BÊN LỀ HÀO NHOÁNG
Đằng sau sự hào nhoáng công cộng, lĩnh tụ tâm linh và người thủ hộ của Tây Tạng, nguyên là vị vua Thiếu Niên, nói chuyện cởi mở — và vui nhộn – về cuộc đời lưu vong của ngài
Nguyên tác: The Private Dalai Lama
Tác giả:Ron Gluckman / Dharamsala
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/12/2010
Tin tức buổi sáng của Truyền hình đưa một tin báo động. Đại pháo Trung Cộng đang bay ầm ầm qua eo biển Đài Loan. Những tàu chiến đang được phóng tên lửa. Một sai lầm, và có thể là chiến tranh. “Chúng ta phải hiểu Trung Hoa,” người đối diện của tôi nói một cách bình tỉnh. “Họ rất quan tâm về ổn định. Nhưng ổn định phải đến từ sự toại nguyện nội tại. Tuy nhiên, hiện tại, phương pháp của Trung Cộng là sử dụng vũ lực. Chẳng chóng thì chày, họ sẽ phải tìm một phương pháp khác để giải quyết những vấn đề này – đối với Đài Loan, đối với Hồng Công hay đối với Tây Tạng.”
Không có vẻ gì thù hận, không có vẻ gì giận dữ trong âm điệu của Đức Đạt Lai Lạt Ma, lĩnh tụ tâm linh của Tây Tạng. Tuy thế, vị Thánh Vương sáu mươi tuổi, người đã đào thoát khỏi Tây Tạng trên lưng một con tuyết ngưu gần bốn mươi năm trước dường như lo lắng rõ ràng do những tin tức của Truyền hình, phát đi từ vệ tinh đến ngôi nhà lưu vong của ngài ở Dharamsala, trên vùng đồi núi cao ở Ấn Độ.
Nụ mĩm cười của ngài lộ trên gương mặt khi ngài lấy đôi kính và xoa bóp chân mày đậm đen của ngài.
“Dĩ nhiên, tôi cầu nguyện cho đồng bào tôi và cho sự trở về Tây Tạng,” ngài nói, trong giọng vang vang sâu lắng. “Tôi cầu nguyện cho Tây Tạng mỗi ngày. Nhưng tôi cũng cầu nguyện cho Trung Hoa. Tôi lạc quan. Dĩ nhiên tôi đã lạc quan ba mươi bảy năm đến giờ!” Rõ ràng, cảm giác vui tươi nhiệt tình của Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn nguyên vẹn. Tiếng bật cười của ngài từ sau cánh cửa đóng vang dội xuống tận hành lang. Đấy là một nụ cười chân thành say đắm – giọng cười mà tôi đã nghe thường xuyên trong hai tuần chúng tôi nói chuyện trong ngôi nhà, tu viện, và tòa nhà chính phủ của ngài. Những cuộc đối thoại xãy ra trong những buổi giảng dạy hằng năm của ngài cho hàng nghìn người nhiệt thành trong thời gian lễ hội tưng bừng năm mới Losar của Tây Tạng, và kỷ niệm ngày nổi dậy 10 tháng Ba năm 1959.
Hàng nghìn người Tây Tạng tị nạn, đội những chiếc nón lông và xoay những bánh xe cầu nguyện, xếp thành hàng dài trên triền dốc của đồi núi để vẩy tay chào bất cứ nơi nào Đức Đạt Lai Lạt Ma đi qua. Mọi người dường như được bao phủ bởi niềm hân hoan say sưa. Ngay cả những phóng viên dày dạn cũng dễ dàng bị đẩy qua một bên; quá nhiều câu chuyện nói về sự hiện diện của ngài trong cùng âm điệu nín thở. “Đừng bị hớp hồn bởi sự hấp dẫn của ngài,” phóng viên gạo cội người Anh, người đã theo từng bước chân của Đức Đạt Lai Lạt Ma gần nữa thế kỷ qua cảnh báo. Tôi đã phòng bị sẳn sàng.
