Đại sư thứ 21: Syalipa – Linh cẩu đại sư

Người họa sĩ thiên tài 
Vẽ những bức tranh có hình ảnh khủng khiếp 
Khi ngắm nhìn các tác phẩm này 
Lòng ta dâng lên một nỗi kinh hoàng 
Nhưng hãy nhìn lại đi! 
Hãy nhìn cho rõ 
Những hình ảnh ấy 
phản ánh những điều không thật 
Rồi cuối cùng ta cũng phát hiện ra

Truyền thuyết

Syalipa là một nông dân nghèo sống gần kề một bãi tha ma. Về đêm, có một đàn linh cẩu thường đến để lùng sục những mẩu xương thừa của người chết trong đám tro tàn.

Tiếng tru gào của chúng dường như ma kêu quỉ khóc, như xé toạt cả bóng đêm tịch mịch, quyện vào không gian đen nghịt, khiến người nghe phải rùng mình sởn gáy. Chúng là nỗi kinh hoàng của Syalipa, ám ảnh trong tâm trí của chàng ngày lẫn đêm.

Cho đến một hôm, tình cờ có một đạo sư đến khất thực vùng này, Syalipa vội mang thức ăn cúng dường. Nhà sư lấy làm hoan hỷ và giảng thuyết về lợi ích của công đức cúng dường, nhưng Syalipa buồn rầu nói: “Thưa thầy! Bài thuyết pháp của thầy thật hay. Nhưng nếu được, mong thầy dạy tôi làm cách nào có thể vượt qua nỗi sợ.”

“Này hiền hữu! Ngươi sợ gì? Già? Chết? Hay luân hồi sáu nẻo?”

“Thưa, đó chỉ là những lo sợ thông thường. Tôi có một nỗi sợ đặc biệt hơn. Tôi sợ tiếng tru của loài linh cẩu thường đến kiếm mồi ở bãi tha ma gần đây. Xin thầy từ bi dạy tôi cách trừ nỗi sợ ấy.”

“Thôi được’ Vì ngươi chẳng sợ gì khác ngoài tiếng tru của loài linh cẩu. Vậy cách hay nhất là ngươi nên dựng lều trong bãi tha ma, sống chung với loài thú này. Đồng thời, hãy luôn tâm niệm rằng tất cả âm thanh trên thế gian này đồng với tiếng tru của chúng. Lâu dần, nỗi sợ sẽ tự huỷ diệt.”

Syalipa vâng lời dạy, tu tập trong 9 năm thì đạt được tâm vô uý, đắc Đại thủ ấn, tự xưng là Pháp sư Linh cẩu, thường đắp một tấm da linh cẩu trên thân.

Đại sư thứ 22: Tilopa – Kẻ xuất thế

Con chim ấy ngụ trên núi Tu-di 
Dường như nó được làm bằng vàng 
Bậc trí giả biết rằng 
Năng lực thanh tịnh là tất cả 
Nên ngài từ bỏ thế giới vật chất 
Để bước vào cảnh giới Niết-bàn

Truyền thuyết

Tilopa vốn là quốc sư của xứ Visnuagar vào thế kỷ thứ 10. Ngài được đức vua và triều đình rất mực tôn kính. Nhưng ngài tỏ ra chán chường những biệt đãi của nhà vua. Ngài thường bảo: “Đời ta thật vô nghĩa?”

Sau đó ngài xin từ chức quốc sư nhưng triều đình không thuận. Cuối cùng, ngài phải âm thầm ra đi.

Rời khỏi triều đình trong một đêm khuya, Tilopa đi về vùng Kanci, trú thân nơi một bãi tha ma hẻo lánh. Ngày đi khất thực, đêm về tu tập thiền định bên cạnh những thây ma.

Đại sư Tilopa thường cho rằng thế gian ô trược này chính là cõi thanh tịnh của ngài.

Đại sư thứ 23: Catrapa – Hành khất gặp may

Bất cứ cái gì mà nhà Du-già nhìn thấy 
Đều hiển lộ giáo pháp của chân sư.
Tất cả 
Mà người nhìn thấy là thực thể bất sinh 
Thực thể bất sinh là vị Đạo sư cao cả nhất 
Vô tư là cách nhận biết “không hai”
Bởi thế, đức lành hay thói xấu cũng là một

Truyền thuyết

Catrapa là một người hành khất nhưng lúc nào trên lưng cũng mang theo một số kinh sách. Một ngày nọ, do phước duyên nên ngài tình cờ gặp được một nhà sư thông thái khai thị tri kiến giải thoát và truyền cho giáo pháp.

Sư nói:

Xấu ác bởi vô minh. 
Thân này do nghiệp trước. 
Hiện tại tức vị lai 
Nỗ lực tu thiền định 
Chứng đắc trong đời này.

Nghe thoáng qua bài kệ, Catrapa không hiểu được ý. Sư bèn giảng: “Sai lầm là do không có tri kiến. Thiếu tri kiến thì tà vạy trong tâm khởi lên. Tâm tà vạy khởi lên dẫn theo hành động sai lầm. Cứ thế mà xoay chuyển lún sâu vào ác nghiệp. Chỉ có thực chứng các pháp vốn hư huyễn, do duyên sanh mà có, tu tập thiền định vào Tam-ma-địa thì mới hết sai lầm. Lại thấy chúng sanh trôi lăn trong sáu nẻo mà khởi tâm thương xót, dùng Bi quán mà phổ độ. Nhưng không để tâm hướng về quá khứ, vướng mắc ở hiện tại, trù tính về tương lai. Khổ lạc vốn do tâm sinh. Tu tập miên mật lâu ngày thì Phật tính tự hiển lộ.”

Catrapa lưu lại Sendhonagra để tu tập thiền định, sau 6 năm ngài đắc thần thông Đại thủ ấn.

Đại sư thứ 24: Bhadrapa – Kẻ độc nhất vô nhị

Ngộ được tánh không 
thì vô minh là thanh tịnh 
Chiêm nghiệm lòng từ 
thì hành vi hoàn thiện 
Hiểu được tính nhất quán 
của vô số phương tiện 
Ấy là thiền định 
Mục đích rốt ráo 
thuần một vị giải thoát mà thôi

Truyền thuyết

Xứ Manidhara có một người bà-la-môn giàu có, sống cuộc sống hết sức xa hoa. Doù vậy, trong tâm anh ta lúc nào cũng âu lo.

Thường ngày, anh ta giao du quen biết với rất nhiều người, nên trong nhà lúc nào cũng đông đúc bạn bè.

Một bữa nọ, trong lúc anh ta ở nhà một mình vì tất cả bạn bè đã đi dự lễ tẩy trần, có một nhà sư Du-già đến khất thực.

Khi thấy nhà sư rách rưới bước vào sân, anh ta vội vã kêu lên: “Bất tịnh, bất tịnh! Ngươi làm ô uế nhà ta. Hãy rời khỏi đây trước khi bạn bè ta trở về trông thấy, kẻo họ trách ta đã cho ngươi vào.”

“Ngài nói bất tịnh nghĩa là sao, thưa ngài?”

“Không tắm rửa, không thay y phục, mang bình bát bằng đầu lâu, ăn thức ăn không sạch, sinh ở giai cấp hạ tiện là bất tịnh. Giờ thì đi nhanh đi!”

Nhà sư nghe xong vẫn đứng yên, khẽ đáp: “Như thế không phải là bất tịnh như ngài nghĩ. Uế tạp do thân, khẩu, ý mới thực là bất tịnh. Làm thế nào ngài có thể tẩy rửa sự uế tạp trong tâm của ngài bằng lễ tẩy trần? Chỉ có tắm trong giáo pháp của chân sư, ngài mới có thể hoàn toàn thanh tịnh, không còn cấu nhiễm.”

Người bà-la-môn nghe thấy có lý bèn xin Sư dạy thêm. Sư nói: “Hãy cúng dường thức ăn cho ta.”

“Nhưng ngài không thể lưu lại đây lâu được. Vì người nhà và bạn bè của tôi không tin ngài. Tôi sẽ đến nơi ngài ở để nghe pháp.”

“Ta sống nơi bãi tha ma. Khi đến gặp ta nhớ mang theo rượu thịt.”

“Rượu thịt ư? Người bà-la-môn chúng tôi cấm không được nhắc đến những thứ ấy.”

“Tùy ngươi. Nếu muốn học giáo pháp thì phải làm theo lời ta dặn.”

“Nhưng tôi không thể gặp ngài vào lúc ban ngày vì mọi người sẽ nhìn thấy tôi. Vì vậy tôi sẽ đến với ngài vào lúc ban đêm.”

Sau khi nhà sư bỏ đi, người bà-la-môn cải trang rồi đi ra chợ để mua rượu thịt. Khi đêm đến, y tìm đường đến nơi mộ địa. Đến nơi, y gặp nhà sư, bèn dâng thức ăn cho sư và được điểm đạo.

Để hoán cải tâm kiêu mạn về giai cấp, Bhadrapa hằng ngày phải quét dọn hố xí và làm vệ sinh quanh nơi sư ở.

Sau 6 năm tu tập thiền định, Bhadrapa đắc thần thông Đại thủ ấn.

Đại sư thứ 25: Dukhandhi – Phu quét đường

Kết hợp quá trình sáng tạo tương đối 
Với phép thành tựu rốt ráo 
Đó là phép thiền định Đại thủ ấn
Khởi lên trong ta thức thanh tịnh 
Đó là trí tuệ của Ba thân.

Truyền thuyết

Dukhandhi sinh trưởng ở vùng Gandhapur, thường ngày đi lượm giẻ rách đem về giặt sạch, rồi vá lại thành từng tấm áo quần để mặc.

Một ngày nọ, ngài gặp được một nhà sư Du-già truyền cho tâm ấn.

Ngài cố gắng tu tập, nhưng tâm trí luôn luôn bị chi phối bởi việc lượm giẻ và may vá, nên ngài khởi tâm nghi hoặc cho rằng không thể tu hành thành tựu.

Đầu óc ngài lúc nào cũng vẩn vơ với công việc thường ngày khiến không thể nhất tâm quán tưởng hay trì tụng chân ngôn.
Dukhandhi đem trở ngại ấy trình bày với tôn sư của mình. Sư dạy:

Chân pháp không ngằn mé. 
Không có pháp may
không có pháp người may
Chân ngôn là như thị
Hãy quán tưởng vị thần. 
Trì tụng chú miên mật 
Tự nhiên tâm thuần thục 
Thấy các pháp đều không.

Nương theo lời dạy của chân sư, Dukhandhi tu tập 12 năm thì đạt thần thông Đại thủ ấn.

Đại sư thứ 26: Ajogi – Người bị ruồng rẫy

Vâng lời dạy của bậc thánh tăng 
Ta quán một điểm không nơi chóp mũi 
Buộc chặt tâm này vào vũ trụ 
Một vũ trụ trong một vũ trụ.

Truyền thuyết

Ở thành phố Pataliputra có một gia đình giàu có, sinh được đứa con trai độc nhất, vì thế mọi người rất yêu quí.

Tuy nhiên, khi đứa bé lớn lên, ngày càng trở nên mập béo đến nỗi không thể ngồi dậy để ăn uống, tiểu tiện hay đi lại bình thường như những đứa trẻ khác.

Bố mẹ của đứa bé cảm thấy quá thất vọng bèn đem nó ra bỏ giữa bãi tha ma.

Một mình ở nơi hoang vắng, đứa bé sợ hãi kêu khóc một hồi lâu thì có một nhà sư tình cờ đi ngang qua. Thấy hoàn cảnh tội nghiệp của nó, liền cho nó một ít thức ăn.

Nhưng thậm chí nó không ngồi dậy được để đưa thức ăn vào miệng.

“Ngươi không thể tự ngồi dậy ăn thì còn làm được cái gì?”

“Tôi thật là vô tích sự. Đó là lý do tại sao bố mẹ tôi đem bỏ tôi ở đây cho đến chết.”

“Ta không chắc rằng nằm ngửa như ngươi có thể tu thiền được hay chăng?” Vị sư đắn đo nói.

“Thưa thầy! Tôi nghĩ tôi có thể tu tập được nếu có người bằng lòng dạy tôi.”

Nghe đứa bé nói, sư hoan hỷ truyền tâm pháp cho nó, khiến nó có thể nhập vào Đàn pháp của Thủ thần Hevajra.

Sư dạy: “Hãy quán tưởng một quả cầu chỉ bằng hạt cải nằm ngay trên chóp mũi của ngươi. Sau đó quán tưởng có một trăm triệu thế giới trong hạt cải ấy.”

“Thưa thầy, tu tập như vậy sẽ mang lại kết quả gì?”

“Hãy làm theo ta dạy, ngươi sẽ thấy.”

Sau 9 năm thiền định, cậu bé đắc thần thông Đại thủ ấn và được mọi người gọi là chân sư Ajogi, theo Phạn ngữ (Sanskrit) có nghĩa là Vô tác.

Đại sư thứ 27: Kalapa – Người điên phong nhã

Những con người vô minh từ nguyên thủy
Ngu ngơ cho ta kẻ điên rồ 
Giáo pháp của chân sư là đề-hồ 
Thuốc chuyên chữa trị bệnh hồ đồ

Truyền thuyết

Kalapa vốn là một con người có hình dung cực kỳ tuấn tú, do đời trước ngài tu phép nhẫn nhục và thiền định cho nên thân thể của ngài cường tráng và có những nét đẹp đầy sức thu hút, khiến bất cứ ai gặp ngài cũng đều muốn dừng lại ngắm nhìn.

Ngài cảm thấy rất khó chịu vì sự chú ý quá mức của mọi người, bèn từ bỏ phố thị để ẩn cư ở một nơi gần khu mộ địa.

Tại đây, ngài gặp được một nhà sư Du-già truyền cho tâm ấn.
Sau một thời gian tu tập, ngài ngộ được chân lý, thường vân du đây đó, và có tài xuất khẩu thành thơ, nhưng hành vi kỳ bí nên mọi người đều gọi là “Phật khùng”.

Đại sư thứ 28: Dhobipa – Người thợ giặt

Chẳng biết từ thuở nào 
Ta từng giặt sạch bao vết bẩn 
Nhưng không thể nào giặt than đen thành trắng 
Chỉ có giáo pháp của chân sư 
mới gột rửa được tâm ta

Truyền thuyết

Thuở nọ, tại vương quốc Pataliputra có một gia đình làm nghề giặt ủi.

Một hôm, anh thợ giặt đang bận bịu với công việc thường ngày thì một nhà sư Du-già chợt đến để khất thực.

Anh thợ trẻ dù đang bận rộn cũng tỏ ra hoan hỷ cúng dường vật thực cho vị sư, đồng thời hỏi nhà sư có cần giặt hộ thứ gì không.

Sư bèn đưa ra một mẩu than: “Hiền hữu có thể giặt tẩy cái này chăng?”

“Thưa ngài, tôi không thể làm cho cục than đen thành trắng được.”

