Chương 9

    HẠNH GIAN KHỔ 

    9.1. Nhiều năm tu hạnh đầu đà

    Thời Phật còn tại thế, tôn giả đại Ca-diếp tu khổ hạnh, mặc dù tuổi đã lớn vẫn không bỏ lối tu này. Phật thương ông tuổi già sức yếu, khuyên rằng: “Thầy liên tục tu khổ hạnh nhiều năm, nên nghỉ ngơi một chút”. Tôn giả Ca-diếp vẫn một mực tu tập khổ hạnh như vậy. Phật khen ngợi: “Thầy có thể làm gương mẫu cho tất cả chúng sanh noi theo, chính như Ta một đời tại thế, có người tu tập khổ hạnh giống như thầy, thì Phật pháp có thể trụ ở đời mãi mãi, nếu như không có người tu khổ hạnh thì Phật pháp sẽ diệt vong. Thầy quả thật là người gánh vác việc lớn của Như Lai”! Sau đó, nhân trong một buổi pháp thoại tại non Linh Thứu, Thế Tôn đưa lên một cành hoa, Ngài Ca-diếp mỉm cười, chánh pháp nhãn tạng, lấy tâm truyền tâm, trao cho đại Ca-diếp, trở thành sơ tổ Thiền tông ở Ấn Độ.

    Lời bình:

    Hạnh đầu đà còn tồn tại hay diệt vong đều quan hệ đến sự tồn tại hay diệt vong của Phật pháp, đây là lời nói từ kim khẩu của Phật. Câu nói này vẫn còn văng vẳng bên tai, vậy mà người xuất gia ngày nay, ăn thì quá nhiều, mặc thì quá đẹp, trang hoàng chỗ ở thì quá sang trọng, tứ chi mệt mỏi lười biếng, không muốn làm việc, vật chất trang sức, tiêu khiển, thưởng ngoạn giống như một người phú quý mà không biết xấu hổ. Phật pháp suy vi, thật tại khiến cho lòng người vô cùng đau xót! Sơ tổ Ca-diếp ở Ấn Độ, phương Tây, và chúng ta, người Trung Quốc, phương Đông, quốc thổ không đồng, nhưng những việc gương mẫu Ngài đã làm, lẽ nào Ngài đã biết trước: sau khi Phật pháp ở Ấn Độ suy vi, Phật pháp (mà đặc biệt là Thiền tông) thạnh hành ở Trung Quốc, đến hôm nay có những bệnh xa hoa mà không tu khổ hạnh, nên đã đặc biệt để lại phong độ này để làm lương dược đối trị cho con cháu của Ngài chăng? Chỉ xin nguyện con em Thiền môn noi theo gương mẫu tổ sư Ca-diếp đã làm, tu hành không nên lấy chỗ thời đại mạt pháp mà tự cam chịu thụt lùi.

    9.2. Trải qua đủ mọi hiểm nạn

    Triều nhà Tấn, có pháp sư Vô Khát, ở Hoàng Long Đàm. Sư nghe nói đại sư Pháp Hiển ở chùa Kinh Sư, Giang Lăng, cùng với các thầy Tuệ Cánh, Đạo Chỉnh… đến Tây Trúc thỉnh kinh, tham học, cũng phát thệ nguyện đến đó một lần. Thế là, vào đời Tống Vũ Đế, thời Nam Triều (niên hiệu Vĩnh Sơ năm thứ nhất, 420 tl), sư tập hợp các bạn đồng tu như Đàm Lãng, Tăng Mạnh,… cả thảy 25 người, xuất phát từ Trường An đi Tây Thiên, vượt qua sa mạc. Sa mạc đó, trên không có chim bay, dưới không có thú chạy, tuyệt tích không có bóng người, nhìn về phương tây, một dãi mênh mông, tuyệt không dấu vết, tất cả đều không biết nên đi về hướng nào mới đúng, chỉ biết nhìn mặt trời để xác định đông tây, xem xương cốt của người bỏ lại để xác định đã có người đi qua đây bỏ mạng, rồi quyết định lần theo dấu vết mà đi. Đến dãy Thông Lĩnh, vùng này không kể là mùa đông hay mùa hạ đều có tuyết rơi, có ác long thổi khí độc, gió thổi bụi đá bay như mưa. Lại đến dãy Đại Tuyết Sơn, dưới núi có sông lớn, nước sông chảy rất mạnh giữa hai dãy núi đông-tây, các sư nối dây thừng lại làm cầu, mười người đi qua trước, đến bên kia đốt lửa làm tín hiệu, người phía sau xem thấy khói lửa biết người đi trước đã qua tới nơi an lành mới yên tâm đi theo; nếu như rất lâu không thấy khói lửa thì biết rằng gió lớn đã thổi mất cầu giây, người đã bị rơi xuống sông rồi.