Nhưng không có nghi ngờ gì về điều ấy — Đức Đạt Lai Lạt Ma là một người hấp dẫn. Ông thầy tu nổi tiếng nhất thế giới giống như một gạch nối giữa Thánh Gandhi và Groucho Marx [1], cả với sự tự tại tuyệt hảo và sự hóm hỉnh đẳng cấp thế giới. Tuy nhiên, vượt ngoài tính hài hước phong phú và khiêm cung là những tính chất cá nhân hiếm hoi nhất. Ngay cả những người hoài nghi cũng thừa nhận rằng đây là một vị hiền nhân đầy sức thuyết phục có một không hai.
Trong nhiều quyển sách về cuộc đời của ngài là quyển tự truyện năm 1990, quyển sách bán chạy nhất Tự Do trong Lưu Đày. Quyển sách kết thúc với lời cầu nguyện đơn sơ, nền tảng sự ngưỡng mộ của ngài: “Cho đến khi nào không gian còn tồn tại, và cho đến khi nào chúng sinh còn hiện hữu, thế thì cho đến lúc ấy, tôi cũng nguyện hiện diện để xua tan khổ nạn của trần gian.” Ngài nói rằng: “dòng kệ này đã cho tôi sức mạnh nội tại. Dĩ nhiên, khi tôi nghe về tra tấn, hay sự đối xử phân biệt bên trong Tây Tạng, thế thì trong một lúc ngắn tôi cảm thấy căm tức, một sự sân hận nào đấy. Nhưng điều ấy đến rồi đi. Hạnh phúc thật sự, hạnh phúc chân thành, đến khi chúng ta thấy giá trị nào đấy trong đời sống chúng ta. Đấy là triết lý của tôi.”
Triết lý ấy góp phần cho ngài giành được giải thưởng Nobel Hòa Bình 1989, và có phải có bất cứ điều gì đấy, hiện hữu đã được làm mạnh thêm duy nhất từ khi Hồng Quân Trung Cộng xâm chiếm Nóc Nhà của Thế Giới năm 1950. Chín năm sau, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đào thoát khỏi quê hương của ngài sau cuộc nổi dậy bất thành mà theo nhà đương cục Trung Cộng cho hay gần chín mươi nghìn người Tây Tạng bị giết. Đức Đạt Lai Lạt Ma xác nhận rằng một triệu hai trăm nghìn người đã bỏ mình dưới sự thống trị của Trung Cộng, và hơn sáu nghìn chùa viện cùng cơ sở tôn giáo đã bị xóa sổ.
Một người từng là vị vua thiếu niên đã trở thành đã trở thành một người nổi tiếng nhất trong bộ áo nhà tu từ Thánh Gandhi, người mà Đức Đạt Lai Lạt Ma nói là thần tượng quan trọng của ngài, cùng với mục sư người Mỹ Martin Luther King Jr. Tuy thế, ngài nhấn mạnh rằng ngài đã không bao giờ tìm cầu sự nổi tiếng. Những người khác có thể tôn thờ ngài như một vị thánh sống (Living God), nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói rằng ngài “chỉ là một nhà tu giản dị” không có tuệ trí phi thường để truyền đạt. “Người ta luôn luôn quan trọng hóa những lời nói của tôi,” ngài nói. “Người ta quá quan trọng. Luôn luôn quá quan trọng.”
Ngài nói rằng ngài mơ một ngày nào đấy khi mà ngài có thể bỏ lại sau lưng tất cả mọi nghi thức ngoại giao và chính trị rồi biến mất trong đồi núi trong một nơi ẩn dật tôn giáo. Nhưng hưu trí không đến dễ dàng với người nào đấy mà nhiều người tin là Quán Thế Âm, vị Bồ Tát của Từ Bi – trong chúng hội của những người giác ngộ, những người chấp nhận tái sinh qua sự giải thoát, trở lại Trái Đất này trong thời gian vô tận để giúp làm giảm nhẹ khổ đau cho nhân loại. “Không có sự lựa chọn nào,” ngài nói, và rung chuyển với tiếng cười. “Cho dù tôi thích hay không, tôi phải như vị Quán Âm Bồ Tát trở lại…Tôi không thể nói gì trong vấn đề này. Ha, ha, ha! Ho, ho, ho!” Ngài khúc khích: “Đôi khi, mặc dù, tôi thật cảm thấy, thích ngày Thứ Bảy hay Chú Nhật, Đạt Lai Lạt Ma cũng phải có một ngày Chú Nhật chứ.”
