Cho Trọn Mùa Xuân
Hòa Thượng Thích Đức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản
Phật Lịch 2540-1996
Thay Lời Tựa
Thời gian cứ mãi trôi. Vạn vật tiếp nối đổi dời thay hình biến sắc chẳng dừng. Bởi tâm người bất định, nên hình thành cảnh vật không thường. Chúng sanh tâm vô thường, nên hình thành cảnh vật bất an. Khác với tâm chúng sanh, tâm những người giác ngộ thì an định, nên tạo thành cảnh vật thường lạc. Vọng tưởng là trạng thái tâm thức si mê, tham vọng, phiền não đảo điên. Bất loạn là thể hiện tâm trí giác ngộ, thường nhiên an lạc. Kinh Bát-Nhã nói: “Ngài Quán-Tự-Tại Bồ-Tát do tâm thức an định, trí huệ rộng sâu, mà vượt thoát tất cả phiền não điên đảo vọng tưởng, đạt đến cứu cánh an lạc Niết-Bàn”.
Người trần thế do vọng tình huân tập, tâm thức đang trong giấc ngủ say mê, khóc cười trong đại mộng trần thế. Kẻ hành đạo theo gót chân Phật sống trong trạng thái nửa ngủ nửa thức, nửa tỉnh nửa mê, biết giữ chặt giới định huệ để bảo vệ giới thân huệ mạng không bị ngũ dục thế gian va gió đời cảm nhiễm xâm nhập. Phật, Bồ-Tát là những người thường sống trong trạng thái tỉnh thức, an định giác ngộ, vượt ngoài đại mộng vọng tưởng phàm tâm, nên các Ngài sống tự tại giải thoát, thường chèo thuyền Bát-Nhã đi lại trong biển đời vô minh vọng thức, đánh trống chánh pháp, reo chuông giác ngộ, cảnh tỉnh người đời, đồng thời thả phao giải thoát cưú người trầm luân đang đắm chìm trong biển đời mộng huyễn phiền luỵ khổ đau.
Xưa nay lịch sử nhân loại cho ta thấy “nhất tướng danh thành vạn cốt khô”. Danh vọng được xây bằng tâm thức vô minh tham vọng là thứ danh vọng ô uế mộng huyễn. Tuy vẫn biết mộng huyễn, vẫn biết não phiền chồng chất mà con người vẫn miên man say đắm, không chịu tỉnh thức để chấm dứt cuộc sống đại mộng! Chẳng khác nào các bà mẹ đã khổ đau vì chồng vì con mà vẫn cứ muốn con cái tiếp tục theo con đường tình ái buộc ràng phiền khổ của mình! Do tâm thức chúng sanh mê vọng vô thường, nên tiếng cười mừng vui danh lợi chưa trọn thì đã tiếp theo tiếng than nước mắt thất vọng. Nụ cười của người trần thế quả thật ngắn ngủi mong manh, mà tiếng khóc đã vây quanh suốt đời! Điều đó rõ như ban ngày và dẫy đầy cõi trần thế, như bọt bóng trong lòng bàn tay. Thế mà người không chịu để ít phút giây nhìn kỹ suy tư, lại cứ suốt ngày đem tâm dong ruổi chạy đông rượt tây để rồi:
Vẫy vùng rồi cũng ba gang đất,
Một nắm rêu phong phủ nhạt màu!
Có sự an lạc nào bằng sự an lạc của tâm hồn thanh tịnh tỉnh thức. Có sự đầy đủ nào bằng sự đầy đủ của người biết sống tri túc buông xả. Có sự giàu sang phú quý nào bằng sự giàu sang phú quý của người có tâm từ bi vị tha bố thí. Người đời lúc nào cũng cảm thấy mình nghèo thiếu, vì không biết sống tri túc, buông xả, vị tha, bố thí. Đời người vô thường chẳng được bấy lâu, mà sao con người không chịu ngừng nghỉ tham tâm chụp bắt bóng danh lợi, để hưởng thanh nhàn giàu sang hạnh phúc? Một khi lòng thanh tịnh tỉnh thức biết trau giồi đức hạnh là lúc trời xuân tràn ngập tâm hồn. Chỉ có hạnh phúc của tâm hồn thanh tịnh tỉnh thức, biết sống với đức tánh hỷ xả vị tha, thì mới thật sự trọn hưởng giàu sang hạnh phúc muôn đời, mới thật sự thưởng thức trời xuân chơn thường an lạc.
Trong ý nghĩa đó, bút giả ghi lại dòng tâm thức của mình chảy dài với thời gian và trải rộng với hoàn cảnh. Bởi xúc cảnh sanh tình, mùa tiết đến đi, cảnh ngộ trùng phùng, nên văn ý có lúc trùng điệp. Nhưng dù sao đó cũng là tâm ảnh cảnh huống của bút giả trải qua.
Trời xuân tràn ngập nơi lòng và thể hiện trên môi người thanh tịnh tỉnh thức biết sống đời hỷ xả vị tha. Nào! Chúng ta hãy tĩnh tâm lần dở trang sách để cảm nhận trời xuân, xuân đời, xuân đạo, xuân người giác ngộ và xuân kẻ mê tình.
Hoa-Kỳ, Xuân Bính-Tý 1996
Thích-Đức-Niệm
Mùa Xuân Hạnh Phúc
Người sống trên đời, ai cũng có một thời xuân xanh, ai cũng mong ước mình được hạnh phúc mãi mãi. Nhưng trên thực tế thì thời xuân xanh rồi cũng qua đi và hạnh phúc cũng chẳng mấy khi trường tồn.
Tại sao thời xuân xanh lại trôi qua và hạnh phúc chẳng mấy khi trường tồn? Bởi tâm chúng sanh vô thường biến đổi không cùng, như ngựa không cương dong ruổi đồng nội, như vượn khỉ chuyền cành không phút giây ngừng nghỉ. Tâm người phút trước nghĩ như thế này, phút sau nghĩ như thế khác. Giờ trước vui, giờ sau buồn. Ngày hôm nay thương, ngày mai lại ghét. Tháng này phát tâm hành thiện tu học, tháng sau thối thất đạo tâm. Tâm ý lăng xăng như ngọn sóng triều trong cơn gió lốc. Bởi tâm biến chuyển không ngừng, nên dẫn tạo thân vô thường và theo đó hình thành hoàn cảnh vật đổi sao dời, ruộng dâu cồn bể.
Tâm là chánh nhân đã bất định, nên hình thành vạn cảnh muôn hình vạn trạng sự vật chuyển biến đổi thay, và cứ như thế quay cuồng muôn đời suốt kiếp không bao giờ chấm dứt. Tâm biến chuyển, sự vật theo đó đổi thay tạo thành kiếp của chúng sanh từng giây từng phút biến động hồi hộp lo âu không tìm thấy đâu là bóng hình của mùa xuân hạnh phúc chân thật trường cửu.
Tâm ô trược phức tạp uẩn khúc, nên tạo thành cảnh đời bất tịnh tạp loạn lắm nỗi đắng cay. Tâm khi nầy khi khác, khi thiện khi ác, khi phấn chí lúc bi ai, do đó tạo thành cảnh đời thạnh suy, thăng trầm, thanh bình, chiến loạn. Tất cả đều do tâm. Kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tâm như công họa sư, tạo chủng chủng chư pháp”. Nghĩa là tâm như người họa sĩ tài ba, vẽ vời ra các cảnh vật thiên sai vạn biệt.
Trẻ thơ sống với cha mẹ ngày ngày được sự nuông chiều, mọi điều ước muốn cha mẹ đáp ứng đầy đủ, không thiếu một thứ gì, thật là cực kỳ êm đềm hạnh phúc. Nhưng sau đó khởi lòng yêu đương, ái tình vương vấn, nên sanh ra lắm chuyện hẹn hò nghi kỵ hờn dỗi dẫn đến nói dối mẹ cha, từ từ xa dần tình thương gia đình anh chị em, xem thường tình thương của cha mẹ, xao lãng học hành, từ đó tâm thần bất an, đầu óc hoang mang suy tư nghĩ nhớ bóng hình vơ vẩn, dẫn đến tâm lo trí rối, thân thể mỗi lúc mỗi mỏi mòn ốm gầy xanh xao, tạo thành bệnh hoạn v.v… cũng từ đó kết thúc thời xuân xanh, tan tành hạnh phúc, chỉ vì một chút móng khởi vọng tâm. Do tâm vọng động biến đổi dẫn đến thân thể chuyển thay, hình thành dây chuyền ảnh hưởng đến gia đình xã hội hoàn cảnh. Thế nên kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tâm sanh nên các pháp sanh. Tâm diệt thì các pháp diệt. Người thể đạt lý này, đồng giác tánh như Phật”.
Một chú điệu từ thuở bé thơ, theo thầy học đạo suốt mười mấy năm trời, tâm hồn thư thái sáng sạch như buổi bình minh, sống bên cạnh thầy, ngày ngày vui với hoa rừng chim muôn dã thú không gợn chút âu lo tư lự buồn phiền, lòng nhẹ như áng mây bay, tâm thanh tịnh thơm lành như hoa rừng sáng sớm rạng đông, trí trong mát nhẹ nhàng như những hạt sương buổi sáng lóng lánh trên cành, suốt mười mấy năm trời với cuộc sống trong lành thanh đạm an nhàn giải thoát:
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời
Có những đêm trăng, sau giờ nghe thầy giảng kinh kể chuyện đạo, chú điệu một mình dưới mái am tranh thưởng thức ánh trăng thanh mát dịu với cõi lòng an lành thanh thoát thênh thang. Thỉnh thoảng vài chú thỏ rừng, đôi ba con nai nhỏ, năm bảy chàng khỉ tung tăng đến gần bên chú. Chúng ngửi tay liếm chân rồi cắn áo lôi chú ra ven rừng giỡn chơi với chúng như bạn cùng bầy. Đôi lúc những chú thú rừng ngây thơ hiền hòa này mang trái cây rừng đến cho chú điệu mà chúng hái từ non cao rừng thẳm xa xăm. Nhờ vậy mà chú điệu có trái cây xanh tốt cúng Phật dâng thầy và chú cũng có dịp hưởng đủ loại trái cây rừng thơm ngon mà chợ đời đô thị không có. Cuộc sống như thế hạnh phúc hơn gấp muôn triệu lần những mùa xuân xác pháo đầy đường ồn ào huyên náo của thế nhân thị thành. Nhưng với người trần tục thử hỏi mấy ai cảm thấy được mùa xuân tuyệt vời của chú? Chẳng những người đời nặng chĩu lòng trần không cảm nhận được cái thanh thoát hồn nhiên, với cõi lòng thênh thang vô biên cùng vũ trụ của chú điệu, mà còn cho cuộc sống ở chùa quá quạnh quẽ buồn hiu! Chính vì không cảm nhận được sự an lành thanh thoát trong cảnh sống tịch tĩnh thanh sơ, e ngại chú hành đạo chốn núi rừng quạnh hiu khổ cực, nên đã bao lần cha mẹ anh em đến dùng đủ lời ngon ngọt khuyên dụ chú về nhà với gia đình để cùng hưởng cảnh đoàn viên hạnh phúc trong những thú vui dục lạc trần gian.
Mỗi lần bị dụ dỗ như thế, chú điệu chỉ biết im lặng để từ chối. Chú thấy cuộc sống nơi am tranh thanh tịnh với thầy thật là giải thoát, hạnh phúc bao la, không một chút bận lòng. Thời gian lặng lẽ trôi qua theo ngày tháng, chú chả để tâm đến cảnh đời chuyển biến ra sao, chỉ biết sống hồn nhiên vô tư lự, không vướng mắc sự đời. Nhưng cha mẹ chú nào có cảm nhận được sự giải thoát an lạc ấy, nên dùng đủ mọi thứ khổ nhục kế để quyết thuyết phục chú xiêu lòng hoàn tục cho được! Anh chị em chú có lúc đã quỳ hàng giờ lạy ôm chân chú ràn rụa nước mắt với những lời thảm thiết nỉ non khiến cho chú xúc động, lòng nao núng, tâm rung cảm, chí không còn kiên trì, nên một ngày nọ chú điệu xiêu lòng vào lạy thầy từ tạ để theo cha mẹ gia đình về lại thế tục. Thế là ma quyến thuộc đã buộc chặt chú vào lối đi tình cảm, lôi chú ra khỏi cảnh giới an lành thanh thoát của chốn thiền môn, để rồi sau đó từ từ chôn đời sống thanh tịnh của chú vào biển đời ngũ dục phiền lụy.
Chẳng bao lâu, chuyện lập gia đình, chuyện trăm năm môn đăng hộ đối, chú gặp phải người bạn đời (vợ) tánh tình lúc đầu khá tương hợp, lý tưởng dễ dung hòa, nhưng thời gian tâm đầu ý hợp êm ấm hạnh phúc chẳng bao lâu thì ý tưởng mỗi người một hướng, vô hình chung tạo thành cảnh đồng sàng dị mộng, tuy không tan rã, nhưng chú đành phải bóp bụng buồn lòng sống trong câm lặng khổ đau, sống là sống gượng, vì thương các con và để cho cha mẹ gia đình vừa lòng, cũng để người đời nhìn vào còn lấy thể diện! Thực tế cảnh sống gia đình đã làm cho chú âm thầm khổ tâm ray rứt, rồi dần dần về sau, ngày biếng ăn, đêm trằn trọc khó ngủ và dần dần chú trở nên người ít nói, không còn thích thú tiếp xúc với mọi người. Nhiều đêm một mình một bóng suy tư, nghĩ nhớ cảnh thanh tịnh chốn thiền môn, chú tiếc nuối cái thời sống với thầy, cùng đùa giỡn với dã thú hoa rừng sao mà thanh tịnh giải thoát quá, giờ đây còn đâu nữa! Có những đêm một mình nhìn ánh trăng khuya qua cửa sổ, chú tự nghĩ trách thầm cho mình vì một niệm tình cảm vô minh lầm nghe lời quyến thuộc thế tục khuyên dụ mà rời bỏ đời sống quyến thuộc Bồ-đề, đánh mất nguồn sống an lạc!
Biết chừng nào mới thoát được cảnh vợ buộc con trói để trở lại cảnh thiền môn thanh tịnh:
Ta về nơi cảnh tĩnh
Vui lại thiền thống xưa
Trăng nhìn qua kẽ lá
Hoa rừng ngát hương đưa
Suối reo tròn năm tháng
Hoa dại nở suốt mùa…
Nhưng cảnh tĩnh đâu còn nữa! Mà cảnh sống thực tế giờ đây quá phũ phàng, vợ con nhà cửa buộc ràng đủ thứ phiền lụy! Chỉ vì một niệm khởi tâm bất giác xiêu lòng nghe theo lời ngọt mật nỉ non của gia đình bà con quyến thuộc mà dẫn đến sự tan tành hạnh phúc mùa xuân đạo hạnh đã có trong cảnh Phật.
Chú không dám trách tình thương của cha mẹ anh chị em đã đặc biệt dành cho chú, lôi kéo chú xa lánh cuộc đời giải thoát an vui trong chốn thiền môn, để ngày nay phải rơi vào cảnh tục lụy thê thằng tử phược chán chường như thế này, mà chú chỉ tự trách mình thiếu kiên tâm vững chí, chỉ một phút khởi vọng tâm nghe lời dụ dỗ ngon ngot không nhận chân ý nghĩa của tình đời “thương ái là họa hại”, để phải hủy hoại một đời thăng hoa thánh thiện, đánh mất mùa xuân hạnh phúc miên trường trong cửa Phật từ bi mà thế nhân không làm sao có được.
Cửa chùa vốn thanh tịnh hiền hòa dù đó là mái tranh vách lá, nhưng không vướng bận bụi nhơ hơn thiệt thị phi của trần thế. Người Phật tử đến với đạo, nếu biết vận dụng tâm thành, gạt bỏ lợi danh, một lòng chánh niệm chuyên việc tu tâm dưỡng tánh, thì công quả vun bồi phước đức vẹn toàn, hiện đời đạt được thanh tịnh an lành. Một khi tâm thành chánh niệm thì tự nhiên tạo cho mình mùa xuân vạn hạnh vô biên.
Đến chùa học đạo tu tâm mà còn thấy mình có công có danh có quyền có lợi, muốn thầy phải nghe lời mình thế này thế khác để vừa lòng mình, được lòng vợ con bạn bè mình, những người như thế muôn đời vẫn cảm thấy lòng bất an, mùa xuân hạnh phúc vẫn mãi mãi xa vời, và cửa hang ba đường ác đạo sẵn sàng mở toang chờ đón bước vào.
Bởi vì một khi thấy có thì sẽ thấy không, thấy được thì sẽ thấy mất. Tâm bệnh của chúng sanh nếu không tu sửa tánh tình thì sẽ mỗi ngày càng thêm vô minh dầy đặc u muội, từ đó phải khổ lụy vì những thứ có không, còn mất, đắc thất, khen chê. Chính vì tâm chấp trước có không, được mất, đắc thất, khen chê mà đã làm não nề thê thảm kiếp kiếp khách trần danh lợi ái tình. Họ sẽ phải mãi mãi sống trong những mùa đông điêu linh băng giá, và ngàn đời không bao giờ được sưởi ấm ánh xuân dương an lành hạnh phúc thanh thoát.
Kẻ hám danh trục lợi dục tình, dù thân có mang đầy chuỗi hạt anh lạc, mặc áo của thần tiên thánh Phật thì áo chuỗi đó cũng trở thành áo ma chuỗi đá, chỉ để che đậy cái thân xác dục vọng mà thôi. Tâm nặng lợi danh tranh hơn hận thua, mà xây chùa đúc tượng thì chùa đó dĩ nhiên Phật không dám ở, tượng đó tất phải quỷ tàng hình. Thậm chí họ có tự vẽ vời giả trang ngồi tòa sen hay phóng hào quang thì những thứ đó cũng trở thành đồ vàng mã rơm rác. Kẻ tà niệm cho dù có thuộc làu kinh điển nói cũng trở thành lời của tà ma, bởi do bản chất của họ là tà tâm tham vọng, chẳng khác nào bình chứa rượu lâu năm không xúc rửa chùi lau, đem nước đổ vào thì nước đó tất nhiên hôi mùi rượu. Huống chi họ nhận là Phật tử thì đó là loài ma vương tham vọng ngụy hình để nhập vào hàng tứ chúng đệ tử Phật với ý đồ cầu lợi tìm danh tranh giành lũng đoạn, khiến cho người hoài nghi Phật pháp, làm cho Phật pháp mau suy tàn! Kinh Phật dạy: “Kẻ tà nói chánh pháp, chánh pháp biến thành tà. Người chánh nói tà pháp, tà pháp biến thành chánh”.
Những người đã có tà niệm lợi danh thì ở đâu, đến đạo tràng nào, trước sau gì cũng tạo sự ồn loạn phiền não nghi kỵ cho đại chúng, và cuối cùng thủ đoạn ăn-không-được-thì-khuấy-cho-hôi, được-làm-vua-thua-làm-giặc, có làm như thế tặc tâm ác ý họ mới an vui hả dạ.
Ngày xưa Phật còn tại thế cũng đã có xảy ra những chuyện tương tự. Ngày nay vào thời mạt pháp, cách Phật đã xa, nhân tâm lại càng vọng động, đạo tâm suy vi, thì tình trạng phiền nhiễu này lại càng thêm dẫy đầy trong cửa Phật! Vì vậy, những ai còn nặng tâm phàm phu, không đủ nghị lực thanh tịnh hóa thân tâm thì muôn đời khó mà cảm thấy được mùa xuân hạnh phúc.
Xuân tết nhà Phật thường gọi là xuân Di-Lặc. Tại sao gọi là xuân Di-Lặc? Lý do là vía của đức Di-Lặc đúng vào ngày mồng một Tết. Với đức tánh hỷ xả, với nụ cười cởi mở hả hê, với gương mặt tròn đầy, thân hình nở nang, thể hiện thật tánh vô tư tự tại với các chú lục tặc, Ngài hoàn toàn hiển lộ trạng thái an nhiên hỷ xả, ai nhìn vào cũng sanh tâm hoan hỷ. Đức Di-Lặc tượng trưng cho niềm an vui hạnh phúc vô biên muôn thuở. Ở nơi Ngài tỏa ra bầu trời xuân an lạc. Ngày xuân Tết là ngày vui mừng hoan hỷ, ngày tràn đầy hy vọng hạnh phúc của thế nhân. Thế nên, nhà Phật lấy niềm hoan hỷ của đức Di-Lặc tượng trưng cho mùa xuân hạnh phúc chơn thường bất diệt tạo niềm hoan lạc cho trần gian.
Nếu mùa xuân là mùa cho mọi người vui cười hạnh phúc, cho hy vọng tương lai tươi sáng, cho một năm tràn đầy ý nguyện, thì chính hạnh hỷ xả của nhà Phật qua nụ cười hoan hỷ bất diệt của đức Di-Lặc có thể hình dung mùa xuân hạnh phúc muôn đời.
Người có đức tánh hỷ xả là người có bầu trời xuân hạnh phúc. Xả là xả bỏ không luyến tiếc, không câu nệ chấp nê, cái gì qua thì cho qua, không vướng tâm bận lòng, dứt khoát buông xả như gió thoảng, như tiếng vang, như nhạn bay qua mặt hồ, như gió thoảng qua cành trúc, như người có lỗi lầm với mình thì mình xả bỏ tha thứ, không chấp trách, không hạch sách, không để tâm ghim gút hận thù. Như thế thì mình và người thông cảm hòa vui. Nhờ đó dễ dàng tạo cho nhau mùa xuân an lành hạnh phúc chân thật:
Người có lỗi lầm ta thứ tha
Khoan dung đại độ tánh ôn hòa
Đã không buồn tức mà yên tĩnh
Mở rộng lòng thương sống vị tha
Những ai trong cuộc đời một khi những thứ quyền cao chức trọng danh vọng giàu sang rời khỏi tầm tay mà lòng vẫn thản nhiên không mảy may xao xuyến luyến tiếc, thì người đó đích thực thể hiện cõi lòng tự tại thanh thoát, xem nhẹ danh lợi ái tình chẳng khác như cánh hoa hồng gai từ tay rơi xuống đất. Những người như thế lòng tràn đầy mùa xuân hạnh phúc, thong dong tự tại giữa dòng đời phiền lụy trầm luân.
Các bậc thánh nhân giác ngộ xem danh lợi ái ân như rác bụi dính trong con mắt nên các Ngài lúc nào cũng thoải mái tự tại an vui trước cảnh đời thạnh suy tan hợp, qua lời khuyên của bậc cổ đức: “Ngộ thanh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết.” Đại ý rằng, tài hoa sắc đẹp trên đời chẳng qua là trò chơi bóng nước, như cây mọc trên đá; danh vọng tiền tài làm hại đạo tâm như rác bụi dính vào mắt. Người biết xem nhẹ lợi danh, khinh thường quyền chức, dứt bỏ dục vọng, khi danh lợi ái tình rơi mất thì như rũ sạch bụi áo, người ấy chắc chắn sẽ tạo cho mình mùa xuân hạnh phúc chân thường bất diệt và sẽ thưởng thức vẻ đẹp muôn hình muôn sắc của trời xuân bất tận.
Những ai trong chúng ta nếu liễu đạt cái thân này là giả hợp tạm bợ, sự còn mất của thân nầy chẳng khác nào như bánh đất của trẻ con chơi, thì người đó liễu thoát sanh tử. Cái thân này sống qua hơi thở, thở ra mà không hít vào là bước vào đời khác. Mạng sống mong manh như sương trên đầu cành buổi sáng sớm, như áng mây hồng vào lúc hoàng hôn. Hôm nay còn vui cười xum hợp chưa chắc còn được ngày mai. Sự lìa xa thân thuộc để ra người thiên cổ, giờ phút trước mạnh khỏe khó lường được giờ phút sau, đấy là chuyện thường tình thế gian. Sự đời thay đổi chóng mau trong khoảnh khắc. Thân này đã không chắc thật, thì tiền tài danh vọng là những thứ chúng ta tạo ra, ngoài thân ta, là thứ phụ thuộc chúng ta thì làm sao được lâu bền? Điều này rõ như ban ngày. Thân ta đã không chắc thật thì cảnh vật chung quanh nào có trường tồn? Người có tâm chí cầu đạo Bồ Đề sao không lãnh hội, để sớm đổi cái giả tạm mà nhận lấy cái chân thường, từ đó có được mùa xuân vạn hành miên trường?
Để cho thế nhân triệt ngộ chân tướng của sự vật ở đời là vô thường ngõ hầu từ đó tạo cho con người tỉnh thức để trọn hưởng bầu trời xuân hạnh phúc, nên Vạn-Hạnh thiền sư đã có bài kệ khai thị đại chúng:
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Xá chi suy thịnh cuộc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành
(Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.)
Cùng ý nghĩa đó, kinh Kim-Cang đức Phật dạy rằng:
Xưa nay vạn vật trên đời
Bọt bèo mộng huyễn có rồi hoàn không
Kìa xem điện chớp trên không
Hạt sương sáng sớm đem lòng quán xem.
(Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán.)
Người biết sống trong chánh niệm, khéo điều tâm khiển thân, chân thành hành đạo, tu tâm dưỡng tánh, từ đó tạo thành phước đức, thì mặc sức hưởng mùa xuân hạnh phúc. Ngược lại, kẻ không biết sống trong chánh niệm, lệ thuộc ngoại cảnh, chạy theo tà tâm tham vọng thúc đẩy thì sẽ phải trôi lăn đắm chìm trong biển đời danh lợi thị phi, nổi trôi trong dòng sông ái ân dục vọng, sống ngày nào chỉ tạo thêm tội lỗi. Kinh Bát-Đại Nhân-Giác đức Phật dạy: “Tâm là nguồn ác, thân là rừng tội” (Tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu). Thế nên Cổ-đức nói: Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.
Người đắm chìm trong vòng tâm thức vô minh dục vọng, không biết hồi tâm giác tỉnh thì cứ mải đắm đuối theo đuổi danh lợi, tranh đua hơn thiệt tất phải không bao giờ có được mùa xuân hạnh phúc. Mùa xuân hạnh phúc lúc nào cũng tràn ngập trong cuộc sống của những ai biết sống trong chánh niệm, biết sống thúc liễm thân tâm, biết sống với cõi lòng thanh tịnh từ bi, hỷ xả, vị tha, và trí túc.
Không sống theo dục tình tham vọng là cõi lòng được an lạc tràn ngập trời xuân.
Ngày xuân với người Phật tử
Cứ mỗi lần tròn mười hai tháng, ba trăm sáu mươi lăm ngày, đó đây không ai bảo ai, mọi người tự cảm thấy lòng mình trỗi dậy niềm hân hoan như muôn ngàn tia sáng bình minh, chan hòa hương sắc của đất trời, khắp nơi vũ trụ gió thoảng ngàn phương, phưởng phất ánh xuân dương, tất cả như hội tụ nơi lòng nhân thế. Trên gương mặt mọi người hiện nét tươi hẳn lên, điểm trên đôi môi nụ cười cởi mở hy vọng. Hy vọng một năm mới tốt lành hạnh phúc sáng sủa.
Xuân về hoa lá nẩy nở tốt tươi như nụ cười vũ trụ. Nhưng thật sự cảnh vật xanh tươi trong ngày xuân tết chỉ có với quê hương Việt-Nam, trên đất mẹ chôn nhau với tiếng khóc chào đời, chứ người Việt-Nam tỵ nạn cộng sản còn mang kiếp sống tha hương trên đất khách quê hương, thì mỗi độ xuân về nhìn thấy khắp nơi nơi phơi bày băng tuyết giá lạnh, cỏ cây úa lá trơ cành. Nhưng quê hương Việt-Nam giờ đây dưới chế độ vô thần cộng sản, dân chúng đâu còn lòng dạ bình an tự do hưởng xuân, mà xuân chỉ có cho đảng và cán bộ ưu tiên đặc quyền hưởng lợi của kẻ thống trị!
Xuân tết với người thế gian, ngoài việc cúng quảy tổ tiên, tiếp theo đó là những cuộc liên hoan tiệc tùng rượu thịt, sòng bài canh bạc nhảy nhót say sưa. Thế nhưng tiếng cười mừng xuân chưa dứt, lời chúc tụng trên môi chưa tròn, là tiếp theo những nỗi lo rầu bệnh hoạn do những cuộc vui chơi dục lạc chè chén quá độ trong ba ngày xuân. Cảm nhận điều đó nên thi nhân nói:
Xuân cho thỏa chí tang bồng
Thịt quay rượu nặng thỏa lòng ai ơi!
Xuân trong tiếng hát câu cười
Hả hê phỉ sức một đời người thôi.
Xuân đối với người đời là dịp nghỉ ngơi đôi ngày để hưởng thụ, chè chén cuộc cờ, hoặc ngao du thưởng ngoạn lấy lại sức để rồi tiếp tục sáng chiều bôn ba đông tây phấn đấu kiếp trâu cày cho kế sanh nhai trong suốt năm mới. Nhưng cũng trong dịp xuân tết, bên cạnh những tiệc tùng rượu nồng thịt thắm, áo gấm nữ trang lòe loẹt, thì đó đây cũng có biết bao người đầu tắt mặt tối sống một đời hẩm hiu thiếu thốn nơi ăn chốn ở trăm bề! Nên chi khi xuân về khiến cho lòng họ tê tái tủi phận xót xa:
Xuân đến làm chi thêm tủi lòng
Với xuân tôi trót chẳng chờ mong
Nắng sương trọn kiếp còn chưa đủ
Xuân đến lòng tôi thêm não nùng
Đâu phải xuân tết đến ai cũng vui mừng, khoe khoang trang điểm tiệc tùng. Mà lắm khi xuân tết đến làm cho người đang sống trong gia cảnh thiếu trước hụt sau, kẻ lỡ thời thất vận buồn đau não nề:
Xuân đến làm chi đấy hỡi xuân?
Lòng tôi se thắt lại vô ngần
Hoa cười áo thắm trong xuân ấm
Lòng tôi vẫn buốt lạnh căm căm!
Xuân với người Phật tử chân chánh có tâm hạnh tu hành buông xả thì có ý nghĩa đặc biệt hơn người trần thế. Người Phật tử chân chánh biết sống tri túc, suốt rõ nghiệp duyên nhân quả, sống với thực tại, không hăm hở tham trước khi việc đã thành, không đau khổ sầu thương tiếc nuối khi thất bại tan tành, không vui buồn theo sự còn mất thịnh suy, nhất là không đắm mình trong ngũ dục lạc, nên không xảy ra bệnh hoạn tai nạn một cách oan uổng, cũng không có trạng thái mong muốn vui buồn quá độ.
Xuân đến, ngoài bổn phận con cháu đối với ông bà, ngoài bổn phận hậu bối đối với tiền nhân, người Phật tử còn có bổn phận đối với chính mình. Bổn phận với chính mình là bình tâm kiểm điểm lại mình, hồi quang phản tỉnh nơi mình, suốt một năm qua có được giác ngộ trên đường giác ngộ thánh thiện hóa chưa? Có tu tâm sửa tánh hành thiện và phát nguyện tinh tấn hơn chưa? Với tinh thần từ bi lợi tha hỷ xả mà mình thường đọc tụng luận bàn thì đã làm gì cụ thể chưa? Nếu chưa là còn thiếu bổn phận, là thoái hóa, là để ngày qua tháng lại thoạt đã bạc đầu mà chưa làm được gì, chưa bước thêm được bước nào trên đường thánh thiện, thì nên sanh tâm hổ thẹn, với chính lòng mình, hổ thẹn với bạn hiền, hổ thẹn khi mình nghiêng mình cúi đầu lễ Phật, vậy thì tự nguyện năm mới cố gắng tinh tấn hơn nữa. Nếu không, thì sẽ mắc cái lỗi cô phụ lời Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành. Các con nên cố gắng tu hành thì cũng sẽ thành Phật như ta.” Nếu không như thế, chẳng những phụ lòng từ bi của Phật mà ta còn vô tình phủ nhận khả năng thánh thiện của chính ta. Bởi đức Phật đã xác quyết tuyên bố rằng: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.”
Mỗi lần xuân đến, người Phật tử phải lặng lòng tịnh tâm phản tỉnh nhớ rằng: Mỗi lần xuân tết đến là ta đã âm thầm xa dần bến bờ tráng kiện sinh lực tuổi trẻ. Đồng thời ta cũng bước dần đến hố thẳm già yếu suy tàn. Phật dạy:
Ngày nay đã qua
Mạng người giảm dần
Như cá cạn nước
Nào có vui chi.
Buổi mai mùng một xuân tết đó đây phơi bày xác pháo đầy đường, muôn hoa tươi nở thì ngay trong khi đó đã âm thầm báo hiệu hiện tượng héo hon úa tàn tiếp theo:
Hoa nở để rồi tàn
Trăng tròn để rồi khuyết
Bèo hợp để rồi tan
Người gần để ly biệt
Hoa xuân không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in vết đau.
Chẳng những vạn vật cỏ cây, mà ngay con người cũng theo thời gian mà tàn phai hương sắc:
Rồi một ngày kia hương sắc tàn
Tuổi đời chôn lấp bụi trần gian
Tới lui mấy độ quan san ấy
Thắm gửi cho đời một tiếng than.
Người Phật tử không để cho ngày tháng trống không trôi qua vô ích, rồi buồn thương cho hương sắc tàn với thời gian năm tháng, mà phải tinh tấn với thời gian bằng cách tu tâm, sửa tánh, chánh niệm, làm lành, niệm Phật, tụng kinh, tham thiền để tiến dài tiến mãi, tiến mau trong ánh đạo vàng giác ngộ giải thoát. Có ý thức về lẽ sống, thì đời sống mới có ý nghĩa. Và như thế lòng an lành, tâm hoan hỷ, sống tự tại hài hòa trong ánh xuân tươi mát giải thoát. Đấy mới thật sự đạt ý nghĩa ngày xuân của người Phật tử.
Phật tử mà không tập sống theo lời Phật dạy là tự đày đọa mình, vong ân Phật.
Xuân Di Lặc
Hôm nay là ngày xuân tết, ngày mừng vui của mọi người, ngày ai nấy tràn đầy hy vọng nơi lòng. Dù đang sống ở đâu, ở vào lứa tuổi nào, trong ngày đầu năm xuân tết, cũng đều cảm thấy nhen nhúm nơi lòng niềm hân hoan, rộn ràng bừng dậy nguồn sống hy vọng tươi sáng khắp tâm hồn.
Niềm vui tự nhiên nẩy nở nơi lòng mọi người trong ngày xuân tết, nên nhà Phật thường chúc cho nhau: “Năm mới chúc quý bà con đạo hữu trọn hưởng mùa xuân Di Lặc.”
Xuân Di Lặc là xuân hoan hỷ, niềm hoan hỷ tràn đầy vô biên, không vướng mắc, không bận lòng, không lo âu, không phải là xuân vui theo thời gian mùa tiết đến đi, mà là xuân thường nhiên bất diệt, xuân miên viễn chơn thường, xuân phát triển khả năng thánh thiện.
Nói đến đức Di Lặc, người ta liền nghĩ ngay đến hình ảnh dáng vóc của một ông Phật bụng phệ, miệng cười hả hê toe toét, với mấy trẻ nít trèo lên mình nghịch phá, mò rún, kéo tai, rờ miệng, thọc mũi làm đủ trò nghịch giỡn. Trong lúc đó ngài Di Lặc vẫn tươi cười xuề xòa tự tại không chút tỏ ra chướng ngại bực mình.
Nụ cười Di Lặc thật tươi, thật hồn nhiên, thật cởi mở, biểu lộ trọn vẹn cõi lòng rộng mở bao la, buông thả hoàn toàn. Nụ cười của đức Di Lặc thể hiện tâm hồn thanh thản an nhiên tự tại, không còn mảy may u ẩn chướng ngại nơi lòng. Phải nói là nụ cười cởi mở giải thoát có một không hai trên trần thế. Nụ cười Di Lặc là nụ cười muôn thuở, muôn thời, vượt ngoài giới hạn buộc ràng thời gian không gian và hoàn cảnh không còn mảy may dính mắc. Từ hình thái đặc thù này, quý vị có thể lãnh hội được ý nghĩa tại sao ngày xuân tết, nhà Phật gọi là xuân Di Lặc và chúc cho nhau trọn hưởng mùa xuân Di Lặc.
Đức Di Lặc tượng trưng cho nguồn vui bất tận, an nhiên tự tại, hạnh phúc muôn đời, vượt ngoài vướng mắc hoàn cảnh, thời gian và không gian. Trong ý nghĩa đó, nhà Phật mong cho mọi người có được đời sống tự tại, giải thoát an vui, hạnh phúc chân thật trường cửu như đức Di Lặc và đặc biệt đối xử với nhau chân tình vui đẹp hài hòa như cảnh năm chú bé chọc phá đủ điều đủ cách mà Ngài vẫn nở nụ cười hỷ xả trên môi.
Làm thế nào để có nụ cười an lạc hạnh phúc chân thật trường cửu như đức Di Lặc? Nụ cười tràn đầy hoan hỷ đó chỉ có với những ai có tâm hạnh hỷ xả lợi tha. Lòng vị tha, hạnh buông xả thì tự nó đã chứa chan chân thật hạnh phúc. Ta thấy mấy đứa bé trèo leo khuấy phá trên người đức Di Lặc mà Ngài vẫn an nhiên cười hả hê, tức là tâm ngài đã hỷ xả tự tại vô ngại, khai thông rộng mở cánh cửa lòng, không ranh giới, không phân biệt cách ngăn nhân ngã, nên không còn ranh giới giữa mình với người, mình với hoàn cảnh. Ai biết sống đời buông thả, hỷ xả, vị tha là người mở rộng cánh cửa hạnh phúc cho mình và cho đời. Nên kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật dạy người tu hành muốn được tự tại giải thoát thì phải biết sống “bất tùy phân biệt.” Tức là không phân biệt chấp trước dính mắc theo trần cảnh. Nếu còn phân biệt chấp trước theo trần cảnh tức là tâm còn sanh khởi bỉ thử đắc thất, tam độc tham sân si theo đó mà sanh khởi. Còn tam độc là còn sống trong hẹp hòi ích kỷ, nghi hoặc bất chơn, tức là còn chìm trong biển sóng gió ba đào phiền não khổ lụy, còn trôi lăn trong dòng thác lũ sanh tử luân hồi.
Người đời sở dĩ khổ đau bệnh hoạn bởi do tâm phân biệt chấp trước. Tâm phân biệt cái này tốt đẹp thì mong muốn, mong muốn chụp bắt không được thì sanh ra buồn khổ. Tâm chấp chặt vào tiền của, vợ con, ái tình, danh vọng thì lòng luôn luôn bất an. Bởi vì tâm buồn vui theo những thứ này, còn thì vui, ly tán thì thất vọng buồn phiền đau khổ. Một khi chưa đạt lý vô thường, thế gian vạn vật hợp tan mộng huyễn, nên người đời cuồng dại sống theo tâm phân biệt chấp trước. Do tâm phân biệt, nên đối với sự việc gì không thích thì dù cho có tốt mấy cũng cho là xấu, rồi lạnh nhạt, ghét bỏ, nguyền rủa, tìm cách ám hại. Còn nếu thương thích thì dù có hư xấu ác độc cũng khen ngợi bao che. Con người do tâm phân biệt chấp trước nên phải luôn luôn dính mắc, sống trong trạng thái dày vò cuồng si đau khổ suốt kiếp. Tâm an thì lý đắc, thân khỏe, tinh thần vui. Tâm bất an thì lý bất đạt, thân bệnh hoạn, tinh thần suy.
Muốn hết đau khổ, ta nên tập sống đời vị tha hỷ xả, mở rộng cõi lòng thương người thương vật như chính tự thương ta. Việc gì qua nên cho qua, quên đi, đừng thắc mắc nhắc nhở ghi khắc chấp chặt nơi lòng. Càng khắc sâu trần cảnh danh lợi ngũ dục lại nơi lòng, thì càng tăng thêm cố chấp tiếc thương buồn phiền. Còn cố chấp thì tâm thần càng chật hẹp bất an, cản ngăn bước tiến bộ trên quang lộ an lành. Tâm lượng bị thu hẹp, thì vũ trụ tâm thức không còn bao la tươi đẹp thanh bình. Tâm cố chấp thì không khác gì người khát uống nước biển, càng uống càng khát. Tài sắc danh lợi ái ân ngũ dục tình đời chỉ là trò chơi nguy hiểm, nhận chìm con người xuống hố thẳm khổ lụy tội lỗi. Cổ đức đã nói: “Ngộ thinh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết.” Nghĩa là người muốn có đời sống tiến bộ trên quang lộ giác ngộ hạnh phúc thì phải biết nhận thức âm thanh danh sắc ngũ dục ở đời như hoa trồng trên đá, như bụi vướng trong mắt, hàm chứa tánh chất vô thường mộng huyễn. Nếu mê muội tham đắm chấp trước ngũ dục (tài, sắc, danh lợi, ăn, ngủ) thế gian, thì vô tình để đời mình rơi vào hầm hố chông gai của luân hồi sanh tử đau khổ triền miên. Dục lạc trần gian có năng lực cuốn phăng như dòng thác lũ đẩy trôi nhận chìm bao kiếp người. Thi nhân đã bày tỏ quan niệm đó: “Cuồn cuộn Trường Giang đăng lưu thủy thảo hoa đào tận anh hùng; thị phi thành bại chuyển đầu không, thanh sơn y cựu tại, cơ độ tịch dương hồng.” Nghĩa là, dòng nước sông Trường giang cuồn cuộn chảy xoáy rễ trốc gốc cuốn đi hết bao cỏ cây hoa lá anh hùng. Danh lợi thị phi thành bại ở đời rồi cũng trắng tay không trong một sớm một chiều. Núi cây muôn đời xanh biếc, bóng chiều mấy độ tà dương.
