Đại sư thứ 61: Bhiksanapa – Lưỡng xỉ đạo nhân

Con đường trơn trợt 
mà ngài đã đi qua 
khó một ai theo được
Sự giác ngộ ấy không có gì sánh bằng 
Vì phàm phu không thể nào hiểu được 
Nhà Du-già tối thượng 
có quyền năng cân bằng hoàn hảo 
Đạt tới chân nghĩa 
nhờ lời dạy của Bổn sư

Truyền thuyết

Bhiksanapa là một người hành khất ở vùng Pataliputra. Ngày nọ, sau một buổi sáng đi lang thang khắp nơi trong thành nhưng chẳng có ai ban cho một chút thức ăn nào, Bhiksanapa cảm thấy đói và mệt liền ngồi nghỉ ở bên vệ đường. Chợt một vị Thánh nữ (Dakini) xuất hiện trước mặt ông ta.

Vị Thánh nữ ân cần thăm hỏi vì cớ sao Bhiksanapa buồn rầu như thế. Bhiksanapa liền kể với Thánh nữ về nỗi khổ của mình.

Bà nói: “Ta có một cách giúp ngươi thành tựu ước nguyện.”

“Vâng, xin bà chỉ bày cho tôi.”

“Nhưng ngươi có gì để dâng tặng ta chăng?”

Bhiksanapa nghe hỏi vậy liền dùng tay, lấy hết sức bình sinh nhổ một cái răng trên và một cái răng dưới dâng cho vị Thánh nữ.

Biết rằng đã gặp được bậc pháp khí, vị Thánh nữ liền làm phép khai tâm và truyền pháp cho Bhiksanapa.

Sau đó, ngày ngày đi khất thực để độ thân, Bhiksanapa tinh cần tu tập thiền định trong 7 năm thì chứng đắc thần thông Đại thủ ấn.

Đại sư thứ 62: Dhilipa – Con người hưởng lạc

Khi ta nhận ra 
bản chất nguyên thủy là Phật, 
Phật trở thành bản chất của tất cả thực thể
Nhờ năng lực của Tuyệt đối bẩm sinh 
Ta nhập vào Kim cương định

Truyền thuyết

Tại Satapuri có một người bán dầu tên gọi là Dhilipa. Công việc kinh doanh này đem lại cho ông ta một số lợi nhuận rất lớn, vì vậy ông ta trở nên một trong những người giàu có nhất trong vùng.

Chính vì vậy mà cuộc sống của Dhilipa rất xa hoa. Mỗi bữa ăn, ông dùng đến 84 cái đĩa, 12 loại thịt và 5 loại thức uống. Đây là cách dùng bữa của một bậc vương giả thời ấy.

Một ngày nọ, Đạo sư Bhahana đến viếng Dhilipa. Sau khi nghe Sư thuyết pháp, Dhilipa lấy làm cảm động, ngỏ ý muốn mời Sư lưu lại một thời gian tại nhà của mình và Sư đồng ý.

Một hôm nhìn Dhilipa đang làm công việc trích ly dầu ra khỏi những hạt mè (vừng), Sư nhận xét rằng công việc này có thể ngày một phát đạt hơn nhưng khó có thể đạt tới sự giải thoát.

Dhilipa liền xin Sư truyền pháp. Sư nói:

Thân ngươi là hạt vừng 
Dầu chính là vọng tưởng 
Bản tâm là ngọn đèn 
Bấc là pháp thế gian 
Đốt đèn bằng lửa tuệ 
Xua đi bóng vô minh 
An trú trong thanh tịnh 
Niềm vui chẳng nghĩ bàn

Dhilipa nghe xong bừng tỉnh ngộ. Từ đó tinh tấn tu tập trong 9 năm thì chứng đắc thần thông Đại thủ ấn.

Đại sư thứ 63: Kumbharipa – Người thợ gốm

Bánh xe tập quán quay nhanh 
Tạo nên bài ca và vũ điệu của sự hiện hữu 
Nhưng giờ đây ngọn lửa tri kiến bừng cháy 
Đẩy lùi bóng tối của vô minh

Truyền thuyết

Kumbharipa làm nghề thợ gốm ở Jomanasri. Công việc đơn điệu hằng ngày khiến ông đâm ra mệt mỏi và muốn có một sự thay đổi để cuộc sống bớt tẻ nhạt hơn.

Ngày kia, có một nhà sư Du-già đến lò gốm để khất thực, Kumbharipa nói: “Bạch Đại đức! Làm cái nghề nặng nhọc này tôi cũng chỉ kiếm được một ít thu nhập để sống qua ngày. Và tôi cảm thấy chẳng có một chút hứng thú gì. Thật là khổ não!”

“Ồ! Hiền hữu, ông nên biết rằng tất cả chúng sinh đều chịu phiền não vô tận, nào phải chỉ riêng mình ông? Nay ta dạy ông một pháp này:

Đất sét là đam mê 
Ý tưởng được chuẩn bị 
Đất cát là vô minh 
Lăn trên xe tham ái 
Sáu căn là sản phẩm 
Trí tịnh làm lửa nung 
Cho chín gốm lục nhập

Người thợ gốm nhận hiểu được lời dạy của Sư, tu tập thiền định trong 6 tháng thì tâm trí thanh tịnh, dứt được tham ái.

Kumbharipa vừa làm việc vừa thiền định nên những sản phẩm do ông làm ra đều tinh xảo và có những nét đẹp kỳ diệu.

Đại sư thứ 64: Carbaripa – Người chết sửng

Đại nguyện của chư Phật 
Chính là nhận ra tự thể 
Những ai nhận ra sự thanh tịnh của bản tâm 
Thì người đó có con mắt Phật

Truyền thuyết

Tại một làng quê thuộc xứ Magadha (Ma-kiệt-đà), có một gia đình làm nghề chăn nuôi gia súc. Họ sở hữu hàng ngàn con bò, vô số cừu và ngựa.

Khi người cha qua đời vì già bệnh, người con mở tiệc lớn thết đãi toàn bộ dân chúng trong vùng. Bữa tiệc này kéo dài trong nhiều ngày với đầy đủ những món ngon, vật lạ.

Vào hôm sáng sớm trước khi buổi tiệc kết thúc, cả gia đình cùng thực khách kéo nhau ra bờ sông Hằng để tắm rửa tẩy trần, chỉ còn lại người vợ và đứa bé con làm nhiệm vụ trông nhà.

Lúc này Đại sư Carbaripa đột nhiên xuất hiện để khất thực. Nhưng người vợ trẻ sợ chồng quở trách nên không dám cúng dường. Đại sư liền nói: “Nếu chỉ vì ngươi cúng dường thức ăn cho ta mà chồng ngươi hoặc mẹ chồng quở mắng, thì hãy đến với ta. Từ nơi đây, ngươi có thể nhìn thấy ánh lửa bên kia ngọn đồi, đó chính là nơi ta trú ngụ. Nếu họ không tức giận thì có lẽ tốt hơn nhiều. Giờ thì hãy cho ta một ít thức ăn.”

Người thiếu phụ liền mang cho Sư một ít vật thực và lắng nghe Sư nói chuyện một cách vui vẻ.

Sau khi vị Sư rời khỏi nhà, bà mẹ chồng quay về, nhìn thấy một ít thức ăn còn sót lại trên những chiếc đĩa. Bà hiểu chuyện và bắt đầu sỉ nhục nàng dâu.

Lần này, người thiếu phụ trở nên giận dữ thật sự, nàng bế đứa con nhỏ tìm đến chỗ Đại sư Carbaripa.

“Lành thay! Lành thay!” Sư nói xong liền dùng tịnh thủy rảy vào người hai mẹ con. Họ liền hóa thành hai tượng Phật bằng đá.

Người chồng khi quay về không thấy vợ con bèn tìm đến chỗ Sư. Sư lại dùng nước sái tịnh biến ông chồng thành tượng Phật đá.

Sau đó, gia đình, họ hàng của họ đến tìm đều bị rơi vào số phận tương tự. Tất cả đều bị biến thành những tượng Phật đá đứng sừng sững giữa nơi hoang vắng.

Đứa bé trai con của người thiếu phụ tốt bụng đạt được tám thần thông. Từ đôi tinh hoàn của đứa bé lưu xuất một thứ đề-hồ có khả năng biến các kim loại thành vàng, từ hậu môn xuất ra một thứ rượu trường sinh, và từ đôi mắt phát ra hai luồng hào quang.

Dân chúng trong vùng đồn đại việc lạ lùng chưa từng có này đến tai đức vua xứ Campa. Nhà vua hiểu được sự việc, cho xây một ngôi đền lớn để thờ tất cả những tượng Phật đá này.