Nhưng ngài không có nhiều ngày nghĩ. Những người quan trọng khắp thế giới đến tím sự hướng dẫn hay cố vấn nơi ngài, trong khi một số lượng chóng mặt của những nghi lễ và truyền đạo tôn giáo đòi hỏi sự hướng dẫn từ Đấng Đại Dương Tuệ Trí , Đấng Hộ Vệ của Tuyết Sơn, Đấng Thủ Hộ Hoa Sen Trắng, Đấng Ngôn Ngữ Vĩ Đại, Đức Phật Sống và Viên Ngọc Ước của Tây Tạng.
Đời sống của ngài hàng ngày theo một thời khóa giản dị. Ngài dậy trước khi hừng đông, một thời gian hoàn toàn êm ả và tĩnh lặng thật tuyệt hảo để thiền quán. “Nếu trời tốt, tôi sẽ đi một vòng quanh vườn,” ngài nói. “Những ngôi sao cung hiến một cảm giác đặc biệt – tính tầm thường của tôi trong vũ trụ, sự thân chứng về điều mà Đạo Phật gọi là vô thường. Điều ấy rất yên bình.” Trong vườn, ngài có nuôi một con két trong lồng mà những người cận vệ tìm thấy nó bị thương trong khu rừng lân cận. Ngài cũng thường có một cặp mèo, nhưng ngài nói lâu lắm rồi ngài, nguyện bỏ thú nuôi. “Quá nhiều vướng mắc,” ngài giải thích.
Sau thời thiền quán buổi sáng là điểm tâm, mà gần như luôn luôn giống nhau: món tsampa, một hổn hợp của bột lúa mạch sấy và cháo yến mạch. “Đấy là sự phối hợp một tí Đông phương và một tí Tây phương,” ngài nói thế. Sau đấy, nếu thời khóa biểu cho phép, ngài có thể lẫn vào bàn làm việc của ngài để đùa nghịch với một vài món đồ hỏng nào đấy. Em trai út của ngài, Tendzin Choegyal, nói một trong những việc thích thú nhất mà Đức Đạt Lai Lạt Ma thấý trong những năm gần đây là super-glue — second, thật sự, chỉ đối với khám phá mới gần đây hơn về super-glue remover. Người em ngài nói, “ngài thật thích thú khi tôi đưa cho ngài một ít.” “Ngài nghĩ đấy là một phép lạ.
Từ lúc thiếu niên, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã là một người sửa chửa những thứ không ai chửa được. Ngài vẫn còn một chiếc đồng hồ Rolex do cố Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt gởi tặng – như nguồn để chính ngài thực hành kỷ năng ấy. Khi là một người trẻ, ngài đã làm các cụ ngạc nhiên và bực mình do việc sửa chửa ba chiếc xe ở Tây Tạng, di sản của vị tiền nhiệm, và rồi bí mật lấy nó dạo một vòng. Ngày hôm ấy, vị vua thiếu niên đã có một bài học đáng giá về việc cần thiết một chiếc thắng xe đáng tin cậy. Ngài cũng đã một lần tháo rời từng bộ phận một chiếc máy chiếu phim cũ, và sửa chửa nó mà không có bất cứ một sự chỉ dẫn nào.
Hướng dẫn cho ngài là một nhà thám hiểm người Áo tên là Heinrich Harrer, người đã trốn thoát một trại giam trong thế chiến thứ hai ở Ấn Độ bằng việc leo qua Hy mã lạp sơn đến Tây Tạng. Harrer đã xây dựng một nhà chiếu phim hiện đại nhất, nơi mà vị Đạt Lai Lạt Ma ở độ tuổi mười mấy thường vỗ tay vui vẻ với những phim ảnh Tây phương – phần nhiều vì sự khuây khỏa trong thời đại nhiếp chính của mình. J. Wayne là một trong những phim mà ngài thích. Ngày nay, ngài thích những chương trình thiên nhiên. Nhưng đơn giản là ngài không có nhiều thời gian để xem chúng. Thay vì thế, ngài dành 10 đến 15 phút một ngày cho chương trình tin tức thế giới của BBC. Ngài xem nó trong khi ngồi trên chiếc gối hành thiền trong một phòng khách lớn mà ít người, ngoại trừ những thành viên tận tụy gọi là cung điện.