Có lẽ nhận chân được tánh chất huyễn mộng của dục lạc cảnh trần, mặc dù tánh chất huyễn mộng, nhưng chúng thể hiện qua tướng trạng ngũ dục lạc với sức hấp dẫn cuốn lôi nổi chìm người đời một cách phi thường làm cho lớp lớp người trần gian đau thương vì đắm đuối, để rồi âm thầm thiêu hủy khả năng cầu tiến trên đường thánh thiện giác ngộ giải thoát. Tham đắm ngũ dục thế gian chẳng khác như người đam mê thuốc phiện, say sưa tửu sắc cờ bạc, mặc nhiên tự hủy hại mình trên đường lập nghiệp, biến thành nhân cách sa đọa, nên thi nhân đã khéo nhắc nhở:
Nước sông cuồn cuộn cuốn trôi,
Lôi kéo bao kẻ anh hùng
Nhận chìm kiếp sống thanh cao
Đào thải kẻ háo danh sắc
Núi xanh vẫn như thuở nào
Thi nhân còn phác họa bức tranh vân cẩu tuyệt đẹp để nói lên tánh chất vô thường huyễn ảo của thế sự nhân tình hợp tan, kiếp sống con người quá đỗi mong manh như gió thoảng mây bay:
Mây tương cẩu trắng xanh xanh trắng
Trắng rồi xanh, cuộc thế thể chiêm bao
hoa hải đường tươi héo héo tươi
Tươi lại héo người đời như ngọn gió
Sự đời như mây tan hợp. Kiếp sống con người như gió thoảng, như chiêm bao, mà con người vẫn lao đầu chụp bắt lợi danh sắc tình giả huyễn không lúc nào thôi. Giáo lý nhà Phật trình bày cho người trần thế nhận chân thế sự vô thường, mạng người trong hơi thở. Có nhận chân như vậy để không đắm đuối tiếc nuối khổ lụy vào dục lạc vô thường còn mất, để còn có cơ hướng đến cái chơn thường, ngõ hầu được sống trường cửu với tánh linh ngời sáng an lạc, chứ không phải để bi quan yếm thế, trốn tránh cuộc đời. Cũng như người nào ý thức biết nhận mình dốt, gắng công chịu học để cầu tiến thì trở nên người kiến thức khôn ngoan. Biết mình bịnh, chịu cầu thầy hay thuốc tốt chữa trị thì thân tâm trở nên lành mạnh. Có ý thức mình đang sống trong hoàn cảnh vô thường bất an không hạnh phúc chân thật, thì mới nỗ lực tìm cách tạo cảnh sống an lành hạnh phúc chơn thường. Tất cả sự tiến bộ hạnh phúc của con người đều do chính con người biết ý thức nhận định nhìn rõ sự thật. Tất cả đều do tâm tạo. Tâm sáng lành thì tạo hạnh phúc. Tâm chân thật thì nhận hưởng chơn thường. Tâm tham độc thì tạo đời sống bất an.
Làm thế nào để đạt được an lạc chơn thường, hạnh phúc trường cửu? Điều nầy chỉ có một con đường duy nhất là tu. Tu là sửa. Nghĩa là những gì mình vốn đã có rồi, như đồ vật, tánh tình, bây giờ nó hư, nó sai, nó xấu, nên sửa lại cho nó tốt nó đúng. Tức là tâm ta vốn đã có tánh chất thánh thiện từ bi hỷ xả vị tha rồi, nhưng ta quên đi, lại chạy theo mộng huyễn tình thức tham dục sân si làm cho vẩn đục lu mờ cái đặc tánh thánh thiện từ bi hỷ xả cao đẹp trong ta, để rồi ta phải chịu lắm nỗi sầu bi khổ lụy nổi chìm. Chẳng khác nào như lư đồng vốn sáng bóng, nhưng bị gió lộng không khí đốt mà thành ten ố. Bấy giờ muốn chất đồng sáng bóng hiển lộ thì phải đánh bóng. Cũng đồng ý nghĩa nầy, học trò ham chơi không chịu đến trường chăm học; kẻ đồng tử con của nhà triệu phú nghe theo lời dụ dỗ của bạn bè xấu ác bỏ nhà trốn cha mẹ, để đam mê rượu chè cờ bạc xì ke ma túy; kẻ đi ăn xin, chỉ vì quên lời dặn của mẹ cha lấy ngọc cất trong lai áo ra dùng, nên phải cực khổ đói rách dày vò lang thang khắp chốn.
Chúng sanh cũng giống như thế. Trong mỗi chúng sanh đều có tánh từ bi hỷ xả trí huệ. Đức Phật tha thiết khuyên chỉ khai thị cho chúng sanh nên sớm trở về với đặc tánh thánh thiện trí huệ từ bi hỷ xả của chính mình đó khai triển để sống đời vị tha cao thượng, để trọn hưởng bầu trời bao la hạnh phúc. Nhưng chúng sanh không nghe theo, lại chỉ thích sống theo phàm tình dục vọng ích kỷ chấp trước hình danh sắc tướng, đắm mê mộng huyễn ái tình nhục dục xác thân tham ăn mê ngủ, đua đòi rượt bắt đủ thứ phù hoa danh lợi thế gian, mà không bao giờ dừng bước biết đủ. Nào có biết danh lợi ái tình thế gian vừa nắm trong tay, thì xảy mất liền sau đó. Chụp bắt dục lạc ở đời chẳng khác nào chụp lấy bọt sóng trên biển, bèo trôi trên sông. Càng chụp bắt danh lợi ái tình thì càng chuốc lấy khổ lụy vào thân, chứ không bao giờ hạnh phúc dài lâu. Thi nhân nói:
Hạnh phúc bọt nước nếu cầm tay
Hỡi người ơi! Trên trần thế vạn ngày
Chưa sánh được một ngày trong đạo giới
Lòng người tối tăm mê muội lấy giả làm chơn, chấp hư làm thật, tự nhận chìm suốt trọn kiếp vào chuyện thiệt hơn, thị phi; suốt tháng năm rắp tâm đuổi bắt danh lợi ái tình huyễn hóa đang chờn vờn trước mắt. Họ đuổi bắt đến kiệt sức uất lòng mà vẫn chưa có phút giây nào tâm hồn thật sống thanh thản. Chẳng khác nào xưa kia có nàng công chúa nhìn những hạt nước mưa rơi phản chiếu dưới ánh nắng ban mai lấp lánh muôn màu sắc, tưởng đó là những hạt ngọc quý đẹp tuyệt trần, quyết đòi lấy cho được những hạt ngọc nước đó xỏ xâu thành chuỗi. Ước muốn không thành nên sanh tâm đau khổ phát bệnh đến gần mất mạng. Nếu không có vị lương y kịp thời đến giải thích làm cho nàng tỉnh ngộ đó là những hạt nước mưa chứ không phải ngọc thật, thì chắc có lẽ nàng sẽ suốt đời ôm lòng ước ao chuỗi ngọc kia mà phải đau khổ triền miên, hủy hoại một đời thanh xuân hương sắc đến tuyệt mạng oan uổng! Vị lương y tượng trưng cho ai? Nàng công chúa kia tiêu biểu cho ai? Xin quý vị giải đáp giùm!
Người đời đuổi bắt phù hoa danh lợi ái tình nào có khác nàng công chúa kia nằng nặc quyết đòi lấy cho được những hạt nước mưa xâu làm chuỗi? Cứ tưởng ý nghĩ của mình là đúng, vật sở hữu của mình là thật, rồi sanh tâm chấp chặt. Nào có biết khi vừa chụp bắt được ngũ dục chưa thỏa nụ cười thì nó đã tan biến không còn! Ước mong chưa tròn thì đã tiêu mất, rồi lại sanh tâm lẫn tiếc thở than! Bướm lượn trên hoa màu sắc tươi đẹp, dáng điệu nên thơ. Rờ tay bắt bướm, thì bướm liền rách cánh rụng chân, thân bướm thành sâu nhộng! Cảm thông nỗi lòng nhân thế, thi nhân diễn tả nỗi xót xa hạnh phúc mộng huyễn của người trần gian và hạnh phúc người biết tu tỉnh với cõi lòng thanh tịnh như sau:
Lấy gió mát, trăng thanh kết nghĩa
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.
Hạnh phúc của thế gian mong manh như bọt nước trong tay. Vui hạnh phúc thế gian là vui ngũ dục lạc. Bản chất của ngũ dục lạc là uế trược vô thường. Hạnh phúc của người liễu đạo là người có cõi lòng thanh tịnh thong dong thì khổ hóa vui. Nên cổ đức cảnh tỉnh người trần thế:
Vui trong tham dục vui là khổ
Khổ để tu hành khổ hóa vui
Ta hãy nghe tăng nhân Thiền Lão sống một đời an bần lạc đạo thanh cao của một nhà tu thanh đạm trong chốn thiền môn, lòng buông thả tất cả việc thế sự, đã kín đáo trao gửi lời nhắn nhủ đến vua Lý Thái Tông, người tượng trưng cho sự sống tràn đầy hạnh phúc trần gian, tột đỉnh danh vọng quyền quý trong thiên hạ:
Nhà vua hỏi: Hòa Thượng sống ở đây bao lâu rồi?
Thiền Lão đáp:
Sống ngày nay chỉ biết ngày nay
Còn xuân thu trước ai hay làm gì
Nhà vua lại hỏi: Thường ngày Hòa Thượng làm gi?
Thiền Lão đáp:
Trúc biếc hoa vàng đây cảnh sắc
Trăng trong mây bạc hiện toàn chơn.
Ta thấy cõi lòng của tăng nhân buông thả tất cả, hài hòa với thiên nhiên vạn vật, giải thoát không còn mảy may vướng bận dính mắc, nội tâm ngoại cảnh rỗng không dung thông, nên lòng của người bao la chan hòa cùng vũ trụ, hài hòa pháp tánh chân như “hiện toàn chơn.” Trong khi đó tâm của nhà vua thì bị giới hạn với thời gian và cảnh vật.
Không phân biệt thì không chấp trước. Không chấp trước thì không dính mắc. Không chấp trước không dính mắc thì không bị lợi danh ân tình sai khiến. Không dính mắc, không bị thế sự cuốn lôi sai khiến thì tự tại vô ngại thản nhiên trước quyền uy danh vọng tình đời.
Một hôm vua nhà Tống trịệu Hòa Thượng Phất Ấn vào triều và ban chiếu chỉ bắt các sư tăng mỗi lần triều kiến nhà vua phải lễ lạy. Hòa thượng Phật Ấn đối trước vua, nghiêm chỉnh đứng thẳng người đáp: “Người đời quý trọng danh lợi quyền uy, vua thể hiện điều đó hơn hết trên đỉnh cao thiên hạ, nên mọi người phục lạy. Còn người xuất gia đầu Phật xem địa vị danh lợi quyền uy như gai trước mặt, như rác trong mắt, phải mau xa lánh ném bỏ. Hoàng thượng cần triệu bần tăng vào triều, chứ bần tăng nào có muốn cân đai võng lọng, danh vọng quyền uy?” Vua Tống nghe, lòng thầm khâm phục gật đầu khen: “chí lý, chí lý! Thật là tâm địa hỷ xả!”
Người chánh tâm cầu đạo giác ngộ là người biết hy sinh tham vọng tự kỷ, tự thân đã buông thả hy sinh tất cả, để kiến tạo đạo tràng xứ xứ, phá lưới nghi tham vọng trùng trùng, để hàng phục ma quân, làm rạng ngời chánh pháp, thức tỉnh quần sanh chứ không phải len lỏi tìm cách quen thân với kẻ quyền thế để phô trương danh vọng của mình. Kẻ thích dựa quyền thế để cầu danh lợi dưỡng là kẻ tục hóa đạo,lấy đạo tạo đời. Chư Phật các tổ nói những kẻ đó “thân tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo,” “lấy đạo tạo đời mong cầu lợi dưỡng.”
Thật là tự tại giải thoát làm sao, khi người càng biết xa lánh danh vọng quyền uy dục lạc trần gian, an bần lạc đạo, thì càng gần ánh sáng giác ngộ của Phật, càng được tự tại giải thoát, như Lục Tổ Huệ Năng đã bốn lần từ chối hoàng đế Võ Tắc Thiên triệu thỉnh về triều để nhà vua sắc phong, cung phụng cúng dường như bậc sư phụ, dù là quyền uy danh vọng của nhà vua trùm khắp thiên hạ, mà Lục Tổ vẫn chẳng vướng bận lòng. Vật chất tham vọng càng cao thì đạo hạnh tâm lành càng thấp. Tổ Liễu Quán vui sống thanh bần hái củi đốt than để hoàn thành đạo hiếu đạo tâm và liễu nghĩa Phật pháp, đã thể hiện trọn vẹn tinh thần tự tại giải thoát đó, khi người bày tỏ với môn đồ trước giờ viên tịch:
Ngoài bảy mươi năm trong thế giới
Không không sắc sắc thảy dung thông
Ngày nay nguyện mãn về quê cũ
Nào phải bận lòng hỏi tổ tông?
Hôm nay ta đang hưởng xuân tết trần gian. Xuân tết trần gian là xuân tết hữu hạn theo tháng theo mùa có đến có đi. Ta nên chuyển xuân tết trần gian thành xuân tết hoan hỷ Di Lặc. Xuân tết Di Lặc là xuân tết chân thật trường cửu siêu việt thời tiết tháng năm. Phật dạy: Tất cả khổ vui thăng trầm vinh nhục mất còn chơn giả đều do tâm người tạo ra. “Tâm xuân vũ trụ đều xuân.” Vậy ta nên thật lòng quán xét lại tự tâm, xem thử hành vi tâm niệm của ta trong năm rồi động tĩnh như thế nào, điều gì sai quấy gây phiền khổ cho mình cho người? Nếu còn ray rứt buồn khổ nơi lòng, thì chính tâm ta quá nhiều vọng động theo cảnh trần, nên chưa giảm thiểu phiền lụy, chưa nhổ sạch gốc rễ ích kỷ tam độc tham sân si. Gốc ích kỷ tam độc còn trong lòng thì đừng mong trọn hưởng mùa xuân Di Lặc.
Đức Phật dạy các Tỳ kheo rằng: “Chừng nào ba con rắn độc tham sân si ra khỏi tâm các ông,lúc đó các ông mới an tâm ngủ.” Lời dạy đó hàm chứa ý nghĩa nhắn nhủ hành giả ngày đêm phải chuyên tâm niệm Phật tham thiền, chuyên cần tu sửa, gột rửa tâm hồn, cho đến khi nào ba con rắn độc tham sân si không còn ẩn núp trong tâm ta nữa, khi đó ta mới thật sự an lành, mới thật sự tắm mát trong ánh sáng mùa xuân Di Lặc. Nếu tâm còn phân biệt hơn thua, quên hồi quang phản chiếu tự tâm để sửa sai lầm vọng niệm, cứ tiếp tục đắm chìm trong vọng thức mê tình thị phi, thì khó có mùa xuân Di Lặc nơi lòng.
Trong giờ phút thiêng liêng của đêm giao-thừa, tống cựu nghinh tân, tiễn biệt cũ, nghinh tiếp mới, chúng ta hân hoan đón mừng xuân Di-Lặc. Xin quý vị cùng tôi, thành kính trang nghiêm trước Phật đài, nhìn thẳng tượng Ngài dâng trọn lòng thành phát nguyện: “Chúng con một dạ chí thành phát nguyện, năm mới tinh tấn sống đời vị tha, quyết xả bỏ dục tình tham chấp gút mắc nơi lòng, quyết trục xuất ba rắn độc tham sân si ra khỏi nội tâm, nguyền theo gót chân Phật, sống đời từ bi hỷ xả, xa lìa ngũ dục.”
Từ năm mới trở đi, ta quyết tâm sống trọn với lời phát nguyện. Một khi đã sống với lời phát nguyện, thì kìa, trời xuân Di-Lặc hân hoan đã hiện về tràn ngập lòng ta và chan hòa nguồn sống an lạc khắp trần gian, bình minh của nguồn sống tràn khắp vạn vật.
Nên nở nụ cười bao dung với người và vật thì đó là đích thực xây dựng mùa xuân Di-Lặc.
Mùa xuân muôn thuở
Đã bao lần xuân đến rồi xuân đi. Xuân đến tiếp theo sau những ngày đông tàn lạnh buốt. Xuân đi để lại nắng hạ chói chang. Nhưng dù cho đông qua, xuân lại, hạ đến, thu chờ thời tiết chuyển đổi có như thế nào đi nữa thì thời gian vẫn lặng lẽ trôi đi không ngừng nghỉ, vũ trụ vạn vật theo đó biến đổi sắc thái khiến cho lòng người xúc cảm hững hờ, vui nhộn hay lưu luyến sầu não ưu tư. Ấy bởi tại lòng người hệ lụy với thời gian năm tháng, đắm trước với cảnh trần đổi thay mà không tìm thấy chính tự xuân lòng, nên không thưởng thức được mùa xuân thường tại.
Vui buồn theo mùa tiết, hạnh phúc theo hoàn cảnh thời gian, thì đó chỉ là trạng thái tâm lý bất an, rõ ràng nói lên sự mong manh của kiếp người sống theo bèo mây ngoại cảnh. Cảnh vui thì vui theo cảnh. Cảnh buồn thì buồn não lòng. Nhưng thực tế thì cảnh vật nào có vui buồn gì đâu? Mà buồn vui do lòng người chuyển biến bất an, không sáng tỏ chân tướng của vạn vật đó thôi. Lòng người chỉ biết hệ lụy đem đời mình chôn vào thú vui của cảnh vật trần thế. Nhưng cảnh vui dục lạc của trần thế nào có chân thật bền lâu bao giờ? Mà đó chẳng qua chỉ là những hiện tượng hợp tan tùy duyên tan hợp như những màn kịch biểu diễn trên sân khấu trần gian. Thế nên, những ai đắm đuối với thú vui ngoại cảnh, thì chỉ nhận được cái vui giả tạm khoảnh khắc, để rồi sau đó chuốc lấy thất vọng mệt mỏi chán chường. Phim trường, tình ái, sòng bạc đỏ đen chỉ khoái lạc nhất thời có khác nào tuồng cải lương trên sân khấu? Như thế, cho dù mười, hai mươi, năm mươi, một trăm mùa xuân có đến đi chăng nữa, thì người đời cũng vẫn cảm thấy nỗi lòng thầm kín tiếc nuối buồn phiền, chán chường thất vọng mỗi lần xuân đến xuân đi và không có sự tiến bộ nào cho cuộc sống, mà chỉ thấy còn lại sau mỗi mùa xuân là chất chồng thêm nhiều tuổi đời và thầm lặng đẩy họ xa rời cái thời son trẻ hồn nhiên mạnh khỏe. Càng nhiều mùa xuân trần thế đến đi thì thật tế còn lại thân tâm hiển lộ sự già suy bẽ bàng tàn tạ, như người mặc áo gấm đi trong đêm sương lâu ngày sờn vai thấm lạnh.
Để tạo cho mình mùa xuân chân thật, mùa xuân hạnh phúc miên trường, thì mỗi lần xuân đến, chúng ta tự kiểm điểm lại một năm qua ta đã làm gì lợi ích cho ta, lợi ích cho người, lợi ích cho đời. Ta đã có tiến bộ phần nào trong phong độ nhân cách làm người xử thế không? Ta có chút nào thanh tịnh hóa tâm hồn không? Ta có mở rộng cõi lòng trong tinh thần hỷ xả vị tha không? Những câu hỏi đó rất cần thiết cho đời sống xây dựng hạnh phúc và tiến bộ trên đường giác ngộ giải thoát. Nếu không có được một sự lợi ích tiến bộ nào, tức là ta đã để đời ta vô vị luống qua già suy theo năm tháng với xuân đến đi, khó mà tránh khỏi sa vào hầm hố dục lạc, tinh thần thối hóa trôi theo vô tưởng.
Kẻ đắm mê dục lạc sống đời vô nghĩa đã đành, nhưng bên cạnh lại cũng có lắm người ngày ngày tầm chương trích cú, nghiên cứu nằm lòng những tư tưởng cao siêu, óc chứa đầy văn tự kinh nghĩa, nhưng mỉa mai thay, tâm địa họ bất tịnh nên sanh lòng bất an thường tạo ra những điều đáng phàn nàn gây nên lắm chuyện phiền phức cho người khác! Cứ như thế, thời gian chất chồng thêm tuổi tác, lặng lẽ trôi dần đến những ngày đầu bạc răng rụng, má cóp da nhăn mà không biết phản tỉnh tu tâm, sửa tánh, thanh tịnh hóa ba nghiệp thân miệng ý, không biết làm phước bồi đức, không biết chừa bỏ thói đời dục vọng ích kỷ đố kỵ hơn thua, thì dù tuổi cao tác lớn, đầu bạc, da nhăn cũng chẳng ích lợi gì cho chính bản thân họ cũng như cho đời! Cổ đức nói: “Sáng nghe hiểu đạo, chiều chết cũng an vui.” Đức Phật dạy: “Sống một ngày biết học đạo tu hành còn hơn sống cả trăm năm mà vô đạo.” Sống mà không biết tu dưỡng đạo đức thì chẳng khác nào loài thú vật cỏ cây. Kinh Hoa-Nghiêm, đức Phật nói: “Con người là hơn cả. Bởi con người có khả năng làm tất cả những điều lành thiện ích lợi cho mình và người.” Sống một ngày biết tu tỉnh thì được hưởng mùa xuân hạnh phúc, hơn là sống trăm năm mà không biết tu thì sẽ chịu giá lạnh của đồng hàn băng tuyết dày vò.
Hơn lúc nào hết, đêm giao thừa, ngày mùng một Tết, trang nghiêm đứng trước hình ảnh đức Di-Lặc Bồ-Tát, trước bàn thờ gia tiên, nghiêng mình thành tâm dâng nén hương khấn nguyện, chúng ta thử lắng đọng tâm tư quán chiếu tận đáy lòng để kiểm điểm trong suốt năm qua ta đã làm gì. Nếu điều lợi ích tích thiện chưa làm là ta vô tình luống để trôi qua thời gian một năm dài trống rỗng, thì trong giờ phút thiêng liêng dâng hương trước bàn thờ nầy, nên khởi tâm thành thiết ân hận tự nguyện với lòng rằng, bắt đầu từ ngày Tết đầu năm nay gắng làm điều lành thiện, tu tâm sửa tánh mãi đến về sau. Nếu điều lợi ích đã làm thì ngày đầu xuân năm nay phát nguyện cố gắng tinh tấn phát triển hơn nữa. Nếu như bao năm tháng qua đã lầm lẫn đắm say trong danh lợi tình trường, chạy theo dục vọng tạo nhiều điều bất thiện phiền muộn, thì đêm giao thừa, ngày mùng một Tết đầu năm mới, trong giờ phút linh thiêng của ngày xuân tết, nên thành tâm khẩn thiết phát nguyện dứt bỏ lỗi lầm, cải tạo cho mình một đời sống hiền lương hướng thượng trên đường xây dựng nhân cánh để thăng hoa đời sống.
Đón mừng xuân tết với hết tâm dạ chí thành trong trạng thái tâm hồn thanh thản, phản tỉnh quán chiếu lại tận đáy lòng mình và hồi quán lại hành nghi trong suốt năm qua, trước bàn thờ gia tiên phát nguyện: Từ đêm giao thừa này trở đi, nguyện sống theo gương hiền lương của tổ tiên, sống cho đại nghĩa truyền thống dân tộc và niềm tin đạo pháp. Như thế tức là ta đã khai mở cho đời ta một tương lai sáng lạn, một kỷ nguyên phát triển thánh thiện hóa đời mình và sống trong tinh thần vị tha hỷ xả làm lợi ích cho người.
Đón mùng xuân trong ý nghĩa trên đây, tức là ta trang bị cho ta một mùa xuân hạnh phúc chân thật miên viễn, một cuộc sống tương lai huy hoàng và cất bước trên đường thánh thiện hạnh phúc. Thế thì, cho dù mùa xuân đến hay đi, lòng ta mãi mãi nở hoa xuân với mùa xuân chơn thường bất tận, vượt ngoài xuân đến đi theo thời gian năm tháng. Một khi tâm buông xả là lòng thanh tịnh, tức là thể hiện tâm xuân hòa điệu cùng nguồn xuân vũ trụ. Tâm ta thanh thản rộng mở là hài hòa với hoa xuân vạn vật tươi nở. Ý ta hoan hỉ hồn nhiên với nụ cười đức Di-Lặc thì tự nhiên lòng ta có mùa xuân bất tận. Như thế là ta thật sự sống trong thanh khí của ánh xuân dương, hòa điệu cùng mùa xuân từ bi hỷ xả, vị tha, mùa xuân Di-Lặc, xuân hạnh phúc muôn thuở.
Xuân Ly Hương
Xuân lại về. Xuân về khắp vạn vật. Xuân đến trong lòng người. Ngày xưa mỗi lần nghe nói đến xuân tết, nhìn cây cảnh đâm chồi nẩy lộc xanh tươi thì biết đó là hiện tượng của xuân đến. Ngày xưa, mỗi lần xuân đến, tôi cảm nghe nơi lòng tôi, lòng mọi người rộn ràng rạo rực, như hòa điệu với sức sống của vạn vật, đang vương mình nhảy múa tươi cười trong ánh nắng xuân mai. Nhưng thật lạ thay, nay xuân đã về trên quả đất mà lòng tôi vẫn thản nhiên, nhìn xung quanh tôi, cỏ cây hoa lá vàng úa trơ cành, để lộ trạng thái khô khan không mang tính chất nào của xuân tết như những ngày còn sống trên quê hương!
Quê tôi, đêm giao thừa tiếng pháo nổ vang, trước sân mỗi nhà có dựng nêu cao treo đèn lồng tỏa ánh sáng mông lung, thật là linh thiêng huyền ảo vào đêm trừ tịch. Trẻ già trai gái hân hoan trong bộ áo quần mới, miệng nở nụ cười hồn nhiên chúc mừng cho nhau may mắn đầu năm. Đó đây mọi ngả đường, từng đoàn người đi chùa lễ Phật, hái lộc đầu xuân. Lớp lớp người thành kính quì trước Phật đài, dưới làn hương quyện tỏa, hòa với tiếng chuông ngân nga mang lòng thành kính nguyện cầu lan rộng xa khắp mười phương. Bà con ai nấy đều thấy ấm lòng trong niềm hy vọng năm mới may mắn sáng sủa hơn.
Nhưng ở nơi đây, nơi đất khách quê người này, mọi người cũng nói đến ngày xuân, cũng sắm vội sơ sài vài món quà lễ tết. Nhưng khí đất, tiếng người khô khan trong dáng điệu hấp tấp vội vàng, làm cho tôi cảm thấy bàng hoàng nín thở, khiến cho lòng tôi lại càng thiết tha tưởng nhớ đến quê hương lạ lùng! Nỗi lòng thiết tha này tôi chưa từng cảm thấy khi tôi còn sống trên quê hương trong những lần xuân tết đến. Mà giờ đây, nơi quê người đất khách xứ Cali này, tôi ngồi nhìn sông, sông cạn; nhìn núi, núi khô cằn! Tôi nhìn người, đâu đâu cũng biểu lộ vẻ vô tình! Tôi trông ra bốn bề để tìm kỷ niệm hình bóng những mùa xuân năm xưa, tìm mãi khắp khắp xung quanh cảnh vật mà vẫn không thấy một bóng hình kỷ niệm thân thương, vẫn vắng bặt nguồn ấm sưởi lòng của thuở còn ở quê hương đất mẹ! Phải chăng những hình ảnh khô khan vô tình kia đã ngầm gợi lên cái ý nghĩa thương tình cho kẻ xấu số sống tha hương? Kẻ tha hương là kẻ sống nương nhờ nơi đất khách, mà trong mỗi người vẫn chan chứa nơi lòng một quá khứ quê hương thân thương! Ở đó là nơi chôn nhau cắt rún với bao kỷ niệm mà giờ đây thân còn sống gửi quê người, ngày về nơi đất mẹ vẫn còn xa vời vô định.
Tuy đang sống giữa chốn phồn hoa đô hội ở cái xứ văn minh vật chất nhất của nhân loại này, nhưng lúc nào tôi cũng cảm thấy cô lạnh lẻ loi như đàn chim bắc cực lạc loài đang bay tìm tổ ấm mùa đông.
Xuân đã mấy lần về trên đất khách rồi. Vậy thì người Việt tỵ nạn tha hương bao giờ mới được trở lại đất mẹ để an cư lạc nghiệp? Ngưỡng mặt nhìn khoảng trời cao lồng lộng, tôi đã xin hỏi những Đấng cao thâm không biết mấy lần rồi mà sao các đấng ấy vẫn âm thầm lặng thinh! Quỳ gối hỏi Thượng-đế, Thượng-đế vẫn vô tình không một lời giải đáp! Người ta bảo Thượng-đế là đấng thần linh toàn năng sanh ra vạn loại và an bài trần gian. Vậy thì dân tộc Việt-Nam có tội tình gì mà suốt đời vẫn phải bị khốn đốn tang thương? Hết bị Tàu thống trị thì đến bị Tây đô hộ. Hết bị Nhật đổ bộ áp đảo thì đến Hồ-Chí-Minh gây tang tóc. Hết độc tài Ngô-Đình-Diệm, lại đến quân phiệt Nguyễn-Văn-Thiệu cứ liên tục múa rối như thế để rồi ngày nay lại bị Hồ-Chí-Minh và đồ đảng sùng bái chủ thuyết phi nhân cam tâm tình nguyện làm vong nô cho chủ nghĩa cộng sản vô thần gian ác tàn hại dân tộc Việt-Nam. Sao cứ thế dày xéo quê hương dân tộc tôi tan nát, đất nước phải chia đôi, nồi da xáo thịt lẫn nhau hằng chục năm tạo nên cảnh cốt nhục tương tàn, quê hương triền miên bom đạn, dân lành chết chóc đói nghèo. Và cho mãi đến giờ phút này, dân tộc tôi vẫn còn chìm đắm trong đêm thâu mịt mù của khói lửa chiến chinh, mặc tình cho loài thú dữ vô thần quỷ đỏ tung hoành cấu xé làm tan nát văn hóa đạo đức ngàn xưa. Thời xưa Việt gian Pháp thuộc thì thờ Tây. Ngày nay độc lập tự do hạnh phúc bằng chủ nghĩa cộng sản thì thờ Lê-Nin. Mao-Trạch-Đông tôn sùng cao hơn cả ông cha và đưa dân đi các nước gọi là anh em làm nô lệ để trà nợ! Điều tủi nhục khổ đau có một không hai trong lịch sử dân tộc Việt-Nam! Nòi giống rồng tiên sao lại bị oan khiên nghiệp chướng gì lạ lùng như thế?!
Hỡi những đấng thần linh thượng đế, xin cho một lời giải đáp sáng tỏ về dân tộc và quê hương tôi, rằng đã làm nên những tội tình gì mà đến nỗi liên miên từ thế hệ này đến thế hệ khác phải chịu cực hình thống khổ đến giờ nầy vẫn chưa thôi? Nếu dân tộc tôi thật có tội, thì tội gì, sao không cho biết để được đoái công chuộc tội? Để cho thế hệ con cháu chúng tôi được yên thân, quốc gia chúng tôi có được những ngày thái bình, không còn cảnh sanh ly tử biệt: để dân tộc tôi còn thể diện sống dưới ánh sáng mặt trời giữa cộng đồng nhân loại văn minh? Nếu bảo rằng vì không tu theo Thượng-đế nên bị phạt, thì có các dân tộc đã nghe sùng tín bái phục theo Thượng-đế mà cũng vẫn bị ngặt nghèo chiến tranh thảm khống hằng thế kỷ đó, thì sao? Thượng đế ở đâu? Ngài có thật không, hay chỉ do tưởng tượng? Nếu có thật sao nỡ làm ngơ trước cảnh đau thương của con cháu do chính Ngài tạo ra? Toàn năng toàn trí toàn đức của Thượng đế để đâu, sao không đem ra an bài cho thế giới nhân loại hòa bình, cho người thương người, để tránh cho con cháu Ngài giết hại nhau, cho dân tộc Việt-Nam được thảnh thơi đôi chút? Ngài tạo ra nhân loại làm gì để chém giết nhau mà Ngài vẫn làm thinh, hỡi Thượng-đế?
Nhớ thời lập quốc, đất nước tôi còn nhỏ bé, dân tôi còn thưa thớt, thế mà tổ tiên tôi đã giữ được độc lập tự chủ “Nam-Quốc Sơn-Hà Nam Đế-Cư-Nước Việt-Nam do vua Việt-Nam ngự trị.” Độc lập vững bền đến gần 400 năm, hiên ngang phát triển bên cạnh một đế quốc Trung-Hoa to lớn gấp trăm lần hơn, lúc nào cũng có dã tâm hầm hừ muốn ăn tươi nuốt sống lãnh thổ Việt-Nam chúng tôi. Nhưng rồi họ đã phải nể vì. Ông cha chúng tôi dựng nước và giữ nước, chẳng những độc lập về dân tộc chủ quyền, mà cả đến nền văn hóa học thuật tư tưởng ở thời Lê, Lý, Trần có lúc đã sánh bằng với những thời đại văn hóa sáng chói nhất của Trung-Hoa ở vào những thời Đường, Tống. Việt-Nam ở vào thời đại Lê, Lý, Trần, dân tôi thái bình thịnh vượng, văn hóa, đạo đức, học thuật, tư tưởng, kinh tế, cực thịnh và không ngừng mở mang bờ cõi. Đó là những thời thoải mái huy hoàng nhất của dân tộc Việt-Nam, cũng là thời đại được ánh sáng Phật giáo soi sáng dẫn đạo quốc gia dân tộc hướng lên độc lập vinh quang.
Nhờ đâu mà thời Lê, Lý, Trần lại được như vậy? Và nhờ đâu mà thời đại đó lại có nhiều bực anh hùng dũng lược đủ đức Bi, Trí, Dũng siêu quần bạt tụy như Đinh-Bộ-Lĩnh, Lê-Đại-Hành, Lý-Công-Uẩn, Lý-Thường-Kiệt, Trần-Hưng-Đạo, Trần-Quốc-Toản v.v. đã Bắc phạt Tống, Nam bình Chiêm, đua dân tộc và đất nước đến chỗ vinh quang vô tiền khoáng hậu như thế? Điều này không có gì khó hiểu cả. Bởi các vua lúc bấy giờ phần nhiều do các bậc thiền đức chốn thiền môn dạy dỗ hướng dẫn bằng giáo lý của đạo Phật là vô ngã vị tha, bình đẳng từ bi hỷ xả. Tinh thần của đạo Phật là phụng sự chúng sanh tức là cúng dường chư Phật. Do các vua thấm nhần tư tưởng nhân bản đạo đức, dùng đức trị quốc an dân, nên làm cho đất nước độc lập thạnh trị, dân tộc an cư lạc nghiệp.
Ngoài ra, các vua còn thỉnh mời các thiền đức cao tăng làm cố vấn cho nhà vua trong việc trị nước an dân và giúp đỡ triều đình đảm nhiệm việc giáo dục quốc dân. Thiền tăng vốn là những người uyên bác Nho học và Phật học với cõi lòng buông xả không dính mắc quyền danh lợi dưỡng tình trường. Các ngài đem tinh thần từ bi vị tha tế thế thương nước thương dân, phục vụ. Lấy tư tưởng vị tha, vô ngã, vô úy, hỷ xả, thành tín, ái quốc, yêu dân không danh không lợi làm giáo khoa giảng dạy, gieo sâu tinh thần từ bi vị tha vào tâm trí học trò. Sách vở và lời dạy của các bậc thầy thời đó mang tính chất tinh thuần nhân bản, hướng con người đến nhân cách quân tử xả kỷ vị tha, tình thương đùm bọc, trong niềm tin từ bi nhân nghĩa và trí huệ vô ngã, để xây dựng cho nhau một cuộc đời an lạc. Tinh thần đó được thể hiện như sách Đại-Việt Sử-Ký Toàn-Thư có ghi: “Một hôm trời đông giá rét, vua Lý-Thánh-Tông ngự triều. Động-Thiên công chúa hầu bên cạnh. Đang giữa bá quan văn võ đại thần, nhà vua xoay lại nói với công-chúa rằng : Ta ở trong cung điện mặc áo lông cừu mà còn lạnh như thế này. Những tội nhân trong ngục thiếu áo cơm chắc là đói lạnh lắm. Trẫm nghĩ mà thương cho họ lỡ ngu dại làm điều phạm pháp phải chịu ngục hình. Vậy con nên đem chăn chiếu và thức ăn cho họ. Rồi ngài xoay lại phán với các đại thần rằng: “Trẫm thiết nghĩ các khanh nên xem xét lại những người tội trạng nhẹ thì nên tha để cho họ được về đoàn tụ với gia đình.” Nhờ có tinh thần đức độ, vị tha của nhà lãnh đạo quốc gia tỏa ra sáng ngời, và nhờ trí tuệ vô vị lợi, nên thế hệ thanh niên thời đó được giáo dục, hướng dẫn và được thấm nhuần trong tinh thần bi, trí, dũng. Thế hệ trẻ của thời đó được huấn đào nung đúc trong tinh thần hào khí đạo đức, xả kỷ vị tha, nhờ đó mà tạo thành thế hệ có tư tưởng độc lập tự chủ của dân tộc. Nên tất cả tinh thần năng lực và tư tưởng của người dân Việt thời đó đều hướng về phục vụ cho dân tộc xứ sở chớ không vong bản vọng ngoại. Nhờ vậy đất nước Việt-Nam có được thời đại anh hùng dân tộc sáng giá, giữ được độc lập tự chủ, hào quang độc lập tự chủ của các thời Lê, Lý, Trần rạng ngời mãi đến nay.
Ông cha chúng ta sanh ra và sống trong hoàn cảnh khó khăn gấp trăm lần chúng ta. Thế mà các ngài biết dựa vào tiềm năng nhân bản và niềm tin đạo đức truyền thống của dân tộc để phục vụ quê hương xứ sở. Còn ngày nay bậc đàn anh của chúng ta được ngoại quốc giúp đỡ, được gửi đi học Tây học Mỹ, mà không biết đem khả năng học vấn để khai thác tiềm năng sẵn có của dân tộc để phục vụ đại nghĩa dân tộc quê hương. Ngược lại đem tư kiến hạn hẹp địa phương kết bè lập đảng nghe lời xúi xử ngoại bang tranh giành quyền lợi tư kỷ, làm tan hoang tinh thần đoàn kết của dân tộc! Độc hại hơn nữa, cuồng tín theo ngoại giáo, dựa thế lực ngoại bang phục vụ cho văn hóa tư tưởng vong nô gây nên tang thương chia rẽ dân tộc. Thậm chí còn làm bồi bút vu khống mạ lỵ những người có tâm huyết nhiệt tình đem hết mình phụng sự đại nghĩa văn hóa đạo đức truyền thống của dân tộc và quê hương. Việc làm của họ đều theo ngoại bang xúi xử! Rõ ràng gần đây nhất như Hồ-Chí-Minh và đổ đảng, Ngô-Đình-Diệm và đám cuồng tín đã gây ung thối cho cả xã hội và tầng lớp tuổi trẻ, đầu độc mầm non của dân tộc. Hậu quả tai hại không lường, để rồi đưa đất nước và dân tộc đến đường cùng rách nát tang thương nghi kỵ chia rẽ như ngày hôm nay!
Khổ thay cho đến giờ này, bỏ nước ra đi, đem thân sống nhờ đất khách quê người mà vẫn còn chưa kịp thời tỉnh ngộ, để tự xót thương cho thân phận chính mình, và cảm thông dân tộc giống nòi để đùm bọc lấy nhau, để cùng nỗ lực vươn lên trong cộng đồng nhân loại. Trái lại, vẫn thói nào tật nấy, ngoan cố tự hào ta đây trí thức anh hùng, kết bè lập nhóm dùng nghề bồi bút to mồm để phục vụ tư tưởng vong bản phi nhân, bằng dùng hết tán tận lương tâm đạo đức và tình người, đến độ phun ra những văn từ luận điệu của tâm địa ác thú độc trùng truyền nhiễm, làm cho tuổi trẻ nghi ngờ, quần chúng hoang mang, niềm tin phá sản, chia rẽ ly tán đến cùng cực. Vì đâu? Vì vong bản, cuồng tín ngoại lai mà gây nên tai hại cho cả dân tộc.
Chẳng những đã không đoàn kết mà còn phá hoại khiến cho quần chúng hoang mang, tuổi trẻ chẳng màng đến kỷ cương lễ giáo, không biết nên tin vào đâu nữa! Cộng sản hay tay sai cộng sản phá rối thì đâu chưa thấy hiện nguyên hình, mà đồng cảnh tỵ nạn với nhau cứ đánh phá liên tục! Quốc nội cộng sản gài người trong khắp các sinh hoạt dân chúng đã đành. Còn như quốc ngoại đồng cảnh chạy loạn tỵ nạn cộng sản, ấy thế mà có lắm kẻ lợi dụng cây bút, tiền bạc và chút uy tín cặn bã để chụp mũ vu khống lừa gạt người này, hạ nhục kẻ nọ, xuyên tạc đoàn thể kia làm cho thế hệ tuổi trẻ tha hương và cộng đồng người Việt lương thiện đã phải chán nản, giảm sút niềm tin, tăng thêm nghi ngờ, thì chính những kẻ cầm bút bất chánh đó, nếu không là cộng sản thì ít nhất vô tình tiếp tay cho cộng sản. Họ quả thật đắc tội với dân tộc cũng bằng như cộng sản. Cho nên lớp trẻ chúng ta phải hết sức cẩn trọng và tránh xa họ, như tránh xa độc trùng ác thú hay những con bịnh trầm kha truyền nhiễm. Dù là hạng nào, ở lãnh vực nào, hễ ác ý tạo mâu thuẫn, gây chia rẽ, đặt quyền lợi họ trên quyền lợi chung của đại chúng, thì chính đó là độc trùng ác thú, ta nên tránh xa. Như thế chúng ta mới mong xây dựng thế hệ thanh niên vững niềm tin, yêu đạo, yêu đời, yêu quê hương dân tộc trong truyền thống đạo đức ngàn đời của tổ tiên. Chúng ta phải sáng suốt nhận định và mạnh dạn có thái độ dứt khoát như thế, thì mới thật sự hy vọng ngày quang phục quê hương xứ sở, và cứu vãn dân tộc thoát khỏi cảnh lầm than.
Xuân về với đất trời. Khí xuân rạt rào khắp nơi nơi hòa cùng vũ trụ. Hồn xuân phảng phất với vạn vật và lòng người. Hy vọng còn được chút hồn xuân thuần túy quê hương, tinh thần xuân yêu thương dân tộc còn vương vấn đâu đâu thấm vào lòng người con Việt tha hương. Chúng ta lớp người trẻ và lớp người đứng tuổi, đặc biệt tuổi thanh xuân đầy nhiệt tình và hy vọng, phải kịp thời thức tỉnh, phải mau trở về nguồn đạo và văn hóa truyền thống của ông cha, để khỏi lạc lõng giữa dòng đời vật chất khô cạn tình thương, thiếu vắng hương vị quê hương dân tộc. Những ai còn thương yêu đất nước giống nòi, còn muốn ngước mặt hướng về những bậc tiền nhân anh hùng dân tộc, còn muốn sống với truyền thống đạo đức tư tưởng văn hóa của ông cha, thì nên trở về với ánh đạo thiêng liêng:
Ánh đạo thiêng liêng quá nhiệm màu
Người dân nước Việt đã ghi sâu
Nếu ai quên hết đường quê cũ
Lúc muốn quay về biết hướng đâu
Về đây với đoàn tăng ni sinh của Phật-Học-Viện Quốc-Tế, với người Phật-tử trong tình tự dân tộc, chúng ta sẽ tìm thấy nguồn mát an lành từ âm hưởng đạo đức truyền thống của ông cha chúng ta để lại. Có họp đoàn trong niềm tin truyền thống dân tộc, trong lòng đạo từ bi hỷ xả, trong tiếng đồng ca mẹ Việt-Nam yêu dấu ngàn đời, chúng ta mới thấy được hào quang tự chủ độc lập thái bình rạng chiếu của thời Lê, Lý, Trần, mới hòa điệu cùng nhịp sống tâm thức của dân tộc, với hồn thiêng đất nước, với những bậc anh hùng Thường-Kiệt, Công-Uẩn, Hưng-Đạo, Quốc-Toản, Nguyễn-Trãi, Lê-Lợi, Quang-Trung tiếp nối nguồn tâm thức sống động rạt rào tình yêu tổ quốc, một cách hòa điệu chân thành.