“Hiền hữu nói chí phải. Cũng thế, không thể dùng thứ gì để tẩy sạch vết nhơ trong tâm. Nhưng ta có một bí quyết chỉ cần giặt một lần là tinh khiết mãi mãi.”

Nghe sư nói thế, người thợ giặt lấy làm vui mừng khẩn khoản xin sư truyền cho bí quyết ấy.

Sư làm phép điểm đạo rồi truyền phép Tam mật (Mật ấn, Mật chú và Mật tưởng) cho chàng.

Trải qua 12 năm tu tập, dùng Mật ấn (Mudra) để thanh tịnh thân, dùng Mật chú (Mantra) để thanh tịnh khẩu, và dùng Mật tưởng (Samadhi) để thanh tịnh ý, người thợ giặt chứng đắc thần thông Đại thủ ấn (Mahamudra).

Sư dạy:

Nước hoả ấn tẩy trừ thân nghiệp 
Nuớc chân ngôn tịnh hoá khẩu phàm.

Từ đó về sau, ai đưa giặt thứ gì, người thợ ấy đều giặt sạch một cách nhanh chóng, và lạ thay, vật ấy không hề bị vướng bẩn trở lại, khiến mọi người lấy làm ngạc nhiên.

Mãi về sau, mọi người mới phát hiện ra người thợ giặt ấy đã chứng quả thánh và thường được người gọi là Chân sư Dhobipa.

Đại sư thứ 29: Kankana – Nhà vua tu sĩ

Viên ngọc như ý Chân đế 
Phát ra ánh sáng giác ngộ 
Thoả đáp tất cả nhu cầu 
Thông qua hành vi ảo diệu 
Kẻ nào nếm được vị này 
Tức thời thành tựu viên mãn

Truyền thuyết

Đức vua xứ Visnunagar cai trị một vương quốc giàu có, thịnh vượng. Nhà vua luôn tìm cách để thoả mãn những thú vui ngũ dục.

Một ngày nọ, có một nhà sư Du-già đến hoàng cung để khất thực, nhà vua cúng dường vật thực cho sư một cách rất hào phóng.

Đáp lại tấm lòng hào hiệp của nhà vua, sư khuyên: “Tâu bệ hạ! Vua và vương quốc thực ra chỉ là những danh từ rỗng tuếch. Cho dù địa vị thế tục của ngài như thế nào đi nữa cũng vô ích. Bởi vì tất cả chúng sinh đều phải chịu đau khổ như nhau. Tử rồi sinh, sinh rồi tử nối tiếp nhau không dứt, nỗi khổ đau lại có vô số muôn vàn hình tướng. Ngay cả các vua ở cõi trời, một khi phước báo đã cạn còn phải chịu khổ đau sinh tử, huống chi địa vị phàm phu của ngài. Mong bệ hạ từ bỏ thú vui ảo ảnh vì chúng giống như những giọt sương mai, và hãy tu tập thiền định.”

“Thầy nói chí phải! Nhưng ta không thể mặc giẻ rách đi xin ăn. Thầy có cách gì khiến ta có thể tu tập thiền định mà không cần từ bỏ thú vui ngũ dục và ngai báu hay không?”

“Cách tốt nhất là bệ hạ nên từ bỏ tất cả.”

“Không! Không! Cái cảnh tượng ăn cơm bằng bình bát đầu lâu, mặc giẻ rách, ăn thức ăn thừa làm ta phát khiếp.”

“Nếu bệ hạ không thay đổi thái độ, niềm tự hào và sự lạm dụng quyền lực sẽ tạo nên nghiệp báo khiến về sau bệ hạ phải tái sinh nơi hạ tiện. Cách sống phạm hạnh đã mang lại cho tôi một niềm vui vô tận. Tuy nhiên, tôi có một phương pháp đặc biệt giúp ngài có thể tu tập thiền định mà không cần phải từ bỏ những thú vui thường ngày.”

“Nếu vậy, xin thầy từ bi chỉ giáo cho quả nhân.”

“Bệ hạ hãy quán tưởng ánh sáng của viên ngọc được đeo ở cổ tay bệ hạ và tâm không tham dục của bệ hạ là một.

Hãy chăm chú nhìn 
Ánh sáng nơi mặt ngọc 
Để thấy được 
Niềm vui chân thật 
Sẵn có trong tâm ngươi 
Tất cả trang phục 
Của báu ngọc ngà 
Nhà cửa đền đài 
Vô số màu sắc 
Đều hiện ra trong mặt ngọc 
Nhưng bản chất của ngọc 
Không hề thay đổi 
Tất cả các pháp 
Vạn tượng sum la 
Tất cả sắc ý 
Khởi lên trong ngươi 
Đều vọng Tự tâm ngươi không lay động 
Vẫn sáng chói như mặt ngọc kia.

Nhà vua thực hành thiền định bằng cách chú mục vào mặt ngọc và ngộ được chân lý. Sáu tháng sau đó, nhà vua đạt được thần thông Đại thủ ấn.

Một hôm, những người hầu cận nhà vua nhìn qua cửa phòng thấy nhà vua đang thiền định trên ngai vàng và quanh ngài là vô số các thiên nữ.

Triều thần biết rằng nhà vua đã tu hành thành tựu bèn đến cầu pháp. Nhà vua dạy rằng:

Niềm vui thanh tịnh là vương quốc 
Thấy biết chân lý là đức vua 
Các ngươi cũng sẽ là hoàng đế 
Nếu như tu pháp thiền định này.

Từ đó vua lấy pháp hiệu là Kankanapada, độ cho dân chúng vùng Visnunaga tu tập pháp thiền định và thọ đến 500 tuổi.

Đại sư thứ 30: Kambala – Kẻ lắm lời

Trong cái sâu rộng của đại dương 
Ẩn chứa một kho tàng 
Đó là niềm vui, 
sự thịnh vượng của các Long vương 
Từ khởi thủy 
Tất cả ánh sáng và âm thanh 
Tự nó là pháp giới 
Lành thay! Bậc thánh đã thấy rõ điều này

Truyền thuyết

Quốc vương xứ Kankarama hạ sinh được hai hoàng tử. Khi quốc vương băng hà, triều đình đưa hoàng tử cả lên ngôi.

Vị Hoàng tử này vốn là một con người đức hạnh và thao lược, nên kể từ khi ngài lên ngôi, đất nước luôn sống trong cảnh thái bình, và dân chúng trở nên giàu có sung túc. Họ giàu đến nỗi chỉ dùng toàn chén vàng đĩa bạc trong các bữa ăn.

Tuy nhiên trong suốt năm trị vì đầu tiên, vua không gặp được hoàng thái hậu, vì bà trong thời gian chịu tang. Đến năm sau, hoàng thái hậu mới vào triều, gặp mặt nhà vua.

Nhà vua trẻ thấy mẫu thân khóc lóc có vẻ không vui, bèn hỏi: “Cớ sao mẫu hậu lại khóc?”

“Ta khóc vì thấy con ở trên ngai vàng lúc nào cũng bận bịu việc triều chính.”

“Tâu mẫu hậu! Con hiểu. Con sẽ thoái vị, nhường ngôi lại cho em con và con sẽ xuất gia theo Phật.”

Theo lời hứa, nhà vua trẻ để lại ngai vàng cho em, rồi cùng 300 tùy tùng đến tu tập ở một tu viện.

Nhưng chẳng bao lâu mẹ ngài lại xuất hiện trước mặt, bà lại khóc lóc. Ngài chào hoàng thái hậu và hỏi duyên cớ.

Bà nói: “Ta khóc vì hiện nay con đã là một nhà sư mà vẫn còn kẻ hầu người hạ như một ông vua. Hãy từ bỏ tu viện này và một mình đi ẩn cư nơi rừng sâu để tu tập.”

Vua nghe lời đi vào rừng già tu tập, nhưng do phước báo đời trước dân làng thường đến cúng dường ngài vô số vật thực.

Mẹ ngài lại xuất hiện khóc lóc, và nói: “Một bậc thánh tăng thì cần gì những thứ ấy?”

Nghe mẹ mắng, nhà vua cởi bỏ những trang phục tốt, bình bát bằng bạc và những thứ quí giá khác để chọn lối tu khổ hạnh.

Ngài lang thang đây đó, từ thành phố này sang thành phố khác.

Một hôm ngài thấy mẹ xuất hiện giữa bầu trời, trong thân tướng của một Dakini và dạy ngài phương pháp thiền định.

Sau 12 năm tu tập, một hôm ngài hoát nhiên chứng đắc thần thông, bay lên hư không, và bất ngờ đối mặt với mẹ. Bà quở trách: “Sao con không lo phổ độ chúng sinh mà hý lộng thần thông để tiêu dao?”

Đức vua lúc này đã trở thành một thánh tăng, vâng lời mẹ đáp xuống đất, đi lần về thành phố Mangalapur, một thành phố có đông cư dân, khoảng chừng hai trăm năm chục ngàn hộ.

Cách đô thị không xa, ngài phát hiện có một hang động vắng vẻ gọi là động Ba Cây Cọ, phù hợp để thiền định.

Đám nữ phù thủy ở chốn ấy nghe tin đại sư đến trú tại xứ sở của chúng liền báo cho mụ phù thủy cầm đầu là Padmadevi. Cả bọn tìm cách quấy phá việc tu tập của sư.

Một ngày nọ, khi ngài đi vào thành, trên mình quấn một chiếc mền bằng len màu đen, thì bọn nữ phù thủy bám theo sau ngài nài nỉ: “Thưa thầy, mong thầy hoan hỷ đến nhà chúng tôi để dùng một bữa cơm.”

Nhưng Sư khiêm tốn chối từ: “Ta không thể dùng cơm ở tư gia.”

Thấy không thể mời sư, bọn chúng nài nỉ giữ hộ chiếc mền cho sư trong khi sư còn ở trong thành. Không tiện từ chối lần nữa, Sư đành phải giao chiếc mền cho chúng rồi ở trần đi vào thành.
Sư đi rồi, bọn phù thủy tụ họp lại và kháo với nhau rằng: “Vật gì sở hữu của một nhà sư đắc đạo đều có thần lực. Chúng ta phải ăn cái mền này.”

Thế là bọn chúng chia nhau ăn mỗi người một mảnh, phần còn lại được ném vào bếp. Khi sư quay lại, bọn phù thủy đưa ngài một cái mền khác mới hơn, nhưng sư vẫn một mực đòi lại chiếc mền cũ của mình.

Nài nỉ mãi không được, bọn phù thủy bèn lấy vàng cúng dường nhưng sư không nhận.

Ngài tức giận đi thẳng đến triều đình, tâu với vua: “Ngài là bậc minh quân, cớ sao lại không thể bảo vệ thần dân của mình tránh khỏi bọn phù thủy trộm cắp kia?”

Sau khi nghe sư giải thích sự việc, nhà vua cho gọi bọn phù thủy đến và ra lệnh cho họ phải hoàn lại chiếc mền cũ. Nhưng bọn chúng thú thật rằng chiếc mền ấy không còn nữa.

Sư đành ở trần quay lại hang động để thiền định.

Sau đó bọn phù thủy dùng phép làm tắt dòng nước nơi hang động của ngài. Sư làm phép Hộ ma (Tonna) triệu thỉnh Thủ thần Heruka khiến cho dòng nước chảy trở lại.

Nhân một dịp, bọn nữ phù thủy từ các nơi về tụ hội tại Oddiyana, sư dùng thần thông biến tất cả bọn chúng thành một bầy cừu đoạn xén lông đầu của chúng, khiến Padmadevi nữ chúa phù thủy phải quy phục, cầu sư giải thoát cho chúng.

Và khi được sư cho trở lại hình người, đầu của các phù thủy đều trọc nên chúng khóc lóc thảm thiết.

Chẳng bao lâu, tại động Ba Cây Cọ, các nữ thần nhục cảm cố ám hại sư bằng cách lăn một tảng đá núi khổng lồ xuống đầu ngài, nhưng thất bại.

Cuối cùng đức vua xứ ấy phải can thiệp: “Không ai trong các người có thể hại được nhà sư ấy. Vậy tốt hơn các ngươi nên quay về với chánh pháp.”

Mặc dù nhà vua khuyên lơn, nhưng bọn nữ phù thủy vẫn không thèm để tâm đến. Thấy vậy, Sư bảo: “Kể từ đây ta kiểm soát các ngươi, nếu các ngươi không cải tà qui chánh, ta sẽ bắt giao các ngươi cho Diêm chúa, và nếu các ngươi tái phạm, ta sẽ biến các ngươi thành ngựa.”

Bọn phù thủy kinh hãi, bèn cầu xin sư thu nhận làm đệ tử và tu tập pháp thiền định của ngài.

Sau khi được sư làm phép tịnh nghiệp, bọn phù thủy ói ra tấm mền mà chúng đã nuốt trước đó. Sư gom các mẩu vụn lại thành chiếc mền nhưng nhỏ hơn trước đó. Sư được gọi là Kambala, tức “sư mền”.

Đại sư thứ 31: Dengipa – Nô lệ chốn lầu xanh

Niềm hạnh phúc vĩ đại 
Khỏe như ngựa, voi, sâu như đại dương 
Chân lý như con khỉ, như trẻ thơ, 
như chữ viết trên dòng nước 
Sự bất khả phân như dòng sông, 
như mặt trời, như y dược
Sự thành tựu như búi tóc, 
như con mắt, như bánh xe

Truyền thuyết

Dengipa vốn là giáo sĩ bà-la-môn của triều đình Pataliputra. Do nghiệp duyên đời trước, Đức vua Indrapala và Dengipaquyết định cùng nhau đi tu. Họ tìm đến chân sư Luipa và được sư truyền cho tâm pháp.

Theo truyền thống, họ phải có một vật gì đó để cúng dường cho sư Luipa, nhưng họ chẳng mang theo gì, và cuối cùng họ đi tới quyết định cúng dường bản thân.

Sư Luipa dẫn họ đến Orissa, kế đó đi bảy ngày nữa thì đến Japantipur. Đến một lầu xanh, sư Luipa hỏi người gác cửa: “Chủ nhân của người có cần mua nô lệ không?”

Tức thì, một giọng nói từ trong vang ra: “Giá bao nhiêu?”

“Một trăm lượng vàng.”

Cuộc ngã giá đã xong, nhưng với hai điều kiện. Một là người bà-la-môn phải được ngủ một mình, hai là sau khi làm đủ công lao động, người bà-la-môn phải được trả tự do.

Sư Luipa để người bà-la-môn ở lại.

Kẻ nô lệ người bà-la-môn kia luôn luôn làm hài lòng nữ chủ nhân và được mọi người quí mến. Một ngày nọ, sau khi ông ta làm xong công việc, người chủ quên sai người mang thức ăn đến, ông bèn đi ra vườn nơi ông thường nghỉ ngơi sau khi làm việc.

Người chủ chợt nhớ ra, vội sai các người làm khác đem thức ăn đến cho ông và họ vô cùng ngạc nhiên khi thấy mười lăm thiếu nữ đẹp đang phục vụ ông và thân ông phát ánh hào quang chói lọi.