    Vượt qua dãy Tuyết Sơn rồi, vách núi cao và dốc, không có chỗ đứng chân, trên vách núi người trước có lưu lại cây xuân, vách núi có lỗ, mỗi lỗ một cây xuân tương đối tốt. Mỗi người cầm bốn cây xuân, từng bước leo từ dưới lên trên, lại nắm cây xuân phía trên nữa, cứ như vậy lần lượt nắm cây leo lên, trải qua ba ngày mới lên đến đất bằng, điểm lại các bạn cùng đi thiếu mất mười ba người.

    Tiếp tục cuộc hành trình đi về phía trước, đến trung Ấn Độ, trên đường không có gì cả, chỉ thấy đồng trống mênh mông. Hành lý mang theo bấy giờ chỉ còn lại một ít đường làm lương thực, trong 13 còn lại chết thêm 8 người nữa. Đại sư Vô Khát lâm vào hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm, trong lòng chỉ biết niệm Bồ tát Quán Thế Âm. Chưa vượt qua được đoạn đường nguy hiểm, đến Xá Vệ quốc lại gặp một bầy voi dữ, thế là tất cả mọi người đều phó mặc tính mạng cho Bồ Tát Quán Thế Âm. Bỗng nhiên xuất hiện một con sư tử, bầy voi dữ cuối cùng tự rút lui hết. Đến sông Hoàng Hà lại gặp một bầy tê giác, vẫn phó mặc tính mạng, niệm Quán Thế Âm, không bao lâu thì có một con chim Thứu rất lớn bay lại, bầy tê giác cũng sợ hãi chạy đi. Cuối cùng thỉnh được kinh Phật, tại Nam Ấn Độ, theo đường biển mang kinh sách trở về Quảng Châu.

    Lời bình:

    Đọc truyện đại sư Vô Khát đi Thiên Trúc, nhớ lại ân đức và tinh thần thỉnh kinh cầu đạo của tổ sư hơn một ngàn năm trước, không ngăn được lòng cảm động rơi nước mắt. Hiện nay, chúng ta tụng đọc một câu một chữ kinh điển đều là xương máu, mồ hôi của tiên đức cả! Nếu như đối với kinh điển mà khinh thường, tay giơ không rửa mà cầm kinh, đem kinh bỏ chỗ không thanh tịnh, hoặc cất giữ mà không đọc, đọc mà không y theo lời để tu hành, cho đến dùng kinh để cầu cơm áo, danh lợi mà thôi, những việc làm như vậy, thì thật vô cùng tội lỗi với muôn vàn lao khổ, bỏ sống thỉnh kinh của cổ đức. Thật đau lòng thay!

    9.3. Để tang khi Phật pháp bị huỷ diệt

    Triều nhà Tuỳ (581-618), tại Tương Châu, chùa Diễn Không, có sư Linh Dụ (Xem chương 2, mục 2.1). Khi thấy triều nhà Bắc Chu (557-581), vua Vũ Đế (561-597) tiêu diệt Phật giáo, sư rất bi ai, mặc lễ phục, đầu đội khăn để tang Phật pháp, giống như bị mất cha mẹ vậy. Sư đợi đến nửa đêm mới đàm luận giáo lý Phật đà, sáng ra thì đọc sách thế tục, ẩn cư để tang chờ ngày phục hưng Phật giáo.

