ẨN-TU NGẨU VỊNH
Hòa Thượng Thích thượng Thiền hạ Tâm
Như-Ý Giảng giải
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
VÔ-NHẤT TĂNG
Thích Thiền-Tâm
CHÁNH-VĂN
36.-Ẩn tu thôi mặc dở hay đời
Chỉ ước lâm chung dự biết thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.
37.-Ẩn tu an phó bịnh suy già
Nhơn thế xưa nay vẫn thế mà
Giữ chắc hồng-danh thuyền tế độ
Muôn trùng bao quản ngọn phong ba !
38.-Ẩn tu suy gẫm sức hồng danh
Phước huệ tăng-kỳ kết tụ thành
Sáu chữ chí tâm tiêu vạn tội
Một câu chín phẩm thoát siêu sanh.
39.-Ẩn tu tuy chửa đến Tây Phương
Cành ngọc chim linh ứng mộng thường
Rõ biết tâm lành sanh cảnh tịnh
Quả nhân cảm hiện lẽ chiêu chương.
40.-Ẩn tu niệm Phật suốt thâu canh
Cam lộ từ răng đượm ngọt thanh !
Khát nước đã nhờ công đức thuỷ
Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân Anh ?
Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ
ẨN BÓNG trong gương ngẫm chuyện đời
GIẢNG-GIẢI
36. Ẩn tu thôi mặc dở hay đời
Chỉ ước lâm chung dự biết thời
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc
Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.
NHƯ Ý:
Người Á đông, nhất là những người ở nước có Triết lý Tam-giáo, THÍCH ĐẠO NHO, khi đã chìm nổi nhiều với cuộc đời, thường có ý hướng về sự THOÁT tục; để tiêu biểu cho việc đó XIN tạm dịch hai câu của Cao-Bá-Quát như sau : Việc thế nổi chìm xin chớ hỏi, trong xa khói sóng có ĐÀO NGUYÊN. Nguyên tác, “Thế sự thăng trầm Quân mạc vấn, Yên ba thâm Xứ Hữu Ngư châu.”
(Động Đào-Nguyên ĐÀO NGUYÊN còn gọi là động Bích. Đây là chỗ TIÊN ở.
Tương truyền đời nhà Tấn (265-419), có người chài cá ở huyện Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược ven theo bờ suối. Càng đi xa chừng nào thì thấy có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống. Đến một quãng, bỗng thấy trước mặt hiện ra một rừng đào. Hoa đào đỏ rực rỡ làm cho ngư phủ càng thấy say sưa thích thú.
Định có người ở gần đấy nên bỏ thuyền, lên bờ. Vượt qua rừng đào, đến một ngọn núi. Dưới chân núi có một cửa hang nhỏ hẹp, vừa chui được một người. Bên trong thấp thoáng có ánh sáng.
Gợi tính tò mò, chàng lách mình vào cửa hang. Lúc đầu, cửa hang còn hẹp, sau rộng dần, rồi cả một thế giới hiện ra: Ruộng vườn tươi tốt, nhà cửa thôn ấp liên tiếp nhau; tiếng gà, tiếng chó nghe rõ mồn một; thanh niên thiếu nữ đều say sưa công việc đồng áng. Trên mặt mọi người hiện nét vui tươi chất phác hồn nhiên. Người già, con trẻ đều có vẻ ung dung thanh thản.
Những người ở đây thấy chàng ngư phủ thì lấy làm kinh ngạc hỏi: làm sao đến được chốn này? Ngư phủ trình bày sự thực. Các bực phụ lão đem vợ con ra chào mừng khách lạ, dọn cơm rượu đãi khách. Ngư phủ ăn uống lấy làm ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà tính chất khác thường.
Những bực phụ lão lại nói:
– Tổ tiên chúng tôi tránh loạn đời Tần, đem cả gia đình vào ở đây, từ đó cách biệt với bên ngoài. Hiện nay, chúng tôi không còn biết nhà Hán, huống hồ là nhà Ngụy, và nhà Tấn.Cuối cùng, họ lại dặn ngư phủ: sau khi ra khỏi chốn này, xin đừng cho ai biết có họ ở đây.
Người đánh cá ở chơi một hôm rồi xin cáo biệt.
Từ đời nhà Tần (221 trước D.L.) đến nhà Tấn (419 sau Dương lịch) mà họ đến đây tránh nạn kể ra có trên sáu trăm năm. Người đánh cá cho mình may mắn đã được gặp tiên. Nên khi trở về, nhiều người đến thăm hỏi, trước còn tìm cách giấu nhưng cuối cùng chuyện thấu đến quan Thái Thú sở tại, ngư phủ đành phải thuật cả việc lại.
Có tính hiếu kỳ, viên Thái Thú sai người đi theo chàng ngư phủ tìm lại động ĐÀO NGUYÊN, nhưng hai người bị lạc đường đành phải trở về.
Nguyễn Tử Quang
Điển hay tích lạ)
Cũng có vị khi đã ở trong cửa ĐẠO, nhưng xét thấy chúng sanh nghiệp NẶNG, mình lại CHƯA đủ khả năng tế độ; như CHÍNH mình còn bị trói KHÔNG thể mở trói cho người; Nên đành phải để sự XUẤT trần trước rồi mới NHẬP trần sau, đó là tâm sự của bà Công-chúa em gái vua Nhật-tôn: “Lên bờ cứu khổ mong quay lại, biển ái trong xa nước đục lờ.” Mấy câu này nói lên ý tưởng trên đây.
***
Cũng như THIỆN-TÀI đã trải qua 51 vị THIỆN-TRI-THỨC rồi, sự giác ngộ đã đến ĐẲNG–GIÁC BỒ-TÁT, cùng với DI-LẠC BỒ-TÁT không sai khác.
Vậy mà DI-LẠC bồ tát lại khuyên THIỆN TÀI nên trở về BỔN-SƯ của mình là BỒ-TÁT VĂN-THÙ, để trình bày SỞ HỌC, SỞ HÀNH, SỞ CHỨNG bồ-tát đạo và cầu sự thọ ký (ẤN CHỨNG) cho.
VĂN-THÙ bồ tát ẤN-CHỨNG như thế nào?
Ngài không hiện thân ra như các vị thiện tri thức khác, mà từ xa 110 DO-TUẦN, ngài đưa Tay XOA-ĐẦU THIỆN TÀI để ẤN CHỨNG , là ý nói ngài VĂN THÙ lúc nào cũng ở bên cạnh đệ tử của mình dù “XA” hay “GẦN”, cũng như THIỆN TÀI chưa bao giờ rời CĂN-BẢN TRÍ (TRÍ KIM-CANG) mà không tự biết, giống như KẼ CÙNG-TỬ trong KINH PHÁP-HOA, cho nên ngài phải XOA ĐẦU ẤN-CHỨNG cho.
Vì cảnh-giới của chư PHẬT không phải bậc ĐẲNG-GIÁC có thể hiểu được, phải dùng “TÍN-CĂN” mới chứng nhập được. “TÍN-CĂN” LÀ TIN MÌNH CÙNG VỚI PHÁP GIỚI CHÚNG-SANH CŨNG CÓ “ĐẦY ĐỦ ĐỨC-TƯỚNG TRÍ-HUỆ” NHƯ CHƯ PHẬT.
VĂN-THÙ-SƯ-LỢI BỒ TÁT
Vị Thiện Tri Thức thứ 52 dạy THIỆN TÀI về “TÍN-CĂN” để thành tựu hạnh PHỔ-HIỀN và NHẬP PHÁP GIỚI được viên mãn.
KINH VĂN:
Y lời dạy của Di-lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài đi qua hơn một trăm mười (110) thành đến nước Phổ-Môn, thành Tô-Ma-Na, ở nơi cửa thành suy tìm VĂN-THÙ SƯ-LỢI, trông được gặp gỡ kính thờ.
Bây giờ VĂN-THÙ SƯ-LỢI Bồ-Tát từ xa đưa tay hữu qua khỏi một trăm mười (110) do-tuần áp trên đầu (xoa đầu) THIỆN-TÀI mà nói rằng:
Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Nếu rời “TÍN-CĂN” thời tâm yếu kém, lo sợ ăn-năn công-hạnh chẳng tròn đủ, thối thất tinh-cần, nơi một thiện-căn sanh lòng trụ trước, với chút ít công-đức đã cho là đủ. Chẳng thể phát khởi hạnh nguyện, chẳng được thiện-tri-thức nhiếp thọ, chẳng được Như-Lai ức niệm, chẳng biết được pháp-tánh như vậy, lý-thú như vậy, pháp-môn như vậy, công-hạnh như vậy, cảnh-giới như vậy, đều không thể biết khắp, biết nhiều, tột nguồn đáy, hiểu rõ, xu nhập giải-thoát, phân-biệt, chứng biết, chứng đắc, tất cả điều trên đây đều không thể được.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát tuyên nói pháp ấy cho THIỆN-TÀI được lợi ích hoan-hỷ thành-tựu vô-số pháp-môn, đầy đủ vô-lượng đại-trí quang-minh, khiến được Bồ-Tát vô-biên-tế đà-la-ni, vô-biên-tế nguyện, vô-biên-tế tam-muội, vô-biên-tế thần-thông, vô-biên-tế trí, khiến vào đạo-tràng phổ-hiền-hạnh.
Lại để Thiện-Tài ở tại chỗ cũ, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nhiếp thần-lực chẳng hiện.
Kệ tụng:
Niềm tin là bước đạo sơ nguyên,
Mà nỗi trần ai lắm sự duyên!
Thoạt tưởng sen lành say cõi Tịnh
Lại nghe mai đẹp mến non Thiền.
Bồ Đề gieo khéo nguyền viên-giác
Không hữu còn thương chấp nhị-biên
Tín-đức ví bền như hạnh nguyện
Mưa hoa đồng dạo cảnh Tây-thiên.
(Niệm Phật Phải DỨT-TRỪ-LÒNG-NGHI – HT THIỀN-TÂM )
KINH VĂN:
Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát khen ngợi công đức thù thắng của đức Như Lai rồi, bèn bảo các vị Bồ Tát và Thiện Tài rằng: “Này Thiện Nam Tử! Công đức của Như Lai, giả sử cho tất cả các đức Phật ở mười phương, trải qua số kiếp nhiều như cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật diễn nói không ngừng, cũng không thể trọn hết được.
Nếu ai muốn trọn nên công đức của Phật, thời phải tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn. Những gì là mười điều?
Một là kính lễ các đức Phật.
Hai là khen ngợi đức Như Lai.
Ba là rộng sắm đồ cúng dường.
Bốn là sám hối các nghiệp chướng.
Năm là tùy hỉ các công đức.
Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời.
Tám là thường học tập theo Phật.
Chín là hằng thuận lợi chúng sanh.
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
Bất cứ tu pháp nào đủ “TỨ PHÁP GIỚI” đều là “Phổ Hiền Hạnh Nguyện”, tức là công đức không cùng tận.
1.Hư không 2. Chúng sanh 3. nghiệp của chúng sanh 4. phiền não của chúng sanh không cùng tận, nên hạnh nguyện của Phổ-hiền cũng không cùng tận, THÂN, KHẨU, Ý không hề nhàm chán, BẢO HỘ CHÁNH PHÁP được thường trụ, thì Vũ-trụ sẽ không bị hủy diệt, thì tất cả công đức khác mới được thành tựu.