Nữ chủ nhân được báo tin chuyện lạ, bà lấy làm áy náy, bèn đến nói rằng: “Tôi thật là càn quấy vì đã đối xử với ngài như một kẻ nô lệ suốt 12 năm nay. Quả thật tôi có mắt như mù, cầu xin ngài từ bi tha thứ và cho phép tôi được hầu hạ ngài như bậc thầy.”

Dengipa không chấp nhận lời thỉnh cầu này, nhưng ngài truyền pháp cho bà ta và nhân dân thành Japantipur, rồi vân du nơi khác.

Đại sư thứ 32: Bhandepa – Vị thần ghen tị

Không quyến luyến, ấy là tình thương cao cả 
Từ bi là nhận ra bản chất của luân hồi 
Vui thông cảm là niềm vui không bờ bến
Xả bỏ hoàn toàn là vị giải thoát thanh cao

Truyền thuyết

Bhandepa là một vị thần ngụ cư ở trên đám mây thuộc vùng trời xứ Sravasti.

Một ngày nọ, ngài thấy xuất hiện một dáng người mình mặc áo cà-sa, một tay mang bình bát còn tay kia cầm tích trượng, bay lơ lửng ngang qua, và toàn thân bao bọc bởi một luồng hào quang rực rỡ.

Bhandepa lấy làm lạ, hỏi vị thiên chủ các cõi trời: “Vị thần nào vừa mới bay thoáng qua vậy, thưa ngài?”

“Đấy là một bậc A-la-hán đã dứt trừ các lậu nghiệp.”

Bhandepa từ lâu khao khát được tu hành thành tựu như thế nên ngài quyết định hạ giới để tìm chân sư. Ngài tìm thấy sư Krsnacarya và được sư truyền cho phép thiền định Mạn-đà-la Guhyasamaja và Bốn tâm vô lượng để bảo vệ thân mạng.

Khi vị thiên chủ các cõi trời thấy Bhandepa quay lại cõi trời liền ân cần hỏi thăm về công phu tu tập của ngài.

Bhandepa nói bài kệ như sau:

Ta đạt đến cảnh giới 
Cảnh ấy không thực thể 
Thiền định không gián đoạn 
Từ bi làm phương tiện 
Cứu cánh làm hư không 
Bốn tâm hòa làm một 
Tham dục không chỗ trụ 
Bậc chân sư cao quí 
Kẻ trí nên tôn thờ

Bhandepa hoằng dương chánh pháp được bốn trăm năm, độ vô số người dân ở sáu thành phố lớn của Aryavarta là SravastiRajagrhaVaisaliVaranasiPataliputra và Kanyakubja.

Đại sư thứ 33: Tantepa – Kẻ đánh bạc

Tất cả ý niệm 
Tất cả những phản ánh của tinh thần 
Đã lụi tàn rồi tan vào hư vô 
Và mỗi kinh nghiệm thoáng qua 
của thế giới hiện tượng 
Cũng biến mất dần trong sự tương tục 
Sự tương tục của vắng lặng

Truyền thuyết

Tantepa là một con người đam mê cờ bạc. Ông đánh bạc cả ngày lẫn đêm và thua hết sạch những gì ông có. Dù vậy, để có tiền chơi trò sát phạt ấy, ông đã vay mượn khắp nơi.

Đến kỳ hạn trả nợ, Tantepa không đủ khả năng chi trả. Các chủ nợ xúm lại đánh ông đến suýt chết. Cuối cùng, ông đành phải ra khu mộ địa để ẩn thân.

Tại nơi này, Tantepa gặp một nhà sư Du-già, Sư hỏi thăm hoàn cảnh của Tantepa.

“Thưa ngài, tôi vốn là một con bạc, bị thua đến sạt nghiệp. Vì không có tiền trả nợ, nên họ đánh đập tôi suýt chết.”

“Vậy sao ngươi không tu tập thiền định?”

“Cờ bạc là nghiệp của tôi. Nếu như có pháp nào tu nhưng không phải từ bỏ cờ bạc thì tôi thực hành ngay.”

“Điều ấy không khó, miễn là ngươi siêng năng tu tập.”

Sư truyền pháp và khai tâm cho Tantepa. Sư dạy: “Ngươi hãy quán ba cõi Dục giớiSắc giới và Vô sắc giới đều rỗng không như cái túi không tiền của ngươi vậy. Lại quán bản tâm của ngươi cũng rỗng không như ba cõi ấy, lâu ngày ắt thành tựu.”

Tantepa vâng lời Sư, tu tập 20 năm thì chứng ngộ và đắc thần thông Đại thủ ấn.

Đại sư thứ 34: Kukkuripa – Người yêu chó

Thờ phụng, cúng dường bằng nghi thức 
Bên ngoài loè loẹt có ích chi 
Nỗ lực, tinh tấn là hiện diện 
Thương thay chư Phật lại vắng xa 
Sự chứng đắc nằm trong lời chú nguyện 
của một chân sư

Truyền thuyết

Kukkuripa vốn là người Bà-la-môn nhưng rất tin tưởng vào huyền thuật (Tantra). Ngài cho rằng huyền thuật có thể giải quyết những vấn đề hiện hữu, do đó ngài chọn con đường xuất gia, sống như một nhà sư Du-già.

Ngài vân du đây đó, trên đường ngài gặp một con chó cái bị đói. Nó quấn quýt bên chân ngài khiến ngài động lòng từ bi mang nó theo khắp chốn. Ngày ngày ngài để nó lại trong một hang động rồi đi khất thực.

Sau 12 năm tu tập, Kukkuripa đắc thần thông.

Chư thiên ở ba mươi ba tầng trời Dục lạc mời ngài dự tiệc, Kukkuripa nhận lời. Ngài được chư thiên đãi đằng vô số món ngon vật lạ. Trong khi ấy con chó cái ở trong hang động tự tìm lấy thức ăn còn sót lại.

Kukkuripa đang ngon miệng, bỗng nhớ đến con chó, ngài bảo với chư thiên rằng ngài phải trở về để chăm sóc nó.

“Con chó ấy đang ở trong hang. Ngài chớ vội về vì tiệc vẫn chưa tàn. Vả lại chúng ta đang vui vẻ với nhau.” Mặc cho chư thiên nài nỉ, Kukkuripa vội vã quay về.

Con chó cái mừng rỡ khi gặp lại sư. Ngài vỗ đầu âu yếm nó, lập tức con chó cái ấy biến thành một nữ Dakini và lên tiếng nói với ngài:

Lành thay cho ngươi 
Vượt qua cám dỗ 
Đắc đại thần thông 
Nay ngươi phải hiểu 
Pháp thuật chư thiên 
Là trò huyễn ảo 
Bởi vì chính họ 
Ngã chấp còn vướng.
Lạc thú như sương 
Tan theo nắng sớm 
Nay ta truyền lại 
Chân nghĩa nhiệm mầu.

Rồi vị Thiên nữ Dakini khai thị và truyền bí pháp cho Sư.

Đại sư thứ 35: Kucipa – Người bị bướu cổ

Cái tuyệt đối bẩm sinh mang nhiều đau khổ 
Nhà Du-già bẳn tính phản ứng dữ dội 
như tia nhìn của một con voi 
Nhưng khi xả bỏ, 
ngài đi vào trạng thái xuất thần 
Không ràng buộc, thoát ra ngoài tham dục 
Trong ánh sáng lời dạy của một chân sư 
Ta đã đánh mất cái vô cùng 
của phủ định và xác định 
Nhưng cái thực thể khó nắm bắt này 
Lại trở thành cái vô cùng tận 
Nhận ra cái vô cùng tận này 
Ta hiểu ra chân lý

Truyền thuyết

Kucipa là một nông dân ở vùng Kahari, rất đau khổ vì cục bướu nơi cổ ngày một lớn. Cảm thấy xấu hổ vì tật bịnh của mình, Kucipa thường tránh xa chỗ đông người mà tìm đến những nơi hẻo lánh để ẩn cư.

Một ngày nọ, có Đại sư Nagarjuna đi ngang qua. Ngay khi vừa nhìn thấy ngài, Kucipa đã có lòng mến mộ bèn chắp tay đảnh lễ và thưa: “Cuối cùng rồi thầy cũng đến. Con xưa nay đau khổ vì nghiệp cũ. Cúi xin thầy từ bi tế độ.”

Sư Nagarjuna nhận thấy con người bệnh tật kia có thể tu tập phép thiền định của ngài do có duyên đời trước, nên ngài hiển lộ Mạn-đà-la của Guhyasamaja và đưa Kucipa vào Đàn pháp.

Đoạn Sư dạy: “Nay ngươi hãy lấy cái bướu nơi cổ của ngươi làm pháp quán tưởng. Hãy tưởng tượng cái bướu ấy mỗi lúc một lớn hơn.”

Kucipa thực hành thiền định y theo lời chỉ bảo của sư, quán cái bướu mỗi lúc một lớn hơn trước khi sự khổ đau kịp đến. Khi Nagarjuna trở lại, Kucipa bảo rằng phương pháp trị liệu có hiệu quả.

Sư nghe thế liền dạy rằng: “Lần này, ngươi hãy quán tưởng cả thế giới này hiển hiện trong cái bướu ấy.”

Kucipa thiền định liên tục và cục bướu tự nhiên nhỏ lại, teo dần và biến mất.

Đại sư thứ 36: Dharmapa – Kẻ không ngừng học hỏi

Dễ xúc cảm với nọc độc nhị phân 
Tâm thông thái bị đánh độc bởi sự phân tích 
Lời chú nguyện của một chân sư 
Chữa lành bệnh luân hồi trong ba cõi

Truyền thuyết

Dharmapa là một thư sinh chăm chỉ. Ông đọc sách không biết chán, nhưng tiếc một điều là ông không có óc phân tích và tính nhạy bén trong việc tiếp thu các kiến thức của thầy dạy.

Vì vậy ông không thể áp dụng những điều đã học vào cuộc sống thực tiễn. Ngoài ra, ông vừa học xong thì lại quên ngay.

Ngày nọ, ông gặp một nhà Du-già và thố lộ trở ngại ấy. Sư thương tình điểm đạo và truyền nội lực của một chân sư cho Dharmapa và dạy:

Hãy như thợ rèn kia 
Nấu kim loại sắt, thép 
Tan chảy thành một khối 
Hãy đốt cháy kiến thức 
Tan vào tâm hư vô.

Dharmapa nghe qua chợt hiểu ý của sư. Ngài nhận biết rằng những điều ngài đã học cũng sẵn có ngay trong chính bản tâm.

Đại sư thứ 37: Mahipa – Con người vĩ đại

Ngọn núi kiêu hãnh vô minh 
Chôn vùi viên ngọc như ý 
Giờ đây 
Sự mầu nhiệm của hành vi giác ngộ 
Đã thoả đáp những điều mong ước 
Kẻ nào nếm được vị giải thoát này 
Nghĩa là hoàn toàn thành tựu

Truyền thuyết

Mahipa là cư dân vùng Magadha (Ma-kiệt-đà). Ông có một thân hình cường tráng, lực lưỡng và sức khoẻ. Vì vậy, ông thường tự ca ngợi bản thân: “Ta là người khoẻ nhất mà không ai trên đời này có thể địch lại.”

Một ngày nọ, Mahipa tình cờ gặp một nhà sư Du-già trên đường đi vào thành. Sư dừng lại nhìn ông một cách chăm chú và hỏi:

“Ngươi đang nghĩ gì trong đầu vậy?”

“Không! Không! Tôi chẳng suy nghĩ gì cả!” Mahipa thối lui một bước.

“Không đâu! Ta biết ngươi đang thầm nghĩ: Ta là kẻ bất khả chiến bại.”

Nghe sư đoán đúng ý nghĩ của mình, Mahipa chợt rùng mình, tâm tư bàng hoàng, trở nên khiêm cung và rạp mình đảnh lễ sư. Sư dạy: “Hãy từ bỏ lòng kiêu mạn!”

“Vâng. Cúi xin đại sư chỉ dạy.”

Nhà sư làm phép điểm đạo và khai tâm cho Mahipa, rồi đọc bài kệ như sau:

Các pháp tự tâm sinh 
Thiền định không ngừng nghỉ 
Tức thời tâm không sinh 
Niết bàn thường tịch tịnh 
Trừng tâm là tối hậu

Nghe xong, Mahipa thưa: “Bạch thầy, con không hiểu.”

Sư lại nói: “Không tính là sức mạnh vô biên. Người có sức mạnh vô biên là người thấu đạt không tính.”

Mahipa nghĩ rằng những lời dạy của sư chẳng gợi lên một vấn đề gì là khó khăn cả. Nhưng mỗi lần ông muốn nắm bắt đối tượng của thiền định thì lại thất bại, và muốn nắm bắt ý thức thì nó trơn tuột.

Sau cùng, Mahipa mới hiểu được rằng chân lý không ngằn mé, bao la như bầu trời.

Đại sư thứ 38: Acinta – Ẩn sĩ tham lam

Trong Thủ ấn không có đối tượng, 
không có hình ảnh 
Mười ngàn vọng tưởng cũng là không 
Bởi vì các pháp là tịnh thức 
Tịnh thức cho nên ngộ lý này.

Truyền thuyết

Acinta là một tiều phu ở xứ Dhanirupa. Vì sự nghèo khổ bức bách của cuộc sống hằng ngày nên ông luôn luôn mơ ước đến sự giàu sang phú quí, bất luận ngày đêm. Trong tâm trí ông lúc nào cũng nghĩ đến cách làm thế nào để được giàu có.

Khổ thay! Lực bất tòng tâm. Acinta cảm thấy đau khổ tuyệt vọng và không muốn tiếp xúc với người đời vì mặc cảm nghèo khó. Ông đi đến một nơi hẻo lánh để ẩn cư. Nhưng chính nơi ấy, ông gặp được đại sư Kambala. Đại sư hỏi: “Ngươi đang nghĩ gì mà lại xa lánh mọi người như thế?”

“Tâm trí tôi luôn bị ám ảnh bởi sự giàu sang nên không thanh thản được.”

“Có một cách để từ bỏ sự tham đắm ấy. Nếu ngươi phát nguyện tu tập ta sẽ truyền cho.”

Acinta lấy làm hoan hỷ, cầu xin: “Mong Tôn sư từ bi hoá độ cho đệ tử.”

Sư nói:

Tham đắm mà làm chi 
Khác gì gái lỡ thì 
Hãy gạn lọc tâm, ý 
Quán thân như cõi trời 
Quán ý là tinh tú 
Tài thần tự hiện ra
Cúng dường bậc hiền giả.

Acinta vâng theo lời dạy mà tu tập. Những ý tưởng tham đắm vật chất thế gian biến thành ánh sáng của các tinh tú, và các tinh tú ấy tan biến vào bầu không gian vô tận. Ngài ngộ được chân lý và đem trình bày sở đắc ấy với chân sư của mình. Sư dạy:

Bản chất của bầu trời 
Là hư vô, không tận 
Làm sao ngươi nắm bắt 
Cái không tận, hư vô? 
Chẳng sắc, màu, hình tướng 
Mà ngươi mãi tham đắm 
Đi tìm kiếm quẩn quanh.

