Chương 4
HẠNH HIẾU THÂN
4.1. Thắng hội Vu Lan
Thời Phật còn tại thế, Tôn giả Mục Kiền Liên phụng thờ mẫu thân rất mực hiếu thảo. Sau khi mẹ mất, ngài xuất gia tinh tấn tu hành, chứng quả La hán, được lục thông. Ngài dùng thần thông thấy thân mẫu sau khi chết bị sanh trong đường ngạ quỉ, đói khát vô cùng. Mục Liên bèn đem cơm dâng mẹ, nhưng không hiểu vì sao cơm mới đưa đến miệng thì bỗng hoá thành lửa dữ. Thần thông rốt cuộc cũng chẳng chuyển hoá được nghiệp lực. Mục Liên rơi lệ trở về đem sự tình bẩm báo với đức Thế Tôn. Đức Phật dạy:
“Mẹ của con khi còn sống đã tạo nhiều tội ác, một mình con không thể chuyển hoá được nghiệp báo của mẹ con, mà phải nhờ sức mạnh, oai thần của mười phương Tăng mới có thể chuyển hóa được. Con hãy đợi đến ngày rằm tháng bảy, ngày ấy chúng Tăng an cư kiết hạ hoàn mãn, ngày giải hạ, trong ngày ấy, mỗi thầy đều nhờ các thầy khác kiểm điểm, chỉ cho lỗi lầm của mình để sám hối và sửa đổi. Sau ba tháng an cư, nếu không thiền định giải thoát, đoạn hoặc chứng quả, vẫn có thể diệt tội tăng phước, chư Phật đương nhiên vui mừng, cho nên ngày đó gọi là ngày Phật hoan hỷ, còn gọi là ngày Tăng tự tứ, con nên vì mẹ thiết lễ Vu lan bồn (Trung Hoa gọi là Cứu đảo huyền, vì trong lễ này, người sắm sanh lễ vật gồm những thức ăn và đồ dùng dâng cúng chư Phật cùng chư Tăng để cầu nguyện cho thân mẫu trong đường ngạ quỉ được đỡ đói khát, sự sống đang bị treo ngược), cúng dường Phật và Tăng mới mong cứu được mẹ con”.
Mục Liên y theo lời Phật dạy thiết lễ Vu Lan, mẹ của Ngài ngay trong ngày ấy được thoát khỏi đường ngạ quỷ, lại còn được tăng phước báo, sanh lên cõi trời hưởng thụ an vui. Nhân đó có thắng hội Vu Lan, nay còn được lưu truyền.
Lời bình:
Lúc cha mẹ còn sống phụng thờ hiếu dưỡng, sau khi chết dùng lễ chịu tang, đó là hiếu nhỏ; lúc còn sống cho cha mẹ niềm vui, sau khi chết vì cha mẹ mà lưu danh thơm tiếng tốt ở đời, đó là đại hiếu; còn nếu như khi sống có thể dẫn dắt cha mẹ tin Phật, sau khi chết có thể siêu độ tâm linh đó mới là đại hiếu trong mọi thứ đại hiếu khác. Mục Liên là người như vậy.
4.2. Đích thân hầu hạ mẹ
Thời Nam Bắc triều, đời nhà Tề (479-502), tại huyện Nghiệp Hạ, có pháp sư hiệu Đạo Kỷ.
Sư Đạo Kỷ tu theo tông Thành Thật, có sáng tác bộ ‘Kim tạng luận’, 7 cuốn. Ngài giảng kinh ở Đông Giao, Nghiệp Thành. Mỗi lần đi giảng kinh, sư đều gánh mẫu thân và kinh điển, tượng Phật đi theo. Sư nói với mọi người rằng: “Tôi muốn tự mình cúng dường mẹ, bởi vì công đức cúng dường mẹ và cúng dường Bồ tát Đăng Địa giống nhau”. Y phục, ẩm thực, đại tiểu tiện của mẹ, sư đều tự mình lo liệu, không muốn phiền hà người khác. Có người muốn giúp sư, sư từ chối nói: “Đây là mẹ của tôi, đâu phải mẹ của anh. Thân thể của mọi người chúng ta bất quá chỉ là bốn đại giả hợp, bởi vì nó mới có nhiều phiền toái và đau khổ, tôi cũng không ngoại lệ. Có thân thì có khổ. Nhường nỗi khổ của tôi lại cho ai? Hà tất phải cảm phiền người khác”!