    9.4. Châm kim vào đùi để chế tâm vọng niệm

    Triều nhà Tuỳ, ở Triệu Quận, núi Chương Hồng, có sư Trí Thuấn, người Đại Lục, Triệu Châu. Sư chuyên tu pháp môn quán niệm, mỗi khi vọng niệm khởi lên, không có cách gì ngăn chặn, sư liền chích vào đùi, chích cho đến khi chảy máu, hoặc giả sư mang cục đá lớn đi nhiễu quanh tháp, luôn luôn giữ chánh niệm, từ trước tới nay chưa có một giây phút xao lãng, buông lung chánh niệm. Trên đùi của sư, nơi chỗ bị chích, những vết vằn tróc từng mảng nhiều lần, trông giống như cẩm điểu.

    9.5. Sang Tây Trúc thỉnh kinh

    Triều nhà Đường, ở Kinh sư, chùa Đại Từ Ân, có Pháp sư Huyền Trang phát nguyện sang Tây Trúc thỉnh kinh mang về nước. Vào năm Trinh Quán thứ 3 (629), đời vua Đường Thái Tông, sư một mình sang Tây Trúc, vượt qua muôn dặm gian nan, nếm đủ mùi khổ cực, vượt qua các vùng sa mạc, qua nước Cao Xương, đến nước Kế Tân. Trong vùng này có rất nhiều hổ báo, chưa biết phải đi tiếp thế nào, chỉ biết đóng cửa niệm Quan Âm gia bị. Đến đêm hôm đó, lúc mở cửa ra, có một vị Hòa thượng đi đến, Huyền Trang lễ bái cung kính tiếp đón, lão Hòa thượng dạy sư trì tụng kinh Bát Nhã, thế là hổ báo tự nhiên trốn mất, ma quỷ không hiện hình, sư tiến thẳng về nước Phật, thỉnh được kinh trở về. Sư đã đi qua hơn 150 nước, vào năm Trinh Quán thứ 19 (945), mùa đông, sư về đến Kinh sư Trường An.

    9.6. Việc lao nhọc làm trước

    Triều nhà Đường, ở Phần Châu, chùa Quang Nham, có pháp sư hiệu Chí Siêu, người Phùng Dực, Đồng Châu. Lúc 27 tuổi quy y và xuất gia với Thiền sư Huệ Tánh, ở chùa Khai Hóa, tỉnh Tinh Châu. Sư Chí Siêu tự thanh lọc thân tâm, oai nghi đoan chính, siêng năng làm việc phục vụ đại chúng, ngày lo hai bửa cơm ăn và những việc nhặt vặt cho hơn một trăm người xuất gia. Sư phục vụ không gián đoạn, mỗi khi gặp việc khó khăn cực nhọc sư đều làm trước. Sau đó, sư đến xây chùa Quang Nham, ở Phần Châu, ngày đêm tinh tấn tiếp dẫn hậu học, dạy dỗ mọi người. Đương thời, triều đình nghiêm cấm, nếu chưa được sự đồng ý của chính phủ thì không được tự tiện thế phát độ người xuất gia, người nào vi phạm sẽ chịu cực hình, vậy mà sư Chí Siêu không sợ, vẫn tiếp tục độ người xuất gia như thường. Một thời người ta trốn đời đi tu, bốn phương tụ lại, nương tựa sư tu tập như nương tựa Thái Sơn.

    9.7. Rận rệp trên người không bỏ

    Triều nhà Đường, ở Úy Châu, chùa Ngũ Đài, có sư Pháp Vân, người Cao Dương. Sư ở tại chùa Mộc Qua, Ngũ Đài Sơn, một mình một bóng trong lò gạch. Áo quần cũ rách không thể tả, bọ chét và rận nhảy đầy, sư mặc cho chúng hút máu, sinh sản trên người. Đã từng an cư kiết hạ trên núi, đất rận, bọ chét rất nhiều, bám trên người sư cũng không nở bỏ đi, tấm chăn bị chúng bám vào giống như máu đong lại thành một tấm. Pháp Vân chỉ tự trách mình nghiệp chướng sâu dày, tình nguyện trả cho hết nghiệp, tuyệt đối không than vãn. Bố thí máu như vậy hơn bốn mươi năm.

