra mắt; mắt lại nhìn thấy sắc. Từ thinh trần kia sinh ra không đại. Không đại hình thành tai. Tai lại nghe tiếng. Từ hương trần sinh ra địa đại; địa đại sinh ra mũi; mũi lại ngửi mùi. Từ vị trần kia sinh ra thủy đại; thủy đại sinh ra lưỡi, lưỡi trở lại nếm vị. Từ xúc trần sinh ra phong đại; phong đại sinh ra thân; thân lại xúc giác.

Người kia nói năm trần đều sinh ra năm đại; đại đều sinh ra căn. Đối tượng đã nói ở trước từ mạnh mẽ là lời nói. Mười lăm pháp trước đều là căn của năm nghiệp và căn của tâm bình đẳng, chung với ở trước, hợp với hai mươi mốt pháp “Hữu”. Căn của năm nghiệp, nghĩa là tay, chân, miệng, âm thanh, căn nam, căn nữ. Tâm bình đẳng là nhục tâm của người kia. Vì năm đại cùng hình thành, nên nói là bình đẳng. Vì đại đều hình thành, nên tâm-thức phần nhiều nương vào sắc pháp. Như thế, trung tâm đã sinh có ba thứ: Nhiễm, thô, đen. Nhiễm là tham; thô là giận; đen là ngu si. Ba thứ này đều là phiền não của thọ sinh. Lúc thọ sinh, nam liền sinh ra ái với người mẹ, gọi là nhiễm; với cha thì nổi giận, gọi là thô. Nữ thì trái lại, rất dễ hiểu. Vô minh không hiểu rõ, gọi là đen. Chung với thể biết. Vô minh không hiểu rõ, gọi là đen. Chung với sắc, gồm có hai mươi bốn. Nhưng, nay trong văn, trước nói về sắc sinh, đầu tiên là nói: “Từ ngã mạn sinh mười sáu pháp, đó là đất, nước v.v…, y theo siêu vượt cuối cùng, nêu năm đại, năm căn; năm căn tác nghiệp và tâm bình đẳng v.v… là mười sáu pháp, từ năm pháp sinh, nghĩa là sắc, thinh v.v…, bỏ nêu năm trần.

Sau nói về tâm pháp, là hai mươi mốt căn bản có ba, nói chung để nêu. Nhiễm v.v…, là nêu danh. Nhiễm: Gọi là ái, hội, gọi là bày tỏ. Hai mươi lăm thứ này đều do tánh sinh ra, là nói chung để kết.

Trong đối tượng đã sinh ở trước gồm có hai mươi sáu, đại mạn là hai. Trong sắc pháp có hai mươi mốt, tâm pháp có ba. Nay, vì sao nói hai mươi lăm? Hai căn nam, nữ trong căn năm nghiệp tùy theo người không đều, cho nên, chỉ nói là hai mươi lăm. Đoạn bốn này đã nói xong.

  1. Đoạn thứ năm, Phật hỏi: “Đại v.v… là thường hay vô thường?” Người kia đáp: “Tánh thường như đại v.v… vô thường.
  2. Phật nhận lấy lời nói của người kia, quyết định nghĩa của mình:

“Như nhân trong pháp của các ông dù là thường, nhưng quả vô thường. Trong pháp Phật của ta, dù nhân vô thường, nhưng quả là thường, đâu có lỗi?”. Đây là đoạn đầu đã nói xong.

Dưới đây là đoạn hai, y theo sinh nhân và liễu nhân đã hiểu kia để giải thích, nghĩa của mình, có bảy lần “Lại nữa”:

1. Hỏi: “Pháp của ông có hai nhân hay không?” Người kia đáp:

“Có”.

2. Hỏi: “Thế nào?” Người kia nêu lên danh.

3. Hỏi về tướng của chúng, người kia nói đủ và nói về hai nhân đó.

4. “Hai nhân có được tương tác nhau hay không?” Người kia đáp: “Không được!”.

5. Hỏi: “Dù hai thứ này không tương tác nhau, nhưng có tướng của nhân hay không?” Người kia đáp: “Có!”

6. Hỏi: “Liễu nhân có đồng với sở liễu hay không?” Người kia đáp: “Không đồng”.

7. Phật dùng cái mà họ đáp để giải thích nghĩa của mình:

“Pháp của ta dù từ nhân vô thường, đạt được Niết-bàn, mà chẳng phải vô thường.

Trên đây là đối với câu hỏi ở trước giải thích Niết-bàn là thường.

Dưới đây là đoạn hai, đối với sự ngăn ngừa ở sau, nói không có hai ngữ. Trong đó có ba:

1/ Đối với câu hỏi trên, nếu Cù-đàm nói: “Vừa thường, vừa vô thường, vừa khổ, vui v.v… ”, há chẳng phải là hai ngữ hay sao? Nói ngữ của mình chẳng hai. Liễu-nhân là pháp chứng đắc, là nghĩa thường, lạc, ngã, tịnh, nên Phật nói là thường v.v… Sinh nhân là pháp đắc không có nghĩa thường, lạc, ngã, tịnh, nên Phật nói vô thường, khổ, vô ngã v.v… cho nên nói mà Như lai nói có hai, kết thành hai ngữ ở trước.

Hai ngữ như thế chẳng có hai: Y theo hai ngữ ở trước để giải thích thành không hai. Vì trong một pháp đều lập một lời nói, nên nói là không hai.

“Cho nên… trở xuống là kết.

2/ Đối với câu hỏi trên, ta đã từng nghe nói Phật không có hai lời ý nói đã không có hai, gọi là đã nghe thuyết xưa của Phật, trong đó, đầu tiên là nói: “Như ông đã nghe nói Phật ra đời không có hai lời”, nên lời hỏi ở trước là lời nói: “Lành thay!” Khen đã nghe thuyết xưa. Vì đã nghe, sẽ nghe, hiện nay nghe, nên nói: “Lành thay!”

3/ Ứng với câu hỏi ở trên, nay Cù-đàm nghĩa là nói ở hai ngữ ngôn: “Phật là ta”, nghĩa là Phật, trong đó có hai câu:

1. Đối với chư Phật, nói ngữ không có hai. Tất cả thuyết mà chư Phật đã nói đều không có khác nhau, cho nên nói: “Phật không có hai lời”, chính là nói chẳng có hai.

“Thế nào là không có… trở xuống là giải thích không có tướng khác nhau. Cái mà liễu nhân có được, đồng với thuyết nói có thường, lạc, ngã, tịnh, gọi là đồng với thuyết nói “Có”. Đối tượng mà sinh nhân đã được đồng với thuyết nói không có thường, lạc, ngã, tịnh, gọi là đồng với thuyết nói không có.

2. Y theo các pháp, nói ngữ không có hai lời. Như lai, Thế Tôn dù gọi là hai lời, nhưng vì hiểu rõ một lời, chính là nói không hai.

“Thế nào… trở xuống là giải thích. Trước là hỏi, sau giải thích. Vì khiến cho Xà-đề lại hiểu pháp khác, nên y theo mắt v.v… mà giải thích. Hai mắt và sắc riêng, gọi là hai ngữ. Nghĩa sinh thức đồng gọi là một ngữ, cho đến ý và pháp, cũng giống như thế.

Trên đây là đoạn hai, chấp tà vặn hỏi Phật, Như lai đối phá.

Dưới đây là đoạn ba, hỏi nghĩa đúng của chư Phật, Như lai vì nói, trong đó có ba:

  1. Hỏi nghĩa đúng, Như lai giải thích.
  2. Người kia bày tỏ sự hiểu biết của mình, Như lai xét nghiệm ngược lại.
  3. Người kia nói lên điều mình đã hiểu, Như lai nói lại lời Ngài đã khen.

Trong phần đầu, trước thỉnh hai ngữ, hiểu rõ một. Như lai y theo bốn đế để giải thích. Đoạn hai có thể biết. Trong đoạn ba, đầu tiên là Xà-đề tự nói là đã hiểu. Nổi khổ phàm hai, bậc Thánh một, nghĩa là phàm phu chỉ biết việc của sáu đường, gọi là riêng là hai, bậc Thánh biết đều khổ, cho nên nói một, cho đến đạo đế, phàm phu chỉ biết sự hạnh khác nhau, gọi là hai. Thánh biết nghĩa của các đạo hạnh vì không khác, nên gọi là một. Phật khen rất dễ hiểu. Đoạn ba này đã kết thúc.

Dưới đây là đoạn bốn, người kia xin xuất gia, Như lai cho phép, qua đó, đầu tiên là cầu Như lai chỉ dạy độ, Trần-như độ cho người kia chứng được quả Thánh.

Trong người thứ hai, văn cũng có bốn:

  1. Nêu lên người hỏi.
  2. Chấp tà vặn hỏi Phật.
  3. Xin Phật giải thích nghĩa đúng, Như lai nói cho nghe.
  4. Bà-tư chứng quả, tạ từ Phật, nhập diệt.

Đoạn đầu rất dễ hiểu. Trong đoạn hai có bốn lần hỏi đáp:

1. Hỏi: “Niết-bàn của Như lai là thường phải không? Phật đáp: “Đúng vậy”.

2/ Hỏi: “Như lai sẽ không nói Niết-bàn vô vi phải không?” Phật đáp: “Đúng thế”.

3/ Hỏi vặn Như lai: “Nếu không có “Thì sẽ đồng với bốn cái “Không có”, sao Phật nói “Có” thường, lạc, ngã, tịnh?” Trong đó, đầu tiên giải thích lập bốn thứ “Không có”. Sau, đối chiếu Niết-bàn với bốn thứ “Không có” để đặt câu hỏi. Dưới đây là Phật đáp:

Giải thích Niết-bàn chỉ là “Không có” lẫn nhau, chẳng phải ba thứ còn lại: Niết-bàn cũng như thế, chẳng phải trước đây “Không có”, nghĩa là không đồng với lần thứ nhất. Vì tất cả chúng sinh từ trước đến đây là “Không có”. Cũng chẳng phải diệt “Không có”, không đồng với lần thứ hai, vì một phen chứng vắng lặng hẳn, nên chẳng phải diệt “Không có”. Chẳng phải rốt ráo “Không”, chẳng đồng với lần thứ tư, vì chư Phật là “có”.

“Đồng”, “Khác”, “Không có”… trở xuống là nói đồng với lần thứ ba, trước nói chung để nêu tiêu biểu. Sau là nói riêng để chỉ bày rõ. Trước là dựa vào sự việc thế gian để giải thích lẫn nhau là “Không”; sau y theo chỉ rõ pháp, đây là lần thứ ba.

4/ Vặn hỏi lại Như lai: “Nếu là “Khác” thì sẽ không có Niết-bàn, tức là chẳng phải thường, lạc, ngã, tịnh?” Sau đây là Phật đáp:

“Nói lên thế gian “Không có” lẫn nhau, tức là vì kèm theo ba thứ “Không có”, cho nên thuộc về vô thường. Pháp Niết-bàn chỉ là “Không có” lẫn nhau, vì không gồm nghĩa khác, nên thuộc về thường v.v…, trong đó có ba trường hợp:

1- Chọn thô khác với tế. Ông nói khác với “Không”, là nêu đối tượng lập, có ba thứ “Không”, chỉ rõ chung tướng của ba thứ đó. Sau đây, sẽ chỉ bày riêng:

Trâu, ngựa đều là thứ trước “Không mà sau có”. Cái “Có” chưa có, là “Không”. “Đã có”, lại “Không có”, là cái “Có” đã diệt, nên “Không có”. Tướng “Khác” “Không có”: Như ông đã nói: Là có cái “Không có” lẫn nhau kia. Nếu Phật lại giải thích không khác với Bà-tư, thì nên nói tướng “Khác” như ông đã nói: “Thế gian “Không có” lẫn nhau. Vì kèm theo ba thứ “Không có” này, nên thuộc về vô thường.

2- Nói tế khác thô. “Không có” trong “Không có” Niết-bàn của ba thứ trước, cho nên, Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh.

3- “Người thế gian bị bệnh… trở xuống là y theo pháp “Không có” lẫn nhau của Niết-bàn kia, để giải thích rộng nghĩa “Thường”. Vì các phiền não là vô thường, nên Niết-bàn “Không có” phiền não, do đó được gọi là “Thường”, trong đó có ba trường hợp:

1/ Tập dụ, chỉ rõ pháp, trước nêu ba bệnh; kế là nêu ba thứ thuốc; sau là chỉ bày cách trị bệnh, không được có tướng.

2/ Y theo dụ để chỉ rõ pháp. Trước nêu ba lỗi; kế là trình bày ba cách điều trị. Sau là chỉ bày đối trị lỗi, không được có tướng.

3/ Y theo tướng có để giải thích, nói về thường, vô thường v.v… Trong ba thứ thuốc, vì không có ba chứng bệnh, nên Niết-bàn được thường, lạc, ngã, tịnh. Đoạn hai này đã nói xong.

Dưới đây là đoạn ba, người kia xin Phật giải thích chánh nghĩa, Như lai giải thích, trong đó cũng có ba:

  1. Hỏi về chánh nghĩa, Như lai nói cho nghe.
  2. Chỉ bày cho họ… trở xuống là Như lai xét nghiệm ngược lại.
  3. Người kia bày tỏ sự hiểu biết của mình, Như lai nói lại lời mình đã khen.