Đương thời, không luận là tại gia hay xuất gia, đều được ngài cảm hoá.
4.3. Tuyệt thực để tang mẹ
Thời Nam Bắc triều, đời nhà Lương (502-557), tại Dương Đô, chùa Quang Trạch, có pháp sư hiệu Pháp Vân.
Sư họ Chu, người Nghi Hưng, Dương Tiện (nay là Giang Tô, Nghi Hưng). 7 tuổi xuất gia. 13 tuổi bắt đầu nghiên cứu Phật học. 30 tuổi giảng kinh Pháp Hoa, kinh Tịnh Danh ở chùa Diệu Âm. Kết bạn thâm giao với Trung thư Chu Ngung, nước Tề, Vương Dung ở Lang Gia, Lưu Hội ở Bành Thành, Đồ Hiếu Tự ở Đông Hoàn… Niên hiệu Thiên Giám thứ 2 (503), đời nhà Lương, sư phụng sắc tự do ra vào nội cung. Sau lại phụng sắc trụ trì chùa Quang Trạch, sáng lập Tăng chế (giống như nội quy Tăng sự ngày nay). Niên hiệu Thiên Giám năm cuối (525), phụng sắc làm Đại Tăng Chính (thống chế Tăng giới trong cung). Tại chùa Đồng Thái thiết lễ hội 1000 tăng, Đế đích thân đến nghe giảng kinh Đại Niết Bàn. Niên hiệu Đại Thông thứ 3, sư thị tịch, thế thộ 63 tuổi. Sư thuộc học phái Thành Thật, tinh thông kinh Niết Bàn, cũng giỏi kinh Pháp Hoa. Tác phẩm hiện còn có Pháp Hoa kinh nghĩa ký, 8 quyển.
Bình sinh sư rất được nhiều ưa mến, học chúng từ bốn phương vân tập về nghe giảng rất đông. Tính tình rất hiếu thuận, hầu hạ cha mẹ rất ân cần. Một hôm, mẹ sư từ trần, sư bi ai quá độ, mấy ngày liền không ăn vật gì, thân thể tiều tụy chẳng ra hình người.
Pháp sư Mân nói với sư: “Thánh nhân đã chế định lễ tiết, quy củ, người hiền năng phải đè nén lý tưởng mình thấp xuống, nhân nhượng để hợp với lễ; người chẳng phải hiền năng thì muốn miễn cưỡng hướng thiện, truy tiến cũng khó. Nhà Nho có bi thương cũng không thể nào đem cả thân mạng của mình vượt qua quy định, (Lễ Ký, chương thứ 4, tang phục, đã định: “Phá hoại cũng không được diệt mất cái tánh, không được vì người chết mà tổn thương đến người sống”), huống chi nhà Phật đã có nói một câu rất chí lý: “Muốn báo đáp ân đức, dưỡng dục cao dày của cha mẹ, việc nhỏ thì tận tâm tận lực phụng thờ cha mẹ, khá hơn một chút thì làm cho cha mẹ được vui, còn xa hơn nữa thì làm cho cha mẹ phát khởi tâm bồ đề, hướng dẫn thần thức của cha mẹ đi vào chánh pháp”, thầy phải nên từ nơi ý muốn làm một việc cao xa, đó là khiến cho mẹ được siêu độ, chứ tại sao lại có thể như bọn người thế tục có cái nhìn nông cạn, một mực bi thương đến nỗi tuyệt thực thế kia?”.
Vân Pháp sư sau khi nghe mấy lời dạy dỗ ấy liền tĩnh ngộ, mới ăn cơm trở lại.
Đương thời, cùng với Trí Tạng, Pháp Mân, được tôn xưng là “Lương triều tam đại pháp sư” (Ba vị pháp sư lớn của triều nhà Lương).