Bên dưới là Cung Điện Potala, nơi ở của những vị Đạt Lai Lạt Ma ở Lhasa, Tây Tạng
Ngôi nhà trắng trát vôi ở McLeod Ganj, một vọng gác trên đồi của Anh Quốc nhìn xuống Dharamsala, ở tiểu bang Himachal Pradesh, với một ít bàn ghế đơn giản, tương tự một sơn thất hơn là nơi cư trú của hoàng gia. Tuy nhiên, nó có một phong cảnh tuyệt vời với những đỉnh núi phủ tuyết trắng vươn lên đột ngột bên trên hành lang – một sự nhắc nhở đến quê hương mà ngài đã không thấy gần bốn mươi năm. Ngoại trừ phong cảnh, mọi thứ khác đều mới mẻ. Một bàn giấy trưng bày những tặng phẩm cảm tình từ những người bạn và một cái giá bút đơn sơ màu vàng mang dáng hình một con bọ.
Đây phải là một ngôi nhà chính phủ duy nhất không có sự lấp lánh của vàng. Không có gì mà người ở trong ấy dường như lưu ý. Phu nhân tổng thống Phi Luật Tân Imelda Marcos có thể giữ độc quyền cả một thế giới cung cấp giày dép; ngài vui vẻ với đôi sandal và một đôi giày da Oxford. Ngài cũng có vài bộ y áo. “Tôi phải có hai bộ,” ngài đùa. “Ngay cả Đạt Lai Lạt Ma cũng phải giặt đồ.”
Một vật bất bình thường nhất là máy đi bộ, nó nằm bên cạnh một chiếc xe đạp tập thể dục. Trước đây, thông dụng bởi những người trượt tuyết xuyên quốc gia, rõ ràng là một sự bổ xung gần đây. Đức Đạt Lai Lạt Ma tự nhiên, nhưng luộm thuộm, cố gắng biểu diễn nó, nhưng khá hơn nhiều trên chiếc xe đạp. Thật sự ngài trông khỏe khoắn, nếu không phải là hơi tròn trịa. “Tôi nghĩ tôi như đang mang bầu,” ngài đùa, trong khi chà xát quanh bụng của ngài. Những vấn nạn trước đây với sự tiêu hóa đã lâu lắm rồi đã được chửa trị bởi sự điều chỉnh dinh dưỡng. “Nhưng tôi vẫn có những cơn sấm sét trong bao tử tôi,” ngài cười to. “Bác sĩ của tôi nói rằng tôi có áp huyết tốt lắm, áp huyết của con nít. Tôi cảm thấy rất khỏe.”
Trước khi cuộc gặp gở đầu tiên, những người phụ tá cho tôi một vài chỉ dẫn. “Đôi khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thích về những thứ khác nhau,” người phụ tá kỳ cựu giải thích. “Ông phải mạnh dạn và cứ hỏi ngài cho đến khi ông hài lòng. Đừng e ngại về vị thế của ngài. Ngài là một người rất thân mật, rất con người. Ông có thể hỏi ngài bất cứ điều gì.” Họ đã đúng. Ngài thật dễ dãi – hay, chính xác, nhiệt tình hơn – vô tư. Và ngài là một phát ngôn nhân sống động, với một sự khao khát tò mò đối với bất cứ chủ đề nào. Ngài cũng không lo lắng quá nhiều về quy ước thói thường. Trên lối đi bộ từ tịnh thất của ngài đến tu viện, người chiến binh Ấn Độ với vũ khí tự động sẳn sàng, giữ tư thế nghiêm nghị nhưng chắc phải là căng thẳng. Một hệ lụy nào đến Đức Đạt Lai Lạt Ma chắc chắn anh ta không có cơ hội thăng cấp.