    Lời bình:

    Không trừ rận rệp há không phải là giống như lối tu khổ hạnh của ngoại đạo sao? Không phải. Nếu như khổ hạnh là phương pháp tu tập để thành đạo thì đó quả thật là tà kiến không sai. Nhưng còn sư Vân thì khác. Sư tự trách mình và tự trả nghiệp, giống như Phật Thích Ca thuở xưa bị quả báo ăn cám ngựa, bị ám sát bằng gươm để trả nợ xưa, đâu thể nói là giống ngoại đạo được?

    9.8. 6 năm giã gạo

    Đời nhà Đường, tại Tinh Châu, chùa Nghĩa Hưng, có sư Đạo Lượng, người Loan Thành, Triệu Châu. Sư vào núi Phong Long (tức Phi Long), với 30 người bạn tu tập, mỗi ngày tụng kinh tu trì. Sư lo việc ngoài cho cộng đồng tu tập, mỗi ngày sư đi ra ngoài giã năm đấu gạo mang về, như vậy 6 năm, chưa từng mệt mỏi, gián đoạn. Sư đi chân đất ba năm, tối về nghỉ với chúng. Sau sư khai giảng Giới luật, vang danh khắp nước, thính chúng, đồ đệ khoảng 800 người. Về sau có hơn 40 người thành giảng học sĩ.

    9.9. Không làm không ăn

    Triều nhà Đường, ở Hồng Châu, có Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải, trú trên đỉnh núi cao chót vót trăm trượng nên gọi là Bách Trượng. Sư mỗi ngày đều lao tác khổ nhọc với chúng để cung cấp sự sống cho mình và cho Tăng chúng. Đại chúng thấy sư già yếu không nở tâm để sư lao động, khuyên sư nghỉ ngơi, sư nói: “Đức hạnh của tôi mỏng manh đâu dám lấy sức lao động của người khác để nuôi sống mình”. Đại chúng vẫn không muốn để cho sư làm, thế là đem cuốc của sư dấu kín. Bách Trượng vì vậy không ăn. Đại chúng vô phương ngăn cản, chỉ còn biết đem cuốc ra cho sư làm, nhân việc này mà có câu “Một ngày không làm thì một ngày không ăn”.

    Lời bình:

    Đức hạnh như Bách Trượng mà còn nói là đức hạnh mỏng manh, không dám làm nhọc người khác, huống gì chúng ta. Hoặc giả có người nói: Người đảm đương việc trụ trì thì phải chuyên lo hoằng pháp, lợi ích chúng sanh, mặc dù mỗi ngày tiêu phí hết tiền nghìn, sai khiến cả trăm người vẫn không can hệ gì. Trái lại, cực khổ đi làm những việc nhỏ nhặt, đây thật là không biết việc lớn, cố chấp tiểu tiết. Ôi! Đại sư Bách Trượng kiến tạo Tòng lâm, lập thanh quy làm mô phạm cho ngàn vạn đời, lẽ nào ngài không biết đến những việc này? Ngài làm như vậy là muốn để cho những người xuất gia đức hạnh mỏng manh mà ham thích hưởng thụ cơm áo cảm thấy hổ thẹn!

    9.10. Vạn dặm quyết nghi

    Triều nhà Đường, ở Ích Châu, có Thiền sư Đại Tuỳ Pháp Chơn.

    Sư họ Vương, người Tử Châu (Tam Thai, Tứ Xuyên). Lúc trẻ xuất gia tại chùa Huệ Nghĩa (Viện Trúc Lâm, chùa Hộ Thánh), sau khi thụ giới cụ túc sư đi du phương phía nam, tham học với các ngài: Đạo Ngô Viên Trí, Vân Nham Đàm Thạnh, Động Sơn Lương Giới, sau cùng nơi thiền hội Quy Sơn Linh Hựu sư khắc khổ tu luyện cho đến ngộ đạo trở thành truyền nhân tông Quy Ngưỡng. Trở về chùa Long Hoài núi San Khẩu, Thiên Bành (Bành huyện, Tứ Xuyên), rồi dời sang am Mộc Thiền, núi Đại Tùy trụ trì hơn 10 năm, bóng hình không ra khỏi núi mà tiếng tăm vang ngoài xa, kẻ học đạo khắp nơi tụ hội. Vua ban hiệu “Thần Chiếu Đại Sư”.