Lời bình:
Ông Tăng Tử khi mẹ chết, 7 ngày không ăn không uống, giống như Vân pháp sư, mẹ chết cũng tuyệt thực thủ tang, so với ông Tăng Tử chỉ có hơn chứ không kém. Có người nói: “Tín đồ Phật giáo đều không để ý đến cha mẹ mình”, câu nói này có thể tin được không?
4.4. Huyết lệ bi thương
Triều nhà Tuỳ, tại Ngô Đô, núi Hổ Khâu, có pháp sư hiệu Trí Tập, trú trì chùa Đông Sơn, Giang Tô. Đời Trần Hậu Chủ, niên hiệu Chí Đức năm thứ 3 (586), gặp phải tang mẹ, sư bi ai thống khổ, khóc lóc không thôi, đau khổ cơ hồ đến chết. Sau sư thường trú tại tịnh xá Đông Sơn, hay giảng kinh thuyết pháp, thường xuyên khai giảng không dừng nghỉ, đó là một thời Phật pháp đại thịnh.
4.5. Gánh mẹ đi nghe pháp
Triều nhà Tùy, trong nội thành Đông Đô, đạo tràng Huệ Nhật, có pháp sư Kính Thoát, người Quận Cấp, xuất gia từ nhỏ. Sư rất hiếu thuận với cha mẹ nên nỗi danh là người thanh cao chánh trực. Mỗi lần đi nghe giảng kinh, sư thường gánh một gánh, một đầu là mẫu thân, một đầu là kinh sách, giới luật. Lúc ăn uống, sư an trí mẹ ngồi dưới gốc cây, rồi tự mình vào trong thôn xóm khất thực ra dâng cho mẹ dùng.
4.6. Đào giếng báo ân cha
Triều nhà Đường, tại Kinh sư, chùa Hoằng Phước, có pháp sư Huệ Bân.
Sư Huệ Bân người Cẩn Châu, phụ thân tên Lãng, làm quan ở trong triều, thọ hơn 100 tuổi. Sư rất kính yêu cha, cảm thấy chưa biết làm thế nào để báo đáp ân đức của cha cho tốt, đành phải ở phía nam sông Vấn Thủy, nơi bùng binh của đô thành, đào một cái giếng cúng dường cho người bốn phương sử dụng, dùng công đức này hồi hướng để báo đáp công ơn của cha mẹ. Đồng thời dựng một cái bia để làm kỉ niệm. Trên bia có mấy dòng chữ cảm động lòng người, thế này: “Tôi rất lo nghĩ những bô lão tuổi đã về già, nhưng khả năng lại không có. Và tôi, bổn phận làm con, hằng ngày gặp cha già mà không biết làm sao báo hiếu. Đời người tuy trăm năm, trong nháy mắt đã trôi qua, đối với cái giếng này cũng không ngăn cản được thế sự vô thường. Năm tháng vô tình, cảm thấy bi ai vô hạn”.
4.7. Lễ tháp cứu mẹ
Pháp sư Tử Lân, sống vào đời nhà Đường, thân phụ họ Phạm, thân mẫu họ Vương, cả hai đều không tin Tam bảo, không cho Tử Lân xuất gia. Sư bèn trốn nhà đi tu. Đến Đông Đô, sư xin xuất gia với Luật sư Quảng Tu ở chùa Quảng Ái. Trải qua một thời gian dài tinh tấn tu học, một hôm, bỗng nhiên sư nhớ đến song thân, bèn xin phép bổn sư về thăm cha mẹ.