Vấn đề an ninh đã trở nên chặc chẽ hơn từ cuối năm ngoái, khi vài người Tây Tạng đã bị bắt vì những hành vi nghi ngờ là gián điệp vẫn ở trong vòng điều tra cho đến ngày hôm nay. Đức Đạt Lai Lạt Ma có hai đội bảo vệ, Tây Tạng và Ấn Độ, và một số tiến trình kiểm tra nghiêm nhặt nhất không thể tưởng. Những cây viết bị tháo ra từng mảnh, và những trang giấy cặp giấy phải qua máy quét rada, giống như vì một loại thuốc độc nào đấy. Khám xét khắp thân thể. Và tuy thế, những người địa phương nói rằng, không lâu về trước, người ta, người Hoa sẽ rất thích để thấy lộ ra con đường thường đi bộ không có bảo vệ trên đồi.
Từ khi được giải Nobel Hòa Bình, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã dành nhiều thời gian hơn trong những cuộc vi hành quốc tế. Và điều ấy có nghĩa là sự chinh phục cái sợ của ngài đối với đường hàng không. “Tôi thường e ngại máy bay,” ngài tâm sự. Bây giờ, ngài đã sử dụng thời gian trên phi cơ để thiền quán. Ngài có rất nhiều thời gian để làm như vậy. Mùa hè này, ngài dự kiến sẽ thực hiện một chuyến du hành qua nhiều quốc gia ở Âu châu đến Anh Quốc. Ngài cũng sẽ thăm Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, và Tân Tây Lan. Người ta cũng nói đến lần thăm đầu tiên tới Đài Loan, nhưng điều này đã bị văn phòng của ngài phủ nhận.
Người ta thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma rất thường trong tin tức – ngài cũng có một trang web riêng trên Internet – thật dễ dàng để quên rằng ông thầy tu này không luôn luôn được một tên hộ gia đình. Suốt từ những năm 1960 đến 1970, ngài đấu tranh trong sự cô lập, không thành công trong việc cố gắng để gây sự chú ý của thế giới đến nổi khốn cùng của dân tộc ngài. Một trong những di sản của cuộc ra đi năm 1959 là sự tồn tại của 50 trại tị định cư rãi rác khắp Ấn Độ, Nepal, và Bhutan.
Đấy là những thời gian u ám. Tuy nhiên, ngài nói không bao giờ ngài để đánh mất niềm tin. “Khi tôi nhìn lại 44 hay 45 năm qua, và tôi nghĩ về những quyết định quan trọng, tôi không có gì ân hận,” ngài nói thế. “Và tôi không nhớ một lần nào khi niềm tin hay tinh thần của tôi hoàn toàn bị đánh mất, hay lung lay.” Như sự nổi tiếng khắp thế giới của ngài hiện nay, ngài cho là do chính quyền Trung Cộng, mà mới gần đây họ đã thêm một tên mới trong một dọc dài dòng những nhãn hiệu cho ngài – “đầu rắn” (serpent’s head).Ngài phá lên cười. “Ha, ha, ha! Hô, hô, hô! Điều ấy tốt quá. Thực tế, nếu người Trung Cộng đã cư xử với người Tây Tạng như những người anh em thật sự, thế thì Đạt Lai Lạt Ma có thể không quá nổi tiếng. Tất cả những công trạng ấy là do Bắc Kinh.”
Những phê bình về chính quyền lưu vong về những khó khăn và những cố gắng đề dân chủ hóa là không thật, để cho thấy một sự cải cách, tuy nhiên đấy là những cố gắng của vị lĩnh đạo tâm linh và những người lưu vong Tây Tạng, và từ trước đến giờ chưa có một chính phủ lưu vong nào có thể hoạt động được như thế. Bên cạnh Hội Đồng Bộ Trưởng, là Quốc dân đại hội, và Hội đồng Tư Pháp Tối cao. Những địa chủ và tá điền hiện tại đã sống hài hòa trên quê hương mới, một nhà hành động Tây phương đã nói, “Hơn bốn mươi năm họ đã sống ở Ấn Độ, họ đã học quá nhiều về thói quan liêu.”