    Một hôm, có vị Tăng đến hỏi sư: “Vào kiếp hoại, thì đại thiên thế giới đều hoại, bổn tánh này hoại hay không”?

    Sư đáp: Hoại!

    Tăng hỏi: Đã như vậy, chơn như bổn tánh cũng tùy theo thế giới hoại mà tiêu mất đi chăng?

    Sư đáp : Đúng! Tùy nó tiêu mất luôn.

    Vị Tăng này hoài nghi câu nói ấy. Thế là đến khắp muôn nơi tìm thầy tham vấn, trải qua núi lớn sông sâu khắp chốn Tòng Lâm, xa đến vạn dặm.

    Lời bình:

    Người xưa vì một chút nghi ngờ khó hiểu trong tâm trí, thì không dám tự mình phô diễn, miễn cưỡng tắc tránh qua loa cho xong mọi chuyện, mà nhất định phải hỏi cho sáng tỏ, chừng nào bùng vỡ, phải thông hết mọi nghi hoặc mới thôi, đâu kể gian khổ muôn dặm xa xôi. Chỉ vì một câu nói “tuỳ tha khứ” mà vị học Tăng vượt qua ngàn núi muôn sông, tất cả chỉ vì đạo lý này đây! Người xuất gia ngày nay, bảo họ đi tìm thầy học đạo, chỉ đi vài bước thì đã nhíu mày; trái lại bảo chúng đi tìm cầu danh lợi thì dù phải đi vạn dặm cũng nhanh nhẹn vui vẻ lên đường. Còn giống như Hòa thượng ở Triệu Châu 80 tuổi vẫn còn hành cước, Thiện Tài Đồng Tử trải qua trăm thành sương khói, tham học với 53 vị thiện tri thức. Hành trì gian khổ trác tuyệt như vậy, cách đây dường như rất xa, rất xa, không còn thấy những người như vậy nữa.

    9.11. Tự tay làm việc với chúng

    Triều nhà Tống, tại Đàm Châu, Thiền sư Mộ Kiết Chơn Như, ở núi Đại Qui, người Lâm Xuyên, Phủ Châu, còn có hiệu là Triết Thị Giả. Sư trú trì chùa Đại Quy Sơn, lãnh chúng hơn hai ngàn người. Sau buổi cơm trưa, nhất định đến sau giảng đường cùng với đại chúng uống trà, khai thị. Mỗi ngày, lúc công khoá giảng dạy hoàn tất nghỉ ngơi, sư đích thân đi lao động. Sư có thể sai thị giả, nhưng sư từ chối và làm công tác như mọi người, từ trước tới nay không sai sót. Mỗi đêm khi lên lễ Phật, sư xem xét chánh điện và đi đốt đèn hành lang. Nếu như mệt mỏi rã rời thì sư dùng cái chăn trùm đầu lại, tại Tam thánh đường không cởi áo lót, ngủ một chút mà thôi.

     9.12. Khiêm cung làm việc cực khổ

    Triều nhà Tống, có pháp sư Tăng Tạng. Sư thấy chùa Tăng thì lễ bái, gặp Đại đức thì hành lễ. Bất cứ người xuất gia hay tại gia làm lễ sư, sư rất khiêm tốn khom lưng cúi đầu mà đi ra. Mỗi khi làm việc với đại chúng, sư đều đem thân ra làm nô bộc cho mọi người, hết sức làm việc; xem thấy áo quần cũ rách dơ bẩn bất cứ của ai, sư gom lại giặt sạch sẽ hoặc may vá lại. Đến mùa hạ, vào mỗi tối Sư cởi áo treo lên rồi vào trong rừng đem thân bố thí máu cho các loại muỗi, ve, đỉa, ruồi vàng… hút máu. Sư thường hay niệm danh hiệu Phật A Di Đà, chưa từng gián đoạn, tinh tấn niệm Phật như vậy nếu dùng toán số cũng không tính đếm được bao nhiêu biến mà kể.