Lại người này lúc lâm chung, phút cuối cùng, tất cả căn thân đều hư hoại, tất cả thân thuộc đều phải bỏ lìa, tất cả oai thế đều bị thối thất, cho đến các quan phụ tướng đại thần, cung thành trong ngoài, voi ngựa xe cộ, trân bảo kho đụn v.v… tất cả đều không đem một món nào theo được. Chỉ có mười nguyện vương này chẳng rời người mà thôi. Trong tất cả thời gian nó thường ở trước dẫn đường, trong khoảnh khắc liền sanh về cõi Cực Lạc. Ðến Cực Lạc rồi liền thấy đức A Di Ðà Phật cùng các ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, v.v… các vị Bồ Tát này sắc tướng đoan nghiêm, công đức đầy đủ chung cùng vây quanh. Lúc bấy giờ người ấy tự thấy mình gá sanh nơi hoa sen báu, được đức Phật xoa đầu thọ ký. Sau khi được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp, khắp cả mười phương bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, dùng sức trí huệ tùy theo tâm của chúng sanh mà làm lợi ích. Chẳng bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ Ðề đạo tràng hàng phục quân ma, thành bực Chánh Ðẳng Chánh Giác giảng nói pháp mầu vì diệu. Có thể làm cho chúng sanh trong những cõi Phật như số cực vi trần của chúng sanh mà dạy dỗ cho thành thục, nhẫn đến cùng tận kiếp hải, có thể làm lợi ích tất cả chúng sanh một cách rộng lớn.
Này thiện nam tử! Các chúng sanh kia hoặc nghe, hoặc tin nơi nguyện vương rộng lớn này, rồi thọ trì đọc tụng và giảng nói cho người nghe. Công đức của chúng sanh kia chỉ có đức Phật Thế Tôn biết, ngoài ra không ai hiểu thấu. Vì thế nên những người được nghe mười điều nguyện vương này chớ sanh lòng nghi ngờ, nên phải lãnh thọ, thọ rồi nên đọc, đọc rồi có thể tụng thuộc, tụng thuộc rồi nên gìn giữ luôn, cho đến biên chép vì người mà giảng nói. Những người như vậy, trong một niệm tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu, được phước vô lượng vô biên. Có thể ở trong biển khổ phiền não cứu vớt chúng sanh, khiến chúng được giải thoát, đều được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà.
(KINH HOA NGHIÊM-Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện)
SÁM PHỔ HIỀN
Ðệ-tử chúng đẳng,
tùy-thuận tu tập
Phổ-Hiền Bồ-tát,
thập chủng đại nguyện:
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như-Lai,
Tam giả quảng tu cúng-dường,
Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi-hướng.
Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,
Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,
Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,
Nhị đế dung thông tam-muội ấn,
Như thị vô-lượng công-đức hãi,
Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,
Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng
Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,
Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,
Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,
Nãi chí hư-không thế-giới tận,
Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,
Như thị tứ pháp quảng vô-biên,
Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.
Nam-mô Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát. (3 lần)
BẠT NHỨT-THIẾT NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN BỔN ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-RA-NI
Nam-mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (21 lần)
Quang, thọ khó suy lường
Sáng lặng khắp mười phương!
Thế-Tôn-Vô Lượng-Quang
Cha lành cõi Liên-bang.
Thần-lực chẳng Tư-nghì
Sống lâu A-tăng-kỳ,
A-Di-Đà Như Lai
Tiếp-dẫn lên liên đài.
Cực-Lạc cõi thuần tịnh
Công-đức lạ Trang-nghiêm
Nơi tất cả quần sanh
Vượt lên ngôi Bất-thối
Mười phương Hằng-sa Phật
Đều ngợi khen Vô-lượng
Cho nên nay chúng con
Nguyện sanh về An-Dưỡng.
Nam-mô A-DI-ĐÀ Phật
(Tùy ý, hoặc 1 ngàn câu trở lên)
KINH NIỆM PHẬT BA LA MẬT
Đời Tấn, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn ra Hán.
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
PHẨM THỨ BẢY
KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT và ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
Lúc bấy giờ, ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát bạch Phật rằng:
– Thưa Thế-Tôn, con nay vì thương tưởng chúng sanh nơi thời Mạt pháp, khi ấy kiếp giảm, thọ mạng ngắn, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật thần chú Đà-ra-ni nầy, để THỦ HỘ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng trừ sạch phiền não, được mau chóng sanh về Cực-Lạc. Gọi là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà-ra-ni. Liền nói thần chú:
Nam-mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha.
Người niệm Phật phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều phải thanh khiết. NGÀY ĐÊM SÁU THỜI, mỗi thời tụng HAI MƯƠI MỐT BIẾN. Như vậy, diệt được các tội: Tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, và hủy báng Chánh pháp. Thường được đức Phật A-Di-Đà HIỆN trên đỉnh đầu. Hiện đời an ổn, phước lạc. Hơi thở cuối cùng, được tùy nguyện mà vãng sanh Cực-Lạc. Hoặc tụng đến BA CHỤC muôn biến, liền thấy Phật NGAY trước mặt mình.
BÀI KỆ THỨ 9
Một câu A Di Ðà
Tròn đầy mười thập nguyện
Ðâu phải đức Phổ Hiền
Dạy lầm cho xong chuyện!
(Nhứt cú Di Ðà
Mãn thập đại nguyện
Khởi đắc Phổ Hiền
Thác giáo liễu biện! )
LƯỢC GIẢI
Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới, sau khi đức Phổ Hiền nói mười Ðại Nguyện Vương, ngài liền tự phát thệ và khuyên Thiện Tài đồng tử cùng hải chúng Bồ Tát trong biển thế giới Hoa Tạng đều nên niệm Phật hồi hướng về Cực Lạc. Lời phát thệ như sau:
Tôi nguyện khi lúc sắp mạng chung
Dứt trừ tất cả điều chướng ngại
Diện kiến đức Phật A Di Ðà
Liền được sanh về cõi An Lạc.
Tại sao thế? Vì muốn vào cảnh giới bất tư nghị giải thoát, muốn thành tựu các công đức, muốn chứng Phật quả phải thật hành mười đại nguyện vương, và muốn không bị nhiều chướng duyên làm cho thối chuyển, muốn sớm mau hoàn mãn mười Ðại Nguyện Vương ấy, tất phải cầu sanh Cực Lạc!
Cho nên lời đức Phổ Hiền khuyên dạy chư Bồ Tát niệm Phật cầu về Cực Lạc không phải là điều dạy bảo cạn cợt, lạc lầm, nói suông rồi cho xong chuyện! Mà chính đó là lời khuyên dạy tối quan yếu, bao gồm ý vị rất sâu sắc, phải suy gẫm nhiều mới thấu hiểu.
PHÁP CHIẾU ĐẠI SƯ
(Liên Tông Tứ Tổ)
Pháp Chiếu đại sư, chưa rõ là người bậc thế nào? Trong năm Đại Lịch thứ hai đời nhà Đường, hàng đạo tục được biết ngài ở chùa Vân Phong tại Hoành Châu, thường chuyên cần tu tập.
Một buổi sáng, vào lúc thanh trai, ngài thấy trong bát cháo ở Tăng đường; hiện rõ bóng mây ngũ sắc. Trong mây hiện ra cảnh sơn tự, phía Đông bắc chùa có dãy núi, chân núi có khe nước. Phía Bắc khe nước có cửa ngõ bằng đá. Trong ngõ đá lại có một ngôi chùa to, biển đề “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Mấy hôm sau, ngài lại thấy nơi bát cháo hiện rõ cảnh chùa lớn ấy, gồm vườn ao, lâu đài tráng lệ nguy nga, và một vạn Bồ Tát ở trong đó.
Ngài đem cảnh tượng ấy hỏi các bậc tri thức. Một vị cao Tăng bảo: “Sự biến hiện của chư Thánh khó nghĩ bàn được. Nhưng nếu luận về địa thế non sông, thì đó là cảnh Ngũ Đài Sơn”. Nghe lời ấy ngài có ý muốn đến viếng Ngũ Đài thử xem sự thật ra thế nào”.
Năm Đại Lịch thứ tư, Đại sư mở đạo tràng niệm Phật tại chùa Hồ Đông. Ngày khai hội cảm mây lành giăng che chốn đạo tràng. Trong mây hiện ra cung điện lầu các Phật A Di Đà cùng hai vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí hiện thân vàng sáng chói cả hư không. Khắp thành Hoành Châu, bá tánh trông thấy đều đặt bàn đốt hương đảnh lễ. Cảnh tượng ấy hiện ra giây lâu mới ẩn mất. Do điềm lành này, rất nhiều người phát tâm tinh tấn niệm Phật. Đạo tràng khai liên tiếp được năm hội.
Một hôm, Đại sư gặp cụ già bảo: “Ông từng có ý niệm muốn đến Kim Sắc thế giới tại Ngũ Đài Sơn, để đảnh lễ đức Đại Thánh Văn Thù sao đến nay vẫn chưa thật hành ý nguyện?”. Nói xong liền ẩn mất. Được sự nhắc nhở, ngài sửa soạn hành trang, cùng mấy pháp hữu, đồng viếng Ngũ Đài.
Năm Đại Lịch thứ năm, vào ngày mùng sáu tháng tư, Đại sư cùng đồng bạn mới đến chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Đài. Đêm ấy, vào khoảng canh tư, ngài thấy ánh sáng lạ từ xa chiếu đến thân mình, liền nhắm phỏng chừng tia sáng mà theo dõi. Đi được năm mươi dặm thì đến một dãy núi, dưới chân núi có khe nước, phía Bắc khe có cửa cổng bằng đá.
Nơi cửa có hai vị đồng tử đứng đón chờ, tự xưng là Thiện Tài và Nan Đà. Theo chân hai đồng tử dẫn đường, ngài đến một ngôi chùa nguy nga, biển đề: “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Nơi đây đất vàng, cây báu, ao sen, lầu các rất kỳ diễm trang nghiêm. Cảnh giởi qủa đúng như ảnh tượng đã thấy nơi bát cháo khi trước.
Ngài vào chùa, lên giảng đường, thấy Đức Văn Thù bên Tây, đức Phổ Hiền bên Đông. Hai vị đều ngồi tòa sư tử báu cao đẹp, đang thuyết pháp cho một muôn vị Bồ tát ngồi phía dưới lặng lẽ lắng nghe. Pháp Chiếu bước đến chí thành đảnh lễ, rồi qùy xuống thưa rằng: “Kính bạch Đại Thánh! Hàng phàm phu đời mạt pháp, cách Phật đã xa, chướng nặng nghiệp sâu, tri thức kém hẹp, tuy có Phật tánh mà không biết làm sao hiển lộ. Giáo pháp của Phật lại qúa rộng rãi mênh mông, chưa rõ pháp môn nào thiết yếu dễ tu hành cho mau được giải thoát?”
Đức Văn Thù bảo:
Thời kỳ này chính là đúng lúc các người NÊN niệm Phật. Trong các hành môn không chi hơn niệm Phật và gồm tu phước huệ. Thuở đời qúa khứ, ta nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Tam Bảo mà ĐƯỢC Nhất thiết chủng trí. Tất cả các pháp như: Bát Nhã Ba La Mật, những môn thiền định rộng sâu, cho đến chư Phật cũng từ niệm Phật mà sanh. Vì thế nên biết, Niệm Phật là vua trong các pháp môn”.
Ngài Pháp Chiếu lại hỏi:
Bạch Đại Thánh! Nên niệm như thế nào?
Đức Văn Thù dạy:
Về phương Tây của thế giới này, có Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc. Đức Thế Tôn đó nguyện lực không thể nghĩ bàn! Ngươi nên chuyên niệm danh hiệu của ngài nối tiếp KHÔNG dán đoạn, thì khi mạng chung, quyết được vãng sanh, chẳng còn bị thối chuyển.