Tương truyền rằng những nhà tu Du-già thường đến đây để tu thiền định. Và trong lúc họ thiền định, nếu tâm khởi lên vọng tưởng thì các tượng đá sẽ hóa thành người thật, dùng gậy đập vào lưng hành giả.

Đại sư thứ 65: Manibhad – Bà nội trợ hạnh phúc

Khi tâm ta bị khởi che bởi vô minh 
Ý duyên theo trần cảnh 
Khi thực thể sáng tỏ như bản chất của ta 
Bản chất ấy hiện ra như thực thể

Truyền thuyết

Thị trấn Agaru có một gia đình giàu có. Gia đình này có một cô con gái ở tuổi 13 tên là Manibhadra, được hứa gả cho một chàng trai cũng cùng đẳng cấp xã hội. Theo tục lệ thì chàng trai phải đến ở rể, chờ cho đến khi cô gái đủ tuổi kết hôn.

Trong thời gian này, một hôm có Đại sư Kukkuripa đến nhà cô gái Manibhadra đểkhất thực. Nhìn thấy nhà sư, cô gái thốt lên: “Ngài trông thật đẹp đẽ! Cớ sao lại phải đắp tấm vải rách mà đi xin ăn, trong khi ngài có thể tự mình kiếm sống và cưới một người vợ?”

“Thưa thí chủ, tôi sợ vòng sinh tử luân hồi và tôi đang tìm thấy niềm an lạc đầy giải thoát trong cuộc sống như thế này. Thân người khó được, Phật pháp khó gặp. Nay tôi phải nắm bắt lấy cơ hội có một không hai này mà tu tập. Nếu tôi lấy vợ, có con, thật là bận bịu, làm thế nào mà tu tập? Và như thế, đời sau sẽ càng tệ hại hơn. Do đó mà tôi từ bỏ việc theo đuổi phụ nữ.”

Cô gái tỏ ra rất cảm phục nhà Sư, sau khi cúng dường vật thực, cô nài nĩ: “Xin thầy chỉ cho tôi con đường giải thoát.”

“Ta sống nơi mộ địa, nếu cần, thí chủ có thể đến gặp ta.”

Sau khi nghe những lời thuyết pháp của đại sư, Manibhadra trở nên ưu tư về thân phận con người trong cuộc đời đầy bất trắc này, và cuối cùng cô quyết định tìm đến với đại sư.

Đại sư Kukkuripa quán xét thấy trình độ tâm linh của cô gái phát triển cao, bèn truyền cho cô pháp thiền định và thần thông.
Sau đó, cô tìm chỗ vắng vẻ tự tu tập một mình trong bảy ngày đêm. Sau thời gian ấy, cô trở về nhà thì bị cha mẹ la rầy, đánh đập.

Cô nói: “Không ai trong thế gian này là cha hay mẹ của tôi cả. Một gia đình giàu có chỉ có thể nuôi dưỡng nhưng không thể giải thoát cho một cô gái ra khỏi sinh tử luân hồi. Vì vậy, tôi phải nương tựa vào Chân sư để tu tập thiền định hầu mong giải thoát khỏi luân hồi.”

Lời lẽ xác đáng của cô khiến cha mẹ cô lấy làm lạ nhưng không thể đối đáp lại.

Manibhadra tu tập định tâm vào một điểm duy nhất. Và sau đó một năm, vị hôn phu đến đón cô về nhà riêng. Cô vui vẻ theo chồng không một chút phản kháng.

Trong cuộc sống mới, cô luôn tỏ ra đảm đang việc nhà, nói năng khiêm tốn, cử chỉ hoà nhã. Chẳng bao lâu, cô sinh hạ được một bé trai và một bé gái. Cô nuôi nấng và dạy dỗ chúng theo cách riêng của cô.

Mười hai năm trôi qua kể từ ngày Manibhadra gặp được Chân sư. Một buổi sáng, cô ra suối để lấy nước, vì mang một bình đầy lại vấp phải một gốc cây, cô ngã xuống làm chiếc bình vỡ tan.

Chiều đến người chồng không thấy vợ, vội đi tìm. Khi đến nơi ông thấy vợ mình nằm dưới đất, đôi mắt mở to đăm đăm nhìn vào chiếc bình vỡ.

Ông đến gần hỏi han, nhưng cô vẫn cứ nhìn trân trối vào chiếc bình như không nghe thấy gì. Mọi người đến tìm cách vực cô ngồi dậy nhưng vô ích. Cô vẫn nằm bất động mãi.

Đến lúc đêm xuống, cô đứng dậy hát:

Chúng sinh hữu tình 
đập vỡ chiếc bình của họ, 
Cuộc sống kết thúc.
Nhưng tại sao? 
Tại sao họ trở về nhà 
Ngôi nhà lục thú? 
Hôm nay ta đập vỡ 
chiếc bình của ta 
Nhưng ta không quay về 
ngôi nhà ấy nữa 
Ta đi tới mềm vui thanh tịnh 
Thầy ta thật tuyệt vời.
Nếu ngươi muốn? 
Hãy nương vào bậc Thánh.
Hát xong, Manibhadra bay vào hư không.

Đại sư thứ 66: Mekhala – Người chị dâng thủ cấp

Tất cả các hiện tượng 
Bên trong lẫn bên ngoài 
Cả thảy là do tâm 
Tất cả chung một vị
Trong thiền định thù thắng 
Không cần phải nỗ lưc 
Ta tìm thấy niềm vui 
Thanh tịnh và bất nhị

Truyền thuyết

Tại vùng Devikota, một gia đình nọ có hai cô con gái tên là Mekhala và Kanakhala. Hai cô gái được gia đình gả cho các chàng trai con của một người dân chài.

Hai người chồng này rất thô lỗ, thường hành hạ, đánh đập và chửi mắng họ khiến những người láng giềng hay đem câu chuyện bất hoà trong gia đình họ ra làm đề tài bàn tán, mặc dù họ chẳng làm điều gì sai trái.

Một hôm, người em gái gợi ý: “Chị ơi! Có lẽ chúng ta nên thoát khỏi sự bất công này và trốn sang một nơi khác.”

Nhưng người chị không đồng ý. Cô nói: “Chúng ta bị sỉ nhục là vì chúng ta thiếu đức hạnh. Và như thế, sống ở nơi nào cũng có khác gì nhau. Chúng ta phải ở lại đây.”

Một ngày nọ, Đại sư Krsnacarya du hành qua vùng Devikota. Đi theo ngài là 700 môn đồ, trên đầu là một chiếc lọng bay lơ lửng, những chiếc trống bằng sọ người dùng để triệu thỉnh quỷ thần kêu vang khắp không trung và những dấu hiệu kỳ lạ khiến bất cứ ai nhìn thấy cảnh tượng này đều phải thừa nhận đây là một vị đã tu chứng.

Hai chị em rủ nhau ra nghênh đón Đại sư và cầu xin ngài truyền pháp. Sư điểm đạo cho họ và truyền cho Kim cương tâm pháp, rồi bảo họ lui về tu tập.

Sau 12 năm tu tập, hai chị em đều đắc pháp. Họ quay lại chốn cũ tìm gặp Chân sư của họ. Đại sư tiếp hai chị em một cách nồng nhiệt, nhưng ngài không nhận ra đệ tử của mình. Sư hỏi họ là ai. Cả hai nhắc lại sự việc cũ. Sư nhớ ra và nói: “Nếu là đệ tử của ta, lẽ ra các ngươi phải mang lễ vật đến cúng dường ta.”

“Chúng con có thể cúng dường những gì?”

“Hãy cho ta thủ cấp của các ngươi.”

“Vâng, chúng con xin vui lòng.”

Hai cô gái liền há miệng lớn, một thanh kiếm tuệ giác thoát ra khỏi miệng họ. Họ dùng kiếm ấy tự chặt đầu dâng lên đại sư.

Trước khi tự chặt đầu, họ hát:

Nhờ giáo pháp của Chân sư 
Chúng con không còn phân biệt 
Luân hồi và Niết-bàn 
Chúng con không còn phân biệt 
Chấp nhận và từ chối.
Chúng con không còn phân biệt 
Ta và người.
Để làm chứng cớ cho sự giác ngộ 
Chúng con xin dâng người món quà này.
Sư đáp lại:
Lành thay! Hai nữ thánh 
Đã đến bờ bên kia 
Hãy quên niềm vui riêng 
Hãy sống vì kẻ khác.

Rồi Sư đặt đầu của họ lên vai, tức thì đầu gắn vào cổ nguyên vẹn như cũ không để lại một vết sẹo nào.