    Lời bình:

    Đại sư Ổn Lăng (Triều nhà Tống, ở Tuyền Châu, Thiền viện Bảo Thắng, sư hiệu Giới Hoàn, vì là người Ổn Lăng, người ta thường gọi là sư Ổn Lăng), có một câu danh ngôn: “Người xuất gia ơi! Người ta lao động cực nhọc, cuốc bẩm cày sâu, còn ông thì ngồi trong mát, yên ổn mà ăn; người ta khom lưng quỳ gối lễ lạy, ông thì đứng đó thọ lễ, nếu như không thoát được vòng sống chết, thì tội lỗi này lớn quá đi”! Tuy nhiên, có thể làm được người như lão Tăng Tạng đây thì đại khái không có vấn đề gì.

    9.13. Khắc khổ làm việc chúng

    Triều nhà Tống, tại Nam Khương, núi Vân Cư, có Thiền sư Đạo Giản.

    Sư họ Lô, người Ích Dương (nay là huyện Trác, tỉnh Hà Bắc), Trung Quốc. Sư nối pháp Thiền sư Đạo Ưng, thuộc tông Tào Động đời thứ 3, trụ Vân Cư kế thừa sự nghiệp của Thầy.

    Lúc sư đến tham yết Thiền sư Đạo Ưng. Thiền sư Đạo Ưng và sư đối thoại với nhau ba ngày. Đạo Ưng vô cùng khen ngợi căn khí của sư, răn dạy sư phải khắc khổ, chịu khó phục vụ đại chúng. Thế là sư xách nước, giã gạo, bửa củi, nấu cơm, lo liệu mọi việc trong chùa, có lúc cũng cùng với chúng tham thiền học đạo, đàm luận cổ kim, mọi người đều không biết sư là một vị Tăng tài xuất chúng.

    9.14. Làm việc không từ lao nhọc

    Triều nhà Tống, tại Đông Kinh, có Thiền sư Huệ Lâm Viên Chiếu Tông Bổn.

    Sư họ Quản, tự Vô Triết, người Vô Tích (Giang Tô) Trung Quốc. Năm 19 tuổi nhập môn Thiền sư Đạo Thăng chùa Vĩnh An ở Thừa Thiên, Tô Châu, khổ tu 10 năm mới cạo tóc thụ giới cụ túc, lại siêng năng hầu hạ thêm ba năm, thường mặc áo rách, đầu mặt dơ bẩn, làm việc xách nước, giã gạo, nấu cơm cúng dường đại chúng. Tối đến sư vào thiền đường học đạo với đại chúng.

    Thiền sư Đạo Thăng nói với Sư: “Người khổ hạnh kia! Thầy làm việc phục vụ đại chúng thật là vất vả, khổ nhọc không biết mệt mỏi sao”? Sư trả lời: “Một người tu hành nếu bỏ mất một việc lợi ích cho chúng sanh mà không đi làm thì không thể gọi là tâm Bồ đề viên mãn được; con nghĩ suốt cuộc đời này con chỉ làm việc này cũng không dám nói là mệt nhọc”!

    Sau bái biệt Đạo Thăng, sư đến chùa Cảnh Đức ở Trì Châu (Qúy Trì, An Huy) tham kiến Thiên Y Nghĩa Hoài có chỗ khế ngộ. Được Nghĩa Hoài sai đến chùa Thụy Quang ở Tô Châu khai pháp, pháp tịch ngày một thạnh, đồ chúng lên đến năm trăm người. Sư dời sang chùa Tịnh Từ ở Hàng Châu, đạo tục ở Tô Châu lại thỉnh sư đến hai chùa Vạn Thọ, Long Hoa hoằng pháp, kẻ ngưỡng mộ hơn ngàn người. Niên hiệu Nguyên Phong thứ 5 (1082) phụng chỉ làm Tổ thứ nhất Huệ Lâm Thiền sát chùa Tướng Quốc. Vua Thần Tông triệu thỉnh đến cung Diên Hoà hỏi đạo. Đến đời vua Triết Tông ban hiệu “Viên Chiếu Thiền sư”. Niên hiệu Nguyên Hựu thứ 1 (1086) sư lấy cớ già cả xin về quê, khi ra khỏi đô thành, người đưa tiễn đông vô kể. Lúc chia tay sư có lời dạy bảo người nghe cảm động rơi lệ. Tuổi về chiều sư trụ chùa Linh Quang ở Bình Giang (Tô Châu) đóng cửa tu thiền. Sư giữ giới thanh tịnh, học thức rộng, giỏi văn chương. Đệ tử có Đại Thông, Thiện Ninh, Pháp Chân, Chân Ngộ v.v…