Dưới đây là đoạn bốn, nói về sự chứng quả, thủ diệt của Ba-tư-tra, trong đó có bốn:

  1. Phật bảo cho người kia biết rõ đã được quả La-hán, khuyên nên cúng thí y bát, Trần-như bố thí cho.
  2. Nhờ Trần-như thỉnh Phật, sám tạ và từ giã, nhập vào diệt độ, Trần-như giúp cho thông qua.
  3. Phật chỉ bày gốc lành đời trước của người kia, nay đã thànhthục, đã được chánh quả, Phật khuyên nên cúng dường thi thể người kia, Trần-như đến cúng dường.
  4. Khi sắp nhập diệt, biến hiện ngoại đạo khinh chê.

Tiên-ni Ca-diếp đều chấp ngã. Lối chấp của Tiên-ni là “Vừa tức”, “Vừa lìa”, tác thân là “Tức”; thân thường là “Lìa”. Ca-diếp thì chấp “Khác”.

Y theo văn trong Tiên-ni cũng có bốn:

  1. Nêu lên người hỏi.
  2. Chấp “Ngã”, vặn hỏi Phật, Như lai đối phá.
  3. Hỏi chánh nghĩa, Như lai nói.
  4. Cầu xin xuất gia, Như lai cho phép.

Trong đoạn hai, trước là Tiên-ni hỏi Phật về nghĩa “Ngã”, Phật yên lặng không đáp. Sau khi trịnh trọng hỏi đến ba lần, vì muốn cho nghĩa “Ngã” mà ông ấy đã tự lập, theo đó mà đối phá, nên yên lặng không đáp.

“Tiên-ni… trở xuống là lại tự lập nghĩa “Ngã”, Như lai mới đối phá. Trong “Ngã” mà ông ấy đã lập, “Chúng sinh có “Ngã” khắp tất cả chỗ, đó là một môn, một này có hai môn, tác giả là ba môn”. Vì sao yên lặng? Trách Phật không đáp. Đây là Phật phá riêng, cần phải nhận biết.

Y theo phá khắp, có bốn lần “Lại nữa”:

1/ Khẳng định lập luận của ông ấy: “Ông nói “Ngã” này của ông khắp tất cả chỗ.

2/ Tiên-ni cho là nhất định, không phải chỉ có tôi nói, mà tất cả người trí đều cũng nói như thế”. Như lai đối phá:

“Nếu “Ngã” khắp thì lẽ ra năm đường cùng một lúc phải chịu báo. Nếu thọ cùng một thời điểm thì vì sao các ông không gây ra mọi điều ác, mà lại vì ngăn ngừa địa ngục nên lo tu thiện để mong cầu được sinh lên cõi trời?”

3/ Bị vặn hỏi, Tiên-ni lập ra hai “Ngã”: Thân thường và thân tạo tác. Vì là “Ngã” của thân tạo tác, nên phải lìa ác, ngăn ngừa địa ngục, mà làm lành, sinh lên cõi trời”.

Như lai đối phá:

“Cái “Ngã” về thân thường của ông trùm khắp tất cả chỗ. Nếu thân tạo tác mà “Có”, tức là vô thường. Nếu thân tạo tác là “Không”, thì “Ngã” sẽ không cùng khắp”.

4/ Bị Phật vặn hỏi, Tiên-ni lại đưa ra nghĩa bào chữa:

“ “Ngã” mà tôi đã lập cũng ở trong thân tạo tác, cũng là pháp “Thường”, nghĩa bào chữa của “Pháp thuyết”. Như mất lửa v.v…, nghĩa bào chữa của “Dụ thuyết”.

“Ngã” cũng… trở xuống là hợp.

“Cho nên… trở xuống là kết. Văn rõ ràng dễ hiểu.

Sau đây, Phật sẽ phá:

Trước là phá pháp thuyết; sau là phá thí dụ của người kia.

Y theo phá pháp, ông nói: “Vừa khắp, vừa thường” là không đúng! Là nêu để tổng kết sai lầm.

“Vì sao?…Trở xuống là giải thích, trong đó, đầu tiên là dùng lý để vặn hỏi đúng: Khắp thì có hai thường và vô thường. Lại có hai thứ: Sắc và vô sắc. Ngoài pháp là thường; ở pháp thì vô thường. Ngoài pháp thì chẳng phải sắc, ở pháp là sắc.

“Cho nên, nếu… trở xuống là lại kết vặn hỏi:

“Nếu tất cả có vừa thường, vừa vô thường, vừa sắc, vừa vô sắc”, là không được thường nghiêng về một bên, không được sắc nghiêng về một bên.

Y theo phá dụ, “Nếu chủ nhà ra khỏi, thì không gọi là vô thường”, nghĩa này không đúng! Là nêu để tổng kết sai lầm.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích: Ngôi nhà không gọi là chủ; chủ không gọi là ngôi nhà. Đốt khác, vì khác với ra khỏi nhà, nên được như thế; phân biệt dụ khác với pháp. Sự đốt nhà khác với con người, gọi là đốt khác. Người ra khỏi nhà khác với ngôi nhà, gọi là khác với sự ra khỏi.

“Ngã” Tức không… trở xuống là phân biệt pháp khác với dụ, không như vậy, là lược phân biệt.

“Vì sao? Trở xuống là giải thích. Vì “Ngã” khắp, nên đối với sắc, “Ngã” tức là sắc; sắc tức là “Ngã”. Ở ngoài sắc thì không có sắc tức “Ngã”; “Ngã” tức vô sắc.

“Sao nói là…trở xuống là kết quở lời nói của người kia.

Kế là phá “Một” của người kia, có tám lần “Lại nữa”:

1/ Đầu tiên là nêu chính thức phá. Theo ý ông, nếu cho rằng tất cả chúng sinh đều đồng một “Ngã”, nêu “Ngã” mà ông đã lập là trái với thế, xuất thế, lược nêu lỗi của ông ấy.

“Vì sao?… trở xuống là giải thích. Đầu tiên là nói trái với thế gian, đây là “Ngã” kia trái với xuất thế.

“Cho nên, nếu… trở xuống là kết để chỉ rõ lỗi.

2/ Nghĩa bào chữa của Tiên-ni: “Tôi cũng không nói tất cả chúng sinh đồng một “Ngã””. Như lai đối phá:

“Nếu nói mỗi người đều “Có”, thì đây là nhiều “Ngã”, nghĩa này không đúng!”, nêu để tổng kết sai lầm.

“Vì sao?… trở xuống là giải thích, trong đó, đầu tiên là dùng khắp phá riêng: “Ông nói “Ngã” “Khắp”, nếu khắp tất cả thì nghiệp căn của tất cả chúng sinh lẽ ra đồng với thấy nghe, không có riêng “Hoăc trời được thấy, chứ chẳng phải Phật được”… trở xuống là dùng riêng phá khắp.

“Nếu không khắp… trở xuống là dùng lấy nghĩa “Không khắp” của họ để nạn phá nghĩa thường.

3/ Nghĩa bào chữa của Tiên-ni: “Ngã” kia dù cùng khắp, nhưng “Pháp” và “Phi pháp” không khắp tất cả, cho nên, căn nghiệp của chúng sinh đồng với thấy, nghe, mà đều khác nhau”.

“Như lai vặn hỏi pháp nhất định và “Phi pháp”, chẳng phải là tác nghiệp ư?” Tác nghiệp gọi là nghiệp. Nhân hoạt động của tác nghiệp mà trở thành tôi, phước v.v… gọi là pháp, “Phi pháp”.

4/ Tiên-ni cho là nhất định đã tạo ra nghiệp này.

Như lai gạn hỏi, phá:

“Nếu pháp, “Phi pháp” là tác nghiệp, tức là “Pháp đồng”, thì sao lại nói “Khác”? Là nhắc lại để lược hỏi.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích, trong đó, đầu tiên là pháp; kế là dụ; sau là hợp. Trong pháp, đầu tiên là nói: Phật được xứ nghiệp, có trời được “Ngã”; trời được xứ nghiệp, có Phật được “Ngã”, nói “Ngã” cùng khắp lẫn nhau. Trời được, Phật được là tên người. Lúc Phật được làm, thì trời cũng được làm là nói nghiệp được tạo ra lẫn nhau. Cái “Ngã” của người kia, người này đầy khắp tất cả, vì tạo nghiệp chung. Pháp và phi pháp đáng lẽ cũng như thế? Vặn hỏi để cho đồng với nhân. “Ngã” khắp tất cả, vì đây là tạo nghiệp.

“Pháp và phi pháp, nếu như thế… trở xuống là vặn hỏi, để cho quả đồng. Trong dụ, đầu tiên là nói: “Từ hạt sinh ra quả, hạt sau cùng không tư duy “Ngã”, chỉ tạo ra quả Ba-la-môn, không tạo tác với Sát-lợi, Tỳxá v.v…, chính thức lập dụ bình đẳng, nói hạt giống ngoài tùy hạt giống kia, tức là tác quả, không có đối tượng phân biệt.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. Trong hợp, đầu tiên là nói: “Pháp và phi pháp cũng giống như thế v.v…, chính thức hợp với dụ ở trước.

“Vì sao?…Trở xuống là giải thích. Vì nghiệp bình đẳng, nên lẽ ra chung không riêng, vì người kia, người này cùng gây ra nghiệp chung, nên gọi là nghiệp bình đẳng.

5/ Tiên-ni lập dụ, đưa ra nghĩa bào chữa. Sau đây là Phật đối phá, trước là nêu tổng kết sai lầm.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. Trong giải thích có ba:

6/ Dùng ánh sáng tỏa khắp nhà để so với sự cùng khắp của “Ngã”, nhằm phá không có tạo nghiệp lẫn nhau.

7/ “Nếu pháp, phi pháp vô “Ngã”… trở xuống là dùng ánh sáng đèn không khắp trong tim đèn để phá “Ngã” cùng khắp.

8/ Nếu ý ông cho rằng tim đèn, ánh sáng là riêng… trở xuống là nói, “Tức” tim đèn, phá “Ngã” khác với pháp.

Trong phần đầu, nói vì sao? Là vặn hỏi trước, khởi sau. Sau là giải thích sai lầm. Nhà khác, đèn khác, ánh sáng đèn này cũng ở bên tim đèn, cũng khắp trong nhà, là nói về tướng của thí dụ đèn kia.

“Vì sao phải nói nhà khác, đèn khác?” “Vì nói rõ ánh sáng đèn tỏa khắp ở chỗ khác, cũng như thần ngã kia đầy khắp ở chỗ khác. Sau đây, là so sánh với “Ngã”: Ông nói: “Nếu “Ngã” như thế, nghĩa là như sánh sáng đèn ở trước là ở bên tim đèn, cũng tỏa khắp nhà. Bên pháp, phi pháp lẽ ra cùng có “Ngã” đồng với ánh sáng đèn ở trước tồn tại ở bên tim đèn. Trong “Ngã” lẽ ra cũng có pháp, phi pháp, đồng với ánh sáng đèn ở trước, cũng tỏa khắp trong nhà, vì ánh sáng tỏa khắp ngôi nhà, nên trong ánh sáng có tim đèn. Vì “Ngã” cùng khắp, nên trong “Ngã” lẽ ra cũng có pháp, phi pháp? Vì “Ngã” đã có ở bên pháp, phi pháp, nên trong “Ngã” đã có pháp, phi pháp kia. Cho nên các nghiệp tạo tác chung, không được riêng khác.

Trong đoạn hai, nếu pháp, phi pháp có “Ngã”, thì chẳng được nói khắp, nói pháp đồng với dụ, sẽ có lỗi không khắp. Nghĩa này thế nào?- Trong tim đèn không có ánh sáng. Nếu “Ngã” giống như ánh sáng thì đối với pháp, phi pháp sẽ vô “Ngã”. Nếu pháp, phi pháp vô “Ngã”, thì đâu được nói rằng “Ngã” cùng khắp tất cả. Nếu “Ngã” đều có thì đâu được lại dùng tin đèn, ánh sáng làm dụ để nói “Ngã” phổ biến, sẽ có lỗi trái với dụ. Nghĩa này thế nào? Nếu nói “Ngã” cùng khắp thì sẽ hoàn toàn khác với đèn đối với pháp, phi pháp, ông lại đâu được dùng tim đèn dụ cho pháp và phi pháp, ánh sáng dụ cho “Ngã”?

Trong đoạn ba, theo ý ông, “Nếu nói là tim đèn, ánh sáng riêng khác”, là nêu lập trường của người kia.

“Vì nhân duyên gì, nên tim đèn tăng thì ánh sáng sẽ rực rỡ; tin đèn khô, thì ánh sáng sẽ tắt, phá riêng để chỉ rõ “Tức”. Sau đây, sẽ y theo vặn hỏi pháp, trong đó có hai:

1- Nói “Ngã” khác với “Pháp”, có lỗi trái với dụ. Nghĩa này thế nào? Trước nói đèn dụ cho ánh sáng không lìa tim đèn. Người kia đã lập “Ngã” và “Pháp” hoàn toàn riêng lẻ, nên nay Phật vặn hỏi họ. Cho nên không nên dùng pháp, phi pháp dụ cho đèn, tim, ánh sáng không có khác nhau để dụ cho “Ngã”. Ánh sáng của đèn này không khác với tim đèn, khác với cái “Ngã” của ông. Với pháp, phi pháp vì hoàn toàn là riêng, do đó, không nên dùng pháp và phi pháp dụ cho đèn, tim đèn.

2- “Vì sao?…Trở xuống là nói “Ngã” đồng với dụ, sẽ có lỗi ngay nơi pháp là vô thường. Nghĩa này thế nào? Đèn, ánh sáng “Tức” tim đèn. Nếu “Ngã” đồng với ánh sáng đèn, thì pháp và phi pháp, lẽ ra phải là “Một”, không được nói khác. Trong văn, đầu tiên là nói: “Vì sao?” Là vặn hỏi trước, khởi sau. “Trước kia, vì sao ta trách ông.”