Đại sư thứ 39: Babhaha – Kẻ khao khát tự do

Ôi niềm vui! Niềm vui
Niềm vui không ngăn ngại 
Niềm vui không tham dục, 
niềm vui không si mê 
Mỗi niệm tưởng chính là niềm vui đó 
Ôi niềm vui kỳ ảo, niềm vui bí mật, 
Niềm vui không nắm bắt được.

Truyền thuyết

Babhaha vốn là hoàng tử xứ Dhanjur, một con người tham đắm sắc dục. Một hôm, nhân một nhà sư Du-già đến hoàng cung để khất thực, vị hoàng tử trẻ tuổi đem lòng ngưỡng mộ vị sư thông thái này và hỏi rằng với bản tính ưa thích lạc thú dục tình như ngài thì có thể tu tập thiền định được chăng.

Sư nói: “Tâm Bồ-đề hay Đại nguyện (Samayas) là nguồn gốc căn bản để có thể chứng đắc các pháp bí mật. Chân sư là nguồn gốc để thành tựu các pháp. Nay, Hoàng tử phát nguyện tu tập tức là gieo nhân lành, ắt sẽ thành tựu. Trong khi tận hưởng dục lạc thế gian, ngài hãy luôn quán niệm rằng mọi lạc thú không tách rời khỏi tính không (nyata).”

Kế đó, Sư làm phép khai tâm cho hoàng tử và truyền cho tâm pháp.

Hoàng tử y theo lời dạy của Sư tu tập trong 12 năm thì sự ám muội trong tâm dần dần biến mất.

Đại sư thứ 40: Nalinapa – Kẻ tự lực cánh sinh

Đoá sen nơi đỉnh đầu 
Ẩn chứa mầm tịnh lạc 
Ở luân xa nơi cổ 
là niềm vui siêu tuyệt 
Ở luân xa nơi tim 
là niềm vui xa bỏ 
Luân xa nơi đan điền 
là niềm vui tự tại 
Và ta đã đạt tới 
Cái bất khả đạt.

Truyền thuyết

Nalinapa là một ông hoàng bị thất sủng nên cuộc sống trở nên khó khăn, đến nỗi ông phải kiếm sống bằng cách nhặt củ sen ở một cái hồ.

Một ngày nọ, Nalinapa tình cờ gặp một nhà sư Du-già và được sư giảng giải về nỗi khổ sinh tử, cùng chỉ rõ sự vi diệu của cảnh giới Niết-bànNalinapa động tâm liền cầu sư dạy cho con đường giải thoát. Sư hoan hỷ nhận Nalinapa làm môn đệ và truyền cho tâm pháp.

Hãy quán chữ ham
Một màn trắng thanh tịnh 
Xuất hiện trên vương miện 
Và ở yết hầu một chữ bam
Sáng chói làm tan chảy chữ ham trên đầu.
Và hành giả tắm mình 
trong niềm an lạc vô biên, 
Bỏ lại cấu uế của sáu cõi, 
Và chỉ còn là niềm vui thanh tịnh
Đầy giải thoát mà thôi.

Nalinapa tu tập trong 9 năm thì đắc đại thần thông, tâm trí không còn bị phiền não khuấy động, giống như một đoá sen đã vươn lên khỏi mặt hồ.

Ngài hóa độ vô số chúng sinh ở thành Pataliputra, thọ 400 năm, sau đó cùng 450 môn đệ đến trụ ở cảnh giới của nữ kim cương Du-già.

Đại sư thứ 41: Bhusuku – Thầy tu giải đãi

Ta nếm mùi cay đắng
Cho đến khi nhận ra sự thật này 
Trong luân hồi, ta cách xa Phật vô vàn 
Nay tỏ ngộ biết Niết-bàn cũng là nơi ấy 
Từ đấy ta trở thành viên ngọc quí 
Tỏa sáng trong lòng đại dương mênh mông

Truyền thuyết

Dưới thời kỳ trị vì của vua Devapala, bảy trăm đồ chúng của đại tu viện Nalanda được nhà vua cung cấp đầy đủ các vật thực, y phục, thuốc men và những thứ cần thiết khác. Trong số tăng chúng này có một ông hoàng cũng theo tu học.

Ngài tu viện trưởng thường lấy làm hài lòmg về sự tiến bộ trong việc tu học của tăng chúng. Tuy nhiên, trong khi các bạn đồng môn tu tập nghiêm túc thì vị tu sĩ vốn dòng hoàng tộc chỉ lo ăn ngủ và đi dạo chơi loanh quanh chẳng làm gì.

Theo nội qui của tu viện, mỗi tu sĩ đều phải luân phiên tụng niệm những bài kinh mà họ đã học thuộc từ trước. Nhưng Bhusukukhông hề nhớ một đoạn kinh nào, lại thường trễ nãi trong việc công phu.

Tu viện trưởng bèn cảnh cáo Bhusuku và bảo rằng nếu ông còn vi phạm Thiền qui thì sẽ bị trục xuất.

Bhusuku không nhận lỗi lầm lại còn chống chế: “Bạch thầy! Tôi nào có phạm lỗi gì. Nếu tôi bị đuổi thì thật là điều bất công. Lý do đơn giản chỉ là tôi không phải người nhai lại như con vẹt.”

Tuy nhiên, ngài tu viện trưởng vẫn kiên quyết rằng nếu Bhusuku còn tái phạm sẽ bị trục xuất ngay.

Sự giải đãi của Bhusuku từ lâu đã bị các tăng chúng phê phán nên lần này họ rất mong đợi cái giây phút mà Bhusuku nhận lãnh hình phạt.

Một đêm trước khi đến thời công phu của Bhusuku thì ngài tu viện trưởng đến chỗ của Bhusuku khuyên bảo: “Lâu nay ngươi ăn ngủ quá nhiều, mà lẽ ra ngươi phải tinh tấn tu tập mới là điều tốt. Nếu ngươi không thể học thuộc kinh để cầu nguyện thì ắt phải bị trục xuất ra khỏi thiền môn. Ta giúp ngươi lần cuối. Đêm nay ngươi nên trì tụng chân ngôn Văn-thù, thần chú của vị Bồ Tát Đại Trí, không được ngủ nghỉ.”

Nói xong, ngài truyền mật pháp Văn Thù thiền định cho Bhusuku.

Sau khi ngài viện trưởng lui về, Bhusuku cột cổ áo lên trần nhà để khỏi bị ngã và để khỏi ngủ quên. Bhusuku khởi sự trì chú Văn-thù suốt đêm, đến gần sáng thì liêu phòng của ông tràn ngập ánh hào quang rực rỡ và Bồ Tát Đại Trí Văn-thù-sư-lợi hiện ra hỏi ông: “Mục đích cầu nguyện của ngươi là gì?”

“Ngày mai đến lượt công phu của tôi nhưng tôi không thuộc dòng kinh nào. Vì vậy tôi trì chú này để mong được Bồ Tát giúp tôi.”

“Ngươi không nhận ra ta sao?”

“Thưa, thật tình tôi không nhận biết ngài là ai.”

“Ta chính là Bồ Tát Văn-thù.”

“Cúi xin Bồ Tát ban cho tôi trí huệ thiện xảo của ngài.”

“Ta chấp nhận. Vậy, ngày mai ngươi cứ thực hiện nhiệm vụ của mình.”

Nói xong, Bồ Tát Văn-thù biến mất.

Sáng hôm sau, đến lượt Bhusuku hành lễ. Theo lệ thường đức vua Devapala cùng quần thần và dân chúng mang hương hoa đến để dâng cúng trong buổi lễ. Mọi người đều thấp thỏm chờ xem sự thất thố của ông tăng thường ngày vốn tỏ ra giải đãi.

Khi Bushuku đến nơi, sư yêu cầu mọi người mang đến cho sư một cái lọng cái để che đầu rồi bước lên pháp toà một cách tự tin.

Ngay khi sư vừa nhớm chân bước, toàn thân tự nhiên bay bổng và phát ra ánh sáng, đồng thời cửa chánh điện tự động khép lại khiến mọi người đều rúng động tinh thần.

Sư xoay người hỏi đức vua: “Các ngươi muốn ta đọc kinh nhật tụng hay muốn nghe ta thuyết pháp?”

Các nhà thông thái, đức vua cùng quần thần nghe sư hỏi như thế liền bật cười. Vua phán: “Thói quen ăn uống, ngủ nghỉ của đại sư thật lạ thường. Quả nhân cho rằng ngài nên đọc bài kinh riêng của ngài.”

Bhusuku liền đọc một hơi mười phẩm trong bộ kinh Con đường giác ngộ (Boddhicanjavatra). Đọc xong, toàn thân sư bay bổng giữa không trung.

Mọi người tung hoa tán thán công đức của sư. Họ bảo nhau: “Đây không phải là một Bhusuku giải đãi, lười biếng, ham ăn, mê ngủ. Đây là một vị thánh tăng. Chúng ta nên tôn vinh ngài làm tu viện trưởng.”

Nhưng Bhusuku từ chối lời đề nghị. Sư cúng dường những thứ mình có cho tu viện, rồi bỏ đi đến một thành phố khác.

Đến Dhokiri, một thành phố có hai trăm năm chục ngàn hộ dân cư, sư tự làm cho mình một thanh gươm bằng gỗ, bên ngoài mạ vàng trông giống như một bảo kiếm thực sự. Sư dến hoàng thành xin được làm lính canh, nhà vua đồng ý và trả cho ngài tám đồng tiền vàng mỗi ngày. Vào thời ấy, số tiền lương này rất có giá trị, và ngài lưu lại cung điện này suốt mười hai năm.

Mặc dù ở địa vị lính canh nhưng Bhusuku vẫn luôn luôn tu tập.

Bấy giờ trời đã vào thu, là lúc dân chúng trong vùng đón mừng lễ hội Đại Mẫu Umadevi nên Bhusuku thường cùng các đồng liêu đi tuần canh để giữ gìn trật tự.

Một hôm, đám lính canh đang lau chùi vũ khí, một người trong bọn họ phát hiện ra vũ khí của Bhusuku, nay có tên là Shantideva, dường như được làm bằng gỗ.

Họ trình tấu mối nghi ngờ của họ lên nhà vua. Nhà vua cho vời Shantideva đến và ra lệnh: “Tên lính canh kia! Hãy đưa gươm của ngươi cho ta xem.”

“Tâu bệ hạ! Điều này rất nguy hiểm.”

“Hãy làm theo lệnh của ta. Ta sẽ chịu trách nhiệm nếu có điều gì xảy ra.”

Cuối cùng Santideva đành phải tuân lệnh. Ngài nói: “Vậy xin bệ hạ và tất cả mọi người hãy dùng tay che một con mắt.”

Mọi người lấy làm lạ nhưng đều nghe theo, Santideva đưa tay tuốt gươm. Tức thì, một luồng ánh sáng rực rỡ chói lòa phát ra từ thanh kiếm làm cho tất cả mọi người có mặt ở đó đều mù đi một mắt.

Bọn họ kinh hãi, khóc lóc quì xuống trước Santideva, cầu xin ngài tha tội.

Santideva dùng tay xoa nhẹ lên mắt họ, lập tức họ trông thấy như cũ. Nhà vua lấy làm cảm kích, thỉnh cầu ngài ở lại hoàng cung làm quốc sư.

Nhưng một lần nữa nhà sư chối từ địa vị cao quí ấy và giã từ xứ Dhokiri để đi đến trú ngụ tại một hang động xa xôi hẻo lánh trên một dãy núi cao.

Một hôm, những người đốn củi bắt gặp ngài đang giết những con nai để ăn thịt bèn về tâu lại với nhà vua.

Lấy làm ngạc nhiên, vua cùng một số quân hầu đến nơi Santideva trú ngụ để tìm hiểu sự tình.

“Ngài là bậc đạo hạnh, cớ sao lại còn ra tay sát hại chúng sinh.”

“Ta không phải là kẻ hàng thịt. Ta chỉ chữa bệnh cho chúng mà thôi.”

Nói xong, sư mở cửa hang, bầy thú chạy ùa ra ngoài nắng ấm, trông chúng to lớn gấp bội những con nai bình thường.

Chúng chạy nhảy tung tăng khắp nơi rồi biến mất sau dãy đồi. Sư quay lại bảo: “Các ngươi nên hiểu rằng, tất cả những gì các ngươi thấy biết, cảm thọ cũng chỉ là mộng huyễn và ảo tưởng. Các pháp không có tự thể. Nếu các ngươi thông đạt lý ấy thì được giải thoát.”

Đoạn Santideva cất tiếng hát:

Con thú mà ta giết lấy thịt 
Không hề hiện hữu trên thế gian này 
Không hề đến, không hề đi 
Cũng như các hiện tượng khác 
Thực tướng của kẻ đi săn và con mồi là gì? 
Than ôi! Các ngươi thật tội nghiệp 
Đã gọi ta là ông sư giải đãi

Santideva làm lễ quy y cho nhà vua và đoàn tùy tùng, dạy phép thiền định và truyền cho họ chân ngôn Văn-thù.

Đại sư thứ 42: Indrabhuti – Ông hoàng giác ngộ

Ngay lúc thuận duyên nhất 
Y cũng không thể giác ngộ 
Nếu như không có sự cứu độ 
Của một bậc đạo sư 
Không có một vật gì ở trong hay ở ngoài 
Có thể làm cho một nhà Du-già tỉnh thức 
Không có sự phân biệt giữa Niết-bàn và Phật 
Hãy cắt đứt những hệ phược 
Thì nhận ra bản chất của Niết-bàn.

Truyền thuyết

Vùng Oddiyana thời ấy chia làm hai vương quốc: Sambholavà Lankapuri. Đức vua Indrabhuti đứng đầu xứ Sambhola, còn xứ Lankapuri do đức vua Jalendra cai trị.

Vua Indrabhuti có người em gái lên bảy tuổi, tên gọi là Laksminkara. Tuy cô còn bé nhưng dung nhan mỹ miều nên ông vua xứ láng giềng Jalendra muốn xin cưới cho con trai của mình.

Jalendra gửi sứ điệp sang vương quốc Sambhola nói rõ ý định của mình. Sau khi tiếp nhận điệp văn của vua xứ Lankapuri, cả triều đình luận bàn rằng trở ngại duy nhất của cuộc hôn nhân là sự khác biệt về tín ngưỡng: một bên thờ Phật còn bên kia thì thờ Phạm Thiên, cho nên cách tốt nhất là để đôi bên trai gái có cơ hội tìm hiểu và cần có thời gian để san bằng các dị biệt.

Tuy nhiên, Indrabhuti vẫn cho phép họ đính hôn với nhau.