Có cảm thông trong tình người, có sống trong tình tự dân tộc, có cảm nhận tư tưỏng truyền thống văn hóa dân tộc bị phá sản thì mới nhận ra tình quê hương tổ quốc bị bóp nghẹt chết dần trong cảnh huống sanh ly tử biệt dưới chế độ cộng sản khắc nghiệt vô thần và bị hư hại bởi kẻ vọng ngoại cuồng thần và bị hư hại bởi kẻ vọng ngoại cuồng tín gây nên. Lúc đó, chúng ta mới thật sự thao thức cho tiền đồ quê hương dân tộc. Nếu ai nấy cũng đều trở về với niềm tin từ truyền thống dân tộc, tức là cùng nhau trở về nguồn, thì chúng ta sẽ tránh được lỗi lầm gây tang tóc cho thế hệ tương lai, không đi sai con đường của tiền nhân đã khai sáng và như thế mới tiếp nối chí nguyện rạng ngời của các bậc tiền bối hữu công với dân tộc xứ sở. Cũng từ nhận thức đó, bằng niềm tin truyền thống, chúng ta sẽ không bao giờ sống với ý thức vong bản đem thân làm kiếp vong nô cho bất cứ chủ thuyết phi nhân vô đạo nào hay thứ cuồng tín nào để phải bị chìm trong hận thù chia rẽ như hiện nay. Chúng ta phải ý thức như vậy và nên tự hiến mình làm nhịp cầu thông cảm, là nơi tri ngộ tâm thức Việt, là nơi làm sống lại tư tưởng truyền thống Việt-Nam trên bước đường ly hương viễn xứ. Chúng ta nên chọn lối sống không dính mắc ân tình thân sơ, không biên bờ phe phái, mà sự hiện hữu của ta là vì và cho tất cả đại nghĩa đạo pháp và dân tộc.
Hỡi anh em ở cái tuổi măng tơ! Hỡi những người còn mang dòng máu Ngô-Quyền, Thường-Kiệt, Hưng-Đạo, Quốc-Toản, Lê-Lợi, Quang-Trung, hãy trở về nguồn đạo từ bi giác ngộ, sống trong tinh thần vị tha giúp đời để chung nhau bồi đắp niềm tin dân tộc, để xây dựng lại quê hương xứ sở trong chiều hướng nhân bản an lạc, nước mạnh dân hùng, giữ gìn đạo truyền thống của con rồng cháu tiên. Về đây, chúng ta hợp đoàn sống trong ánh đạo vàng thiêng liêng. Ánh đạo vàng đã từ hai ngàn năm trước cùng với tổ tiên dựng nước, giữ nước và mở mang bờ cõi hướng đạo quê hương giống nòi đến ngày nay. Chúng ta phải tự hào vui trong nguồn văn hóa tư tưởng truyền thống đó. Nguồn văn hóa chan hòa cùng nguồn đạo từ bi đã tạo thành truyền thống cho lẽ sống đã thấm sâu vào xương tủy máu tim thịt da hơi thở của dân tộc Việt. Đạo thiền đã từng hướng đạo và nuôi dưỡng sinh khí hùng tráng dân tộc trong khí thế dựng nước và giữ nước, nhào nặn thành nền văn hóa Việt huy hoàng ngàn đời.
Xuân hy vọng, xuân họp đoàn, xuân quê hương truyền thống, xuân chiến thắng sẽ sống mãi trong lòng mọi người Việt chúng ta. Xuân đến mở rộng chân trời hy vọng. Ấy là xuân hy vọng trở về quê hương trong ánh sáng huy hoàng. Ngày về nguồn, về đất mẹ vẫn còn nhiều đường sáng mát bình minh. Quê hương dân tộc đang chờ đón ta trong ánh xuân dương thanh bình với niềm tin truyền thống bất khuất.
Mùa xuân ngoại cảnh, ta tràn đầy hy vọng trở lại quê hương trong ánh xuân dương mát lành, trong tiếng chim ca hót trên cành ngày xuân, thì lúc đó chủ nghĩa phi nhân ngoại lai tan biến như mây khói. Mùa xuân nội tâm, ta hồi quang quán chiếu nội tại để đánh bại phiền não vô minh, để cho Phật tánh hiển lộ, để cho tình người dạt dào mà mấy độ xuân rồi ta vẫn chưa thành công chiến thắng. “Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình.” Chiến thắng mình khi ánh quang minh tâm thức hiển lộ, vô minh dục vọng tan tành, ấy là hoàn thành xây dựng mùa xuân bản thể rạng ngời, không còn sống đời xuân ly hương, đồng thời tuyệt dứt xuân ly hương tâm thức, chấm dứt xuân ly hương tự thân.
Sự đời nào có rắc rối, tại lòng ta nhiều mối đa đoan mà phải than thở phiền lụy đó thôi.
Mùa Xuân Viễn Xứ
Xuân đã về rồi ư? Xuân đã về sao không thấy hoa cười, lá tươi, khí trời mát dịu trong ánh xuân dương nắng ấm? Xuân đã về rồi ư? Xuân đã về sao không thấy người người thảnh thơi trong bộ áo mới, vẫn không thấy nụ cười hiển lộ trên đôi môi để đón mừng xuân? Xuân tết ở đây, trên đất khách quê người, không còn là xuân tết của những năm trước khi còn ở quê hương!
Xuân tết ở đây không mang màu sắc đặc tính nào giống với xuân tết quê hương khi tôi còn trên đất mẹ thương yêu! Người ta bảo nhau xuân tết đã đến rồi. Nhưng tôi lục lạo tìm mãi nơi lòng tôi và hướng mắt khắp nhìn ra khoảng không gian bốn bề cảnh vật, vẫn không tìm thấy nét xuân tết đâu cả! Nhìn ra cảnh vật bốn bề, thấy đâu đâu cũng cây cối trơ cành, cỏ hoa khô héo, khí trời buốt lạnh căm căm, nhà nhà vẫn giữ chặt cái vẻ âm thầm biệt lập như những hòn đảo lạnh trơ trên mặt đại dương! Ngoài đường, người người vẫn như thường ngày hấp tấp vội vã để đến sở làm cho kịp giờ! Cảnh vật chẳng những không xanh tươi gì hơn ngày thường mà còn đó đây hiện bày ra cảnh tượng tiêu điều cằn cỗi thê lương hơn nữa! Phải chăng khí trời tạo nên tiết mùa thay đổi, hay đó chỉ là bởi tại “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!?”
Kinh Hoa-Nghiêm, đức Phật nói: “Tâm như nhà họa sĩ tài ba hay vẽ vời ra muôn ngàn cảnh vật.” (Tâm như công họa sư, tạo chủng chủng chư pháp.) Cảnh vật ở đây không thấy chúa xuân xuất hiện, không thấy nàng xuân màu sắc uyển chuyển thướt tha hoa thắm lá xanh cành mai đào búp nụ, hay đó chỉ riêng nhãn quang của kẻ tha hương lòng xuân đã chết lịm từ lâu, bởi mang đầy lo âu uẩn khúc đau khổ trong môi trường vật chất cạnh tranh dẫy đầy phiền toái thị phi mà không bắt gặp nàng xuân? Tìm lại chính bản thân, tôi vẫn thấy lòng thản nhiên như dòng nước chảy, thường tại như những ngày qua, không cảm thấy chút nào hương sắc của trời xuân đâu cả, cũng không thấy bàng bạc đâu đâu cõi lòng rung động với nỗi vui mừng về ý nghĩa xuân tết trần gian.
Nhìn lên trời dày đặc lớp vi trần thán khí của kỹ nghệ nhả ra ngăn mờ ngàn sao đêm, không còn thấy ánh sáng tua tủa lấp lánh. Bốn bề vắng ngắt lạnh tanh không nghe thấy pháo nổ mừng đón giao thừa xuân tết. Cũng khôn thấy trước mỗi nhà có trang hoàng nét đặc thù gì thêm để tỏ dấu hiệu đón mừng xuân tết. Xuân ở đâu? Hay xuân đã chìm sâu trong nỗi lòng đau khổ nhớ thương của kẻ vong quốc tha hương? Cảnh đời vô thường, vạn vật vô tình hay chính mình đang sống trong lạc lõng bơ vơ:
Quê hương đâu phải nơi nầy
Ăn nhờ ở tạm cho ngày tháng qua
Lang thang khắp cõi Ta-bà
Xót thương cái kiếp hằng sa lạc loài
Giờ đây trọn gởi niềm đau, với nỗi xót thương hướng về bên kia Thái-bình-dương ngàn xa cách trở sâu thẳm trong mù sương, quê hương chìm trong sương khói mịt mù, nơi đó dẫy đầy lao tù đói khổ, người hành hạ người cùng chủng tộc không chút tiếc thương, và tôi đây chỉ còn sống lại những kỷ niệm tết của thời dĩ vãng, chứ thực tại thì xuân quê hương đã xa cách lắm rồi!
Làm sao có thể vui hưởng mùa xuân chân thật, khi lòng còn nặng trĩu xót xa cho quê hương đang còn rách nát, đồng bào quyến thuộc đang còn bị kềm kẹp dưới ách thống trị bất nhân vô luân của cộng-sản vô thần? Khi mà quê hương còn dẫy đầy lao tù, người người còn phải chịu cảnh sống chia ly thân bằng quyến thuộc; khi mà con ma đói nghèo còn bám chặt cấu xé thân xác đồng bào, người phải ăn bo bo khoai sắn như súc vật; người phải kéo cày thay trâu bò! Ngày nào còn những hiện tượng khủng khiếp hoành hành trên đất mẹ quê hương thì ngày ấy không thể nào có mùa xuân chân thật mang trọn ý nghĩa xuân tết Di-Lặc, xuân hạnh phúc được!
Làm sao có được mùa xuân Di-Lặc, khi mà trên quê hương đất mẹ còn nhan nhản cái cảnh chùa viện giáo đường bị ác quey62n chiế dụng, bị kiểm soát theo dõi, thầy bạn bị phản phúc tù đày, huynh đệ còn sống trong cảnh ngày ngày hồi hộp lo âu thiếu thốn cơ cực? Chừng nào những cực hình nầy còn tiếp diễn, thì chừng ấy vĩnh viễn không sao có thể nở được nụ cười xuân Di-Lặc. Khi mà hải ngoại còn phủ dày trược khí nghi kỵ, xuyên tạc, vu khống, ngụy tạo chụp mũ để bôi bẩn hại nhau, thì ánh xuân dương không cách nào hiển lộ trên bầu trời trong lành tươi mát.
Ánh xuân dương hiển lộ, hoa xuân phô sắc thắm, lòng người cảm thấy đầm ấm hòa vui, là chỉ khi nào con người biết sống thật với lòng mình, thành tâm nhìn nhận sự thật, tôn trọng sự thật và sống cho sự thật trong tình ngưòi tương thân tương kính. Một khi tôn trọng sự thật là biết chọn lấy lẽ sống tiến bộ, là can đảm vất bỏ cặp kính màu vào thùng rác, là cất bước tiến lên quang lộ thánh thiện để thực hiện mùa xuân hạnh phúc cho mình và đồng loại. Đấy là yếu kiện cần thiết để hợp quần Diên-Hồng người người nhất trí với lòng thương chân thật trong cùng ý chí sắt son, thì lúc đó chủ thuyết phi nhân vô đạo ngoại lai vong bản sẽ không còn lý do tồn tại. Đấy là cơ hội để quang phục tổ quốc, xây dựng quê hương thương yêu trong tình tương thân tương kính tương trợ đồng bào đồng chủng.
Nhưng thực tế lại quá đỗi phũ phàng! Nghiệp dân vận nước vẫn còn miên man truân chuyên, bởi lòng người chưa thức tỉnh về một bài học nguyên nhân của sự bỏ nước ra đi mang kiếp sống tha hương! Khi nào trên đất mẹ sạch hết những đứa con vong bản vô minh sùng bái chủ nghĩa phi nhân vô đạo; khi nào người Việt biết thương nhau xả bỏ tỵ hiềm không làm tay sai cho các thế lực vô minh; khi nào toàn dân Việt biết trở lại sống với đạo lý truyền thống ngàn xưa của thời Đinh, Lê, Lý, Trần, thì dân tộc mới hòng có cơ độc lập tự chủ, hào quang xuân hạnh phúc mới thật sự rạng chói trên quê hương, tình chủng tộc mới thật hài hòa vui tươi. Lúc đó mọi người ai nấy tự tại sống lại trên đất mẹ thân yêu, chấm dứt mùa xuân viễn xứ tha hương, mới thật sự sống trong mùa xuân hạnh phúc của thời Lý, Trần. Ấy là mùa xuân hạnh phúc, mùa xuân dân tộc truyền thống ngàn đời của tổ tiên.
Mùa Xuân Thường Tại
Nói đến xuân là nói đến cỏ cây đâm chồi nẩy lộc xanh tươi, hoa cười bướm lượn, người người hòa vui với áo quần mới đẹp, với lời chúc tụng may mắn, với niềm hy vọng an lành hạnh phúc vô biên ở năm mới.
Nói đến thường hoan hỷ, là người ta nghĩ đến đức Di-Lặc. Với đức tướng Di-Lặc người ta liền hình dung ông Phật có nét đặc biệt, thân hình tròn đầy, bụng lớn, miệng luôn luôn nở nụ cười muôn thời muôn thuở. Nụ cười Di-Lặc là nụ cười hả hê tràn trê nguồn vui hy vọng chan hòa rộng mở chứa chan nguồn sống vũ trụ bao la. Bụng lớn Di-Lặc bao dung niềm hân hoan của đất trời muôn loại.
Xuân Di-Lặc tượng trưng cho nguồn vui bất tận, tượng trưng cho sự linh hoạt hân hoan vui tươi nẩy nở của vạn vật khắp cả đất trời. Xuân Di-Lặc tượng trưng cho nụ cười hạnh phúc khắp không gian và suốt cả thời gian, không phai tàn, không biến dịch, suốt thông rộng dài và mãi mãi vô biên giới.
Muốn có mùa xuân Di-Lặc bất tận bao la chan hòa nguồn sống vũ trụ vạn vật thì trước nhất phải tạo cho chính mình bầu trời tâm tánh lành thiện thanh tịnh an nhiên. Khi lòng còn phiền não, tâm còn ô trược, ý còn lăng xăng mơ tưởng mông lung dẫy đầy ước muốn, thì khó tránh khỏi chao động vui buồn theo cảnh trần thịnh suy, thăng trầm, vinh nhục, mất còn hợp tan:
Khi chưa có ta, đường đi thênh thang
Kịp đến khi có ta, chông gai mênh mang
Nếu tâm chưa thanh tịnh thênh thang, lòng chưa an định tỉnh sáng, thì khó tránh khỏi lung lạc trước quyến rũ của gió đời ngũ dục. Bởi lẽ ngũ dục: tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn uống, chơi ngủ, năm thứ dục lạc này xưa nay đã quật ngã bao kiếp anh hùng, chí sĩ và cả đến những kẻ sắp thành vĩ nhân đều phải bị cuốn chìm vào hố thẳm dục lạc tăm tối. Ngũ dục thế gian có sức mạnh cuốn hút xô đẩy lớp lớp người trong nhân loại rơi vô tình sâu vào hố hầm tội lỗi đọa đày vong thân thất chí. Ngũ dục thế gian tự bản tánh của nó vô tình vô tư, nhưng bởi lòng người thèm khát ước ao dính vào muốn được mà phải tan tác đắng cay!
Khi lòng chưa thanh tịnh thì khó tránh khỏi dục tình, tất nhiên còn vướng mắc phiền não. Dĩ nhiên tâm còn vẩn đục thì ýchí khó thanh cao, thế giới tâm linh không thể nào hòa điệu cùng thế giới bao la đầy hương sắc của vũ trụ. Hương sắc nhạc điệu trời xuân vũ trụ thường hằng mà thế giới tâm linh lạc điệu với thế giới vũ trụ. Bởi con người theo dòng thác lũ thời gian cuốn phăng, bị vùi dập đập tan trong những trận cuồng phong của dòng tâm thức bất giác sôi động nhân ngã, để rồi cuối cùng bị vật vã, nhận chìm vào đáy thẳm biển cả của tối tăm của phiền não ngục tù. Nếu không biết sống với thực tại nội tâm, không biết sống với chính lòng mình, không can đảm nhìn sự thật, không dứt khoát vất bỏ phàm tình để xa lìa thế lực vô minh, đồng thời chính bản thân không cải thiện thì nhất định sẽ bị dòng đời cuống phăng như bọt bèo theo lượn sóng xuống lên trên biển cả, và suốt đời bị đay nghiến, nghiệt ngã bởi tham muốn dục lạc mà vẫn mãi chưa tìm ra hạnh phúc của trời xuân. Thi nhân đã nhận chân cuộc sống vốn dĩ tan hợp, thấu rõ sự đời vốn là mộng huyễn, định luật vô thường lưu chuyển đào thải không ngừng. Nếu con người không tỉnh ngộ, mà cứ sống buông thả theo vọgn tình tham đắm dục lạc thế gian thì chẳng khác chiếc thuyền nan bé nhỏ lênh đênh trên biển cả đầy sóng gió ba đào mù mịt, thì thật khó thoát khỏi cuốn trôi nhận chìm:
Trường-Giang cuộn chảy suốt ngày đêm
Cuốn trôi cây cỏ ở bên thềm
Thuyền nan ai đó nhận chìm nốt
Bao kẻ ngẩn ngơ dại yếu mềm
Thế gian vô thường mộng huyễn lưu chuyển không ngừng đã nhận chìm biết bao người đời mê dại đuổi bắt ái tình lợi danh, cuộn trôi bao kẻ anh hùng tham đắm dục lạc trần gian, để phải lang bạt một đời vô nghĩa. Bởi tâm đắm nhiễm chấp trước rượt bắt bóng công danh hạnh phúc trần gian mà phải lạc lối nổi trôi theo dòng nước vô thường cuốn hút không tìm ra lối thoát.
Khi tâm thanh tịnh, lòng an định, tâm tư gột sạch não phiền tham, sân, si, ích kỷ, đố kỵ, kiêu mạn, tự hào thì lúc ấy cõi lòng tự nhiên rộng nở hoa xuân, thanh thản thênh thang ngạt ngào hương giải thoát. Hoa tâm bừng nở hòa điệu cùng hoa xuân vũ trụ, thì đâu đâu cũng là xuân, tự nhiên nhịp nhàng trong thanh khí an lạc của xuân Di-Lặc chơn thường muôn thuở.
Bồ Tát Di-Lặc lúc nào cũng cười, nụ cười hồn nhiên, cởi mở với tâm lượng bao la, tràn trề nguồn xuân hoan hỷ bất tận, rộng mở cõi lòng xuân, tràn ngập nguồn sống, suốt không gian và khắp cả thời gian. Ngài đã xả bỏ ngũ dục, sạch hết phàm tình, đạt đến cảnh giới tâm linh vô cùng chan hòa với thế giới vũ trụ bao la, rộng trải tình thương bình đẳng, nhập diệu đức tánh hài hòa bao dung hỷ xả, tâm không mảy may vướng bận nhân ngã, thị phi, lòng rũ sạch cấu uế ngũ dục, phiền lụy thịnh suy, vinh nhục của trần thế, nên Ngài đạt được nụ cười tự tại, vô ngại hòa điệu cùng xuân chơn thường chơn ngã, ấy là xuân Di-Lặc.
Thế nên, mỗi độ xuân về là dịp để chúng ta hồi quang phản chiếu tự tâm tự tánh, là dịp để cho chúng ta tự xét lại lòng mình: Một năm qua ta đã làm gì lợi ích cho chính bản thân ta chưa? Ta đã làm gì lợi ích cho gia đình quyến thuộc, đồng bào xứ sở, nhân loại chưa? Hay ta cũng vẫn sống miệt mài bo bo trong cái vỏ tư lợi cá nhân, ích kỷ vợ con, chỉ biết dong ruổi chụp bắt kiếm được nhiều tiền để hưởng thụ? Hay chỉ biết cơm no, áo ấm nô lệ cho cái thân tạm bợ nhớp nhơ này, mà không có một phút giây thanh thản bình tâm quán chiếu nội tại tâm tánh mình để mở rộng tình thương.
Làm việc lợi ích, tu nhân tích đức bòn phước, tập sống đời vị tha, thanh tịnh hóa đời sống không phải đợi đến khi tiền nhiều, có danh vọng quyền thế mới làm, mà phải biết thể hiện tâm lành thiện ngay bây giờ, tùy theo khả năng mình có, hoàn cảnh mình đang sống. Nếu cứ đợi đến khi giàu có, quyền danh rồi mới tu tâm sửa tánh, hành thiện lợi tha, làm việc phước đức, thì đó là quan niệm rất ư sai lầm không thực tế, mà xưa nay đã biết bao người nhầm lẫn vấp phải. Đâu biết rằng, một khi đã có tiền bạc quyền thế, tâm lại sanh ra đủ thứ dục vọng nặng nề, bạn bè lôi kéo rủ rê, những điều ưóc mơ này khác trói buộc che mờ tâm trí, theo đó tâm lành, lòng thương cũng bị tê dại chết dần. Cho nên cổ nhân nói: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ.” Bạn là người giúp đỡ ta trên đường công danh sự nghiệp. Vợ là kẻ ân tình cùng chung cuộc sống, chia vui xẻ buồn mà khi được giàu có danh vọng còn ruồng bỏ đổi thay, thì thử hỏi trên đời này còn ai thân thiết gần ta hơn nữa? Nhất là tâm vô thường luôn luôn thay lòng đổi ý, phút trước nghĩ như thế này, giờ sau lại đổi khác, nói chi đến ngày mai, năm sau?
Cho nên thói thường phần đông con người một khi đã có tiền bạc danh vọng thì lòng trở nên keo kiết bỏn xẻn và tâm trí thường sống trong quỷ quyệt, thủ đoạn đua đòi không thôi – “được voi đòi tiên,” ít khi có nẩy nở mối từ tâm lợi tha trong tâm hồn kẻ trưởng giả phú quý! Chỉ có những kẻ giàu sang mang nặng tâm Bồ-đề mới có lòng từ bi quảng đại để làm việc nghĩa vô vụ lợi. Nhan nhản trong cuộc sống hằng ngày cho ta thấy, người nghèo thích tu tâm hành thiện làm việc phước. Do đó, ta phải biết tùy theo khả năng mình có, hoàn cảnh mình đang sống để thực hành những điều lợi ích cho đời. Lợi ích cho đời cũng chính là hương hoa tô điểm đạo hạnh phước đức và nguồn an lạc cho chính mình thêm ngát hương.
Để đạt mùa xuân Di-Lặc hạnh phúc miên trường muôn thời muôn thuở, vun bồi tận hưởng mùa xuân đạo hạnh thanh thoát, ta phải ý thức một cách rõ ràng rằng, mỗi lần xuân về, ta lại bước gần kề đến bờ già chết, biệt ly. Mỗi lần nghinh rước xuân trần gian, xuân của tháng năm thời tiết, ta nên cẩn trọng tự xét lại lòng mình, để những phút giây suy tư quán sát hành nghi tâm niệm suốt dòng năm tháng đã qua, hồi quang phản chiếu, cố gắng gạn lọc tâm ý, đoạn trừ phiền não, tạo cơ hội học hỏi đạo pháp, tu tâm dưỡng tánh, tích cực thực hành việc phước thiện, tích lũy công đức, hương đời mình trên đường thánh thiện. Luôn luôn nhớ như thế và làm được như thế là ta dễ dàng tiếp nhận nguồn sống an lành trong ánh sáng xuân dương với muôn ngàn hoa bướm ngát hương đón chào, và đồng thời tắm mát ánh xuân Di-Lặc muôn thời muôn thuở ngập tràn vũ trụ nguồn an lạc, hạnh phúc. Xuân chỉ thật sự có với những cõi lòng thanh tịnh. Hạnh phúc thật có với những người biết tri túc, buông xả. Ấy là đạt được mùa xuân thường tại.
Cho Trọn Mùa Xuân
Xuân tết là ngày quan trọng và thân thiết đối với mọi người, dù người đó đang ở đâu, trong hoàn cảnh nào. Kỳ gian xuân tết mỗi nơi mỗi khác, nhưng hễ mỗi lần xuân tết là báo hiệu ngày mở đầu năm mới, người người đều cảm thấy nơi lòng sống dậy niềm hy vọng sẽ được hạnh phúc sáng sủa và may mắn tốt lành hơn năm cũ.
Xuân mang ý nghĩa tăng trưởng nguồn sống cho vạn loại sanh linh. Xuân mang lại nguồn sống của vạn vật đâm chồi nẩy lộc tốt tươi như thế nào, thì ngày đầu năm xuân tết người ta cũng vui vẻ chúc cho nhau những điều lành tốt như thế ấy. Trong những ngày xuân tết, người ta hết sức kiêng cữ lời nói, cố tránh việc làm không hay đẹp. Người ta thường trao tặng cho nhau những món quà xinh tốt với nụ cười lời chúc “hạnh phúc, may mắn, tăng thọ, phát tài, phát lợi, bình an.”
Ngày xuân tết, chúng ta còn thấy giấy đỏ, chữ vàng dán trước cửa nhà với những câu chúc tết như: “Địa cửu, Thiên trường” – “Phước như đông hải, thọ như nam sơn” – “Vạn sự cát tường như ý”- “Tài lộc như thủy nhập môn” v.v…Đủ những lời hay ý đẹp để nói lên ý nghĩa hy vọng an lành cầu chúc cho nhau được may mắn hạnh phúc trường cửu trong ngày đầu năm mới. Nhưng có một điều chúng ta không thấy chúc cho nhau đó là: “Năm mới cố gắng tinh tấn làm lành, tu tâm sửa tánh hơn.” Lời chúc nầy đích thực là căn bản sản sanh hạnh phúc chơn thường, con người sẽ có tương lai sáng lạn huy hoàng trường cửu, ấy thế mà người ta lại quên! Chính vì quên, thiếu hay không để ý hoặc xem thường việc tu bồi phước đức, sửa tánh tu tâm nên không khuyến khích chúc cho nhau tinh tấn hướng về nẻo thiện, trong năm mới. Do đó mà những lời chúc tụng tốt lành trên kia trở thành thói quen, tập tục, nếu không muốn nói là những lời sáo ngữ, không thực tế chút nào. Vì sao?
Bởi vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” “Người trồng cây hạnh người chơi, ta trồng cây phúc để đời về sau.” Vậy thì may mắn hạnh phúc là do ngoại cảnh hay nội tâm? Không tu tâm sửa tánh, tức là tâm không tu, tánh không sửa, không lo làm việc lành thiện, chỉ biết mải mê tham danh đoạt lợi ích kỷ đố kỵ, thị phi hơn thua thì làm sao có phước như đông hải? Không biết bố thí, trì giới, phóng sanh, thực hành theo tâm hạnh nhân đức từ hòa của thánh hiền, chỉ biết chạy theo tham sân danh lợi trần tục thì làm sao được tuổi thọ như nam sơn? Chúng ta muốn được phước lộc thọ, địa cửu thiên trường mà chúng ta không nhiệt tình làm phước, không tu tâm sửa tánh, không khởi tâm lành thiện nhẫn nhục khiêm tốn, không cố gắng vun bồi phước đức thì làm sao có được phước lộc thọ? Phước lộc thọ, an vui may mắn hạnh phúc không phải do tranh danh đoạt lợi mà có được, mà phải chính do nội tâm của chúng ta tạo nên bằng gắng công tu phước bồi đức. Không có tu tâm sửa tánh hành thiện thì nhất định không thể nào có được phước lộc thọ và rất ít có được những phút giây tâm hồn định tĩnh thanh thản vui tươi thưởng xuân, dù đang sống trong lâu đài tiền kho bạc biển, trong mùa xuân bướm lượn hoa cười, áo mới pháo nổ cũng vẫn thấy lo âu sầu khổ trong mùa xuân. Thế nên cổ đức nói: “Tâm xuân vũ trụ đều xuân. Tâm buồn thế giới đâu đâu cũng buồn” là vậy.
Đời nay có người không tu tâm, không làm phước mà được giàu có, điều đó cũng không phải là tự nhiên. Nên biết rằng, tất cả sự việc trên đời không ngoài nhân quả. Người kia đời nay bất lương không tu tâm làm lành mà lại được giàu có, thì đó là họ hưởng phước lành đời trước họ đã tạo. Còn đời nầy họ làm điều bất thiện thì sẽ chịu quả báo hoặc cuối đời nầy hay đời sau. Gia đình cụ Ngô-Đình-Diệm chẳng đáng để cho chúng ta suy gẫm đó sao? Luật nhân quả công bằng nào có đổi thay, như lưới trời lồng lộng nhìn không thấy, nhưng không sai chạy, không sót lọt mảy lông. Kinh Nhân-Quả nói:
Dục tri tiền thế nhân
Kim sanh thọ giả thị
Dục tri lai thế quả
Kim sanh tác giả thị
Nghĩa là:
Muốn biết nhân đời trước
Nên xem đòi sống họ ngày nay
Muốn biết quả đời sau
Cứ xem việc họ làm ngay nay.
Không biết tu tâm sửa tánh tạo phước đức thì lẽ tất nhiên không thể nào có may mắn, hạnh phúc, phát tài, hưởng lộc bền lâu. Cũng như không chịu khó bới đất trồng cây, không ra công gắng sức săn sóc bón phân, tưới nước thì không làm sao có được cây tươi, hoa đẹp, trái tốt để thưởng thức? Không chịu khó cố gắng học hành thì làm sao thành danh với bằng cấp sự nghiệp? Không chịu khó đọc kinh sách nghiên tầm học hỏi lời dạy của các bậc cổ đức thì làm sao thấu hiểu được triết lý ở đời, lời dạy thâm thúy của thánh hiền? Không gắng gổ tu tâm bồi đức bồi phước mà muốn được giàu sang hạnh phúc là người đánh bạc muốn làm phú ông, là kẻ nông phu không cần mẫn với ruộng vườn, là học sinh không đến trường vào lớp mà muốn được đỗ đạt bằng cấp.
Bởi thế, chỉ biết chúc cho nhau phát tài, đắc lợi, sống lâu, hạnh phúc bằng những lời sáo ngữ “đông hải, nam sơn” v.v… mà không chúc cho nhau tinh tấn cố gắng “tu tâm sửa tánh, vun bồi phước đức” hơn năm cũ là điều thiếu sót lớn lao. Điều quan trọng là để xây dựng hạnh phúc mà không lưu tâm làm phước tu đức thì bảo sao suốt năm chẳng lận đận, bất hạnh nhiều hơn là vạn hạnh? Chẳng khác nào kẻ suốt năm chẳng đi chùa lạy Phật nghe kinh, chẳng chịu làm lành làm phước tu tâm sửa tánh, mà chỉ đầu năm đến chùa xin xăm cầu hên, cầu vận mạng tốt là điều mơ mộng. Có kẻ sống trong hơn thua chụp giựt, suốt tháng năm chạy đôn chạy đáo chụp bắt danh nọ lợi kia, đến khi chạm trán với điều bất hạnh thì xin xăm bói quẻ cầu thần khấn trời ban phưóc! Người đời thường bỏ gốc lấy ngọn, quên sửa tâm tánh mà chỉ nhớ lợi danh! Vì thế cho dù đầu năm chúc nhau bằng những lời tốt lành, mà suốt năm vẫn phải nhận lãnh những điều bất hạnh, phiền muộn, bất như ý, nguyên nhân sâu xa từ đấy.
Lại còn có những người suốt năm chẳng biết tu tâm làm phước, đến ngày mùng một Tết hoặc rằm tháng Giêng vội vã đến chùa lạy Phật cầu được may mắn, vạn sự như ý! Chưa đủ, họ còn chạy đến các đền miếu để khấn cầu ông thần nầy, bà chúa nọ phù hộ, xin xăm bói quẻ cầu vận mạng năm mới được tốt lành như ý! Họ quên đi câu nói của ông bà chúng ta đã dạy: “Có phước đức mặc sức mà ăn.” Các bậc thánh hiền đã từng khuyên người đời: “Phước túc mạng” – “Đức thắng số.” Phước túc mạng nghĩa là mình biết làm điều lành thiện, bố thí, giúp người nghèo đói, cứu trẻ cô nhi thì đời sống của mình sẽ được đầy đủ sung túc thoải mái suốt đời. Đức thắng số có nghĩa là mình biết trì trai giữ giới, tu tâm sửa tánh làm lành, biết nhẫn nhục tha thứ thì tai ương hoạn nạn sẽ đưọc tiêu trừ, mạng sống cũng theo đó được lâu dài an lành hạnh phúc.
Đạo Phật dạy, muốn thoát khỏi cảnh nghèo đói để được giàu sang, có chức phận địa vị thì cần bố thí, cúng dường, đó là tạo nhân “phước.” Muốn có trí huệ để thoát khỏi ngu dốt, đạt lý thông minh, được người đời kính trọng nể vì cung phụng thì nên trì giới tu tâm sửa tánh, đó là tạo cái nhân “lộc.” Muốn được mạnh khỏe sống lâu đời đời hưởng hạnh phúc với con cháu thì nên nhẫn nhục, nuôi dưỡng tâm từ bi thương người thương vật, biết sống trong tinh thần vị tha hỷ xả, chẳng những không sát sanh hại vật, mà còn phải bảo hộ mạng sống, phóng sanh, đó là tạo nhân “thọ.” Như thế, phước lộc thọ do chính mình tạo ra, do bên trong tâm tu dưỡng hình thành và bên ngoài thân làm lành thiện lợi tha tránh điều ác, tất cả đều do chính mình tạo phước lộc thọ mình hưởng, chứ không phải cầu thần thánh nào ban cho cả.
Cứ chân thành tu tâm sửa tánh làm lành lánh dữ, trì trai giới hạnh, biết sống đời tri túc, tập sống hạnh nhẫn nhục lợi tha, dẹp bỏ ngã mạn, diệt trừ ích kỷ hờn giận thì chắc chắn sẽ được hưởng phước lộc thọ. Nếu không lưu tâm để ý đến điều quan trọng tu bồi phước đức mà chỉ cầu chúc suông thôi, thì đó là lời cầu chúc xáo ngữ, trống rỗng vô nghĩa, điều hy vọng hạnh phúc may mắn năm mới chỉ là hão huyền mà thôi. Dù có tiền tài danh vọng mà không biết tu tâm sửa tánh thì bất quá cũng chỉ duy trì tiền tài danh vọng ấy trong tình trạng mong manh hồi hộp, lắm khi còn phải sống trong tủi nhục bất an vì tiền bạc do thất đức mà có đó nữa là khác.
Xuân trong nhà Phật không phải chỉ vui khi xuân đến hoa nở và buồn khi xuân đi hoa tàn. Xuân của người tu học Phật không phải xuân đến vui rộn với tiếng pháo nổ ran, xuân đi buồn tiếc với xác pháo ngập tràn đầu đường cuối ngõ. Xuân của người tu hiểu đạo Phật không chúc nhau “Phước như đông hải, thọ như nam sơn” – “Phát tài phát lợi bình an,”mà chúc cho nhau “năm mới tinh tấn tu hành hơn năm cũ.” “Năm mới phát tâm Bồ-đề, phát nguyện tinh tấn tu học.” Vì có thật tâm tinh tấn tu học thì mới tiêu trừ ác nghiệp, tiêu tai giải hạn, mọi việc được hanh thông như ý.
Người chân chánh tu học Phật nhờ trì trai giữ giới, giữ gìn ba nghiệp thân miệng ý không tạo ác, cố gắng hành thiện, chuyên cần gột rửa tâm tánh được thanh tịnh, nên lúc nào cũng hưởng xuân tràn ngập nơi lòng. Thân tâm thanh tịnh, phiền não sạch trong, ấy là hạnh phúc là phước lộc thọ. Xuân hạnh phúc phước lộc thọ của thế gian nếu thật có, cũng chỉ hạn cuộc theo thời tiết tháng năm, vì con tham, sân, si, mạn, nghi, phân biệt, ích kỷ. Còn xuân hạnh phúc phước lộc thọ của nhà Phật vượt ngoài thời gian tháng năm, vì lúc nào thân tâm cũng thanh tịnh, cõi lòng hỷ xả buông thả sự đời không dính mắc lợi danh, nên không bị buộc ràng theo cảnh đắc thất thịnh suy, vinh nhục, tham sân, chấp ngã. Không có mùa xuân nào an lạc hạnh phúc lâu bền bằng mùa xuân thân tâm thanh tịnh. Do đó, cổ đức tiên hiền đã nói: “Tâm an lý đắc” – “An bần lạc đạo” – “Sớm hiểu đạo, chiều chết cũng vui.” Đấy là tâm xuân khắp vũ trụ đều xuân.
Người đời cầu trường thọ. Nhưng trường thọ mà không thức tỉnh tu tâm thì đâu có biết trường thọ là nhân của khổ. Vì tuổi đời càng chồng chất mà không hiểu đạo, không biết tu tâm sửa tánh hành thiện, thì tội lỗi càng chồng chất theo tuổi thọ đó thôi. Nên cổ đức đã nhắc nhở “đa thọ đa nhục,” là ý nghĩa nầy vậy.
Trái lại, tuổi thọ trong nhà Phật không phải tính theo năm tháng chất chồng như thế gian, mà tính theo giới hạnh hạ lạp. Nghĩa là tính theo sự thọ giới hành đạo, an cư kiết hạ. Người càng hành trì giới luật nghiêm túc lâu năm thì được tuổi đạo càng cao. Phật pháp theo đó càng bền lâu phát triển. Thọ trì giới luật không phải chỉ riêng hàng xuất gia, mà Phật tử tại gia muốn thăng hoa hạnh phúc bản thân, gia đình và tiến nhanh trên đường giác ngộ giải thoát cũng phải khởi đi từ sự nghiêm trì giới luật, phát tâm Bồ-đề.
Ngược lại, dù tuổi đời có đến trăm năm mà không có tuổi đạo, thì cũng vẫn là kẻ tầm thường phàm tục. Dù tuổi đời có đến hơn trăm mà mới biết đạo, mới học hiểu đạo chỉ được vài ba năm thì vẫn là kẻ sơ cơ. Người như thế tuổi đạo chưa vào đâu. Đặc biệt, điều đáng lưu tâm hơn nữa là, dù là ấu niên xuất gia, thọ giới lâu năm mà giới hạnh không tinh nghiêm, đạo hạnh yếu kém, tâm hạnh không thanh tịnh thì Phật gọi đó là kẻ lạm xưng tăng bảo, thân tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo. Trong Giới kinh gọi người đó là: “Thân tuy hành đạo mà tâm đạo chẳng hành.”
Xuân đạo hạnh là xuân hạnh phúc chân thật vĩnh viễn chỉ có ở những tâm hồn thanh tịnh hỷ xả. Nếu tâm còn dính mắc hơn thua, nhân ngã, lợi danh, chức tước, quyền hành, hình thức thì không bao giờ hưởng được mùa xuân vạn hạnh, thanh thoát, mà chỉ tự mãn với xuân phiền não, xuân giả tạo, vui với huyễn ảo hoàn cảnh bên ngoài.
Với ý nghĩa trên đây, nay ngày đầu năm xuân tết, tôi xin chúc tất cả mọi người thân tâm thanh tịnh, trọn hưởng mùa xuân vạn hạnh. Chúc quý vị thân tâm thanh tịnh để trọn hưởng nhạc xuân muôn điệu, hoa xuân rộn nở muôn màu, ánh xuân rạng chiếu khắp muôn phương, hồn xuân tràn ngập đất trời hòa cùng vũ trụ, chan hòa cõi lòng tự tại thanh thoát. Ấy mới thật trọn hưởng mùa xuân: “Tâm xuân vũ trụ đều xuân.” Như Trần-Nhân-Tông nói:
“Trăng sáng đầy chân tâm
Tâm xuân rạng rỡ cõi lòng
Tình xuân hoa nở ngát thơm hương thiền.”
Tâm Xuân Vũ Trụ Xuân
Thời gian lặng lẽ trôi qua theo đà nhịp tim bóp thắt. Thấm thoát 12 tháng trôi nhanh, 365 ngày thoạt đủ, chúng ta lại đón mừng xuân mới, với hy vọng năm mới sáng sủa hơn. Nhưng hy vọng chỉ là hy vọng! Mà thực tế thì mỗi lần đón mừng xuân là một lần ta chất chồng thêm tuổi đời, mặc nhiên ta lặng lẽ xa dần cái sinh lực tráng kiện trẻ trung, đồng thời rút ngắn đi mạng sống luân chuyển theo vòng sanh trụ hoại diệt. Nếu không có thiện duyên với Phật pháp, không khôn ngoan lấy Phật pháp để nuôi dưỡng trí huệ soi sáng cho đời mình, không chọn định hướng cho lẽ sống thánh thiện trần thế, thì càng đón mừng nhiều mùa xuân trần thế, lại càng bê tha trong rượu thịt tiệc tùng, say mê trong sòng bài canh bạc, ta lại càng gây tạo sâu dày lầm lỗi. Như thế thì tinh thần lẫn vật chất, đạo đức lẫn trí thức, sẽ từ từ cằn cỗi chất chồng thêm lầm lỗi với mỗi lần xuân đến xuân đi.
Là đệ tử Phật, chúng ta không phải đón xuân bằng tâm trạng vui buồn, hy vọng hay thất vọng. Là đệ tử Phật, chúng ta không phải chỉ để lòng mừng xuân thời gian, rộn ràng theo xuân trần cảnh hạn cuộc giả tạm có đến có đi. Là đệ tử chân chánh của Phật, không thể tự mãn với những lời chúc tụng khen thưởng giả tạo như người trần thế: phước như đông hải, thọ tợ nam sơn v.v… Đã tự nhận là đệ tử Phật, chúng ta phải đích thực tạo cho chính chúng ta một đời sống giống như đức Phật, hay như hàng đệ tử chứng thánh của Ngài. Nghĩa là, chúng ta luôn luôn nghĩ đến đức hạnh sâu dầy, trí huệ ngời sáng như ánh trăng rằm Trung-Thu của đức Phật để noi theo. Chúng ta phải luôn luôn lấy Phật làm gương soi sáng cho chúng ta. Chúng ta lấy tâm Phật làm tâm mình; lấy hạnh Phật làm hạnh mình; lấy nguyện Phật làm nguyện mình. Phải học nói những gì đức Phật đã nói. Phải làm những gì đức Phật đã làm. Phải nghĩ những gì đức Phật đã nghĩ. Và phải tập sống như đức Phật để từ đó có được mùa xuân đạo hạnh thường tại.