Đại sư thứ 67: Kanakhala – Người em dâng thủ cấp

Mặc áo giáp nhẫn nhục 
Đội chiếc mũ đức hạnh 
Ta lái con thuyền tâm 
Với niềm tin kiên cố 
Vượt qua cơn bão bùng.

Truyền thuyết

(Được kể chung trong truyền thuyết về Đại sư Mekhala.)

Đại sư thứ 68: Kilakilapa – Kẻ rộng mồm

Trên bầu trời trong trẻo 
Của pháp giới 
Tiếng sấm của năng lực thanh tịnh 
nổ rung chuyển 
Khiến tất cả các chứng nghiệm 
về thế giới hão huyền 
đã biến đổi 
và được tô điểm 
bởi giác thức thanh tịnh của Ba Thân

Truyền thuyết

Tại Bhiralipa có một anh chàng hạ tiện tên là Kilakilapa,được rất nhiều người biết đến vì tính cách ồn ào và ưa cãi vã.

Vì anh ta ưa tranh chấp, gây hấn, nên dần dần mọi người đều sinh ra ác cảm và cùng nhau xua đuổi anh ta ra ngoài thành.

Kilakilapa đi đến khu mộ địa với một trạng thái buồn bã. Một nhà sư Du-già thấy tình cảnh thảm thương của anh ta, bèn đến hỏi nguyên cớ.

Kilakilapa thành thực kể lể nỗi tình. Sư thương tình khai tâm cho y và truyền pháp tu thiền định:

Lời của ngươi và lời của mọi người khác 
Cũng chỉ là âm vang 
Mà âm vang thì cũng chỉ là âm vang 
Hãy quán tưởng tất cả âm thanh 
Đều biến mất trong bầu trời kia 
Giống như sự biến mất của một cơn sấm sét 
Chúng rơi vào một đám mưa.

Kilakilapa lãnh hội được giáo pháp và chuyên cần tu tập cho đến khi chứng đắc.

Đại sư thứ 69: Kantalipa – Thợ khâu giẻ vụn

Chân sư là kim khâu 
Từ bi là sợi chỉ 
Ta vá ba cõi lại 
Thành tấm vải tuyệt vời

Truyền thuyết

Kantalipa làm nghề khâu giẻ vụn, sống ở vùng Manidhara.
Một ngày nọ, khi đang làm công việc may vá, Kantalipa sơ ý để cho kim đâm vào tay chảy máu, ông cảm thấy đau nhói tận trong tim. Ông chợt buồn cho số phận của mình, nằm lăn ra đất khóc than.

Một Thánh nữ (Dakini) hoá thân thành người thường hiện ra nói: “Ngươi đừng than khóc nữa! Đây là quả báo đời trước, do nghiệp bất thiện của ngươi. Nghiệp quả như bóng với hình. Nếu như ngươi không tu tập, đời sau ngươi cũng sẽ còn phải chịu đựng nỗi đau ấy.”

“Vậy xin người hãy chỉ cho tôi cách thoát khổ.”

“Ngươi có thể tu tập thiền định được chăng?”

“Thưa được, không gì có thể ngăn được quyết tâm của tôi.”

Thánh nữ liền điểm đạo cho Kantalipa và giảng về Bốn tâm vô lượng (từ, bi, hỷ, xả). Bà nói:

Giẻ vụn là hư vô 
Kim may là trí tuệ 
Hãy dùng chỉ từ bi 
Khâu y phục mà mặc 
Che chở cho ba cõi

Kantalipa lãnh hội được giáo pháp, tinh tấn tu tập cho đến khi chứng ngộ.

Đại sư thứ 70 : Dhahulipa – Người bện dây thừng

Trong bầu trời Bất Nhị 
Ẩn chứa một kho tàng trí tuệ 
Khó có một ai tìm ra 
Hãy an trú trong Vô tác tướng 
Thì niềm vui chân thật sẽ đến gần

Truyền thuyết

Dhahulipa sinh trưởng ở vùng Dhokara, làm nghề bện dây thừng bằng cỏ kusa rồi mang ra chợ bán để sinh sống qua ngày.

Một ngày nọ, sau khi lao động quá nhiều, đôi tay của ông bị trầy xước rỉ máu nhiều chỗ vì loại cỏ này rất sắc bén.

Quá đau nhức, ông tìm đến một nơi vắng vẻ ngồi khóc than một mình. Một nhà sư Du-già nhìn thấy vẻ buồn tủi của ông, bèn hỏi thăm cớ sự và Dhahulipa liền kể lể nỗi niềm.

“Chỉ một vài vết trầy xước nơi tay mà ngươi còn thống khổ như vậy thì làm thế nào ngươi chịu đựng được nỗi đau khổ lớn hơn ở cảnh giới thấp?”

“Cúi xin thầy từ bi mở lối cho con.”

Vị sư liền khai tâm và làm phép điểm đạo cho Dhahulipa, rồi dạy phép thiền định.

Theo lời dạy của thầy, Dhahulipa tu tập 12 năm thì chứng đắc.

Đại sư thứ 71: Udhilipa – Người muốn hóa chim

Theo đuổi vọng niệm là rồ dại 
Kham nhẫn chịu nghiệp là giải nghiệp 
Chẳng trụ vào đâu.
Tâm là chính
Tìm kiếm vẩn vơ chỉ phí công

Truyền thuyết

Nhờ công đức bố thí của đời trước nên Udhilipa được thừa hưởng một gia tài đồ sộ. Ông sống xa hoa trong một lâu đài tráng lệ.

Một hôm, ông đang ngắm nhìn cảnh vật qua khung cửa sổ, chợt thấy có những áng mây ngũ sắc tựa hình dáng những con thú và một con sếu hiện ra rồi bay mất hút vào bầu trời. Ông nhủ thầm “Giá mà ta bay được như con chim kia thì thật vui thú biết bao.”

Và ý tưởng ấy luôn ám ảnh tâm trí Udhilipa. Khi Đại sư Karnaripa đến lâu đài của ông để khất thực, ông cúng dường Sư những thứ tốt và ngon nhất mà ông có. Để đáp lại, ông khẩn cầu Sư dạy cho ông pháp thuật để có thể bay bổng như loài chim.

Sư Karnaripa truyền cho ông môn Catuspitha Hagogim và bảo ông phải hành hương đến 24 Thánh địa để xin của 24 vị Dakini24 loại dược thảo, và phải trì tụng chân ngôn Kim cương Thánh nữ 10.000 lần tại mỗi nơi Thánh địa.

Sau khi cuộc hành hương dài đằng đẵng ấy kết thúc, Udhilipa đạt đến trạng thái không còn vọng tưởng, nhận biết bản chất thực sự của các pháp và chứng đắc thần thông. Quả nhiên ông đã có thể bay được như chim.

Đại sư thứ 72: Kapalapa – Người mang bình bát đầu lâu

Tất cả hiện tượng vốn không hai 
Áo quần, trang sức ở bên ngoài 
Lưng đeo bình bát bằng xương sọ 
Cổ khoác dây chuyền lấy từ xương 
Bản ngã tự nó là không thật 
Tìm kiếm làm chi chỉ phí công

Truyền thuyết

Kapalapa là một thường dân ở xứ Rajapuri, có một vợ và năm con trai. Chẳng may người vợ mất sớm, Kapalapamang xác vợ ra nơi mộ địa.

Trong khi đang than khóc về cái chết của người vợ yêu dấu, ông nhận được tin năm người con trai của ông cũng đột nhiên qua đời.

Kapalapa lại mang xác năm đứa con đặt cạnh thi thể của vợ.

Trong hoàn cảnh đau thương ấy của Kapalapa, chân sư Krsnacarya xuất hiện, hỏi ông về nguyên do của sự đau buồn ấy.

“Bạch Đại đức! Vợ con tôi nay đã chết cả. Tôi không còn chỗ nương tựa. Tôi chỉ mong được chết theo họ để khỏi phải chịu đựng nỗi đau khổ này.”

“Này hiền hữu! Tất cả chúng sinh trong ba cõi đều bị đám mây tử thần bao phủ, không chỉ riêng mình ngươi chịu nỗi khổ sinh ly tử biệt. Nếu ngươi chỉ ngồi than khóc mà không làm được gì để vơi đi nỗi sầu thì thật là vô ích. Vì thần chết cũng đang rình rập ngươi từng giây, từng phút, tốt hơn hết ngươi nên tu tập thiền định để dứt trừ phiền não.”

“Cúi xin ngài từ bi thương xót chỉ dạy cho tôi.”