Sau đây, đối với người kia, Phật chỉ rõ lỗi: “Ngã” mà ông đã lập nếu đồng với dụ đèn, với ba việc pháp và phi pháp, “Tức” “Một” thì không được nói là riêng khác. Đây là đoạn thứ năm đã nói xong.

Dưới đây là đoạn thứ sáu, Tiên-ni trách lời Phật nói không tốt: “Thí dụ mà ông đã dẫn, là việc không tốt là trách chung Như lai.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. Thí dụ đèn nếu tốt, thì tôi đã dẫn chứng xong. Nếu nó không tốt, thì đâu cần phải nói nữa?” Phật sẽ đáp như sau:

“Giải thích thí dụ này, vì không tốt lành đối với ông, nên ta sẽ đả phá ông. Vì đối với “Ngã” là tốt, nên ta sẽ giải thích nói. Trong văn có ba:

1. Như lai đáp chung: “Thí dụ mà ta đã dẫn, đều không tác động đến tốt lành và không tốt lành, tùy ý ông nói.

2. Y theo dụ mà vặn hỏi, trách cứ.

3. “Dụ như thế… trở xuống là nói đối với lời nói của người kia, giải thích tốt lành, không tốt lành. Đoạn đầu rất dễ hiểu.

Trong đoạn hai, gồm có bốn câu:

1- Chính thức chỉ rõ tướng thí dụ của người kia. Du này cũng nói “Tức” tim đèn có ánh sáng; “Lìa” tim đèn có ánh sáng. Thêm tin đèn, ánh sáng tăng thêm; tim đèn khô, ánh sáng tắt, gọi là “Tức”. Ánh sáng chan hòa khắp trong nhà, cũng có bên tim đèn, nói là “Lìa”. Nêu “Tức” “Lìa” ở đây, là nhận lấy nghĩa “Tức”. Phật phá “Ngã” khác với pháp của Tiên-ni kia.

2- “Tâm ông không… trở xuống là y theo dụ, quở trách. Trong dụ có “Tức”, cũng có nghĩa “Khác”. Tâm ông không bình đẳng, hoàn toàn lập “Khác”, nói dụ tim đèn riêng, pháp và phi pháp, nói riêng dụ cho “Ngã”.

3- “Cho nên…trở xuống là một lần nữa, Như lai lại nói lên ý trách cứ của mình: “Là ông không bình đẳng, vì chấp nghiêng về “Lìa”. Nay ta trách “Tức” tim đèn có ánh sáng; “Lìa” tim đèn có ánh sáng “Tức” và “Lìa” trong câu đầu. Pháp “Thì” có bình đẳng, y theo dụ, so sánh pháp. Trong dụ đã có “Tức” tim đèn có ánh sáng; pháp cũng nên như thế. Pháp “Tức” có “Ngã”; “Ngã” “Tức” có pháp. Phi pháp “Tức” “Ngã”; “Ngã” “Tức” phi pháp.

4- “Nay ông… trở xuống là y theo pháp, Phật trách lại: Y theo dụ, suy ra pháp.

Trong pháp cũng có nghĩa “Tức”, “Lìa”. Nay vì sao ông chỉ nhận bên “Lìa”, mà không nhận bên “Tức”? Đây là đoạn hai đã giải thích xong.

Dưới đây là đoạn ba, chính thức đối với lời nói của người kia, nói về “Ngã” tốt lành, không tốt lành. Đầu tiên là nói về thí dụ này, vì không tốt lành đối với ông, nên ta dùng để phá ông.

Kế là nói thí dụ này vì đối với ta là tốt lành, nên ta mới nói đến.

“Ý ông nếu… trở xuống là ngăn chấp “Khác” của người kia, và quở trách: Người kia nghe Phật nói mừng vui sinh ra tâm tưởng tâm: “Nếu ta không tốt lành thì ông cũng không tốt lành”, nên nay ta ngăn ngừa. Trước nêu trực tiếp “Phi”.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. Trước là nêu do công sức của mình hại mình của người đời. Sau là suy ra đồng với họ.

Tiên-ni lại trách Phật không bình đẳng. Trước là trách; kế là giải thích.

“Vì nghĩa này… trở xuống là kết.

Sau đây, Phật sẽ đáp, trong đó có hai câu:

Dùng “Ngã” bất bình phá bất bình của ông, sao cho ông được bình, tức là “Ngã” tốt lành. Chánh của Phật trái với tà, gọi là “Ngã” không bình đẳng. Phá tà đồng với chánh, gọi là “Sao cho ông được bình”. Là Phật hóa độ thiện, gọi là “Ngã” tốt lành.

Dùng “Ngã” bất bình để phá bất bình của ông, để cho ông được bình, tức là “Ngã” bình. Vì tà, chánh trái nhau, nên ta và ông đều gọi là bất bình. Dùng chánh phá tà, gọi là ta bất bình, phá bất bình của ông, khiến cho người kia đồng với chánh, gọi là khiến ông bình. Phật chính đồng với người kia, gọi là ta bình.

“ Vì sao? trở xuống là giải thích.

Tiên-ni lại nói: ““Ngã” là bình”, Như lai đối phá.

Gồm có ba câu:

1. Y theo năm đường, sẽ thọ mà vặn hỏi, đả phá. Trước nhận lấy lời nói của người kia. Sau, y theo để vặn hỏi, trách cứ.

2. Y theo cha mẹ sinh con để đả phá. Trước là nhận lấy lời người kia nói. Sau, là y theo để phá.

3. Lại y theo năm đường mà cầu xuất ly để phá.

Dưới đây là đoạn ba, phá “Ngã”, tác giả. Văn có hai phần:

a) Phật hỏi vặn Tiên-ni, về phía bào chữa của Tiên-ni, Như lai đối phá.

b) Tiên-ni vặn hỏi Phật. Như lai trong phần giải thích chung ở trước có bốn:

  1. Hỏi vặn đả phá “Ngã tác”.
  2. “Ý ông, nếu cho rằng “Thân-tác”… trở xuống là hỏi vặn đả phá “Phân tác”, “Ngã”; thọ của Tiên-ni.
  3. “Nếu nói không là “Thân-tác” trở xuống là phá không có tác, thọ.
  4. Tiên-ni nói: “Ta biết ta giải thoát”. Trong phần đầu, trước là nêu, đều là sai, không đúng.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích rộng, chỉ rõ sai trái của người kia. Có bảy lần “Lại nữa”.

1. Lấy tạo tác ra sự khổ để hỏi vặn, phá “Ngã”, là pháp vắng lặng do đâu tạo ra khổ? Đầu tiên là nói phá:

“Nếu nói khổ này chẳng phải “Ngã tác”… trở xuống là ngăn ngừa nỗi khổ không có nhân.

2. “Khổ, vui của chúng sinh thật sự từ duyên… trở xuống là nêu, nỗi khổ, niềm vui v.v… không nhất định, để hỏi vặn đả phá.

3. “Ông nói… trở xuống là nêu mười thời gian thay đổi để vặn hỏi, đả phá.

4. “Cũng có hưng thịnh…, trở xuống là nêu trạng thái hưng thịnh, suy vong không nhất định, vặn hỏi đả phá.

5. “Một người có căn cơ nhạy bén, chậm lụt là sao?… Trở xuống là nêu căn cơ nhạy bén, chậm lụt của người kia không nhất định, để hỏi vặn đả phá. Năm căn như tín v.v… trong thân một người nhạy bén, chậm lụt không nhất định, nói biết vô “Ngã”.

6. “Thế nào là nói… trở xuống lấy miệng người kia nói vô ngã để hỏi vặn đả phá.

7. “Theo ý ông, nếu cho rằng lìa mắt, mà thấy… trở xuống là dựa vào kiến để vặn hỏi, đả phá, trong đó có ba:

a) Phá “Ngã”, năng thấy, đầu tiên là nêu trực tiếp sai lầm.

“Vì sao?… trở xuống là giải thích: Nếu trời ngoài mắt, đã có riêng “Ngã” thấy, thì đâu cần mắt này, các căn khác cũng như thế.

b) Phá nhân mắt nhìn thấy. Theo ý ông, nếu nói là “Ngã” dù năng thấy nhưng chủ yếu là nhân ở mắt, điều này cũng không đúng, nêu lên để tổng kết sai lầm.

“Vì sao?… trở xuống là giải thích, nêu thí dụ, để so sánh, chỉ bày rõ. Như Tu-mạn-na có thể đốt cháy một xã lớn, là nêu sự dụ kia. Tumạn là tên người làm sao có thể đốt? Vì lửa có thể đốt, nhất định tướng của người kia. Sau đây, sẽ y theo chỉ rõ pháp.

Thấy cũng như thế, dù nói là “ngã” thấy, nhưng thấy, thật ra là mắt thấy.

c) Nhân Tiên-ni lập dụ, tùy nghĩa bào chữa của ông ấy, Phật chuyển đổi đả phá.

Gồm có bốn câu:

1/ Giải thích dụ khác với pháp, vặn hỏi phá “Ngã tác”. Con người và lưỡi hái trong ví dụ, đều có tự thể riêng, nên con người cầm lưỡi hái, là năng có động-tác. Ngoài căn vô “Ngã”, làm sao nói rằng, “Ngã” do căn tác động?

2/ Y theo tay “Có”, “Không”, để vặn hỏi, phá “Ngã tác”. Trước là nhất định “Có” “Không”, sau y theo lập ra câu hỏi:

“Nếu “Ngã” của ông có tay thì sao nó không tự động cầm lưỡi hái, thì “Ngã” làm sao tạo tác? “

3/ Nói về cắt là lưỡi hái, để hỏi vặn, đả phá “Ngã tác”: “Nếu “Ngã” cắt được thì sao lại nói do lưỡi hái?”.

4/ Nói về tác nghiệp của con người và lưỡi hái đều riêng, vặn hỏi, đả phá “Ngã tác”. Trước nói về nghiệp của con người; kế là nói về nghiệp lưỡi hái; sau là y theo chỉ rõ pháp:

Chúng sinh thấy pháp cũng giống như thế, y theo để chung để biểu thị rõ pháp.

“Mắt nhìn thấy được… trở xuống là y theo riêng để chỉ rõ pháp, mắt như lưỡi hái.

“Nếu từ duyên… trở xuống là nêu lý, kết quở. Đoạn đầu này đã nói xong.

Dưới đây là đoạn hai, vấn nạn, phá nghĩa năng thọ của “Tác ngã” của thân. Trước là nêu sai lầm trực tiếp.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích.

Dưới đây là đoạn ba, nếu nói không là thân tạo tác… trở xuống là phá không có tạo tác, gánh chịu. Trước nêu, sau phá, dùng hai nghĩa để phá: “Vì sao cầu giải thoát” là một phá. Được giải thoát rồi, lại sinh phiền não cho thân, là hai phá.

Dưới đây là đoạn bốn, vặn hỏi đả phá “Ngã”, biết “Ngã” được giải thoát, trong đó, trước là Tiên-ni lập hai “Ngã” để bào chữa cho nghĩa trước kia, do ở trước, Phật đã nói: “Nếu thân không tạo ra “Ngã” thì chẳng phải nhân thọ, vì sao cầu giải thoát, được giải thoát, mà phiền não của thân mình lại sinh ra, nên nay mới bào chữa.

“Ngã” có hai thứ: “Biết” và “Không biết”. “Không biết được thân, biết “ngã”, năng lìa ngoài thân. “Như chén, bình… trở xuống là năng lìa phiền não. Trước là dụ; sau là hợp. Sau đây, Phật sẽ đả phá: Trước hết, phá “Ngã” biết:

“Trí có thể biết? Hay “Ngã” có thể biết? Tiến lùi đều nhất định. Sau đây, sẽ y theo câu hỏi để phá:

“Nếu trí rất dễ hiểu thì vì sao lại nói có “Ngã”, trí phá “Ngã”? “Nếu “Ngã” biết, thì vì sao cầu có trí, “Ngã” phá trí?”.

“Ý ông, nếu… trở xuống là phá “Ngã” nhân trí mà được biết. Trước là nêu cái thấy của trí, đồng với dụ hoa, làm hư hoại ngón tay, đồng với cách phá ở trước. Trước là phá “Ngã” nhân mắt mà thấy, như Tu-mạn-na có thể đốt cháy cả xã lớn, thật ra cái đốt cháy là lửa. Ở đây cũng đồng với kia, dù nói “Ngã” biết, nhưng thật ra là trí biết. Sau đây, là y theo dụ để chỉ rõ: “Ví như mũi nhọn của cây nhọn tự nó đâm được, không nên nói rằng, cây cầm mũi nhọn để đâm. Trí cũng giống như thế, trí tự nó là biết, sao lại nói “Ngã” chấp trí biết?

Sau đây, sẽ phá “Ngã” giải thoát: “Ngã” của ông được giải thoát”, là nêu giải thoát mà họ đã lập. Không biết “Ngã” được, biết “Ngã” được là tới, lui nhất định. Nếu không biết “Ngã” được, cũng có phiền não, phá không biết được; tánh “Ngã” của không có biết là ngu si, được giải thoát cũng còn si mê, gọi là có phiền não.