Sư về đến nhà, mẹ sư đã mất cách đó 3 năm, thân phụ sư hai mắt đã mờ. Sư an trí cho thân phụ xong, liền đến Đông Ngục Đại đế, trải tọa cụ ngồi tụng kinh Pháp Hoa. Sư phát thệ tụng kinh chừng nào thấy được Ngục đế để hỏi sau khi thân mẫu qua đời đã thác sanh vào chốn nào mới thôi. Qua mấy hôm sau, đêm sư mộng thấy Ngục đế đến bảo: “Mẫu thân của ngài sau khi chết bị đọa vào trong địa ngục, hiện tại đang chịu muôn ngàn khổ sở”. Sư bi thảm rơi lệ, ngẹn ngào hỏi Ngục đế có cách nào cứu mẹ chăng? Ngục đế nói: “Ngài có thể đến chùa A Dục quét dọn và lễ bái tháp xá lợi Phật, ắt cứu được mẹ”. Tử Lân liền thu xếp đến chùa A Dục, phát nguyện lễ tháp hồi hướng công đức cho mẹ. Rồi dốc hết lòng thành, ngày đêm lễ tháp xá lợi Phật, thắm thoát đã đến 4 vạn lạy, bỗng nhiên trên hư không có tiếng gọi tên sư. Sư nhìn lên thì thấy mẫu thân đang hướng đến ngài nói lời cảm tạ: “Nhờ công đức lễ tháp xá lợi Phật của thầy mà mẹ được vãng sanh lên cõi trời Đao Lợi”. Nói xong thì biến mất.
Lời bình:
Lòng hiếu thảo của ngài Mục Kiền Liên cảm động đến Phật đà, dạy ngài đến ngày Phật hoan hỷ, rằm tháng bảy, thiết lễ cúng dường chư Tăng để cứu mẹ. Lòng hiếu thảo của sư Tử Lân cảm động đến thần linh, dạy ngài lễ tháp để cứu mẹ. Lòng chí hiếu cảm động đến thần linh, có thể không tin được sao?
4.8. Ngộ đạo báo ân cha
Vào triều nhà Đường, ở tỉnh Phước Châu, tu viện Huyền Sa, có Thiền sư tên gọi Sư Bị Tông Nhất.
Sư họ Tạ, người Phước Châu. Thuở bé sư thích câu cá, thường thả thuyền trôi bồng bềnh trên sông. Phụ thân sư sinh nhai bằng nghề chài lưới. Năm sư 30 tuổi, thân phụ bất hạnh bị nước cuốn trôi mà chết. Sư nhân đó xuất gia, hầu mong đền đáp ân đức dưỡng dục của cha. Sư lên núi Phù Dung, bái Thiền sư Linh Huấn làm thầy, rồi sau đến chùa Khai Nguyên ở Dự Chương (Nam Xương, Giang Tây), thọ giới cụ túc. Sư tu hành rất thanh tịnh, hành pháp đầu đà, mặc áo gai, đi giày cỏ, ăn ngày một bữa, tọa thiền suốt ngày, người đời gọi sư là “Bị Đầu Đà”. Sư từng kết bạn với Tuyết Phong Nghĩa Tồn, nhưng tình lại như thầy trò.
Có một hôm, sư mang đãi xuống núi, định đi hành cước tham thiền học đạo. Nhưng vừa xuống núi, chân vấp bị thương, máu chảy ra thật nhiều, hốt nhiên sư đại ngộ. Thế là sư khăn gói trở lên núi. Từ đó y chỉ với Tuyết Phong để giữ gìn tâm pháp.
Lúc đầu, sư trụ viện Phổ Ứng, sau dời sang núi Huyền Sa ở Phước Châu ứng cơ tiếp vật hơn 30 năm, kẻ học đạo hơn 800 người.
Đêm nọ, sư mộng thấy thân phụ đến cảm tạ, rằng: “Nhờ thầy xuất gia tu học được minh tâm kiến tánh mà tôi cũng trượng thừa công đức, thoát khỏi mê đồ, đã sanh lên cõi trời. Vì vậy tôi đến đây để báo cho thầy biết, đồng thời cảm tạ ơn đức của thầy”.
Niên hiệu Khai Bình thứ 2, Sư thị tịch, thế thọ 74 tuổi. Mân Chúa Vương Thẩm ban tử y (y đỏ) và hiệu “Tông Nhất Đại Sư”.
4.9. Cắt chân xuất gia
Triều nhà Đường, tại Hàng Châu, Kính Sơn, có pháp sư hiệu Giám Tông (793-866).