Krsnacarya làm phép đưa ông ta nhập vào Mạn-đà-la của Thủ thần Hevajra và truyền cho giáo pháp. Để hỗ trợ cho pháp tu của Kapalapa, Sư lấy xương của năm người con xâu lại thành vòng đeo nơi cổ của Kapalapa và dùng xương sọ của người vợ làm bình bát.

“Hãy quán tưởng chiếc bình bát này và hư không là một. Sự thể nhập của cả hai chính là cách thiền định của ngươi.”

Theo lời dạy của Chân sư, Kapalapa tu tập trong 9 năm thì giác ngộ được chân lý. Để nói lên sự giác ngộ của mình, ngài đọc kệ:

Ta là một nhà sư Du-già
Bình bát bằng xương sọ 
Và ta đã nhận ra 
Bản chất của chiếc đầu lâu này 
Và thực tính của các pháp là một.
Với trí giác như thế, ta đi lại tự tại 
Không một điều gì có thể ngăn ngại.

Đại sư thứ 73: Kirapalapa – Kẻ chinh phục

Từ thuở vô minh phủ lấy ta 
Sinh tâm phân biệt người với ta.
Ngay lúc nhận ra lẽ thật ấy
Bao nhiêu vọng tưởng khuất dần xa 
Cả tên gọi “Phật” cũng chỉ là nhãn hiệu 
Đem dán làm chi khắp hà sa? 
Khi biết bản tâm là trống rỗng 
Hình thù không có, tìm đâu ra?

Truyền thuyết

Kirapalapa cai trị một vương quốc rộng lớn và hùng mạnh. Nhưng nhà vua không bao giờ thỏa mãn với sự giàu có của mình nên thường đem quân đánh phá các nước láng giềng để vơ vét của cải.

Tuy vậy, nhà vua không hề có ý niệm gì về cảnh tàn khốc của chiến tranh. Có một lần, nhà vua cùng quân lính đi tiếp quản một thành phố đã bị đánh chiếm hoàn toàn, và nhà vua lần đầu tiên tận mắt nhìn thấy những cảnh tượng hãi hùng sau cuộc chiến. Phụ nữ, trẻ con, người già, người bệnh bị bỏ lại trong thành vì tất cả đàn ông, thanh niên đều đã chạy trốn. Tất cả các nạn nhân đều tiều tụy, hốc hác và đói khát. Họ lang thang, vất vưỡng khắp trên đường phố.

Chứng kiến sự tàn phá của chiến tranh, nhà vua động lòng từ bi, xuống chiếu tha tội cho các trai tráng để họ có thể trở về đoàn tụ cùng gia đình.

Từ đó, hằng ngày nhà vua đều tổ chức chẩn bần, bố thí cho người nghèo đói.

Một hôm, có nhà sư Du-già đến kinh thành để khất thực. Vua hoan hỷ cúng dường cho Sư những thứ tốt nhất và khẩn cầu Sư giáo hoá.

Sư làm lễ qui y cho nhà vua, truyền giới Bồ Tát và dạy cho vua về Bốn tâm vô lượng cùng với phép thiền định.

Nhưng nhà vua vẫn không thoả mãn, ngài muốn được thọ lãnh pháp môn tối thắng để có thể chứng ngộ trong đời hiện tại.

Sở nguyện như vậy, nhưng công việc triều chính khiến vua thật khó lòng tu tập tinh tấn. Ngài liền trình bày trở lực với tôn sư.

Vị chân sư nói: “Ngươi hãy quán tất cả chúng sinh trong ba cõi là kẻ thống soái các chiến binh kiêu hãnh. Trong vô tận của bản tâm lưu xuất hằng hà sa số các anh hùng hợp lực đánh bại kẻ thù kia, để rồi ngươi, đức vua vĩ đại, tắm mình trong sự vinh quang ấy.”

Nhà vua lãnh hội được ý nghĩa lời dạy của chân sư, có thể tinh tấn tu tập ngay trong khi giải quyết những công việc triều chính. Nhờ đó đạt đến sự giải thoát.

Đại sư thứ 74: Sakara – Người sinh từ hoa sen

Long vương Basuka 
chế ngự những con người đau khổ 
bằng những trận mưa dầm dề.
Nơi có quyền năng cao nhất của Như Lai.
Long vương của trí tuệ 
Ban những cơn mưa xuân mát mẻ của Bí mật pháp 
Cho những ai may mắn hiểu được lý âm dương.

Truyền thuyết

Indrabhuti cai trị vương quốc Kanci gồm một triệu bốn trăm ngàn hộ, nhưng chưa có con nối nghiệp.

Ngài cùng hoàng hậu ngày đêm cầu khẩn Trời, Phật ban cho ngài một hoàng tử.

Sáu tháng sau, hoàng hậu nằm mộng thấy bà nuốt trọn ngọn núi Meru, uống cạn nước của một đại dương, gót hài của bà dẫm nát cả ba cõi thế giới.

Đức vua không đủ khả năng để giải thích giấc mộng. Ngài ban lệnh sẽ thưởng cho những ai có thể giải đoán được. Một đạo sĩ đến nói với ngài: “Đây là điềm báo trước sự ra đời của một bậc Đại trí, một vị Bồ Tát, hay một bậc Minh quân, một vì vua của Vương quốc chân lý. Ngay lúc ngài sinh ra sẽ có một trận mưa vàng bạc tưới đều khắp nơi.”

Quả nhiên sau đó hoàng hậu thụ thai. Và đúng như lời tiên đoán, đến kỳ khai hoa nở nhuỵ liền có một cơn mưa vàng bạc đổ xuống nơi nơi.

Sau khi cơn mưa dứt, người ta phát hiện ra một hài nhi nằm trên đóa sen lớn trong vườn thượng uyển.

Vị hoàng tử sơ sinh được đặt tên là Saroruha. Do công đức đời trước của hoàng tử nên từ khi ngài sinh ra, dân chúng luôn được sống trong sự sung túc.

Ít lâu sau, hoàng hậu lại sinh thêm một hoàng nam.

Khi đức vua băng hà, Saroruha từ chối việc kế vị ngai vàng, trao vương quyền cho em. Bản thân ngài trở thành một tu sĩ.
Rời khỏi hoàng cung, Saroruha đi về phía Sri Dhanyakataka để tìm Chân sư. Trên đường đi tầm sư học đạo, Saroruha đã gặp được Chân sư. Đây chính là hoá thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Để thử thách Saroruha, Bồ Tát nói với Saroruha rằng ngài cũng có thể hiển lộ pháp thân. Nhưng Saroruha thành thực thưa với thầy rằng ngài không thể tự mình đi đến giải thoát.

Saroruha cung kính đảnh lễ vị Chân sư để cầu pháp. Bồ Tát liền hiện thân truyền pháp thiền định Hevajra cho Saroruha rồi biến mất.

Saroruha tiếp tục đi đến Sri Dhanyakataka để tu tập thiền định.

Một hôm, có một vị du tăng từ xa đến nơi ngài Saroruha đang tu tập để tìm hiểu giáo pháp. Vị này xin làm thị giả cho ngài với điều kiện là khi nào ngài đắc quả thì truyền pháp cho ông ta.
Sư đồng ý. Vị du tăng liền lưu lại trong hang động để phục vụ ngài trong suốt 12 năm.

Ngay vào lúc ngài Saroruha bắt đầu nhập thất, nạn đói hoành hành khắp nơi vì nắng hạn, người chết nhiều vô kể.

Sợ biến cố này làm kinh động đến Chân sư, trở ngại việc thiền định của thầy, nên người thị giả im lặng không tiết lộ.

Vào ngày cuối cùng của thiền thất trải qua 12 năm, người thị giả đến khất thực tại hoàng cung, nhưng ngay cả tại đây người ta cũng chỉ có thể cúng dường cho ông một chén gạo nhỏ.

Ông cẩn thận mang về dâng lên vị Chân sư. Rủi thay, khi về đến nơi, lúc bước qua ngưỡng cửa thì vị này vấp té, làm rơi bát gạo vung vãi khắp nơi.

Sư thấy thế, bèn hỏi: “Ngươi say à?”

“Thưa không! Đệ tử chỉ vì quá đói bụng nên đi không vững.”

“Ngươi không tìm được thức ăn à?”

Người thị giả thú thật rằng ông đã giấu thầy về nạn đói. Sư quở trách: “Cớ sao ngươi không cho ta biết? Ta có thể làm mưa để cứu dân lành.”