“Nếu biết được… trở xuống là phá biết được giải thoát, trong đó, trước y theo có căn bản để phá:

“Nếu biết được giải thoát, được giải thoát xong thì lẽ ra phải có năm căn là một để phá”.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. Vì lìa ngoài căn, không có biết riêng, nên nếu có đủ các căn thì làm sao gọi là giải thoát? Là hai phá. Sau, lại y theo không có căn của người kia để phá:

“Nếu nói “Ngã” tịnh, thì ngoài năm căn làm sao lại nói là có khắp năm đường?” Phá “Ngã” lìa căn. Năm căn của thân trong năm đường là thể. Đã không có năm căn, thì làm sao nói là khắp?”

“Vì sao?… Trở xuống là phá “Ngã” thanh tịnh, trong đó có ba câu:

  1. Dùng “Ngã” thanh tịnh để trách phải tu điều lành.
  2. “Ví như… trở xuống là dùng “Ngã” thanh tịnh để trách phải dứt kết, trước là dụ, sau là hợp.
  3. Ý ông nếu nói là không từ duyên… trở xuống là ngăn ngừa giải thoát sẽ không có nhân.

Bị vặn hỏi về sự vui mừng, vì Tiên-ni lập không có nhân, nên phải ngăn ngừa, đả phá.

Trên đây là đoạn thứ nhất, Như lai vặn hỏi, phá nghĩa bào chữa của Tiên-ni.

Dưới đây là đoạn hai, Tiên-ni vặn hỏi Phật, Như lai giải thích thông qua, trong đó có năm:

1/ Vặn hỏi Như lai: “Nếu vô “Ngã” thì ai sẽ nhớ nghĩ?” Sau đây, Phật sẽ phá ngược lại:

“Nếu có “Ngã”, thì vì sao lại quên?” Là một phá. Vì sao lại nghĩ đến những điều xấu ác v.v… ?” Là hai phá.

2/ Vặn hỏi Như lai: “Nếu vô “Ngã” thì ai thấy, ai nghe?” Sau đây, Phật sẽ giải thích, trong đó, đầu tiên là nói do hòa hợp nên thấy, nghe.

“Như bơ, bột gạo… trở xuống là hòa hợp nói “Ngã”.

Trong phần trước, đầu tiên là pháp; kế là dụ; sau là hợp.

“Nhãn thức như thế, không ở mắt… trở xuống là nói về sự hòa hợp không có tánh.

“Nếu là nhân duyên hòa hợp sinh…trở xuống là quở trách nói có “Ngã”.

“Cho nên, “Ngã”…trở xuống là kết thúc hư huyễn. Thức này do duyên hòa hợp, không có tánh, nên ta nói như huyễn (trò ảo thuật).

“Thế nào?… trở xuống là giải thích.

Sau đây, trong phần nói về thuyết hòa hợp, trước là dụ; sau là hợp.

3/ Tiên-ni hỏi Phật: “Nếu vô “Ngã” thì sao Phật nói: “Ta thấy, nghe v.v… ?” Sau đây, trước là Phật phá:

“Nếu ta thấy, nghe thì duyên cớ gì ta lại nói: “Tội mà ông đã làm, ta không thấy nghe?”. Dưới đây, Phật sẽ vì trình bày, giải thích:

“Dù không nhất định tin thật, giả, nhưng nói “Ngã”, trước là dụ; sau là hợp.

4/ Tiên-ni hỏi Phật: “Nếu vô “Ngã”, thì ai nói ra rằng “Ngã tác”, thọ v.v… ?” Sau đây, Phật sẽ giải thích, đầu tiên là pháp; kế là dụ; sau là hợp, rất dễ hiểu.

5/ Tiên-ni hỏi Phật: “Vô “Ngã”, “Ngã sở”, vì sao lại nói thường, lạc, ngã, tịnh?”. Sau đây, Phật sẽ giải thích, đầu tiên là nói không nói căn, trần và thức là thường, lạc v.v… Sau nói dứt trừ “Ngã”, “Ngã sở” này, mới được gọi là thường, lạc, ngã, tịnh. Trước là giải thích, sau là kết.

Trên đây là đoạn hai, chấp tà hỏi Phật, Như lai đối phá.

Dưới đây là đoạn ba, thỉnh Phật giải thích nghĩa đúng. Như lai vì giải thích, trong đó, lại có ba:

1/ Hỏi nghĩa của Phật, Như lai nói cho nghe: Có hai lượt hỏi đáp: Một lượt hỏi đáp trước là Phật quở, khuyên dứt bỏ ngã mạn, tự cao; một lượt hỏi đáp, sau chính thức giải nghĩa.

2/ Người kia bày tỏ mình đã hiểu, Như lai xem xét ngược lại.

3/ Người kia bày nói lên hiểu biết của mình. Sắc chẳng phải tự, nghĩa là sắc pháp hư huyễn, nên không có tự tánh.

Nói chẳng phải người khác, nghĩa là không có tánh của thần ngã. Chẳng phải chúng sinh: Không có ấm mà thành thể của chúng sinh. Ấm khác cũng như thế.

Người kia cầu xuất gia. Phật dạy: “Lành thay!”, liền được đạo quả.

Văn trong người thứ tư, cũng có bốn:

  1. Nêu lên người hỏi.
  2. Chấp tà hỏi Phật, Như lai đối phá.
  3. Xin Phật giải thích nghĩa đúng. Như lai nói cho nghe.
  4. Cầu xin xuất gia, Như lai cho phép.

Phân tích văn trong đoạn hai có hai:

1/ Hỏi: “Thân-mạng Như lai là “Một” hay là “Khác”? Như lai không đáp. Vì muốn cho nghĩa mà người kia đã lập, tùy theo đó mà đối phá, nên Như lai yên lặng, không đáp.

2/ Ca-diếp tự lập thân mạng nhất định là “Khác”, Như lai đối phá, có năm lớp hỏi đáp:

1- Lập nghĩa khác, Như lai phá ngược lại, nói thân và mạng đều từ nhân duyên, không nhất định là khác.

2- Nêu việc thế gian để chứng minh không từ nhân duyên, Như lai hỏi ngược lại.

3- Việc mà người kia nêu ra, Như lai đáp ngược lại, cũng từ nhân duyên.

4- Hỏi về tương duyên của Phật, Như lai giải thích.

5- Y theo pháp để vặn hỏi: “Có người bỏ thân, trong khi chưa được thân sau, ai là nhân duyên?” Như lai giải thích. Trước, phát ra duyên của người kia. Kế là nói về “Một”, “Khác”. Vì có nhân duyên, nên thân tức là mạng, mạng tức là thân: Hiện ấm nối nhau, gọi là mạng. Mạng này tức là thân. Vì có nhân duyên nên thân, mạng khác nhau, nghĩa là bỏ thân hiện ấm, thụ hướng mạng mạng không dứt, nối nhau trung gian đến đời sau. Mạng này khác với thân hiện ấm, gọi là “Khác”. Cũng có thể mạng căn phi sắc, phi tâm, nói chung, cũng thuộc về thân năm ấm này, gọi là đó là “Tức”, trong đó, phân biệt sắc tâm và thể riêng lẻ của mạng căn người kia, nói là “Khác”. Thể riêng này tức với “Khác” vì đồng như duyên sinh, nên nói là có “Duyên”.

“Không nên… trở xuống là quở nói nhất định “Khác”.

Dưới đây là đoạn ba, hỏi nghĩa đúng của Phật, Như lai giảng nói, trong đó cũng có ba:

  1. Hỏi nghĩa của Phật, Như lai giải thích.
  2. Nói lên sự hiểu biết của mình, Như lai thử hỏi ngược lại.
  3. Người kia nói lên hiểu biết của mình.

Trong đoạn bốn, đầu tiên là xin xuất gia. Kế là Phật cho phép. Trần-như về sau được Phật độ. Người kia được quả thánh. Kế hai người sau là ngoại đạo biên kiến, đều lập ra mười bốn nghĩa vặn hỏi. Y theo Phú-na, văn gồm có bốn phần như trên. Đầu tiên là nêu người hỏi; hai là chấp tà hỏi Phật, Như lai đối phá. Có hai lượt hỏi đáp:

1. Nêu mười bốn câu hỏi của ngoại đạo, hỏi trong kinh Phật có nói hay không? Phật đáp: “Không”. Thường, vô thường v.v… trở ngại nhập thánh đạo, gọi đó là câu hỏi. Lại trái với chánh pháp, cũng gọi là câu hỏi, câu hỏi riêng khác nhau, nói có mười bốn Thường, vô thường giải thích có bốn thứ:

Có người nói thần và thế gian chắc chắn là thường là một thứ. Vô thường là hai. Vừa thường, vừa vô thường, là thứ ba. Phi thường, phi vô thường là thứ tư.

Biên, vô biên, giải thích cũng có bốn thứ:

Có người nói: “Thần và thế gian: hữu biên, là một; vô biên là hai; vừa biên, vừa vô biên là thứ ba; phi biên, phi vô biên là thứ tư”.

Như, không như v.v…, cũng có bốn câu:

Sau Như lai diệt độ, như đi là một. “Như” từ trước đến nay, vì hướng về đời sau, cho nên gọi là Như. Không như là thứ hai. Có người nói: “Thân chết là dứt hẳn, “không như” từ trước đến nay, hướng về đời sau, gọi là “không như”: “Thân khác với thần: thân chết, thần còn sống. “Như” từ trước đến nay, hướng về đời sau, gọi là “Cũng như đi”. Thân tức diệt hẳn, không như “Từ trước đến nay, hướng về đời sau, gọi là không như. Chẳng phải như, không như, dùng làm thứ tư.

Có người nói thần như hư không, chẳng thể nói đi, kể cả không đi gọi là chẳng phải như; chẳng phải không như. Đó là mười hai.

“Có người nói: “Thân mạng chắc chắn là “Một””. Có thuyết nói: “Chắc chắn là khác”, chung với trước thành mười bốn, mười bốn thứ này, Long thọ đã giải thích rộng, chương riêng có giải thích đủ.

“Phú-na… trở xuống là hỏi lại Như lai:

“Thấy tội lỗi nào không đặt ra thuyết này?” Như lai giải thích: “Nếu đặt ra thuyết này, thì tâm có chấp, gọi là kiến-thủ. Chấp lấy đối tượng duyên, gọi là kiến-xứ. Kiến làm nhóm họp, khởi quả khổ ở vị lai, gọi là kiến hành. Tạo-tác tà hạnh, gọi là kiến-nghiệp. Chấp vững chắc đối tượng duyên, gọi là kiến chấp đắm. Bị kiến ràng buộc, thường ở trong ba cõi, gọi là kiến phược. Nhân kiến sinh ra khởi, gọi là kiến khổ. Lấy sai làm đúng, gọi là kiến thủ. Do kiến, nên có ba đường đáng sợ, gọi là kiến bố. Bị kiến đốt cháy, gọi là kiến nhiệt. Tâm ràng buộc không lìa, gọi là kiến triền.

“Hàng phàm phu… trở xuống là nói do kiến chấp ở trước, nên chịu nhiều khổ não.

“Ngã kiến… trở xuống là nói kết luận không nói. Đoạn hai này đã nói xong.

Đoạn ba, xin Phật nói nghĩa đúng, Như lai liền nói. Trong đó, có hai:

  1. Xin nghĩa của Phật. Như lai liền nói.
  2. Xin Phật nói… trở xuống là nhận hiểu, khen ngợi.

Trong phần trước có ba:

1. Hỏi: “Như lai đã thấy gì? Chấp đắm gì? Và đã giảng nói gì?” Phật đáp:

“Không có chấp đắm, chỉ thấy nói. Nói về chấp đắm: Gọi là sinh tử v.v… nói không có chấp đắm.

2. Hỏi lại Phật: “Phật đã thấy gì? Và đã nói gì?”. Phật đáp: “Ta đã thấy được, nói được bốn đế”, trong đó, đầu tiên là nói về đối tượng thấy, đối tượng nói.

“Nên có thể xa… trở xuống là nói do chánh kiến mà sẽ có đối tượng chứng đắc. Đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh, được nhân xuất thế, được quả xuất thế.

3. Hỏi: “Vì sao Như lai có thân chẳng phải Đông, Tây v.v… ?” Sau đây là Phật giải thích:

Trước, có thể khẳng định chung, nay ta hỏi ông, ông nghĩ sao đáp vậy”. Sau, chính thức giải thích, gồm có năm câu:

  1. Hỏi: “Trước đây, ông có biết mình đã bị lửa đốt cháy hay không?” Người kia đáp: “Biết!”.
  2. Hỏi: “Khi lửa tắt, ông có biết lửa đã tắt không?” Người kia đáp: “Biết”.
  3. Hỏi: “Lửa cháy kia từ đâu đến? Và khi tắt, nó sẽ đi về đâu?”. Người kia đáp đầy đủ.
  4. Hỏi: “Lửa tắt, sẽ về nơi nào?” Người kia đáp đầy đủ.
  5. Phật nhận lấy lời đáp của họ, để làm rõ thân mình.

Trong nhận hiểu, khen ngợi, đầu tiên là thỉnh Phật nói thí dụ. Kế là Như lai nhận lời, chính là nói thí dụ, cứ theo dụ, chỉ bày rõ pháp.

Thôn xóm, dụ cho hai mươi lăm hữu. Khu rừng, dụ cho chúng thánh. Một cây, dụ cho Phật. Khởi hành lâu xa, gọi là khu rừng đã mọc ở trước. Chủ khu rừng dụ cho kinh Đại Niết-bàn. Giảng nói lợi ích cho con người, gọi dùng nước rưới. Ích lợi khéo léo, hợp với căn cơ, gọi là tùy thời gian mà tu. Căn chương mục nát, gọi là cây khô mục. Nhiễm vọng được bỏ đi ở đây, gọi là vỏ cây rơi rụng. Thật đức sáng suốt, rạng danh, chỉ trinh nguyên là còn, làm sáng tỏ pháp, rất dễ hiểu. Đến đây là đoạn ba đã được nói xong.