Năm năm sau, hoàng tử xứ Sambhola đến viếng thăm hôn thê của mình, Laksminkara. Trước khi vị hoàng tử trở lại cố quốc, vua Indrabhuti ban cho chàng rất nhiều vàng, bạc, ngựa, voi.

Vua Jalendra lấy làm ngạc nhiên khi không thấy cô dâu theo về cùng, nhưng ngài cũng tỏ ra hài lòng khi hoàng tử giải thích rằng cô dâu còn quá nhỏ để có thể rời bỏ gia đình.

Vua Indrabhuti có rất nhiều thê thiếp và tất cả các bà phi này đều là tín đồ đạo Phật.

Nhân một hôm chân sư Kambala du hành đến xứ Sambhola, các bà phi cùng quận chúa Laksminkara ra đón tiếp ngài để được thụ pháp.

Sau khi được điểm đạo, quận chúa tu tập rất miên mật cho tới tuổi mười sáu thì vua Janlendra sai người sang đón về nhà chồng.

Nhưng khi đến xứ Lankapuri, quận chúa đã tìm cách thoát thân và trốn vào một hang động để tu tập cho tới lúc hoàn toàn chứng đắc.

Vua Indrabhuti nghe tin em gái bỏ trốn, ngài tự nhủ thầm: “Em gái ta non dại mà còn giác ngộ Phật pháp một cách sâu sắc như vậy. Ta nghĩ thật là hổ thẹn cho bản thân.”

Suy nghĩ như thế, vua bèn thoái ngôi, giao lại ngai vàng và công việc triều chính cho người con cả, còn bản thân ngài đi đến một lâu đài nhỏ để tu tập trong 12 năm thì đắc thần thông Đại thủ ấn, nhưng không một ai biết được sự thành tựu này.

Một ngày nọ hoàng tử cùng đoàn tùy tùng đến vấn an vua cha, khi họ định mở cửa thì một giọng nói từ trên cao vọng xuống: “Không cần vào! Ta ở trên này.”

Mọi người nhìn lên, thấy đức vua ngự trên ngai vàng ở giữa hư không.

Họ sung sướng rạp mình đảnh lễ. Ngài Indrabhuti ngự giữa không trung suốt bảy ngày để thuyết giảng diệu pháp cho con trai và đoàn tùy tùng.

Đại sư thứ 43: Mekopa – Người có tia nhìn dữ dội

Chân sư truyền: 
“Hãy nhận ra bản chất của tâm ngươi” 
Đoạn ngài nói: Chớ phân biệt các pháp 
Hãy kết bạn với “kẻ không hai” 
Hãy sống nơi mộ địa 
Ngươi sẽ nhận ra nguyên lý “nhất như”
Hãy đi vào cuộc đời
Khật khùng như bậc thánh

Truyền thuyết

Mekopa làm nghề bán cơm, nhưng ông tốt bụng và thường ngày hay cúng dường cho một nhà sư du-già.

Một ngày nọ, nhà sư du-già hỏi lý do vì sao Mekopa đối xử với ông như vậy. Mekopa đáp: “Tôi đang tích lũy công đức để mong đời sau được khá hơn.”

“Nếu muốn thế, ngươi nên tu tập thiền định.”

Rồi Sư làm phép hoán nghiệp, điểm đạo cho Mekopa và truyền tâm pháp. Sư nói:

Tâm ngươi là ngọc như ý 
Niết-bàn, địa ngục là đây. 
Biết và không biết là hai, 
Cả hai vốn từ đâu tới? 
Kìa! Vũ trụ trong tâm ngươi 
Không tăng không giảm 
Vì các pháp là ảo ảnh 
Mê muội cho là thật 
Nên bị trói buộc mãi.

Mekopa liền nhận ra rằng tất cả các hiện tượng chỉ là những mảnh vụn trong tâm, mà tâm của ngài là không gian bao la vô tận, không một vật đến và không một vật đi.

Ngài trụ trong trạng thái định tưởng như thế suốt sáu tháng.
Sau khi xuất định, Mekopa đi lang thang khắp nơi, khi ở mộ địa, khi ở trong nội thành, hành vi bí hiểm, đôi mắt lúc nào cũng lấp lánh ánh sáng dữ dội.

Ngài hoằng pháp khắp nơi và hóa độ vô số đệ tử.

Đại sư thứ 44: Kotalipa – Người bán rong

Tất cả niềm vui và đau khổ phát xuất từ tâm 
Hãy vâng lời chân sư đào xới mảnh đất tâm 
Ngay cả một bậc trí còn khổ nhọc 
Lao động quên mình trên núi đá 
Nhưng chẳng hề nhận ra Niết-bàn nơi tâm mình 
Giác thức nằm một góc trong tâm 
Sáu trần cảnh là một dòng lạc thú 
Các ảnh tượng mơ hồ là vô ích 
Chúng chỉ là nguyên nhân của âu lo 
Vì vậy hãy xả thiền 
Và nghỉ ngơi trong gió mát của thiên nhiên

Truyền thuyết

Kotalipa gặp được chân sư Santipa trong khi ông đang khai hoang vỡ đất ở một vùng núi cao. Lúc ấy đại sư Santipa đang trên đường từ Śrỵ Lanka trở về quê nhà ở Ma-kiệt-đà.

Rời khỏi vùng Ramesvaram bốn ngày đường thì Santipa gặp Kotalipa. Ông này dừng tay làm việc, nhìn vị đại sư đi ngang qua.

Santipa cũng nhìn thấy, liền gọi Kotalipa đến gần và hỏi thăm. Kotalipa chắp tay vái chào và đáp: “Tôi là người dân nghèo, vì chiến tranh nên trôi dạt đến vùng này. Ngày ngày khai hoang vỡ đất để trồng trọt sống qua ngày.”

Đại sư nói: “Ta có một câu thần chú dùng để đào núi, lấp sông. Ngươi có muốn nhận lấy để tu tập không?” Kotalipa vui sướng nhận lời.

Sư ngửa mặt lên trời nói: “Bởi vì tất cả khổ vui đều từ tâm ngươi sinh ra, nên phải luôn giữ cho tâm được thanh tịnh. Bản chất thanh tịnh trong tâm ngươi cũng không hề thay đổi như ngọn núi kia vậy. Niềm vui và nỗi buồn chỉ là những chức năng của tâm. Ngươi có thể xẻ núi, lấp sông, nhưng có thể không bao giờ ngươi nhận ra được bản chất thanh tịnh an lạc của tâm.”

Kotalipa thiền định theo lời dạy của sư sau 12 năm thì chứng đắc.

Đại sư thứ 45: Kamparipa – Người thợ rèn

Thân ta là bể rèn 
Đốt hòn than vọng tưởng 
Thổi hơi vào hai ống 
Nhâm mạch và đốc mạch 
Nhóm lửa thanh tịnh thức 
Đốt chảy sắt ba độc 
Ta rèn được pháp giới 
Chân lý là đây rồi.

Truyền thuyết

Đối với Kamparipa, nghề rèn vốn là một công việc cha truyền con nối, nên từ khi lớn lên ông đã kiếm sống bằng nghề ấy.

Nhân một hôm có nhà sư Du-già đến viếng thăm, Kamparipa tâm sự: “Tôi đang làm công việc mà từ đời ông đến đời cha tôi đã làm.”

Vị sư hỏi: “Ngươi có cảm thấy sung sướng và hài lòng với công việc thường ngày không?”

“Làm thế nào mà sung sướng được! Suốt ngày sức nóng của than hồng làm rát bỏng cả mặt mũi tay chân. Tôi chẳng qua bất đắc dĩ phải làm nghề này để kiếm sống qua ngày mà thôi.”

“Vậy ngươi có thể cho ta một ít thức ăn được chăng?”

Hai vợ chồng người thợ rèn cảm thấy ngạc nhiên khi thấy vị sư xin thức ăn từ những người ở giai cấp hạ tiện như họ, nhưng họ cũng vui vẻ cúng dường cho sư.

Ăn xong, sư hỏi họ có muốn nhận lãnh Phật pháp hay không. Họ cung kính thưa: “Không ai hạ mình truyền trao giáo pháp cho những người dân nghèo khổ bần cùng như chúng tôi, thưa đại sư.”

“Không sao, nếu các ngươi phát nguyện tu tập, ta sẽ truyền cho giáo pháp Đại thừa.”

Nghe nói, hai vợ chồng vui mừng đảnh lễ vị đạo sư của họ. Sư làm phép khai tâm điểm đạo, truyền cho họ phương pháp thiền định và cách thức để khai mở các luân xa.

Sư nói: “Các ngươi có thể sử dụng các vật thường ngày làm đối tượng thiền định. Hai ống thụt là hai luồng hỏa hầu. Tim là trung tâm lực, ý thức là thợ rèn, giác thức thanh tịnh là lửa, sắc ý là than. Đập sắt ba độc cho đến khi chúng trở nên niềm vui thanh tịnh.

Hãy lấy việc làm thường ngày làm thiền định 
Hai ống thụt là hai luồng hoả hầu 
Lalana nằm bên phải 
Rasana nằm bên trái 
Đốt sắc ý cho tan chảy 
Rót vào huyệt đạo Avadhuti 
Lửa giác ngộ làm tan chảy ba thanh sắt độc 
Tan vào pháp giới vô tận

Đại sư thứ 46: Jalandhara – Người được chọn

Hãy tự ban phép lành 
Gom cả ba thế giới 
Nhốt vọng tưởng vào trong 
Lalana bên phải 
Rasana bên trái 
Dưới cùng Avadhuti

Truyền thuyết

Jalandhara là người thuộc giai cấp bà-la-môn, vì chán ghét cảnh đời nên thường hay ra nơi mộ địa ngồi trầm tư về cuộc đời.

Một hôm, trong lúc mãi tư duy trong một trạng thái thanh tịnh, Jalandharachợt nghe giọng nói của Kim Cương Thánh Nữ từ trên không vọng xuống: “Này con! Ta chúc con có thể hiểu được chân lý rốt ráo.”

Jalandhara lấy làm vui mừng, liền nỗ lực niệm danh hiệu của Thánh Nữ cho đến lúc bà hiện ra trước mặt và truyền cho ngài tâm pháp.

Thánh nữ dạy rằng: “Trước hết con hãy gom ba cõi và tất cả các pháp hữu vi cũng như vô vi, có tướng và không tướng, nhốt chúng trong cái lồng làm bằng ba nghiệp (thân, khẩu, ý). Biến tất cả thành một khối tan chảy vào các luân xa. Chuyển hai luồng hỏa hầu (lalana và rasana) vào trung tâm lực (Avadhuti) và cho thoát ra ở cổng thanh tịnh trên đỉnh đầu. Sau đó, quán tánh bất khả phân ly của các pháp và không tánh, như tánh ướt không lìa khỏi nước.”

Những lời dạy ẩn dụ thật là khó hiểu đối với một người bình thường, nhưng Jalandhara được thiên nữ khai quang điểm nhãn nên ngài mau chóng hiểu nghĩa của pháp môn.

Sau 7 năm tu tập miên mật thì ngài chứng đắc thần thông Đại thủ ấn.

Đại sư thứ 47: Rahula – Con người lẩn thẩn

Rahula, con người kỳ diệu 
Là hành tinh rồng che khuất ánh sáng trăng 
Rahula của tri kiến giải thoát và bất nhị 
Che khuất vầng sáng của hiện tượng tương đối

Truyền thuyết

Rahula sinh ra và lớn lên ở vùng Kamarupa. Tuổi già khiến Ông trở nên lẩm cẩm và thường đau yếu. Điều này khiến mọi người trong gia đình thường phàn nàn và xem ông như một gánh nặng.

Rahula cảm thấy khốn khổ và lo lắng về việc hậu sự. Ông thường hay lang thang ở khu mộ địa với hy vọng tìm được một chân sư để giúp ông tu tập hầu sau khi tái sinh có được một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Và dịp may đã đến, Rahula thố lộ nỗi lòng với vị sư Du-già: “Thưa thầy! Thời thanh xuân của tôi đã qua, cái già sồng sộc kéo đến, bệnh tật lúc nào cũng đe doạ, cái chết chưa biết đến lúc nào. Đám con cháu của tôi lại tỏ ra khinh nhờn, láo xược. Giờ tôi chỉ mong được bình yên đón chờ cái chết.”

Vị sư nói: “Đúng vậy! Đúng vậy! Nay ông đã già. Ba dòng thác sinh, già, bệnh đã cuốn ông đi. Không bao lâu nữa, cơn bão chết sẽ dứt mạng sống của ông. Chẳng hay ông có muốn đem theo gì vào cõi chết?”

“Thưa thầy, nếu được thì điều con muốn là sự bình an.”

Vị sư liền đọc kệ:

Tâm không già, không chết 
Tâm không mất, không còn 
Tâm không đến, không đi 
Muốn ngộ được bản tâm 
Y pháp ta tu tập

Rồi sư khai tâm cho Rahula và dạy: “Hãy vận tâm quán tưởng một chữ A ngay trên đỉnh đầu của ngươi. Từ chữ A ấy lưu xuất một vầng sáng như trăng rằm và hãy tưởng tượng các pháp đều đi vào vầng sáng ấy.”

Rahula nghe xong cung kính đảnh lễ sư.

Từ đó, ông siêng năng tu tập cho đến khi đạt thần thông Đại thủ ấn.

Ở đây nói đến chữ A trong Phạn ngữ (Sanskrit).

Hãy rót dầu cảm xúc 
Vào ngọn đèn hiện tượng 
Thắp ngọn bấc sáu trần 
Lửa thanh tịnh bất nhị 
Đốt ý tưởng vu vơ

Truyền thuyết

Dharmapa là một nhà hiền triết xứ Bhodhinagar, đã dành trọn cuộc đời để nghiên cứu và quảng bá phương pháp thiền định của riêng ông.

Nhưng khi tuổi đã xế chiều, ông cảm thấy hình như bản thân ông vẫn còn thiếu sót một điều gì. Và có lẽ đó là một vị chân sư.
Ông cứ ưu tư mãi về chuyện ấy. Một đêm nằm mộng, Dharmapa thấy một vị Kim Cương Thánh Nữ dạy cho phương cách thiền định.

Từ điềm lành ấy, ông nỗ lực cầu nguyện và quán tưởng hảo tướng của vị thánh nữ ấy cho đến lúc bà hiện hình trước mặt ông.

Vị thánh nữ làm lễ quán đảnh cho ông và đọc bài kệ như sau:

Các pháp là ngọn đèn 
Sắc ý là dầu, 
Cảm thọ là bấc 
Đốt ngọn lửa trí huệ 
Rót dầu vọng tưởng vào đèn ý 
Đốt bấc cảm thọ bằng lửa huệ 
Ngọc như ý là đây

Sau sáu năm tu tập thì Dharmapa chứng đắc thần thông Đại thủ ấn.

Đại sư thứ 49: Dhokaripa – Người mang bình bát

Trời đất mênh mông
Chứa đầy trong bình bát 
Tri giác là các pháp 
Các pháp bất khả phân 
Chân như là tuệ giác.