Nói xong, hai vị đại Thánh đồng đưa tay vàng xoa đầu ngài Pháp Chiếu và bảo rằng:
Do ngươi niệm Phật, nên không lâu sẽ chứng được qủa Vô thượng Bồ Đề. Nếu thiện nam tín nữ nào muốn mau thành Phật, thì không chi hơn niệm Phật. Kẻ ấy nhất định sẽ mau lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác.
Được hai vị Đại Thánh thọ ký xong ngài Pháp Chiếu vui mừng đảnh lễ rồi từ tạ lui ra.
Hai đồng tử khi nãy theo sau tiễn đưa. Vừa ra khỏi cổng, ngài quay lại thì người và cảnh đều biến mất. Ngài liền dựng đá đánh dấu chỗ ấy, rồi trở về chùa Phật Quang.
Đến ngày 13 tháng 4, Pháp Chiếu Đại sư cùng hơn năm mươi vị Tăng đồng đến hang Kim Cang, thành tâm đảnh lễ hồng danh ba mươi lăm đức Phật. Vừa lạy được mười lượt, ngài bỗng thấy hang Kim Cang rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm có cung điện bằng lưu ly, đức Văn Thù, Phổ Hiền đồng ngự trong ấy.
Hôm khác, ngài lại đi riêng đến hang Kim Cang, gieo mình đảnh lễ, nguyện thấy Đại Thánh. Đang khi lạy xuống vừa ngước lên, Đại sư bỗng thấy một Phạm Tăng tự xưng là Phật Đà Ba LỴ. Vị này đưa ngài vào một đại điện trang nghiêm, biển đề là Kim Cang Bát Nhã Tự. Toàn điện nhiều thứ báu lạ đẹp mầu, ánh sáng lấp lánh. Dù đã nhiều lần thấy sự linh dị, nhưng ngài vẫn chưa thuật lại với ai cả.
Tháng chạp năm ấy, ngài nhập đạo tràng niệm Phật nơi chùa Hoa Nghiêm định kỳ tuyệt thực tu hành, nguyện vãng sanh về Tịnh độ. Đêm đầu hôm, ngày thứ bảy, đang lúc niệm Phật, Đại sư bỗng thấy một vị Phạm Tăng bước vào bảo: “Ông đã thấy cảnh giới ở Ngũ Đài Sơn, sao không truyền thuật cho người đời cùng được biết?”. Nói xong, liền ẩn mất.
Hôm sau, trong lúc niệm Phật, vì Phạm Tăng hiện ra, bảo y như trước. Ngài đáp: “Không phải tôi dám giấu kín thánh tích, nhưng chỉ sợ nói ra người đời không tin sanh sự chê bai mà thôi”. Phạm Tăng bảo: “Chính đức Đại Thánh Văn Thù hiện tại ở núi này, mà còn bị người đời hủy báng, thì ông còn lo ngại làm chi? Hãy đem những cảnh giới mà ông thấy được truyền thuật với chúng sanh làm duyên cho kẻ được biết, phát khởi tâm Bồ đề”. Ngài tuân lời, nhớ kỹ lại những sự việc đã thấy, rồi nghi chép ra truyền lại cho mọi người.
Năm sau, sư Thích Huệ Tùy ở Giang Đông cùng với chư Tăng chùa Hoa Nghiêm, theo Pháp Chiếu đại sư đến hang Kim Cang lễ Phật. Kế đó lại đến chỗ dựng đá lúc trước để chiêm ngưỡng dấu cũ. Đại chúng còn đang ngậm ngùi ngưỡng vọng, bỗng đồng nghe tiếng chuông hồng chung từ vách đá vang ra. Giọng chuông thanh thoát ngân nga, nhặt khoan ràng rẽ.
Ai nấy đều kinh lạ đồng công nhận những lời thuật của ngài Pháp Chiếu là đúng sự thật. Vì muốn cho người viếng cảnh đều phát đạo tâm, Tăng chúng nhân cơ duyên ấy, khắc những sự việc của ngài nghe thấy vào vách đá. Về sau ngay nơi đó, một cảnh chùa trang nghiêm được dựng lên, vẫn lấy hiệu là Trúc Lâm Tự để lưu niệm.
Triều vua Đức Tông, Pháp Chiếu đại sư mở đạo tràng niệm Phật tại Tinh Châu, cũng liên tiếp được năm hội. Mỗi đêm vua và người trong cung nghe tiếng niệm Phật rất thanh thoát từ xa đưa vẳng lại. Sau khi cho người dò tìm, được biết đó là tiếng niệm Phật ở đạo tràng tại Tinh Châu, nhà vua phái sứ giả mang lễ đến thỉnh ngài vào triều. Ngài mở đạo tràng niệm Phật tại hoàng cung, cũng gồm năm hội. Vì thế, người đương thời gọi ngài là Ngũ Hội Pháp Sư.
Từ đó Đại sư tinh tấn tu hành, ngày đêm không trễ. Một đêm nọ ngài thấy vị Phạm Tăng khi trước là Phật Đà Ba Ly hiện đến bảo: “Hoa sen công đức của ông nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc đã thành tựu. Ba năm sau là đúng thời kỳ hoa nở, ông nên chuẩn bị”.
Đến kỳ hạn, Đại sư gọi Tăng chúng lại căn dặn rằng: “Ta về Cực Lạc, mọi người phẳi gắng tinh tu!” Nói xong, ngài ngồi ngay yên lặng mà tịch.
37. Ẩn tu an phó bịnh suy già
Nhơn thế xưa nay vẫn thế mà
Giữ chắc hồng-danh thuyền tế độ
Muôn trùng bao quản ngọn phong ba!
NHƯ Ý:
SANH GIÀ BỆNH CHẾT là thông lệ của kiếp người, bậc lớn tuổi nên thực hành câu, Trẻ vui NHÀ Già vui CHÙA.
Đừng vì thế mà sanh ra phiền muộn, Bài thi của Sư-phụ Bích-liên đã đề cập đến điểm này, Có thân có khổ vậy thôi thì, Già bệnh mà buồn có ích chi, mình được sống còn không mấy bữa, Quê Xưa cần nhẹ gót TÂY-QUY, nhưng muốn được Tây Quy phải giữ Chắc con thuyền HỒNG DANH, đi đứng nằm ngồi, khi ăn lúc ngủ đều phải niệm phật, niệm cho đến hơi thở cuối cùng.
***
CHÍ TÂM là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
PHÁP-YẾU-TU-HÀNH
H.T Thích-Thiền-Tâm
Tiết 26 – Hạnh Tinh Chuyên Cũng Là Điểm Không Thể Thiếu
Như trên đã nói, điểm thiết yếu của môn Niệm Phật là phải phát NGUYỆN vãng sanh. Nếu nghĩ rằng: “Ta chỉ cầu niệm hồng danh muôn đức của Phật A Di Đà cho thật nhiều, tự nhiên sẽ có vô lượng công đức; dù không vãng sanh, công đức ấy cũng chẳng mất.” Nghĩ như thế là sai lầm nguy hiểm và thiếu trí huệ.
Bởi có HẠNH mà không NGUYỆN thì công đức ấy sẽ biến thành phước báo ở đời sau. Đời thứ hai đã hưởng si phước tất dễ tạo nghiệp, sang đời thứ ba nhất định phải bị đọa lạc tam đồ, đó là điều sai lầm, nguy hiểm!
Vì thế, ở trên mới gọi TÍN NGUYỆN là “huệ hạnh”.
Đã có đủ Tín Nguyện mà thiếu phần Hạnh, ví như chiếc thuyền có lái không chèo, cũng không thể vãng sanh. Có kẻ nghe nói: “Chỉ cần tín nguyện chân thiết, khi lâm chung mười niệm hay MỘT niệm cũng quyết được sanh Tây Phương”, thì liền nghĩ rằng:
“Nếu như thế cần chi phải vội gấp, để lúc sắp chết niệm Phật cũng được!” Ý niệm này cũng sai lầm, bởi vì quá xem thường hành môn Niệm Phật. Phải biết, điểm quan yếu để vãng sanh, theo trong kinh văn là: “Người ấy khi lâm chung lòng không điên đảo”. (Thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ – Kinh Phật Thuyết A Di Đà).
Như quả lúc lâm chung lòng không điên đảo, thì niệm mười niệm hay một niệm cũng được vãng sanh. Nhưng ai dám bảo rằng: mình khi lâm chung lòng không điên đảo?
Nếu lúc bình thời không tinh chuyên dụng công, đến khi mạng chung bốn đại phân ly, sức nghiệp dồn dập, thân tâm bị sự khổ làm cho kinh hoàng mê loạn, sợ e một niệm cũng không thể thật hành huống chi mười niệm?
Như muốn cho khi lâm chung có phần bảo đảm, lúc bình thời hành giả phải tinh chuyên niệm Phật cho nhiều, và gắng tu tập trình độ “Nhứt Tâm Bất Loạn”. Bằng chỉ đợi khi sắp chết mới niệm, trên đạo lý nói ra thì cố nhiên suốt thông, nhưng lại e trên sự thật chẳng phải là đơn giản.
Cho nên các hành giả niệm Phật phải gắng dụng công, đừng lơ là khinh thường sự hành trì, mà rước lấy nỗi thất bại.
BÀI KỆ THỨ 59
Một câu A Di Ðà
Ðem toàn thân đội trải
Mạng người rất vô thường
Tháng ngày không trở lại.
(Nhứt cú Di Ðà
Toàn thân đảnh đái
Nhơn mạng vô thường
Quang âm bất tái!)
LƯỢC GIẢI
Cổ nhơn đã bảo: Trên đường tiến tu đạo giải thoát, có bốn điều khó:
ÐIỀU THỨ NHẤT là: Thân NGƯỜI rất khó được. Khi xưa đức Phật đã nói với ngài A Nan: “Chúng sanh được thân trời, người ít như đất nơi móng tay. Ðọa bốn ác thú nhiều như đất miền đại địa”. Ðọa vào các nẻo như: Tu La, bàng sanh, ngạ quỉ, địa ngục, bị nhiều nỗi thống khổ và nghiệp ác làm chướng ngại đường tu đã đành, nhưng sanh lên cõi trời cũng bị sự vui khiến cho mê đắm khó tu nữa! Thế nên duy có thân người mới dễ tiến tu đạo giải thoát mà thôi.
Người xưa đã từng diễn tả sự khó được của thân người qua mấy câu thi như:
Ngàn năm cây sắt đơm hoa dễ
Một mất thân người khó lại sanh!
(Thiên niên thiết thọ khai hoa dị
Nhứt thất nhơn thân tái phục nan!)
Hoặc:
Tam đồ một đọa trăm ngàn kiếp
Lại cõi nhơn thiên chẳng hẹn ngày!
(Tam đồ nhứt đọa bá thiên kiếp
Tái xuất đầu lai hữu kỷ thời!)
Thân người đã khó được như thế, nhưng làm thân người mà không tàn tật, không sanh nơi Biên Ðịa, được ở nơi trung tâm văn hóa đạo đức cũng là điều khó. Và đây là CÁI KHÓ THỨ HAI.
Dù được ở miền trung quốc có văn hóa đạo đức, nhưng không dễ gì được gặp và nghe hiểu Phật pháp. Bởi chánh pháp như hoa Ưu-đàm-bát-la, rất lâu mới nở hiện nơi cõi đời. Ðây là ĐIỀU KHÓ THỨ BA.
Lại tuy được gặp và nghe hiểu Phật pháp để tu hành, nhưng còn ĐIỀU THỨ TƯ rất khó là không dễ gì thoát khỏi tam giới, dứt hẳn nổi khổ sống chết luân hồi. Bởi nhân loại phần đông nghiệp nặng căn tối, chướng duyên rất nhiều, kiếp sống lại vô thường ngắn ngủi, mới vừa thấy đó, bỗng lại mất đi.