Đoạn bốn, cầu xin xuất gia, Phật dạy: “Lành thay! Người kia đã chứng quả thánh!”.

Trong người thứ sáu, văn cũng có bốn:

1/ Nêu lên người hỏi.

2/ Nêu tà hỏi Phật, Như lai giải thích, tịnh và Phú-na, đều lập ra nghĩa cũng mười bốn câu hỏi. Trước, Phật đối đáp với Phú-na, phá xong. Nay, tịnh ở chỗ này không dám lập lại nữa, hỏi trực tiếp về lý do lấy, bỏ của người đời. Như lai sẽ giải thích:

Đầu tiên là hỏi: “Chúng sinh chẳng biết pháp nào thấy đời thường v.v… ?” Phật đáp:

“Chẳng biết sắc ấm cho đến thức”. Về sau hỏi: “Chúng sinh vì biết pháp nào cho nên chẳng thấy thường v.v… ? Phật đáp: “Biết sắc, cho đến thức.

3/ Xin Phật giải thích nghĩa đúng. Như lai giảng nói, trong đó cũng có ba. So với ở trên, rất dễ hiểu.

4/ Cầu xuất gia, Như lai cho phép.

Đối với bốn người ở dưới, nói về pháp đạo. đối với Độc-tử kia, nói về có đạo và có người chứng đắc. Đối với Nạp y kia, nói về duyên sinh của đạo, nói về người tu thì được; không tu thì không được. Đối với Tu-bạt thì nói về điều phục tâm là đạo, chứ chẳng phải làm khổ thân.

Thánh tuệ là đạo, chứ chẳng phải tám thiền thế gian.

Đối với Độc Tử, văn có ba phần:

  1. Nêu người hỏi.
  2. Hỏi về nghĩa của Phật, Như lai giải thích.
  3. Xin xuất gia, Như lai cho phép.

Trong đoạn hai, văn có ba phần:

  1. Bày tỏ điều mình muốn hỏi, Phật yên lặng, không đáp, bởi ĐộcTử thường đến gặp Phật, trong lòng vui mừng, không có khả năng thọ pháp. Phật vì trang nghiêm gắng sức, nên yên lặng không đáp.
  2. Độc Tử thỉnh lại, Như lai cho phép hỏi. Phật nói: “Ta và ông có nghĩa bạn thân không hai”, nghĩa là vì tâm tình chung không có riêng, nên nói không hai.
  3. Độc Tử chính thức thỉnh, Như lai giảng nói, trong đó, lại có ba phần:

Hỏi về pháp không hai kia, Như lai giải thích.

Hỏi về người kia, Như lai giải thích.

Trước, trong phần hỏi pháp, trước hỏi về pháp lành, Như lai giải thích cho nghe, hỏi về pháp ác, Như lai giải thích. Sau là hỏi cả pháp lành, dữ, Như lai giải thích, ta có thể nói rộng, nói đơn giản, để bảo cho biết giới hạn của giải thích. Sau đây là nói nói pháp, trong đó, trước nói ba điều lành, ba điều ác. Kế là giảng nói mười việc lành, mười việc ác.

“Nay ta… trở xuống là kết thúc cả hai câu đáp ở trước.

“Nếu ta… trở xuống là kết thúc cả nói về ích lợi của hiểu biết. Y theo người hỏi, đầu tiên là nêu La-hán hỏi: “Có chứng đắc hay không?” Phật đáp: “Vô lượng!”

Kế là y theo Na-hàm hỏi: “Có được hay không?” Phật đáp: “Vô lượng!”.

Dứt năm kiết phẩm hạ, giải thích đủ như trên. Sau, y theo Tu-đà và Tư-đà-hàm hỏi: “Có chứng đắc hay không?” Phật đáp: “Vô lượng”.

Phần thứ ba là lãnh hội, hiểu biết, khen ngợi, văn rõ ràng, dễ hiểu. Đây là đoạn hai, đã nói xong.

Dưới đây là đoạn ba, người kia xin được xuất gia. Như lai cho phép, gồm có sáu câu:

  1. Hỏi Như lai: “Ngoại đạo xuất gia, phải thử thách trong bao nhiêu tháng?” Phật đáp: “Phải thử thách trong bốn tháng, nhưng không phải đều như thế.
  2. Xin xuất gia: Phật dạy cách độ.
  3. Trần-như đã độ cho người kia chứng sơ quả.
  4. Lại hỏi pháp Phật, Như lai giảng nói.
  5. Người kia tu đắc quả, từ biệt Phật, Tỳ-kheo chứng diệt giúp thông qua.
  6. Phật bảo cúng dường, Tỳ-kheo đến đó cúng dường.

Trong người thứ 8. văn cũng có bốn:

  1. Nêu người hỏi.
  2. Chấp tà vặn hỏi Phật, Như lai đối phá.
  3. Hỏi Phật giải thích nghĩa đúng. Như lai giảng nói.
  4. Xin Phật xuất gia, Như lai cho phép.

Trong đoạn hai, Nạp y, đầu tiên là lập tự tánh, sau là Phật đối phá.

Trong đoạn trước, theo y phá lẽ ra phải có mười câu, văn chỉ có chín. Đoạn thứ sáu ít đi một. Tánh năm căn có khả năng thấy, nghe, hay biết, chứng tự tánh pháp. Trong văn dù ít, nhưng y theo phá tất nhiên là có.

2. Câu thứ nhất của người kia, hỏi vặn phá nhân của thân trở thành tự tánh pháp. Như Cù-đàm nói: “Làm điều thiện, bất thiện, được thân cũng như thế”, là nêu đều sai lầm.

“Vì sao?… Trở xuống là hỏi riêng, để chỉ rõ sự sai lầm. Như Cùđàm nói: “Nhờ nhân mà được thân”, là nêu thuyết Phật nói:

“Nếu nhân phiền não được thân là thân ở trước hay phiền não ở trước?” tới lui, vặn hỏi nhất định. Kế là y theo lập ra câu hỏi:

“Nếu phiền não ở trước thì ai đã tạo tác? Nếu thân ở trước thì sao Phật nói: “Nhờ phiền não mà có thân?”.

Sau đây, sẽ kết luận để chỉ rõ sai lầm:

“Nếu phiền não đã có trước, thì cũng chẳng thể kết không phải câu đầu. Nếu thân tồn tại ở trước, thì cũng không thể kết luận chẳng phải câu sau. Trước,sau, cùng một thời gian, về nghĩa đều không thể “Song phi”, mà cả hai quan điểm đều phá cùng một lúc”.

“Cho nên, ta… trở xuống là kết thành tự tánh.

1. Y theo năm đại là lập ra tự tánh của năm đại chẳng phải do nhân duyên mà có. Sau, đem so sánh với pháp: Nếu có một pháp nào chẳng phải do nhân duyên mà có, thì tất cả pháp lẽ ra cũng chẳng phải do nhân duyên mà có, dùng đại để so sánh với pháp. Nếu có một pháp nào từ nhân duyên có thì tại sao năm đại không từ nhân duyên? Là so sánh pháp với đại.

2. “Chúng sinh với thân thiện và bất thiện… trở xuống là nói được tự tánh giải thoát, chứ chẳng phải nhân. Đầu tiên là nói giải thích.

“Cho nên…trở xuống là kết. Một câu này chính là quở trách pháp đạo, Như lai đối phá để nói đạo do duyên sinh, chứ chẳng phải là tự nhiên, cho nên phải xét nhận để biết chính xác.

3. “Có tác dụng nhất định… trở xuống là nói chỗ tác dụng của tất cả pháp đều nhất định, nói lên có tự tánh (bản chất riêng). Trước là y theo biện luận ở ngoài, sau là so sánh với chúng sinh.

4. “Tánh của tất cả chúng sinh đều khác… trở xuống là nói tánh bẩm sinh của mọi chúng sinh đều khác, nói lên có tự tánh, trong đó đầu tiên là pháp; kế là dụ, sau là hợp.

5. Trong lượt thứ sáu, ít đi một câu, nói về tánh của năm căn kia có khả năng thấy, nghe cho đến giác, xúc là nói về tự tánh của pháp. Văn dù không đề cập, nhưng y theo lời Phật đáp chắc chắn là có.

6. “Như nói tham…trở xuống là vặn hỏi đả phá Như lai nói năm trần sinh kiết, trở thành tự tánh của pháp, trước nêu sai lầm trực tiếp.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. Trong phần giải thích có năm câu

1- Nói lúc ngủ, chúng sinh lìa bỏ trần cấu, cũng sinh ra tham v.v…, đủ nói lên chẳng phải do trần sinh ra.

2- Nêu khi còn ở trong thai mẹ, con người cũng cũng sinh tham v.v…, nói lên chẳng phải do trần sinh ra.

3- Nói lúc vừa mới ra khỏi thai, chúng sinh chưa thể phân biệt, mà cũng vẫn sinh ra tham v.v…, chứng minh chẳng phải do trần sinh ra.

4- Nói các Tiên, Thánh ở lĩnh vực không có trần, cũng sinh tham v.v…, chứng tỏ chẳng phải do trần sinh ra.

5- Nói chúng sinh đều có do năm trần, sinh ra, không tham v.v…, chứng tỏ chẳng phải do trần sinh ra. Trên đây là lần thứ bảy.

Lần thứ tám, “Thấy người đời, căn không đủ… trở xuống là vì y báo chánh báo của chúng sinh không bình đẳng, chứng tỏ trở thành tự tánh, chẳng phải là nghĩa nhân duyên.

Lần thứ chín, dùng trẻ con khóc la, mừng rỡ, không chắc chắn (không chừng đổi), chứng tỏ là do tự tánh của pháp.

Lần thứ mười, vì cái “Cơ” của hư không kia, cái “Không” của sừng thỏ đều không sinh ra từ duyên, chứng minh do tự tánh của pháp, trong đó, trước là nêu; kế là trình bày; sau giải thích.

“Cho nên… trở xuống là kết.

Sau đây, Phật sẽ đối phá. Văn ấy không theo thứ lớp: Trước là phá

năm đại của người thứ hai, so sánh với pháp. Kế là phá người thứ tư; thứ năm; thứ ba; thứ mười; thứ nhất là phá lại người thứ hai. Sau, lại phá người thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín kia.

“Vì nghĩa gì mà trước phá năm đại của người thứ hai, so sánh với pháp?”.

“Vì năm đại chính là lập trường của ngoại đạo, nên phá trước.

Trong văn đầu tiên là nêu lên để chỉ rõ sai lầm chung.

“Vì sao?… Trở xuống là gạn hỏi riêng, để chỉ rõ sai lầm.

Trong đây, chỉ phá năm đại để so sánh pháp, chứ chưa phá năm đại.

“Đại” của ông là “Thường”, vì sao tất cả không đều là “Thường”, y theo đại để vặn hỏi pháp, vặn hỏi phá Nạp y, dùng đại so sánh pháp:

“Vật thể của thế gian vô thường là tánh chất của năm đại, vì sao không phải là vô thường? “Y theo pháp, vặn hỏi về đại, đả phá Nạp y”.

Dùng pháp so sánh với đại: “Nếu năm đại là “Thường” thì vật thể của thế gian lẽ ra cũng là “Thường”, so sánh, quở trách Nạp y.

Lấy tự tánh của đại để so sánh với tự tánh của pháp.

“Cho nên, ông… trở xuống là y theo so sánh, kết sai lầm, y theo so sánh, kết sai lầm.

Năm đại này là thường, vật thể thế gian chẳng phải thường. Ông nói năm đại có tự tánh của nó, làm cho tất cả pháp đều có tự tánh, thì không có việc đó.

Kế là phá tác dụng nhất định của người thứ tư, chứng tánh. Trước là nêu sai lầm trực tiếp.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. Từ nhân mà được danh; từ nhân được nghĩa, lược giải thích, để chỉ rõ sai lầm.

“Thế nào?…Trở xuống là giải thích rộng.

“Cho nên… trở xuống là kết. Kế là phá người thứ năm: “Ông nói, “Như tánh rùa lội xuống nước v.v…, là nêu để nói chung sai lầm.

“Vì sao?… Trở xuống là phá để chỉ rõ sai lầm.

Kế là phá người thứ ba: “Thân thiện, bất thiện được giải thoát, chẳng phải là nhân tố. Ông nói: “Tự tánh không cần dạy bảo, tập tành”, nghĩa này không đúng, nói lên hoàn toàn sai.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích, trong giải thích có ba câu:

  1. Tức sự để chứng nghiệm. Nay, nhận thấy có giáo pháp là duyên, giáo pháp thêm lớn, cho nên phải biết rằng, giải thoát chẳng phải là tánh.
  2. Vì ngoại đạo giết mổ dê, cúng tế mà cầu thân thanh tịnh là nói giải thoát chẳng phải là tánh.
  3. Dùng ba ngữ để chứng minh giải thoát chẳng phải không. Trước là nêu; kế là trình bày; sau là y theo vặn hỏi, quở trách:

“Nếu tự tánh của giải thoát không từ tạo tác mà sinh, thì vì sao trong thế gian có ba ngữ này chưa làm, đang làm và làm xong?

Kế là phá người thứ mười: lấy sừng thỏ trống rỗng chẳng từ nhân duyên, so sánh pháp có tánh. “Nếu nói các pháp có tự tánh”, nêu tánh mà người kia đã lập. Phải biết rằng, các pháp đều có tánh nhất định, cho dù có xét định.