Truyền thuyết

Dhokaripa là hành khất ở thành Hoa Thị (Pataliputra). Ông luôn mang theo bên mình một chiếc bình bát. Mỗi khi xin được thứ gì, Dhokaripa đều bỏ vào trong ấy.

Một hôm, đi khất thực suốt buổi nhưng Dhokaripa vẫn không có gì để bỏ vào bình bát. Ông chán chường, dừng chân ngồi nghỉ đưới một gốc cây. Nơi đây xuất hiện một nhà Du-già đến gần yêu cầu ông chia sẻ một ít vật thực để lót dạ, nhưng Dhokaripa lấy làm tiếc vì không có gì để cúng dường. Dù vậy, nhà sư vẫn hoan hỷ dạy:

Này Dhokaripa! 
Hãy bỏ tất cả kiến thức của ngươi 
Vào trong bình bát rỗng
Và quán tưởng 
Cả hai là một.

Dhokaripa nhận được chân lý ấy. Ngài tu tập theo lời dạy trong 3 năm thì chứng đắc. Từ đó, ngài vẫn luôn mang theo bên mình chiếc bình bát, và mỗi khi có ai hỏi đến, ngài đều đáp:

Đây là chiếc bình bát rỗng 
Ta chỉ nhận của cúng dường thanh tịnh 
Vì thanh tịnh là niềm vui của ta 
Lành thay! Người biết được bí mật 
Bí mật của Dhokaripa
Chỉ là chiếc bình bát rỗng

Đai sư thứ 50: Medhini – Người nông dân mệt mỏi

Thông qua tuệ giác của sự hiểu biết bẩm sinh 
Và phương tiện thiện xảo của giáo pháp 
Vì nền tảng ấy là bản chất thật của chúng sanh 
Niềm tịnh lạc khởi lên, nghĩa là đến đích

Truyền thuyết

Medhini là nông dân ở thành Hoa Thị, tình cờ gặp được chân sư của mình trên cánh đồng mà ông đang cày bừa.

Sư truyền pháp cho ông, nhưng vì cuộc sống bận rộn khiến ông không thể thực hành thiền định như ý muốn. Medhinibèn tìm đến thầy bày tỏ trở ngại.

Sư nói:

Ý thức là cái cày 
Cảm thọ là bò kéo 
Cày cánh đồng nhân duyên 
Gieo hạt giống trí huệ 
Thu hoạch vui thanh tịnh.

Medhini lãnh hội được ý thầy, bèn quay về tu tập. Sau 12 năm thì chứng đắc.

Đại sư thứ 51: Pankajapa – Bà-la-môn thác sanh từ hoa sen

Bơ vơ giữa cuộc đời 
Không một chút kiến thức 
Làm sao phân biệt được
Đá quí với thủy tinh 
Nhưng với sự nhận thức 
Và được sự hướng dẫn của một chân sư 
Chúng cũng chẳng khác gì nhau 
Vì ánh sáng của mặt trăng, mặt trời 
Cũng chỉ là tia chớp của loài đom đóm

Truyền thuyết

Mặc dù Pankajapa thuộc giai cấp bà-la-môn, nhưng tương truyền ông sinh ra từ một đoá sen trong một cái hồ lớn ở vùng xa xôi hẻo lánh.

Cách hồ ấy không xa có một bức tượng của đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Nhưng những người bà-la-môn lại lầm tưởng là tượng của Đại Phạm Thiên Vương, nên họ thường lui tới để lễ bái cúng dường.

Theo phong tục bản xứ, mỗi tín đồ đều mang ba nhánh hoa đến cúng dường trước tượng, sau đó lấy một nhánh đặt lên đầu để được ban phúc.

Một ngày nọ, đại sư Long Thụ đi ngang qua đền. Ngài ghé lại và cúng dường lễ bái thánh tượng của Bồ Tát.

Đức Quán Thế âm Bồ Tát thị hiện thâu nhận lễ vật và lấy một cành hoa đặt lên đầu đại sư Long Thụ. Pankajapa chứng kiến việc lạ ấy, lấy làm ngạc nhiên và ganh tị.

Ông bảo với ngài Long Thụ: “Ta lễ bái cúng dường bức tượng này suốt 12 năm nhưng chưa hề được ân huệ như thế. Lẽ nào ngươi chỉ lễ bái có một lần duy nhất mà đã được ban phúc.”

Ngài Long Thụ đáp: “Ý nghĩ của ngươi thật bất tịnh. Điều này không phải lỗi ở ta.”

Pankajapa chợt hiểu rằng mình đã sai, bèn dập đầu xuống đất cầu ngài Long Thụ thu nhận làm đệ tử.
Đại sư nhận lời và điểm đạo cho ông:

Từ bi là niềm vui sướng vô biên 
Vì vậy, bậc thánh nhân không phân biệt 
Kẻ thân hay người sơ 
Như cơn mưa lớn tưới khắp muôn nơi 
Đó là trí tuệ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát

Đại sư thứ 52: Ghantapa – Người rung chuông

Tự ban phép lành cho chính mình 
Bằng cách buộc tâm ở ba nơi 
Kinh lalana ở bên phải 
Kinh rasana ở bên trái 
Avadhuti ở ruột cùng 
Để nắm bắt được chân lý 
Kẻ trí giả cần quan tâm đến ba điều: 
Chân sư – tâm – và hiện tượng

Truyền thuyết

Ghantapa vốn là tu sĩ của một đại tu viện thuộc vùng SriNalanda. Ngài nổi tiếng là người giữ gìn giới luật tinh nghiêm và thông thạo về Ngũ minh môn.

Chẳng bao lâu, ngài rời Nalanda đi vân du đây đó để hoằng dương chánh pháp, làm lợi lạc quần sanh và thực hành hạnh vô ngã, cũng là để mở rộng tầm hiểu biết về mọi mặt.

Vào thời đó, hoàng đế Devapala do công đức đời trước nên cai trị một vương quốc giàu có và thịnh vượng gồm một triệu tám trăm ngàn hộ dân, cùng với hai nước chư hầu khác là Kamapura và Bengal.

Xứ Kamapura có chín trăm ngàn hộ, xứ Bengal có bốn trăm ngàn hộ, tổng cộng ngài cai trị cả thảy ba triệu một trăm ngàn hộ dân.

Thủ phủ Pataliputra là nơi mà đạo sư Ghantapa đến truyền bá đạo pháp. Thường ngày ngài đi khất thực và về nghỉ ngơi dưới một bóng cây đại thụ.

Một hôm, hoàng đế bàn với hoàng hậu rằng: “Tất cả các pháp đều vô thường. Tất cả chúng sinh đều phải chịu khổ đau. Tất cả những thấy biết, cảm thọ trong cuộc sống thật là vô nghĩa. Đối với công việc triều chính, ta đã chu toàn trách nhiệm, ta đã trải rộng biên cương, lo cho dân lành một cuộc sống bình yên, no đủ. Vậy chúng ta có nên cúng dường những thứ vật thực cần thiết cho tăng chúng để tích lũy thêm công đức cho đời sau chăng?”

Hoàng hậu nghe qua bèn tâu: “Trong nhiều đời thuộc quá khứ, bệ hạ đã từng cúng dường cho các thánh tăng, nên đời này mới được hưởng phước báo. Cớ sao chúng ta lại không tiếp tục tạo dựng công đức cho đời nay lẫn đời sau? Thần thiếp nghe nói rằng hôm nay có một du tăng từ phương xa đến. Có lời đồn rằng ngài là một bậc đạo hạnh, trí huệ thông suốt như một bậc thánh. Ngài chẳng có gì quí giá ngoài những vật dụng cần thiết và một tấm tọa cụ. Thường ngày ngài đi khất thực loanh quanh. Vậy, ta nên thỉnh ngài đến hoàng cung để dự đại tiệc. Chúng ta sẽ thết đãi ngài tám mươi bốn món ăn chính, mười bốn loại thịt ngon, rượu bồ đào và năm loại thức uống khác. Chúng ta sẽ thay chiếc đèn cũ kỹ của ngài bằng ánh sáng lấp lánh của những viên kim cương. Và rồi, chúng ta sẽ dâng ngài tất cả những thứ giải trí mà vương quốc của chúng ta có thể mang lại.”

Nhà vua nghe qua những lời của hoàng hậu liền hoan hỷ chuẩn y.

Sáng hôm sau, vua sai quân hầu đến thỉnh sư. Nhưng ngài từ chối, sứ giả đành phải quay về báo lại với đức vua.

Hôm sau nữa, đức vua đích thân đi thỉnh sư. Khi nhà vua đến nơi, ngài cúi mình đảnh lễ sư và muốn biết lý do vì sao sư từ chối lời mời đến hoàng cung. Sư đáp: “Bệ hạ bất tất phải phiền luỵ đến thế.”

“Quả nhân vì kính tín đại sư nên mới thân hành đến đây. Mong đại sư quá bước đến hoàng cung.”

“Vương quốc của bệ hạ đầy rẫy những điều tác tệ. Ta không đến đâu.”

“Cúi mong đại sư hoan hỷ lưu lại với chúng tôi một năm thôi.”

Mặc cho đức vua nài nỉ, Ghantapa vẫn một mực từ chối không chịu đến viếng hoàng cung, dù chỉ một ngày. Sư bảo: “Nhà vua đi, đứng, nằm, ngồi đều không tránh được tội lỗi. Thật bất tịnh, nên ta dứt khoát không nhận lời mời.”

Thế là, nhà vua đành phải quay về. Nhưng rồi ngày nào ngài cũng đến vấn an sư, với hy vọng sư sẽ đổi ý. Và cứ như thế trong suốt bốn mươi ngày nhưng không đem lại kết quả gì.
Cuối cùng nhà vua và hoàng hậu cảm thấy bị xúc phạm quá đáng. Ngọn lửa sân hận bùng cháy trong tâm thức họ.

Vua hạ chiếu rao truyền khắp nơi rằng, người nào có thể phá được phạm hạnh của sư Ghantapa sẽ được trao cho nửa vương quốc và được thưởng một trăm cân vàng.

Lúc bấy giờ ở kinh thành Hoa Thị (Pataliputra) có một mụ điếm già tên là Darina luôn mong mỏi có một cuộc sống giàu sang. Khi hay tin ấy bèn tìm đến hoàng cung để hiến kế.

Mụ khẳng định với nhà vua rằng mụ có thể thoả mãn yêu cầu của nhà vua và làm cho nhà sư kiêu mạn kia phải thân bại danh liệt Thế là vua chấp thuận kế sách của mụ.

Darina vốn có một thời oanh liệt ở chốn lầu xanh, mụ biết đủ trăm phương nghìn kế để quyến rủ đàn ông, lại có một cô con gái vô cùng xinh đẹp ở tuổi vừa mới cập kê.

Nàng hãy còn rất trong trắng, chưa hề bị nhiễm ô bởi cuộc đời. Nàng có một khuôn mặt tựa trăng rằm, dáng đi uyển chuyển, lời nói dịu dàng, khôn ngoan, một thân hình khêu gợi và một khuôn ngực tròn đầy. Mụ quyết định: “Ta sẽ khiến con gái ta đem ông tăng này trở lại với thế giới của dục vọng và ta sẽ phá hủy đạo hạnh của y trong mười ngày liên tục.”

Thế là mụ già đi đến chỗ ở của Ghantapa để cúng dường. Mỗi lần đến như thế, mụ đều tỏ ra rất cung kính đảnh lễ trước ngài. Đến ngày thứ mười, mụ tiến lại gần bên sư thưa: “Bạch thầy! Xin thầy cho phép tôi được phục vụ trong suốt mùa an cư này.”

Ghantapa không hề quan tâm đến mụ. Nhưng từ ngày này sang ngày khác, mụ cứ theo nài nỉ xin được phục vụ ngài và cuối cùng mụ cũng được sự đồng ý của sư.

Darina lấy làm vui mừng liền bày ra một cuộc tiệc để ăn mừng cái gọi là sự thành công bước đầu của mình. Mụ ngâm nga luôn miệng:

Mánh khoé của một cô gái 
giúp nàng thực hiện ước mơ.
Sức quyến rũ của nàng 
là vũ khí vô cùng lợi hại.

Mụ nhủ thầm: “Bằng mưu mẹo ta có thể lừa phỉnh cả thế gian này, sá chi một nhà sư.”

Thế là mụ điếm già cố tìm cách phô trương năng lực của mình. Khi mùa an cư bắt đầu, Ghantapa bảo với mụ rằng chỉ nên sai các người nam mang vật thực đến cúng dường. Tuy nhiên, sư không đề cập với mụ việc không cho người nữ đến phục vụ. Darina bèn ưng thuận.

Trong hai tuần lễ đầu, mụ sai toàn những thanh niên mang vật thực gồm gạo và nước suối đến cúng dường.

Nhưng đến ngày thứ mười lăm, mụ chuẩn bị một bữa tiệc lớn. Mụ sửa sang, trang điểm cho cô con gái ăn vận lộng lẫy như một nàng công chúa, đoạn sai nàng cùng năm mươi thanh niên mang thật nhiều vật thực đến cúng dường sư.

Mụ căn dặn con gái khi đến nơi phải đứng từ xa quan sát vị trí túp lều của sư. Cô gái vâng theo lời mẹ và cố gắng ghi nhớ những lời mẹ dặn.

Sau khi đám thanh niên ra về, cô gái tìm cách lén vào bên trong căn lều của Ghantapa.

Khi nhà sư từ trong rừng trở về, ngài thấy vắng đi những người hầu nam và ngài lấy làm ngạc nhiên khi thấy một thiếu nữ ăn vận sang trọng như một công nương đang ở trong chỗ ở của ngài.

Sư thắc mắc hỏi cô gái: “Chuyện gì đã xảy ra với các chàng trai vậy?”

“Thưa thầy, họ không có thời gian lưu lại nên tiện thiếp phải ở lại để phục vụ ngài.”

Sư ăn xong bữa, nhưng cô gái vẫn cứ nán lại không chịu ra về.
Mãi đến khi sư nghiêm khắc xua nàng về, cô gái liền đáp: “Trên trời có những đám mây ngũ sắc, thiếp e rằng trời sắp đổ mưa, vì vậy thiếp phải nán lại.”

Cô gái lưu lại cho đến khi mặt trời lặn khuất chân trời. Cuối cùng cô nói: “Mặt trời đã tắt nắng mà tôi không có người đi cùng để hộ vệ. E rằng đi một mình giữa đêm tăm tối sẽ bị cướp mất tư trang và thiệt hại đến tính mạng.”

Đến lúc này không thể từ chối được nên sư đồng ý cho cô ngủ lại ở bên ngoài căn lều.

Nhưng khi đêm đến, cô gái giả vờ hoảng sợ kêu khóc ầm ĩ. Không biết làm sao hơn, sư đành để cho cô vào bên trong để ngủ.

Túp lều lại quá nhỏ dành cho hai người nên tất nhiên thân thể hai người phải chạm vào nhau.

Cho đến nửa đêm, thân thể hai người quyện vào nhau làm một và họ cùng nhau trải qua bốn từng lạc thú.