    Lời bình:

    Làm việc cực nhọc cho đại chúng mà vẫn không quên học vấn, đàm luận cổ kim; quản lý mọi việc trong nhà trù mà vẫn không quên tham thiền học đạo, kham nhẫn nhiều việc khổ nhọc trác tuyệt như vậy. Người xuất gia ngày nay, nhàn rỗi không làm việc gì mà vẫn tiếp nhận của cúng dường của Phật tử, còn nói: “Tôi là người chuyên tu, làm nhiều việc”. Ôi, như thế với người xưa thật sai biệt quá xa!

    9.15. Thường hành khất thực

    Thời Nam Triều, đời nhà Tống, có Thiền sư Đạo Pháp, người Đông Hoàng, chuyên tu thiền. Sau sư du học đến Tứ Xuyên, Thành Đô. Các ông Vương Hưu, Phí Giám… thỉnh sư trú trì chùa Hưng Lạc và Hương Tích. Sư dạy đạo có phương pháp, thường thực hành hạnh khất thực, nhưng không nhận thỉnh cúng một mình (biệt thỉnh), không ăn trước đại chúng. Thức ăn sau khi dùng thừa sư đem bố thí cho các loài động vật, côn trùng, chim, thú… Buổi tối sư cởi y ở trần bố thí máu cho muỗi mòng… Sau đó, có một hôm sư nhập định, ở trong định sư thấy đức Phật Di Lặc phóng hào quang chiếu soi quả báo trong ba đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Ngay sau đó, sư càng tinh tấn tu hành, suốt đời không nằm. Vào đời Tống Phế Đế, niên hiệu Nguyên Huy thứ 2 (474), sư ở trong định thị tịch.

    9.16. Hành cước

    Tôi trước đây, lúc còn là một người hành cước tham học bên ngoài, thường kham chịu đói khát, bất chấp lạnh lẽo hoặc nắng nóng, trải qua vô số khổ nạn. Hiện nay may mắn có được một am tranh để ở. Tuy nhiên tôi không biết được việc tu hành, chỉ biết xấu hỗ thôi. Một vị Tăng vân du sơn thuỷ, hành cước tham vấn đến chùa mình, thì nên đối xử với họ lễ phép, ân cần, hầu hạ cúng dường. Bản thân tôi vốn không dám thọ dụng của người ta quá đáng. Thật sự đã từng là người lưu lạc bên ngoài, cho nên đặc biệt thương xót, cảm thông những khách Tăng bên ngoài đến. Bần cùng phấn đấu mà sáng nghiệp thành công, cho nên, tuy đất cát cũng như vàng bạc phải quý trọng nó như nhau. Người xuất gia ngày nay một khi bước vào cửa Phật liền được ở chùa, viện đã xây dựng sẵn, mọi việc đều như ý, không lao tâm tổn sức, giống như người phú quý, không biết được những thống khổ trong dân gian, dù cho tài trí siêu nhân, không lo tu học, chỉ đóng cửa tự đại, giậm chân tại chỗ, lâu ngày nuôi lớn tập khí cống cao ngã mạn, tăng trưởng tập tính vô minh, như vậy tổn thất, thiệt thòi cũng không phải nhỏ!

    9.17. Cấp tham cấp ngộ

    Cư sĩ Phóng Ngưu, người Hàng Châu, họ Dư, tham học với Thiền sư Vân Môn Huệ Khai, ở Long Hưng, Hoàng Long. Vào năm Thuần Hữu (1241-1253), đời vua Tống Lý Tông, thời Nam Triều, được khai ngộ. Ông có viết một đoạn văn như vậy: “Người thông minh trên đời mới nghe qua một lần việc ‘sanh tử sự đại’ này liền dùng Tâm – Ý – Thức để lý giải, cho rằng như vậy là đã nhận thức được bổn lai, hiểu được bổn tánh, cho nên, giống như đem hình nộm mà làm người thật, chính như bài kệ của Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm hiệu Chiêu Hiền, ở Hồ Nam đã nói:

    Học đạo chi nhân bất thức chân

    Chỉ vi tùng lai nhận thức thần

    Vô thuỷ kiếp lai sanh tử bổn

    Si nhân hoán tác bổn lai nhân.