Nay chúng ta hân hạnh được thân người, lại rất may mắn gặp môn Tịnh Ðộ là pháp cực nhiệm mầu, một đời có thể đới nghiệp vãng sanh thoát vòng sống chết, thì phải đem toàn thân mà gánh vác thọ trì, đừng nên lần lựa hẹn chờ, hoặc thờ ơ biếng trễ.
Tại sao thế?
Vì bóng quang âm thấp thoáng như thoi đưa, tuổi xuân không trở lại, mạng người thoạt còn thoạt mất không biết đâu mà lường. Khi xưa có thiền sinh hỏi một vị tôn đức: “Bạch ngài! Thế nào là sự tiến tu của hành giả?” Vị tôn đức đáp:
“Thấy nói Kinh Kha xưa dõng mãnh.
Một đi thà chết chẳng quay về!”.
(Kiến thuyết Kinh Kha lữ.
Nhứt hành cánh bất hồi).
Hành giả đem toàn thân trải đội một câu A Di Ðà, cũng phải như thế.
HUỆ NHỰT
Huệ Nhựt đại sư, họ Tân, người ở Đông Lai. Ngài đắc độ vào thuở vua Trung Tôn đời Đường. Buổi thiếu thời, rất mến hạnh sang Tây Vức thỉnh kinh của Nghĩa Tịnh tam tạng.
Sau đó, đại sư theo thương khách nương thuyền vượt biển sang Ấn Độ. Trải qua ba năm ngài đến xứ Thiên Trúc, đi khắp nơi lễ thánh tích của Phật, và tìm thỉnh các bản kinh chữ Phạn. Cuộc hành trình ghi đậm nhiều kinh lịch gian khổ, khiến đại sư rất nhàm chán cõi Ta Bà. Do đó ngài tham phỏng khắp các vị Tam tạng Pháp sư ở Thiên Trúc, xem cõi nước nào thuần vui không khổ, và pháp hạnh nào mau được thấy Phật. Các vị ấy đều khuyên nên tu Tịnh độ, cầu về Cực Lạc. Đại sư đảnh lễ, nguyện xin tin nhận thật hành.
Cuộc du hành đưa ngài dần đến xứ Kiền Đà Ca thuộc miền Bắc Ấn Độ. Phía đông bắc thành vua nước ấy có tòa núi to, trên núi có đền thờ Bồ Tát Quán Thế Âm. Tương truyền, nếu kẻ nào đến được trước tượng đảnh lễ cầu thỉnh, Bồ Tát sẽ hiện thân dạy bảo cho những điều cần thiết.
Đại sư đến nơi đảnh lễ bảy ngày, rồi tuyệt thực niệm thánh hiệu đại sĩ, liều chết cầu được ứng nghiệm.
Tới đêm thứ bảy, Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân sắc tử kim cao hơn một trượng ngồi trên đài sen báu giữa hư không, duỗi cánh tay xuống xoa đầu ngài rồi bảo:
“Ngươi muốn hoằng pháp, lợi mình lợi người, cần phát tâm niệm thánh hiệu đức A Di Đà, nguyện về thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Khi đến cõi ấy sẽ thấy Phật và Ta, được sự lợi ích lớn. Ngươi nên ý thức pháp môn Tịnh độ rất mầu nhiệm, vượt hơn tất cả hạnh tu!”
Nói xong, liền ẩn mất.
Lúc bấy giờ do tuyệt thực lâu, đại sư đã khổn bại. Nhưng sau khi nghe Bồ Tát dạy bảo, tinh thần ngài bỗng phấn chấn, sức khỏe lần phục hồi. Từ đó lòng đã kiên quyết, nguyện nhứt tâm hành trì không thối chuyển.
Sau khi ấy, ngài vượt ngọn Thông Lãnh, trở về Trung Quốc. Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ bảy đời Đường, mới về tới Trường An. Cuộc hành trình trước sau kể có mười tám năm, trải qua hơn bảy mươi nước. Lúc vào kim điện triều kiến, dâng lên tượng Phật và các bản kinh, đại sư được vua tứ hiệu là Từ Mẫn tam tạng. Từ đó ngài tinh tấn niệm Phật, hoằng truyền về môn nầy, trứ tác quyển Vãng Sanh Tịnh Độ Tập lưu hành nơi đời.
Đến năm Thiên Bảo thứ bảy, đại sư viên tịch. Trước giờ lâm chung, ngài thấy hoa sen lớn hiện ra trước mặt, sáng chói rực rỡ như vầng mặt trời.
TÂY TRAI TỊNH ĐỘ THI
Nhật lặn lòng mơ hướng Lạc bang
Đường về quê thẳng tợ giây đàn!
Giữa trời nhạc đón nhiều thanh điệu
Trên nước sen chào mỗi sắc quang.
Cây bích cành dao trời báu lạ
Áo châu cơm ngọc cảnh vui nhàn.
Năm mươi niên trải nhiều luân lạc
Tiếp dẫn cha trao đại bảo tàng.
Mỗi đóa sen hàm một thánh thai
Cộng thành nở đẹp cánh hoa tươi.
Nơi thân anh lạc tùy tâm hiện
Đầy bát hương tô ứng niệm bày
Kim điện chói ngời mờ nhật nguyệt
Ngọc lâu sáng sạch tuyệt trần ai.
Pháp vương chỉ rõ đường chân đế
Ánh giác đài tâm tỏa rộng khơi.
Châu thành điện các, ngọc viên lâm
Ngồi đứng kinh hành đất bảo kim.
Xá lợi vang hòa tuyên diệu kệ
Tần dà thảnh thót trổi tiên âm.
Soi lòng tỏ ngộ vô sanh lý
Luyện tánh tròn linh bất động tâm
Chạm mắt nơi nơi đều Tịnh độ
Xưa nay trong sáng dứt suy tầm!
Cõi lành, câu Phật kết nhân duyên
Hai sáu thời gian giữ hiện tiền!
Mỗi xuống hoàng hôn thêm hướng niệm
Xa theo trời lặn đến Tây thiên.
Phật đà tay báu xin xoa đảnh
Đại sĩ thân vàng nguyện hóa duyên.
Chẳng mượn bào thai thành chất huyễn
QUÊ XƯA đã sẵn ngọc trì liên.
38. Ẩn tu suy gẫm sức hồng danh
Phước huệ Tăng-kỳ kết tụ thành
Sáu chữ chí tâm tiêu vạn tội
Một câu chín phẩm thoát siêu sanh.
NHƯ Ý: ĐỨC A-DI-ĐÀ trong vô lượng vô biên a tăng Kỳ-kiếp đã tu sáu độ muôn hạnh, đến khi thành PHẬT mới có TÔN hiệu ấy. Bởi thế nên Hồng-danh của ngài là sự KẾT-TỤ, là tinh túy của TRÍ-HUỆ Phước-đức đã tu bồ-tát hạnh trong VÔ BIÊN KIẾP; trong KINH có chỗ nói về 10 CÔNG ĐỨC CỦA SỰ NIỆM PHẬT.
TRÍ-ĐỘ LUẬN cũng đề cập đến công năng Thù Thắng của niệm PHẬT tam-muội. Nên NIỆM Phật sẽ tiêu TỘI chướng, sanh PHƯỚC Huệ trừ TÀ ma, trị LÀNH bệnh; hiện ra các tướng Kiết-tường.
Có vị phật tử đến chùa than nghèo khổ, một Sư-cụ bảo: Chỉ sợ MI không thuộc câu A-di-đà, nếu THUỘC CÂU A-DI-ĐÀ HƯỞNG TỚI GIÀ CŨNG KHÔNG HẾT, chỉ cần phải lưu ý đến chữ THUỘC (Là hết lòng THÀNH KÍNH) này.
***
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu
Công đức làm sao được?
Phật là ÐẠI-Y-VƯƠNG
Pháp là DIỆU-TIÊN-DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát
PHÁP-YẾU-TU-HÀNH
H.T Thích-Thiền-Tâm
10 CÔNG ĐỨC CỦA SỰ NIỆM PHẬT
Trong kinh nói: “ Người nào CHÍ TÂM niệm Phật, được mười món công đức như sau:
1.- Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, Đức A-Di-Đà phóng quang nhiếp thọ.
2.- Thường được các vị Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm thủ hộ.
3.- Ngày đêm thường được chư Thiên cùng Đại lực Thần tướng ẩn hình ủng hộ.
4.- Tất cả Dạ-xoa, ác quỉ, rắn độc, thuốc độc đều không thể làm hại.
5.- Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia, cùng các thứ chết dữ.
6.- Những tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải thoát, không còn kết oán rằng buộc.
7.- Ban đêm nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân thắng diệu của Phật A-Di-Đà.
8.- Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.
9.- Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính hoặc lễ bái cũng như kính Phật.
10.- Khi mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây phương Tam-Thánh tiếp dẫn sanh về Tịnh-Độ hưởng sự an vui không cùng!”
Ngài lại tạo bộ luận Đại Trí Độ, trong đoạn khai thị về pháp môn Tịnh độ có dạy:
“Niệm Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và những tội đời trước. Các pháp tam muội khác, có môn trừ được nghiệp dâm không thể trừ được nghiệp sân. Có môn trừ được nghiệp sân không thể trừ nghiệp dâm. Có môn trừ được nghiệp si, không thể trừ dâm, sân. Có môn trừ được ba độc tham, sân, si, không thể trừ các tội đời trước. Môn Niệm Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và các thứ tội chướng. Lại nữa, Niệm Phật tam muội có phước đức lớn, hay độ chúng sanh. Chư Bồ Tát muốn mau diệt tội chướng, được nhiều phước đức, sớm độ chúng sanh, không chi hơn tu môn Niệm Phật tam muội…”
(LONG-THỌ ĐẠI SĨ )
BÀI KỆ THỨ 43
Một câu A Di Ðà
Thưởng kẻ có công hay
Yến tiệc vua đầy trước
Châu mái tóc nơi tay.
(Nhứt cú Di Ðà
Hữu công giả thưởng.
Vương thiện dinh tiền
Kế châu tại chưởng.)
LƯỢC GIẢI
Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật có thí dụ đại khái: “Như vua Chuyển Luân đem quân dẹp giặc, thấy những binh tướng có công, đều tùy phần mà thưởng, hoặc cho y phục, châu báu, chí đến thành ấp tụ lạc. Duy hạt minh châu nơi mái tóc chẳng đem cho, vì riêng trên đảnh vua chỉ có MỘT viên bảo châu ấy thôi. Nếu vua thấy vị nào có công lớn, mới đem hạt ma ni vô giá để từ lâu nơi mái tóc ra cho.
Ðức Như Lai cũng như thế, nếu thấy hàng đệ tử y theo các kinh khác dứt trừ ba độc năm ấm, liền ban cho các pháp thiền định, giải thoát, chí đến thành Niết Bàn, bảo rằng đã diệt độ. Nhưng riêng kinh Pháp Hoa lại không nói ra, vì kinh này rất sâu khó tin, quí báu bậc nhứt. Nếu hàng đệ tử nào có công lớn phá các vô minh phiền não, vượt ra ba cõi, phát tâm Ðại Thừa, mới đem kinh Pháp Hoa là tạng bí mật, từ lâu hằng nghiêm cẩn giữ gìn, ngày NAY tuyên thuyết”.
MÔN NIỆM PHẬT cũng như thế, là Bí Mật Tạng chỉ thưởng riêng cho những kẻ có công tin nhận diệu pháp thành Phật này. Tin tưởng và thật hành theo môn Niệm Phật tức như người đã có trước mặt yến tiệc đầy đủ sơn hào hải vị của vua ban, đã cầm vào TAY viên minh châu nơi mái tóc của Chuyển Luân vương vậy.