Sau đây là đối phá:

“Nếu có tánh nhất định, thì một thực vật mía ngọt vì sao tạo ra nước đường, đường phèn v.v… ?” Là một phá.

“Nếu có tánh nhất định, thì vì sao bậc Thánh uống mía ngọt v.v…?

Là hai phá.

“Ông nói có tánh, sao lại nói dụ là ba phá.

Kế là phá người thứ nhất, trước chẳng phải lời hỏi vặn, sau Phật giải thích thỏa đáng.

“Trong chẳng phải vặn hỏi trước, ông nói: “Thân ở trước, phiền não ở trước”, nghĩa này không đúng, nêu lên để tổng kết sai lầm.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích:

“Nếu ta là nói thân ở trước, thì ông hãy vặn hỏi rằng: “Ông cũng đồng với ta, nêu ngược lại với thuyết đã nói và quở trách hỏi kia. Thân không ở trước, vì nhân duyên gì mà lập ra câu hỏi này, nêu thuận với thuyết mà mình đã nói chẳng phải là lời câu hỏi kia. Nghĩa này thế nào?- “Nếu ta từng nói thân sinh ở trước thì nay, Nạp y ông có thể được vặn hỏi rằng: “Cù-đàm! Ông cũng đồng với thân tôi, trước đã không có nhân, thì lẽ ra là tự tánh?” “Ta nói thân này không sinh ở trước, vì sao mà đặt ra câu hỏi này rằng, thân không có nhân, cho là tự tánh?”.

Sau đây, Phật sẽ giải thích thỏa đáng, qua đó có hai:

  1. Thân đối với vô minh, đồng thời nương tựa vào nhau, như thân trong mộng dựa vào tâm ngủ nghỉ.
  2. Thân đối với bốn trụ trước sau nương tựa lẫn nhau. Trước là nương tựa vô minh, khởi bốn trụ địa phiền não. Dựa vào bốn trụ địa phiền não này, mà nhóm họp, khởi quả báo của thân”.

Hỏi: “Vô minh nương tựa vào đâu mà sinh?” “Dựa vào chân thức sinh”.

“Chân thức dựa vào đâu?”.

“Pháp chân thường trụ, cũng như hư không, không có đối tượng nương tựa.”

Trong văn, trước nói đồng thời nương tựa nhau. Thân của tất cả chúng sinh và phiền não đều không có trước, sau mà là có cùng lúc, nghĩa là có cùng thời với vô minh địa”.

Hỏi: “Trước đã nói nương tựa vô minh địa, khởi bốn trụ, dựa vào tứ trụ địa, mới bắt đầu có thân, như vậy làm sao một lúc được?”.

Giải thích: “Vô minh từ đầu đến cuối thường có. Lúc thân khởi, tất nhiên phải dựa vào vô minh, nên nói nhất thời. Như thân trong chiêm bao phải dựa vào tâm ngủ nghỉ. Dù rằng trong cùng một thời gian có nhân phiền não có thân, nhưng sau cùng, không có nhân thân, mà vẫn có phân ra gốc, ngọn phiền não.

“Ý ông, nếu… trở xuống là ngăn ngừa câu hỏi khác. Trước là nêu lên lời hỏi, chỉ ngay là sai lầm, không đúng!

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. So sánh để nói rõ:

“Như tim đèn và ánh sáng, dù rằng một thời gian. Nhưng chủ yếu là ánh sáng dựa vào tim đèn, chứ chẳng phải tim đèn dựa vào ánh sáng. Thân và phiền não kia cũng giống như vậy.

Sau đây là nói về thân, phiền não kia trước, sau nương tựa nhau. Theo ý ông, nếu cho rằng “Thân không có ở trước, vì nhân duyên, nên biết không có nhân” nghĩa này không đúng!”

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. Trong giải thích có ba câu:

1- Ngăn ngừa thuyết không có nhân. Nếu vì thân trước không có nhân duyên, nên gọi là “Không có”, thì ông không nên nói chính thức ngăn ngừa thuyết nói “Không”. Tất cả có nhân là nêu lý để chỉ rõ sai lầm.

2- Giáo nói có nhân, nếu nói không thấy nhân duyên ở trước của thân, nên không nói, thì hiện nay đang thấy bình v.v… đều từ nhân duyên sinh, vì sao không nói? Chánh giáo nói nhân, “như bình… trở xuống là nêu thô để chỉ rõ tế, thành ra phải nói nhân.

3- “Nếu thấy… trở xuống là tổng kết các pháp đều từ duyên, không có tánh. Nhân của bình đã nhìn thấy, nhân của thân không nhìn thấy. Tất cả đều từ nhân, không có tự tánh.

Dưới đây là phá tự tánh của năm đại trong câu thứ hai. “Vì sao phải phá lại?”

“Vì, trước dù đã phá năm đại kia để so sánh với pháp, nhưng vẫn chưa phá thể của đại, nên phải phá lại, trong đó có ba:

1/ Y theo năm đại để phá tự tánh của pháp: “Nếu nói “tất cả đều có tự tánh, không có nhân duyên”, là nêu đối tượng lập của người kia, “vì sao ông nói đối với năm đại?” Trách thuyết nói có nhân. Tánh của năm đại này tức là nhân duyên, nói về nhân để phá tánh”.

2/ Quở trách dùng năm đại để so sánh với tự tánh của pháp: “Nhân duyên của năm đại dù như thế, nhưng không nên nói pháp đồng với năm đại, ngay nơi tướng chính thức quở. Ngoại đạo nói nhân duyên tự tánh năm đại đều “Không”. Nay, Phật quyền cho, nên nói “Nhân duyên năm đại dù như thế”, nhưng đều không có chi cả. Cũng không nên nói “Tất cả các pháp đều đồng với nhân duyên năm đại, đều là “Không”. “Như người đời… trở xuống là nêu lên sự việc, so sánh quở trách: “Ông đem năm đại so sánh với tất cả pháp đều có tự tánh, cũng tương tự với thuyết người đời nói: “Người xuất gia giữ giới tinh tấn; Chiên-đà-la v.v… lẽ ra cũng giữ giới tinh tấn!?”

3/ Chính thức phá năm đại: “Ông nói năm đại có tánh bền chắc nhất định”, nói theo đại đầu, nếu đầy đủ thì nên nói: “Có các tánh-chất cứng chắc, ẩm ướt; ấm áp, lay động v.v… Sau đây, là nói riêng để phá:

Trước, phá địa đại. Tô lạp, Hồ giao, đối với pháp của ông, gọi là địa, nêu cái mà ông đã lập, địa này chẳng nhất định hoặc đồng với nước v.v…, để chuyển biến đả phá. Kế là phá hỏa đại. Bạch-lạp, chì v.v… đối với trong pháp của ông, gọi là hỏa, nêu lên đối tượng mà ông đã lập. Sau, phá rất dễ hiểu. Dưới đây, sẽ phá gió, nước. Tánh nuớc gọi là tuôn chảy, giải thích tướng của nước là nhất định. Nếu khi nước đông lại thì không gọi là đất, nên gọi là nước, nghĩa là nhất định đối tượng người kia đã lập. Vì nhân duyên gì khi sóng động, chẳng gọi là gió? Nêu gió, để phá quyết định. Nếu động, không gọi là gió, nêu gió, là vặn hỏi nhất định. Lúc nước đông đặc lại (nước đá) lẽ ra cũng không gọi là nước, nêu nước, đả phá quyết định. Nghĩa này thế nào? Tánh nước gọi là chảy đi, hợp với lạnh rét, tức hóa thành đông kết. Tánh gió tung bay, lay động, hòa hợp với nước thì trở thành làn sóng, hai nghĩa giống nhau. Nay, y theo vặn hỏi để quở trách:

Tánh nước gọi là chảy đi, nếu khi nước đông lại không từ “Duyên” lạnh giá, thì nói là đất, vẫn y theo tánh gốc, nói là nước, nghĩa là khi gió hợp với nước thành sóng, nên từ tánh gốc, nói là gió.

“Vì nhân duyên gì khi sóng dao động không gọi là gió, mà gọi là nước?” Nếu khi sóng dao động không y theo tánh gốc mà nói là gió thì chính là từ duyên nước mà nói là nước, nghĩa là lúc nước đông lại lẽ ra cũng không y theo tánh gốc, nói là nước, lẽ ra phải từ duyên lạnh, gọi là đất.

Sau đây, so sánh hai thứ này để chỉ rõ các pháp. Nếu nước từ duyên có thể thay đổi thành đất. Gió từ nhân duyên có thể làm thành nước: Các pháp đều như vậy, đâu được nói rằng: “Tất cả các pháp không từ nhân duyên”.

Sau đây là phá người thứ sáu ở trước, vì tánh của năm căn ít, nên có thể thấy, nghe, hay, biết. Trước là nêu sai trái trực tiếp.

“Vì sao?…Trở xuống là phá để chỉ rõ sai trái. Tự tánh không thay đổi là lập ra đạo lý của người kia. “Nếu nói… trở xuống là phá.

“Cho nên… trở xuống là kết.

Người thứ bảy ông nói: “Chẳng phải nhân năm trần sinh ra tham giải thoát”, nghĩa này không đúng! Là nêu để tổng kết sai lầm.

“Vì sao?…Trở xuống là giải thích. Ý giải thích thế nào? Bày tỏ năm trần kia, dù không tạo ra “Nhân” sinh tham giải thoát, nhưng chẳng phải không tạo ra duyên.

Trong văn, đầu tiên là nói: “Sinh tham giải thoát dù chẳng phải do trần, chọn “Duyên” mà khác “Nhân”. Giác quán ác v.v…, là chọn “Nhân” khác với “Duyên”. Do sinh mà bên ngoài tăng, giải thích song song hai công năng.

“Cho nên… trở xuống là kết quở lời hỏi vặn. Kế là phá người thứ tám, y báo, chánh báo không bình đẳng, chứng minh tự tánh của pháp. Trước là nêu trực tiếp sai lầm.

“Vì sao?… trở xuống là giải thích để chỉ rõ sai lầm, trong đó, trước là giải thích; kế là phá, sau là kết. Trong giải thích, chúng sinh từ nghiệp có báo, đối với câu hỏi là giải thích chung.

“Có ba… trở xuống là phân biệt nêu trước; kế là nêu, sau y theo trình bày, giải thích: Các căn tham giàu có là nghiệp, vì mỗi căn đều khác, nên người căn đủ, không cần có của; kẻ dồi dào của báu, không cần có đủ căn phá kết rất dễ hiểu.

Kế là phá thứ chín, trẻ thơ kêu la, mừng rỡ, nói lên tự tánh của pháp, trước nêu trực tiếp sai lầm.

“Vì sao?… Trở xuống là phá.

“Cho nên… trở xuống là kết. Đây là đoạn hai, đã nói xong.

Dưới đây là đoạn ba, thỉnh nghĩa đúng của Phật, Như lai giải thích. Văn cũng có ba:

  1. Hỏi nghĩa của Phật, Như lai giải thích, có ba lần hỏi đáp, văn rõ ràng rất dễ hiểu.
  2. Người kia nói lên sự hiểu biết của mình, Như lai thử nghiệm ngược lại.
  3. Người kia tỏ bày điều mình hiểu biết, Như lai khen ngợi.

Trong đoạn bốn, người kia xin được xuất gia, Phật gọi Thiện lai!

Liền được đạo quả!

Trong người thứ chín, văn có ba phần:

  1. Nêu lên người hỏi.
  2. Hỏi nghĩa của Phật, Như lai nói cho nghe.
  3. Nghe pháp, phát tâm.

Trong đoạn hai, văn có bốn phần:

  1. Hỏi đối tượng mà trong tâm Như lai đã nghĩ đến? Phật vì giải thích, trình bày.
  2. Người kia nghe Phật nói, ngạc nhiên hỏi, Như lai giải thích.
  3. Hỏi: “Tám thánh có thể làm cho chúng sinh được tận diệt hay không?” Như lai không đáp.
  4. Ý mặc nhiên, Trần-như giải thích.

Nếu có người hỏi: “Thế giới là hữu biên, hay vô biên?” Như lai không đáp. So sánh, nói lên ý yên lặng.

“Tám thánh là chỉ thẳng Niết-bàn là thường… trở xuống là sẽ hỏi, Phật chính thức giải thích:

“Nếu tu thì sẽ được; không tu, sẽ không đươc, vì Như lai này không được đáp nhất định, trong đó, đầu tiên là pháp; kế là dùng dụ để chỉ bày:

Thành dụ cho Niết-bàn, Niết-bàn dứt hết lậu, gọi là không có lỗ hở. Cổng dụ cho tám chánh, người giữ cổng dụ cho Phật. Phật đủ hiểu biết sáng suốt, gọi là người thông minh có trí. Khéo thấu suốt căn cơ chúng sinh, gọi là khéo phân biệt. Có căn cơ, giáo nhập, gọi là phóng; không có căn cơ, chưa giáo-hóa, nói là ngăn ngừa. Chúng sinh đã biết, vì tới, lui khó nhất định, nên nói “Chẳng biết ra vào, nhiều ít. Biết chắc chắn người chứng nhập, đây là do tám chánh, nên nói biết nhập đều từ cổng này. Sau, hợp rất dễ hiểu.

Đoạn ba, trong nghe pháp phát tâm, Hoằng Quảng đầu tiên, nghe pháp, khen ngợi, phát tâm Bồ-đề, tự mình muốn làm người giữ cổng.

Kế là, Trần-như khen. Sau là Phật quở.