Saroruha nhặt những hạt gạo bị đổ dưới đất rồi đi ra một dòng sông. Tại đây, ngài tác pháp cúng dường cho các Hộ pháp Long vương, đoạn dùng ấn chú triệu thỉnh tám vị Long vương đến quở trách cho đến khi đầu của bọn họ sắp vỡ tung. Ngài mắng rằng: “Nạn đói này là do các ngươi gây ra. Các ngươi phải chịu trách nhiệm. Hôm nay các ngươi phải làm một cơn mưa thực phẩm, ngày mai là mưa ngũ cốc, ngày kế tiếp lại là mưa thực phẩm, sau đó phải mưa vàng, bạc trong ba ngày. Đến ngày thứ bảy, hãy mưa như bình thường.”

Các vị Long vương vâng lệnh làm theo lời Sư.

Sau đó Sư truyền tâm pháp cho Rama, tên của vị thị giả, và dặn dò đệ tử: “Ngươi không được hành động vì lợi ích của bản thân mà hãy vì lợi ích của chúng sinh. Nếu không, ngươi sẽ không bao giờ đạt tới cứu cảnh giải thoát. Sau khi ta đi rồi, ngươi nên đến Sri Parvata mà tu tập.”

Nói rồi, như có đôi cánh, Sư bay vút vào không trung.

Sau khi Rama đến Sri Parvata thì lấy một nàng công chúa làm vợ, nhưng cả hai vợ chồng đều từ bỏ cung điện vào sống trong một khu rừng già cho đến khi tu chứng.

Đại sư thứ 75: Sarvabhaksa – Kẻ háu ăn

Trong vô minh tất cả mùi vị đều khác nhau 
Trong giác ngộ mọi thứ đều một vị 
Khi còn vô minh, Niết-bàn và Luân hồi là hai 
Khi giác ngộ, cả hai là một

Truyền thuyết

Sarvabhaksa là thần dân của Đức vua Singhacandra thuộc Vương quốc Abhira. Ông ta có một cái bụng rất to và ăn không biết no, có thể ăn bất cứ món gì mà ông vớ được.

Một hôm không tìm được đủ thức ăn, bụng cồn cào dữ dội, Sarvabhaksa đến ngồi ở một cái hang đá, đầu óc suy nghĩ miên man đến cái ăn.

Chân sư Saraha gặp ông ta ở chốn này bèn hỏi han. Kẻ háu ăn nói: “Bụng tôi lúc nào cũng cồn cào như lửa, ăn rất nhiều nhưng chẳng hề biết no. Tôi đang đói lắm.”

“Nếu ngươi không chịu đựng được cái đói, khi tái sinh trong loài ngạ quỷ thì ngươi biết làm sao?”

“Ngạ quỷ là gì?”

Đại sư Saraha liền giải thích về bản chất của loài quỷ đói này và nguyên nhân phải thác sinh vào đó.

Nghe xong, Sarvabhaksa rùng mình kinh sợ, vội thưa: “Làm sao tôi có thể tránh khỏi bị đọa vào ác đạo? Xin thầy mở lòng từ bi cứu giúp.”

Sư điểm đạo và truyền phép thiền định mà Chân sư Bhusuku đã tu tập: “Hãy quán tưởng bụng người là bầu trời, sức nóng trong bao tử là một đám cháy lớn, thức ăn uống là tất cả các pháp thế gian. Khi ăn, hãy nuốt cả vũ trụ vào.”

Sarvabhaksa tu tập một cách miên mật. Trong thiền định, ông nuốt cả mặt trăng, mặt trời và núi Meru, khiến thế gian chìm trong bóng tối.

Dân chúng kinh hoàng trước việc lạ ấy. Các Thiên nữ tìm đến cầu xin ngài Sahara. Sư bảo với đệ tử: “Hãy quán tưởng những gì ngươi ăn đều không rốt ráo.”

Sarvabhaksa vâng lời thầy tiếp tục tu tập đến khi đạt thần thông Đại thủ ấn. Khi ấy, mặt trăng, mặt trời lại hiện ra toả sáng như trước.

Đại sư thứ 76: Nagabodhi – Kẻ trộm

Đó là một gia tài lớn dành cho chúng ta 
Và cho những ai sống trên trái đất 
Để chúng ta tự giải thoát khỏi đói nghèo 
Khi ta nắm lưỡi gươm trí tuệ 
Với niềm tin sẽ chiến thắng ma quân 
Sau cuộc chiến ta vui vầy cùng bạn

Truyền thuyết

Trong thời gian Đại sư Arya Nagarjuna (Long Thụ) còn lưu trú tại vùng Suvama Vihara, có một kẻ trộm đứng rình rập bên ngoài căn nhà.

Đứng nơi ngưỡng cửa, tên trộm thấy Đại sư đang dùng bữa bằng những bát vàng. Y móng tâm định vào đánh cắp. Đại sư đọc được ý nghĩ trong đầu kẻ trộm, bèn ra cho hắn một cái cốc bằng vàng.

Thấy hành vi lạ kỳ của Sư, tên trộm phân vân tự hỏi: “Lão trọc này làm gì thế nhỉ? Chẳng lẽ ông ta biết được ý nghĩ của ta?”
Gã trộm liền kêu lên: “Tại sao ngài làm như vậy! Tôi không cần đánh cắp nó đâu.”“Ta là Arya Nagarjuna. Tài sản của ta cũng là của ngươi. Cứ ăn uống thoải mái và ở lại đây bao lâu cũng được.

Khi nào chán, muốn ra đi, ngươi có thể mang theo những gì mà ngươi thích.”

Cung cách lạ thường của nhà Sư chẳng khác nào một nhát gươm chém mạnh vào tâm thức của kẻ trộm kia. Anh ta rạp mình cung kính đảnh lễ và cầu xin Đại sư thu nhận làm đệ tử.

Đại sư Nagarjuna truyền cho y phép thiền định Guhyasamaja:

Giữ tâm không khởi niệm 
Quán tưởng một cành gai 
An trụ nơi đỉnh đầu 
Ánh sáng màu hồng nhạt 
Soi rọi khắp châu thân.

Đọc bài kệ xong, Đại sư vận thần thông hoá ra vô số của cải ngọc ngà châu báu khiến kẻ trộm kia vui thích không còn muốn ra đi.

Anh ta quyết tâm tu tập thiền định theo lời Sư dạy. Sau 12 năm khổ luyện, một cây gai lớn đột nhiên nhô ra từ xương sọ của Nagabodhi làm cho ông đau đớn đến tột cùng. Ông mang việc này thưa với Chân sư Nagarjuna.

Sư cười lớn, đọc kệ:

Gai kia là sắc ý 
Gây thương tích chúng sinh 
Điên đảo cho là thật 
Phiền não không hề vơi.
Các pháp vốn không thật, 
Tan hợp như mây trời 
Mây không đem lợi lạc 
Mây chẳng não hại ai.

Qua lời dạy của Đại sư, Nagabodhi thấu hiểu được tính duyên hợp của các pháp. Ngài tiếp tục tu tập trong 6 tháng thì đắc pháp, gai nhọn kia tự biến mất.

Sau đó, Sư truyền cho Nagabodhi tám đại thần thông và chỉ định ngài là người kế thừa giáo pháp.

Đại sư thứ 77: Darikapa – Ông vua nô lệ

Cảnh giới thanh tịnh 
sẵn có trong mỗi chúng ta 
Nhưng vô minh che phủ 
khiến ta không nhìn thấy 
Hãy tích lũy công đức và quán chiếu.
Cho dù chúng ta nỗ lực trong nhiều kiếp 
Nhưng không có Chân sư 
chúng ta cũng khó nhìn ra

Truyền thuyết

Sau một cuộc săn bắn, Đức vua Indrapala trên đường quay về hoàng cung. Ngài đi ngang qua một khu chợ lúc giữa trưa.

Đức vua nhận ra Đạo sư Luipa trong đám đông đang vái chào ngài. Vua bảo với sư Luipa: “Ngài là một trang nam tử tướng mạo khôi ngô tuấn tú. Đừng ăn những thứ ươn thối nữa. Ta sẽ cung phụng đầy đủ cho ngài tất cả những thứ cần thiết, thậm chí cả vương quốc của ta, nếu ngài muốn.”

“Nếu bệ hạ có thể cúng dường sự trường sinh bất lão, bần tăng sẽ vui lòng đón nhận.”

“Ta không có điều ấy, nhưng ta có thể tặng ngài vương quốc lẫn công chúa, con của ta.”

“Tâu Bệ hạ! Điều đó chẳng mang lại ích lợi gì cho bần tăng.”