HỒ YỂN
Cư sĩ Hồ Yển, tự Đại Phu, quê ở Tiền Đường. Đời Tống, ông làm quan Tuyên nghĩa lang. Lúc lớn tuổi trí sĩ thường cùng Thanh Chiếu Luật sư tới lui tham luận về đạo lý.
Một hôm ông cảm bịnh, sai con mời ngài Thanh Chiếu đến. Khi Luật sư tới thăm, có nhắc nhở rằng: “Bình sanh Đại Phu đã cùng Huệ Hanh nầy thân cận nhau, há chẳng rõ một việc lớn sau rốt đó ư?” Hồ Yển nói: “Có phải là tâm thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh chăng?” Thanh Chiếu bảo: “Trong tất cả thời, cư sĩ đã được không một niệm nhiễm ô chưa?” Ông đáp: “Chưa được!”
Luật sư nói: “Như thế thì đâu có thể luận đến việc tâm thanh tịnh cõi Phật thanh tịnh!” Hồ Yển hỏi: “Kinh nói: Xưng một câu A Di Đà Phật, diệt được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sanh tử, là thế nào?”
Thanh Chiếu đáp:
“Đức A Di Đà có thệ nguyện sâu, oai đức lớn, phước huệ ánh sáng và thần lực đều không thể nghĩ bàn! Do đó nên khi xưng danh hiệu ngài, tội chướng tự tiêu. Như vầng nhựt rạng chiếu giữa trời, tuyết sương đâu còn nữa!”
Hồ Yển nghe nói cảm ngộ lớn, một lòng chí thiết xưng danh hiệu Phật. Lại sai con thỉnh chư tăng đến trợ niệm. Độ một tháng qua, cuối cùng Thanh Chiếu luật sư lại tới thăm.
Cư sĩ bảo: “Ngài đến sao muộn thế?
Đã phiền hai vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí giáng lâm từ lâu rồi!” Luật sư nghe nói, liền cùng chư tăng xưng danh hiệu Phật trợ niệm. Được một lúc, cư sĩ an nhiên mà qua đời.
ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC
HOẰNG NGUYỆN
HT Trí-Tịnh
Do 48 điều nguyện này nên Đức Từ Phụ có những thiện duyên với chúng sanh trong mười phương nhứt là cõi trược uế khổ não. Đọc và suy gẫm kỹ ta sẽ được nhiều lợi ích lớn :
- Lòng TÍN nhiệm nơi Đức Từ Phụ càng sâu.
- Tăng trưởng Bồ-đề TÂM
- Rõ được cảnh giới trang NGHIÊM ở cõi Cực Lạc.
- Hiểu được đặc điểm CAO quý của người Cực Lạc.
- Ham mộ VỀ Cực Lạc và phấn chí TU hành.
Vì có nhiều lợi ích lớn ấy, nên Cổ đức rất trọng 48 đại nguyện này.Người thời thuộc nằm lòng, vị thời siêng lễ lạy. Mong chư độc giả cố gắng lướt qua quan niệm nhàm phiền.
Điều nguyện thứ 1.- Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 2.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi sau khi thọ chung còn lại sa vào ba ác đạo, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 3.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi thân chẳng màu vàng ròng tất cả, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 4.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi thân hình có kẻ tốt người xấu chẳng đồng nhau, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 5.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng có Túc mạng thông, ít nhứt là biết rõ những việc trong trăm nghìn ức na-do-tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 6.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng được thiên nhãn, ít nhứt là thấy rõ trăm nghìn ức na-do-tha thế giới của chư Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 7.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng được thiên nhĩ, ít nhứt là nghe và thọ trì tất cả lời thuyết pháp của trăm nghìn ức na-do-tha Đức Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 8.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng được tha tâm trí, ít nhứt là biết rõ những tâm niệm của tất cả chúng sanh trong trăm nghìn ức na-do-tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 9.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng được thần túc, khoảng một niệm, ít nhứt là lướt qua khỏi trăm nghìn ức na-do-tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 10.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi còn có quan niệm tham chấp lấy thân, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 11.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng trụ Chánh định tụ, nhẫn đến trọn diệt độ, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 12.- Lúc tôi thành Phật, nếu quang minh còn hữu hạn, ít nhứt chẳng chiếu thấu trăm nghìn ức na-do-tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 13.- Lúc tôi thành Phật, nếu thọ mạng còn hữu hạn, ít nhứt chẳng đến trăm nghìn ức na-do-tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 14.- Lúc tôi thành Phật, chúng Thanh Văn trong cõi nước tôi, nếu có ai tính đếm biết được số bao nhiêu, dầu đó là vô lượng Bích Chi Phật đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 15.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi thọ mạng còn hữu hạn, trừ người có bổn nguyện riêng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 16.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi còn có người nghe danh từ bất thiện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 17.- Lúc tôi thành Phật, nếu vô lượng chư Phật trong thập phương thế giới chẳng đều ngợi khen xưng danh hiệu của tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 18.- Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng Chánh pháp.
Điều nguyện thứ 19.- Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ-đề tâm tu các công đức nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 20.- Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi và tu các công đức chí tâm hồi hướng muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 21.- Lúc tôi thành Phật, nếu như hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, tất cả chẳng đều đầy đủ ba mươi hai đại nhơn tướng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 22.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cõi khác sanh về nước tôi, cứu cánh quyết đều đến bậc Nhứt sanh bổ xứ, trừ người có bổn nguyện riêng tự tại hóa hiện, vì chúng sanh mà phát hoằng thệ tu các công đức độ thoát mọi loài, đi khắp các thế giới tu Bồ Tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật, khai hóa vô lượng chúng sanh, làm cho tất cả đều đứng vững nơi đạo Vô thượng Chánh giác, siêu xuất công hạnh của các bậc thông thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ Hiền, nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 23.- Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước tôi, thừa thần lực của Phật mà đi cúng dường thập phương chư Phật, trong khoảng thời gian một bữa ăn, nếu không đến khắp vô lượng vô số ức na-do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 24.- Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát ở trong cõi nước tôi, khi ở trước thập phương chư Phật hiện công đức của mình muốn có những vật cúng dường, nếu không được đúng như ý muốn, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 25.- Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi không diễn thuyết được Nhứt thiết trí, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 26.- Lúc tôi thành Phật, nếu các Bồ Tát trong cõinước tôi chẳng đều được thân kim cương na la diên, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 27.- Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi, tất cả đồ dùng của nhơn thiên, hình sắc đều sáng đẹp sạch sẽ rất tột vi diệu, không có thể tính biết, dầu là người được thiên nhãn. Nếu có người biện danh số các đồ ấy được rõ ràng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 28.- Lúc tôi thành Phật, nếu Bồ Tát trong cõi nước tôi, dầu là người ít công đức nhứt, chẳng thấy biết được cội cây đạo tràng cao bốn trăm muôn do tuần, vô lượng quang sắc, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 29.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi nếu thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết Kinh pháp, mà chẳng được trí huệ biện tài, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 30.- Lúc tôi thành Phật, nếu có ai hạn lượng được trí huệ biện tài của Bồ Tát trong cõi nước tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 31.- Lúc tôi thành Phật, cõi nước tôi thanh tịnh, nơi nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghị thế giới ở mười phương, như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 32.- Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi từ mặt đất vàng lên đến hư không, lầu nhà cung điện, ao nước hoa cây, tất cả vạn vật đều là vô lượng chất báu và trăm nghìn thứ hương hiệp chung lại mà thành. Vạn vật đều xinh đẹp kỳ diệu, mùi thơm xông khắp thập phương thế giới, Bồ Tát các nơi ngửi đến mùi thơm ấy thời đều tu hạnh của Phật. Nếu chẳng như vậy, tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 33.- Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, được quang minh của tôi chạm đến thân, thời thân tâm nhu nhuyến nhẹ nhàng hơn thiên nhơn. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 34.- Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương nghe danh hiệu của tôi mà không được Vô sanh Pháp nhẫn cùng các môn thâm tổng trì, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 35.- Lúc tôi thành Phật, các người nữ trong vô lượng bất tư nghị ở mười phương vui mừng tin mến phát Bồ-đề tâm, nhàm ghét thân gái. Nếu sau khi mạng chung mà còn làm thân người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 36.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương nghe danh hiệu tôi, vẫn thường tu phạm hạnh mãi đến thành Phật. Nếu chẳng đặng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 37.- Lúc tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương nghe danh hiệu tôi, cúi đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tin mến tu Bồ Tát hạnh, thời chư Thiên và người đời đều kính trọng người đó. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 38.- Lúc tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi muốn có y phục, thời y phục tốt đúng pháp liền theo tâm niệm của người đó mà tự nhiên đến trên thân. Nếu còn phải cắt may nhuộm giặt, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 39.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi hưởng thọ sự vui sướng không như vị lậu tận Tỳ kheo, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 40.- Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới nghiêm tịnh của chư Phật ở mười phương, thời liền được thấy rõ cả nơi trong cây báu đúng theo ý muốn như thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 41.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó nhẫn đến lúc thành Phật mà các sắc căn còn thiếu xấu, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 42.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, thảy đều được giải thoát Tam muội. Trụ Tam muội đó, trong khoảng thời gian một niệm, cúng dường vô lượng bất tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà vẫn không mất chánh định. Nếu chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 43.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung thác sanh nhà tôn quý, nếu chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 44.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở, tu Bồ Tát hạnh vẹn đủ công đức, nếu chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 45.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi đều đặng Phổ đẳng Tam muội, trụ Tam muội này mãi đến lúc thành Phật, thường được thấy vô lượng bất tư nghị tất cả chư Phật. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 46.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi muốn nghe pháp gì, thời liền tự nhiên đặng nghe pháp ấy. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 47.- Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng được đến bậc bất thoái chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 48.- Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng liền được đệ nhứt Âm hưởng nhẫn, đệ nhị Nhu thuận nhẫn, đệ tam Vô sanh Pháp nhẫn, ở nơi Phật pháp chẳng liền được bậc bất thoái chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
39. Ẩn tu tuy chửa (chưa) đến Tây Phương
Cành ngọc chim linh ứng mộng thường
Rõ biết tâm lành sanh cảnh tịnh
QUẢ-NHÂN cảm hiện lẽ CHIÊU CHƯƠNG. (ĐƯƠNG NHIÊN)
NHƯ Ý:
Như trên Đã nói HỒNG DANH A-DI-ĐÀ là kết tinh của vô lượng Phước-Đức Trí-Huệ, nên khi niệm Phật thì những công năng quả báo lành ứng HIỆN.
Có nhiều vị hoặc TRONG Giấc-mộng hoặc ĐANG lúc niệm-Phật, thấy Hoa sen Ao báu, Lưới châu, Lầu ngọc, Chim linh, Đất vàng… Cho đến Phật, Bồ tát cảm hiện; những điều này trong Vãng Sanh lục và Tịnh Độ Thánh Hiền lục (MẤY ĐIỆU SEN THANH) đều có ghi chép.
***
NIỆM PHẬT THẬP YẾU
HT Thiền-Tâm
Tiết 16 – Những Điều Làm Giảm Phá Niềm Tin
Trong giới tu hành, có những kẻ cũng khuyên dạy niệm Phật, song lại giáo hóa theo cách thức của ngoại đạo. Lại có những vị vì chưa thông hiểu hay nhận thức sai lạc về Tịnh Độ, nên sanh ra bài báng. Đại khái như bảo:
Tịnh Độ là môn hành trì của ông già bà cả, hạng căn cơ thấp kém – tu Tịnh Độ là ỷ lại yếu hèn, không thể tự lực giải thoát nổi, phải nhờ cậy vào tha lực – hay niệm Phật là pháp hủ bại chờ chết, chỉ độ tử chớ không độ sanh.