Trong người thứ mười, văn chia ra làm năm:

  1. Phật hỏi Trần-như: “A-nan hiện ở đâu?” Trần-như đáp đủ.
  2. “Văn-thù hỏi Phật về ý đoái nghĩ sai khiến?” Như lai giải thích.
  3. Phật sai Văn-thù đến cứu A-nan.
  4. A-nan đến, Phật bảo sai Tu-bạt.
  5. Tu-bạt đến, Phật phá, chỉ bày rõ pháp.

Y theo đoạn đầu, trước là Như lai hỏi:

“Vì sao hỏi?” Vì có ba ý:

  1. Vì Phật muốn gửi gắm chánh pháp và dặn dò sao cho được truyền bá.
  2. Muồn gọi là sai khiến Tu-bạt.
  3. Muốn nhân lời hỏi, biết ma đang mê hoặc, gây náo loạn, Phật nói chú hàng phục để suốt qua chánh pháp.

Trong phần Phật đáp Trần-như, cho biết rõ hiện A-nan đang ở một nơi cách khu rừng Ta-la khoảng mười hai do-tuần.

“Vì sáu muôn… trở xuống là nói lý do không đến, trong đó, đầu tiên là nói chung.

“Các ma này… trở xuống là nói riêng, để chỉ bày rõ.

Trong phần nói riêng, đầu tiên, nói về việc ma mê hoặc A-nan. Vì sao như thế? Vì A-nan là người truyền thừa Pháp tạng của Phật, e rằng, Phật sẽ phó pháp để truyền lại cho đời mạt, cho nên ma gây náo loạn, qua đó, đầu tiên ma hóa thân thành Phật, kế là dùng miệng nói pháp; sau thân hiện thần thông.

Sau đây, là nói A-nan bị ma mê hoặc, gây rối loạn, nên không đến họp.

“Vì sao A-nan hiện bị ma làm nhiễu loạn?” Vì muốn cho Như lai nói chú hàng phục ma và dùng pháp thần thông. A-nan nghĩ: “Thần biến của Như lai, xưa nay chưa từng thấy v.v… ”.

“Bị ma loạn thân”, về việc này, chư Phật đã nói, đều khác nhau v.v…, bị ma dùng miệng mê hoặc. Sau nói về lý do A-nan chịu khổ không ai cứu chữa, không nhất định.

Trong đoạn hai, trước là Bồ-tát Văn-thù hỏi:

“Vô lượng Bồ-tát hộ trì pháp, đâu cần phải chiếu cố hỏi về sự có mặt của A-nan?” Phật đáp có ba:

  1. Nói vì đức độ của A-nan vượt hơn các bậc Thánh, nên Phật hỏi riêng.
  2. Nói về lý do không giao-phó cho Bồ-tát.
  3. Nói lý do giao phó riêng cho A-nan.

Trong phần trước, lại có ba:

  1. Nói trước khi A-nan chưa hầu Phật, đã đủ ba nguyện.
  2. Nói từ lúc A-nan hầu Phật đến nay, đã có tám không thể suy nghĩ.
  3. Nói vì A-nan có tám đức trì kinh, nên Phật mới hỏi.Trong phần đầu có ba:
  1. Phật tự nói lên về người xin hầu cận trong tăng xưa kia. Năm trăm La-hán đều xin hầu Phật, Như lai không nhận.
  2. Mục-liên quán tâm Phật ở A-nan, vì đi đến chung nên đã khiến cho A-nan không theo.
  3. Mục-liên dùng tâm niệm Phật khuyên A-nan hầu Phật ở cõi kia, trong đó có bốn cặp:
  1. Mục-liên báo cáo chung, nay ông chưa biết A-nan thỉnh Phật nói.
  2. Mục-liên vì nói người kia đã cầu ba nguyện.
  3. Mục-liên thỉnh Như lai nhận cho.
  4. Mục-liên thông báo ngược lại, hầu gần Phật ở phương kia. Nói lên lời này, là vì nói A-nan với trí vượt qua các thánh. Đoạn đầu này đã nói xong.

Đoạn hai, rất dễ hiểu. Đoạn ba, trong tám đức thọ trì kinh, đầu tiên là nêu; kế là trình bày; sau là nói A-nan đồng hầu cận Đức Phật khác. Dưới đây là tổng kết. Đoạn đầu này đã nói xong. Đoạn hai, Phật không giao phó cho Bồ-tát, rất dễ hiểu. Đoạn ba trong phần nói về Phật phú chúc cho A-nan, đầu tiên là nói A-nan tùy nghe, nhớ chắc một cách đầy đủ, nên Phật đã chiếu cố hỏi han, muốn cho A-nan thọ trì kinh. Kế là nói những điều ngài A-nan, chưa nghe, truyền bá rộng khắp, pháp chứng sâu, A-nan chưa nghe. Bồ-tát có thể lưu thông. Trí, đức của tất cả Bồ-tát rộng lớn, ở đó gọi là Hoằng Quảng. Cũng có thể gọi là Phạm chí Hoằng Quảng trước là Hoằng Quảng, vì Đại Bồ-tát kia có khả năng truyền bá. Sau là nói A-nan, người đã nghe tự sẽ truyền bá.

Dưới đây là đoạn ba, Phật sai Văn-thù đến cầu A-nan, trong đó có năm câu:

  1. Phật bảo cho Văn-thù biết chỗ A-nan đang ở.
  2. Phật bảo Văn-thù hãy đến đó để cứu A-nan.
  3. Bồ-tát Văn-thù đến cứu.
  4. Ma phóng thích A-nan.
  5. Được phóng thích, A-nan cùng theo Bồ-tát Văn-thù đến ra mắt Phật.

Trong đoạn hai, giải thích kỹ càng có bảy câu:

  1. Phật dạy nghi thức đọc chú. Ông hãy đến đó, lớn tiếng nói rằng: “Các Ma hãy nghe cho kỹ! Nay, Như lai nói đại Đà-la-ni.
  2. Trời, rồng… trở xuống là nêu nhiều người cùng cung kính, nói lên chú thù thắng.
  3. “Mười hằng sa… trở xuống là nêu nhiều Phật nói chung, nói rõ chú rất quan trọng, thù thắng.
  4. “Năng-lực chuyển biến… trở xuống là công năng của chú.
  5. “Nếu gánh chịu… trở xuống là nói về nghi thưc thực hành chú.
  6. “Phải biết rằng… trở xuống là nói thực hành chú có ích.
  7. Tuyên nói lời chú.

Các câu khác đều rất dễ hiểu.

Sau đây là đoạn bốn là nói A-nan đến, Phật sai gọi là Tu-bạt, trong đó có ba câu:

  1. Phật bảo A-nan đến gọi.
  2. A-nan đến.
  3. Tu-bạt đến.

Trong phần đầu, trước nêu lên người gọi, kế là Phật dạy lời gọi.

Sau là nói A-nan đến gọi thì sẽ được.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. Hai câu sau rất dễ hiểu.

Dưới đây là đoạn năm, nói Tu-bạt đến, Phật phá, chỉ bày rõ pháp, qua đó có ba:

  1. Chấp tà hỏi Phật, Như lai đối phá.
  2. “Làm sao có thể dứt tất cả “Hữu… trở xuống là hỏi nghĩa đúng của Phật, Như lai giảng nói.
  3. Nhân Phật vì nói, nhiều người được lợi ích.Trong phần đầu có hai:
  1. Tu-bạt muốn hỏi, Như lai cho phép.
  2. Có Sa-môn… trở xuống là Tu-bạt chính thức hỏi, Như lai đối phá, trong đó có hai:
  1. Nêu thuyết khác nói, thưa hỏi Như lai, Như lai đối phá.
  2. Đức Thế Tôn trước đó đã điều phục tâm… trở xuống là nêu điều mình đã được, thưa hỏi Như lai, Như lai đối phá. Trước đức phá khổ hạnh của người kia là nhân; sau tức phá Phi tưởng kia là quả.

Trong phần trước, Tu-bạt đã nêu thuyết của người khác nói để thưa hỏi Như lai, vì thế chẳng phải là thuyết mà Tu-bạt chấp, cho nên nói: “Có Sa-môn… nói rằng: “Chỗ sinh, khổ, vui đều tùy ở bản nghiệp chịu khổ sẽ hư hoại”. Nghĩa này thế nào?” Phật phá có hai:

  1. Y theo người khác tự nhận thấy để phá.
  2. “Tôi thật sự không biết, theo thầy… trở xuống là nương vào người khác kia, tìm thầy để phá.

Trong phần trước có hai:

  1. Phá tà, về chánh.
  2. “Trong pháp Phật của ta có nghiệp quá khứ… trở xuống là giải thích chánh khác với tà.

Trong phần sau cũng có hai: đúng thời gian, sẽ giải thích.

Y theo phá tà về chánh ở đầu, văn có bốn lần:

1.Đối với câu hỏi ở trước: “Nếu Sa-môn v.v… có nói ra thuyết này, ta vì thương xót họ, sẽ đến đó hỏi: “Nhân giả có thật sự nói như thế hay không?”

2. Nếu người kia thấy đáp thật sự có nói thuyết này, thì ta lại gạn xét cùng cực: “Nhân giả có thấy hay không?” Trước là nêu lời đáp:

“Tôi đã nói như thế”, là lời đáp chung.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. Trong giải thích có bốn lần:

3. “Thấy chúng sinh làm ác mà có nhiều của cải, thân được tự tại; còn người tu thiện thì lại nghèo nàn, chẳng được tự tại?”

4. Thấy có người đã bỏ ra nhiều việc làm, công sức để tìm kiếm của cải, nhưng chẳng được; trong khi có người không mong cầu mà tự nhiên được?”

Thấy có người chẳng giết hại mà lại chỉ có tuổi thọ trung bình, hoặc chết yểu; còn kẻ thích giết chóc lại được sống lâu?

“Thấy những người tu hạnh thanh tịnh, có kẻ được giải thoát, có người lại không được?”

“Cho nên… trở xuống là kết.

Vì các nghĩa ở trước, nên chúng tôi nói: “Mọi nỗi khổ, vui đều do xưa kia, không do hiện tại”.

Sau đây, là nói về lời răn bảo cùng cực, gần có năm câu răn cùng cực; với lời văn rõ ràng rất dễ hiểu. Đây là lượt thứ hai đã nói xong.

Lượt thứ ba, nếu người kia thấy đáp: “Thật sự tôi không biết”, ta lại sẽ dẫn thí dụ mà quở trách họ. Tướng trách cứ ra sao? “Như người bị trúng mũi tên, thầy thuốc đến nhổ tên cho họ. Dù đã trải qua khá nhiều năm, nhưng người ấy vẫn nhớ mãi tình huống đó một cách rõ ràng, cuối cùng cũng không quên”. Nếu bảo phải khổ hanh, thật ra có thể vì ông mà phá hoại nghiệp đã qua, như thầy thuốc nhổ mũi tên, mà ông phải thường nhớ mãi, không biết vì sao?

“Ông đã không biết thì sao lại nói khổ hạnh ở hiện tại có thể phá hoại nghiệp quá khứ?

Lần thứ tư, nếu người kia dẫn thuyết của ta nói để chứng tỏ biết nghiệp quá khứ thì ra là nói với họ rằng, đây là biết bằng cách so sánh, không gọi là biết chân thật.

Trong văn, trước nêu thuyết mà người kia đã dẫn: “Cù-đàm! Hiện nay, ông cũng có nghiệp quá khứ, sao lại trách cứ nghiệp quá khứ của tôi?” Là nêu chung thuyết Phật đã nói để chứng minh có nghiệp quá khứ.

“Trong kinh, Cù-đàm cũng đã nói… trở xuống là nêu riêng lời Phật nói để chứng minh có nghiệp quá khứ. Hơn nữa, nêu lời Phật nói ở đây là vì muốn chứng tỏ rằng mình đã thấy quả, biết nhân, chẳng phải không biết.

Sau đây, Phật sẽ quở trách họ: “Biết như thế, gọi là do so sánh biết, không được gọi là biết chân thật. Trong pháp Phật của ta, từ nhân biết quả, từ quả biết nhân, chứng tỏ là tướng so sánh biết. Đã không có hiểu biết chân thật thì đâu được nói chắc chắn là do nghiệp quá khứ?” Trên đây là bốn lần hợp thành lượt thứ nhất, là phá tà về chánh.

Dưới đây là lượt thứ hai, phân biệt chánh khác với tà. Ba lần giải thích “Khác”.

Trong pháp Phật của ta có nghiệp quá khứ; có nghiệp hiện tại, còn pháp của ông thì chẳng như thế, chỉ có quá khứ, không có hiện tại, là một cái “Khác”. Pháp của ông không từ phương tiện dứt nghiệp, trong khi pháp ta thì chẳng phải như vậy, mà là phương tiện đoạn, là hai cái “Khác”. Nghiệp của ông đã hết, thì sẽ được hết khổ, còn pháp của ta không thế, mà phiền não đã hết rồi, thì nghiệp khổ hết, là ba thứ “Khác”. Cho nên ta mới trách ông, là tổng kết quở.

Trong tìm tòi thầy để phá, văn cũng có hai phần:

  1. Phá tà về chánh.
  2. “Nhân giả nói chắc chắn có nghiệp quá khứ… trở xuống là giải thích chánh khác với tà.

Trong phần trước có bốn:

  1. Nếu người đối diện nói: “Tôi thật không biết thầy nói lời ấy”, ta sẽ hỏi họ: “Thầy ông là ai?”
  2. Nếu người kia đáp: “Là Phú-lan-na!”, thì ta lại trách ông xưa kia ông không hết lòng thưa hỏi Đại sư có thật sự biết nghiệp quá khứ không?
  3. Nếu Đại sư kia nói: “Ta thật sự không biết!”, thì ta sẽ dạy quở:

“Vậy sao ông lại chấp nhận là lời của thầy?”