Trên đường đi đến mục đích của đạo quả, ta phải đi từ thấp lên cao, từ gần đến xa, từ dễ đến khó, từ nhà thế gian đến nhà xuất thế gian. Trên đường chân lý giác ngộ giải thoát, ta phải phát nguyện một lòng quyết tâm đi đến đích, tất nhiên không tránh khỏi nhiều nguy khó. Nhưng điều thiết yếu và cũng là điều tối quan trọng là, ta phải kiên tâm quyết chí với lý tưởng mình đã tôn thờ. Đức Phật nói: “Trên đường hành đạo để kiến tạo giác ngộ giải thoát, dù có gặp phải chướng ngại ngã quỵ hiểm nguy đến lần thứ một trăm, các con phải kiên tâm trì chí tinh tấn dõng mãnh đứng dậy tiếp tục tiến bước như lần đầu, rồi chậm mau gì các con cũng đạt đến đích của bến bờ giác ngộ giải thoát.” Nhân cách của Phật hùng vĩ nguy nga tráng lệ. Tâm lượng của Phật rộng lớn thênh thang như trời biển. Ánh đạo vàng của Phật ngàn đời ngời sáng khắp trần gian soi đường thẳng tiến cho mọi loài chúng sanh. Trí huệ của Phật là ngọn hải đăng vĩ đại cho những con thuyền văn minh khoa học nhân loại đang tìm định hướng trong đêm dài phát minh. Con đường đức Phật là con đường giải thoát cho chúng sanh đang nổi trôi trong tam giới luân hồi. Ta đã tự nhận là đệ tử Phật, hãy nên tự trầm tư quán sát nhân cách của ta, tâm lượng của ta, tri kiến của ta, đã trải qua bao mùa xuân sống trong cửa Phật rồi, có chút nào tiến bộ không. Ta đã bắt được nhịp cầu cảm thông giữa Phật và ta chưa? Giờ đây chắp tay đối diện trước Phật đài trong ngày đầu năm mới để dâng trọn lòng thành tâm khấn nguyện “Phật từ gia hộ.” Lúc thành tâm khấn nguyện đó, ta có thật lòng mạnh dạn phát lời thề nguyện sống trọn vẹn với bản nguyện sơ tâm tin Phật không? Ta có thành tâm khẩn thiết nguyện dốc lòng tu trọn Tứ-hoằng-thệ-nguyện không? Chư Phật Bồ-Tát đã triệt để tu hành Tứ-hoằng-thệ-nguyện nầy mà các Ngài thành đạo cứu đời. Ta nay quỳ trước Phật đài trong ngày đầu năm cũng nên thành tâm khẩn thiết phát nguyện:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Trước Phật đài, trong ngày đầu năm, giữa làn khói trầm hương quyện tỏa, trong bầu không khí linh thiêng, với những đóa hoa tươi muôn màu sắc, ta nên hết lòng chí thành chí kính, tự tâm can sâu kín phát những lời khẩn thiết, nguyện tu tập thật sự chứ không phải tu lý thuyết, nguyện ngày một tinh tấn tu tập theo Tứ-hoằng-thệ-nguyện, để tiến lên sống trong tâm lượng Phật, hoàn thành nhân cách Phật.
1. NHÂN CÁCH ĐỨC PHẬT
Đức Phật vốn là một Thái-tử như bao nhiêu Thái-tử, là một con người như bao nhiêu con người. Ngài là con người bằng da bằng thịt, có cha mẹ, có gia thất, có quốc thành, quyến thuộc, không phải thần linh huyền tưởng. Ngài được đời tôn kính ngưỡng mộ, không phải vì giòng tộc vua chúa,giàu sang, mà vì Ngài có đầy đủ tất cả đức tánh siêu phàm thoát tục của một thánh nhân, bậc Đạo-Sư xuất thế. Trí huệ Ngài chẳng những đầy đủ mà còn siêu việt tất cả khả năng trí huệ của các nhà bác học, khoa học, tâm lý học, tinh thần học, nhân chủng học, vật lý học, đạo đức học và cả các bậc hiền triết v.v… Đạo hạnh Ngài bao trùm và siêu việt đạo hạnh các thánh nhân kim cổ. Tất cả thế học và xuất thế học, Ngài đều thông suốt và siêu xuất. Điểm đặc biệt nơi nhân cách của đức Phật là thấu rõ cả căn tánh của học trò và tâm tánh chúng sanh. Ngài đã đem chính bản thân thể nghiệm chứng đắc để khai mở đường sáng an lành, hướng dẫn mọi sanh linh trên quang lộ đó, hầu cho mọi loài có ngày mai sáng sủa an lạc như Ngài. Tâm nguyện đó đã thể hiện qua lời nói của Ngài “Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành. Mọi người đều sẽ thành Phật.
2. ĐỨC PHẬT THẤU HIỂU CHÚNG SANH
Mỗi cá nhân đều hy vọng người khác hiểu biết mình. Nhất là những người sống cô độc, bất hạnh, bất mãn với hiện thực cuộc đời, thiếu thốn tình người ấm cúng, không được người khác nghĩ nhớ đến. Nhưng làm thế nào để thật sự hiểu biết người khác? Đức Phật bằng vào quan sát kinh nghiệm, bằng vào định tâm trí huệ chứng đắc mà quán chiếu suốt thấu tất cả nguồn sâu thẳm tâm lý suốt từ vô lượng kiếp quá khứ và tương lai của chúng sanh.
Thường thì người ta bằng vào cảm quan của mình qua sự tiếp xúc để hiểu người khác. Như giáo sư Gilbert Highet nói trong quyển sách The Art Of Teaching của ông: “Muốn hiểu biết học sinh là phải nói chuyện với họ, phải cùng hòa vui chơi, chịu lắng nghe chúng trò chuyện. Hồi tưởng lại giai đoạn thời đại đã qua của mình ở vào lứa tuổi của chúng. Càng chơn tâm nhiệt tình quan sát như vậy, càng hiểu học trò nhiều hơn.” Ông còn thêm: “Phải biết sự nỗ lực gian khổ của chúng, mục đích không ngoài mong người khác biết sự trưởng thành và thành công của mình. Nhất là nhớ tên, mô phỏng theo tư thái của chúng.”
Nhưng đức Phật hiểu biết người không phải Ngài dùng cảm quan qua chuyện trò hoặc bằng sự chung đụng lân la để từ đó rút ra kinh nghiệm. Bởi vì cảm quan, chuyện trò, kinh nghiệm chỉ là bề ngoài có tánh cách phiến diện cục bộ. Ngài bằng vào sức định tâm trí huệ quán chiếu, nên hiểu biết bằng thấu triệt tha nhân một cách trọn vẹn. Kinh Phật-Địa nói: “đức Phật có đầy đủ diệu-quang-sát-trí” thấu suốt chân tướng công năng, tính chất của người và sự vật. Đức Phật có năng lực đặc thù của ký ức và thấu suốt trạng thái tâm linh chính mình và tất cả chúng sanh. Đối với môn đồ, Ngài không những nhớ rõ từng tên một của đồ chúng, mà Ngài còn nhớ kỹ tuổi tác, quê quán, tướng mạo, tình trạng sức khỏe, khả năng, trí huệ phát triển, hoàn cảnh tâm lý, tình hình xã giao, trình độ kiến thức, khả năng ký ức, năng lực phán đoán, tinh thần hiệu năng học tập, cá tánh, bẩm tánh, thiên phú, tánh ưa thích, nguồn gốc gia tộc, hoàn cảnh gia đình, tình trạng cha mẹ v.v… Theo đó từng căn tánh trình độ, Ngài chọn giáo khoa đề tài để giảng dạy truyền trao. Trong kinh Phật, chúng ta thường thấy đức Phật đúng thời hợp lý, thích ứng căn cơ, Ngài kêu tên đệ tử và khen ngợi những ưu điểm và đặc tánh tốt của họ. Ngài luôn luôn quan sát tánh hướng ngôn hạnh của đệ tử và đồng thời khéo biết lợi dụng cơ hội thuận tiện để dẫn giải sửa sai họ. Chính Ngài biết đúng thời, đúng chỗ, đúng trình độ, đúng cá tánh, nên lời dạy của Ngài bất cứ ai cũng tiếp nhận một cách thoải mái và thấm sâu vào tâm thức. Lời dạy của đức Phật đối với chúng sanh như trận mưa thấm vào lòng đất, làm tươi nhuận muôn vật cỏ cây hoa lá.
Kinh Đại-Thừa Lý-Thú-Lục Ba-La-Mật quyển tám ghi rằng: Bất luận đi đứng, ngồi nằm, động tĩnh, nói năng hay lặng thinh, nhứt cử nhứt động, đức Phật đều thể hiện tinh thần chuyên tâm nhất trí, thanh tịnh an nhiên. Ngài lúc nào cũng sống trong trạng thái thiền định và từ trí huệ của thiền định, Ngài phát ra những lời giải đáp cho đệ tử, tùy theo căn tánh, Ngài dẫn giải đạo lý để cho khế hợp thâm nhập tận sâu vào tâm thức của mỗi hạng người. Vì vậy, kinh Vô-Lượng-Nghĩa và kinh Pháp-Hoa phẩm Một, đều ghi rõ năng lực đức Phật thấu suốt tâm tánh của từng người, suốt rõ dòng tư tưởng của họ từ quá khứ đến hiện tại. Điều nầy rõ ràng như kinh Ma-Ha Bát-Nhã quyển hai, đức Phật nói, không luận tâm đệ tử của Phật có hay không có tạp niệm, động lực mãnh liệt học tập, cảm thọ đặc thù, có hay không có điều oán hận nhàm phiền, nghi hoặc, yêu đương, trách nhiệm gánh vác, giải thoát hay không giải thoát, chuyên tâm hay tán tâm, định tâm hay loạn tâm, có hay không có hoài bão đảm trách việc lớn nhỏ, đức Phật đều thấu biết.
Đức Phật không những hiểu rõ trạng huống tâm tưởng của đệ tử, mà Ngài còn thấu suốt tâm lý của mỗi loài động vật trong vũ trụ. Luận Đại-Trí-Độ quyển thứ hai mươi ba, mô tả trí năng thông đạt của đức Phật bằng danh từ “Tha-tâm-trí,” còn kinh Bát-Nhã gọi là “Tha-tâm-thông.”
Liên quan với việc đức Phật thấu hiểu đồ đệ của Ngài, rõ biết căn cơ chúng sanh, chúng ta có thể nêu một vài sự kiện để rõ thêm vấn đề: Đức Phật từng lấy bốn loại ngựa tốt để thí dụ cho đệ tử mình. Thứ nhứt, hạng đệ tử có căn trí thiên tư tốt nhất là dụ cho giống ngựa tốt nhất, hạng này chỉ cần dùng ám hiệu một chút là hiểu rõ được đạo lý. Thứ hai, hạng đệ tử căn trí thiên tư kém một chút thì cần sự chỉ dạy một chút mới thấu rõ đạo lý. Hạng ba, những đệ tử căn trí kém thua hơn thì cần giáo đạo và thuyết minh nhiều hơn mới ngộ đạo. Hạng tư, những đệ tử trình độ tâm thức yếu kém phải cần nhiều lần cặn kẽ tha thiết giảng giải chỉ bày mới có thể hiểu lời giáo huấn.
Đức Phật không những rõ biết được căn tánh của mọi loại chúng sanh, pháp môn nào thích hợp thôi đâu, mà Ngài còn biết vận dụng phương tiện, dùng hết khả năng, bằng phương thức uyển chuyển để chúng sanh hoan hỷ phấn khởi tiếp thọ, hành trì, được giải thoát mọi thứ phiền não khổ lụy. Ngài còn định hướng được thời gian chúng sanh đó khai mở tâm trí. Chẳng hạn, đức Phật biết những chúng sanh nào chỉ cần lời nói ôn hòa hóa độ; những đệ tử nào cần những lời thống thiết giáo huấn; những môn đồ nào chỉ cần nêu ra vài điều giáo pháp có thể thấm nhuần hiệu quả, Ngài tùy theo đó mà ứng cơ nêu ra vài điều giới pháp. Nghĩa là, Ngài dùng đủ cách thức phương tiện, giáo nghĩa, giới pháp tùy căn tánh thời cơ mà giảng giải hóa độ để cho khắp đủ tầng lớp chúng sanh giác ngộ. Đó là dung nghi trí huệ siêu việt của bậc Đạo-Sư Thích-Ca không thể nghĩ lường được.
3. TRI THỨC TINH THÔNG LÝ TÁNH
Đức Phật chẳng những là một nhà giáo thấu suốt căn tánh tâm niệm của học trò, rõ thấu điều nghi, hiếu kỳ sở thích của mọi cõi lòng trắc ẩn sâu kính của chúng sanh, mà Ngài còn tinh thông học liệu, khéo chọn giáo khoa để giải đáp thỏa mãn những nghi ngờ, phân tích minh triết những vấn đề, tương quan sanh tồn giữa người và người, người và vạn vật, vũ trụ và nhân sinh. Ngài đã minh chứng dẫn giải cặn kẽ căn nguyên của sự thăng trầm cuộc sống, phân tích cội nguồn tâm linh sống động, từ thời quá khứ đến thời hiện tại và suốt cả thời vị lai. Những lời dẫn giải phân tích của Ngài hợp căn tánh, thích thời cơ, có giá trị chân lý muôn đời, thấm mát lòng người và có năng lực tỉnh thức tâm linh chúng sanh muôn đời.
Đức Phật đích thực hiểu biết tất cả chân lý, nên Ngài được tôn xưng là Chánh-biến-tri. Ngài thấu triệt tất cả sự tình của động vật và phi động vật; giải thoát tất cả khốn cảnh của thần tiên và phàm phu, nên luận Đại-Trí-Độ và Du-Kỳ-Kinh-Sớ tôn xưng Ngài là bậc Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Thiên-nhân-sư. Kinh Hoa-Nghiêm xưng tán trí tuệ Phật: “Thiên thượng thiên hạ vô như Phật, thập phương thế giới diệc vô tỷ, thế gian sở hữu ngã tận kiến, nhứt thiết vô hữu như Phật giả.” Nghĩa là: Trên Trời dưới Trời chẳng ai bằng Phật. Mười phương các cõi chẳng ai sánh bằng. Tất cả thế gian, Ngài suốt thấy. Tất cả chẳng ai bằng như Phật. Trí huệ của Phật ngời sáng tuyệt vời. Thần lực tự tại của Phật được nói trong kinh Pháp-Hoa phẩm Dược-Vương: “Đức Phật thấu suốt tất cả chân lý. Tùy ý hiểu rõ cội nguồn của mọi hiện tượng sự vật, tự tại không trở ngại. Đức Phật đã quét sạch tất cả chướng ngại của tâm trí. Nên suy tư của Ngài là chân lý. Lời nói của Ngài là chân lý. Hành động của Ngài là chân lý. Năng lực tâm linh và hành nghi thân thể của Ngài là thể hiện trọn vẹn chân lý. Tất cả mọi động tĩnh của đức Phật đều thể hiện từ bi lợi tha. (He who has insight into the Dhamma sees the Buddha.)
4. ĐỨC PHẬT LÀ BẬC CHÍ CÔNG VÔ TƯ TỰ THỂ DÂN CHỦ
Điều tối kỵ của bậc Đạo-Sư là có cái tâm thiên vị. Giáo chủ mà có tâm thiên vị, thiếu đức tánh chí công vô tư thì mang đến cho nhân loại bất an và sẽ tạo ra vô vàn sự bất mãn. Đức Phật tuyệt đối bình đẳng đối với mọi loài. Kinh Hoa-Nghiêm ghi rằng: “Đức Phật chí công vô tư như ánh sáng mặt trời chiếu lên vạn vật.” Kinh Pháp-Hoa thì nói rằng: “Đức Phật vì lợi ích chúng sanh mà xuất hiện ở đời. Ngài như nước mưa, muôn loài cỏ cây đều được nhuần thấm.” Tâm từ bi của Phật không được phân biệt đẳng cấp, chủng loại. Ngài giải tỏa mọi thắc mắc uẩn khúc trong cõi lòng sâu kín của chúng sanh. Nếu chẳng may chúng sanh nào, đồ đệ nào vì vô minh mà ngoan cố xúc phạm đến Ngài, thì Ngài vẫn lân mẫn thân thiện tận tụy an ủi giảng giải, không một chút trách móc dỗi hờn. Kinh Bồ-Tát-Giới nói: “Nếu có một đệ tử nào không tin, phản đối lời dạy, đức Phật không những không buồn giận, không phiền trách, mà Ngài còn đối với chúng sanh ấy ưu ái quan hoài, ân cần cặn kẽ nhiều lần chỉ bày giảng dạy như bao lần trước đó, như bao nhiêu người khác.” Vì vậy, trong những lúc vấn đáp giữa Ngài và đệ tử, ta thấy lúc nào cũng biểu lộ thái độ bình dị, thân thiết cởi mở, bình đẳng giữa tình thầy trò, như tình huynh đệ. Ngài không muốn đồ đệ phải tuyệt đối tin Ngài, phụng tùng Ngài bằng uy quyền bắt buộc, bằng tình cảm, bằng thuyết phục, bằng áp lực, Ngài mong mọi người như thật với lòng mình bằng trí huệ nhận định để tin lý đạo như thật của Ngài. Vì vậy kinh luận thường xưng tán đức Phật có lời nói như thật, hành động như thật, tâm niệm như thật. Do vậy, người hiểu biết, hàng học thức trong đời đều nói đạo Phật là đạo như thật.
Đức Phật dùng tâm từ bi để giáo hóa chúng sanh, dùng tâm hỷ xả để lân mẫn chúng sanh. Ngài dùng tâm hùng lực để khích lệ tinh thần chúng sanh, dùng đại trí tuệ để soi sáng tâm thức chúng sanh. Ngài dùng đại thần lực làm cho chúng sanh thấy rõ các cõi thế giới chánh báo y báo hiển hiện để cho chúng sanh tự soi sáng căn tánh của mình có đầy đủ khả năng thành Phật. Ngài dùng đại hào quang để cho chúng sanh thật tế nhận chân phước huệ trang nghiêm của người hành đạo như thật sẽ được phước đức trí huệ thành Phật.
Suốt trọn đời đức Phật cho sự nghiệp trí huệ đạo đức, cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, cho sự an lành thăng hoa kiếp sống nhân sinh. Bằng cung cách ân cần lân mẫn, bằng dung nghi bình dị từ hòa Ngài khiêm tốt thiết tha, mang tâm nguyện từ bi hỷ xả trang trải cho đời. Nhưng Ngài tuyệt nhiên không bao giờ tự tôn xưng mình, hay muốn người khác tôn xưng mình. Lúc nào cũng trong thái độ tịch tịnh khiêm tốn nói với môn đệ: “Ta chỉ là vị đạo sư. Ta chỉ như vị lương y. Nghe lời ta hay không, chịu uống thuốc giáo pháp hay không là tùy quyền các người. Mọi người đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Giới luật là thầy của các người. Giới luật còn thì đạo pháp còn. Con đường giải thoát rộng mở. Tuệ giác ngời sáng nơi lòng người, khi con người còn biết sống với giới luật, với trí huệ, với lòng từ bi hỷ xả.”
Suốt đời đức Phật chỉ để lại bấy nhiêu lời. Nhưng chính Ngài lại nói ta không nói lời nào trong suốt 49 năm hoằng pháp giáo hóa. Chính cái đặc tính bình dị hỷ xả trầm tĩnh cởi mở đó nó thể hiện suốt cả đời Ngài. Nên đời đức Phật thật ngời sáng, thật lộng lẫy, thật nguy nga, thật trang nghiêm thanh thoát, đến nỗi bất cứ ai mỗi khi thành tâm tưởng nhớ đến Ngài, niệm danh hiệu Ngài cũng đều cảm thấy cõi lòng mình mát dịu, thanh tịnh an lành. Ta có thể nói đời Ngài là bài kinh vô tự, là đóa hoa sen, là ánh trăng rằmg, là không khí an lành thanh tịnh, là nguồn suối mát, không còn lời nào để diễn đạt hết cái cao quý thanh tịnh mát lành của đời đức Phật. Bất cứ ai cũng đến được với Ngài, mà tuyệt đối không phân giai cấp, không phân quý tiện, không phân trí ngu sang hèn. Đức Phật không bao giờ muốn chúng sanh tin tưởng Ngài là thần linh thượng đế, cũng không muốn ai tôn thờ Ngài bằng niềm tin si cuồng mà không hiểu Ngài. Ngài muốn người tin Ngài bằng cách thanh tịnh thân tâm đem lợi lạc cho đời, chứ không muốn vì tin Ngài mà gây đau khổ cho người khác. Tin Ngài mà gây đau buồn cho người khác là hủy báng phản bội Ngài. Thế nên, đạo Phật không tạo thế lục, không dựa thế lực và dĩ nhiên không có thế lực.
Cuộc đời của đức Đạo-Sư Thích-Ca Mâu-Ni cao thượng như thế. Bậc giáo chủ mà mình nguyện tôn thờ và tu học theo, đích thực sáng ngời thanh thoát muôn đời như thế đó, còn nhân cách tâm tánh của ta đã tiến bộ đến đâu rồi? Mỗi lần xuân tết đến, ta cảm thấy xác thể ta lớn thêm, tuổi đời ta chồng chất nhiều hơn. Ta cảm thấy lòng ta sống dậy niềm hy vọng vô biên. Ta mong được nhiều may mắn hơn. Nhưng nếu chỉ có ước mong suông như thế, thì ta cũng chỉ đón mừng xuân phàm tình hình thức, xuân hy vọng phàm phu thường tình chứ chưa phải chân chánh là xuân đạo hạnh, là xuân của người đệ tử Phật, là mùa xuân trong cửa Phật.
Người đệ tử Phật đón xuân không phải hạn cuộc xuân thời gian năm tháng, xuân cỏ cây hoa lá xanh tươi trong ba tháng, xuân hoàn cảnh tưng bừng với pháo nổ bánh chưng bánh tét, xuân cõi lòng vui nhộn với chè chén tiệc tùng, áo mới trang sức trong ba ngày tết. Mà đặc thù hơn, ý nghĩa hơn, người con Phật đón mừng xuân là xuân lòng, xuân tâm thức phản tỉnh, xuân tuệ giác bừng khai, xuân từ bi hỷ xả trải rộng, xuân thanh tịnh lợi tha, xuân lòng an lạc thanh bình miên viễn thường tại. Nghĩa là ta tự quán sát bản thân, ta tự sống lại với chính lòng để tìm lại nguồn sống của xuân tâm thanh tịnh thênh thang.
Xuân đến ta tự hỏi lòng rằng, một năm qua ta có thực sự tiến bộ chút nào sống theo giáo hạnh của Phật đà chưa? Ta có cảm thấy tâm ta sáng tỏ, lòng ta thanh sạch nhẹ nhàng trong biển giáo pháp thanh lương của đức Phật chưa? Nhìn thời gian trôi qua, thấy hoa lá đầu xuân tươi nở, ta có cảm thấy bỡ ngỡ thẹn thùng khi mọi người chúc mình năm mới tiến bộ, rồi tự xét lòng có thật tiến bộ không? Tiến bộ về phương diện nào? Tiền bạc danh lợi tham vọng hay lành thiện, phước đức, đạo hạnh? Ta có biết thành tâm tự thẹn, khi nhìn tượng Phật uy nghiêm, để xét lại nhân cách của mình tự nhận là đệ tử Phật, mà thật sự đã đánh mất lòng tin thuần khiết của những ngày đầu mình phát tâm tin Phật từ lúc nào rồi!
Mừng tân xuân kiết khánh ngày đầu năm mới, đứng trước tượng Phật trang nghiêm, hay nghiêng mình kính cẩn nghinh đón giao thừa hân hoan trong giờ phút thiêng liêng đất trời âm dương giao cảm, địa cầu rung chuyển tống cựu nghinh tân mang lại nguồn sống mới, ta có nhớ để tự xét xem lòng ta có đổi mới tiến bộ thêm phần nào trong niềm tin đức Phật không, hay lại cứ để đời ta trôi xuôi theo dòng thời gian năm tháng, chất chồng thêm tham lam, sân hận, si mê, tự ái, ngã mạn sống theo danh lợi tham vọng dục tình ích kỷ núp mình trong chiếc áo tín ngưỡng, trong hình dáng đức Phật, chỉ còn biết trang bị hình thức đạo đức bên ngoài, mà trong lòng đầy nhiễm ô tam độc đục khoét mục nát hết rồi. Mừng xuân trong tâm trạng tỉnh thức hỷ xả, đón xuân với lòng thanh tịnh buông thả mới đích thực là tận hưởng mùa xuân Di-Lặc, xuân đạo hạnh, xuân người Phật tử.
Ngược lại, mừng xuân chỉ để chất chồng thêm tuổi, vui thú trong lời chúc tụng xã giao, tạo thêm cái vỏ hình thức bên ngoài cho bóng đẹp, tự mãn với chút lợi danh tâng bốc không thật, tâm hồn không thêm chút thanh sạch hỷ xả nào hết, thì nhất định sẽ không có dịp hưởng được mùa xuân đạo hạnh. Nếu đón xuân theo ngoại cảnh mà quên đón xuân lòng thì cho dù ngàn triệu lần vỗ ngực xưng tên là đệ tử Phật, thật khó có mùa xuân chân thật. Xuân chân thật thường tại chỉ có với những ai biết cầu tiến trên đường thánh thiện hóa đời sống của mình. Đời sống không thanh tịnh hóa thì thật khó có mùa xuân đạo hạnh, mùa xuân với cõi lòng thanh tịnh an lạc. Bởi vui xuân ngoại cảnh mà quên nguồn xuân chơn thường bất tận nơi lòng, thì nhất định không thể nào trọn hưởng mùa xuân đạo hạnh, mùa xuân Di-Lặc. Không hiểu ý nghĩa thưởng thức xuân Di-Lặc như thế, có nghĩa là người đang hưởng mùa xuân vô thường mộng huyễn vong thân, mặc nhiên đang phá sản mùa xuân đạo hạnh, và đó cũng thật là điều bất hạnh lớn lao cho người trần thế cũng như hàng đệ tử của đấng giác ngộ Thích-Ca.
Đã nhận mình là đệ tử Phật Thích Ca, thì phải biết hy sinh tự ngã để sống đời vị tha, phải luôn luôn tỉnh thức tự quán chiếu hành vi tâm niệm của mình để hoa xuân đạo pháp rộn nở. Phải lấy tâm hạnh của Phật để nuôi dưỡng tâm hạnh mình. Như thế mới đích thật đầy đủ nhân cách xứng đáng là đệ tử Phật, mới thật sự trọn hưởng mùa xuân đạo hạnh chơn thường bất tận miên trường.
Xây dựng hạnh phúc bằng tiền bạc danh vọng ái tình, thì chỉ chuốc lấy bực mình khổ tâm. Biết người biết ta sống đời hỷ xả là hạnh phúc, là trời xuân.
Ý Nghĩa Xuân Tết
Xuân tết là bao hàm ý nghĩa hy vọng mới mẻ tốt tươi, vui cười hoa nở, ánh xuân dương sáng ngời trong gió mát trời xuân. Nói đến xuân là nói đến nguồn hy vọng hạnh phúc an vui, là gợi cho mọi người nụ cười tươi nở trên đôi môi thắm. Xuân về làm cho người người liên tưởng đến sự thay đổi từ trạng huống cũ già cằn cỗi sang hình thái mới mẻ trẻ trung sung mãn nguồn sống vui tươi hy vọng.
Xuân tết tự nó đã mang ý nghĩa kết thúc những tháng ngày đông hàn lạnh lẽo giá buốt lê thê, để kết tụ khí trời đổi tiết mát dịu, vạn vật căng nhựa xuân nẩy mầm trổ lộc, nở hoa. Xuân tết là dịp đoàn viên sum họp, hội ngộ đặt định dự tính kế hoạch xây dựng cơ đồ, thay cũ đổi mới. Vì vậy, xưa nay không ai bảo ai, nhưng mọi người cùng ý niệm xuân là hy vọng, là nguồn sống, là đời thêm tuổi mới, là tương lai sáng ngời. Ta hãy nghe những người được cái may mắn trên đường đời, họ cười vui hớn hở khi xuân tết đến:
Xuân mang đến bao nguồn vui khôn xiết
Xuân tưng bừng bao yến tiệc trò vui
Suốt năm dài an ủi chỉ xuân thôi
Xuân Tết đến, đời tôi thêm nguồn sống
Thật vậy, đối với người gặp may mắn trong sự nghiệp, phát đạt trên đường đời, hạnh phúc trong gia đạo, thì xuân tết là dịp để cho họ tạo nguồn hoan lạc phô bày thể diện. Với hạng người nầy, xuân tết là tăng thêm nỗi vui tươi, trên miệng nở rộng nụ cười đắc ý, và họ nới rộng vòng tay kết thân bạn hữu trong những ngày xuân tết. Với hạng người may mắn trên đường đời này, họ rất thiết tha vui mừng hỷ hạ trong mùa xuân tết. Bởi đây là dịp tốt để cho họ có lý do nghỉ ngơi hưởng thụ. Xuân đến còn là cơ hội để cho họ chưng diện phô trương những gì mà người đời cho là quí giá. Xuân Tết còn là sự đền bù sau suốt thời gian mười hai tháng tròn, họ đã bôn ba dong ruổi ngược xuôi để gia đình được dư giả giàu có, chạy lo cho bà con họ được khá giả hơn người. Suốt năm đã tận dụng bộ óc và sức lực cho tiền tài danh vọng, nên họ không bỏ mất bất cứ một cơ hội tốt nào về việc thu lợi. Càng được lợi lộc, họ càng xông pha. Họ xông pha bất kể khổ nhục. Vì danh lợi tiền tài mà họ phải trải thân bươn chải xông pha. Họ xông pha miệt mài, có lúc phải nhịn ngủ, không kịp ăn, miễn thu được nhiều lợi lộc là họ vui rồi. Vì vậy, xuân tết đến, ngoài dịp để họ nghỉ ngơi, kiểm điểm lại năm rồi thu lợi bao nhiêu, xuân tết còn là dịp để lấy kinh nghiệm cho năm tới làm cách nào thu lợi nhiều hơn nữa. Ngoài ra, và điều nầy mới đích thực thầm kín ước ao trong đáy lòng sâu thẳm của họ, đó là xuân tết đến còn là dịp để cho họ ngầm khoe khoang với mọi người bằng những trang sức áo quần mới đẹp, nữ trang đáng giá, nhà cửa sang trọng, bạn bè giàu sang đông đảo. Vì vậy, họ rất là thiết tha với xuân, vui mừng với tết. Xuân tết đến đối với họ rất là cần thiết, rất là ý nghĩa, rất là thiết tha:
Xuân đã đến, xin nàng xuân ở mãi
Để cho ta thoải mái được những ngày
Nàng ra đi, ta chua xót đắng cay
Đâu còn dịp để phô bày hạnh phúc
Nàng xuân hỡi, sao nàng về có lúc
Nàng đi rồi, ta ngơ ngẩn tiếc thương
Lòng ta đây vẫn còn mãi vấn vương…
Nhưng xuân của đất trời là xuân hạn cuộc luân lưu theo tháng năm thời tiết, xuân đó đến để rồi đi, lưu lại sau lưng bao nhiêu thịnh suy cho người trần thế, để lại bao nhiêu trạng thái hợp tan đổi đời còn mất buồn vui cho người đời và vạn vật. Thật ra xuân không cố ý đến. Xuân không cố tâm đi. Không phải mỗi lần xuân đến là hoàn toàn mang lại nguồn vui cho vạn loại. Xuân vô tình đến. Xuân vô tình đi. Xuân đến đi tùy thời đúng lúc, chẳng phải muốn mà được, nào phải chờ mà nên. Xuân đến, trần thế có làm ngơ phó mặc thì xuân cứ vẫn đến. Xuân đi, dù có luyến tiếc níu kéo xuân vẫn cứ đi. Xuân đến xuân đi chẳng vướng bận gì với người trần thế.
Thấu rõ lẽ đúng thời hợp lúc nở tàn của vạn vật, xuân đến xuân đi, nên thiền sư Giác-Hải nói với chúng nhân:
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp vấn tâm trì.
Tạm dịch:
Xuân đến hoa bướm biết đúng thời
Bướm hoa đều biết xuân đến rồi
Nên biết bướm hoa đều huyễn cả
Mặc cho hoa bướm để lòng chi.
Thế mà người đời lại buồn vui theo xuân đến xuân đi! Nhưng khi xuân đến cũng như lúc xuân đi đã để lại gì cho trần thế? Dù cho xuân có vô tình. Dù cho xuân có vô tư. Nhưng cũng vì xuân mà đã làm cho bao tâm hồn âm thầm trầm tư suy nghĩ. Bởi vì xuân đi làm cho kẻ mạnh khỏe giàu sang hạnh phúc tiếc nuối buồn trách xuân sao quá ngắn ngủi. Nhưng đồng thời xuân đến cũng đem lại cho bao người xấu số bất hạnh trên đường đời thêm nỗi niềm chua xót tủi phận. Những người nầy họ lại càng cảm thấy cuộc đời thêm đen tối bất công, mỗi lần xuân đến. Họ không tìm thấy một tia hy vọng hạnh phúc nào cho họ trong ngày xuân tết đến! Nên họ chẳng chờ xuân, chẳng mừng xuân, chẳng màng xuân đến xuân đi. Xuân đối với họ thêm tủi hờn, là vô nghĩa. Họ chẳng nghĩ chẳng chờ xuân đến:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân đến gợi thêm sầu
Với tôi tất cả là vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.
Đó, với những người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền thì xuân đến chỉ làm cho lòng họ thêm nỗi xót xa thân thân tủi phận. Với những người sống trong hoàn cảnh chồng Nam vợ Bắc, thân quyến chia lìa, sanh ly tử biệt, thì xuân đến chỉ khơi sâu thêm nỗi buồn thương sầu hận. Với những người thiếu vợ mất chồng, mẹ con ly biệt, cha con chia lìa, thì xuân đến chỉ khơi sâu kỷ niệm đau buồn, làm đậm thêm vết thương lòng, khiến cho họ cảm thấy đời lắm cô đơn chua chát xót xa. Với những người nhiều nợ nần, mất sở làm, sản nghiệp không phát đạt, bệnh hoạn tai ương chất chồng thì xuân đến chỉ đè nặng lên người họ nỗi lo âu buồn đau ray rứt. Với những người bất hạnh trên đây, nhìn sâu vào đôi mắt, nhận xét vào nét mặt, ta thấy họ ẩn tàng nỗi lo âu sầu não thầm kín, tâm trạng tinh thần không còn phấn khởi để hy vọng một tương lai sáng sủa huy hoàng trong ngày xuân tết.
Lại có những gia đình bác sĩ, kỹ sư, những gia đình đã từng là giàu sang phú quí danh giá, bề ngoài có vẻ trưởng giả tưởng đã hạnh phúc, nhưng bên trong đã tan rã từng giờ bởi sự xung đột giữa vợ chồng, cha con, anh em. Rồi những bậc cha mẹ già thiếu sự săn sóc kính trọng của con cháu, đến những gia đình bị vợ bỏ, chồng quên, con cái chống trái ương ngạnh hoặc bỏ nhà ra đi, với những người này, xuân đến chỉ tạo thêm cho họ nỗi niềm chua xót lo âu, ngước mặt nhìn đâu đâu cũng thấy bầu trời u ám não nề vô vọng, ngán ngẩm cho tình đời mong manh đen bạc!
Có lẽ thi nhân đã chứng kiến bao cảnh ngang trái thực thực hư hư huyễn mộng của cuộc đời một cách sâu sắc, và với nhận xét tinh tường nhìn thấu chiều sâu u uẩn của lòng người một cách quán triệt, nên đã hình dung thực trạng của cảnh vật và tình người trong dịp xuân tết qua lời thơ đơn giản, nhưng vô cùng súc tích:
Hoa xuân không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in vết đau.
Hoa xuân còn phải phai màu. Trời xuân người vẫn vết đau nơi lòng. Nên xuân tết theo thời tiết chuyển biến đến đi vô thường không phải là chân thực vĩnh cửu. Bởi xuân đến đặc biệt gợi cho lòng kẻ tha hương sống nhờ nơi đất khách quê người đậm thêm nỗi nhớ niềm thương. Xuân đến người khách tha hương càng thương nhớ cha mẹ anh em quyến thuộc họ hàng bạn bè đang sống xa cách. Xuân tết đến, kẻ tha hương lại càng cảm thấy tha thiết yêu thương đất nước quê hương, muốn được bám víu lâu dài, muốn được gần gũi sống lại với những kỷ niệm của quê hương, nơi chôn nhau cắt rún đất mẹ hiền lành, nơi mồ mả ông cha tiên tổ. Người tha hương viễn xứ, thân đang sống trên xứ người, nhưng tâm lúc nào cũng hướng vọng quê hương! Nhất là mỗi lần xuân tết đến, là những giờ phút họ có dịp sống lại với chính cõi lòng, dòng tâm thức cuộn về quá khứ. Đặc biệt với người uất ức phải lìa bỏ quê hương, họ thấm buồn sầu tủi cho thân phận kiếp số của người dân phải uất hận tức tưởi bỏ nước ra đi. Nên xuân tết làm cho họ âm thầm thổn thức, nghẹn ngào buồn đau. Có những người âm thầm than thở não ruột, có những kẻ đã bộc lộ nỗi lòng uất hận gào la bâng quơ trong không gian mịt mù. Họ đã gắt gỏng trách móc để rồi sau đó thấy mình bất lực trước cuộc thế bạo lực. Cuối cùng, kẻ tha hương chỉ còn biết sống bằng sức mạnh của niềm tin, sức vạn năng của đạo đức và sức huyền diệu của niềm hy vọng trong một tương lai tươi sáng:
Trời đâu riêng khó cho ta mãi
Vinh nhục rồi ra cũng một lần.
Cuối cùng họ thổ lộ thương nhớ quê hương trong tức tưởi, ngậm ngùi cho thân phận với dòng nước mắt và dâng trọn niềm tin cầu Phật trời hồn thiêng sông núi gia hộ cho quê hương dân tộc được sự an lành để hy vọng nhìn thấy lại ánh sáng ngày về quê mẹ như thi nhân thổ lộ tâm tình:
Người đi tức tưởi, thương sông núi
Nhớ nước lòng ai những ngậm ngùi
Xuân đến cúi đầu xin khấn nguyện
Phật trời phù hộ nước non tôi.
Vậy, khả năng con người hữu hạn mà vạn vật chuyển biến vô cùng. Trí phàm phu nào có thể đủ sức dung thông?! Trí Phật thánh mới có thể lượng cùng sức huyền vi của vũ trụ. Nên khi lỡ bước sa cơ, khi phải sống bơ vơ trên đất khách quê người, sống xa quê hương, xa tình thương của người thân quyến thuộc, sống xa sự hướng đạo tinh thần đạo đức của những bậc thầy khả kính thân thương, thì cho dù sống giữa xã hội văn minh giàu có, thì sự giàu có đó vẫn là của người ta. Hoặc cho dù có được may mắn khá giả sống trong ngôi nhà sang trọng phong phú vật chất đi nữa, nhưng hạnh phúc sang trọng vật chất đó nào có liên quan mật thiết đến tương hạnh phúc của mình! Bởi hạnh phúc con người đâu phải tiền bạc? Và tiền bạc đâu có thể sưởi ấm trọn cõi lòng của kẻ có tâm sự?
Kiếp sống của người trần thế tùy theo mỗi hoàn cảnh có khác nhau. Nhưng trong cùng một mùa xuân tết của đất trời luân lưu theo thời tiết mà tâm cảm của mỗi người cũng lại khác nhau, để rồi sản sanh ra những quan niệm dị biệt bất đồng. Qua mỗi quan niệm dị biệt này, chúng ta có thể nhận thức một cách sâu sắc về hiện tượng vô thường sanh diệt, về duyên nghiệp nhân quả, về tâm trạng của mỗi cá nhân trong cùng một hoàn cảnh. Điều này đặc biệt lý giải về hiện tượng cộng nghiệp và biệt nghiệp, về lẽ nhân sanh cuộc sống tương quan mật thiết với thân phận mỗi con người qua lý thập nhị nhân duyên và nghiệp báo.
Từ mùa xuân trần thế thăng trầm buồn vui, chúng ta thử bước vào mùa xuân đạo hạnh. Xuân đạo hạnh là mùa xuân miên viễn, xuân bất diệt, xuân an lành thanh thoát thường tại, không bị hạn cuộc bởi thời gian năm tháng không bị luân lưu chuyển dời bởi thời tiết đất trời. Xuân đạo hạnh là xuân khắp cả không gian vô tận, suốt cả thời gian vô cùng. Lòng người phẳng lặng như mặt nước hồ thu không gợn sóng. Tâm tịnh cảnh tịnh thì ý xuân tươi mát suốt tháng năm, tràn ngập nguồn vui khắp đất trời. Lòng xuân trẻ đẹp hòa đồng cùng vũ trụ. Khi lòng người rộng mở, khi tâm người thanh tịnh thì tuệ giác ngời sáng, vạn vật với mình hài hòa làm một, vũ trụ với mình bao la không hai. Ấy là chơn xuân thường tại, tánh xuân hằng còn, hồn xuân thênh thang. Chơn tâm thường hằng thì tánh xuân hiển lộ. Tâm an lành hòa điệu cùng thể tánh thường tịch của vạn pháp, không có trạng thái xuân đến đi, còn mất, sanh diệt, dị biệt:
Tâm xuân vũ trụ đều xuân
Tâm cười vạn loại nơi nơi đều cười.
Người muốn đạt được lòng xuân muôn thuở, ý xuân muôn thời, hồn xuân phơi phới kháp nơi, thì cần phải thanh tịnh hóa lòng mình, để lòng mình hòa điệu cùng lòng vũ trụ vạn vật, thì mới thật trọn hưởng nguồn xuân bất tận, đó là xuân đạo hạnh.
Có gột rửa tu sửa lòng ta trong sạch, trong sạch như băng tuyết, tươi mát như hoa sen, thì hồn xuân hạnh phúc hiển lộ. Nếu có được cái nhìn phú-quý-lợi-danh-như-hoa-trổ-trên-đá, như-lá-trôi-trên-nguồn, thì ta mới tự tại giữa cảnh đời, thể nhập được bản tánh thường tịch của vạn pháp. Một khi lòng chẳng vướng mắc bận tâm thế sự thăng trầm, liễu giải tình người bất định, thì sẽ được thưởng thức mùa xuân chơn thường, mùa xuân miên viễn đầy hoa nở bướm lượn, chim hót trên hoa lá xanh tươi, niềm vui thanh thoát từ cõi lòng người và khắp cùng vạn vật, như thiền tăng thể nhập diệu lý kinh Pháp-Hoa, hiển bày tâm cảnh thể nhập bản tánh thường nhiên của vạn pháp:
Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng anh đề liễu thượng.