Sư họ Tiền, người Trường Thành, Hồ Châu. Phụ thân là Tiền Thịnh. Một hôm, cha lâm bệnh nặng, nhà không còn gì ăn, sư cắt thịt nơi chân của mình nấu cho cha dùng, nói dối rằng đó là thịt mua ngoài chợ, nhân đó cha lành bệnh. Thế là sư cầu xin cha cho xuất gia. Sư đến yết bái Thiền sư Diêm Quan Ngộ Không, theo đại chúng tham thiền học đạo, đốn ngộ được bổn lai diện mục. Đời Đường Yến Tông (859-873), khoảng giữa niên hiệu Hàm Thông, sư trú trì Thiên Mục Sơn, núi Đông Phong Kính, người ta gọi sư là Kính Sơn nhị tổ.
4.10. Bán giày nuôi mẹ
Triều nhà Đường, tại Mục Châu, chùa Long Hưng, có sư Thiền sư hiệu Trần Tôn Túc.
Sư họ Trần, người đời thường gọi Trần Tôn Túc, nối pháp Thiền sư Hoàng Bá Hi Vận, sau khi tịch được truy phong hiệu Đạo Minh Thiền sư.
Thoạt đầu, sư hành cước khắp nơi tham thiền học đạo, sau tham học với Thiền sư Hoàng Bá, được ấn chứng, thấu suốt tâm địa. Sau đó, sư trú trì Thiền viện Quan Âm, chúng Tăng thường trú có hơn ngàn người.
Rồi sư bỏ lãnh chúng, vào chùa Khai Nguyên ở trong một mật thất nhỏ, làm giày bằng lá dương bồ, đem ra ngồi một bên đường để bán, lấy tiền phụng dưỡng mẫu thân, nên người ta gọi sư là “Trần Giày Lá” (Trần Bồ Hài).
4.11. Lòng chí thành cảm ứng đến hài cốt của cha
Triều Hậu Chu (951-960), tại Lạc Kinh, chùa Phước Quang, có pháp sư hiệu Đạo Phi.
Sư họ Lý, người làng Quí Trụ, Trường An, là tôn thân hoàng tộc triều nhà Đường, 7 tuổi xuất gia. Năm sư 29 tuổi, gặp biến cố Nhị thái tử (Đường Thái Tông) giết thái tử Kiến Thành và Tam thái tử Nguyên Kết, tiếm ngôi và dời đô sang Lạc Dương. Kinh đô cũ Trường An bị loạn binh nỗi lên thiêu hủy, sư không còn nhà để ở, chùa để tu. Thế là sư cõng mẫu thân trốn vào Hoa Sơn, ở trong hang núi.
Đương thời chiến loạn, gạo giá rất cao, sư không ăn cơm gạo, ngũ cốc, chỉ khất thực về để cúng dường cho mẹ. Đến bữa dùng cơm, mẹ hỏi: ‘Thầy đã ăn chưa?’. Sợ mẹ lo lắng, sư đáp: ‘Con đã ăn rồi’, kỳ thật đã nhiều ngày sư chưa có gì trong bụng!
Thời gian sau, tình hình chiến sự tạm ổn, cuộc sống hòa bình được lập lại. Một hôm, mẹ sư nói: “Thân phụ của thầy đi chinh chiến bỏ thân chốn sa trường, có thể là ở sa trường Hoặc Sơn, thi thể phơi ngoài đồng hoang, gió sương đêm ngày lạnh lẽo. Thầy có cách gì để tìm hài cốt cha thầy về mai táng không?”.
Sư vâng lời, thu xếp cuộc sống cho mẹ, rồi lên đường đến Hoặc Sơn. Cảnh chiến sa trường bày ra trước mắt, xương phơi đầy đồng, một màu thê lương ảm đạm, trông đến tê tái lòng người. Sư thu lượm tất cả xương cốt lại chất thành một đống. Xong, ngồi trước đống xương đêm ngày tụng kinh và phát nguyện rằng:
“Người xưa, vì muốn tìm xương cốt của người thân, nhờ tinh thành sở cảm, nhỏ máu thấy thấm xương, biết ngay đó là người thân của mình. Nhưng nay tôi không làm cách ấy, mà nguyện rằng, nếu trong đống xương này quả thật có di cốt của cha tôi, thì xương ấy phải tự động đứng dậy mà đi ra”.