Chính quyền lưu vong cũng bị cho là chưa bao giờ phải thử thách bởi những vấn nạn thật sự của đời sống như sự phát triền kinh tế và chính trị, sự phân biệt và tham nhủng. Nhưng đấy vẫn là một sự đo lường về sự lĩnh đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Người Tây Tạng đã được no đủ, nhà cửa xinh đẹp và đã đạt được sự giáo dục ngoại hạng. Bằng sự so sánh với hầu hết Ấn Độ, Dharamsal thì trong sạch. Cũng một cách đáng chú ý, không có dấu hiệu của mãi dâm, bất kể che dấu như thế nào.
Cốt lõi chính của người Tây Tạng dường như là sự tôn kính lĩnh đạo của họ. Cho dù là bẩm sinh hay từng bước bởi con người, ngài đã trở thành một vị Phật Sống đối với người Tây Tạng. Đấy cũng là cảm nhận của hàng triệu tín đồ kể cả tài tử Hollywood, Richard Gere. Ông đã gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma vào đầu những năm 1980, và đã tham dự mười lần trong 12 khóa thuyết giảng hàng năm ở Dharamsala.
“Ông không dễ gặp một người thật sự vĩ đại,” Gere nói với tôi. “Ngài là thật sự; không người nào khác có thể được gần như thế. Đức Đạt Lai Lạt Ma có một tác động vô vàn kỳ diệu. Thật là hiếm hoi để sống trong sự hiện diện của một người nào đấy không muốn gì hơn ngoài sự hạnh phúc của người khác.”
Khóa thuyết giảng tháng Ba cũng hấp dẫn những người tìm cầu giác ngộ thông thường trên vòng xoay hóa độ – những người mang ba lô tóc thắt bín đến trên những xe buýt đường dài từ Goa, Kathmandu và những thủ đô hippy ở ngoài trời. Cùng với họ một người Hòa Lan, Zaurkawglkah Martin, trong bốn năm qua đã sống ở Colombia, tại tu viện Sakro Akuarius, cao trên đỉnh Andes. Ông tin rằng Phật Giáo Tây Tạng nên di chuyển đến đấy. “Trung cộng sẽ không bao giờ, chẳng bao giờ buông Tây Tạng ra,” ông nói. “Đức Đạt Lai Lạt Ma nên đến Colombia.” Martin là một trong nhiều tu sĩ tại Sakro Akuarius, là những người kết hôn.
“Không, không, không. Điều này hoàn toàn sai,” Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, sôi nổi hơn. “Ngày nay, thật kém may mắn, chúng ta có một ngữ vựng mới – một tu sĩ với một người vợ. Điều này là sai. Tu sĩ là độc thân. Những người ăn mặc như tu sĩ, với một người vợ, họ không là những tu sĩ. Dĩ nhiên, đấy là quyền của cá nhân. Người ta luôn luôn có thể từ bỏ thệ nguyện tu sĩ, và rồi thì thay đổi y phục.”
Đức Đức Đạt Lai Lạt Ma cảnh báo những người phương Tây bên cạnh việc tìm cầu “giác ngộ lập tức” qua Đạo Phật. “Vào lúc khởi đầu, quý vị nên cởi mở,” ngài nói. “Trong một vài trường hợp, tốt hơn là giữ hoài nghi. Một số người phương Tây theo Đạo Phật Tây Tạng và cả áo quần – điều này là quá cực đoan. Điều quan trọng là tiếp nhận những khía cạnh tâm linh không phải về phía văn hóa.”
Và rồi thì là một câu hỏi lớn. Liệu Đức Đức Đạt Lai Lạt Ma có bao giờ có thể trở lại với một Tây Tạng độc lập hay không? “Một cách chắc chắn,” ngài trả lời không ngập ngừng. “Tôi sẽ trở lại với một Tây Tạng tự do, cũng như đồng bào tôi. Vâng, tôi có một cảm nhận về điều ấy.”