Những sự lạm dụng và hiểu lầm trên đây, có mối hại dẫn dắt quần chúng theo đường tà và khiến thối chuyển cùng hủy hoại niềm tin của người niệm Phật, nên cần phải giải thích để làm sáng tỏ pháp môn Tịnh Độ.
Xin để qua những người không tin Nhân-quả, Phật pháp, mà chỉ nhìn xét những vị có hình thức dính dáng với đạo Phật.
Có những người hình thức là Tăng Ni, cũng ở Chùa hay Am Cốc, nhưng không học hiểu Phật pháp, chỉ tu luyện theo bàng môn. Họ là những kẻ mang chiêu bài Phật Giáo bán tạp hóa ngoại đạo.
Những người này có đồ chúng của họ, đều bí mật truyền đạo cho nhau. Nhiều người tuy nói tham thiền, song kỳ thật chuyên luyện điển, hoàn toàn không hiểu Thiền là gì. Đối với môn Tịnh Độ, họ bảo phải tưởng câu niệm Phật từ đơn điền thẳng tắt ra sau lưng, đi dọc lên theo xương sống rồi vòng xuống trở lại đơn điền, gọi là chuyển pháp luân. Đó là cách luyện khai thông hai mạch Nhâm, Đốc, theo ngoại phái, không phải của đạo Phật.
Có kẻ dạy phải nín thở niệm Phật luôn một hơi, rồi nuốt ực nước bọt một cái, gọi là để củng cố chân nguyên.
Có kẻ đem sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật bố khắp châu thân.
Có người lại giải thích Kinh A Di Đà theo ngoại thuyết như: Ao sen thất bảo là bao tử, bảy hàng cây báu là xương sườn, bát công đức thủy là máu, tủy, và các thứ nước không sạch trong thân…
Những kẻ đã mượn Phật pháp để tu theo ngoại đạo này đâu phải là chánh tín, làm sao được vãng sanh giải thoát?
BÀI KỆ THỨ 77
Một câu A Di Ðà
Là một đóa bảo liên
Lý duy tâm mầu nhiệm
Pháp hợp lẽ THIÊN NHIÊN.
(Nhứt cú Di Ðà
Nhứt đóa bảo liên
Duy tâm chi diệu
Pháp chỉ như nhiên.)
LƯỢC GIẢI
Câu HỒNG DANH mà chúng ta đang hành trì là kết tinh công đức của Phất A Di Ðà đã tu từ vô lượng vô biên kiếp về trước. Cho nên khi chúng sanh khởi tâm niệm một câu Phật hiệu, theo nhân quả của lý “các pháp do tâm tạo”, trong vô hình tự nhiên có ánh sáng và hoa sen phát hiện mà mắt phàm thường không thể nhìn thấy.
Tuy nhiên cũng có vài trường hợp do tâm CHÍ THÀNH nên hoa sen hiện rõ, có thể mục kích được với đôi mắt thường. Bởi thế hành giả mới chứng biết được lý ấy.
Nhắc tới điều này, bút giả bỗng nhớ lại chuyện thầy Thiện Lộc, thân phụ sư cô Diệu Châu, ở ngôi am sau chùa Vạn Ðức tại Thủ Ðức, đã thuật lại cho các liên lữu biết.
Một đêm nọ vào khoảng tám giờ tối, thầy đang quì chí tâm niệm Phật theo thời khóa đầu hôm, bỗng thấy từ cạnh bàn Phật ở ngay trước mặt mọc ra một búp hoa sen đỏ to bằng cái tách. Vừa trì niệm vừa nhìn kỹ từng chi tiết, thầy thấy cuống hoa uốn lượn cong, búp sen ngửa lên, rồi lần lần theo tiếng Phật hiệu nở to ra bằng đĩa bàn. Ðộ mười lăm phút sau, đóa hoa ấy biến mất. Ðây là một trong nhiều chuyện hiện thật mà chư liên hữu ở khắp mọi nơi đã mục kích và trần thuật lại.
Ðể nói rộng thêm, câu niệm Phật chẳng những có công đức hiện ra tướng hoa sen, mà còn hiện đủ các tướng thuộc chánh báo, y báo ở Cực Lạc. Trong các truyện vãng sanh, có vị trước giờ phút thọ chung, đại chúng bỗng thây mặt đất xung quanh bỗng hóa thành ra vàng ròng.
Có vị đang nằm bịnh, tràng phan, lầu các hiện trong tảng băng để gần bên giường.
Có vị đang niệm Phật, thân tướng trang nghiêm của đức A Di Ðà hoặc chư Bồ tát hiện giữa hư không, bay trên ngọn đèn lưu ly.
Có vị trong khi trì niệm, chợt nghe mùi hương lạ bay thơm cùng khắp.
Công đức trang nghiêm thanh tịnh của câu niệm Phật tùy tâm hiển hiện, đại khái là như thế.
CHÂU THỊ
Nhà lan thanh vắng, giậu cúc lơ thơ, trời thu phân cảnh vật tiêu sơ, người liên nữ bền lòng TÍN NGUYỆN! Đó là gia cảnh của Châu thị, và bà đang theo thời khóa thành tâm niệm Phật.
Châu thị nguyên là vợ của họ Chương. Từ trẻ bà đã biệt thờ kính Quán Thế Âm đại sĩ, TIN SÂU NHÂN QUẢ, từ hòa hiếu thuận và ưa thích điều lành. Đến sáu mươi tám tuổi, Châu thị mới được nghe biết sự lợi ích của pháp môn Tịnh độ, liền trường trai niệm Phật ra TIẾNG một muôn câu, ngoài số ấy đều tùy thời tùy cảnh niệm THẦM.
Công phu hành trì như thế đã trải hơn mười năm. Mấy năm sau cùng vì tránh sự phiền nhiễu, Châu thị thường tĩnh tọa nơi gian nhà riêng, sự tu trì càng thêm mật thiết. Có đôi lúc bà ngồi yên nhắm mắt hướng về Tây, luôn hai ba ngày không ăn uống nơi cổ tay MẠCH không còn nhảy; duy có nét mặt sáng tươi, toàn thân nóng ấm. Sau khi ấy, người nhà hỏi về tình trạng lúc đương thời, bà đáp:
“Ta thấy mình ngồi niệm Phật trên tòa sen to đẹp, quên hẳn thời khắc, lòng rất sáng nhẹ an vui!”
Đến năm Dân Quốc thứ hai mươi, vào khoảng tháng sáu, Châu thị bỗng cảm bịnh. Đứa con trai suất lãnh người nhà luân phiên trợ niệm. Vài hôm trước khi mãn phần, bà nói với gia thuộc rằng: “Ta còn lưu trụ hai ngày nữa, các con nên tạm nghỉ ngơi. Hãy chuẩn bị nấu nước thơm cho ta tắm gội, và y phục giày dép đều phải đổi thứ mới sạch!”
Hai hôm sau, vào giờ Tỵ, bà ngồi ngay thẳng hướng về Tây, nhắm mắt không nói năng chi cả. Con trai thấy thế, lại gọi người nhà vây quanh, đồng cao tiếng niệm Phật. Độ vài mươi phút kế đó, Châu thị ngồi yên ổn mà tắt hơi, gương mặt lộ nét tươi vui hòa nhã. HƠN HAI GIỜ SAU, đảnh đầu của bà hãy còn nóng.
Có điều đáng kỳ diệu là đang lúc làm lễ nhập liệm, đứa cháu nội gái của bà, vì quá thương khóc nên ngã xuống hôn mê. Mẹ đứa bé này tức là dâu của Châu thị, cũng đã niệm Phật vãng sanh từ mấy năm về trước. Khi được người nhà vực tỉnh dậy, bé gái nói:
“Con thấy từ phương Tây phóng tới ánh sáng to rộng rực rỡ. Đức Quán Thế Âm thân tướng nghiêm đẹp, tay cầm cành dương liễu, theo sau có vô số Bồ Tát nương giữa hư không bay đến. Trong giây phút mẹ cùng bà nội thân tướng cao lớn tươi tốt hơn lúc bình thường, theo sau chư Bồ Tát bay về phương Tây.
Ngoài ra lại còn có vô số hoa lạ, tràng phan bảo cái hiện giữa hư không, tất cả cảnh vật đều trang nghiêm rực rỡ khác thường. Trông thấy cảnh ấy lòng con chợt an vui, quên hẳn sự xót xa thương khóc. Bấy giờ con không còn lo buồn nữa, vì biết rõ mẹ và bà nội đã về cảnh Phật!”
LỜI BÌNH:
Phàm sanh về Cực Lạc, không luận Trai gái già trẻ, đều hiện thành THÂN NAM đủ ba mươi hai tướng tốt. Đứa bé thấy mẹ cùng bà nội đều còn thân NGƯỜI NỮ, đó là phương tiện hiện ra tướng cũ, để cho nó dễ nhận biết. Độc giả khi xem đến đoạn nầy, CHỚ HOÀI NGHI!
CỰC LẠC DU LÃM KÝ
(Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM dịch)
Theo trong KINH, ở thế giới Cực-Lạc không có nam nữ phân biệt, tại sao nơi đây lại hiển hiện nhiều hài tử ?
Ngài đáp:
– Đúng như thế, ở đây không phân tướng nam nữ, ngươi hãy tự nhìn kỹ lại xem mình thế nào?
Bị Bồ-Tát cảnh báo, tôi kinh lạ chợt phát hiện ra mình cũng biến thành thân Nữ-hài 13 tuổi, trang-phục đồng một dạng thức như các nữ-chúng kia.
Tôi tiếp tục hỏi với giọng đầy-kinh ngạc:
– Tại sao lại như thế này?
Đức Quán-Thế-Âm lộ vẻ từ-bi mỉm cười bảo:
– Nơi đây có một vị Bồ-Tát làm chủ-tể, muốn biến nam thì toàn chúng đều hóa thành nam, muốn biến nữ thì toàn chúng thành nữ. Kỳ thật, chẳng luận biến nam hay nữ, khi đã hóa sinh trong hoa sen, tức không còn thân huyết nhục, thể-chất đều là ngọc báu trong suốt, bên ngoài chỉ có tướng người, thật ra không phân nam nữ.
Tôi quan sát lại thân thể mình quả đúng như lời Bồ-Tát nói, không thấy da thịt, xương, gân, tủy, não, chỉ là chất ngọc thủy tinh trong trắng.
40. Ẩn tu niệm Phật suốt thâu canh
Cam lộ từ răng đượm ngọt thanh !
Khát nước đã nhờ công đức thủy
Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân Anh ?
(Lam Kiều vốn thật nơi TIÊN ở,
Hà tất nhọc nhằn ĐẾN Ngọc Kinh.)
NHƯ Ý:
BÙI-HÀNG trên chiếc thuyền đò dọc to rộng, thấy một THIẾU-PHỤ rất đẹp nghi không phải người PHÀM , dâng bài thơ ƯỚM HỎI (Hỏi thử để thăm dò ý kiến xem có thuận không ) như sau:
Kẻ Hồ người Việt còn mơ tưởng,
Huống gặp THIÊN TIÊN cách bức mành,
Cung Khuyến thẳng như chầu NGỌC ĐẾ,
Xin theo loan hạc đến mây xanh.
Thiếu phụ không nói sai thị nữ đưa lại bài thơ khác,
NHẤP chén Quỳnh Tương suối cảnh sinh,
Huyền Sương giã thuốc thấy VÂN ANH.
LÂM KIỀU cũng QUÁN THẦN TIÊN đấy,
Chi phải NHỌC MÌNH đến Ngọc kinh.