Đức vua cảm thấy phân vân, ngài xoay người lại bảo với vị đại thần bà-la-môn của ngài: “Quả thật đúng như lời nhà sư kia nói. Ngai vàng, điện ngọc chỉ mang lại cho ta những phiền toái. Trên đời này, ta chưa hề thiếu thốn một thứ gì, kể cả những món ngon, vật lạ, y phục sang trọng, phụ nữ mỹ miều. Nhưng mọi thứ đều làm ta chán ngắt!”

Sau cuộc kỳ ngộ ấy, vua Indrapala thoái vị, nhường ngôi lại cho thái tử. Ngài cùng một vị quan đại thần tìm đến nơi sư Luipa ẩn cư để học đạo.

Sư ân cần tiếp đón và theo ước nguyện của hai người, Luipa truyền cho Samara Đàn pháp.

Cả hai không có vật gì cúng dường cho Sư nên họ đi đến quyết định cúng dường chính bản thân họ như những người nô lệ.

Kế đó, Sư dẫn hai môn đệ này đến vùng đất Orissa, băng qua xứ Bhiraputi để tới Jantipur. Đây là một thành phố lớn có ba trăm ngàn hộ gia đình. Trong thành phố này có một ngôi đền lớn. Sống trong ngôi đền là bảy trăm nữ vũ công chuyên trách về nghi thức cúng tế.

Sư Luipa tìm đến gặp bà chủ ngôi đền tên là Darima, hỏi xem bà ta có cần mua nô lệ hay không.

Darima nhìn thấy tướng mạo nhà vua, bèn bằng lòng ngay và trao cho sư Luipa một trăm đồng tiền vàng, sau khi thoả thuận hai điều kiện: Một là nhà vua được phép ngủ riêng, hai là nhà vua sẽ được trả tự do sau khi phục vụ đủ thời gian tương xứng với số tiền đã bán.

Nhận tiền xong, sư Luipa cùng vị đại thần ra đi.

Nhà vua phục vụ bà chủ ngôi đền trong 12 năm. Hằng ngày, ông rửa chân, dọn dẹp và làm đủ mọi thứ công việc vặt vãnh khác.

Tuy vậy, nhà vua không hề xao lãng lời dạy của Chân sư. Nhà vua luôn luôn tỏ ra tử tế làm thay công việc cho những nô lệ khác, nên rất được mọi người thương mến.

Một hôm nọ, có một nhà vua tên là Kunci mang theo 500 đồng tiền vàng đến ngôi đền để giải trí.

Mỗi lần được phục vụ, vua Kunci thưởng cho nhà vua trong lốt nô lệ bảy đồng tiền vàng.

Vào một đêm trời nóng, vua Kunci cảm thấy khó chịu trong người, ông đi ra bên ngoài để dạo chơi. Chợt nghe có mùi hương thơm kỳ diệu và nhìn thấy ánh sáng phát ra từ một lùm cây, nhà vua tò mò tìm đến. Và thật ngạc nhiên, nhà vua thấy kẻ nô lệ kia đang ngồi trên một ngai vàng, chung quanh là 15 thiếu nữ vẻ đẹp như tiên nga đứng hầu. Vua lập tức báo cho bà chủ Darima.

Bà này chạy vội đến nơi, quỳ gối thưa: “Chúng con người phàm mắt thịt nên không nhận biết ngài là bậc Thánh tăng. Xin ngài tha thứ cho chúng con tội bất kính đã khiến ngài phục vụ như kẻ tôi tớ.”

Sư chỉ mỉm cười, lặng lẽ bay vào không trung.

Phật tính nằm trong mỗi chúng sinh 
Đừng theo con đường chấp thủ 
mà trí giác đã từ bỏ 
Cố gắng quay về nẻo Phật tâm 
Hiển nhiên ngươi sẽ chứng được đạo 
Ai được Chân sư ban pháp lực 
Người ấy thâm nhập vào pháp giới 
Nếm được vị chung của Tuyệt đối 
Dấu ấn Kim cương ấn lên người

Truyền thuyết

Putalipa sinh trưởng ở vùng Bangala, do cơ duyên đời trước nên được một nhà sư Du-già truyền cho phép thiền định Hevajra.

Vị Chân sư trao cho Putalipa một bức họa Mạn-đà-la, trong đó có tượng của Thủ thần Hevajra và căn dặn: “Ngươi hãy đeo bức họa này ở trước ngực trên đường hành đạo.”

Putalipa vâng lời thầy, tu tập trong 12 năm thì chứng đắc, nhưng không một ai có thể nhận biết điều kỳ diệu này.

Một hôm, Putalipa đến khất thực tại hoàng cung, Đức vua bỗng để ý thấy vị Thủ thần Hevajra trong bức họa đứng trên vị thần mà nhà vua lâu nay thờ phụng.

Hình ảnh này khiến nhà vua cảm thấy bị xúc phạm, ngài quát lớn: “Có đúng là vị thần của người ngồi lên trên vị thần của ta như ngồi trên một chiếc ngai không?”

Sư từ tốn đáp: “Bức họa này không do tôi vẽ. Nó là kiệt tác của một nghệ sĩ đích thực. Có lẽ hình vẽ này phạm thượng, nhưng sự thật đúng là như vậy.”

Nhà vua có vẻ nguôi giận, nói: “Bức họa rất đẹp và đường nét tinh xảo, nhưng cớ sao vị thần của ngươi lại sử dụng vị thần của ta như một cái ngai?”

“Tâu Bệ hạ! Vị thần của tôi cũng là vị thần của Bệ hạ.”

“Ngươi có thể chứng minh cụ thể pháp lực vô biên nơi vị thần của ngươi chăng?”

“Tâu Bệ hạ! Điều này không khó. Chỉ cần Bệ hạ sai người vẽ một bức họa mà trong đó vị thần của Bệ hạ ngồi bên trên vị Thủ thần của bần tăng. Trải qua một đêm, vị trí của hai Thủ thần sẽ đảo ngược.”

“Nếu sự việc đúng như lời, trẫm thề sẽ qui y Phật pháp.”

Đoạn vua cho vời họa sĩ đến vẽ một bức họa theo lời đề nghị của Sư. Quả nhiên, sáng hôm sau vị trí của các Thủ thần đã đảo ngược lại.

Quá cảm phục pháp lực của nhà sư, Vua cùng triều thần đều xin quy y Tam bảo.

Đại sư thứ 79: Upanaha – Thợ đóng giày

Những mẫu khuôn của một trái tim thanh tịnh 
Không phải được tạo bởi vọng tưởng, 
mà nó tự hiển hiện 
Nên thực thể luôn luôn sinh động 
Để đáp ứng những nhu cầu và khát vọng của ta.

Truyền thuyết

Tại Sendhonagar có một người thợ giày tên gọi là Upanaha. Một ngày nọ, ông tình cờ gặp một nhà sư Du-già đi khất thực trong thành. Upanaha sinh tâm ngưỡng mộ nên đi theo nhà sư ra tận nơi mộ địa.

Sư nhận thấy người thợ giày có đầy đủ tín căn nên giảng về Tứ diệu đế và những lợi ích của sự giải thoát.

Kế đó, Sư khai tâm cho y bằng bài kệ:

Những cái chuông do người tạo ra 
Để gắn lên đôi giày đem bán 
Âm thanh reo vui trên đôi chân của kẻ khác 
Tiếng chuông rung trên bước chân 
Khác nào tiếng âm vang cuộc đời.
Hãy quán niệm rằng.
Không có sự phân ly giữa âm thanh ấy.

Upanaha tu tập trong 9 năm thì trừ dứt vô minh và đạt thần thông Đại thủ ấn.

Đại sư thứ 80: Kokilipa – Kẻ sành điệu

Vô tác tướng là giáo pháp bí mật 
Không ràng buộc là nhận ra nghĩa lớn 
Niềm vui không chủ đích là thiền định 
Không đạt cái gì là mục đích tối thượng

Truyền thuyết

Vào những tháng mùa hè nóng nực, Đức vua Kokilipathường rời hoàng cung để đến một khu rừng nhỏ gần đó thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên.

Ngài thường ngồi trên những tấm đệm được bọc bằng vải lụa, trong khi các cung nữ vây quanh ca hát, nhảy múa cho nhà vua giải trí.

Một lần, trong khi nhà vua đang vui đùa với các cung nữ, một nhà sư Du-già đến gần để khất thực nhưng lính canh xua đuổi ngài đi.

Đức vua nghe thấy bèn quở mắng đám lính rồi cho mời nhà sư đến bên cạnh.

Vua ân cần tiếp đãi và cúng dường vật thực cho Sư, đoạn hỏi một cách tự mãn: “Cách sống của Sư và lối sống của ta, cái nào mang lại nhiều vui thú hơn?”