Sáng hôm sau, Ghantapa yêu cầu cô gái ở lại và họ trở thành một đôi vợ chồng. Một năm sau, đứa con của họ cất tiếng khóc chào đời.

Trong thời gian ấy, nhà vua càng trở nên mất kiên nhẫn hơn. Ngài cứ luôn hỏi thăm mụ Darina về việc thực hiện quỷ kế của mụ đã thành công đến đâu nhưng mụ cứ né tránh mãi.

Cho tới ba năm sau, mụ mới đến báo cho nhà vua biết kết quả của âm mưu làm hại nhà sư Ghantapa.

Được tin, nhà vua lấy làm hài lòng phán: “Hãy bảo với con gái nhà ngươi, trong ba ngày nữa ta sẽ đến viếng thăm nàng và nhà sư.”

Đúng ngày hẹn, vua tập trung dân chúng rồi khởi hành đi đến chỗ sư Ghantapa.

Khi ấy Ghantapa bàn với người vợ: “Chúng ta nên ở đây hay nên đi sang một xứ khác?”

Cô gái muốn ra đi, vì cô sợ mọi người sẽ quở mắng và sỉ nhục cô. Vì vậy, Ghantapa dấu đứa bé trong tấm áo choàng, kẹp theo một bình rượu ở nách rồi dẫn vợ ra đi.

Rủi ro thay, trên đường đi họ gặp nhà vua ngay ở giữa đường. Nhà vua ngồi trên mình voi cất giọng dè bỉu: “Cái gì dưới lớp áo của thầy vậy? Và cô gái xinh đẹp này là ai?”

“Ta mang theo bình rượu và đứa bé trong tấm áo choàng là con của ta.” Ghantapa đáp, mắt vẫn nhìn thẳng vào đức vua.

“Khi ta mời thầy đến hoàng cung, thầy từ chối, lại còn chê ta là kẻ tội lỗi. Bây giờ thầy hãy nhìn lại xem! Một thầy tu lại có vợ, có con. Rõ ràng như năm với năm là mười. Thầy là một con người đầy tội lỗi.”

Sư thản nhiên đáp: “Ta vô tội. Ngươi chớ sỉ nhục ta.”

Khi nhà vua lập lại lời cáo buộc một lần nữa, Ghantapa hất tung đứa bé và bình rượu xuống dưới đất. Nữ thần đất lúc bấy giờ cả kinh vội dùng thần thông phụt một dòng nước cực mạnh lên cao hứng lấy đứa bé và bình rượu, đặt lơ lửng giữa khối nước.

Đứa bé trở thành sấm sét và bình rượu biến thành một cái chuông (ghanta). Nhà sư Du-già và người vợ cùng biến thành hai vị thần Samvara và Varahi trong tư thế âm dương giao hoà.

Cả hai bay lên trên không trung, còn nhà vua và đoàn tùy tùng bị ngập trong làn nước.

Đám người sắp bị chết đuối sợ hãi nhìn đau đáu lên trời, gào khóc, van xin mong cứu giúp: “Chúng tôi xin quy y thầy.”

Nhưng lúc ấy, Ghantapa đang ở trong Phẫn nộ bất động đại định (Samadhi of immutable wrath) nên ngài vẫn giữ im lặng.

Khi mọi người sắp nguy khốn thì Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra, dùng một bàn chân chèn nơi chỗ đất nứt và làm cho nước trở về chỗ cũ. Thế là mọi người được cứu sống.

Họ mừng rỡ cúi lạy cầu xin sư tha tội.

Bấy giờ, có một tượng Quán Thế Âm bằng đá bỗng hiện ra ngay chỗ ấy, và cho đến ngày nay ở vị trí nơi chân của bức tượng này vẫn còn phun ra một tia nước nhỏ cao đến sáu thước.

Sư xuất định, dạy rằng:

Mặc dù dược thảo và thuốc độc 
tạo ra kết quả trái ngược nhau, 
Nhưng trong bản chất rốt ráo của chúng, 
cả hai đều như nhau. 
Giống như những thuận duyên và nghịch duyên 
trên con đường tu tập, 
Chúng hữu ích như nhau. 
Vì vậy chớ nên phân biệt 
Bậc trí giả chẳng chối bỏ điều chi 
Cớ sao đứa con tinh thần lại không thừa nhận? 
Nếu ngươi bị đánh độc đến năm lần, 
Thì cũng bị lạc lối trong luân hồi vậy.

Qua lời giải thích của sư, nhà vua cùng mọi người từ bỏ các kiến chấp và ý tưởng sai lầm. Họ thấy được niềm tin và đồng lòng quy y pháp.

Từ đó, Ghantapa được mệnh danh là “Người giữ chuông”. Danh tiếng của ngài vang dội khắp nơi.

Trong sáu kiếp thuộc đời quá khứ, cô gái luôn là người khiến cho sư phải từ bỏ Phạm hạnh thanh tịnh. Nhưng trong đời này, vì tâm phân biệt của sư không còn nữa; cấu trúc nhị phân trong tâm của ngài đã tan biến trong cảnh giới vô tận của tánh không, nên dòng tâm thức của ngài đã phát triển đến mức cùng tột.

Ghantapa đặt tên cho con trai của ngài là Vajrapani tức Kim Cương Thủ. Còn cô gái, vợ của ngài, do công đức phục vụ ngài trong nhiều đời nên nay cô cũng thoát khỏi vô minh.

Ghantapa có quyền năng và phẩm tính của một vị Phật.

Hành trì

Một bản dịch khác liên quan đến đạo sư Ghantapa càng làm sáng tỏ những chỗ còn mơ hồ trong truyền thuyết vừa kể trên.

Theo bản dịch này, Ghantapa vốn là con trai của đức vua Nalanda. Ngài không chịu nối ngôi cha lại đi xuất gia thọ giới cụ túc với hoà thượng Jayadeva Subhadra. Sau đó ngài trở thành quốc sư của vua Nalanda.

Ngài gặp Darikapa và được vị này điểm đạo và truyền cho mạn-đà-la Samvara, rồi bảo ngài vào rừng tu tập.

Cho đến một hôm ngài nghe một giọng nói vọng xuống từ trên không trung bảo ngài phải đi đến Oddiyana.

Vị nữ chân sư của ngài vốn làm nghề chăn lợn. Ban đầu ngài tỏ ý từ chối vì bà này dung mạo cực kỳ xấu xí, nhưng sau đó ngài nhận ra bà chính là một Dakini.

Và một lần nữa, vị nữ chân sư này truyền cho ngài mạn-đà-la Samvara .

Tại cánh rừng già ở Oddiyana, ngài đã xúc phạm đến đức vua khi ngài từ chối đi cùng với nhà vua vào kinh thành.

Cô gái được sai đến để quyến rũ ngài chính là yếu tố còn thiếu trong thiền định của ngài.

Ghantapa đã điểm đạo cho cô và nhận cô như là một Dakini của ngài.

Mặc dù nhà vua tìm cách nhạo báng nhưng chính thực là Ghantapa vốn vào thành để hoá độ dân chúng.

Tương truyền ngài dùng thần thông hoá hiện ra hai đứa bé, một trai và một gái. Đoạn dùng một cái muỗng lớn chiết rượu ra, rồi sai chúng đi đổ đầy các bình rượu của mọi nhà trong kinh thành.

Sau đó ngài vất cái muỗng xuống đất, khiến nước phụt lên từ một khe nứt. Hai đứa bé biến thành sấm chớp và một cái chuông.

Ngài cùng vợ biến thành hai vị thần Samvara. Điều này giải thích lý do vì sao Omsa là nơi mà Kim cương thừa được truyền bá rộng rãi.

Truyền thuyết đưa ra một chủ đề lớn đề cập đến sự mông muội của một hạng người tự cho rằng cách tư duy của mình là đúng.
Họ chấp chặt vào những nguyên tắc luân lý hữu hạn để kết tội người khác dám có một lối sống vượt thoát khỏi cái thường tình của những quy ước xã hội.

Cô gái Dakini trong tiền kiếp đã từng quyến rũ, cám dỗ Ghantapa. Và trong những kiếp ấy, ngài đều bị trói buộc bởi những mệnh lệnh của luân lý.

Trong đời này, tâm ngài đã thuần thục nên ngài chấp nhận giáo pháp của một Dakini, đồng thời đạt tới giải thoát sau khi trải qua bốn trạng thái an lạc.

Tâm thanh tịnh của ngài đã được ấn chứng bởi Đại thủ ấn nên nhà vua đâu thể hiểu rằng “Tâm hoan hỷ không bao giờ ô nhiễm”.

Nhà vua tự cho mình có lý khi kết tội “một người đàn ông và một người đàn bà sống trong tội lỗi” vì nhà vua không chấp nhận các thanh tịnh khả hữu nơi người khác.

Nếu truyền thuyết nêu rõ rằng thiền định Đại thủ ấn ngăn không cho Ghantapa chấp nhận lời mời của nhà vua thì ở đây thiếu vấn đề trả nghiệp khi nhà vua tìm mọi cách để làm nhục ngài.

Trong giáo pháp sư dạy cho nhà vua và mọi người, ngài đã truyền lại cái mà ngài đã chứng nghiệm: “Chớ ưa thích điều tốt, chớ ghét bỏ điều xấu. Hãy chấp nhận mọi thứ như tự thân của chúng. Hãy thâm nhập vào thực thể để nếm được vị chung của các pháp.”

Nhưng chính điều này Ghantapa đã không nhận ra trong sáu kiếp quá khứ. Ở đây có hai cặp phạm trù đạo đức. Cuộc sống ban đầu của ngài là một bậc tu hành đầy đủ giới đức và sống phạm hạnh, và về sau là cuộc sống của một nhà Du-già phóng khoáng. Hai phương tiện khác nhau nhưng cùng một đích đến.

Điều này hơi nguy hiểm khi các bậc thầy rao giảng truyền thuyết này cho một người đang bám víu vào các tiêu chuẩn đạo đức nhị phân để tu tập tìm sự thanh tịnh và tỉnh giác, vì y sẽ nhanh chóng cảm thấy bị hụt hẩng, rơi vào hố thẳm của nghi ngờ và lầm lẫn.

Tuy nhiên, không có một sự trùng lắp nào cho thấy những con người bị xã hội ruồng rẫy vì phi đạo đức lại có thể được khai tâm trong môn Tantra này.

Những ý niệm luân lý đôi khi cũng là những trở ngại khó vượt qua để thành tựu Bồ Tát nguyện, vì đôi khi những nguyên tắc này có tính quyết đoán và không thoả hiệp với hành động từ bi

.Sử liệu

Về mặt lịch sử, Ghantapa là người đồng thời với đệ nhị hoàng đế Devapala (810-830) Nhưng hình như đây không phải là vị vua mà Ghantapa đã xúc phạm.

Devapala là một đại thí chủ rất hào phóng của tu viện Nalanda. Vào thời ấy, xứ Bengal được gọi là Bengala. Nó gồm cả đông và tây xứ Bengal hiện nay, không kể những phần đất của Bihar.
Kamapara chính là thành phố tiếp giáp với thung lũng Brahmaputra mà thủ phủ là Pataliputra, gồm cả đông và nam Bihar.

Ghantapa rất nổi tiếng ở Tây Tạng vì sự nghiệp khai sáng dòng tu Samvara PancakramaPancakrama bao gồm các phương pháp luyện tập thân thể được Ghantapa đề cập trong mười tám tác phẩm nổi tiếng của ngài và hầu hết những tác phẩm này điều liên quan đến SamvaraTantra.

Ngài nhận được sự khải huyền về Samvaramạn-đà-la từ Kim Cương Thánh Nữ, mà có lẽ bà này chính là người phụ nữ chăn lợn ở Oddiyana, nhưng cũng có thể là nữ Du-giàVilasyavajra, đệ tử của sư DombipaHeruka.

Trong dòng Mật tông Tây Tạng, đôi khi người ta gác bỏ tên của Dengipa qua một bên, nhưng lại đề cập đến Darikapa như là một chân sư của Samvara. Dòng Kalacakra cũng gồm Ghantapa. Điều này khiến ngài trở nên là một trong những người Ấn Độ đầu tiên được truyền môn Tantra này.

Do đó, có thể kết luận rằng môn Tantra này đã xuất hiện tại Đông Ấn vào khoảng thế kỷ 9.

Đại sư thứ 53: Jogipa – Kẻ hành hương

Hãy kiên trì chú mục vào ánh sáng trong tâm 
Toả sáng rực rở như đầu một ngọn lửa 
Tất cả các hiện tượng tĩnh và động 
Tan chảy và chìm vào hư vô

Truyền thuyết

Jogipa là một người có năng lực và có cơ duyên với môn Tantra nhưng lại là một người kém trí huệ. Mặc dù được chân sư Savanpa truyền cho pháp thuật và phương cách thiền định, ông vẫn không hề có một chút tiến bộ nào trong việc tu tập. Jogipa đem thắc mắc của mình trình với tôn sư.

Sư bảo ông phải đi hành hương đến 24 thánh địa và trong lúc đi hành hương phải trì tụng thần chú Kim Cương Tát Đỏa.

Jogipa y pháp tu tập trong 12 năm thì đắc thần thông Đại thủ ấn.

Sau khi đắc pháp, ngài vân du khắp nơi để hành đạo, hóa độ vô số đệ tử và thọ được năm trăm năm.

Đại sư thứ 54: Celukapa – Kẻ biếng nhác

Sau nhiều năm thực hành lời dạy của chân sư 
Ta bỗng thấy…
Đất nước, lửa, gió không tồn tại 
Tất cả hiện tượng đều là Đại ấn

Truyền thuyết

Celukapa sinh ra trong một gia đình hạ tiện ở vùng Mangalapur. Vốn là một kẻ lười nhác, lúc nào cũng tỏ ra uể oải vì chứng ngủ gật, nhưng Celukapa rất sợ sinh tử luân hồi và nghiệp báo.

Một hôm ông đang ngồi dưới gốc cây thì có một nhà sư Du-già là Maitripa đi ngang qua, cất tiếng hỏi: “Chẳng hay hiền hữu lo âu chuyện gì?”

“Thưa thầy, tôi đang suy nghĩ làm cách nào để thoát khỏi nghiệp báo. Tôi mong gặp được chân sư truyền thụ giáo pháp nhưng vì quá lười nên không đi tìm. Nay cơ duyên đã đến, mong thầy từ bi nhiếp thọ.”

Đại sư Maitripa bảo: “Nếu ngươi được khai tâm, điểm đạo thì dứt được bệnh hay ngủ, lại còn có khả năng thoát khỏi luân hồi. Nhưng ngươi nhất thiết phải nỗ lực tu tập.”

“Đệ tử xin vâng lời thầy.”