(NHẤP là UỐNG một chút hoặc uống từng chút một bằng cách chỉ hớp ở đầu môi nhấp thử ngụm rượu.)
Sau đó chàng nhân có Diệp qua cầu LAN , vào QUÁN gần đó xin nước uống thấy 1 nàng tuyệt đẹp hỏi ra tên là vân Anh, nhớ lại chuyện trước Chàng liền Xin cầu hôn, bà Mẫu đòi sính lễ một chiếc CHÀY Ngọc vì bà hiệu có một chiếc CỐI Ngọc, cần thêm Chày để giã luyện vị thuốc tiên tên là Huyền-xương.
Kết cuộc, Bùi hàng tìm được Chày Ngọc và Thành Hôn cùng cô Gái, về sau TIÊN ĐƠN luyện thành, Vợ Chồng cùng bà Mẫu đồng bay lên mây; câu chuyện LAM KIỀU là thế, duyên kiếp trước đã đưa BÙI HÀNG gặp VÂN ANH và thành đạo quả.
Hành giả Tịnh độ khi niệm PHẬT (đến TÂM CHÍ THÀNH, quên cả THỜI gian KHÔNG gian: Ẩn tu niệm Phật suốt thâu canh ) cũng sẽ Cảm Hiện Nước Cam Lồ thơm ngọt nơi miệng và sau sẽ sanh về AO BÁU thơm lành có BÁT CÔNG ĐỨC thủy ở Tây Phương.
Nước có tám thứ công đức ấy là:
THƠM NGỌT, MÁT SẠCH, TRONG SÁNG , CHÂN NHUẬN VÀ TÙY TÂM.
(Nước ao đã từ Như-ý-châu vương sanh, tức là thuộc về như ý thủy. Nước này có tám công đức:
- Trong sạch, trơn nhuần, nhiếp về sắc nhập.
- Thơm tho, không mùi hôi, nhiếp về hương nhập.
- Nhẹ nhàng.
- Mát mẻ.
- Nhu nhuyễn; ba điều này nhiếp về xúc nhập.
- Ngon ngọt, nhiếp về vị nhập.
- Uống vào điều hòa,thích ý.
- Uống xong tăng ích thân căn,tiêu trừ các bệnh; hai điều nhiếp về pháp nhập. )
***
Lam Kiều
LAM KIỀU là một cái cầu bắc trên sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây bên Tàu, tương truyền là nơi TIÊN ở.
Đời nhà Đường, triều Mục Tông (821-825), có một chàng nho sĩ tên BÙI HÀNG, lều chõng đi thi bao lần đều hỏng. Một hôm, Bùi Hàng thuê đò đi Tương Hán định sang ghé Ngọc Kinh để xem phong cảnh. Cùng đáp một chuyến đò có một mỹ nhân tên Vân Kiều, sắc nước hương trời, con người đoan trang, thùy mị. Bùi Hàng sinh cảm mến, mong được giao duyên, mới mượn thơ thay lời, nhờ người Nữ Tỳ của giai nhân đưa hộ:
Kẻ Hồ, người Việt còn thương nhớ,
Huống cách người tiên chỉ bức mành.
Ví được Ngọc Kinh cùng nối gót,
Xin theo loan hạc đến mây xanh.
(Bản dịch của Phan Như Xuyên)
Nguyên văn:
Đồng vi Hồ Việt do hoài tưởng,
Huống ngộ thiên tiên cách cẩm bình.
Thắng nhược Ngọc Kinh triều hội khứ,
Nguyện tùy loan hạc nhập thành vân.
VÂN KIỀU xem thơ, vui vẻ mỉm cười. Nhưng thơ đi mà tin chẳng lại, Bùi Hàng rất lo lắng, băn khoăn. Nhưng khi đò sắp ghé bến, Bùi Hàng bỗng tiếp được thơ do người Nữ tỳ của giai nhân đưa đến:
Uống rượu Quỳnh Tương trăm cảnh sinh,
Huyền Sương giã thuốc thấy Vân Anh.
Lam Kiều vốn thật nơi tiên ở,
Hà tất nhọc nhằn đến Ngọc Kinh.
Nguyên văn:
Nhất ẩm Quỳnh Tương bách cảnh sinh,
Huyền Sương đảo tận kiến Vân Anh.
Lam Kiều tự hữu thần tiên quật,
Hà tất khí khu thượng Ngọc Kinh.
Bùi Hàng không hiểu ý nghĩa ra sao, định hỏi; nhưng thuyền vừa ghé bến thì Vân Kiều đã thoáng mất. Nghiền ngẫm hai câu thơ cuối,
(Lam Kiều vốn thật nơi TIÊN ở,
Hà tất nhọc nhằn ĐẾN Ngọc Kinh.)
Bùi Hàng KHÔNG đến Ngọc Kinh, mà hỏi dò người, tìm đến Lam Kiều. Trời trưa nắng gắt, Bùi Hàng mệt mỏi, mồ hôi nhuễ nhoại. Ghé vào hàng nước, nghỉ chân, hỏi nước uống. Bà lão chủ quán bảo người con gái đem nước ra. Nàng rất đẹp, trông dáng vẻ tựa Vân Kiều. Bùi Hàng hỏi, thì ra nàng là em của Vân Kiều, tên VÂN ANH. Bùi Hàng mừng rỡ, cho là gặp duyên trời định, mới thuật lại cả hai bài thơ.
Bà lão cười, bảo: – Hẳn là con Vân Kiều muốn xe duyên EM nó cho cậu đó. Bùi Hàng nghe nói lấy làm hớn hở. Nhưng bà lão cho biết là hiện bà có cái CỐI ngọc , song thiếu chiếc CHÀY ngọc để giã thuốc HUYỀN SƯƠNG, nếu Bùi Hàng tìm được Chày ngọc thì bà sẽ gả Vân Anh cho. Bùi Hàng bằng lòng.
Nhưng đi tìm mãi khắp nơi mà không biết ở đâu có chày ngọc. Lòng buồn tha thiết. Tưởng hoàn toàn thất vọng, chàng đi lang thang. May mắn, một hôm, chàng gặp được TIÊN cho chiếc chày ngọc. Thế là duyên thành. Sau cả hai vợ chồng Bùi Hàng đều tu thành tiên cả.
Nguyễn Tử Quang
Điển hay tích lạ
CAM-LỘ PHÁP THỦY
Lòng NÓNG giận là tập tánh từ kiếp trước, muốn đối trị, nên tưởng như mình ĐÃ chết. Thế thì mặc ai bôi hương thoa lọ, nơi ta nào có can gì? Dù gặp những cảnh trái lòng đến đâu đi nữa, cũng cứ tưởng rằng mình đã chết, tự nhiên tánh giận hờn không thể nổi lên.
Đây là món “CAM-LỘ PHÁP THỦY” của đức Như Lai truyền dạy, để rửa hết kết nghiệp của tất cả chúng sanh.
Nay tôi vì các hạ thuật lại, không phải tự tôi đặt điều ức thuyết. Nếu không niệm Phật cầu về Tây phương, tuy sanh lên chỗ cực tôn quí như trời Phi Phi
Tưởng, khi phước báo đã hết, vẫn bị luân chuyển trong sáu đường. Như dùng hết lòng thành khẩn niệm Phật, dù sắp đọa VÀO Địa ngục A tỳ, cũng có thể nhờ Phật tiếp dẫn.
Vậy muôn lần xin chớ tự coi là THẤP KÉM, cho rằng mình nghiệp nặng e không được vãng sanh. Nếu CỐ giữ quan niệm ấy thì quyết định CHẲNG được sanh Tây phương, vì bởi thiếu sự TÍN NGUYỆN chơn thiết nên không do đâu để cảm đến Phật.
Ấn Quang Pháp Sư
Thơ Đáp Cư Sĩ Cừu Bội Khanh
Cam-Lộ Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bốn Mươi Mốt
Cơ khát hữu tình vọng thanh lương
Khô mộc trùng sinh phóng dị quang
Phổ khánh từ bi sâm tạo hóa
CAM-LỘ thiên lệ tế thập phương.
Tô Rô Tô Rô [45]
Án– Tố rô tố rô, Bác-ra tố rô, Bác-ra tố rô,tố rô tố rô dã, Tát-phạ hạ. (108 lần)
PHÁT NGUYỆN
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đảnh
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
Nam-mô Tây-phương Cực-Lạc thế-giới, đại-từ, đại-bi tiếp dẫn đạo sư A-DI-ĐÀ-PHẬT. (1 lần)
Nam-mô A-DI-ĐÀ Phật
(Tùy ý, hoặc 1 ngàn câu trở lên)
( Lại CHUYÊN NIỆM “ Nam Mô A Di Đà Phật”. Nghĩa là ngoài thời khóa kể trên, trong một ngày đêm, khi nào có thể liền nhiếp THÂN TÂM vào danh hiệu “NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT”, lâu ngày sẽ được NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT, mới biết diệu dụng của câu niệm phật “BẤT KHẢ TƯ NGHỊ”, không thể dùng văn tự ngôn ngữ SUY NGHĨ mà bàn luận biết được. Cho nên, qúi vị phải hành trì cho thiết thật.
Tuy nhiên, nếu qúi vị thích chuyên trì “CHÚ ĐỊA-BI”, chuyên trì “ 1 THỦ-NHÃN”, chuyên “ THAM-THIỀN”, chuyên “TỤNG KINH”… thì cũng phải hành như “CHUYÊN” NIỆM PHẬT vậy).
***
Kinh nói rằng: “Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát được no đủ mát mẻ, nên cầu nơi Tay hóa nước CAM-LỘ.”
Thần-chú rằng: Tô Rô Tô Rô [45]
Chân-ngôn rằng: Án– tố rô tố rô, bác-ra tố rô, bác-ra tố rô, tố rô tố rô dã, tát-phạ hạ.
(Có bản thiếu 2 chữ “TỐ RÔ” )
Kệ tụng:
Cơ khát hữu tình vọng thanh lương
Khô mộc trùng sinh phóng dị quang
Phổ khánh từ bi sâm tạo hóa
Cam lộ thiên lệ tế thập phương.
[Chúng-sanh ĐÓI KHÁT cầu cứu độ.
Như Cây khô nhờ nước CAM-LỘ, được sống lại càng thêm tươi tốt dị thường.
Đại-từ Đại-bi phổ độ khắp PHÁP GIỚI chúng sanh.
Như một trận MƯA Cam-lộ, làm cho 10 PHƯƠNG chúng sanh được NO ĐỦ MÁT MẼ.]
Theo KINH LĂNG NGHIÊM thì muốn chứa đựng nước CAM-LỘ trong TỊNH-BÌNH, để cứu độ 12 LOÀI CHÚNG-SANH, được mát mẻ no đủ, thì phải lấy nước nóng, tro và nước thơm súc rửa, để trừ bỏ tất cả chất độc trước đã, rồi mới đựng nước CAM-LỘ.
Nước CAM-LỘ do đâu mà có? Là do người TU hoặc là THAM THIỀN, TRÌ CHÚ, NIỆM PHẬT… mà sanh ra.
Ẩn tu niệm Phật suốt thâu canh
Cam–lộ từ răng đượm ngọt thanh !
Khát nước đã nhờ công đức thuỷ
Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân Anh ?
(Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh – HT Thích Thiền–Tâm)Cũng như “AI” muốn TU-CHỨNG pháp môn “TAM-MA-ĐỊA” của PHẬT, phải tu 3 TIỆM THỨ trước đã, để trừ tất cả BẢN NHÂN ĐIÊN-ĐẢO LOẠI-TƯỞNG, rồi mới hoặc TRÌ CHÚ, NIỆM PHẬT, THAM THIỀN… lần lần trải qua các ĐỊA VỊ tu chứng, giống như người uống được nước CAM-LỘ thì không còn bị ĐÓI KHÁT nữa.