Nói xong, nhất tâm tụng kinh niệm Phật. Quả nhiên, mấy ngày sau, từ trong đống hài cốt có mấy khúc xương rục rịch đứng dậy đi ra trước mặt sư. Sư ngó thấy trong lòng muôn ngàn cảm động, vạn phần bi thiết, thu lấy hài cốt của cha mang về.
Tối hôm trước ngày sư về đến nhà, mẹ sư mộng thấy phu quân trở về báo cho biết sáng ra Đạo Phi sẽ đem hài cốt về. Sáng hôm sau quả nhiên Đạo Phi trở về. Mọi người biết chuyện, ai nấy đều cảm động và cho rằng nhờ đạo hạnh tu tập thâm sâu của sư và thần lực của Tam bảo nhiệm mầu mới có cảm ứng như thế.
Sau đó, Hoàng đế chiếu lệnh sư vào giảng kinh luận đạo ở trong cung. Sư thường ở vào vị trí cao nhất. Không luận là quan trong triều hay bá tánh thứ dân đều qui kính sư.
Lời bình:
Tự mình không ăn uống, nhường để cho mẹ dùng, đó đã là hiếu. Chí thành tụng kinh mà tìm được hài cốt của cha, có thể nói rằng đó là đại hiếu. Không những chỉ với mẹ hiện đời mà với cha đã tạ thế đều tận lòng hiếu thảo, hạnh hiếu này có thể nói xưa nay ít có. Ôi, thật là một người kỳ đặc!
4.12. Khuyên mẹ niệm Phật vãng sanh
Triều nhà Tống, ở phủ Chơn Định, có thiền sư Hồng Tế Tôn Ghi.
Sư họ Tôn, người Tương Dương (Hồ Bắc) Trung Quốc. Tuổi nhỏ sư mất cha, được mẹ nuôi dưỡng nên người. Chí khí hơn người, học tập Nho nghiệp, bác thông kinh sử. Lúc 29 tuổi đến chùa Trường Lô, Chân Châu (Nghi Chân, Giang Tô), theo Viên Thông Pháp Tú cạo tóc xuất gia và thụ giới cụ túc. Sau sư theo Quảng Chiếu Ứng Phu tham vấn thiền chỉ. Một hôm, sư vừa bước lên bực thềm chợt có tỉnh ngộ, liền làm bài kệ:
Nhấc chân bước lên thềm,
Thấu rõ pháp này xong,
Bên cây hoàng dương cười ha hả,
Trời xanh muôn dặm một vầng trăng.
Sư được Ứng Phu ấn khả, nối pháp làm truyền nhân tông Vân Môn. Niên hiệu Nguyên Hựu (1086-1093) sư trụ trì chùa Trường Lô. Sư đón mẹ về ở thất phía đông phương trượng, khuyên mẹ cạo tóc xuất gia và trì niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Bảy năm sau mẹ sư không bệnh mà mất. Sư làm “Khuyến hiếu văn” 120 thiên nói về hiếu đạo thế gian và xuất thế gian. Niên hiệu Nguyên Hựu thứ 4 (1089) mô phỏng Bạch Liên xã ở Lô Sơn, sư lập Liên Hoa Thắng Hội, khuyến khích đạo tục niệm Phật hiệu hồi hướng phát nguyện cầu sinh Tịnh độ. Niên hiệu Sùng Ninh (1102-1105) đáp ứng lời thỉnh của Đãi Chế Dương Uý, sư hoằng pháp tại phủ Chân Định (Chân Định, Hà Bắc).
Tác phẩm: Thiền Xã Thanh Quy 10 quyển, Vi Giang tập, Tọa Thiền Châm, Niệm Phật Tham Thiền Cầu Tông Chỉ Thuyết, Liên Hoa Thắng Hội Lục Văn, Niệm Phật Hồi Hướng Phát Nguyện. Người đời tôn xưng sư là “Từ Giác Đại sư”.
Lời bình:
Thiền sư Tôn Ghi tinh sâu pháp môn Tịnh độ, không những tự lợi mà còn lợi tha, cho mẹ Ngài. Nếu như có thể khiến cho mẹ được vãng sanh Tây phương, so với sanh thiên hưởng lạc, thì đây cao minh thù thắng hơn nhiều! Người xuất gia muốn báo đáp ân đức cha mẹ, không thể không biết sự kiện này.