Tạm dịch:
Các pháp xưa nay tự bản lai
Chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng hai
Chim hót bướm hoa cảnh liễu thắm
Tâm xuân hòa vũ trụ tâm khai.
Đó là tâm xuân, đích thực là mùa xuân thực tại thường hằng, mùa xuân chơn thường miên viễn. Một khi lòng buông thả, tâm thanh tịnh thì cảm nhận trời xuân bướm lượn, hoa cười, liễu thắm, chim hót, trời xanh, vũ trụ an lành hạnh phúc.
Ngược lại, khi lòng người còn phiền não, tâm người chưa khai thông, ý người còn vướng mắc bận lòng thế sự, thì còn sống trong xuân huyễn mộng. Nghĩa là chúng ta còn say túy lúy, còn sống trong đại mộng trầm luân. Còn say còn mộng thì quan niệm, lời nói, việc làm đều là vọng tưởng, hạnh phúc chỉ là hạnh phúc mong manh chứ không chơn thật thường còn. Đã là vọng thì còn có tướng trạng sống chết, sanh diệt thăng trầm còn mất. Đã là vọng thì còn có tướng trạng sống chết, sanh diệt thăng trầm còn mất. Đã là vọng thì vô thường huyễn mộng, dù cho có lý luận đến đâu cũng không thoát khỏi vòng lẩn quẩn của hư vọng khổ đau. Nên ý niệm về xuân tết cũng theo đó mà định kỳ có hạn cùng với trạng thái nẩy nở tàn phai. Do đó, thi nhân đã cảm khái chân tướng của xuân trần gian:
Trời xuân tuy mát, nắng xuân phai
Trên mặt ai kia nét nhăn dài.
Nếu khéo biết tu niệm, dùng pháp Phật gột rửa tâm hồn để lòng thanh tịnh trong sáng, thì tâm sẽ không còn bị ràng buộc hạn cuộc theo mùa xuân tháng năm, và như thế chúng ta không còn những phàm tình liên lụy thăng trầm, buồn vui như người nặng nợ trần thế mà phải ưu tư “nắng xuân phai, trên mặt ai kia nét nhăn dài.” Khi lòng ta phẳng lặng trong mát như ánh trăng rằm, tâm trong như nước đại dương lặng sóng, hồn ta như gió thoảng, như trăng trong chiếu mát khắp vạn vật vũ trụ, thì ta đã thể nhập xuân chơn thường. Tâm cảnh này, ta thấy ở bài thơ của tăng nhân chứa chan dạt dào niềm hoan lạc vô biên của xuân đạo hạnh, là tâm xuân thường tại:
Chưa ngộ bàn vọng luận chơn
Ngộ rồi chơn vọng nói năng làm gì
Xuân đi xuân đến theo kỳ
Tâm xuân thường tại đến đi bao giờ.
Thói thường, người đời vui buồn theo xuân đến xuân đi. Nhưng họ có biết đâu thế sự như cuộc cờ, tình đời như tờ giấy mỏng phất phơ trước gió, úp đó rồi ngửa đó, trái đó rồi mặt đó. Có gì chắc thật đâu mà phải khổ lụy vì xuân thời tiết? Nhưng tâm hồn tự tại giải thoát của tăng nhân, của người tu hành đạt đạo, đạt cùng chơn lý, thì xem nhẹ hồng trần, không vướng bận lợi danh vinh nhục, buông thả sự đời, thì bao giờ cũng cảm thấy nơi lòng và vạn vật chứa chan tràn đầy mùa xuân bất diệt. Họ rất thản nhiên tự tại trước mọi trạng thái của cuộc đời. Cuộc sống đối với họ lúc nào cũng là mùa xuân đầy bướm lượn hoa cười. Như Mãn-Giác thiền sư đời Lý đã đạt đến cảnh giới tâm an lý đắc bắt nhịp cảm thông thể nhập mùa xuân đạo hạnh, mùa xuân miên viễn, mùa xuân thường tại không thời gian, mùa xuân chơn thường không biên giới:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão đầu tùng thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Tạm dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mặt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Hôm qua sân trước một cành mai
Chúng ta muốn có mùa xuân chơn thật miên viễn, vạn vật hiền hòa, muôn hoa sắc thắm khắp cõi lòng và khắp cả trần gian, thì tâm ta trước phải thật sự thanh thản nhẹ nhàng, thản nhiên trước mọi trạng huống thế sự vô thường mộng huyễn. Ai mà chẳng cảm thấy lòng thoải mái an vui, quên hết mọi nỗi trần duyên phiền lụy, khi tâm hồn buông xả, khi được hầu chuyện với các bậc chân tăng thiền đức, các vị thật học thật tu hay khi thành kính quý trước điện Phật, trọn dâng lòng thanh tịnh theo làn khói trầm hương nguyện tỏa:
Lặng lẽ chiên đàn nhả khói hương
Đỉnh trầm thơm ngát ý thiền môn
Lung linh nến ngọc, trời sao điểm
Thanh tịnh trần gian sạch tủi hờn
Chầm chậm xuân về lòng đất chuyển
Nhạc trời thanh thoát rộn muôn phương.
Chúng ta dâng trọn cõi lòng thanh tịnh, lên chư Phật mười phương, chúng ta trải rộng tình thương cho tất cả muôn loài, chúng ta biết sống đời hỷ xả vị tha là chúng ta trọn sống trong thanh khí thiêng liêng ngày xuân tết. Với niềm hy vọng trong sáng vô biên, chúng ta hướng vọng quê hương, ngưỡng nguyện đức Phật từ bi cùng các đấng thiêng liêng anh linh hồn thiêng đất nước giúp hộ cho dân tộc sớm có được cuộc sống đoàn viên an lành trong ánh sáng thanh bình, trong hào quang truyền thống của ông cha tiên tổ, để cùng nhau trọn hưởng mùa xuân miên viễn âu ca lạc nghiệp tâm hồn. Chúng ta đem lòng thành kính cầu nguyện cho pah1p giới chúng sanh tam nghiệp thanh tịnh, sống trong hạnh hỷ xả để chóng đạt đến mùa xuân đạo h ạnh “thanh tịnh trần gian sạch tủi hờn.”
Không thánh thần thượng đế nào có đủ quyền năng ban phước giáng họa cho ta cả. Chính trái tim và khối óc của ta biết phân định chánh tà, nhân quả, tội phước, khéo tránh bỏ điều bất thiện là có trọn mùa xuân chân thường.
Xuân nào là mùa xuân của ta.
Cứ giáp một vòng 365 ngày, tròn đầy 12 tháng, mọi người lại đón mừng xuân. Không ai bảo ai, nhưng ai nấy cũng đều chan chứa niềm cảm thông đặc biệt, mặc nhiên hiểu biết ý nghĩa xuân tết đến là tròn đầy một năm, là sẽ lại thêm một tuổi, là âm thầm nuôi dưỡng trong tâm tư một niềm hy vọng nhiệm mầu ở năm mới với một tương lai sáng sủa của ngày xuân tết.
Con người vốn dĩ đã sống nhiều với hoài bão, sống nhiều với kỷ niệm. Hoài bão, ước mơ một tương lai sáng sủa, ở đó có hạnh phúc tràn trề bền lâu, với một đời sống thoải mái. Nhưng hoài bão ước mơ thì bao giờ cũng vẫn là ước mơ hoài bão, và chẳng mấy khi có được như ý với hoài bão đó đâu? Do đó, nên chán nản với ước mơ, mỏi mòn với hoài bão, con người lại quay về với những kỷ niệm quá khứ. Nghĩa là, ước mơ tương lai không đạt thành như ý, rồi lại xoay về sống với những kỷ niệm quá khứ bằng ký ức bằng hồi tưởng bằng cách mỹ diệu hóa những kỷ niệm đó, để rồi đưa đến trạng thái tâm lý chán nản với hiện tại, hoài vọng tương lai, nhưng tương lai xa vời, rồi quay về tiếc nuối quá khứ. Rõ ràng thực tế thì tương lai chưa đến và quá khứ đã qua rồi! Bản tánh con người thường là chối bỏ thực tại, chán nản hiện tại, nên phóng tâm tìm về quá khứ và hy vọng tương lai! Cứ thế tâm thức con người bất an xoay chuyển luân hồi quanh quẩn lại qua quá khứ tương lai, tương lai quá khứ như thế mãi không thôi!
Nhưng tại sao con người lại tiếc nuối quá khứ hy vọng tương lai? Bởi tâm lý con người thường là bất mãn với hiện tại, dù là hoàn cảnh hiện tại hạnh phúc! Cổ nhân đã từng nói: “Sống trong hạnh phúc mà không biết hạnh phúc.” Thật vậy, có những người đang sống trong hạnh phúc mà không biết nghĩ mình đang hưởng hạnh phúc. Đầu óc cứ nghĩ nọ muốn kia, không biết thắng cương tham vọng, tâm ý lúc nào cũng loạn động, luôn luôn không vừa lòng. Do vậy, kẻ thức thời biết sống bằng lòng an vui với hiện tại, đối với kẻ tham vọng đáng thương hại nầy thường hay nói: “Đứng núi nầy trông núi nọ” là vậy. Người đã không biết mình đang sống trong hạnh phúc thì làm sao giữ hạnh phúc! Giàu sang phú quý tiền của dư thừa chưa phải là hạnh phúc. Vui sống biết đủ mới thật sự hạnh phúc.
Một thiếu nữ khi còn cái tuổi măng tơ, tâm hồn trong sáng ngây thơ được cha mẹ cưng chiều, anh chị chăm sóc. Ngày ngày cắp sách đến trường được thầy thương bạn mến, nhưng không bao giờ thiếu nữ bằng lòng với cảnh sống hạnh phúc hiện tại đó để lo chuyên tâm học hành để ngày kia nên danh nên phận. Trái lại, có lúc thiếu nữ bất mãn với cảnh sống hiện tại rồi quay ra bực bội thầm than trách phận vì cảm thấy mình không được tự do, cảm thấy mình còn nhỏ bé với cha mẹ anh chị em trong gia đình, cảm thấy mình không có quyền định đoạt, cảm thấy mình không hơn hết các bạn, cảm thấy mình bị lép vế với anh chị em, bị lệ thuộc mẹ cha, cảm thấy mình không được thầy tôn trọng thương chiều khi bài vở yếu kém. Có đủ thứ cảm thấy và đủ thứ bất mãn. Thiếu nữ mơ uớc được lớn, được tự do tự chủ, nên xoay tìm bạn trai và quả thực nơi môi trường mới nầy thiếu nữ được sự chiều chuộng tôn trọng nể vì đặc biệt! Tâm hồn thiếu nữ cảm thấy thoải mái lạ lùng! Thiếu nữ hãnh diện thấy mình lớn hơn, có quyền hơn, có người nghe theo phục tùng nên vui hơn, oai hơn, và lúc nào cũng được nam nhi khen tặng săn đón thuận ý chiều lòng như một người quan trọng trong cõi đời nầy! Thiếu nữ nghĩ rằng, thường ngày gặp nhau chỉ trong thời gian ngắn ngủi mà lòng cảm thấy an vui phơi phới như vậy. Nếu được sống gần bên nhau với bạn trai chắc sẽ phải được mãi mãi vô cùng hạnh phúc trăm ngàn lần hơn là sống với gia đình cha mẹ anh chị em. Thế rồi nẩy ý sanh tâm thoát ly.
Từ đấy, nơi lòng thiếu nữa đã nẩy nở nguồn vui hạnh phúc với “người dưng khác họ đem lòng nhớ thương.” Từ nhớ thương đưa đến thái độ dứt khoát xa cha mẹ gia đình để sống gần với người bạn khác họ kia với lòng hy vọng hưởng những ngày cưng chiều hạnh phúc bền lâu. Nhưng thực tế thì hạnh phúc nầy quá ư giả tạo ngắn ngủi như bọt nước cầm tay, để rồi tiếp theo sau đó thiếu nữ mất dần đặc tánh hồn nhiên trong trắng và phải sống trong những ngày ràng buộc bất mãn lo âu, sống trong trạng thái suy thường trực đối phó, và từ từ chìm sâu vào phiền lụy buộc ràng ngày càng xiết chặt hơn! Về lâu thiếu nữ thấm mệt chán nản, bất mãn với cuộc sống mới hiện tại nầy. Những ngày tình tứ chiều chuộng đẹp kia phai dần, liền tiếp theo đó sợi dây vô hình buộc ràng xiết chặt càng thêm xiết chặt, lo âu bất mãn càng thêm bất mãn lo âu! Ngày mới gặp nhau có cảm tưởng đắm say tuy hai mà một, nhưng về lâu chung đụng thân gần thì tuy một mà hai! Bây giờ thiếu nữ ngồi hồi tưởnglại tiếc nuối những ngày trẻ thơ đã qua với bao kỷ niệm êm đềm khi còn sống với mẹ cha anh em thầy bạn. Những kỷ niệm quá khứ đã không bao giờ trở lại! Thiếu nữ không dám thật tâm nhìn thẳng vào cuộc sống thực tại, vì thực tại dồn dập bất mãn phũ phàng, nên chỉ còn biết mơ ước một tươnglai êm đềm sáng sủa hơn! Nhưng tương lai hãy còn xa vời trong mơ tưởng chắc gì có hạnh phúc chân thật?!
Tâm thức con người khổ đau vì bất mãn với thực tại. Nguồn gốc của sự bất mãn khổ đau là mơ mộng không tưởng, tham vọng ích kỷ.
Hạnh phúc vĩnh viễn của con người là khi nào con người biết sống tri túc, biết sống từ tốn khiêm nhường, biết nhìn thẳng vào thực tại và sống với thực tại, biết mình biết người. Người biết tri túc thì dù nằm ngủ dưới đất, ở nhà tranh vách lá, ăn cơm hẩm muối dưa sống đời thanh đạm cũng vẫn cảm thấy hạnh phúc. Người sống biết mình biết người, thì dù là làm đồ đệ, làm người cận vệ, cuộc sống chân lấm tay bùn cũng vẫn hạnh phúc. Phải nhìn thẳng vào thực tại và biết mình là ai, an phận thủ thường thì mới cảm nhận được hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có với người biết sống tri túc thường lạc. Đạt đến tâm cảnh này mới thật là mùa xuân an lạc vĩnh viễn.
Ngược lại, kẻ lòng đầy tham vọng ích kỷ chỉ biết mình mà không biết người, đua đòi theo danh lợi ái tình, bôn ba bắt bóng hạnh phúc thì dù có trăm ngàn mùa xuân đến, muôn vạn chim yến lượn, ngàn phương hoa rộn nở, họ cũng vẫn không thấy được mùa xuân, vẫn cảm thấy cõi lòng họ không được an lành, đời họ vẫn không được thanh thản. Bởi tâm ý đầy đặc tham vọng, nên lúc nào cũng tranh hơn sợ thua, lòng họ lúc nào cũng tham muốn làm cha làm vua thiên hạ. Vì tham vọng, nên cõi lòng cuộn trong đất bùn rác bẩn, tâm trí vô minh không còn phân định thị phi thiện ác, mất hết lương tâm liêm sỉ, tự nghĩ mình phải hơn, nên không bao giờ thỏa mãn hiện tại, tiếc nuối những gì đã mất, sợ sệt lo âu những gì sẽ mất. Vì tâm đắm chìm trong tham danh đạt lợi, nên họ phải ngồi bóp trán tính suy mưu thần chước quỷ để phá hủy, để hãm hại người khác, hầu mong được phần hơn về mình. Những tâm hồn như thế lúc nào cũng cảm thấy mùa đông giá buốt, mùa hè nóng bức, và luôn luôn sống trong hồi hộp lo âu bực tức, uất ức, bất mãn, hận thù. Nghĩa là vĩnh viễn không bao giờ có mùa xuân an lành chân thật với họ.
Với người con Phật phải làm thế nào để có mùa xuân chơn thường an lạc miên viễn?
Mỗi năm vào đêm ba mươi giao thừa, người con Phật cử hành lễ rước vía Di-Lặc, đồng thời cũng là lễ tống cựu nghinh tân. Tống cựu nghinh tân có nghĩa là tống khứ cái cũ, điều thoái hóa, bất hạnh đi, để tiếp đón cái mới, tiến bộ, điều may mắn an vui hạnh phúc đến. Nhưng sự thật trong đời người đã biết bao nhiêu lần tống cựu nghinh tân, đón mừng xuân tết, đã biết bao lần hy vọng mùa xuân mới đến với ước ao được hưởng hòa vui hạnh phúc mà có bao giờ hòa vui hạnh phúc thực sự đến với mình như lòng mong đợi đâu? Thử nhìn kỹ vào chiều sâu thẳm của khổ đau và hạnh phúc, chúng bắt nguồn từ đâu? Phải chăng khổ đau và hạnh phúc đều do chính lòng mình? Như chiếc huy chương có hai bề mặt trái! Phật dạy, tất cả đều do tâm tạo. Không làm nô lệ cho tham dục thì làm gì có sự truy cầu đuổi bắt danh lợi ái ân thất vọng? Mà đã không có truy cầu đuổi bắt theo dục vọng, không ước mong thỏa mãn thì làm gì có khổ đau? Không thấy mình quan trọng giữa cuộc sống xã hội thì làm gì cảm thấy thua thiệt thấp cao? Mà đã không cảm thấy thua thiệt thấp cao thì làm gì có trào dâng nghẹn ngào uất hận, buồn tức khổ sầu bởi tranh giành ganh tị.?
Hình ảnh đức Di-Lặc đã nói lên tinh thần hỷ-xả vị-tha muôn thuở. Hoa xuân hạnh phúc rộn nở cả người Ngài và tỏa khắp cả trần gian. Trong giờ phút linh thiêng trừ tịch tống cựu nghinh tân đón mừng xuân tết, người đệ tử Phật thành kính đối diện trước tượng Ngài cử hành đại lễ giao thừa tống cựu nghinh tân, thử hỏi tận đáy lòng của tâm thức sâu thẳm kia có thật sự chân thành tha thiết lấy tâm từ bi hỷ xả của đức Di-Lặc để bồi dưỡng tâm mình, lấy đức độ bao dung của Ngài làm gương sáng soi lại lòng mình, để hồi quang quán chiếu một năm qua mình đã bao lần lạy Phật, và cho đến ngày giờ trừ tịch giao thừa nầy sẽ nhận thêm một tuổi nữa mà tâm hồn mình đã thực sự có chút nào tiến bộ trong chiều hướng thánh thiện không? Theo dòng thời gian năm tháng, theo lễ tống cựu nghinh tân, nghĩa là bỏ xấu ác để hướng về hào quang lành thiện năm mới, ta đã đích thực quyết tâm tống khứ tham dục ích kỷ nơi lòng, để đón nhận hương hoa xuân tết hỷ xả vị tha từ đức Di-Lặc? Ta đã thật sự tiếp nhận nguồn từ bi hỷ xả bao la nơi Ngài chưa? Nếu chưa tiếp nhận nguồn an lạc trong lành, thì việc cử hành lễ giao thừa rước vía Di-Lặc chỉ là lễ lạy Ngài bằng thân xác áo y, bằgn hương hoa hình thức mà lòng còn đầy ngã-si ngã-kiến ngã-mạn ngã ái, tham sân chấp ngã đầy người, như thế sự lễ bái cũng chỉ là một hình thức tô điểm thêm cho lòng tham vọng tăng trưởng mà thôi, chứ chưa thật sự gột rửa tâm tư thanh tịnh để sống trong hạnh phúc an lành của trời xuân Di-Lặc nơi lòng ta. Nghĩa là ta chưa tỉnh thức, chưa thoát thế lực vô minh của tâm hồn!
Để cho đức hỷ xả Di-Lặc thấm nhuần trong thân tâm, để cho lòng ta rộng mở nở nụ cười hoan hỷ trên đôi môi từ hòa, để cho đời ta được thanh thản giải thoát, ta hãy nhìn vào hình dung đức Di-Lặc, lấy đức tánh Ngài làm gương sáng chiếu tâm, lấy đạo hạnh Ngài làm mực thước hành nghi để gột rửa cõi lòng, điều chỉnh hành vi, ngõ hầu phản tỉnh thanh tịnh nhìn sâu vào đức Phật đương lai Di-Lặc để từ đó tận hưởng mùa xuân tràn đầy hạnh phúc:
Hãy nhìn sâu vào bóng dung Từ phụ
Đôi mắt Ngài cả nguồn biển tình thương
Nụ cười Ngài! Ôi giải thoát không lường
Hồn thanh thoát lạc giữa vườn hoa đạo.
Xuân cửa Thiền
Hôm nay ngày đầu xuân năm mới, ngày xuân tết, tôi chân thành gởi đến quý vị lời cung chúc tân xuân vạn hạnh.
Thưa quý vị, xuân trần gian là xuân theo thời tiết tháng năm, xuân nằm trong quỹ đạo luân hồi sanh diệt tương sanh tương tồn tương biến của hiện tượng âm dương đất trời. Vì bản chất tương sanh tương diệt thoạt hiện thoạt không của xuân trần gian, nên khi xuân đến xuân đi vạn vật cũng theo đó mà hiện tướng:
Xuân về hoa lá xanh tươi
Xuân đi hoa lá rã rời héo hon!
Bản chất của xuân trần gian thì mong manh theo thời gian hiện thành lẽ sanh diệt trong từng nhịp tim bóp thắt theo đó mà sanh ra hiện tượng thăng trầm tươi héo héo tươi, nên bàng bạc ẩn hiện trạng thái suy tàn ngay khi xuân đến và hiển lộ cảnh tượng tiêu điều khi xuân đi. Xuân đến lòng người rộn rã tươi cười, xuân đi ai đó hững hờ kém vui:
Hoa xuân không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in vết đau.
Bản chất của xuân trần gian là vô thường giả tạm, một thứ xuân ngoại cảnh hạn định theo thời gian mùa tiết, chứ nào phải xuân phát xuất từ nội tại xuân lòng. Do vậy một khi xuân lòng chưa nẩy nở, xuân tâm thức chưa khai mở thì, dòng sinh thức của chúng sanh vẫn phải còn ảnh hưởng buồn vui với hiện trạng của xuân trần gian ngoại tại. Nỗi u uẩn thầm kín nơi mọi cõi lòng người xúc động khi xuân đến xuân đi. Còn thấy xuân đến xuân đi thì còn lưu lại cảnh tượng tươi héo vui buồn, hân hoan tương phùng hay sầu bi ly biệt, còn hiện tượng hả hê chúc tụng hay chua xót rơi lệ đau thương trên khắp vạn ngả đường trần thế: Mẹ mong đợi con về để đoàn tụ ba ngày xuân tết, nhưng bóng hình con biền biệt. Vợ mỏi mòn ngóng trông chồng về đoàn tụ ngày xuân, nhưng xuân đã đến rồi xuân lại đi mà chồng vẫn biệt vô âm tín. Có kẻ than thầm trách phận: Xuân đến mà sự nghiệp dở dang tan tành, đã mấy mùa xuân rồi mà công chưa thành, danh chưa toại!
Xuân đến cũng là dịp để cho người trần thế tỉnh cơn mê trong trường canh mộng, có giây phút sống lại với chính mình sau những tháng năm lặn lội mệt mỏi trên đường đời và cất lên lời thương than cho vận nước: Mười mấy mùa xuân rồi mà đất nước vẫn băng hoại rách nát, dân tình vẫn thống khổ đói nghèo lầm than, người dân Việt hiền lành vẫn tiếp tục trong tình trạng hiểm nguy bỏ nước ra đi, người dân Việt vẫn còn cảnh trôi sông chìm biển chết rừng chết bụi. Đau đớn hơn nữa, cảnh tượng người ăn thịt người trên bể cả, ngục tù vẫn chưa hết áp bức hành hạ người thương nước yêu tự do. Đã bao mùa xuân đến rồi xuân đi, mà hằng vạn triệu người xa làng nước vẫn cam phận ngồi nơi đất khách, mang kiếp tha hương, với cõi lòng buồn thương tê tái trong mùa xuân ly hương vô vị, phải chứng kiến trạng huống phân ly chia rẽ của đồng bào ruột thịt cấu xé hãm hại lẫn nhau!
Xuân đến để làm gì hỡi xuân? Phải chăng để cho người trần thế chất chồng tuổi đời thêm cao, mà vẫn bụng trống lòng không, thực tế đối vời đời thì vô dụng, đối với đạo là chướng duyên, bởi đã đánh mất cái thiện tâm, cái thiên lương đã ô uế hoặc tự hủy cái tâm đạo đức, để ngày ngày đắm sâu vào danh lợi dục tình, tăng trưởng phàm tánh, gây họa hại cho đạo và đời! Nếu chỉ biết vui theo xuân trần gian để rồi đắm chìm trong ngũ dục lạc mà không biết phản tỉnh nội tâm để khai triển xuân lòng, xuân chơn thiện mỹ thì mỗi lần xuân đến chỉ chất chồng thêm tuổi tác già nua và đắm chìm sâu trong sông tình biển ái, quay cuồng lầm lạc trong bãi sa mạc tha ma nhục dục lỗi lầm, rốt cuộc tinh thần đói khát, trí huệ mịt mù không biết bao giờ mới ra khỏi trần lao. Nếu cứ sống mãi trong tình thức, tham tâm chấp kiến ngã si tà mạn, mơ tưởng viễn vông, si mê tham vọng, cảm tình mù quáng thì vô tình tự dối lương tâm, chỉ tạo thêm cùm kẹp xích xiềng để rồi tự hủy diệt bản chất thánh thiện xuân lòng mà xưa nay vốn sẵn có.
Xuân lòng chỉ nẩy nở, khi cõi lòng trong sạch, não phiền đã nhẹ vơi tâm thanh thản rộng mở. Cõi lòng thanh thản là khi thực sống với lương tâm mình trong trạng thái tâm hồn thanh tịnh, chính mình ý thức đối diện với lương tâm, tư duy quán chiếu, hồi quang giác tỉnh, thấy mình không hổ thẹn với chính lương tâm mình, lại thấy lòng phẳng lặng hồn nhiên không gợn sóng tà niệm lăng xăng, ấy là thời điểm của xuân lòng hiển lộ, hoa xuân lòng chớm nở.
Khi mà xuân lòng chưa hiển lộ thì dù cho mấy độ xuân trần gian đến đi, thì cũng vẫn chỉ như những đám mây hồng nhẹ trôi trong buổi hoàng hôn rồi tan biến, chẳng làm cho người cảm nhận được thanh khí mát lành mùa xuân. Thấu triệt lý sanh diệt xuân trần gian bọt bèo mong manh như bản tính của mây ngàn lãng đãng buổi hoàng hôn, như những hạt sương lóng lánh trên ngàn cây ngọn cỏ hoa lá buổi sáng tinh sương, cảnh tượng đó có bao giờ trường cửu? Bản chất của xuân trần gian vốn không trường cửu, nên đã lưu lại cho lòng người biết bao nỗi niềm chua xót! Bởi thế, một khi xuân lòng rộng mở thì xuân trần gian cũng theo đó trở nên tươi đẹp khắp cả mọi thời mọi nơi. Thi nhân đã nói:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Chỉ khi nào lòng người thanh tịnh thản nhiên tự tại trước mọi sự đổi dời của đất trời cảnh vật, thì lúc đó cõi lòng rộn nở hoa xuân, tâm xuân nhìn thấy đâu đâu cũnglà xuân, khắp vũ trụ hoa xuân tươi nở ngạt ngào. Thế nên, muốn hưởng mùa xuân chơn thường hạnh phúc thì trước nhất phải xây dựng tâm xuân. “Tâm xuân vũ trụ đều xuân.” Tâm xuân thì vạn vật xuân. Kinh Hoa-Nghiêm nói:
Tâm như công họa sư
Tạo chủng chủng chư pháp.
Tạm dịch:
Tâm như họa sĩ tài ba
Tùy theo cảnh vật tạo ra muôn ngàn.
Tâm không an thì cảnh vật u buồn ảm đạm thê lương. Dù cho xác pháo đầy đường, muôn hoa phô sắc để tô điểm cho xuân trần gian thêm phần hương sắc, mà tâm bất an thì xuân lòng vẫn chưa khai thác, tiếng hát xuân trần gian cùng với muôn ngàn hương hoa sắc thắm trên đời chỉ gợi thêm sự buồn tủi chua xót đau thương. Khi tâm người thanh tịnh, lòng người an định thì cảnh giới tâm linh rộng mở, lúc đó hoa xuân lòng mới rộn nở hòa điệu cùng hoa xuân đất trời. Bấy giờ tâm xuân rung động hòa điệu cảm thông với xuân vũ trụ. Khi tâm xuân hòa điệu cùng xuân vũ trụ tạo thành nguồn an vui bất tận, thì lúc đó nhạc xuân lòng hòa cùng nhạc xuân vũ trụ tạo thành bản nhạc muôn điệu vi điệu huy hoàng thanh thoát trong ánh xuân dương.
Tâm tịnh lòng an định thì không những toàn triệt chân lý vũ trụ, mà tâm thể cũng theo đó hòa điệu nhịp nhàng cùng với bản thể các pháp, thấu suốt tận cùng sự chuyển biến của dòng sanh mệnh tâm thức của chính bản thân và của vạn vật cùng ngàn sao vũ trụ bao la. Xuân lòng thể nhập cùng xuân vũ trụ ấy là hiển lộ tâm xuân, xuân cửa thiền.
Xuân cửa thiền là mùa xuân chứa chan nguồn sống của vạn loại sanh linh. Thế nên, xuân cửa thiền phát triển là xuân muôn thời muôn thuở, xuân miên viễn siêu vượt mùa tiết tháng năm. Xuân cửa thiền là tâm xuân, mùa xuân của nguồn sống tâm linh, mùa xuân được kết tinh bằng năng lực định huệ. Nhị tổ Huệ-Khả đã không quản ngại mưa gió tuyết băng, trải suốt mấy năm trường quỳ hầu cạnh sơ tổ đạt-Ma cũng chỉ cầu được “an tâm” để trọn hưởng mùa xuân lòng. Tâm an thì lý đắc. Thân tâm thanh tịnh thì cảnh giới thênh thang, muôn ngàn hương sắc. Thân tâm thanh tịnh thì gia đình hạnh phúc, thế giới hòa bình, ấy là khi chúng sanh đã đạt xuân cửa thiền, xuân thường tại. Tâm xuân thì cảnh vật xuân, cõi lòng rộng mở. Tâm an thì phát sanh trí huệ, thể hiện tinh thần đại đồng, nơi nơi hoa xuân rộn nở ngát hương giải thoát. Ấy chính là bản thể đặc thù của tâm xuân, mùa xuân vượt ngoài năm tháng. Vì muốn được cảnh giới của tâm xuân mà Huệ-Khả đã phải ròng rã thân để ầu được “an tâm”:
Tâm xuân vũ trụ đều xuân
Tâm buồn thế giới đâu đâu cũng buồn.
Muốn đạt được tâm xuân trước tiên phải đoạn dứt duyên trần, tâm an định trong sạch vọng niệm, bặt hết ý phân biệt. Còn phân biệt là còn hiện tượng sanh diệt, còn trạng thái thịnh suy, còn mầm mống thị phi vui khổ. Nên sơ tổ Đạt-Ma đã khuyên đồ chúng dứt duyên trần để thật sự đạt tâm xuân ngõ hầu thấy bản tánh đạt đạo. Ta hãy nghe Đạt-Ma thiền tổ dạy:
Ngoại tức chư duyên
Nội tâm vô đoan
Tâm như tường bích
Khả dĩ nhập đạo.
Tạm dịch:
Ngoài dứt các duyên
Trong không nghĩ lường
Tâm như tường vách
Mới thể nhập đạo
Tâm đối với ngoại cảnh không dính mắc thì lòng mới thanh thản tự tại. Đối với các hiện tượng thăng trầm vinh nhục của thế sự không bận lòng, trong trạng thái dửng dưng hồn nhiên an định bất động như tường vách là đạt đạo, là tâm xuân. Tâm xuân là tâm không phân biệt, không biên giới không gian, tức là chơn tâm thường tại, tâm vật không hai. Ấy là chơn tâm, tâm xuân muôn thuở, lòng xuân rộng mở bao la, khi đó cảnh giới của tâm hài hòa dung thông nhìn thấy khắp bầu trời nơi nơi hoa cười chim hót, người vật không còn ngăn cách, vạn vật hanh thông không chướng ngại.
Trong cảnh giới chơn tâm không tịch hòa đồng tâm vũ trụ “tâm xuân vũ trụ đều xuân,” Hòa-Thượng Hương-Hải nhắc nhở người đời nên thường hằng tu tập quán chiếu tâm để tâm mình đạt đến cảnh giới “tâm không,” tức là không vướng mắc, không chấp trước, không giao động, không phân biệt, không biên giới giữa mình và cảnh, giữa tâm và vật, mà nên vô tâm để đạt lý đạo, suốt thông lẽ huyền vi, thể nhập vào xuân vũ trụ. Hương-Hải nói:
Tầm ngưu tu phỏng tích
Học đạo quý vô tâm
Tích tại ngưu hoàn tại
Vô tâm đạo dị tầm
Tạm dịch:
Tìm trâu tìm dấu chân trâu
Dấu còn trâu chẳng mất đâu bao giờ
Xin ai học đạo chớ ngờ
Vô tâm thì đạo có cơ dễ tìm
Vậy muốn đạt đạo trước phải quán sát tâm đến chỗ “vô tâm.” Muốn vô tâm thì trước phải an tâm. Vô tâm là không đắm trước duyên trần, chẳng khác nào như trăng sáng không vướng mây, mặt trời không lay động, như nước sông không dậy sóng, ấy là xuân lòng đạt thông cùng vũ trụ. Như cảnh giới tâm thanh tịnh nhập diệu lý kinh cùng lúc ấy thể nhập bản lai vạn vật, toàn cảnh vật ảnh hiện thành cảnh xuân, trời xuân bướm lượn hoa cười, tăng nhân đã bật cười với cõi lòng sáng ngời thanh thoát trong cảnh giới bản lai thường tịch của vạn pháp:
Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng
Tạm dịch:
Các pháp xưa nay vốn tự như
Không sanh không diệt cũng chẳng hư
Xuân đến trăm hoa đều rộn nở
Liễu biếc oanh vàng vui hót cười
Xuân cửa thiền là xuân bình thản an lạc không đến không đi, không trong không ngoài, không còn không mất, không sanh không diệt, không thịnh không suy. Vạn vật xưa nay vẫn tự như, hoa lá vẫn tươi cười, oanh vàng vẫn ca hót khắp mọi thời muôn thuở “đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết.” Đạt đến cảnh giới thường nhiên như thế thì lòng người mới an vui tự tại giải thoát, mới trọn hưởng mùa xuân cửa thiền, mùa xuân miên viễn, tâm cảnh dung thông chơn thường đâu đâu cũng là hương sắc trời xuân.
Khi tâm an thì đạt được xuân vạn vật vũ trụ, không còn bận lòng trước trạng thái đến đi thịnh suy, ấy là lúc xuân lòng ngát hương vượt ngoài xuân trần gian tháng năm mùa tiết. Khi tâm thật an, lòng thật thanh thản, không xao xuyến trước cảnh hợp tan nở tàn đến đi ly biệt, thì lúc ấy tâm người thể nhập vào tâm vũ trụ, và nhìn thấy đâu đâu và lúc nào cũng là hương sắc mùa xuân; hoa xuân nở khắp mọi thời, trời xuân vui đẹp khắp nơi, như tăng nhân đã nói:
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Hôm qua xuân trước một cành mai.
(Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.)
Muốn đạt được xuân cửa thiền thì trước tiên lòng phải rũ sạch trần duyên tham sân chấp ngã, mới trọn hưởng được xuân thiền thường tại miên viễn. Xuân cửa thiền là xuân đạo hạnh, là xuân lòng thanh tịnh thản nhiên như gió mát trăng trong, như lòng xuân Di-Lặc.
Thưa quý vị,
Xuân này đã là mười hai mùa xuân ly hương. Mười hai mùa xuân đất nước dân tộc lắm nỗi tang thương chưa bao giờ có trong lịch sử Việt-Nam, kể từ ngày lập quốc. Chúng ta nên tĩnh tâm suy nghiệm để còn kịp cứu mình giúp người. Có suy nghiệm, có hồi tâm tư duy quán chiếu để nhận rõ diễn biến của tâm thức và cảnh vật, như thế thì kiếp sống của ta bỏ nước ra đi mới có ý nghĩa, và đó cũng là cơ hội cho ta mở rộng lòng vị tha, thanh tịnh hóa thân tâm, để trọn hưởng hương vị xuân cửa thiền thường nhiên thanh thoát miên viễn hòa cùng với mùa xuân thiêng liêng đất trời, nhịp nhàng hòa điệu cùng hồn thiêng sông núi Việt-Nam muôn đời ngời sáng ngát hương.
Ngày xuân khuyến chúng
Hôm nay nhân ngày đầu xuân Quý-Dậu 1993, thầy có đôi lời khuyến lệ các huynh đệ:
Cứ mỗi lần tết đến, người đời nô nức chưng diện ăn mặc đồ mới, trên môi nở nụ cười, chúc cho nhau bằng những lời may mắn tốt đẹp. Người ta chúc tết, mừng tuổi, tiệc tùng, chè chén, đủ thứ trò chơi trong những ngày xuân tết, để rồi sau đó đâu lại vào đấy, lại tiếp tục những ngày tháng dài bươn chải mưu kế sanh nhai. Có kẻ miệt mài đuổi bắt lợi danh, có kẻ tự giam mình trong sòng bài canh bạc đỏ đen, có kẻ mải mê đắm chìm trong ái dục tình trường. Cứ thế thời gian phủ lên người họ lớp phong sương nhan sắc suy tàn, ngũ dục thế gian đục khoét tâm hồn họ loang lổ đến khô cằn không còn chất nước tình thương nhân nghĩa đạo đức, nhưng họ nào có biết! Dục vọng lợi danh âm thầm bao phủ xiết chặt trái tim họ để rồi từ đó dần dần họ trở nên chật hẹp cằn cỗi không còn quả tim rung động của tâm đức vị tha. Ngũ dục thế gian cuốn lôi họ đến gần kề hố thẳm đọa đày già chết, nhưng họ đâu có hay biết! Ngũ dục thế gian hấp dẫn cuốn lôi người đời chẳng khác nào cậu bé mê thích những cây kẹo cần sa, những mảnh nha phiến vụn được bọc lớp đường bên ngoài, để rồi nhận chịu sự mỏi mòn quằn quại đau nhức với những chiếc kẹo kia, như cá cắn câu!
Người đệ tử Phật, nhất là hàng xuất gia, khi đã chọn con đường giác ngộ vị tha giải thoát, tức là con đường đức Phật đã đi thì không thể như người đời vướng mắc lợi danh dục tình, mà nên kiên tâm quyết chí theo đuổi lý tưởng của mình với ý chí tinh tấn không ngừng. Đừng do dự, dù gặp phải chướng duyên nghịch cảnh trên đường hành đạo, các huynh đệ phải tinh tấn nhẫn nhục khắc phục để tiến bước như lúc ban đầu sơ phát tâm. Trên con đường hành đạo để đạt đến đạo quả giác ngộ giải thoát không phải lúc nào cũng có hoa thơm cỏ lạ bướm lượn đón chào, không phải lúc nào cũng bước đi trên con đường bằng phẳng, trong cảnh bình minh muôn chim ca hót đón đưa, mà phải ý thức rằng, trên con đường hành đạo giác ngộ tiến đến đạo quả giải thoát Niết-Bàn, dẫy đầy chướng duyên nghịch cảnh, hành giả phải quyết tâm trì chí kiên nhẫn tiến đều bước trên đá sỏi chông gai. Trước khi đạt đến đạo quả giải thoát, phải bước lên gai đá, vượt qua bao hầm hố quanh co với dẫy đầy những yêu tinh rình rập đợi chờ sơ hở, tức là phải luôn tỉnh thức biết rằng, khi nào tâm chí hành giả giải đãi là chúng ma liền nhân cơ hội xen vào quấy phá làm cho tâm trí loạn động thối chí nản lòng bỏ cuộc trên đường chân lý. Các huynh đệ nhìn thấy cảnh cực nhọc khó khổ của kẻ chèo thuyền ngược dòng thác lũ, họ phải kiên trì vững chí khắc phục gian nguy, tiếp tục ra sức chống chèo cố vượt qua bao ghềnh thác để rồi mới đến được bến bờ cao sáng quang đãng, lúc đó tha hồ an vui thưởng thức hoa thơm cỏ lạ của rừng núi suối nguồn và trời cao trăng sáng. Kẻ tu hành theo Phật cũng thế, lúc hành đạo gặp đầy gian nan cực khổ, sống đời cô liêu quạnh quẽ tịch mịch, ngày ngày trong cảnh thanh đạm tĩnh vắng chốn chùa viện am tranh, không cơm ngon áo đẹp, khi đau bịnh thiếu thuốc thang, trải qua tháng ngày bằng đời sống đơn giản đạm bạc, nhưng cõi lòng thanh thản sáng ngời với lý tưởng vị tha xả thân cầu đạo vời vợi siêu thoát, với ý chí bền bỉ sắt son để tất cả cho lý tưởng giác ngộ giải thoát. Ngoài mục đích đạt đạo giác ngộ giải thoát, hoằng pháp lợi sanh, người xuất gia tu học Phật không còn ý nghĩ nào khác.
Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, bậc Đạo-Sư của chúng ta, thọ hưởng đời sống vật chất thế gian và danh vọng quyền uy cung vàng điện ngọc không ai hơn, tại sao Ngài lại dứt khoát vứt bỏ, xem danh lợi quyền uy như rác dính trong con mắt, như gai nhọn đâm vào mặt, để rồi chọn lấy cuộc đời của người tăng sĩ thanh đạm nâu sồng trong rừng sâu núi tuyết cô liêu, thiếu ăn thiếu mặc mà ngày nay nhân loại kính mộ tôn thờ nguyện theo? Nếu Ngài cũng tham dục lợi danh, ham quyền uy vua chúa như bao nhiêu Thái-tử khác, thì thử hỏi ngày nay có ai còn nhớ đến Ngài, có ai tôn thờ Ngài là bậc vĩ nhân đại-hùng đại-lực đại-từ-bi, có còn ai xưng tụng là Thế Tôn, là Phật, là bậc đại-giác-ngộ-giải-thoát, là bậc đại Đạo-Sư của trời người, là cha lành trong bốn loại không? Vậy nhân loại quy ngưỡng tôn thờ Ngài là bởi tại sao? Có phải do đức từ bi, trí giác ngộ, hạnh giải thoát không? Ba đức tánh nầy chính là kết quả của tâm chí hành đạo kiên trì nhẫn nhục mà được. Nay chúng ta nguyện theo gót chân Ngài tiến bước trên con đường giải thoát mà Ngài đã đi, thì điều cần thiết duy nhất là chúng ta nên dứt khoát vứt bỏ hết tâm danh lợi dục tình phù phiếm thế gian, nguyện nhẫn nhục chịu đựng gian nan an bần lạc đạo, lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy hạnh Phật làm hạnh mình, lấy nguyện Phật làm nguyện mình, và luôn luôn nhớ mình là đệ tử Phật, tập sống theo lời dạy, ý nghĩ, tâm hạnh như Phật.