Những người khác không quá chắc chắn. Sự ra đi của ngài sẽ không nghi ngờ gì nữa, có lẻ không thể chịu nổi, sẽ là một sự thiệt hại khôn lường cho vấn đề Tây Tạng. “Tôi không tin là Trung cộng sẽ thương thảo. Tôi nghĩ là họ đang chờ cho Đức Đạt Lai Lạt Ma chết đi,” người em của ngài, Tendzin Choegyal nói thế.
Chính quyền Bắc Kinh cảm thấy rằng ngài là biểu tượng của toàn bộ cuộc vận động độc lập, và khi ngài không còn nữa, vấn đề ấy cũng sẽ qua đi.”
Tendzin Choegyal cũng lo lắng rằng sự tiếp cận Trung Đạo về bất bạo động là một sai lầm.” Nó đã thành công với Gandhi, nhưng Gandhi đối phó với Anh Quốc,” ông nói.” Tối thiểu họ có lương tâm. Những người Trung cộng chỉ có ác cảm khinh thị.”
Như một hóa thân, thái độ của Đức Đạt Lai Lạt Ma dường như rằng ngài sẽ tiếp bước ấy khi thời gian đến. “Khi tôi hiện diện, tôi phải sử dụng năng lượng của tôi, sự hiện hữu của tôi, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích cho người khác. Điều ấy là quan trọng. Thế là tôi hoàn tất. Cho dù người ta nói những lời tốt lành hay xấu xa chẳng hề gì.” Ngài dừng lại. “Khi tôi đến niết bàn, rồi thì tôi sẽ nói mọi thứ! Ha,ha,ha! Hô,hô,hô!”
—
Ron Gluckman là một phóng viên đã dành ba tuần lễ với Đức Đạt Lai Lạt Ma trong năm 1996, trong thời gian kỳ diệu ấy giữa những buổi thuyết giảng công cộng và kỷ niệm cuộc nổi dậy ngày 10 tháng Ba. Người ta đến từ khắp nơi trên thế giới để nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng thuyết về Đạo Phật; kể cả trong đám đông là những ngôi sao sáng như Richard Gere, cũng như hàng trăm người Tây Tạng giản dị vội vã băng qua Hy mã lạp sơn giữa mùa đông, thường trong những bộ đồ rách mướp hay chân không, quay những bánh xe cầu nguyện và lẫm nhẫm tên ngài trên khắp nẽo đường: Dalai Lama, Dalai Lama, Dalai Lama. Ron đi theo Đức Đạt Lai Lạt Ma khắp mọi nơi qua những buổi nghi lễ tôn giáo đặc biệt, hay truyền giới, chung quanh ngôi nhà, tại những buổi gặp gở với cố vấn của ngài, và trong những buổi nói chuyện công cộng. Ông cho hay rằng: “Ngài đã nhận một công việc tuyệt vời nhất trên Trái Đất này, mà đấy là thể hiện ân cần, hổ trợ, và trên tất cả, để luôn luôn thành tín trong mục tiêu của đời sống, ngay cả giữa tất cả những phù phiếm. Rằng ngài đã thể hiện công việc này với một sự chân thành như vậy là phi thường. Rằng ngài ẩn hiện niềm hoan hỉ như vậy, sự thuần khiết như vậy và lòng yêu thương hiển hiện trở thành một cội nguồn của sự ngưỡng mộ ngay cả hầu hết những người không tín ngưỡng, bài báo cáo này trong số những người ấy. Cầu nguyện Đức Đạt Lai Lạt Ma cát tường.
For a transcript of Ron Gluckman’s series of interviews with the Dalai Lama, conducted over a three week period in his house, palace and in the midst of various religious and governmental duties in February-March 1996, please click here.
All pictures by Ron Gluckman
[1] tên thật là Julius Henry Marx, sinh ngày 02/10/1890 tại New York và mất ngày 19/08/1977 tại Los Angeles, , Hoa Kỳ. Một nhà hài hước và tài tử được mệnh danh là bậc thầy của hóm hỉnh.