Đại sư Maitripa truyền cho ngài giáo pháp của Samara, dạy cách thiền định để khai thông các trung tâm lực. Ngài dặn: “Hãy tập trung các pháp hiện tượng vào ba nghiệp: thân, khẩu và ý; dẫn hai luồng hỏa hầu (Lalana và Rasana) đi vào trung tâm lực (Avadhuti), quán tưởng thành một cái hồ lớn mà cảm thọ là một con thiên nga trong cái hồ ấy. Khi dồn tất cả năng lực vào Avadhuti thời ngươi có thể vượt qua sự mệt mỏi, hôn trầm và như thế sẽ trụ trong một trạng thái vô niệm và tịch tĩnh.”

Celukapa tu tập như vậy trong 9 năm thì dứt các vô minh và đạt thần thông Đại thủ ấn.

Đại sư thứ 55: Godhuripa – Người bẫy chim

Các hiện tượng bên trong hay bên ngoài 
đều từ tâm mà ra 
Khi nhận ra bản chất của tâm là ánh sáng 
Thì ngủ nghỉ, đi lại, mơ mộng và thiền định
đều hiển hiện trong pháp giới 
Hiểu được trọn vẹn như vậy 
nên ta nhận ra Phật tính

Truyền thuyết

Godhuripa là dân xứ Disunagar, sống bằng nghề bẫy chim.

Một hôm ông đang dùng tấm lưới lớn để bẫy chim thì gặp một nhà sư Du-già. Sư hỏi thăm về nghề nghiệp. Godhuripabảo rằng: “Do nghiệp bất thiện đời trước nên kiếp này tôi phải làm nghề bẫy chim để sống. Dẫu biết rằng đây không phải là một nghề tốt, nhưng không có cách nào khác hơn, thưa đại sư.”

Đại sư nói: “Nếu vậy, đời sau của ngươi lại càng tệ hại hơn nữa. Sao ngươi không tu tập pháp Phật để tìm thấy sự an lạc?”

“Xin thầy xót thương mà dạy cho pháp giải thoát.”

Đại sư liền làm phép khai tâm, điểm đạo cho Godhuripa rồi dạy rằng: “Ngươi hãy quán sát tất cả âm thanh trong thế gian này đều là tiếng chim hót. Hai thứ ấy đều là một thì chứng vào pháp giới.”

Godhuripa tu tập được 9 năm thì dứt vô minh, chứng đắc Đại thủ ấn. Ngài thọ được một trăm năm và hóa độ trên ba trăm đệ tử.

Đại sư thứ 56: Lucikapa – Kẻ đào tẩu

Từ vô thủy đến vô chung 
Ta đắm mình trong bể trầm luân 
Lời của chân sư là con tàu vững chãi 
Giúp ta vượt qua bao đại dương 
Đến bên kia bờ giải thoát

Truyền thuyết

Lucikapa là một người thuộc giai cấp bà-la-môn. Vì thấy cảnh chết chóc của những người chung quanh, ông sinh ra chán nản không muốn sống nơi chốn phồn hoa đô hội mà tìm đến ẩn cư ở một vùng xa xôi hẻo lánh.

Lucikapa rất muốn tu tập pháp Phật, nhưng chưa tìm được cho mình một chân sư.

Một hôm, nhìn thấy một vị tăng đi ngang qua chỗ ở, ông vội ra vái chào và đảnh lễ rất cung kính.

Vị sư hỏi: “Vì sao ngươi vái chào ta?”

“Thưa, bấy lâu tôi mong được tu tập pháp Phật nhưng chưa gặp được chân sư. Nay duyên may đưa đến, xin thầy xót thương truyền cho diệu pháp.”

Sư hoan hỷ làm phép quán đảnh và khai tâm cho Lucikapa. Ngài y pháp tu tập, sau 12 năm thì đắc pháp.

Sau khi đắc pháp, ngài đọc một bài kệ ngắn nói lên sự giác ngộ của mình:

Luân hồi và niết bàn là hai 
Riêng ta thấy ấy hai mà một 
Giải thoát chính là niềm an lạc 
Chẳng dựa vào một vật gì, 
Thì khó khăn mấy cũng qua được bờ kia

Đại sư thứ 57: Nirgunapa – Trẻ thơ giác ngộ

Giáo pháp của chân sư 
Dẫn đường ta đi đến chốn bình an 
Nơi ấy, 
Không có chỗ cho cảm xúc dữ dội 
hay tư tưởng mâu thuẫn trú ngụ 
Lời dạy của một chân sư 
Làm tan những cơn sóng dữ 
Những cơn sóng quấy rầy ta trong thiền định

Truyền thuyết

Nirgunapa sinh trưởng ở vùng Purvadesa. Sự ra đời của ông thật sự là một niềm vui sướng lớn đối với cả gia đình.

Điều không may là khi lớn lên, Nirgunapa không thể ngồi dậy hay cử động bình thường như bao đứa trẻ khác. Điều này khiến cha mẹ của Nirgunapa thất vọng.

Hơn nữa, tuy lớn tuổi nhưng trí óc của cậu chẳng khác nào đứa trẻ lên năm. Cha mẹ cậu thường nói với nhau: “Thằng Nirgunapa nhà ta thật là vô tích sự. Lẽ ra chúng ta chẳng nên sinh nó.”

Tuy khờ khạo nhưng nghe những than phiền của lời bố mẹ Nirgunapa cũng buồn tủi lắm.

Cho đến một hôm Nirgunapa tự lăn mình ra khỏi nhà đến một nơi vắng vẻ. Ở đấy, cậu gặp một nhà sư Du-già. Sư bảo: “Ngươi hãy đứng dậy, vào thành mà kiếm cơm. Cớ sao cứ nằm ì ra đấy?”

Nirgunapa đáp: “Tôi không thể ngồi dậy được.”

Thương hại cho hoàn cảnh của Nirgunapa, sư nhường cho cậu một ít thức ăn và hỏi: “Ngươi có biết làm nghề gì không?”

“Thưa thầy, tôi không biết làm gì cả.”

“Nhưng ngươi còn phải ăn, ngươi không sợ chết đói à?”

“Thưa có, nhưng tôi biết phải làm gì đây?”

“Nếu ngươi có thể gắng công tu tập thiền định, ta sẽ dạy cho.”

“Thưa thầy, nếu nằm mà thiền định được thì tôi xin vâng lời thầy.”

Sư làm phép khai tâm cho Nirgunapa và dạy: “Người giác ngộ và pháp được ngộ đều là vô minh cả. Kẻ nào không nhận hiểu được chân lý ấy thì sẽ bị phiền não sai khiến. Khi tâm thức vắng lặng thì phiền não không có chỗ trụ. Không có sự tách biệt giữa các pháp và tánh không. Nếu nắm bắt được chân lý này, ngươi có thể đi lại tự tại.”

Nirgunapa tuân theo lời dạy của sư, vừa khất thực độ thân vừa tu tập thiền định cho đến khi giác ngộ được các pháp và tánh không là sự hợp nhất của ánh sáng tự tâm.

Khi có ai gặp ngài hỏi về lai lịch xuất thân của ngài, Nirgunapa thường nhìn vào mắt họ với ánh mắt từ bi khiến kẻ đó phải động lòng rơi lệ khóc.

Đại sư thứ 58: Jayanada – Vị điểu sư

Vào đại định, ta náu mình trong thanh tịnh 
Thoát khỏi bủa vây của sự phân biệt suy lường
Nhận biết rằng ta đã thoát tai ương 
Vì vọng tưởng đã không còn theo đuổi kịp

Truyền thuyết

Jayanada là một quan nhân ở xứ Bengal theo đạo Bà-la-môn. Đức vua xứ này cũng là người của đạo Bà-la-môn. Tuy vậy, Jayanada rất hâm mộ đạo Phật và ngài đã bí mật cải đạo, tu tập pháp môn Mật tông.

Ngài có những sở đắc tâm linh, nhưng không một ai biết được điều bí ẩn này.

Trong khi ngài tu tập pháp “bi điền”, một pháp tu cúng dường thức ăn bằng cách gia trì mật chú rồi tung lên không trung để hiến cúng cho chư thần, có người biết được bèn tâu lên nhà vua.

Đức vua ra lệnh giam ngài vào ngục tối. Ngài nói: “Tâu bệ hạ, cúng dường thần thánh đâu phải là tội lỗi. Xin bệ hạ xét lại.”

Nhưng nhà vua vẫn không thay đổi quyết định.

Khi vào trong ngục, Jayanada vẫn tiếp tục tu tập và bớt phần thức ăn ném ra bên ngoài cửa sổ để cúng dường.

Mỗi lần như thế có một bầy quạ đến để ăn những thức ăn đó. Thấy hiện tượng lạ ấy, vua ra lệnh cho dời Jayanada đến một trại giam khác.

Thấy không có thức ăn như thường lệ, đàn quạ tụ tập thành một đàn lớn, đông vô số kể bay đến hoàng cung, cắn mổ tất cả mọi người. Chúng cho rằng đức vua đã cầm tù Jayanada, người nuôi dưỡng chúng.

Khi ấy nhà vua mới nhận ra rằng Jayanada vô tội, bèn thả ngài ra và yêu cầu ngài xua đàn chim ấy đi, đồng thời ban cho hai mươi đấu gạo để ngài cho chim ăn hằng ngày.

Đại sư thứ 59: Pacaripa – Người bán bánh

Đừng nhìn quanh quẩn 
Chú mục vào tâm 
Thiền định thực hành 
Được vui thanh tịnh

Truyền thuyết

Pacaripa làm nghề bán bánh mì dạo ở thành Campa. Vì nghèo khổ, ông chỉ có một bộ quần áo duy nhất mang trên người. Ông thường nhận bành mì của một chủ hiệu rồi đem đi bán dạo khắp nơi để kiếm sống.

Một ngày nọ, ông không bán được ổ bánh nào mà bụng thì đói meo nên đành phải ăn một ổ bánh. Chưa ăn được phân nửa thì một nhà sư đến khất thực. Pacaripa không thể nào biết được rằng nhà sư này chính là hóa thân của đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Tuy nhiên, ông vui vẻ nhịn phần ăn của mình để cúng dường cho vị sư ấy.

Nhưng trước khi trao bánh, Pacaripa cung kính đảnh lễ vị sư và nói thật rằng bánh ấy không phải của mình.

Vị sư cười nói: “Nếu quả vậy thì ngươi đúng là đại thí chủ của ta. Có lẽ ta nên truyền pháp cho ngươi.”

Pacaripa liền chuẩn bị một mạn-đà-la và dâng hoa lên cho sư. Nhà sư làm lễ qui y, truyền giới Bồ Tát cho ông cùng với chân ngôn Lục tự đại minh.

Một ngày nọ, Pacaripa gặp lại ông chủ hiệu bánh mì. Ông này đòi khoản tiền bánh mà Pacaripa còn thiếu lại. Pacaripa nói rằng mình quả thật không có vật sở hữu nào đáng giá để trừ vào món nợ ấy. Người chủ hiệu bánh tức giận, xông vào đánh đập Pacaripa.

Khi ấy, Pacaripa liền kêu lên: “Đâu chỉ một mình ta ăn bánh, còn có thầy ta ăn nữa.”

Tiếng kêu của Pacaripa vang dội như tiếng sấm khiến ông chủ bánh hoảng sợ dừng tay, nói: “Ta đánh ngươi như thế cũng đã đủ trừ nợ. Bây giờ ngươi hãy đi cho khuất mắt ta.”

Pacaripa đi vào một ngôi đền thờ đức Quán Thế Âm, ông đứng trước tượng đòi tiền nửa ổ bánh mì. Lập tức có ba mươi lượng vàng hiện ra trước mắt ông. Pacaripa liền trả hết nợ cho ông chủ bánh.

Khi ấy, Pacaripa thầm nghĩ: “Hẳn đức Quán Thế Âm chính là thầy của ta.”

Vì vậy, ông khởi hành đi về phía núi Potala, là nơi Bồ Tát trú ngụ. Trên đường, Pacaripa phải băng qua một rừng gai, có lúc bị gai nhọn đâm vào da thịt, chân tay đến rướm máu. Đau đớn, Pacaripa kêu lớn danh hiệu của Bồ Tát. Đức Quán Thế Âm bèn hiện ra và nói: “Đúng, ta chính là chân sư của ngươi. Ngươi không cần phải đến Potala nữa mà hãy quay về Campa để hoằng dương chánh pháp.”

Pacaripa quá đổi vui mừng, bay bổng lên không rồi quay về xứ cũ.

Đại sư thứ 60: Campaka – Đức vua yêu hoa

Thanh quang hiển hiện 
Đó là sự kết hợp
Của bi và trí 
Tuyệt đối bẩm sinh (Sahaja) 
là cây như ý 
Hoa trái của nó 
là Ba thân Phật

Truyền thuyết

Sở dĩ đức vua xứ Campa lấy vương hiệu là Campaka là vì xứ này có một loài hoa gồm hai màu vàng trắng, rất thơm và đẹp.
Ngoài nỗi vui thú quyền lực, nhà vua rất yêu thích loài hoa đặc biệt này. Trong vườn thượng uyển của cung điện mùa hè luôn có một chiếc ngai kết bằng hoa Campaka vàng.

Một hôm, nhà vua đang ngự trên chiếc ngai đặc biệt ấy thì một nhà sư đến để khất thực. Vua tự tay rửa chân cho sư và sai người mang đến một chiếc đệm để sư an toạ, đoạn cúng dường vật thực.

Sau đó, vua cùng triều thần nghe sư thuyết pháp. Sau đó, vua hỏi nhà sư: “Thưa thầy! Ngài đã vân du khắp nơi, ngài có bao giờ thấy loại hoa nào đẹp như hoa ở đây không? Và có vị vua nào như quả nhân không, thưa ngài?”

Nhà sư đáp: “Tâu bệ hạ! Hương của loài hoa Campaka thật là kỳ diệu, khó có loài hoa nào sánh bằng. Nhưng mùi phát ra từ thân của bệ hạ thật khó ngửi. Thật vậy, tuy vương quốc của bệ hạ giàu có, hùng mạnh, nhưng rồi đây ngài cũng phải bỏ lại tất cả để ra đi với đôi bàn tay trắng.”

Những lời lẽ của nhà sư khiến nhà vua chợt xét lại bản thân mình. Ngài cầu xin nhà sư dạy thêm Phật pháp. Nhà sư bèn dạy cho vua về luật nhân quả, là định luật chi phối mọi hoạt động của con người.

Kế đó, sư truyền cho vua phép thiền định.

Nhưng nhà vua lâu nay có thói quen thưởng ngoạn hoa và tâm trí lúc nào cũng nhớ đến hoa nên thật khó tu hành tinh tấn.

Sư biết vậy, bèn dạy:

Các pháp vốn không 
Đây là hoa của giáo pháp 
Tâm trí là ong 
Hút nhụy không hề cạn 
Ong, hoa, phấn, là một 
Niềm an lạc là mật 
Ấy là lời Phật dạy 
Hãy tu chớ nghi ngờ

Campaka nghe lời dạy nắm được yếu lý của pháp tu. Ngài thực hành 12 năm thì chứng đắc.

Trang 1 2 3