Là đệ tử Phật, nhất là người xuất gia đang ở nhà Phật, ăn cơm Phật, mặc áo Phật, sống và trưởng thành đều nhờ ân đức Phật, mà tâm hạnh không giống Phật chút nào thì đó là điều bất xứng làm người đệ tử Phật, cũng là bất hạnh cho đạo pháp, nếu không muốn nói là phản hại Phật. Chẳng khác nào như con từ nơi cha mẹ sanh dưỡng, nhờ cha mẹ mà no ấm lớn khôn, lại không như lời cha mẹ khuyên dạy thì gọi là đứa con gì?
Các huynh đệ thấy, nước sông cuồn cuộn chảy cuốn theo đất đá cỏ cây. Cũng giống như thế đó, ngũ dục thế gian cũng cuốn lôi người đời như dòng sông cuốn trôi cây đá hoa lá kia. Kẻ trên thuyền không kiên tâm bền chí ra sức chống chèo vượt ngược dòng nước để trở về bến cũ, thì sẽ phải bị dòng thác lũ ngũ dục cuốn trôi nhận chìm. Người đời cũng vậy, bởi do buông tình thả ý chạy theo lợi danh giả huyễn thế gian, say đắm dục vọng không biết phản tỉnh cố gắng tu tâm sửa tánh làm lành bồi phước thì cũng như cây cỏ trên dòng nước, thuyền xuôi theo ghềnh thác cuốn trôi. Rượt đuổi chụp bắt danh vọng ái tình ở đời chẳng khác nào con dã tràng se cát biển đông, như ong ngày ngày bay khắp nơi tìm nhụy hoa làm mật, mà thật sự không hưởng được gì. Thấy rõ thế sự phù hoa mộng huyễn, mà người đời vô minh mê muội mải miết đeo đuổi để phải lưu chuyển trầm mình trong ngũ dục, nên thi nhân diễn tả kiếp người dong ruổi chụp bắt lợi danh:
Sáng chạy tây, rồi tối chạy đông
Người đời dong ruổi tợ như ong
Trăm hoa hút nhụy về làm mật
Rốt cuộc thân tàn một kiếp không
Một khi thấu rõ danh lợi thế gian là huyễn mộng, con người khi ra đời cũng như lúc từ giã cõi đời với hai bàn tay không, thì chúng ta nên tập sống đời tỉnh thức tri túc, tức là sống biết đủ, dừng bước tham đắm ngũ dục. Người biết sống tri túc dứt đường ngũ dục thì đời sống thanh thản an vui thủ thường hành đạo, để tạo tư lương tiến bước trên đường giác ngộ giải thoát. Ngược lại, kẻ không biết sống tỉnh thức tri túc thì suốt đời đua đòi ngược xuôi cho đến khi mỏi gối chùn chân, mắt lờ, tai điếc, đầu bạc, hơi thở hấp hối, lúc đó họa hoằn mới có cơ hội dừng chân. Nhưng than ôi! Người như thế không còn năng lực và thời gian để tạo tư lương phước đức cho mình trên con đường thánh thiện giác ngộ giải thoát nữa!
Bằng cách nào để tạo tư lương trên đường giác ngộ giải thoát? Đó là, ta phải lập cho chính ta chương trình tu tập. Tu là sửa đổi thói hư tật xấu thành tánh tốt. Tập là luyện tập những đức tánh tốt, thâu thập điều lành, ngày ngày ghi nhớ để thấm nhuần thành thói quen. Vậy tu tập có nghĩa là sửa đổi luyện tập để cho tâm tánh được tốt, huân tập thành thói quen lành thiện tiến bộ, làm cho thói hư tật xấu không có cơ hội phát triển, rồi từ đó những tánh xấu tự nó thoái hóa tiêu diệt. Thói xấu tật hư tiêu diệt, tức là phàm tánh thiện hiển lộ. Như mây mù tan biến thì mặt trời hiển bày chiếu quang sáng ấm đầy khắp đại địa. Cảnh giới chơn tâm hiển lộ nầy, thiền-tông gọi là minh tâm kiến tánh, Tịnh-độ-tông gọi là nhất tâm bất loạn, Mật-tông gọi là đoạn hoặc chứng chơ. Danh từ xưng gọi tuy có khác, nhưng cùng đồng ý nghĩa là thể đạt bản tánh chơn như, tức là người sống trong tỉnh thức giác ngộ.
Muốn chuyển phàm tánh thành Phật tánh, muốn bỏ phàm tâm để thành Phật tâm, thì hằng ngày, ngay trong đời sống nhứt cử nhứt động phải nhứt tâm nhứt niệm, ý thức mình đang làm gì. Đọc sách, biết ta đang đọc sách; tưới hoa, biết ta đang tưới hoa; tụng kinh niệm Phật, biết ta đang tụng kinh niệm Phật; nói chuyện, biết ta đang nói chuyện. Nghĩa là chính mình phải để tâm quán chiếu vào đời sống thực của mình trong mỗi hành động cử chỉ tâm niệm. Thế nên, bất cứ ai thuộc hạng người nào, khi đã vào chùa viện chọn đời sống xuất gia tu hành, trước nhất phải học thuộc lòng quyển Tỳ-Ni-Nhật-Dụng. Nội dung quyển nầy dạy hành giả phương cách nhất tâm quán niệm nhiếp nhục ba căn thân miệng ý khắp trong mỗi hành vi cử chỉ đời sống hằng ngày. Nghĩa là tập sống đời tỉnh thức quán chiếu thân tâm trong mọi sinh hoạt hằng ngày. Người tu thiền quán sổ tức, thực hành quán niệm cũng là phương cách thực tập sống lại với chính mình. Người tu niệm Phật, mắt nhìn tượng Phật, miệng niệm danh hiệu Phật, tâm quán đức tướng trang nghiêm của Phật, thời thời niệm Phật, đi đứng ngồi nằm đều tưởng nhớ Phật, đó cũng là phương cách điều phục lục căn để nhiếp niệm nhất tâm.
Ít nhất mỗi tối trước khi đi ngủ, các huynh đệ nên thành tâm lạy danh hiệu bảy đức Phật ở nghi thức sám hối trong quyền Nghi-Thức-Tụng-Niệm, rồi ngồi tĩnh tọa lắng đọng tâm tư kiểm điểm lại hành vi tâm niệm của mình từ sáng thức dậy bước xuống giường cho đến giờ phút nầy lên giường ngủ, một ngày qua ta đã làm gì, nói gì, nghĩ gì. Nếu làm điều lành thiện, nói điều hay lẽ tốt hợp với Phật pháp, làm cho người an vui thì ta nên tiếp tục phát triển điều đó. Ngược lại, nếu hành vi tâm niệm lời nói của mình làm cho người buồn, tổn hại đến chúng sanh, bất lợi cho Phật pháp thì ta nên khởi tâm hối hận, tự trách mình tại sao lại có cử chỉ ý niệm lời nói tổn thương đến tha nhơn, đến loài vật như vậy. Rồi tiếp tục quán sát kiểm điểm ý niệm một ngày qua ta đã suy nghĩ những gì và tự hỏi tại sao ta lại suy nghĩ như vậy. Phương pháp hằng ngày kiểm điểm ba nghiệp thân miệng ý nầy rất quan trọng và thực tế hữu ích cho đời sống thăng hoa thánh thiện của người hành đạo giác ngộ giải thoát.
Không kiểm điểm hành vi tự thân, không quán sát diễn biến tâm ý thì sẽ không biết một ngày qua ta đã làm gì, tâm ta ra sao cứ để ngày trôi qua ngày như thế thì khó mà gột rửa tam nghiệp để tịnh hóa thân tâm. Thế nên, muốn cải thiện đời sống thì trước phải cải thiện tâm và thân. Những tâm niệm hành vi ngôn ngữ lành thiện thì ta nên duy trì phát triển. Ngược lại, nếu là tâm niệm hành vi ngôn ngữ bất thiện lợi mình hại người thì quyết trừ bỏ. Ngày ngày tháng tháng năm năm giờ giờ khắc khắc, nếu ta áp dụng phương pháp kiểm điểm hành hoạt ba nghiệp thân miệng ý, có lỗi lầm thì khẩn thiết ăn năn trừ bỏ, đồng thời phát nguyện cố gắng giữ gìn để không tái phạm. Làm được như thế thì lo gì ta không trở nên người đạo hạnh?
Xong phần kiểm điểm ba nghiệp, tiếp theo quán hình ảnh Phật với lòng ngưỡng mộ ước mong cho mình được đức tướng như Phật và thầm niệm danh hiệu Phật theo hơi thở. Phương pháp niệm Phật theo hơi thở, khi hít vào tưởng niệm Nam-Mô A, khi thở ra tưởng niệm Di-Đà-Phật. Phương pháp niệm nầy là tâm niệm danh hiệu Phật theo hơi thở ra vào, chứ không phải miệng niệm. Nếu phương pháp nầy mà vẫn không nhất tâm khó thực hành thì ngồi tịnh tâm định thần nhớ hình ảnh Phật đến khi nhất tâm bất loạn. Nếu hai phương pháp trên cảm thấy không thích hợp thì phương pháp thứ ba là niệm ra tiếng, niệm theo tay lần tràng chuỗi. Tiếng niệm Phật rõ ràng, miệng niệm, tai nghe tiếng niệm, mắt nhìn tượng Phật, tâm quán sát theo dõi tiếng niệm. Cứ tiếp tục như thế thì sẽ nhứt tâm. Một khi nhứt tâm bất loạn thì thân an, trí huệ theo đó phát quang, định huệ phát triển song toàn, phiền não triệt dứt. Để kết thúc thời niệm Phật, nên tụng bài Đại-Bi và Bát-Nhã rồi phát nguyện hồi hướng trong trạng thái an nhiên tự tại. Bằng cách thong thả cử động nhẹ chân tay, đứng dậy lạy Phật, rồi đi ngủ.
Nếu mỗi tối trước khi đi ngủ các huynh đệ đều thực hành như vậy, thì khi ngủ không chiêm bao ác, giấc ngủ an lành, tự nhiên nơi lòng cảm thấy thanh thản an vui, niềm tin vững chắc thiết tha với đạo, tâm hỷ xả vị tha ngày thêm rộng mở, đạo hạnh cũng theo đó mà tăng trưởng. Các huynh đệ cũng nên biết, đạo không tìm ở đâu xa, mà ngay hành vi cử chỉ tâm niệm trong đời sống hằng ngày của mình. Biết nhiếp nhục ba nghiệp thân miệng ý thanh tịnh là thấy đạo. Thầy đã phát nguyện thực hành phương pháp nầy thời còn là chú điệu, trước ngày thọ giới Sa-Di. Nhớ ngày thấy đi du học Đài-Loan, Hòa-Thượng Thiện-Hòa đưa ra cổng chùa dặn dò: “Thầy Đức-Niệm! Dù bận học đến đâu, mỗi tối trước khi đi ngủ nên nhớ tĩnh tọa niệm Phật, tụng bài Đại Bi, Bát-Nhã.” Và sau nầy thỉnh thoảng Hòa-Thượng gửi thư sang thăm cũng chỉ khuyến nhắc bấy nhiêu. Phương pháp thật đơn giản, mà công hiệu quả thật vô cùng. Vì vậy, cho dù sống trong hoàn cảnh nào, ở đâu, thầy cũng vẫn giữ như thế thực hành không gián đoạn. Hằng tâm trì chú và thực hành phương pháp niệm Phật đơn giản nầy, về lâu về dài thấy có kết quả tốt trên bước đường thanh tịnh hóa nhân cách, đạo hạnh cũng từ đây được tô bồi, tâm Bồ-đề phát triển, niềm tin càng được kiên cố hơn và khắc phục được chướng duyên nghịch cảnh trên đường hành đạo.
Sách sử còn ghi, ngày xưa có lần vua Lê-Dụ-Tôn hỏi Hương-Hải thiền sư làm thế nào để được kiến tánh, làm thế nào để được thấy Phật? Hương-Hải thiền sư trả lời:
Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm sát tư duy tử tế khan
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
Đương lai điện thượng đỗ sư nhan.
Tạm dịch:
Nghe lại điều mình thấy mỗi ngày
Suy đi nghĩ lại kỹ càng hay
Chớ tìm tri thức trong cơn mộng
Như thế mới hay gặp được Thầy
Đại ý Hòa-Thượng Hương-Hải khuyên nhà vua hằng ngày nên quán sát kiểm điểm lại hành vi tâm niệm của mình. Phải quán chiếu xét xem dòng tâm thức chuyển biến chớ đế dính mắc trôi theo cảnh trần. Tâm phân biệt chạy theo ngoại cảnh đến đi thịnh suy thăng trầm còn mất hơn thua thì phiền não theo đó phát sanh. Tâm thanh tịnh thì cảnh trôi theo thời gian, tâm vẫn tự tại thản nhiên. Tâm dính mắc theo cảnh trần là vọng tâm. Tâm cảnh đều là mộng huyễn. Một khi nhận chân các pháp mộng huyễn, ly huyễn thì tuyệt dứt vọng tâm vọng niệm, ấy là chứng chơn kiến tánh. Một khi đã kiến tánh thì thấy được Phật tâm. Tâm, Phật, chúng sanh không hai không khác. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Vọng niệm là phàm phu, chánh niệm là Phật. Ý nghĩa nầy như Kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tâm, Phật, chúng sanh tam vô sai biệt, mê thị chúng sanh, ngộ tức Phật.” Tâm ác, thì miệng nói lời ác, thân làm việc ác. Tâm tà, thì miệng nói lời tà, thân làm việc tà. Tâm chánh thiện, thì miệng nói điều chánh thiện, thân làm việc chánh thiện. Tất cả chánh tà khổ vui thịnh suy vinh nhục đều do tâm. Bởi thế nên Phật pháp nói: “Nhứt thiết duy tâm tạo.” Thiện ác do ba nghiệp thân, miệng, ý tạo. Thánh phàm do thân miệng ý làm nên. Người tu học Phật phải ghi sâu nhớ kỹ điều nầy, chớ tìm cầu đua đòi nơi nào ở đâu ngoài tâm. Tâm tịnh thì độ tịnh, an lạc thanh bình. Tâm tịnh thì ánh sáng bình minh giác ngộ giải thoát hiển lộ hiện tiền.
Vậy Thầy ước mong các huynh đệ đừng nhiễm thói đời để tánh hiếu kỳ lôi kéo chạy theo phương pháp tu nầy, ông sư nọ, bà thầy kia bịa đặt cách nầy cách nọ dụ hoặc, mà luống công mất thời giờ vô ích. Đệ tử Phật nên y theo lời Phật dạy trong kinh điển mà tu hành thì thành Phật. Một điều quan trọng Thầy cũng lưu ý các huynh đệ nên ghi nhớ kỹ là, đừng lầm lẫn việc học hiểu giáo lý chỉ để thỏa mãn kiến thức, lý thuyết suông. Nếu tu học Phật chỉ nhắm vào thỏa mãn hiểu biết, mở rộng kiến thức, lý thuyết suông cho người nghe, mừng vui tự mãn với những lời khen ngợi thì nhất định sẽ rơi vào một trong bán nạn, đó là thế-trí-biện-thông, vô tình tự tạo nên cống cao ngã mạn. Cho nên giá trị của người học hiểu giáo lý Phật-Đà chính là để chánh tâm thành ý thực hành, thể hiện giáo lý bằng đời sống hành hoạt hằng ngày qua ba nghiệp thân miệng ý, như thế mới thật sự tu bồi đạo hạnh, thanh tịnh hóa thân tâm. Học hiểu giáo lý để trau dồi thân tâm, tránh lầm lẫn tà pháp mê hoặc, khuyên người cùng phát tâm tu, đó là tâm nguyện của Phật. Học hiểu giáo lý của Phật để đối chiếu với chính mình, để minh sát ba nghiệp thân miệng ý, chứ không phải lý thuyết suông, như thế mới đích thực chân chánh là người tu học Phật.
Hôm nay ngày đầu xuân, người đời vui mừng tặng quà cáp lễ vật cho nhau. Người xuất gia tu học Phật không giống như thế. Mà trái lại, mỗi lần xuân tết đến, người đệ tử Phật phải ý thức rằng, tết đến là chất chồng thêm một tuổi, nên tự tra vấn lòng mình, một năm qua ta đã làm được gì lợi ích cho người cho mình. Đạo nghiệp tu hành có tiến bộ phần nào không? Nếu không thì thật đáng buồn đáng hổ thẹn rằng mình đã vô tình giải đãi để thời gian quý giá trôi qua một cách luống uổng vô ích. Thêm một năm là tăng một tuổi chồng chất trên đời mình, là bước gần đến bến bờ già chết. Phải biết tự trách, tự cảnh giác thầm than rằng, thôi rồi, gần hết một đời mà đường tu niệm vẫn còn yếu kém thì làm sao có thể trên báo đền bốn ân nặng. Mình không được giác ngộ giải thoát thì làm sao dưới cứu giúp chúng sanh trong ba đường khổ. Ơn nặng không trả xong thì ba đường khổ không mong gì thực hiện cứu giúp. Chẳng những bốn ơn k hông trả xong, ba đường không cứu giúp được, mà chính bản thân cũng không giác ngộ, tâm đức đạo hạnh không tiến bộ thì thật là cô phụ một đời tu hành. Vậy là đã tự đem mình làm ký sinh trùng trong vườn hoa Phật pháp. Người xuất gia mà không tự sách tấn phản tỉnh, nghiêm chỉnh hành trì giới luật, không nỗ lực niệm Phật, tham thiền, bái sám, tụng kinh, chuyên tâm quyết chí dứt bỏ phàm tâm danh lợi tham vọng dục tình, thì đã tự biến mình làm mối mọt trong ngôi nhà Phật pháp.
Mong các huynh đệ phải hết lòng giữ giới luật như giữ con mắt của mình. Phải nhiệt tình hiến đời mình cho đạo pháp và chúng sanh. Phải coi mình như một chiến sĩ diệt trừ giặc tham sân si của chính mình. Đem hết tâm tình và khả năng phục vụ cho đạo pháp cao siêu để cho tinh thần từ bi rộng khắp vô lượng, cho tình thương trang trải đến muôn loài. Nên vận dụng hết khả năng đem ánh sáng Phật pháp trang trải khắp mọi nơi mọi người. Như thế mới đúng là đệ tử Phật, mới thể hiện được tâm-hạnh-nguyện của Phật.
Đức Phổ-Hiền Bồ-Tát đã tu hành theo Mười-Đại-Nguyện-Vương mà được thành đạo quả. Xưa nay các bậc tiên thánh liệt hiền thầy tổ cũng đã y theo Mười-Đại-Nguyện-Vương Phổ-Hiền mà tu hành đã thành tổ, thành Bồ-Tát, thành Phật. Bây giờ ngày ngày Thầy cũng hành trì theo Mười-Đại-Nguyện-Vương ấy. Nghiêm chỉnh thực hiện Mười-Đại-Nguyện-Vương Phổ-Hiền là hành Đại-thừa đạo, tận diệt phiền não, sẽ thành đạo Bồ-đề Vô-thượng. Thiện-Tài đồng-tử trong kinh Hoa-Nghiêm đã khắp nơi tham cầu học đạo hơn năm mươi vị thiện-tri-thức Bồ-Tát, thế mà cuối cùng rồi cũng đến cầu học với Bồ-Tát Phổ-Hiền và được trao pháp môn Mười-Đại-Nguyện-Vương. Thế thì đủ thấy Mười-Đại-Nguyện-Vương quan trọng với người tu hành đến chừng nào!
Thầy mong các huynh đệ nên triệt để y theo Mười-Đại-Nguyện-Vương Phổ-Hiền, nghiền ngẫm về ý nghĩa thâm sâu từng đại nguyện một, thành tâm thiết ý lấy Mười-Đại-Nguyện-Vương Phổ-Hiền làm phương pháp tu, cố gắng thực hành trọn đời thì nhất định đường tu hành sẽ đến nơi đến chốn. Tu Phật thì phải thành tâm học Phật, phải ghi nhớ lời Phật dạy để mà hành trì thì nhất định sẽ thấy Phật. Các bậc Bồ-Tát đã làm như vậy mà đạt thành đạo quả. Ngày nay các huynh đệ muốn thành đạo quả thì Thầy tha thiết khuyến lệ các huynh đệ chớ nên đua đòi a dua mua vui tu theo bất cứ phương pháp mới lạ nào khác, để tránh rơi vào cạm bẫy của những kẻ tà ngụy lạm xưng chứng thánh, là Bồ-Tát hiện hình, mà thật ra là họ đang thực hành phương họ tự tạo, phương pháp ma đạo theo vọng tưởng tà tâm tạo ra. Chúng ta cách Phật lâu xa, tà ngụy dẫy đầy, chơn gaỉ khó phân, chỉ cần tu theo kinh điển Phật dạy qua sự hướng dẫn của các bậc chân tăng giới hạnh trang nghiêm. Các huynh đệ phải đem hết lòng thành theo như lời Phật dạy mà hành trì, chuyên tâm tu tập với lòng thành tha thiết thì nhứt định có được đời sống chánh kiến, chánh niệm, chánh tâm, tất nhiên đưa đến đạo đạo như sở nguyện.
Trên đây, Thầy có mấy lời chân tình khuyến lệ trao đến các huynh đệ làm quà tết trong ngày đầu xuân.
Thực hành giáo pháp đức Phật vào đời sống là người có trí huệ, chắc chắn được hạnh phúc. Tìm hiểu giáo pháp đức Phật để thỏa mãn kiến thức, lý luận thấp cao là rơi vào không tưởng, chẳng khác người không tắm gội mà mặc áo mới, kẻ say rượu mà luận bàn đạo lý.
Câu chuyện ngày xuân
Thưa quý vị!
Hôm nay quý vị vân tập về đây, ngay ngắn ngồi đối diện tôi, trước ngôi Tam-Bảo, dưới Phật đài, nghe bài thuyết pháp cuối năm, để rồi chút nữa đây thành tâm cùng làm lễ Giao-thừa, đón mừng năm mới, hái lộc đầu xuân, vui mừng ngày xuân tết.
Thưa quý vị! Nói đến Tết, trước hết, tết gợi cho ta cái ý niệm năm hết, kết thúc tất cả cái gì cũ, đã chất chồng tròn đủ một tuổi đời và chúng ta sẽ tiếp nhận thêm một tuổi mới với hy vọng những điều may mắn mới mẻ tốt đẹp trong năm mới. Như trẻ con cởi chiếc áo cũ, vui mừng mặc lên người chiếc áo mới với nụ cười trong trẻo mừng vui thích thú. Nhưng tất cả ý niệm về xuân tết cũ mới đều là sản phẩm của con người, do con người tạo ra và đặt để cho nó, kinh qua thời gian lâu dài và trải qua lớp lớp thế hệ, để rồi hình thành quan niệm suy tư tập quán truyền thống.
Tôi nói sản phẩm, dù là sản phẩm thuộc lãnh vực tinh thần, chẳng hạn như ngày tết, thì đó cũng là do tâm thức con người tạo ra. Mà xưa nay những hiện tượng thực tế cho ta thấy, bất cứ cái gì, điều gì, sự việc gì do con người tạo ra cũng đều là không chân thật. Bởi chính ngay cái nhân là thân mạng và tâm thức của con người cũng vốn là huyễn mộng. Huyễn mộng tạo ra huyễn mộng. Chúng ta đang sống trong canh trường đại mộng, nặng mang bầu vọng tưởng vọng thức thiên kiến biên chấp, nên không có cái gì chân thật trường tồn. Chẳng hạn tết của người Đông phương không giống tết của người Tây phương cả về thời gian, cung cách trang hoàng lẫn phương tiện thưởng thức xuân tết. Bởi tâm chúng sanh bất đồng, nên tạo ra cảnh sắc hiện tượng cũng khác biệt. Tâm chúng sanh hư vọng sai biệt, nên hình thành sản phẩm không giống nhau, không chân thật cả nội dung lẫn hình thức.
Quả thực thế. Chẳng nói chi xa, chỉ trong ba ngày xuân tết là đủ hiển bày thực trạng thầm kín của nhân thế. Thật vậy, tinh thần và tâm tư của người trong cùng một giống nòi mà cũng đã có cách thức đón tết khác nhau. Nguyên do của sự khác nhau là tùy theo tuổi tác, tùy theo hoàn cảnh mà hình thành quan niệm suy tư, tâm lý để rồi đưa đến cách thức không giống nhau. Quý vị có biết chăng? Biết bao người xót xa tủi hận trong ngày tết, thì bên cạnh đó cũng có những người vui cười hỷ hạ tiệc tùng linh đình với cảnh gia đình hạnh phúc đoàn viên, quyến thuộc đoàn tụ, đón mừng xuân tết. Đó là khái lược nói về hiện trạng thế gian. Trong cùng một chủng tộc quốc gia mà mỗi lần xuân tết đến cũng đã không giống nhau rồi, nói chi đến tha quốc dị chủng! Hễ cái gì đã không giống không đồng thì không chân thật, không bền chắc trường tồn, đương nhiên không phải là chân lý. Không phải chân lý thì sẽ phải đổi thay. Hễ đã đổi thay thì sẽ phải mai một, theo lẽ tuần hoàn hoại diệt. Mà hễ còn dính mắc trong vòng thành trụ hoại diệt chuyển thy thì còn phải liên lụy buồn phiền khổ đau. Tâm thức còn bị ngoại cảnh chuyển, thì cuộc sống theo đó sẽ không yên, không thể nào đạt được chân lý an nhiên tự tại:
Tâm thức lao xao trời viễn mộng
Dòng đời cuồn cuộn nỗi thăng trầm
Chừng nào tâm an ý định nhìn sự thăng trầm thế nhân, sự thịnh suy cuộc đời, sự sanh diệt của vạn vật mà lòng tự tại an nhiên thì:
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Hôm qua sân trước một cành mai
Không đạt chân lý an nhiên tự tại thì lẽ nào lại được vô ngại trước cảnh thịnh suy thăng trầm, thong dong buông thả trước trạng thái lưu chuyển không ngừng của cuộc đời:
Sá chi suy thịnh cuộc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
Tâm còn khúc mắc gai góc thì còn dính chặt với buồn khóc xót thương. Hễ tâm còn vướng bận hơn thiệt nhục vinh thì còn bị cuốn theo dòng đời cuộn chảy, không thể nào thoát xác định tâm nhìn thấy cái vẻ đẹp trường tồn chân thật của vạn vật ngày xuân:
Các pháp xưa nay vốn tự như
Không sanh không diệt cũng chẳng hư
Xuân đến trăm hoa đều rộn nở
Oanh vàng liễu thắm hót xuân cười.
Vậy thì người Phật tử chúng ta đối với xuân tết phải như thế nào mới đầy đủ ý nghĩa thưởng xuân?
Thưa quý vị! Tính đến nay, tôi đã trải qua mười cái tết trên xứ Mỹ nầy. Mười cái tết đi qua đã cho tôi bài học đáng giá về nhận thức cuộc đời, về thấu rõ kiếp người, nhất là thân phận kiếp người tha hương và chiêm nghiệm về lẽ sống. Mười cái tết tâm tình Việt-Nam trên đất Hoa-Kỳ đi qua trong đời tôi, đã làm cho tôi ý thức rõ ràng về tình người, nhận chân được kiếp sống:
Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán
Kiếp phù sanh tụ tán chán chường
Tình đời thương ghét ghét thương
Ái tình danh lợi làm vương vấn lòng.
Kiếp người quá đỗi long đong
Sớm còn tối mất mây hồng hoàng hôn!
Hôm nay là ngày vui, sao tôi lại nói chi những lời có vẻ bi quan chán đời thế kia?
Xin thưa quý vị! Đạo Phật là đạo như thật, phải trực diện với sự thật để từ đó nhận chân thực trạng hoàn cảnh và tâm tình nhân thế. Phải nghĩ thật, nói thật, hiểu như thật, và làm thật, mới phân định chơn giả, bỏ tà quy chánh, tránh vọng về chơn. Bởi thế, nên nói đạo Phật là đạo của lẽ sống chân thật, là chính đạo, đạo của con người làm cho con người tiến bộ giác ngộ giải thoát. Người Mỹ giúp đỡ tha nhân theo tánh tự nhiên phát xuất từ cõi lòng mà không cần nghĩ đến đền ơn đáp nghĩa. Còn Phật tử chúng ta đã hiểu biết nào là tội phước, nhân quả, luân hồi, quả báo, tu để thành Phật thành thánh hiền, tụng kinh, ăn chay, lần chuỗi, nhưng lại nhiều tính toán ích kỷ so đo chấp chặt. Kinh Phật dạy người hành đạo nên từ bi, hỷ xả, lợi tha, bố thí, trong lúc đó chúng ta lại nhiều ganh tỵ, keo kiết, tham giận, hận hờn. Thậm chí có người hứa cúng dường xây chùa đúc tượng làm việc từ thiện, sau đó lại đổi ý quên lời. Lại có hạng người nếu có đóng góp cho Phật pháp chút ít công của, thì kể công kể nghĩa. Có kẻ còn lợi dụng hơi hám chùa nọ thầy kia, tự khoe mình đã từng làm phước đức công lao Phật sự to tát. Nếu có cộng tác với bà con bạn bè làm ăn làm phước chẳng bao lâu, sau đó vì lợi nhỏ lại bứt ngang bỏ cuộc, nhiều khi còn đoạt của hại người nữa là khác.
Lại có những kẻ có tiền mà tự dối lòng mình, cứ ngửa tay xin tiền xã hội để dành dụm cho con mua nhà sắm xe. Đâu có biết nước mắt của người dân lao tâm lao lực lao động đóng góp. Người xuất gia ở chùa sớm hôm kinh kệ, trì trai giới hạnh, gia công tu hành, với mục đích ngoài việc tiêu trừ nghiệp chướng, tài bồi phước lành, cầu thành đạo quả, phần lớn còn phải lo hồi hướng công đức tu trì của mình để đền trả ơn đàn na thí chủ cúng dường cho mình được an tâm tu hành. Kinh nói: “Kim sanh bất liễu đạo, phi mao đới giác hoàn.” Có nghĩa là, người đời này không chuyên tâm tinh tấn tu hành liễu đạo giác ngộ, thì đời sau sẽ phải làm súc vật mang lông đội sừng trả nợ áo cơm cho người thí chủ. Tu hành thọ nhận người cúng dường mà không chơn chánh, không chuyên cần tinh tấn tu hành để cầu được giác ngộ giải thoát còn phải mắc quả báo như thế, huống chi kẻ tham tâm lãnh tiền xã hội tế bần, hoặc lợi dụng chùa viện để tư lợi quyền danh, thì quả báo trầm trọng biết dường nào!
Thậm chí có kẻ đầu tròn áo vuông mà lòng đầy danh lợi, quên bản nguyện sơ tâm xuất gia cầu đạt đạo quả giác ngộ giải thoát. Tham vọng cuồng trí tà tâm bám chức hám danh đến độ không bằng cấp tự nói dối có bằng cấp, chưa xứng được đại chúng suy tôn lại tự ý tôn xưng danh chức! Lắm lúc còn đại ngôn tự xưng mình đã chứng đắc thánh quả! Đâu có biết kinh dạy rằng: “Nhược phàm phu tự ngôn chứng chánh… danh đại vọng ngữ kỳ tội cực trọng.” Nghĩa là, kẻ phàm phu mà tự xưng mình đã chứng thánh… thì đó là đại vọng ngữ, quả báo rất lớn, tội đọa rất nặng. Người tu học Phật đặt trọng tâm nơi vun bồi đức hạnh, tạo công đức lành, xa lánh lợi danh. Đạo đức và giác ngộ giải thoát vượt ngoài bằng cấp chức tước danh vị. Đó là lý do mà Thái-tử Tất-Đạt-Đa bỏ lại sau lưng tất cả phú quý danh vọng quyền uy để sống đời tăng sĩ bình dị khiêm cung thanh bần lạc đạo. Lịch đại tiền nhân đã có biết bao người vất bỏ danh vọng chức quyền để xuất gia cầu đạo. Danh chức không phải là thước đo đạo hạnh.
Nay tự nhận mình là đệ tử Phật, nguyện học theo Phật, chúng ta có thực sự hành trì theo lời Phật dạy chưa? Ấy thế mà có kẻ sáng mới cạo tóc, chiều liền xưng làm thầy! Thậm chí có kẻ chẳng cần thọ giới cầu sư, tự ỷ mình có chút học hành kiến thức rồi ngang xương mặc áo đắp y xưng đại-đức, thượng-tọa. Kinh Phật gọi hạng người như thế là lạm xưng sa-môn, tổn hoại phẩm hạnh, ô danh tăng đoàn. Lại có kẻ vì tự ái, nghĩ mình mất lợi danh quyền hành nơi chùa viện, xoay ra hủy báng sư tăng, xuyên tạc phá phách sự thanh tịnh cửa thiền. Nếu vì để xây dựng chỉnh huấn cảnh tỉnh những kẻ ngụy tăng tà hạnh lợi dụng chùa viện làm chỗ lợi dưỡng cầu danh, mà họ buộc lòng phải hành động như thế để đánh động lương tri kẻ tà ngụy và để cho Phật tử gần xa không nhận lầm thì đấy là điều đáng khen, đáng ca ngợi tinh thần can đảm vì bảo vệ đạo pháp. Nhưng sự thật thì không phải thế, mà vì mê lợi hám danh muốn được quyền hành nơi cửa Phật mà họ làm thế thì thật là tội lỗi! Nghĩ cho cùng, Phật nào có bảo chúng ta đem tâm trần tục lợi danh xây chùa, hành đạo, thờ Ngài đâu? Sao kẻ phàm tâm lạm xưng là Phật tử, là sư tăng với tâm địa vô minh tà mị tự đâm đầu tạo chi cái nhân hắc ám, làm kiếp ký sinh trùng rúc rỉa cây cổ thụ đạo pháp đến phải tổn thương lở vỏ héo cành thế kia?
Người tin kính Phật mà không e ngại quả báo luân hồi nhân quả là người tự để đời mình lăn sâu xuống hố thẳm tội lỗi! Bất cứ việc làm ý nghĩ gì cũng đều có nhân quả nghiệp báo theo sau đó.
Vậy tết là dịp để cho Phật tử chúng ta tự kiểm thảo suốt một năm qua, đã hưởng trọn một tuổi đời rồi mà ta đã lam gì trong thời gian 12 tháng qua? Hãy nên bình tâm định thần để tự tánh thanh tịnh mà chân thành tự vấn lòng xem, ta đã có thêm gì về đạo đức tự lợi, lợi tha, để rút ngắn đường xa đến bầu trời quang đãng an lạc của đức Di-Lặc? Ta có bao giờ tự hỏi vậy chưa?
Thưa quý vị! Khi hành đạo chạm trán với đời, từ đó tôi đích thực thể nghiệm lời Phật dạy: “Thế gian vô thường, đất nước nguy khốn, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, tâm là nguồn ác, thân là rừng tội.” Ngày xưa, cái tuổi còn ngây thơ, ở chùa lo chuyên tâm tu học, sáng chiều kinh kệ, không hề biết việc đời, tôi chỉ nghe các bậc sư trưởng giảng và chỉ biết suông lời Phật dạy qua các kinh điển: “Thế gian mộng huyễn, tâm người vô thường” thế thôi! Nhưng ngày nay, nhất là trải qua mười năm hành đạo ở xứ Mỹ này đầy chông gai trăm đắng ngàn cay, trùng trùng chướng duyên nghịch cảnh, tôi đã hiểu được thế nào là thế thái nhân tình. Tôi đã nếm được ý nghĩa “trên đường chân lý giác ngộ không phải lúc nào cũng có hoa và bướm.” Mười cái tết ở đây, đã là cơ hội thể nghiệm về lời Phật dạy, về lời các bậc thầy đã khuyên tôi, và từ đấy thực tế cho tôi hiểu được tình đời phức tạp, lòng người khó lường, đồng thời vun bồi cho tôi cái đức tánh kiên nhẫn trong cuộc đời uế độ kham nhẫn nầy, để tôi vững chí hành đạo. “Trên đời không việc gì khó, khó hay không là tại lòng mình. Hễ có chí thì nên.” Điều điển hình nhất là làm cho tôi suy gẫm nhiều về lẽ vô thường.
Vô thường đã kéo lôi, đã chi phối tất cả mọi hiện tượng tâm lý cũng như vật lý thế gian. Một thực trạng điển hình bày ra trước mắt gần gũi nhất, đó là nhìn lại chính bản thân tôi. Tấm hình trên tay tôi còn ghi dấu chụp ngày 16-6-1979, ngày tôi vừa đến phi trường Los Angeles, và xuân tết năm ấy, tôi thấy cái gì cũng đẹp. Đẹp như từ trên mây bay nhìn đèn đêm của thành phố Los Angeles. Giờ đây nhìn lại tấm hình ngày ấy còn ghi rõ nét sắc diện tôi tròn trịa nở nang, da mặt hồn nhiên măng tơ căng nhựa sống, vóc người phốp pháp với nụ cười tươi vô tư lự chào đón mọi người khi bước ra phi cơ, khi về chùa, ngày làm lễ ra mắt. Với tâm hồn thư thới của một tăng sinh vừa tốt nghiệp học trình mà mình đã nuôi mộng một tương lai huy hoàng đang tiến tới chân trời mở rộng hoa mộng đón chào, lúc nào cũng như hoa nở trong gió xuân. Nhưng tết thứ mười này, đứng trước gương soi lại chính mình, đối chiếu với tấm hình chụp cách đây mười xuân tết, thì đã khác xa đi nhiều lắm. Mái tóc đen, má tròn đầy, mắt trong sáng, răng trắng đều đặn, nụ cười hồn nhiên như hoa nở của thuở nào, nay chúng đã âm thầm theo từng cái tết lặng lẽ ra đi! Tất cả đều đổi khác, mất mát hết rồi! Giờ đây chỉ còn lại trên người tôi tóc bạc, má cóp, da nhăn, mắt mờ, răng giả và nụ cười hồn nhiên năm xưa cũng đã biến dạng đi tự lúc nào không hay! Giờ đây chỉ còn lại tâm hồn thanh thản vô tư thoạt có thoạt không!
Thưa quý vị! Tôi tưởng cái tết đầu tiên ở Hoa-Kỳ sẽ là niềm hy vọng an lành sáng sủa, thuận duyên hành đạo, và đời tôi theo đó cũng sẽ có được cuộc sống thanh thản thoải mái trong những năm kế tiếp. Nên lúc đó tôi cảm thấy tràn đầy không gian bao la quang đãng, trời trong không khí mát lành không gợn mây buồn, không bợn nhiễm ô, dòng đời phẳng lặng chẳng mấy nỗi chông gai. Và cũng lúc đó, tôi cảm thấy đâu đâu cũng đầy hoa đời tươi nở, ai ai cũng cởi mở cõi lòng đón chào niềm nở tình đồng đạo đồng hương trong tình người dân tộc. Nên tai tôi lúc nào cũng nghe văng vẳng âm điệu trong trẻo ngọt ngào tình tự quê hương, nồng hậu tình người đồng bào ruột thịt trong đạo từ bi. Với cõi lòng trong trắng nhiệt tình, tôi có niềm tin thật vững chắc “tình đồng bào chan hòa trong tình đạo từ bi giải thoát” thì sẽ keo sơn đầm ấm biết bao! Nhưng thực tế đã làm cho tôi não nề ngao ngán, phảng phất nỗi ưu tư nơi lòng! Dù vậy, nhưng trong tôi lúc nào cũng trỗi lên nhạc lòng tha thiết tiếng gọi đàn đùm bọc lấy nhau “người trong một giống phải thương nhau cùng.”
Thật tình mà nói, qua bao nỗi đắng cay chua chát tình đời đen bạc dồn dập khiến cho tâm tư tôi hồn nhiên như những thiên thần dạo đờn dâng hoa cúng Phật đã bắt đầu suy nghĩ. Lòng trào dâng niềm hy vọng vô biên tưởng chừng ngày về quê hương gần lắm thì tôi lại phải ưu tư nhiều. Bởi tin tưởng sức mạnh đoàn kết “lá lành đùm lá rách.” Nhưng thật sự thì lá lành nhận chìm lá rách! Bởi trong người tôi học đòi tâm nguyện vị tha của đức Phật, mang tâm hạnh hành xả đến Hoa-Kỳ, trước tiên là mong có dịp phục vụ đồng bào và đạo pháp, hầu để chia sẻ phần nào nỗi đau xót vết thương lòng của kiếp sống tỵ nạn tha hương, mà hầu hết mọi con tim đều uất hận nghẹn ngào phải bỏ đất mẹ ra đi chịu kiếp sống đất khách quê người. Mang tâm hồn trong trắng chơn chất nhiệt tình của một tăng nhân nguyện trọn đời sống cho lý tưởng vị tha đã được nung đúc hằng chục năm, từ thuở bé trong cửa thiền với tinh thần xả thân cầu đạo bằng tâm nguyện “trong đời ngũ trược thề vào trước.” Mang tâm hồn còn trinh nguyên với cõi lòng hồn nhiên nhiệt tình đó, giờ đây là dịp để phục vụ cao độ, với hy vọng tiếp tay với đồng bào đau khổ để xây dựng cuộc sống mới hiền hòa tinh thần tương thân tương kính tương trợ trên đất lạ quê người, nhưng thực tế đã làm cho tôi phải suy tư nhiều: “Có được như mình tưởng không, sao mà nhiều uẩn khúc chông gai lắm vậy?!”