4. Nếu thầy kia nói: “Ta thật sự biết!”, thì Như lai sẽ dạy phá. Lời lẽ phá có bốn:

1/ Y theo hiện duyên để dạy bảo vặn hỏi, đả phá. Trước dạy cách xét hỏi về nhân duyên của khổ phẩm hạ có chịu nỗi khổ phẩm thượng hay không? Cho đến duyên của phẩm thượng có chịu đựng nỗi khổ của phẩm hạ trung hay không? Tại sao? Vì duyên của phẩm thượng, trung, hạ kia, như một hộc lửa, dùng làm phẩm hạ; hai hộc là phẩm trung; ba hộc là phẩm thượng, tất cả như thế.

“Nếu người kia nói: “Không”, thì ta sẽ bảo vặn hỏi, phá. Nếu dựa vào duyên của phẩm hạ chỉ sinh ra nỗi khổ của phẩm hạ, cho đến duyên phẩm thượng chỉ sinh, nỗi khổ của phẩm thượng, thì tức là nỗi khổ này đã dựa vào duyên hiện tại mà sinh, sao thầy nói quả báo khổ, vui chỉ nghiệp quá khứ, không nhờ vào duyên hiện tại?

2/ Y theo nhân quá khứ để sai bảo vặn hỏi, phá.Trước dạy vặn hỏi:

“Nỗi khổ hiện tại này ở quá khứ có hay không?” Sau đây, sẽ tiến tới đặt câu hỏi:

“Nếu quá khứ “Có”, thì nghiệp quá khứ đã tiếp nhận rồi hết, làm sao lại cảm nhận thân ngày nay?” Nếu “Quá khứ “Không có”, chỉ “Hiện tại” có, thì sao ông lại nói rằng, nỗi khổ, vui của chúng sinh đều do nghiệp quá khứ?

3/ Y theo đối trị sau, dạy bảo vặn hỏi, phá. Trước dạy vặn hỏi:

“Nếu khổ hạnh hiện tại có thể làm hư hoại nghiệp quá khứ, thì khổ hạnh trong hiện tại lại lấy gì để phá?” Sau đây, sẽ chính thức đặt câu hỏi:

“Nếu như người kia không phá nỗi khổ này, tức “Thường” không thể dứt diệt, thì sao lại nói được khổ, giải thoát?” Nếu nói: “Lại có khổ hạnh trước đã hết, làm sao có nỗi khổ của thời gian sau, làm hư hoại khổ hạnh ở trước được?”.

4/ Y theo chuyển nghiệp, Phật dạy bảo vặn hỏi là phá. Trước dạy vặn hỏi:

“Khổ hạnh như thế, có thể làm cho nghiệp vui. Nhận lấy quả khổ vặn không? Sau đây, sẽ y theo vặn hỏi, để quở trách:

Nói đủ, nên có hai:

  1. Y theo “Không thể” mà vì vặn hỏi, quở trách: Nếu nói “không thể” thì vì sao ông lại chịu khổ hạnh này?
  2. Y theo “Có thể” để đặt câu hỏi: “Nếu nói: “Người kia có thể” khổ hạnh như thế, “Có thể” làm cho nghiệp khổ được tiếp nhận quả vui. Lúc sẽ khổ hạnh sao không tiếp nhận niềm vui mà lại chịu đau khổ?” Y theo “Có thể” để đặt câu hỏi trong văn, lược bỏ không nói.

Y theo người sau, trong phần giải thích chánh khác với tà, đầu tiên là y theo quả nghiệp để giải thích chánh khác với tà:

“Nếu nhân giả do đoạn nghiệp… trở xuống là y theo đối trị đoạn của người kia, để giải thích chánh khác với tà.

Trong phần trước có bốn:

  1. Đầu tiên là nói: “Nhân giả nói chắc chắn có nghiệp quá khứ”. Nhân duyên hiện tại, nói có nhân quá khứ và có duyên hiện tại.
  2. “Cho nên… trở xuống là nói nghiêng về nhân quá khứ, nhân phiền não sinh nghiệp; do nghiệp mà chịu quả báo.
  3. “Nhân giả phải biết, tất cả chúng sinh… trở xuống là nói lại chúng sinh, có nhân quá khứ và duyên hiện tại, trước là nêu; sau giải thích.
  4. “Hai, nghĩa là nếu nói chúng sinh thọ… trở xuống là nói nghiêng về duyên hiện tại. Nếu nói “Chúng sinh tiếp nhận nỗi khổ, niềm vui chắc chắn do nghiệp quá khứ”, nghĩa này không đúng! Vì chẳng phải tà làm sáng tỏ chánh.

“Vì sao?… Trở xuống là nói chánh khác với tà, trong đó có bốn câu:

  1. Y theo sự vui để nói do hiện duyên.
  2. “Như người giết… trở xuống là y theo sự khổ của người kia để nói do duyên hiện tại.
  3. “Nhân hiện tại của tất cả chúng sinh… trở xuống là y theo cả hai khổ, vui là nói do hiện duyên.
  4. “Cho nên… trở xuống là kết.

Sau đây, sẽ y theo đối trị đoạn, để nói chánh khác với tà. Có bốn câu:

1/ Nương vào vào đoạn nghiệp, quở tà, hiển bày chánh. “Nếu nhân giả do dứt trừ nghiệp, được giải thoát thì tất cả bậc Thánh sẽ không được giải thoát”, nêu để bảo cho biết lỗi lầm.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích. Hành nghiệp quá khứ của chúng sinh rộng nhiều, chẳng có đầu cuối. Vì khổ hạnh thọ lãnh nghiệp vô tận, nên không có lý giải thoát.

2/ “Cho nên ta… trở xuống là nói chánh khác với tà. Nghiệp này rộng, nhiều, vì gánh chịu vô tận, nên ta nói tu đạo. đạo này có thể ngăn ngừa nghiệp không có đầu cuối, nên được giải thoát.

3/ Y theo thân khổ, để quở tà, hiển bày chánh. Nếu nhân giả chịu khổ hạnh để được đạo, thì tất cả súc sinh, lẽ ra đều được đạo.

4/ “Cho nên… trở xuống là nói chánh khác với tà. Đầu tiên là pháp thuyết: chịu khổ hạnh này, vì không được đạo, nên trước, phải điều phục tâm, không điều phục thân. Kế là dùng thí dụ để chỉ bày:

Vì nên điều phục tâm, không nên điều phục thân, do đó, trong kinh, ta nói: “Nên chặt đốn rừng, đừng chặt đốn cây. Lỗi của tâm rộng, chung với việc v.v… như rừng; lỗi của thân bị cuộc hạn riêng, giống như cây, vì nêu chung, gồm thâu riêng, nên chặt đốn rừng. Vì riêng không gồm thâu chung, nên chẳng đốn cây.

“Vì sao?… Trở xuống là giải thích: Vì từ rừng sinh ra, sự sợ hãi, nên phải đốn rừng. Vì không từ cây sinh hoảng sợ, nên không chặt cây. Giặc trộm nương náu ở rừng gọi là rừng sinh sợ hãi. Dưới rất dễ hiểu.

Trên đây Tu-bạt nêu thuyết của người khác nói, Như lai đã đối phá.

Từ sau đây là đoạn hai, nêu điều mình đã được, Như lai đối phá. Trước là Tu-bạt tự bày tỏ mình đã điều phục tâm. Như lai hỏi ngược lại: “Năng điều phục là sao?” Kế là Tu-bạt lại nói lên trạng thái điều phục của mình. Nếu giải thích riêng, thì nên từ cõi Dục, cho đến vô sở hữu, dứt riêng theo thứ lớp để cầu tĩnh lự cõi trên, chỉ vì trong văn hiện nay, theo sơ lược chung để giải thích. Trước là dứt kết cõi Dục, được định cõi Sắc. Kế là dứt kết cõi Sắc, được định Vô sắc. “Sau, y theo vô sắc… trở xuống là ba “Không” được định phi tưởng. Sau đây là Phật đả phá:

-“Thế nào là năng điều phục?” Là quở chung lời nói của người kia.

“Cái mà hiện nay ông đã được, cũng gọi là tưởng”… trở xuống là nói về đối tượng mà người kia được là tưởng chứ chẳng phải diệt”. Trước đây, ông đã quở trách thô… trở xuống là quở chấp đắm tướng tế.

“Thầy của ông, Uất-đầu-lam-phất… trở xuống là nêu thầy, so sánh quở. Việc này như kinh đã nói.

Trên đây đả phá tà. Dưới đây là đoạn hai, hỏi nghĩa thỏa đáng của Phật. Như lai vì giải thích, có ba lần hỏi đáp:

  1. Đầu tiên là hỏi: “Năng dứt các hữu là sao?”Phật đáp: “Nếu quán thật tướng là năng đoạn.
  2. Hỏi: “Thế nào là thật tướng?”

Như lai đáp sơ lược: “Tướng của vô tướng gọi là thật tướng”.

3. Hỏi: “Tướng của vô tướng là thế nào?”

Sau đây là Phật giải thích. Đầu tiên là nói giải thích, “Đó gọi là thật tướng, gọi là pháp giới… trở xuống là kết khen chỉ rõ thù thắng. Trong phần trước, đầu tiên là y theo trải qua các pháp, nói về tướng của vô tướng, đối tượng diệt… trở xuống là giải thích vô tướng kia là nghĩa thật tướng, tướng như thế tùy chỗ đã diệt, gọi là tướng chân thật, đối với ở trước, giải thích sơ lược. Tất cả các pháp đều là luống dối, tùy chỗ diệt của pháp đó, gọi là chân thật, nghĩa là chỉ rõ lại.”

Hỏi: “Kinh nói: “Tất cả các pháp không khởi, không diệt”. Nay, sao lại nói tướng diệt gọi là thật?”

Giải thích: “Về lý, thể thật sự không có khởi, diệt, không có pháp khởi, diệt, do duyên khởi hình thành tướng, tướng khởi che lấp chân, gọi là không thật, vì dứt bặt tướng, xứng với gốc, nên được gọi là thật. Trạng thái ấy giống như gì? Như lạnh là tánh của nước, tùy lửa mà đổi thành nóng. Lửa này tắt rồi, nước sẽ nguội lạnh như trước, vì thích hợp với tánh chất của nước xưa, nên gọi là thật.

Sau, trong phần kết khen, trước là kết, sau là khen. Trong kết có năm tên gọi:

  1. Thật tướng, về nghĩa như cách giải thích trước.
  2. Pháp giới. Giới gọi là tánh, cũng gọi là giới riêng. Pháp như cát sông Hằng trong Như lai tạng, vì riêng, nên gọi là pháp giới. Thật tướng này là nghĩa của một môn trong pháp giới, nên gọi là pháp giới.
  3. Trí rốt ráo, lìa tướng cùng cực, gọi là rốt ráo (cuối cùng). Thể- tánh của trí này, gọi là trí. Lại hành xử của trí cũng gọi là trí, nên luận thuyết, ngôn thuyết, xứ của trí trí, đồng gọi là Bát-nhã.
  4. Đệ nhất nghĩa đế. Vì lý này rất tinh vi, thù thắng, nên gọi là đệ nhất. Cho nên xứng với thật nghĩa, nên gọi là đế.
  5. “Đệ nhất nghĩa “Không”… trở xuống là khen thù thắng. Nói tướng này, nghĩa là tiêu biểu thật tướng ở trước. Nói pháp giới là nêu tướng thứ hai trước.

Trí rốt ráo là nêu tướng thứ ba ở trước. Đệ nhất nghĩa đế là nêu tướng thứ tư ở trước. Đệ nhất nghĩa “Không”; là nêu tướng thứ năm ở trước.

Vì quán phẩm hạ, nên được khinh-an v.v…, là khen, chỉ rõ chỗ thù thắng.

Dưới đây là đoạn ba, nhân thuyết Phật đã nói ở trước, mọi người đầu được lợi ích, qua đó, trước nói người khác được ích lợi. Sau là bày tỏ Tu-bạt được quả La-hán.

Trong phần trước, trước là nói về Bồ-tát được lợi ích. Kế là nói về Nhị thừa. Sau, là nói lên phàm phu. Về thứ bậc trong hàng Bồ-tát, phân biệt có chín. Từ ít đến nhiều, là giải thích lần lượt. Hoặc có Bồ-tát trải qua một đời, là đã chứng thật tướng, gọi là nhất sinh, thật tướng. Trải qua hai đời, đã chứng được pháp giới, gọi là nhị sinh pháp giới.

Năm trí ấn: Biết tất cả pháp vô thường, khổ, không vô ngã, vắng lặng là năm.

Hỏi: “Lý “Không” vô tướng không khác, vì sao được ích lợi có sự khác nhau này?”.

Giải thích: “Tướng dứt tức là đã chứng thật tánh, là một pháp giới trong thật tánh. Vì riêng, nên khiến cho người nhập được ích lợi đều khác. Lại, lợi ích có được trong một bộ, đều đã nói trong đây, chẳng phải chỉ nghe “Không”. Phần thứ tư này đã nói xong.

Trong phần năm, Như lai diệt độ, trời, người, đại chúng Xà-duy (trà-tỳ) cúng dường. Người nước ngoài không đến, vì không cùng tận, nên không có lời phó chúc vâng làm.