Vị sư đáp: “Tâu bệ hạ, một đứa trẻ sẽ trả lời rằng lối sống của ngài là vui thú nhất, nhưng một bậc trí giả sẽ cho rằng cách sống của ngài là một loại độc dược đối với tâm hồn.”

“Ý Đại sư muốn nói gì?”

“Nếu Bệ hạ pha trộn quyền lực thế tục với ba độc (tham, sân, si) thì cuộc đời của Bệ hạ sẽ kết thúc một cách thảm hại, chẳng khác nào uống rượu độc với thức ăn ngon.”

Đức vua Kokilipa vốn thông minh nên nhanh chóng lãnh hội lời dạy của Sư.

Ngài quy y với Sư và được truyền cho phép thiền định Samvara.

Không bao lâu, ngài nhường ngôi lại cho con để có điều kiện tu tập.

Đức vua thường đến một khu rừng để thiền định, nhưng tâm ngài hay xao động bởi tiếng hót của loài chim Kohila.

Biết được trở ngại của đệ tử, vị tôn sư dạy:

Như những đám mây đen, 
vần vũ trên bầu trời im vắng.
Tạo cơn mưa thấm nhuần cây cỏ 
Sấm nổ trong tai ngươi 
và mưa vọng tưởng rưới lên niềm cảm xúc 
Cây ba độc nở hoa 
Những đoá hoa phiền não 
Kẻ nhu hằng yêu thích.
Trong vô tận bản tâm 
Bầu trời thường tịch tĩnh
Không sấm sét 
Không âm thanh cuồng nộ 
Chỉ có mây an lạc 
Mang lại những giọt nước ngọt ngào 
Nuôi dưỡng cây năm thức 
Đấy chính là phép lạ 
Của một bậc trí giả.

Đức vua nghe theo lời dạy của Chân sư, thực hành thiền định sau thời gian 6 tháng thì đắc pháp.

Đại sư thứ 81: Anangapa – Kẻ ngớ ngẩn

Luân hồi là giấc mộng 
Sắc thân tựa cầu vồng 
Tham dục là tên độc 
Cắm sâu da thịt người 
Mê loạn cho là thật 
Như đóm giữa hư không 
Tỉnh giấc tàn mộng ảo

Truyền thuyết

Trong nhiều kiếp quá khứ, Anangapa đã tu hành từ bi và nhẫn nhục, do vậy khi tái sinh vào kiếp này, ông có được thân tướng đẹp đẽ và trang nghiêm. Mỗi khi so sánh mình với kẻ khác, Anangapa thường tỏ ra rất tự mãn, cao ngạo.

Một hôm, có một nhà sư Du-già đến chỗ Anangapa để khất thực. Ông hoan hỷ ngỏ ý mời nhà sư lưu lại tư gia của ông ít hôm.

Sư chấp nhận. Anangapa rửa chân cho Sư và chuẩn bị chỗ nghỉ ngơi, đoạn cúng dường vật thực.

Sau đó, Anangapa hỏi: “Cớ sao ngài tự đọa đày bản thân mình như thế?”

“Để tự mình giải thoát khỏi vòng sinh tử.”

“Về cơ bản, có sự khác biệt nào về tính cách giữa ngài và tôi?”

Nhà sư nói: “Có khác biệt rất lớn. Kiêu mạn là tính cách hiền hữu. Lòng kiêu hãnh không có năng lực sáng tạo. Tín trí là tính cách của tôi, và chỉ niềm xác tín mới có thể tạo ra năng lực vô tận.”

“Năng lực gì, thưa Đại sư?”

“Trước hết là năng lực tu tập Phật pháp để hoá giải những phiền não trong cõi luân hồi, nhưng rốt ráo hơn cả là năng lực thành Phật dựa trên căn bản tín trí.”

“Kẻ phàm phu như tôi có thể đạt tới năng lực ấy không?”

“Nghề nghiệp chuyên môn của hiền hữu là gì?”

“Tôi không có nghề nghiệp chuyên môn nào cả.”

“Vậy hiền hữu có thể ngồi yên để tu tập thiền định chăng?”

“Thưa Đại sư, tôi nghĩ việc ấy tôi có thừa khả năng.”

“Lành thay!”

Sư liền truyền pháp thiền định Samvara cho Anangapa. Nhờ căn tính thuần thục nên chỉ sau 6 tháng tu tập, Anangapa giác ngộ thấu đáo được chân lý.

Đại sư thứ 82: Laksminkara – Nàng công chúa điên loạn

Thứ nhất, bậc trí giả tạo hình ảnh giác ngộ 
Thứ hai, bậc trí giả 
thiền định một cách kiên trì 
về tính rỗng không của các pháp 
Thứ ba, bậc trí giả tự biết 
mình phải làm những gì cần làm

Truyền thuyết

Laksminkara là em gái của vua Indrabhuti thuộc vương quốc Sambhola. Từ thuở bé, vị công nương này vẫn thường đến dự các buổi thuyết pháp, và cô có tâm hiểu biết sâu rộng về Mật tông (Tantra).

Nhưng hoàng huynh của cô là đức vua Indrabhuti đã hứa gả bà cho hoàng tử xứ Jalendra, con vua Lankapuri.

Đến kỳ hạn rước dâu, cô phải rời quê hương để về nhà chồng. Nhưng khi đến nơi, cô từ chối không chịu vào hoàng cung. Cô nói: “Hôm nay là ngày xấu, ta không thể nhập cung.”

Khi đi dạo quanh bên ngoài hoàng cung, Laksminkara cảm thấy thất vọng ghê gớm vì dân chúng xứ này không phải là tín đồ đạo Phật.

Liền sau đó, một vị hoàng tử trẻ cùng đám tùy tùng đi ngang qua. Họ vừa trở về từ một cuộc săn bắn với nhiều xác thú treo lủng lẳng trên yên ngựa. Một người tùy tùng của Laksminkara dò hỏi và biết rằng vị hoàng tử vừa mới đi qua chính là chồng sắp cưới của cô.

Là một Phật tử thuần thành, Laksminkara cảm thấy mình như một kẻ bị phản bội. Bà than khóc vật vã đến ngất xỉu: “Anh ta cũng là con nhà Phật, vì sao lại gửi thân ta đến chốn ác trược này!”

Khi Laksminkara hồi tỉnh, cô đem tất cả của hồi môn phân phát cho dân nghèo trong thành phố trước khi vào hoàng cung. Đến nơi, cô tự giam mình trong căn phòng mà hoàng tử dành riêng cho cô dâu mới và từ chối không cho ai vào trong mười ngày.
Laksminkara xé rách áo quần rồi lấy lọ nồi, bùn đất trét lên khắp người, tóc để bù xù và giả vờ điên dại.

Với tướng mạo bề ngoài gớm ghiếc như một kẻ điên nhưng trong tâm Laksminkara vẫn luôn chú mục thiền định.

Thất vọng, vị hôn phu của cô cho vời các ngự y đến để chữa trị, nhưng không một ai có thể đến gần được Laksminkara.

Cô giả vờ giận dữ tấn công họ, ném vào họ bất cứ thứ gì mà cô vớ được.

Rồi thời gian qua đi, người trong hoàng cung không còn quan tâm đến bà hoàng điên dại này nữa. Cơ hội thuận tiện để cho Laksminkara có thể trốn thoát đã đến. Bà nhanh chóng trốn khỏi hoàng cung.

Ban ngày, Laksminkara đi nhặt những thức ăn dư thừa mà người ta vất cho những con chó hoang. Ban đêm, bà ra chốn mộ địa để nghỉ ngơi.

Bảy năm sau, Laksminkara chứng đắc thần thông Đại thủ ấn. Cô truyền tâm pháp cho một vị đệ tử. Người này chỉ là kẻ quét dọn các hố xí trong hoàng cung, nhưng ông ta nhanh chóng đạt tới mục đích tu tập.

Cho đến một ngày nọ, đức vua Jalendra trong một cuộc đi săn bị lạc lối. Ngài dừng chân để nghỉ ngơi nhưng ngủ quên trong cơn mệt mỏi.

Khi vua tỉnh giấc thì bóng đêm đã buông xuống khiến ngài không tìm thấy lối về. Khi đi ngang qua hang động nơi vị nữ Du-giàLaksminkara trú ngụ, vua tò mò nhìn vào bên trong. Ngài thấy một vị nữ Du-già toàn thân phát sáng và chung quanh có vô số thiên nữ đứng hầu.