Thưa quý vị! Thật tình lòng tôi sống dậy niềm tin tưởng mãnh liệt như thế, và đang say sưa dấn thân với tấm lòng trong trắng tợ băng tuyết không phân biệt thân sơ. Thì cũng trong lúc đó, một vị danh Tăng từ phương xa trên đường hành hóa ghé qua thăm đã nói với tôi: “Với học thức, đạo hạnh như thầy ở Đài-Loan rất tốt, được người quý mến trọng dụng, sao không ở? Thật đáng tiếc! Chỉ có những kẻ thiếu phước mới làm lãnh tụ Phật-giáo Việt-Nam.” Lúc đó, tôi không có một khái niệm gì về cái ý nghĩa của danh từ lãnh tụ, nên câu nói kia không làm cho tôi ngạc nhiên, suy nghĩ gì. Bởi lòng tôi có một ước ao đơn giản: Đến Hoa-Kỳ theo lời mời của Hòa-Thượng Thiên-Ân, người đã hai lần đích thân đến Đài-Loan gặp tôi ngỏ lời mời đến Hoa-Kỳ hợp tác giáo dục hoằng pháp. Và tôi đến Hoa-Kỳ cũng chỉ với mục đích là cùng chia sẽ nỗi đau thương của người đồng quê hương xứ sở, để có dịp phục vụ đạo pháp và giúp đỡ đồng bào ruột thịt thế thôi.
Nhưng với cõi lòng trong trắng nhiệt tình hành đạo sau mười cái tết ở đây, ngày nay suy gẫm lời nói của vị danh tăng kia quả thật là một bài học đáng giá. Kinh qua mười năm hành đạo, âm thầm kiểm điểm, thấy mình dốc hết năng lực và thời gian cho lý tưởng đại nghĩa đạo pháp dân tộc, với hy vọng đồng bào có đời sống tinh thần sáng sủa thoải mái trong những ngày còn lại sống gởi trên đất khách quê người, mong nhờ chất liệu Phật pháp có thể khiến cho mọi ngượi ai nấy đều nuôi dưỡng nhiệt tâm đoàn kết để tạo sức mạnh năng động hy vọng rút ngắn ngày trở lại quê hương. Nhưng cho đến nay, trải qua mười năm mà ánh sáng đường về đất mẹ chưa thấy xuất hiện, tình đồng hương ngày một thêm chia rẽ, đạo pháp càng phân ly, tình trạng đồng bào ruột thịt tại các trại tỵ nạn lại ngày thêm khốn đốn khốc liệt trong tuyệt vọng não nề! Làm gì đây? Tại sao ta sanh ra đời không nhằm thời? Do nghiệp duyên gì mà phải chứng kiến cảnh bi đát? Vậy thì sống để làm chi mà đành phải bất lực nhìn đồng loại một cách thương tâm, nhìn thực trạng đạo pháp mà não lòng để rồi âm thầm chua xót như thế này?
Trước thực trạng cảnh đời tan tác, trước tình người đồng hương rời rạc, trước vận mệnh dân tộc đen tối, trước cảnh huống đạo pháp phân hóa, lòng tôi chua xót não nề! Giờ đây chỉ còn biết nỗ lực phục vụ đạo pháp và đồng hương theo khả năng mình. Có lúc thật lòng chán nản muốn tìm nơi ẩn dật niệm Phật cho đến hết đời. Nhưng gương đức Phật suốt 49 năm trời hoằng pháp lợi sanh đã gặp không biết cơ man là cảnh gay go nguy khó, nhưng không lúc nào tỏ ra mỏi mệt, cho đến giờ phút trước khi vào Niết Bàn, Ngài vẫn còn giảng bài pháp Di-Giáo cuối cùng. Lại cộng thêm vào đó, các pháp hữu và Phật tử cảm thông nỗi lòng thầm kín của tôi, đã bày tỏ lòng thương thân, thạnh tình khuyến khích, nên rồi tôi lại tiếp tục sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh.
Nghĩ cho cùng cũng lạ thật! Thưa quý vị! Hai chữ “thế gian” gồm trong ý nghĩa nôm na là không phải “thế ngay.” Nói thế là nói nôm na mà thú vị, giản dị mà hàm xúc để cho người đời dễ hiểu đó thôi! Bởi không phải thế ngay, nên bày ra cũng lắm tuồng huyễn hóa. Vậy mà đã hấp dẫn, nhận chìm biết bao lớp lớp người thế hệ nầy đến thế hệ khác, khiến cho nhân loại ngày đêm sống say chết ngủ, lặn hụp trong vũng bùn danh lợi dục tình, sanh ra lắm chuyện tranh giành chấp thủ hủy hoại lẫn nhau, mặc dù hiện trạng thương đau đang sống kiếp tằm gởi tủi nhục vẫn còn nhan nhản trước mắt đó! Ấy thế, chẳng phải thế ngay vậy mà thế nhân tăng tục đua nhau chụp bắt mộng huyễn lợi danh tranh giành hãm hại nhau không dứt. Nếu thật sự thế ngay thì chắc là hơn thế nữa!
Kẻ phảm tục bị nhiễm trùng tham vọng danh lợi thị phi đã thấm sâu vào dòng máu xương tủy vong bản từ lâu, họ bỏ đạo truyền thống của ông cha để sống phi dân tộc vọng ngoại, sống đời vô đạo đức đã đành. Đằng này, có kẻ tự xưng mình là Phật tử, biết đi chùa lạy Phật ăn chay, nhiều lúc còn giảng đạo lý vanh vách cho người khác nghe nữa, mà lại mưu tìm danh kiếm lợi trong cửa Phật, được thì chùa yên, không được thì quàng xiên gây rối cửa Phật. Thật đáng đau buồn cho đạo pháp gặp phải tình trạng thế nhân vô minh vọng tâm loạn tưởng làm đạo pháp suy vi. Nghĩ cho cùng, hạng người này do tham vọng đã lầm lẫn ý nghĩa phục vụ đạo pháp. Tinh thần phục vụ đạo pháp chính là bổn phận người Phật tử qua hình thức công quả hộ đạo, đồng thời cũng là nhân tố, cơ hội tốt để tu tâm dưỡng tánh hành thiện, bồi dưỡng phước đức. Chớ nào phải phục vụ đạo pháp để được có chức tước quyền hành như thế gian?! Vì không nhận định rõ đâu là thế pháp và Phật pháp, đâu là thế sự và Phật sự. Thế sự thì truy cầu chụp bắt để thỏa mãn danh vọng dục tình lợi mình hại người đào sâu tội ác. Phật sự thì phát tâm lập nguyện hành đạo tu tâm dưỡng tánh vun bồi phước huệ để tự lợi lợi tha. Nghĩa là phục vụ Phật sự thì trước phải tu tâm sủa tánh sau mới thực hành hộ pháp. Đạo Phật là đạo tu sửa thân tâm để trở thành người hiền lương thanh tịnh, chớ không phải danh lợi thế lực phô trương. Đến với đạo Phật là đến với tâm mình, là buông xả giải thoát. Đến với thế gian là đến với vọng tâm chụp bắt dính mắc trói buộc.
Lắm người tự nhận mình là Phật tử mà không tin sâu nhân quả nghiệp báo, nên để phàm tâm lấn át Phật tâm. Người đem vọng tâm tà niệm hành đạo, nên khi không có hoặc hết danh chức như hội-trưởng, thủ-quỹ, thư-ký, v.v… thì cảm thấy mất quyền danh lợi dưỡng, tâm tham sân trào dâng chế ngự, tự xa lánh Tam-Bảo, rồi tạo ồn náo cửa chùa, dèm pha xuyên tạc sư tăng đạo hữu, đồng thời dùng những lời gian dối bịa đặt để kéo lôi xúi dục người khác cũng bỏ thầy bỏ chùa như mình. Thế nên, Phật dạy: “Tin ta mà không hiểu ta là hủy báng ta” là ý nghĩa nầy! Hạng người như thế quả thật như trùng trong sư tử!
Đã nhận mình là Phật tử thì phải biết vâng lời Phật dạy mà tu sửa tâm tánh hành vi, chứ không phải chỉ mang cái danh Phật tử suông. Đến chùa với ý niệm tu tâm sửa tánh, ăn ở hiền lành, vun bồi phước đức, thế mới đích thực ý nghĩa đi chùa. Chùa là chỗ tu hành chứ nào phải chỗ tranh giành quyền chức? Tu là sửa tâm chỉnh tánh. Hành là cải thiện hành vi, thực hành đúng lời Phật dạy từ bi, hỷ xả vị tha. Điều mình không ưa thích thì đừng làm cho người khác buồn phiền. Nên việc tu hành của Phật tử là nghĩa cử cách mạng. Cách mạng là sửa đổi lối sống. Sống cho xứng với lý đạo chơn thường hợp với lẽ phải, thuận với đạo đức, ngõ hầu thăng hoa cuộc sống. Cách mạng là bỏ cái cũ, trừ cái hư dở lạc hậu, để đổi lấy cái mới thích thời tiến bộ đưa đời sống sinh dân đến an lành sáng sủa hạnh phúc. Tu hành là sửa đổi trừ bỏ tâm tánh hành vi xấu ác, tạo cho tâm tánh mình trở nên từ hòa bao dung cầu tiến để có đời sống đạo đức với ước mong trở thành người đạo hạnh thanh cao. Tu hành là sửa đổi cải tiến từ con người tâm lượng nhỏ hẹp, đạo đức yếu kém, để trở thành con người tâm lượng quảng đại, đạo đức cao dày. Tu hành là sửa đổi từ con người tham lam sân hận si mê, để trở thành con người rộng lượng, từ-bi hỷ-xả trí-huệ buông xả giải thoát. Mục đích của sự tu hành là để chuyển tâm sửa tánh, chuyển phàm thành thánh. Chứ chẳng phải tu bằng hình danh sắc tướng để được người khen, để được chức quyền. Hiểu và thực hành như thế mới thật sự là người Phật tử chơn chánh.
Người Phật tử chơn chánh chính là người làm cuộc cách mạng toàn triệt về thân tâm để tiến đến thánh thiện, nhằm đạt đến đích của sự giác ngộ giải thoát. Có như thế, người Phật tử mới hy vọng thăng hoa trên đường chánh đạo, lìa phàm nhập thánh. Bằng không chỉ là cái danh tướng Phật tử, mãi mãi chìm sâu trong vô minh tham vọng suốt đời loạn động vì danh lợi, kết thân với ác tri thức để rồi mãi mãi trôi nổi trong bể khổ trầm luân. Thế nên nói đến Phật tử là nói đến người đang làm cách mạng thân tâm, người đang tập sống đời sống tiến bộ đạo đức. Nói đến Phật tử tự nhiên cho mọi người cái ý niệm: Đó là người đang sống trong tỉnh thức, sống trong chánh niệm, không ngừng nỗ lực cải thiện đời sống, cải tiến thân tâm, đang dốc lòng xây dựng đời sống đạo hạnh, sống với lòng vị tha, mở toang cánh cửa tâm thức sâu thẳm mà đã từ bao năm khép kín, để nhìn ra chân trời bao la quang đãng tràn ngập ánh sáng giác ngộ giải thoát, hầu xây dựng hạnh phúc cho mình và quốc gia nhân loại. Danh từ Phật tử cao quý như vậy, nên khiến cho người bàng quan có khái niệm về người Phật tử là người sống hiền hòa vị tha, sống đời buông xả theo tiếng gọi của Phật Thích-Ca biết hy sinh tự ngã, đem tình thương và đạo từ bi, ánh sáng trí huệ trải khắp cho nhân thế.
Với ý nghĩa chơn thiện mỹ cao đẹp của danh từ Phật tử trải suốt mấy ngàn năm lịch sử không bị hoen ố. Vậy Phật tử chúng ta làm được phần nào cho tương xứng với danh từ Phật tử cao quý đó chưa? Danh từ Phật tử mang ý nghĩa thanh cao đạo đức thế đó, vậy mà có kẻ đã quy y tin Phật, khi đến chùa không thích người xưng hô mình là Phật tử, đạo hữu, mà lại chỉ thích người xưng hô bằng bác, cụ, giáo sư, bác sĩ, tiến sĩ, chủ tịch v.v… thật là phàm tâm phàm tục, bỏ gốc ham ngọn, lấy giả làm chơn! Như vậy thì làm sao dứt phiền não để được tâm Bồ-đề? Và làm sao có thể thể hiện tâm nguyện hành thiện mà đức Phật ước mong nơi người Phật tử? Nếu không thể hiện được tinh thần cao quý của người Phật tử thì chúng ta đã lần lữa tự tiếp tục dối lòng, và cũng dối Phật nữa. Ta phải gấp rút lập chí chân thành phát nguyện sống đời vị tha hành thiện ngay trong ngày xuân tết này. Bằng không, ta lại mãi tiếp tục dối lòng lạm xưng là tin Phật, là Phật tử. Người Phật tử điều căn bản trước nhất là giữ khẩu nghiệp cho thanh tịnh. Bằng không thì sẽ phun ra những lời thô ác rồi phải lãnh lấy quả báo không lường.
Xuân tết là thời gian kết thúc việc cũ, là khởi điểm cho hành trình mới, là dịp đón nhận thêm tuổi đời, và kiếp sống cũng theo đó rút ngắn. Là Phật tử, chúng ta đứng trước thực trạng đổi thay của kiếp nhân sinh, chứng kiến mình và tha nhân đi dần đến suy tàn kiếp sống, vạn vật sanh diệt diệt sanh, tươi héo héo tươi đổi thay bất tận, nhất là thêm một lần xuân tết lại rút ngắn đi mạng sống của ta, nên phải tự vấn lòng, tự kiểm điểm một năm qua ta đã có tiến bộ nào thêm trên lộ trình Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành” không? Nếu một năm qua ta đã không làm lợi ích gì cho chính bản thân, gia đình, xã hội, quốc gia, nhân loại trên đường thánh thiện lợi tha, phá ngã phá chấp, đó là ta đã lãng phí thì giờ, thờ ơ với lời Phật dạy. Tự xét, ta đã biết bao lần tụng lời Phật dạy, và cũng đã lắm lần nghe lời Phật khuyên “gạt bỏ phàm tâm, từ bi hỷ xả,” đồng thời cũng đã biết bao lần ta đọc lời phát nguyện vị tha xả kỷ hy sinh cho nhân loại của các Bồ-Tát. Có phải thế không thưa quý vị? Thế thì trong năm mới này ta lại cũng nhẫn tâm tiếp tục nguyên trạng sống tự dối nữa ư? Như thế thì ta quá tự phụ khả năng Phật tánh của ta lắm!? Và ta cũng xem thường lời Phật dạy nữa! Người Phật tử chơn chánh không thể nào sống đẩy đưa cho qua ngày tháng, đến chùa, tụng kinh mà ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, ham danh chức quyền lợi?
Tụng kinh, đọc sám là hàm ý nhắc nhở ta nhớ lời Phật dạy, noi gương theo chân Phật và Bồ-Tát, thực hành theo tâm nguyện của quý Ngài để trau dồi đạo hạnh và từ đó tâm Bồ-đề của ta ngày một thêm sáng tỏ. Vậy ta đã thực hành phần nào chưa? Nếu chưa được phần nào, thì ta đến chùa và ngày ngày tụng niệm làm chi cho phí thì giờ, mòn hư kinh sách! Nếu hằng ngày tụng kinh đọc sám mà ta vẫn là ta còn nguyên vẹn tham sân si ích kỷ bỏn sẻn kiêu căng chấp ngã, như thế việc tụng đọc kinh sám cùng với đời sống thực của ta chẳng liên hệ gì nhau cả. Cứ tâm nào tật nấy không phản tỉnh như thế thì rất khó mà kiến đạo, và còn lâu lắm, thật lâu lắm mới kết duyên Bồ-đề. Vậy thì tâm nguyện hướng về bến bờ giác ngộ hãy còn xa vời, và lộ trình giải thoát hãy còn mù khơi thăm thẳm! Như thế chiếc thuyền đời của ta còn bồng bềnh dịu vợi giữa biển cả trầm luân khổ lụy chưa có ngày cập bến giác ngộ giải thoát.
Tụng kinh niệm Phật tọa thiền là phương tiện trực tiếp nhắc nhở cho ta tu tâm sửa tánh hành thiện để tiến bộ trên quang lộ giác ngộ giải thoát. Chứ chẳng phải tụng kinh niệm Phật tọa thiền bằng hình thức suông mà được thành đạo chứng quả đâu! Xây cất chùa, lập Phật hội là tạo môi trường cơ duyên phương tiện để cho ta và bạn hữu hành xả học đạo tu tâm, chứ nào phải kết bè, lập phe, họp phái để tranh chấp quyền danh lợi dưỡng, để mong được người khen tặng, ăn trên ngồi trước. Mang tâm tranh chấp danh tướng chức quyền hơn thua lợi dưỡng để xây chùa làm Phật sự thì đó là tô bồi thêm tham si chấp ngã, chuốc lấy thêm hậu quả bất thiện, xây đắp dày sâu thêm vọng nghiệp, đó chỉ là tổ làm tổn thương Tam-Bảo, đạo pháp phân ly, tạo cơ hội tốt cho tà nhơn, ngoại đạo ma vương có dịp xâm nhập lũng đoạn chánh đạo chân truyền. Hạng người như thế phải chăng là quyến thuộc của ma vương lạm xưng là Phật tử? Cây cổ thụ đạo pháp cũng từ đó bi loang lổ lung lay nghiêng ngả. Bởi cái nhân hơn thua danh lợi, thì nhất định phải đưa đến cái quả tranh chấp tỵ hiềm phá hoại. Nhân quả như bóng theo hình, như gương chiếu ảnh. Người Phật tử nếu không sáng suốt phân minh nhận định như thế, thì vô tình biến mình làm băng cassette, máy tivi, làm thứ công cụ vô minh dẫn đường đi đến chỗ biến mình và bạn hữu thành quyến thuộc của ma vương lúc nào chẳng hay. Tránh sao khỏi đắc trọng tội lạm dụng xen tạp trong hàng Phật tử, làm hư hoại khả năng chân tâm Phật tánh của mình và tha nhân bị mình quyến rũ.
Hiện tượng đau lòng nầy thường xảy ra trong các sinh hoạt Phật giáo khiến cho dòng sanh mệnh đạo pháp nhiều lúc đau nhức. Điều nầy tưởng cũng nên báo động cho những ai có tâm thao thức về tiền đồ Phật đạo, mà cũng chính là tiền đồ hành đạo của mỗi tự thể cá nhân để biết mà cẩn trọng trong việc hành xử. Gặp khi đạo pháp gian truân, nguyên nhân chính, không ai khác, đó chẳng qua là sự lộng hành của một số người lạm xưng là Phật tử rồi tự tung tự tác cấu kết với ác đảng lập bè lũng đoạn trong các hoạt động Phật sự. Việc này bắt nguồn từ những con người tham danh hám lợi chấp ngã sân si, khinh thường đạo đức nhân quả, không chơn chánh hiểu Phật pháp, nên mới vào chùa lập phe chia phái hoặc làm tay sai cho ngoại đạo ác đảng hầu hám lợi mưu danh, ỷ thế xem thường tội lỗi, tâm thức thiếu vắng đức tin thiện ác nghiệp báo, không đủ tâm thành với Tam-Bảo, ý đồ dùng đạo tạo đời, hoặc chỉ vịn vào danh tước thế gian hiện tại hoặc còn lại cái vang bóng một thời, lợi dụng nắm giữ chức vụ điều hành trong ngôi Tam-Bảo, để rồi từ đó sanh tâm kiêu mạn quản lý luôn cả sư tăng, nên mới tham tâm chấp ngã bày ra đủ trò khuấy rối cửa thiền, hàng Phật tử phải ngửa nghiêng ngao ngán ưu tư thối tâm. Thầy thuận tình chiều theo ý mình thì cho thầy là tốt, thầy có tu. Một mai thầy không chịu nổi sức ép, không chiều theo ý mình, thì hủy báng thầy, cho thầy là bất chánh, thiếu đạo hạnh, rồi bịa đặt đủ điều thị phi chia phe chia nhóm, gây ồn náo cửa thiền vốn thanh tnịh bấy nay. Đây là hiện tượng ma quỷ lộng hành, tà nhơn thao túng lũng đoạn Phật pháp, người Phật tử chơn chánh phải ý thức sáng suốt mà hết mình hộ trì Tam-Bảo.
Trước cảnh huống đó, thầy phải ra đi. Kinh luật dạy rằng: “Xưa có vị Tỳ-kheo trẻ chê vị Tỳ-kheo già tụng kinh ồ ề như tiếng chó sủa. Vị Tỳ-kheo già biết được nên gọi đến khuyên. Vị Tỳ-kheo trẻ liền thành tâm sám hối nên khỏi tội đọa địa ngục, nhưng sau đó còn phải chịu năm trăm kiếp làm thân chó. Kiếp cuối cùng được ngài Xá-Lợi-Phất cứu cho.” Cổ-đức nói: “Ôi! Luận người ở đời búa để trong miệng, sở dĩ hại mình do lời nói ác.” Đâu có biết lời Phật dạy: “Cư sĩ tại gia là người thân cận ngôi Tam-Bảo nên lo hộ đạo.” Có nghĩa là đức Phật khuyên người cư sĩ nên khéo thu xếp việc gia đình để có thì giờ tạo dịp gần gũi ngôi Tam-Bảo vun bồi thiện duyên công quả hộ đạo tu học, đồng thời giúp phương tiện cho Tăng bảo hành đạo hoằng pháp lợi sanh, nên cư sĩ còn gọi là hộ pháp, chớ đâu phải hộ trì Tam-Bảo rồi ỷ có công, lạm quyền hành trong chốn chùa viện? Dù là tăng hay cư sĩ, hễ đã đem phàm tâm lòng tục phục vụ đạo pháp, thì đạo pháp cũng biến thành phi đạo pháp, tức là đạo pháp bị tục hóa chỉ còn là đạo danh lợi mà thôi. Ấy là đạo của ma vương, tà đạo chứ không phải đạo Phật nữa. Kẻ phàm tục lòng đầy ái dục vợ con danh lợi mà có tham vọng làm chủ quyền ngôi Tam-Bảo, dù là dưới hình thức nào, bằng danh nghĩa gì, thì đó là kẻ hình người tâm ma. Còn kẻ mang hình thức nhà tăng lợi dụng ngôi Tam-Bảo để tăng trưởng lợi dưỡng, thỏa mãn danh vọng cá nhân thì đó chính là ma quân trá hình làm tăng để trà trộn trong Phật pháp với ý đồ làm mất sự thanh tịnh của đạo pháp. Kẻ cạo tóc mặc áo làm tăng mà không y theo thứ lớp thọ giới, khinh thường giới pháp, vượt bực mang y pháp, xưng chức tước, thì đó không phải chơn thật tăng. Đạo pháp vì đây mà suy đội. Đạo pháp vốn là chơn lý cách mạng hướng người có đời sống chân chánh lành thiện tiến bộ. Nay tôi thành tâm khẩn thiết đem vạn triệu lòng thành van xin những ai đó đừng lợi dụng danh nghĩa “tiến bộ hợp thời” mà ngụy tạo cải cách sửa kinh đổi luật để hợp thức thỏa thích tà tâm tục hạnh dục tình lợi dưỡng hưởng thục của mình, thì đó là điều bất hạnh họa hại lớn lao cho đạo pháp lắm vậy!
Để khỏi phụ khả năng Phật tánh thánh thiện của mình, để khỏi bị quyền danh lợi dưỡng làm mờ mắt rồi rơi vào tà tâm ác hạnh, để khỏi đắc tội với bốn ơn nặng, để khỏi luống phí thời gian vô ích, thì ngay trong ngày xuân tết nầy, ngày đầu năm mới, Phật tử chúng ta dõng mãnh làm cử chỉ thanh-tịnh-tâm bằng cách đến trước Phật đài, thành khẩn phát nguyện từ đây quyết chí noi gương theo Phật, tin sâu khả năng Phật tánh của mình, mạnh dạn phát nguyện tinh tấn từ xả bỏ ích kỷ tham sân si, thực hành hạnh từ bi hỷ xả sống đời vị tha. Nguyện lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy hạnh Phật làm hạnh mình, lấy nguyện Phật làm nguyện mình. Nguyện bắt đầu từ xuân tết này trở đi, chuyên tâm trì giới thanh tnịh, dõng mãnh tinh tấn triệt để vâng lời Phật dạy sống đời đạo hạnh. Đồng thời phát nguyện dù sống bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn luôn nhớ Phật, nhớ lời Phật dạy, dốc lòng hành thiện. Nguyện đem công đức tạo được hồi hướng cho quê hương sớm thoát cảnh rách nát lạc hậu, cho dân tộc sớm thoát cảnh kềm kẹp áp bức đọa đày khốn khổ, để được sống tự do no ấm, và cho pháp giới chúng sanh sớm có ngày thanh tịnh hạnh phúc giác ngộ. Ấy là chúng ta trang nghiêm Tịnh độ mà cũng là tiến bộ thanh tịnh tự tâm. Được như thế mới là ý nghĩa đón mừng xuân tết của người Phật tử.
Tết là tượng trưng cho hy vọng mới mẻ tốt tươi, vui cười mãn nguyện cõi lòng, rộng mở chan hòa với nguồn sống của vạn vật, hài hòa với bản thể bao la của đất trời. Đức Di-Lặc ra đời trong ngày xuân tết mang nụ cười hỷ xả buông thả mở rộng cõi lòng, hòa điệu cùng nguồn sống vạn loại.
Phật tử chúng ta nên tập mở rộng lòng ra, nguyện tinh tấn sống đời vị tha, để chan hòa với nụ cười hỷ xả bất diệt của đức Di-Lặc. Cũng xin đặc biệt lưu tâm, muốn đạt được đời sống vị tha luôn luôn với nụ cười hỷ xả, với cõi lòng buông thả mở toang, chúng ta nên thành tâm thật ý quyết chí thực hành lời Phật dạy để tránh mắc cái bệnh tham sân chấp ngã, năng thuyết bất năng hành. Có thực hành mới đạt thành kết quả. Có chân tâm thành ý thực hành mới hy vọng thoát khỏi tình trạng chim vẹt nói tiếng người, kẻ đếm bạc cho ngân hàng, kẻ giữ bò cho chủ, thùng thiếc cũ rích to tiếng rỗng không, và mới mong có cơ hội thoát ra ba cõi nhà lửa. Ý thức như thế và làm được như thế, chúng ta mới chơn thật là Phật tử, mới thực sự đạt đến ý nghĩa sống và hưởng trọn mùa xuân Di-Lặc vạn hạnh như ý.
Người biết sống khiêm cung, giữ lòng ân nghĩa thì tâm an lý đắc,trọn hưởng mùa xuân hạnh phúc tràn ngập nơi lòng.
Ngày xuân nhớ thầy
(Ngày xuân kể chuyện ân sư để khuyến lệ tăng chúng)
Mỗi năm sau lễ giao thừa rước vía Di-Lặc các huynh đệ đến đảnh lễ mừng tuổi chúc tết thầy. Hình ảnh nầy khiến cho thầy bồi hồi nhớ lại dĩ vãng cách đây ba bốn mươi năm về trước, lúc đó thầy còn là một học tăng cũng như các huynh đệ ngày hôm nay.
Cứ vào sáng mùng một Tết, các huynh đệ của thầy y áo chỉnh tề cùng nhau dẫn đến đảnh lễ mừng tuổi các bậc sư-trưởng giáo thọ. Trong những bậc sư-trưởng phải thành thật mà nói, Hòa-Thượng Giám-Đốc Thích-Thiện-Hòa là bậc ân sư mà tư duy ngôn hạnh của Ngài đã khắc sâu vào tâm thức và đã âm thầm nhắc nhở thầy trong suốt mấy chục năm hành đạo cũng như đến ngày nay. Do đó, mỗi năm vào đầu xuân tết, tự nhiên lòng thầy cảm thấy nao nao nỗi niềm thương nhớ đến những bậc ân sư giáo dưỡng, mà đặc biệt là Hòa-Thượng Giám-Đốc Thích-Thiện-Hòa. Hình ảnh ngôn hạnh từ hòa của Ngài sống lại và sống mãi trong tâm thức của thầy như cuốn phim đang trình chiếu trên màn bạc. Hòa-Thượng từ giã cõi đời vào ngày mùng một tết, ngày vía đức Di-Lặc, kết thúc báo thân để thể nhập pháp thân thường trú của chư Phật.
Mà đặc biệt nhất vẫn còn nhớ rõ, vào một buổi sáng đầu xuân khí trời mát dịu của ngày mùng một tết năm 1955, thầy và các huynh đệ chúng thường trú của Phật-Học-Đường Nam-Việt chùa Ấn-Quang, y áo chỉnh tề cùng đến tịnh liêu Hòa-Thượng đảnh lễ mừng tuổi năm mới. Với đôi mắt trong sáng hiện trên gương mặt hiền hòa, Hòa-Thượng nhìn từng huynh đệ một đang cung kính quỳ chắp tay lắng thần đợi nghe lời khuyến lệ đầu xuân, rồi Ngài nhìn thẳng vào người thầy với một giọng từ hòa trong mát chậm rãi nói: Hôm nay các huynh đệ chúc mừng tuổi cũng là nhận thêm tuổi. Nhận thêm tuổi là nhận thêm bổn phận và trách nhiệm. Bổn phận người xuất gia là cố gắng y theo giới pháp tu trì, tạo cho mình một đạo lực kiên cố, kiến thức vững chắc, để đảm đang trách nhiệm hoằng pháp lợi sanh. Các huynh đệ nên nhớ lời Phật dạy: “Ngày tháng trôi qua mau như nước dốc, mạng sống theo đó giảm dần như cá cạn nước, cái chết gần kề. Ngũ dục thế gian hăm hở cuốn lôi, không khéo tinh tấn tu hành niệm Phật thì vô tình bỏ lỡi cơ hội thiện duyên Bồ-đề đạo quả giải thoát.” Thế sự dù có chuyển biến đổi thay thế nào đi nữa, các huynh đệ nghĩ mình đã có thiện duyên Phật pháp, sống tu trong Phật-Học-Viện đã bao năm rồi, vậy nên giữ vững đạo tâm xuất gia lúc ban đầu thì sẽ được an lành tiến bộ. Huynh đệ nên nhớ kỹ “Hổ ly sơn hổ bại, tăng ly chúng tăng tàn.”
Thường thì Hòa-Thượng rất ít nói, điều nầy như là một đặc tánh rõ rệt ở nơi Ngài. Ngài được thế nhân tăng cũng như tục kính ngưỡng có lẽ do hành nghi thân giáo nhiều hơn. Mọi lần chúc tết mừng tuổi, Ngài cũng ít nói. Nhưng đặc biệt xuân năm ấy, đầu xuân năm Ất Mùi 1955, sau ngày hiệp định Genève chia đôi đất nước mấy tháng, Ngài nói nhiều hơn mọi năm trước, khi tăng chúng đến chúc tết mừng tuổi. Lần nầy, Ngài khuyến lệ chúng tăng với giọng nói hết sức tha thiết cảm động như mẹ hiền khuyên nhủ các con trước tình cảnh gia đình đột biến, khiến cho lòng thầy lúc đó cảm xúc rung động, tự nhiên nước mắt thành dòng, hay chính tự cõi lòng trong trắng của thầy đã âm thầm ngấm sâu lòng kính mến bậc sư trưởng từ lâu mà nay bắt được nhịp cầu giao cảm giữa tình sư đệ?
Thiết tưởng các huynh đệ cũng nên biết, ngược dòng thời gian, tính đến đầu năm Ất Mùi 1955, trước đó mấy năm, thầy đã chánh thức được nhận vào làm chúng thường trú Ấn –Quang, thì vài năm sau đó xảy ra một biến động đau lòng cho cả dân tộc, ấy là đất nước bị chia đôi làm hai miền Nam Bắc vào mùa thu 1954. Tình thế lúc bấy giờ cực kỳ xáo trộn ảnh hưởng không ít đến chốn thiền môn vốn đã thanh tịnh từ lâu. Trước tình thế vô cùng biến động của đất nước làm cho các thanh niên tăng ni trong thời đó khó tránh khỏi phân vân về thời cuộc, mỗi người muốn tự chọn cho mình một cuộc sống để thích hợp với trào lưu xã hội đang thay đổi, nên một số tăng ni sinh xa rời Phật-Học-Viện để thi đua đi học chương trình thế pháp, nghề nghiệp thế gian. Họ nghĩ làm như vậy là để kịp thời với trào lưu biến chuyển, hợp thời tiến bộ. Một số các Phật-Học-Đường, Phật-Học-Viện cũng theo đó uyển chuyển sửa đổi chương trình giáo dục để đáp ứng nguyện vọng thầm kín của những tăng ni sinh còn đang trì chí an trú theo tu học trong các Phật-Học-Đường, Phật-Học-Viện.
Thật tình mà nói với các huynh đệ, trước tình thế cực kỳ giao động như vậy, nếu thầy không xúc động cảm thông sâu sắc tâm tư của Hòa-Thượng Giám-Đốc Thiện-Hòa qua lời khuyên nhủ trong lễ mừng tuổi tết năm đó và nếu không có lòng tin sâu sắc nơi bậc sư-trưởng, thì có lẽ thầy cũng đã bị cuốn hút theo trào lưu biến động lúc bấy giờ, và chẳng biết đã chìm nổi trôi dạt về đâu! Biết bao thanh niên tăng ni vì quá lo âu cho tương lai của mình, thiếu lòng tin tưởng sâu sắc nơi bậc sư trưởng hướng đạo, mà rời thầy xa chúng, xách gói ra đi theo trào lưu biến động của thời cuộc, để phải rơi vào cảnh “tăng ly chúng tăng tàn.”
Cũng tết năm đó, qua lời khuyên thống thiết của Hòa-Thượng Giám-Đốc Thiện-Hòa, thầy đã tâm nguyện chí ở lại Ấn-Quang, nhất định không rời Phật-Học-Viện cho dù tình thế có biến chuyển ra sao, để được thân gần cầu học với các bậc minh sư. Nhưng rồi chưa được mấy năm, tình thế đẩy đưa, thầy cùng bốn bạn đồng học được ban Giám Đốc cho chuyển đến Phật-Học-Viện Hải-Đức Nha-Trang để nhập cùng tăng chúng Phật-Học-Viện Báo-Quốc, Huế, cũng vừa mới dời vào chưa bao lâu trước đó. Ở đây tu học thời gian rồi thầy trở lại Ấn-Quang Sàigòn hoàn tất chương tú tài và cử nhân, đồng thời giúp giáo hội về giáo dục và hoằng pháp, rồi chung chịu pháp nạn 1963 và những biến động thời cuộc tiếp sau đó cho đến ngày xuất ngoại đi du học Đài-Loan.
Hôm nay nhân ngày đầu xuân Di-Lặc, thầy đặc biệt muốn nhắc đến bậc ân sư giáo dưỡng mà thầy hằng kính mến và lúc nào cũng lấy đó làm gương soi sáng, làm khuôn thước mẫu mực trên bước đường hành đạo. Các huynh đệ nên biết và nên ghi nhớ, người có tâm thành chánh tín thiết tha học đạo, nên tìm nương tựa bậc minh sư, chỉ cần hành nghi và lời khai thị của người là có thể soi sáng trọn con đường hành đạo của cả đời mình. Suốt gần mười bảy năm ở Phật-Học-Đường Nam-Việt chùa Ấn-Quang, thầy thân gần hầu học với các bậc minh sư mà trong đó đặc biệt là hành nghi pháp nhũ của Hòa-Thượng Giám-Đốc Thiện-Hòa đã thấm sâu vào tâm huyết và lúc nào cũng ảnh hiện suốt hành trình tu học của thầy, âm thầm thương nhớ đến nỗi có lúc tưởng chừng như Hòa-Thượng đang sống bên cạnh hằng ngày. Hòa-Thượng đã thật sự ảnh hưởng lớn đến cuộc đời hành đạo của thầy. Thật vậy, những lời chỉ dạy khuyên nhủ của Ngài cách đây đã ba bốn chục năm mà mãi đến ngày nay vẫn còn vang vọng trong tâm thức. Mỗi khi nghĩ đến bậc ân sư khả kính thì như ngọn đèn bừng sáng trong tim óc.
Chẳng hạn những ngày còn ở Ấn-Quang, mỗi năm đến sáng ngày 16 tháng tư âm lịch, đại chúng làm lễ kiết giới an cư, thầy đến quỳ trước Hòa-Thượng bạch lời tác pháp an-cư, Hòa Thượng hỏi: Y thùy trì luật giả? – Thầy đáp: Y Thiện-Hòa luật sư. – Hòa-Thượng khuyên: Hữu nghi đương vãng vấn! Những lời dạy đó, nó đơn giản mà trong lành mát dịu làm sao! Vô hình chung nó trở thành âm hưởng tàng sâu trong tâm thức của thầy như lời khuyên nhủ cảnh tỉnh không bao giờ dứt. Hoặc khi có việc buồn bực bất bình đến thố lộ bạch thưa, thì Hòa-Thượng dịu hiền lân mẫn khuyên: “Chút thôi! Cố gắng nhẫn thì tốt cả.” Tuy nay hình hài của Hòa-Thượng không còn trên trần thế, nhưng hành nghi pháp nhũ của Ngài vẫn mãi mãi âm vang sống động trong tâm thức của thầy. Trên đường phục vụ Phật pháp nhiều lúc gặp việc cực khó muốn buông bỏ, hay lúc chướng duyên ép ngặt mống khởi tâm dạ nản lòng, hoặc khi dòng tâm thức vọng động, chớm lên ý niệm dong ruổi bất định, thì ngay lúc đó, hình dung lời dạy hiền hòa thân thiết của Hòa-Thượng hiện lên rõ rệt trong tim óc, trong tâm tưởng như khuyên lơn sách tấn cổ lệ: “Tấn đạo nghiêm thân, dũng mãnh tinh tấn, bất khuất chướng duyên. Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhỉ.” Nhờ ghi nhớ những lời khuyến lệ như vậy mà mọi Phật sự dù thử thách khó khăn đến đâu, thầy cũng quyết kiên tâm trì chí, rồi cuối cùng cũng đạt thành sở nguyện.
Các huynh đệ nên nhớ, đời sống đạo hạnh càng cao, mang tâm nguyện vị tha bao la, thì đời sống vật chất danh vị lại càng đơn giản. Hòa-Thượng Thiện-Hòa đã thể hiện trọn vẹn đời sống đó. Ngài sống trọn một đời đơn giản chơn chất. Đơn giản từ phòng ở, ăn mặc cho đến hành vi ngôn từ. Tuy là Giám-Đốc Phật-Học-Đường Nam Viện, viện chủ chùa Ấn-Quag, đệ tử có đến số vạn thiên, đức độ trùm khắp cả miền Nam nước Việt, vậy mà hằng ngày y phục Ngài tự giặt lấy, thấy rác sân chùa Ngài cúi lượm, nhà tắm nhà vệ sinh của tăng chúng, Ngài cũng để tâm chỉnh đốn ngăn nắp, xén kiển trồng cây, không việc gì của chùa viện chúng tăng mà không có bàn tay cần mẫn của Hòa-Thượng săn sóc. Lúc nào cũng ngủ sau dậy trước tăng chúng. Suốt hơn mười mấy năm thân gần tu học, thầy chưa từng một lần nào thấy Hòa-Thượng nằm phi thời hay tỏ ra buồn chán, mặc dù trong chúng hoặc Phật sự hay thời cuộc lắm lúc cũng có chướng ngại rộn ràng. Đời Hòa-Thượng đã thể hiện trọn vẹn đức tánh nhẫn nhục khiêm cung hòa nhã bao dung lân mẫn khắp cả hoàn cảnh, thời gian và khắp cả mọi người mọi vật.
Nhớ lại ngày đầu tiên đến Ấn-Quang, người mà thầy gặp trước nhất là Hòa-Thượng. Đúng là nhân duyên hội ngộ thời, không hẹn mà gặp! Đó là ấn tượng hiền dịu khiến cho thầy an lòng tin tưởng đây đúng là nơi mình tu học, là bậc thầy mình nương tựa suốt đời. Nhớ thời đến Ấn-Quang, thầy còn là một chú sa-di ngây thơ mới vừa từ một ngôi chùa quê lên đô thành tránh sao khỏi ngơ ngác hồi hộp lo âu. Do vì nghe danh Phật-Học-Đường Nam-Việt chùa Ấn-Quang vang lừng trong giới Phật giáo, khiến cho lòng chú sa-di quê mùa chấp phác như thầy đây cũng phải khao khát ước vọng tìm đến để cầu tu học.
Các huynh đệ thử tưởng tượng, thân phận một chú sa-di quê mùa như Thầy lúc đó, ngày ngày làm ruộng vườn gánh nước tưới cây cho chùa ở miền quê, đời sống hết sức là thanh đạm giản đơn, sáng chiều lo việc chuông mõ kệ kinh tu hành, vui với chim cá đồng nội, thì làm sao có thể thực hiện chí nguyện đến Phật-Học-Đường Ấn-Quang chốn thủ đô Sàigòn để tu học. Lại nữa, trong lúc bên ngoài khói lửa chiến tranh Việt Minh đánh Pháp mỗi lúc mỗi lan tràn, bom đạn tiếp tục gieo rắc tang tóc đổ nát khắp làng mạc quê hương. Cảnh tang thương dẫy đầy trên khắp mọi nẻo đường đất nước. Phần thì Việt Minh ra lệnh đào đường phá cầu để cản trở lưu thông của địch, cổ võ san bằng các nhà xây bằng gạch đá, hô hào tiêu thổ kháng chiến thiêu đốt đình miếu chùa chiền với lý do để quân Pháp không chiếm lấy làm đồn lũy. Dân tình đói rách khốn khổ trăm bề. Đường giao thông đi lại thường bế tắc nguy hiểm. Mặc cho thế sự thăng trầm chuyển biến đổi thay, tình đời thời thế kéo lôi dụ dỗ, thầy vẫn kiên trì ý chí mong ước được đến Ấn-Quang. Do vậy, đêm đêm khi trong chùa tăng chúng đều yên giấc, Thầy một mình thành kính quỳ dưới Phật đài thiết tha nguyện cầu đất nước trở lại thanh bình, dân sinh an cư lạc nghiệp, và tâm nguyện đến Phật-Học-Đường Nam-Việt Ấn-Quang sớm được đạt thành. Bên trong chùa, Thầy quỳ trước Phật đài âm thầm cầu nguyện, bên ngoài bom đạn nổ vang đì đoành, khói lửa tung hoành thiêu hủy làng mạc, dân lành khóc than, cảnh tượng kinh hoàng chẳng khác tết Mậu Thân 1968 việt cộng bất ngờ tấn công đốt phá bắn giết chôn người tập thể, thật là ghê rợn hãi hùng, thật là tội nghiệp cho một dân tộc triền miên thống khổ!
Quả thật nhiệm mầu “Hữu cầu tất ứng,” “Nhất niệm thông tam giới,” con khóc mẹ nỡ lòng nào không cho bú. Xưa nay chư Phật Bồ-Tát chẳng phụ lòng người thành tâm chánh niệm.