    Tạm dịch:

    Học đạo lâu nay chẳng tỏ nguồn

    Chỉ vì tâm thức nhận biết suông

    Gốc rễ tử sanh vô thỉ kiếp

    Đào lên trồng xuống vẫn in tuồng.

    Và ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đại sư cũng nói: “Tổn tài pháp, giảm công đức, không có cái nào không do tâm-ý-thức này”. Cho nên, chủ đích của Thiền tông là xa lìa tâm ý thức mà tham thiền. Như trong kinh Lăng Nghiêm có nói: “Dẹp bỏ hết mọi thứ thấy nghe hay biết, bên trong giữ lấy sự vắng vẻ thanh nhàn, như pháp trần phân biệt cảnh sự”. Phải nghiên cứu tinh chuyên ý nghĩa huyền diệu cho sáng tỏ, rốt ráo giác ngộ, nếu không được như vậy thì đợi đến lúc lâm chung, hồn lìa khỏi xác mới đến xin lão Diêm vương: ‘Hãy đợi tôi một lát, để tôi thanh lọc thanh tâm, nhiếp phục vọng niệm đã rồi sau xin đi với ông’! Muộn màng như vậy, ngàn vạn lần không được. Phải nhanh chóng tu học, sớm được khai ngộ mới tốt.

    Mấy lời nói này của cư sĩ Phóng Ngưu có thể nói là cảnh tỉnh người học đạo! Nếu thực sự là người đại triệt đại ngộ thì họ sống một cuộc đời thong dong tự tại, cái gọi là ‘bát phong’ thổi không lay động, vô thường sanh tử, an nhiên tự tại, không vội vàng, không sợ hãi, hà tất phải đợi thanh lọc tâm, nhiếp vọng niệm, miễn cưỡng xin thoái thác ư? Cho nên, điều gọi là ‘cấp tu cấp ngộ’, chúng ta là người tu hành nên nỗ lực tìm cầu. 
 

    TỔNG LUẬN 
 

    Thánh hiền luôn răn dạy rằng: “Không nên phóng dật”. ‘Dật’ là đại giới của người quân chủ, từ xưa đều lấy sự siêng năng, ân cần mà hưng quốc, do phóng dật mà mất nước. Chương “vô dật’ trong Kinh thư, là do ông Chu Công lo lắng Chu Thành Vương mới lâm chính phóng dật mà soạn ra. Nhà Phật cũng nói một câu răn giới như vậy: “Cẩn thận chớ có buông lung”. Cho nên, người cầu pháp phải vì pháp mà quên đi thân mình, người vì lợi ích chúng sanh phải vì chúng sanh mà quên đi bản ngã của mình. Người xuất gia trẻ ngày nay, mười ngón tay không đụng đến một giọt nước (ý nói không làm gì cả), không quan tâm đến bất cứ việc gì, bảo nó rửa bát, nó nói: ‘đau tay’; bảo nó cầm chổi quét nhà, nó nói: ‘đau lưng’; bảo nó sớm tối siêng năng tu học, nó nói: ‘Thân tôi nhiều bệnh quá, không có cách gì để hành trì tu tập được’. Có lúc mới dạy nó vài câu, nó lại nói: “A, Ngài không biết kẻ ngu thì dùng sức, kẻ trí thì dùng tâm, người ngu thì tu phước, người trí thì tu huệ sao”? Ôi trời! Nếu như vậy thì không những tôn giả Ca-diếp tu khổ hạnh là người ngu, Lục Tổ giã gạo, bổ củi cũng là người ngu, mà ngay cả Phật đà không bỏ mặc các Tỷ-kheo mắt yếu giúp họ may vá y áo há không phải cũng là người ngu sao!?