Một niềm ngưỡng mộ khởi lên trong tâm nhà vua, ông không nghĩ đến chuyện tìm đường quay về hoàng cung nữa. Nhà vua bước vào cung kính đảnh lễ trước vị Thánh nữ và xin nương theo giáo pháp của bà.

Laksminkara bảo: “Ngươi không nhất thiết phải trở thành môn đệ của ta. Chân sư đích thực của ngươi là một trong những người phụ trách quét dọn hố xí trong hoàng cung. Vị ấy là một bậc chứng đắc.”

“Trong hoàng cung có rất nhiều người làm công việc này. Làm sao có thể nhận biết vị Chân sư ấy?”

“Vị ấy chình là người sau khi hoàn tất bổn phận của mình thường hay bố thí vật thực cho kẻ nghèo khó.”

Theo lời chỉ dẫn đó, đức vua tìm thấy vị Chân sư của mình. Nhà vua mời vị ấy đến bệ rồng, đặt ngài lên ngai vàng và cung kính đảnh lễ, cầu xin được truyền pháp.

Vua được làm phép quán đảnh để khai tâm và lãnh thọ pháp thiền định Kim cương Varahi.

Đại sư thứ 83: Samudra – Thợ mò ngọc trai

Nhận ra cái “không sinh” 
mà không trải qua tu tập 
Nhà Du-già kia là một kẻ ăn thịt đồng loại 
với đứa bé ẵm trên tay 
Nếu pháp thiền định của y 
lìa bản chất của chính mình 
Khác nào con voi kia kẹt dưới vũng lầy

Truyền thuyết

Samudra làm nghề thợ lặn ở Sarvatira. Thường ngày, ông dong thuyền ra tận khơi xa, lặn sâu xuống đáy đại dương để mò trai lấy ngọc rồi đem ra chợ bán.

Một bữa nọ, sau một ngày ngâm mình dưới làn nước sâu lạnh lẽo, Samudrakhông tìm được một viên ngọc trai nào, ông ta đi thơ thẩn đến nơi mộ địa, lòng buồn bực và than thầm cho số phận.

Đại sư Acintapa thấy người thợ lặn đang buồn rầu nên an ủi ông ta: “Tất cả chúng sinh đều bị chi phối bởi luật nhân quả. Kiếp trước ngươi gieo hạt giống gì, kiếp này ngươi hưởng loại trái cây ấy. Hãy cam chịu!”

Nhưng Samudra nài nĩ: “Thưa thầy! Cầu mong thầy rủ lòng từ bi chỉ cho tôi lối thoát ra khỏi tình cảnh này.”

Sư giảng giải cho Samudra về Bốn tâm vô lượng và Bốn sự an lạc:

Lòng từ bi che chắn tám gió,
Vui hoà hợp khiến tâm thanh thản 
Đầu lưu xuất một luồng an lạc 
Bốn niềm vui tụ ở bốn luân xa 
Quán “không tính” chẳng rời an lạc 
Thì khổ đau không thể đến gần.

Samudra hiểu được yếu lý của lời dạy. Ngài thiền định trong 3 năm thì đắc thần thông Đại thủ ấn.

Đại sư thứ 84: Vyalipa – Nhà luyện kim thuật

Hình ảnh của thực thể rốt ráo 
Là hình ảnh của vị Chân sư 
có quyền năng vô song 
Nơi tịch tĩnh nhất là để ngắm nhìn không tính.
Hoà hợp trọn vẹn là nhận ra 
bản chất của sự chứng đắc 
Và khi bạn nốc một hơi cạn hết sữa trời 
Nghĩa là bạn đang tồn tại đấy

Truyền thuyết

Người bà-la-môn giàu có kia tên gọi là Vyalipa, nuôi ước vọng muốn được trường sinh bất tử. Ông ta mua một lượng thủy ngân rất lớn, đoạn thêm các dược thảo vào thủy ngân để nấu thành một thứ cao đặc sệt.

Nhưng vì còn thiếu một loại dược liệu nên thứ cao dang dở ấy không có công hiệu. Trong cơn giận dữ, ông ta ném quyển cẩm nang bào chế thuốc trường sinh xuống dòng sông Hằng.

Lúc bấy giờ, Vyalipa luyện tập pháp thiền định của đạo Bà-la-môn được 13 năm nên dương vật teo lại như chưa từng có. Ông sống như một kẻ hành khất lang thang khắp nơi.

Một ngày nọ, ông thấy mình đang ở trong một ngôi làng bên bờ sông Hằng. Gần đấy là ngôi đền Ramacandra.

Tại đây ông gặp một cô gái lầu xanh. Cô kỹ nữ này khoe với ông một quyển sách mà cô đã nhặt được khi đi tắm trên sông. Vyalipa cười ngất khi xem nó, vì đó chính là quyển sách trước đây ông đã ném xuống dòng sông Hằng.

Đoạn ông kể lại mọi chuyện cho cô gái nghe. Cô cảm thấy bị cuốn hút bởi ý tưởng được sống lâu, bèn có nhã ý tặng cho Vyalipa ba mươi lượng vàng để tiếp tục công việc điều chế thuốc.

Bản thân Vyalipa vẫn còn hồ nghi và không dám tin rằng công việc nghiên cứu sẽ mang lại kết quả. Nhưng cô gái tỏ ra hết sức khích lệ, và một lần nữa Vyalipa mua thủy ngân về để tiếp tục điều chế thuốc.

Sau một năm miệt mài làm việc, vẫn không có một dấu hiệu nào nói lên sự thành công, vì còn thiếu một loại đào hồng (Myrobalan).

Tuy nhiên, một hôm khi cô gái đi tắm về, một cánh hoa bé tí ngẫu nhiên dính trên đầu ngón tay, và khi cô ta vẫy nhẹ, nó rơi vào bình thuốc của Vyalipa. Lập tức có những dấu hiệu của sự thành công. Cô vội vàng báo cho Vyalipa.

Ông lo ngại là bí mật này lộ ra ngoài, nhưng cô gái đoán chắc chưa hề để tiết lộ điều quan trọng này cho một ai.

Đêm hôm ấy, cô gái rưới một ít cỏ chát (Chiraita) lên thức ăn của Vyalipa. Trước đây, Vyalipa không thể ăn được loại rau chát ngắt này, nhưng giờ đây ông có thể thưởng thức một cách ngon lành. Cô cho rằng đây là hiệu quả của tiên dược.

Vyalipa giải thích: “Dấu hiệu thành công căn bản của công phu điều chế tiên dược gồm có tám điềm lành, kết tụ thành hình tròn xoay chuyển từ trái sang phải, bay liệng trên không trung. Những điềm lành ấy là: một cái lọng quý, hai con cá vàng, một bình đựng ngọc, một đoá hoa Kamala, một tấm đệm trắng, một viên kim cương, một lá phướn và một luân xa có tám nan hoa.

Vyalipa cùng cô gái và một con thỏ đồng uống tiên dược, và cả ba trở nên bất tử.

Với tính ích kỷ, Vyalipa từ chối không cho ai khác biết đến công thức chế biến loại tiên dược này.

Sau đó, họ lên các cõi Trời để trú ngụ, nhưng chư thiên xua đuổi không cho họ vào Thiên giới. Vì vậy họ đành phải quay về trần gian và sống tại xứ Kilampara.

Tại đây họ dựng một ngôi nhà trên đỉnh núi đá cao chót vót, bao bọc xung quanh là một đầm lầy. Địa thế vô cùng hiểm trở nên không một ai có thể bén mảng đến nơi họ ở.

Khi ngài Arya Nagarjuna tức Bồ Tát Long Thụ đắc phép thần túc, ngài phát nguyện tìm cho ra phép luyện thuốc trường sinh đã thất truyền từ lâu tại đất Ấn.

Ngài liền vận thần thông bay lên trên đỉnh núi đá, giấu bớt một chiếc giày, rồi đến vái chào vị đạo sĩ Bà-la-môn Vyalipa.

Vyalipa sửng sờ vì sự xuất hiện của kẻ lạ. Arya Nagarjuna nói với ông rằng nhờ có chiếc giày mà ngài mới có thể đến được chốn này. Và ngài đồng ý đánh đổi chiếc giày ấy để lấy công thức bào chế thuốc trường sinh.

Sau cuộc trao đổi với Vyalipa, ngài Nagarjuna cũng truyền dạy pháp thiền định cho ông này để tu tập trở thành một nhà sư Du-già giải thoát. Còn ngài trở về Ấn Độ với chiếc giày còn lại và ở trên vùng núi Sri Parvata, tiếp tục tu tập để cứu độ chúng sinh.

 

Pages: 1 2 3