Thế rồi ánh xuân dương của tâm nguyện xuất hiện ở chân trời, hy vọng duyên lành Phật độ đáp lời cầu nguyện của thầy. Đó là Ngài tọa chủ chùa Bửu-Tích đặc biệt năm ấy đến dự lễ kỵ tổ chùa Long Quang, ngôi chùa đầu tiên mà thầy phát tâm quy y Tam-Bảo trên bước đường xuất gia tầm sư học đạo. Gặp mặt Chư Sơn đông đảo, Ngài tọa chủ Bửu-Tích hào hứng đàm đạo và cho biết sẽ vào Sàigòn đến thăm chùa Ấn-Quang. Thế là tâm nguyện du phương tầm sư học đạo của thầy ấp ủ từ lâu nay đã bắt đầu chớm nở trong ánh sáng mùa xuân. Trong lúc làm thị giả cho bữa trai tăng cúng dường kỵ tổ Long-Quang, thầm lắng nghe được điều mình ước nguyện, không bỏ mất cơ hội ngàn vàng, liền nghĩ cách hôm sau tìm đến chùa Bửu-Tích, Thầy đã khẩn thiết trình bày tâm nguyện với Ngài tọa chủ cầu mong Ngài giúp đỡ dẫn đến Ấn-Quang trong dịp Ngài đi Sàigòn thăm đệ tử. Qua mấy lần gạn hỏi, Ngài Bửu-Tích trầm tư nhìn thầy một hồi rồi hoan hỷ nhận lời. Khi được Ngài nhận lời thì, ôi thôi! Nỗi vui mừng không xiết kể, tia hy vọng bừng lên sáng ngời trong cõi lòng thơ ngây chơn chất, lúc đó thầy tưởng chừng như được sống trong cảnh giới Cực-Lạc Tây-Phương. Bao nỗi ưu tư, những điều khó nhọc bấy lâu dồn dập như trút hết. Nỗi lòng mong đợi cơ duyên đến Phật Đường chùa Ấn-Quang ấp ủ trải bao tháng năm, nay chỉ một tiếng hoan hỷ nhận lời “ừ được” mà có thể cứu một đời người ra khỏi tâm tư vây khốn trầm luân. Một lời hiền dịu khuyên nhủ khuyến lệ có thể hóa giải nỗi u hoài thất chí, khai mở sinh lộ cho một kiếp người. Bởi thế, Phật khuyên hàng đệ tử nên dùng ái ngữ, dùng Tứ-nhiếp-pháp để chuyển hóa chúng sanh; nên dùng lợi hành để hành đạo, nên bao dung hỷ xả để hoa giác ngộ tươi nở, nên buông thả xả kỷ sống đời vị tha để bước lên tòa liên hoa giải thoát.
Tưởng cũng nên nhắc lại cái ngày đầu thầy đến Ấn-Quang với cõi lòng ngây thơ ngơ ngác đang đứng nhìn từng nóc chùa từng viên gạch, tò mò quan sát từ tường vách cho đến góc cạnh gác chuông, bực thềm, mỗi mỗi đều để tâm xem kỹ cảnh trí Phật-Học-Đường mà bao năm ôm lòng ngưỡng mộ, thì đang lúc ấy một nhà sư lớn tuổi độ chừng năm mươi trong dáng bộ nhẹ nhàng đĩnh đạc khoan thai vừa đi vừa cúi lượm từng cọng rác nhỏ, bước đến bên thầy với giọng nói thật là hiền: Huynh ở đâu đến? – Mô Phật, dạ bạch thầy con ở chùa Long-Quang Phan-Rí đến. – Huynh đến viếng thăm? – Mô Phật, dạ thưa không, con đến đây cầu xin được ở tu học. – Tốt! Huynh đứng xem chơi, tôi có chút việc phải đi. Thế rồi cho đến mấy hôm sau thầy mới biết đó là Hòa-Thượng Giám-Đốc. Ngài ăn mặc nâu sòng giản đon, cung cách rất là bình dị, nơi người Ngài tỏa ra phong độ hiền lành thân gần khác với trí tưởng tượng của thầy. Càng về sau trên đường hành đạo dài lâu, học sâu vào những pho kinh điển mới thấy đời sống của đức Phật thật là đơn giản nhất trên đời. Ngài chỉ có một bình bát với ba pháp y, ngày đi hoằng pháp đêm nghỉ dưới gốc cây, nhưng hàm tàng một bầu trời triết lý sống tự tại giải thoát siêu phàm, mà cho mãi đến gần ba ngàn năm sau, ngày hôm nay, chưa có một vĩ nhân nào sánh bằng. Rồi tìm đọc qua những lời khai thị, những bài kệ, sám văn của các bậc cổ đức tổ sư, càng đọc tụng càng suy gẫm càng thấm, thầy mới rõ lẽ cung cách hành nghi của Hòa-Thượng thể hiện ý nghĩa: “Không bỏ qua bất cứ một việc lành nhỏ. Vì lợi ích chúng sanh mà nhận xấu nhường tốt, nhận lấy khổ nhục hành đạo Bồ-Tát, cầu đạo Bồ-Đề.” Hòa-Thượng thường khuyên tăng chúng nên trưởng dưỡng thiện tâm vun bồi phước đức. Gánh nước bửa củi phục vụ tăng chúng chúng là phước đức thứ nhứt. Thường để tâm quét dọn chùa viện là tạo nhân duyên thuận tiện cho phước huệ phát sanh. Những lời trên đây quả thật là triết lý sống của người hành đạo Bồ-đề.
Tuy là chức vị Giám-Đốc, nhưng Hòa-Thượng chẳng mấy khi sai bảo một ai, gặp việc gì thì Ngài lặng lẽ tự làm lấy, trừ phi trong tăng chúng ai thấy vậy sẵn lòng đến xin giúp thì Ngài mới để cho làm. Ngài cũng chưa bao giờ hiện nét buồn chán hay la rầy lớn tiếng. Đối với người lớn bé trẻ già, Ngài lúc nào cũng biểu lộ thái độ hiền hòa bình đẳng khiêm cung. Ở nơi Ngài thể hiện đức tánh khiêm từ hòa nhã hỷ xả tiếp vật đãi nhơn. Những danh vị chức chưởng do hàng môn đồ xưng tụng hay Hội-Đồng Giáo-Hội tấn phong suy cử, đối với Ngài lúc nào cũng như lúc nào, vẫn trong trạng thái như như bất động sắc sắc không không chẳng mấy để ý bận lòng. Không vui không đắc, chẳng buồn khi thất. Đắc thất vô quan, biểu lộ tinh thần “nhậm vận thạnh suy vô bố úy, thạnh suy như lộ thảo đầu phô.”
Hòa-Thượng luôn luôn sống trong trạng thái thản nhiên thong dong tự tại. Người đời thường nói “nước rặc mới biết cỏ thúi, quốc loạn mới biết tôi trung, gặp việc mới biết đá vàng.” Trải qua bao cuộc biến động pháp nạn 1963-1966 và chiến tranh bom đạn tết Mậu-Thân 1968 thiêu hủy một phần chùa Ấn-Quang, Ngài vẫn an nhiên như người vô sự, chẳng tư lự lo âu hay ưu sầu than thở. Điều nầy chứng tỏ ở nơi Hòa-Thượng có một ý chí kiên cường, một định lực phi thường. Hòa-Thượng không lên tu núi, cũng chẳng nhập thất, mà vẫn thản nhiên trước mọi rộn ràng biến động, đúng như câu nói của cổ đức “bậc đại căn trí ở ẩn nơi đô thị,” thời thời khắc khắc “nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tránh chi đức.” Hòa-Thượng suốt một đời tận tụy với Phật pháp, tri túc lạc đạo, nghiêm trì giới luật, đem hết năng lực “kiến pháp tràng ư xứ xứ,” tạo trường sở phương tiện bồi dưỡng nhân tài chân tu thật học để hoằng truyền cháp pháp ngõ hầu “phá nghi võng ư trùng trùng, chấn hưng Phật pháp, tịnh hóa nhân gian.”
Hầu hết các bậc sư trưởng mà thầy được dịp thân gần học hỏi biết qua, phương pháp các Ngài giáo dưỡng tăng chúng đồ đệ thường thì khi cương khi nhu, nhưng đặc biệt Hòa-Thượng Thiện-Hòa luôn luôn dùng ái ngữ khuyên nhủ khích lệ môn đồ, chứ chẳng khi nào la rầy quở trách phê bình chê bai làm buồn lòng ai. Hạnh nhẫn nhục khiêm cung từ hòa của Ngài đã tỏa ra cảm hóa đại chúng. Nên bất cứ ai hễ đã một lần có duyên diện kiến đàm đạo viếng thăm Ngài thì đều cảm thấy nơi lòng mình khởi lên niềm kính mến. Bản hoài của Hòa-Thượng hiển lộ qua lời giảng khi dạy bộ luật Tứ-Phần, ngài nói: “Ước vọng tăng chúng mỗi người tạo cho mình học hạnh song toàn, hoặc học ít mà trì giới tu hnàh nghiêm chỉnh có đạo hạnh vẫn quý hơn là đa văn thất hạnh. Đa văn mà thất hạnh là điều bất hạnh cho Phật pháp.”
Nói đên đây, thầy còn nhớ năm nọ vào một ngày sau lễ rằm tháng bảy tự tứ, Hòa-Thượng dẫn thầy đi núi Thị-Vãi gần thị xã Bà-Rịa để xem đất trong chương trình kiến thiết Đại-Tòng-Lâm. Trưa hôm ấy, thầy trò ngồi dùng cơm trên tảng đá lớn dưới bóng mát tàng cây cổ thụ. Lúc ấy lòng thầy phơi phới liền gợi chuyện thưa với Hòa-Thượng nào là chuyện Đại-Tòng-Lâm tương lai, chuyện học hành thầy bạn; nào là chuyện các bậc tôn túc bạn đồng tu học với Hòa-Thương năm xưa bây giờ còn được những ai, chuyện người nầy viết văn hay, thầy kia thuyết pháp giỏi, vị nọ biện luận hùng hồn hấp dẫn v.v… Hòa-Thượng lặng thinh nhìn thầy, rồi Ngài chậm rãi từ hòa nhỏ nhẹ nói: “viết giỏi nói hay chẳng bằng tu hay. Tu chưa hay thì khó có ngày giác ngộ. Không giác ngộ thì vô vọng giải thoát!” Lời nói từ hòa nhỏ nhẹ êm dịu là đặc tánh của Hòa-Thượng. Và qua lời dạy giản gọn đó làm cho Thầy giựt mình suy nghĩ tự thẹn với lòng, thầm trách sao mà mình hiếu động quá!
Lời Hòa-Thượng thật đơn giản, nhưng hàm tàng ý nghĩa thâm sâu cho người thực tâm hành đạo. Các huynh đệ có thấy rõ điều đó không? Tầm sư tu học lấy đạo hạnh làm đầu. Phước huệ lưỡng toàn mới mong đạt thành chánh giác, giải thoát luân hồi sanh tử. Người tu học Phật mà dễ dãi với những tật xấu tánh hư của mình thì làm sao ba nghiệp thân miệng ý thanh tịnh được. Ba nghiệp không thanh tịnh thì mong gì ba rắn độc tham sân si rời khỏi mình. Nhà nho dạy: “Nhứt nhựt tam tỉnh ngộ thân.” Cổ đức dạy: “Thời thời thường phất thức, vật sử nhạ trần ai.” Hương-Hải thiền sư dạy đạo cho vua Lê-Dụ-Tôn: “Nghe lại điều mình thấy mỗi ngày, suy đi nghĩ lại kỹ càng hay, chớ tìm Phật tánh trong cơn mộng.”
Phương pháp tu của Hòa-Thượng Giám-Đốc Thích-Thiện-Hòa cũng thật là bình dị, có thể tóm tắt trong một câu: “Nhẫn nhục khiêm cung từ hòa. Nghiêm trì giới luật vị tha. Chuyên tâm trì niệm Di-Đà. Kiến lập đạo tràng bồi dưỡng tăng tài.” Thế nên tịnh liêu của Ngài ở đâu thì nơi đó có thiết trí tôn tượng đức Phật A-Di-Đà và Tòng-Lâm Học-Viện tăng chúng. Hòa-Thượng trọn đời không rời câu niệm Phật. Quả thật Ngài đã đạt đến tinh thần “Nhứt cú Di-Đà vô biệt niệm.” Ai đến hỏi đạo thì Ngài chỉ khuyên nên niệm Phật, nên ẩn nhẫn để được an vui.
Nhớ ngày thầy bái biệt Hòa-Thượng để lên đường xuất ngoại du học, Ngài ân cần nhắc nhủ: “Thầy Đức-Niệm nên luôn nhớ giới pháp, giữ ba nghiệp thanh tịnh, chuyên trì danh hiệu Phật trong tâm ở bất cứ mọi trường hợp.” Và sau nầy khi còn tu học ở Đài-Loan, Hòa-Thường thỉnh thoảng cũng gửi thư nhắc nhở: “Dù bận học hay trong bất cứ hoàn cảnh nào, mỗi đêm trước khi đi ngủ nhớ ngồi tĩnh tâm niệm chú Đại-Bi, Bát-Nhã, và Niệm Phật.” Ngày nay Hòa-Thượng không còn trên cõi đời, nhưng lời khuyên nhủ, đức độ công hạnh của Ngài vẫn rực sáng trong cõi lòng thầy và còn lại bóng cây cổ thụ che mát tăng tín đồ Việt-Nam. Đức độ đạo hạnh tâm nguyện của Ngài đã đào tạo nên những tăng nhân tài đức hiện đang hành đạo hoằng hóa khắp quốc nội và hải ngoại.
Người tu học Phật là người đi ngược dòng đời sanh tử, như thuyền đi ngược dòng thác lũ, phải liên tục nỗ lực ra sức chống chèo mới mong vượt thoát hiểm nguy để đến đích. Cũng vậy, ngày hôm nay các huynh đệ đã phát tâm xuất gia, lập chí xuất trần để làm bậc trượng phu thượng sĩ, lìa bỏ ngũ dục thế gian, tầm sư xuất gia học đạo, nguyện theo gót chân Phật sống đời đạo hạnh vị tha, để một ngày kia thành tựu đạo quật khởi tinh thần dõng mãnh phát đại nguyện: Thà bỏ thân mạng chứ không để giới thân tâm đạo suy tàn. Cẩn trọng giữ giới như giữ đôi mắt. Thường quán nội tâm để diệt trừ vọng niệm, giữ tâm hành đạo như người giữ cương ngựa đi vào chốn đô thị, như thủy thủ giữ lái tàu giữa biển cả bão tố. Luôn luôn tinh tấn để khắc phục chướng duyên, mạnh dạn hiên ngang tiến bước trên đường hành đạo như sư tử chúa đi vào rừng. Lấy tâm hạnh đức Phật và tinh thần hành đạo của các bậc tiền bối ân sư làm gương sáng để tự khích lệ tinh thần mà tiến thân. Phật dạy: “Trên đường hành đạo dù có gặp chướng duyên nguy khó vấp ngã lần thứ một trăm, thì cũng phải hăm hở mạnh dạn đứng lên tiến bước như lần đầu.” Mỗi đêm trước khi đi ngủ, nên tĩnh tọa kiểm điểm tâm niệm hành vi của mình một ngày qua, để từ đó thấy ra điều tốt xấu mà thúc liễm thân tâm, tiến tu đạo nghiệp. Nếu không như vậy, để ngày tháng trôi qua uổng một đời xuất gia vô ích. Như bậc thiền đức nói: “Trước mặt việc đi mãi, trên đầu già đến rồi,” phải nên “thời thời thường lau quét, chớ để bụi dính nhơ.”
Hôm nay, ngày đầu xuân Giáp-Tuất 1994, bên ngoài thế nhân rộn rực áo quần mới, quà mứt đầy, vui say chè chén. Trong thiền môn đời sống xuất gia thanh đạm, sư đệ tặng quà tết cho nhau bằng nén hương lòng Gìới Định Huệ. Để thực tế cho đời sống đạo, thầy kể chuyện Ngày Xuân Nhớ Ân Sư để làm quà tết cho các huynh đệ. Ước mong các huynh đệ có thể từ món quà tinh thần nầy mà khéo thưởng thức, rồi ra một ngày kia, các huynh đệ cũng sẽ trở thành những bậc thầy mô phạm cho các thế hệ mai sau.
Mùa Xuân đạo hạnh
Hôm nay nhân ngày xuân tết, Thầy có đôi lời nói về xuân đạo để trao gởi đến các huynh để làm quà xuân. Nói đến xuân đạo tất nhiên phải có xuân đời. Bởi thế gian tương đối đạo đời đôi ngả, do đó mới có mê ngộ, giả chơn, vui khổ. Như kinh Phật nói, do có chúng sanh khổ mà Bồ-Tát hành đạo Bồ-đề để cứu khổ chúng sanh.
Như các huynh đệ đều biết, xuân đời là xuân ngoại tại theo cảnh trần, người đời vui áo đẹp, trang sức thiệp xuân, tiệc tùng chúng tụng, lì xì, pháo nổ, vui cười hỷ hạ trong ba ngày tết. Đó là những người may mắn dư ăn, dư mặc, tiền bạc có thừa. Nhưng bên cạnh đó còn có biết bao người sống trong cảnh bất hạnh bịnh hoạn, nợ nần, con bất hiếu, suốt năm đầu tắt mặt tối ngược xuôi chạy lo miếng ăn, gia đình phân tán, sự nghiệp chẳng thành, thì xuân tết đến lại làm cho lòng họ thêm chua xót, tủi hờn về thân phận kiếp sống phù sinh. Nên thi nhân kín đáo thốt lên:
Hoa xuân không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in vết đau
Khác với xuân đời, xuân đạo không tạo cho riêng những người có được đời sống may mắn hưởng vui trong ngũ dục lạc hay xúc tác kẻ bất hạnh đau buồn trong cảnh bần cùng phân ly. Xuân đạo hạnh là xuân tâm an lý đắc tự tại trong cảnh thanh bần hay phú quý, an nhiên trước tình đời và vạn vật. Xuân đạo là xuân nội tại an nhiên, là tâm xuân, tâm không dính mắc theo hoàn cảnh thăng trầm thịnh suy tan hợp. Xuân đạo là xuân không nặng tình về hình thức chưng diện điểm trang bên ngoài, mà hoài bão thanh tịnh nội tại tâm linh bằng cuộc sống tỉnh thức tâm bình tự tại, nên không chướng ngại cảnh vật thời gian hợp tan suy thịnh.
Vậy làm thế nào để có tâm xuân, mùa xuân nồng hậu hương sắc đạo hạnh? – Kinh điển Phật giáo có khả năng tạo cho nhân loại có vườn hoa xuân đạo hạnh vĩ đại và trải dài khắp nhân gian, ngạt ngào hương xuân tươi mát muôn thời muôn nơi muôn thuở. Giáo lý đạo Phật có thừa năng lực tạo cho những ai thức thời biết tìm lẽ sống bước vào vườn hoa đạo hạnh vô biên đó để hái hoa xuân, thưởng thức hương xuân và sống chơn thường an lạc trong thanh khí trời xuân.
Trong vườn hoa đạo hạnh có những đóa hoa tươi mát ngạt ngào hương sắc như hoa Bát-chánh-đạo, Tứ-diệu-đế, Thập-nhị-nhân-duyên, Lục-độ, Tứ-nhiếp-pháp, Ba-mươi-bảy-phẩm-trợ-đạo, Ngũ-giới, Thập-thiện v.v… đấy là những đóa hoa xuân thiên nhiên vĩ đại trải rộng dài tươi mát ngào ngạt hương sắc khắp cả trần gian. Bất cứ ai, không luận già trẻ gái trai sang hèn giàu nghèo, hễ biết cầm lấy một trong những đóa hoa đạo hạnh kia ấp ủ vào lòng tha thiết thương yêu gìn giữ nó, thì tức khắc thân tâm an lành thanh thoát, thưởng thức hương sắc hoa xuân thơm mát như nước cam lồ, bao nhiêu phiền muộn liền đó tiêu trừ, cảm nghe tự đáy lòng từ lâu hoang dại buốt giá được sưởi ấm, thầm nở nụ cười xuân của Bồ-Tát Di-Lặc. Chỉ cần biết cầm lấy một trong những đóa hoa xuân đạo kia ấn sâu vào lòng, thận trọng giữ gìn thì tự nhiên tâm an lý đắc trần ngập trời xuân, nhìn khắp mười phương đất trời đều thấy hoa tươi bướm lượn, vạn vật hòa điệu cùng tâm linh, sinh động vui cười không còn có sự ngăn cách giữa người và mình, vạn vật và ta. Cổ đức nói:
Tâm xuân vũ trụ đều xuân
Tâm bình thế giới đâu đâu cũng bình
Ngày xưa tôn-giả Tu-Bồ-Đề hỏi Phật làm thế nào được tâm an lý đắc để có mùa xuân bất diệt? Đức Phật trả lời: “Nên an tâm vô sở trụ.” Tu-Bồ-Đề vâng theo lời Phật dạy, vận dụng trí huệ để tâm nơi vô-sở-trụ, nhờ đó mà rũ sạch hết phiền não trần cấu, tâm trí khai thông, liền được trời xuân tràn ngập nơi lòng, suốt thông thật tướng các pháp, thể nhập chân lý vạn hữu. Bất cứ ai trong chúng ta chứ chẳng riêng gì tôn giả Tu-Bồ-Đề, hễ một khi bước vào vườn hoa đạo hạnh, nhặt lấy một trong những cành hoa kia ấn sâu vào lòng ấp ủ với tâm quý mến giữ gìn, thì ngay đó sống trong trời xuân Vạn-Hạnh. Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên, Ca-Chiên-Diên, A-Nậu-Lâu-Đà, La-Hầu-La, v.v.. vô số các tôn giả cho đến kỳ nữ Liên-Hoa-Sắc, chàng gánh phân Ưu-Ba-Ly biết nghe lời Phật khuyên, nhặt lấy hoa đạo kia ấn sâu vào lòng với tâm yêu quí giữ gìn nó một cách cẩn thận thiết tha mà các vị đó đã trọn hưởng trời xuân bất tận, thoát kiếp trần lao phiền não đọa đày.
Thậm chí đến những kẻ vui thích chinh chiến binh đạo, hăng máu với chiến trận, tự lấy làm vinh dự bằng xương trắng máu đào chồng chất núi sông như vua A-Dục, kẻ vô minh gây tội ác sát hại cha mẹ như A-Xà-Thế, phá hại Phật như Đề-Bà-Đạt-Đa, cuồng tín ngoại đạo như chàng Vô-Não v.v… Nhưng khi biết nhận lấy cành hoa đạo với trọn cõi lòng yêu thích giữ gìn thì ngay đó được thưởng thức trời xuân hương hoa ngào ngạt, hương sắc hoa đạo đã trang sức thân tâm, họ đã trở thành những người lành vang danh trong thiên hạ và tận hưởng mùa xuân đạo hạnh chơn thường miên viễn. Trong sách sử nhân loại còn ghi đậm nét, biết bao người khốn cùng quẫn bách muốn quyên sinh, biết bao kẻ toan trầm mình theo dòng nước vì thất chí lỡ vận, biết bao gã si tình hoặc tự thấy mình thông minh bác học sống đời ngông cuồng kiêu căng mục hạ vô nhơn bất cần đời, nhưng một khi biết nhặt lấy hoa đạo ấn sâu vào lòng với tâm yêu quí thích thương gìn giữ cẩn thận, thì liền đó có được mùa xuân hạnh phúc miên trường, thân tâm thấm nhuần hương sắc trang nghiêm, đời trở nên an lạc tươi sáng thánh thiện.
Các huynh đệ cũng nên ghi nhớ rằng, khi hoa đạo đã cầm trên tay, ngay đó ấn sâu vào lòng, cẩn thận giữ gìn trong trạng thái luôn luôn minh mẫn tỉnh thức sống với hoa, săn sóc hoa để hương sắc hoa trang sức thân tâm mình được thanh tịnh thơm mát như hoa. Tuy nhiên, phải ý thức rằng, tay đang cầm hoa mà thực không thấy có cầm, cũng không có hoa nào để mình cầm, “nhứt thiết giai không, tâm vô trụ trước,” tâm tỉnh thức trực đạt cảnh giới không, được như thế mới thực sự đang sống trong lòng mùa xuân đạo hạnh muôn thuở.
Ngài Quán-Tự-Tại nhờ thâm nhập quán chiếu ngũ uẩn “đều không” mà vượt thoát ngòai vòng khổ ách. Từ ý nghĩa này, các huynh đệ nên ý thức, hễ tâm còn chấp trước là còn dính mắc. Tâm còn gút mắc là còn rắc rối, còn nhân ngã thị phi bỉ thử. Hễ còn nhân ngã thị phi bỉ thử thì còn hơn thua đắc thất, liền đó nẩy sanh phiền não khổ lụy buộc ràng, khó thoát khỏi sanh tử luân hồi. Thế nên, tâm đơn giản thì sự việc giản đơn, không gợn chút phiền não nẩy sanh. Tâm hỷ xả buông thả thì lòng mở rộng thong dong không biên giới, thanh thản mặc sức hưởng xuân đạo hạnh. Nếu tâm không như thế thì cho dù chức vị trong đạo hay ngoài đời có cao đến đâu, giàu sang phú quí đến mấy, hay chùa to Phật lớn đi nữa, mà chấp trước đắc thất hơn thua thì khó mà được giải thoát với phước đức vô lậu, tất nhiên bị phàm tâm chế ngự, để rồi phải đọa lạc sanh tử luân hồi trong ba đường ác.
Xưa có vị thiền sư uyên bác, giảng kinh thuyết pháp làu thông, tiếng khen lan truyền bốn phương, thiên hạ xa gần ngưỡng mộ, đồ đệ đông đảo, chùa viện huy hoàng. Ngày ngày thiền sư ngoài giờ tham thiền giảng kinh ra, Ngài an nhàn thả bộ thiền hành trong vườn, ngắm cây kiểng trúc tùng mai bách, hòn non bộ xinh xắn trong hồ Quan-Âm nước chảy róc rách, thanh thoát thiền vị biết bao! Trước phong thái thong dong trong cảnh thanh nhàn thiền vị đó, đã có số đệ tử Ngài ca tụng thần thánh hóa khiến cho một ít thập phương Phật tử tin theo nức lòng ngưỡng mộ nghĩ rằng thiền-sư đã chứng đạo hoặc Bồ-Tát hóa thân độ đời. Nhất là thiền-sư lúc nào cũng giảng nói khuyên người dùng trí huệ buông xả, chê việc niệm Phật là còn chấp,xem nhẹ người tụng kinh bái sám là thấp kém hạ căn. Mà chính thiền-sư cũng tỏ ra thanh cao buông xả thật. Nhưng tự đáy lòng thâm sâu của thiền-sư lại đặc biệt thương mến bụi mía do chính tay mình trồng, nên ngày nào mía cũng được chính thiền sư săn sóc nước phân vui xới cẩn thận. Càng săn sóc, mía càng xanh tốt mập cao. Thiền sư vui thích bụi mía, ngày ngày ngắm nghía vuốt ve, đôi lúc còn đắc ý khoe với bổn đạo đệ tử. Thế rồi vào một chiều, thiền sư cảm thấy thân thể bất an, trong người khó chịu, không còn ra vườn như thường nhật. Nằm trên giường bệnh, mà thiền sư không quên nhắc nhở đệ tử nên nhớ chăm sóc bụi mía thương thích kia. Vài ngày sau đó, trước khi trút hơi thở cuối cùng, thiền sư vẫn còn cố gắng căn dặn đệ tử nhớ chăm sóc bụi mía. Do lòng thương mến bụi mía, mía đã bao tháng ngày quen tay quen mắt săn sóc của thầy. Vừa trút hơi thở cuối cùng, cận tử nghiệp đã đẩy thần thức thiền sư vào đường súc sanh làm kiếp con sâu trong bụi mía.
Nhớ lại ngày thơ ấu khi Thầy còn làm chú điệu ở trong ngôi chùa cổ. Có một hôm Bổn-Sư của Thầy đang giảng dạy về Qui-Sơn Cảnh-Sách cho học chúng. Người giảng đến câu “nghiệp quả sở khiên thành nan đào tị.” Có nghĩa là một khi nghiệp quả kéo lôi thì thật khó mà trốn thoát. Trong lúc Bổn-Sư của Thầy đang giảng giải về ý nghĩa chữ nghiệp, bỗng đâu trên đầu cột mái chùa có chú cắc kè kêu lên mấy tiếng khô khan như than thở. Bổn-Sư nhân đó nói: “Xây cất chùa mà chấp trước vào đó để tự hào tự đắc mình có chùa to Phật lớn, rồi tự mãn sanh tâm ngã mạn, khi chết, do lòng tiếc nuối có thể bị cận tử nghiệp dẫn dắt vào đường súc sanh làm con cắc kè.” Các huynh đệ đã từng nghe chuyện vua Lương-Võ-Đế hỏi Đạt-Ma thiền tổ về việc nhà vua làm hơn ngàn cảnh chùa, đã cúng dường nuôi dưỡng hơn ba ngàn tăng ni, việc làm đó có công đức ít nhiều gì không, thì Đạt-Ma thiền tổ trả lời: Không! Và liền đó, Đạt-Ma lặng lẽ rời xa hoàng cung, từ tạ sự cúng dường cung phụng của nhà vua để vào núi ở ẩn tu.
Các huynh đệ cũng nên biết, tất cả sự việc ở đời hữu hình tất hũu hoại, hữu tâm chấp trước tất hữu chướng ngại trên bước đường tu hành đạt đạo giác ngộ giải thoát, như kinh Kim-Cang Phật nói: “Nếu lấy hình sắc để thấy ta, dùng âm thinh để cầu ta, người đó tu tà đạo, không thể nào thấy được Như-Lai.” (Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thinh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như-Lai.)
Người tu học Phật phải luôn luôn ý thức tất cả sự việc thế gian đều là mộng huyễn giả tạm, chúng ta làm tất cả Phật sự đều phương tiện nhằm để hoằng truyền chánh pháp lợi ích chúng sanh. Không nên chấp vào đó thấy có không, còn mất, đắc thất, hơn thua, mà sanh tâm vui buồn tự cao hay mặc cảm. Kinh Bát-Nhã Phật nói: “Pháp thượng hữu xả hà huống chi pháp.” Nghĩa là, Pháp Phật còn buông xả huống nữa là phi pháp. Bởi vì một khi chứng ngộ rồi thì đâu còn cần kinh điển, cũng như kẻ đã qua sông rồi thì đâu cần ngồi thuyền? Nên biết thế gian vạn vật hình danh sắc tướng cho đến chính thân con người cũng đều do duyên sanh, hư vọng sanh diệt. Như kinh Thủ-Lăng-Nghiêm đức Phật xác định về bản chất vạn pháp: “Nhân duyên hòa hợp hư vọng hữu sanh. Nhân duyên biệt ly hư vọng hữu diệt.” Nghĩa là sự vật trên đời nầy do nhân duyên hòa hợp mà sanh thành với bản chất tạm bợ hư vọng không thật. Một khi nhân duyên không còn hòa hợp nữa thì sự vật tan hoạt theo hư vọng. Đến như cái thân của ta đây, mạng sống của ta đây còn không giữ được thì cái gì ở ngoài thân ta như tiền bạc nhà cửa danh vọng làm sao có thể tồn tại được! Xưa nay đều như thế và mãi mãi về sau cũng như thế.
Các huynh đệ nên nhận định rõ ý nghĩa nầy, ghi tâm khắc cốt để thời thời khắc khắc cảnh tỉnh mình, quán chiếu nội tâm sống trong tỉnh thức, đừng để danh sắc thị phi lung lạc mê hoặc cuốn lôi. Việc gì qua rồi thì đừng ngồi suy nghĩ luyến tiếc. Đừng chấp vào lời nói khó nghe, cử chỉ khó coi của người để khỏi phiền não bận tâm. Ngày trước các huynh đệ phát tâm xuất gia học đạo bằng cõi lòng trong sáng nhiệt tâm như thế nào, thì ngày nay và cho mãi đến suốt đời phải nên sống trọn với sơ tâm xuất gia tinh thuần trong sáng ấy và gìn giữ cẩn thận nó để hành đạo. Đừng để tinh thần lúc sơ tâm xuất gia phai mờ thối thất thì đường tu Phật sẽ khó đạt thành. Được như vậy thì ngày kiến tánh thấy Phật không xa. Do đó mà cổ đức nói: “Sơ tâm xuất gia, thành đạo hữu dư” là ý nghĩa nầy đây.
Người tu học Phật xa lìa ngũ dục thế gian, nhất là người xuất gia đã quyết cắt ái từ thân, nguyện hiến dâng trọn đời mình cho Phật pháp, trên cầu giác ngộ giải thoát, dưới nguyện hóa độ chúng sanh, hiện đời hành đạo bồ đề, lai thế làm bậc đạo sư nhân thiên. Nếu không sống với ý nghĩa nầy, không có ý chí như vậy, thì không còn ý nghĩa tu học Phật. Nhất là không có tinh thần buông xả vị tha, tâm không dẹp bỏ nhân ngã bỉ thử nghi kỵ thị phi tham sân chấp ngã, không biết để danh dự tăng đoàn, sự hưng thịnh đạo pháp trên danh dự của cá nhân mình, thiếu nghiêm túc hành trì giới pháp mà mặc áo xuất gia ăn cơm bá tánh đàn na không biết tàm quý thì đó là lạm xưng tăng già Thích-tử thật khó mà tránh khỏi rơi vào ba đường dữ.
Ngày hôm nay các huynh đệ còn ngồi trên ghế Phật-Học-Viện chuyên tâm tu học, lòng dạ tinh thuần thiết tha với đạo như thế nào, ngày mai kia khi ra hành đạo, Thầy ước mong các huynh đệ cũng nên giữ lòng trong sạch tinh thuần như thế, luôn luôn sống theo giáo lý đã học, thận trọng ngôn hạnh trong khắp mọi thời mọi nơi, được như thế thì mới không rời vào vòng danh sắc tham chấp nhân ngã thị phi. Tâm tâm niệm niệm luôn nghĩ nhớ lời Phật dạy: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như-Lai.” Nghĩa là, nếu còn chấp vào hình danh sắc tướng thì còn mắc vào nhân ngã, khó thoát ra ngoài lưới thị phi bỉ thử, để rồi từ đó phải bị chìm vào trong tình thức phân biệt phàm phu đời đời không thấy Phật. Dù có chức vị cao, chùa viện lớn, bổn đạo đông đến mấy đi nữa, những thứ đó không thực tế giúp ta thoát vòng luân hồi nghiệp báo. Như Ngộ-Đạt Quốc-Sư hơn mười kiếp tinh tấn tu hành lừng danh thiên hạ, làm thầy của vua chỉ vì một niệm mống tâm thích ghế trầm hương của vua ban thưởng mà phải rơi vào vòng quả báo!
Các huynh đệ phải luôn luôn tự cảnh giác để giữ lòng trong sáng suốt trọn đời tu mới có thể thăng hoa đạt đạo. Nếu chỉ muốn sống đời dễ dãi tà tà la cà nơi nầy nơi khác cho qua ngày hết tháng, thích trò chuyện luận bàn ói cười vui với những chuyện thị phi vô nghĩa thì khó tránh khỏi sa ngã vào vũng bùn danh lợi hơn thua, chẳng những đường đạo không được gì, mà đường đời phạm phải lỗi bất hiếu, thiếu bổn phận làm người, và như vậy vô tình nợ của đàn na tín thí mà ngày ngày mình thọ dụng. Tâm không biết kiêng nể nhân quả nghiệp báo thì sẽ đưa đến hành động gây rối tăng đoàn, họa hại Phật pháp, để rồi khó tránh khỏi phạm những tội ngũ nghịch! Nhân cách không thành thì đạo cách khó đạt. Phải quyết dẹp trừ tâm niệm địa phương, bè phái, tự ái, cá nhân. Biết sống theo pháp lục hòa, đặt đại nghĩa đạo pháp và chúng sanh lên trước để phụng sự, dù phải hy sinh. Luôn luôn phát triển tâm khiêm cung nhẫn nhục thượng kính hạ nhường, chớ nên vượt bực tôn ty. Tuyệt đối y theo giới pháp hành đạo. Như thế mới thoát vòng “kim sanh bất liễu đạo, phi mao đới giác hoàn.” Nghĩa là đời nay không chánh tâm thực hành đúng theo lời Phật dạy, không cố gắng tu tập để thâm nhập Phật pháp, thì sẽ rơi vào loài thú mang lông đội sừng để hoàn trả nợ áo cơm tín thí và ân đức sanh dưỡng của mẹ cha.
Mỗi thời công phu khuya trước Phật đài, các huynh đệ đều thành tâm nguyện “tương thử thân tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân.” Trong khi tán thán công đức Phật, các huynh đệ nguyện quyết chí tu hành đạt đến “Tam môn thanh tịnh tuyệt phi ngu,” đó là những lời phát nguyện thành khẩn tha thiết của người tu học Phật xuất trần thượng sĩ. Chân chánh tu học theo Phật, không phải chỉ đọc tụng làu thông kinh sách là đủ, mà còn phải thực hành ý nghĩa kinh luật. Tụng kinh, thuyết pháp, giảng đạo, viết sách không phải chỉ để cho người nghe và lấy đó làm đắc ý với những lời khen tặng, mà trước nhất là tu tâm sửa tánh bồi đức cho mình, rồi sau hồi hướng pháp giới chúng sanh đều được an lành lợi lạc. Tức là trước phải tự giảng cho mình, thuyết cho mình, viết cho mình. Nói cách khác, nghĩa là phải tự hỏi, tự cảnh giác mình đã thực sống với những điều mình đã tụng, giảng, nói, viết đó chưa? Nếu chỉ lo nặn tim bóp óc viết triết lý cao siêu, giảng nói thao thao văn chương lưu loát mà tâm ý chưa xả nhơn ngã thị phi, đời sống thường nhật phi đạo hạnh thì hóa ra đã trở thành kẻ chăn cừu cho chủ, người đếm bạc ngân hàng, máy phát thanh chẳng khác. Thế nên, mình phải thành tâm thiện chí thật hành những gì mình hiểu rồi sau đó mới truyền dạy cho người. Đức Phật và các đệ tử chứng thánh của Ngài đã thể hiện trọn vẹn ý nghĩa kinh điển qua hành vi cử chỉ tâm niệm hàng ngày. Vì vậy, cổ đức nói: “Đạo nơi đời sống thường nhựt chớ chẳng tìm đâu xa.” Nghĩa là thời thời phải biết ý thức hành vi biến chuyển của mình để thường hằng thúc liễm thân tâm, lấy từ bi trí huệ, hỷ xả soi sáng cho đời sống thực tại, đó là đạo.
Nhân đây Thầy tưởng cũng nên nhắc thêm: Nếu ngày kia các con hành đạo thâm niên được tấn phong thượng-tọa, hòa-thượng cũng chớ mống tâm vui mừng, và khi người ta không xưng gọi mình bằng những danh từ đó thì cũng đừng buồn chấp. Tu Phật đặc biệt quan trọng là xả danh tướng. Danh tướng không xả thì ba đường ác khó thoát qua. Mà kinh nghiệm cho thấy, người xuất gia tu học Phật đẹp nhất, gần gũi nhất, thân tình nhất và bình dị nhất là xưng gọi Thầy. Danh từ Thầy nó mang đầy chất liệu hiền hòa lân mẫn thân thiết làm sao! Hoặc chẳng may ngày kia nếu nghiệp trần chướng duyên còn nặng không đủ duyên phước tiếp tục sống đời xuất gia thì đường đường chân chánh cầu xin xả giới hoàn tục làm cư sĩ nhiệt tâm thành ý hộ đạo, đem lòng kính trọng chư tăng chân tu hoằng pháp, làm tròn bổn phận của người cư sĩ chơn thuần cũng rất quý, chớ nên để người gọi mình là thầy nữa sẽ bị tổn phước. Ngày nào thuận duyên trở lại xuất gia thì nên bắt đầu từ sa-di trở đi, không nên vượt bực mà tổn phước. Mắc vào hình danh sắc tướng chẳng những tự mình tổn phước đức mà còn tạo sự sứt mẻ thứ tự giới luật, phiền phức tăng đoàn, thế nhân dị nghị.
Đệ tử Phật có hai hạng xuất gia và tại gia. Xuất gia thuộc Tăng-bảo một trong ba ngôi Tam-Bảo, ngày đêm chuyên tâm tu tập, hoằng pháp lợi sanh, sống đời thanh tịnh bằng sự nghiêm chỉnh thọ trì giới pháp. Còn hàng tại gia thì có bổn phận hộ đạo hộ pháp. Có những người đã hoàn tục mà còn muốn người gọi mình là thầy, được kính trọng như Tăng-bảo thì tổn phước biết chừng nào. Các huynh đệ nên tỉnh thức phải hết sức tỉnh táo nhận định rõ biết mình đang ở cương vị nào và đem hết lòng làm xứng đáng vào cương vị đó, ấy là thiện-tri-thức.
Tóm lại, đạo ngay trong đời sống tâm niệm hành vi. Tùy hỉ công đức, nhường trước cho người, phước bất khả hưởng tận, nhẫn nhục khiêm cung, tận trung, tận hiếu, tận tâm sửa tánh là đạo. Đặc biệt chớ nên nhìn vào lỗi người mà phải hồi quang phản chiếu quán sát tìm lỗi nơi mình. Kinh Pháp Cú, đức Phật nói: “Thấy lỗi người thì dễ, thấy lỗi mình mới khó.” Thích phanh phui chỉ trích lỗi người, còn lỗi mình thì cố che dấu như kẻ cờ gian bạc lận dấu quân bài, như người cố dấu thói hư tật xấu sợ người ngoài biết. Đây là bịnh chung của kẻ tâm đầy phàm tục. Người tu học Phật không nên mắc phải. Người quân tử không muốn nghe thấy lỗi người. Kẻ tiểu nhơn ưa thích cố tìm thấy lỗi người. Phật tử thì phải biết chính mình thật rõ, chỉ muốn thấy nghe điều tốt của người để tự gạn bỏ tà quấy, xây dựng chánh niệm chánh hạnh. Nhất là người xuất gia, điều trọng yếu là y theo giới pháp hành trì, biết tôn ty khiêm cung, tập đời sống vị tha, buông thả, sống vô tâm. Vô tâm thì đạo có cơ đạt thành. Kinh Pháp-Bảo-Đàn, Lục-Tổ Huệ-Năng có lời khuyên chúng ta rằng:
Nhược chân tu đạo nhơn
Bất kiến thế gian quá
Nghĩa là:
Nếu người tu chân chánh
Chớ thấy lỗi thế gian
Năm mới, Thầy có đôi lời thân thiết trao gời đến các huynh đệ làm quà xuân. Hy vọng từ những lời chân tình mộc mạc nầy, các huynh đệ có thể ít nhiều xây dựng cho mình mùa xuân thường tại nơi lòng, để được mãi mãi sống trong mùa xuân đạo hạnh.
Biết trách mình thì được tiến bộ, thanh tịnh, an lạc.
Còn trách người là còn khơi nguồn buồn phiền, xa cách, tâm không an bình.