4.13. Cha mẹ phải lạy con?
Tôi có viết một cuốn sách tựa đề “Chánh Ngoa tập”, trong đó có đề cập đến vấn đề, ý nghĩa ‘phản’ là ‘hoàn’ của việc ‘phản bái’. Bởi có người cho rằng, cha mẹ là cư sĩ tại gia, không được nhận sự bái lạy của con, là người đã xuất gia, mà ngược lại còn phải lễ lạy con. Tôi nói, như vậy, không phải ngược lại cha mẹ đi lạy con mình trước hay sao? Trong đạo Phật không có lẽ đó! Có một vị Tăng tức giận, bất bình nói:
“Kinh Pháp Hoa nói rằng: ‘Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai sau khi thành Phật, phụ thân của Ngài là vua Chuyển luân thánh vương hướng về Ngài đảnh lễ’. Đây chính là cha mẹ tại gia lạy con xuất gia đấy. Đức Phật đã có dạy rõ ràng như vậy, cho nên kinh điển sau này mới ghi lại”.
Tôi chấp tay hướng về thầy ấy nói rằng:
“Bạch thầy, danh hiệu Như Lai của thầy là gì”?
Vị Tăng ấy nói: “Không dám”!
Tôi lại nói: “Thầy đã không phải là Như Lai, thế thì chắc cũng đã thành Chánh đẳng chánh giác hay gần thành Phật rồi đấy chứ”!
Ông ta lại luôn miệng nói: “Không dám! Không dám”!
Tôi nói: “Đã không dám, thì đợi Ngài chóng thành Chánh giác, lại ngồi ngay thẳng thêm mười kiếp nữa (Đức Đại Thông Trí Thắng Phật, mười kiếp ngồi trong đạo tràng, Phật pháp không hiện tiền, không thành Phật đạo), hiện tại phải chứng cho được quả vị giống như Đức Đại Thông Như Lai, rồi mới tiếp nhận lễ lạy của cha mẹ. Còn đức Đại Thông Trí Thắng Phật, lúc nhận lễ lạy của phụ thân, Ngài ở giữa hư không, thì coi như không có ý nghĩa nhận lễ lạy. Mà còn nữa, người thế tục đã huỷ báng tín đồ Phật giáo là không coi có cha mẹ, tôi chính vì lo nghĩ việc này, sợ gây ra cho người đời sự hiểu lầm càng thêm trầm trọng, mà gia dĩ phân biệt phải trái, để người đời khỏi huỷ báng Tam Bảo, với hy vọng Phật pháp có thể trường tồn ở đời, sao thầy không sợ tạo khẩu nghiệp, cam tâm làm người có tội của Phật môn? Thầy đúng là hạng “con trùng trong thân sư tử, tự ăn thịt mình”, đáng thương thay”!
TỔNG LUẬN
Người đời chỉ trích người xuất gia không có hiếu với cha mẹ, nhưng không biết rằng sự hiếu thuận của người con Phật so với người đời không ai bằng. Có nhiều truyện cao Tăng, Thánh hiền… đều ghi lại những hành vi hiếu hạnh song thân. Trong lịch sử cũng có nhiều sự thật được chứng minh. Ngày nay, vẫn còn có người căm giận sâu sắc, chán ghét người xuất gia giống như chán ghét rắn độc, bò cạp độc, đây cũng là do người xuất gia tạo thành cho mình mà thôi! Tạo thành tội lỗi này, nguyên do có ba: hưởng thụ của cúng dường mười phương và không nghĩ đến sự đói khát của cha mẹ mình, đây là nguyên nhân thứ nhất; thứ hai là mình đi đâu cũng đi bằng xe to, thuyền rộng mà để cho cha mẹ giống như những người công nhân, đầy tớ, đi bằng xe ngựa xe kéo; thứ ba là cắt ái từ thân, dứt bỏ tình thâm để đi xuất gia vậy mà nhận người dưng nước lã làm cha mẹ nuôi. Hi vọng người đời không nên lấy ba điều này của những người xuất gia hư hèn, hạnh xấu xa mà chỉ trích toàn bộ Tăng Ni.