Như nếu, qúy vị trì CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP thành tựu, thì TÂM qúi vị hướng tới đâu thì nước CAM-LỘ rưới tới đó, cũng như một trận MƯA LỚN làm cho 12 chủng loại chúng sanh trong 10 phương PHÁP GIỚI được no đủ mát mẽ.
KINH VĂN:
Nếu con hướng về nơi non đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hướng về cõi địa ngục,
Ðịa ngục liền mau tự tiêu tan.
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ,
Ngạ quỷ liền được tự no đủ.
Nếu con hướng về chúng Tu La,
Tu la tâm ác tự điều phục.
Nếu con hướng về các súc sanh,
Súc sanh tự được trí huệ lớn.
(KINH THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN VÔ-NGẠI ĐẠI-BI-TÂM ÐÀ-RA-NI )
Lại nữa, nước CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP cũng có khả năng ĐOẠN TUYỆT tất cả PHIỀN-NÃO trong THÂN-TÂM của qúy vị. Cũng như người niệm PHẬT A-DI-ĐÀ vậy.
THÂN thì sanh, già, bịnh, chết, đói, khát, nóng, lạnh, vất vả nhọc nhằn; TÂM thì buồn, giận, lo, thương, trăm điều phiền lụy.
Thanh sắc tài danh thế-lợi trêu
Bể trần chìm nổi kiếp vô-liêu!
Giai-nhân kiệt sĩ chừ đâu vắng?
Dấu sử nghìn thu để hận nhiều!
Hươu Tần tranh đuổi khắp giang-san
Cỏ xót, mây thương, cuộc thảm tàn!
Lầu Hán vui trăng ai đó mấy?
Hơn thua thù hận thuở nào tan?
May gặp Như-Lai ánh huệ không
Nước dương (nước CAM-LỘ từ cành DƯƠNG) quyết rửa sạch mê lòng!
Đã lên non pháp quên tìm báu
Lần lựa đi về tiếc uổng công!
Vượt hết non cao vực thẳm rồi
Bên đường bỗng thấy sắc hoa tươi
Mới hay siêu đọa do mình cả
Mà cõi mười phương cũng huyễn thôi.
(Niệm Phật Phải Đoạn-Tuyệt-Phiền-Não – HT Thích Thiền Tâm )
Lại nữa, nước CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP cũng có khả năng làm cho “TAM THỪA NGŨ TÁNH GIAI TỈNH NGỘ”. Cũng như người “THAM THIỀN” vậy.
Chấn pháp lôi, kích pháp cổ,
Bố từ vân hề sái cam lồ.
Long tượng xúc đạp nhuận vô biên,
Tam thừa ngũ tánh giai tỉnh ngộ.
Dịch:
Nổi pháp lôi gióng pháp cổ,
Bủa mây từ hề, rưới cam lồ.
Voi rồng dẫm bước nhuận ân sâu,
Năm tánh ba thừa đều tỉnh ngộ.
Chấn pháp lôi, kích pháp cổ: Ðây chẳng qua là tỷ dụ. Chẳng phải là tiếng sấm hay tiếng sét thực. Ý nói lời Phật thuyết pháp có thể so sánh như tiếng rống của sư tử, hay âm thanh của sấm sét. Chúng sanh đương mê man trong giấc mộng, nghe được tiếng sấm sét, bèn tỉnh giấc, bỏ tà theo chánh, đó là ý của câu: “Nổi pháp lôi, gióng pháp cổ.”
Bố từ vân hề, sái cam lồ: “Bố” là phân bố, rải rộng ra. Rải rộng đám mây pháp từ bi, rưới xuống trận mưa pháp cam lồ, khiến cho chúng sanh, như các cây khô héo, được hưởng mưa pháp trở thành mát mẻ tươi nhuận, để từ đó mà phục hồi được pháp thân và huệ mạng.
Long tượng xúc đạp nhuận vô biên: Lúc đó các hàng long tượng trong pháp môn, gặp mưa pháp, họ càng được thấm nhuần gấp bội. Các bậc long tượng này lại mang pháp âm, pháp vũ hiển dương, khiến cho hết thảy chúng sanh được giác ngộ, cho nên nói:
Tam thừa ngũ tánh giai tỉnh ngộ: “Tam thừa” là chỉ Thanh văn, Duyên giác, và Bồ-tát; Ngũ tánh là chỉ năm loại tánh: Thiện, ác, định, bất định, xiển đề. Năm loại này là bao quát hết các căn tánh của chúng sanh, từ hạng thượng căn lợi trí, tới hạng hạ căn ngu độn. Hết thảy chúng sanh đều được thấm nhuần mưa pháp.
( VĨNH-GIA ÐẠI SƯ CHỨNG ÐẠO CA THIỂN THÍCH
Hòa Thượng Tuyên Hóa Thuyết Giảng tại Kim Luân Thánh Tự )
Lại nữa, nước CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP cũng có khả năng làm cho CÂY KHÔ được sanh cành lá, trổ bông trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư?
KINH VĂN:
Đức Phật bảo ngài A Nan:
– Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà ra ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong ba cõi.
Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng đà ra ni này mà trị thì không bịnh nào chẳng lành, dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bịnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có.
– Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi tâm đà ra ni không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được, nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành, thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại chúng các ông, cả hàng trời, người long thần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ.
Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng 99 ức hằng hà sa chư Phật kia. Nếu người nào đối với đà ra ni này sanh nghi không tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp không bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ không biết bao giờ mới được ra khỏi.
Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại Thiên vương, Thiên, Long, quỷ thần, nghe đức Như Lai khen ngợi môn đà ra ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành.
Tóm lại, nếu qúy vị tu CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP được thành tựu, thì TÂM qúy vị hướng tới chúng sanh nào trong pháp giới, thì chúng sanh đó được no đủ mát mẽ, cho dù là CÂY KHÔ còn được sanh cành lá, trổ bông trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư?
Cho nên, tất cả sự mong cầu của qúi vị “TRONG ĐỜI HIỆN TẠI” nếu không được thành tựu, thì chú nầy không được gọi là ĐẠI-BI TÂM ĐÀ-RA-NI, không được gọi là CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành.
45) Tô Rô Tô Rô
Theo trong KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG” nói rằng : “Khi Qúy vị trì tụng câu chú Tô Rô Tô Rô, thì tiếng rơi rụng của LÁ CÂY ở cõi chư PHẬT sẽ “RƯỚI NƯỚC CAM LỘ”, giúp cho Qúy vị no đủ mát mẻ. THÂN-TÂM hưởng được AN-LẠC KHÔNG CÙNG TẬN.
TIẾNG LÁ CÂY RỤNG
(Chư PHẬT thường TRÌ “CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, làm cho TIẾNG LÁ CÂY RỤNG “RƯỚI NƯỚC CAM LỘ”, giúp cho Qúy vị no đủ mát mẻ. THÂN-TÂM hưởng được AN-VUI KHÔNG CÙNG TẬN.
Và ngược lại nếu “QÚY VỊ” Thường TRÌ “CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP”, thì Qúy vị là “HÓA THÂN” của chư PHẬT, nghĩa là cũng đạt được như chư PHẬT vậy.)
Còn theo “KỆ TỤNG” thì khi TRÌ TỤNG “CAM-LỘ THỦ NHÃN ẤN PHÁP” thành tựu, sẽ làm cho CHÚNG SANH trong PHÁP GIỚI “NGƯNG TẤT CẢ VỌNG TƯỞNG ĐIÊN ĐẢO”, NGHE VẠN VẬT THUYẾT PHÁP như “TIẾNG LÁ CÂY RỤNG”,GIÓ NHẸ THỔI ĐỘNG CÁC HÀNG CÂY BÁU… NGƯỜI NÀO “NGHE” TIẾNG ĐÓ “TỰ NHIÊN” ĐỀU SANH “TÂM” NIỆM PHẬT, NIỆM PHÁP, NIỆM TĂNG
BỔN LAI CHƯ PHẬT VẨN TRỤ TRONG “TAM-MUỘI PHỔ-QUANG-MINH TRÍ”, LÌA LỜI NÓI VĂN TỰ, NHƯNG VÌ “TÂM” ĐẠI-BI muốn “KHAI-THỊ” cho chúng sanh “NGỘ NHẬP PHẬT-TRI-KIẾN”. Cho nên, mới có LỜI NÓI VĂN TỰ “NHƯ THỊ NGÃ VĂN”…
Kệ tụng:
Vạn vật thuyết pháp hữu thùy thính
Thế giới chúng sanh vọng tưởng ngưng
Chư Phật bổn nguyên ly văn tự
“NHƯ THỊ NGÃ VĂN” đại bi công
KINH ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI “XUẤT TƯỢNG”
THIỀN-TÂM Dịch ra VIỆT-VĂN
KỆ TỤNG
- TUYÊN-HÓA Kệ-tụng
- Tô rô tô rô
Tô rô tô rô. Hán dịch là “cam lồ thủy”. Đây cũng chính là Cam lồ thủ nhãn ấn pháp. Trước đây tôi đã giảng về diệu dụng của nước cam lồ rồi. Có thể giúp cho các loài quỷ đói được no đủ và mọi tâm nguyện đều được như ý, làm tiêu tan mọi sự đói khát, thọ nhận được nhiều điều tốt lành khác nữa.
Nước cam lồ này còn gọi là “Bất tử dược”. Nếu có người sắp chết uống nước cam lồ này thì sẽ được sống lại. Nhưng không dễ gì gặp được nước cam lồ này nếu không có duyên lành.
ĐẠI BI CHÚ
Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU
CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)
DIÊN THỌ ĐẠI SƯ
(Liên Tông Lục Tổ)
Diên Thọ Đại sư, tự Xung Huyền, người đời Tống, con của họ Vương ở Tiền Đường. Lúc thiếu thời, ngài thích tụng kinh Pháp Hoa, cảm đến bầy dê quỳ mọp nghe kinh.
Lớn lên, Xung Huyền được Văn Mục Vương tuyển dụng, cho làm quan trông nom về thuế vụ. Nhiều lần ngài lấy tiền công qũy đến Tây Hồ mua cá trạnh phóng sanh. Việc phát giác ra, bị Pháp ty thẩm định, xử ngài vào tội tử hình. Lúc sắp đem đi chém, Văn Mục Vương bí mật cho người rình xem, nếu thấy ngài nhan sắc thản nhiên, không tỏ về buồn rầu lo sợ, thì phải đem về trình lại. Thấy ngài trước sau vẫn an điềm. Sứ giả trao sắc chỉ cho quan Giám trảm, rồi dẫn về diện kiến vua. Khi Vương hỏi duyên cớ, ngài đáp: “Tôi tự dụng của công, đáng tội chết. Nhưng toàn số tiền đó, tôi dùng mua cứu được muôn ức sanh mạng, thì dù thân này có chết, cũng được vãng sanh về cõi Liên Bang, vì thế nên tôi không lo sợ”. Văn Mục Vương nghe qua cảm động, ra lịnh tha bổng. Ngài xin xuất gia, Vương bằng lòng.
Sau đó, ngài đến quy đầu với Thúy Nham thiền sư ở Tứ Minh. Kế lại tham học với Thiều Quốc Sư ở Thiên Thai, tỏ ngộ tâm yếu, được Quốc sư ấn khả, ngài từng tu Pháp Hoa Sám ở chùa Quốc Thanh.
Trong lúc thiền quán thấy đức Quán Thế Âm Bồ Tát rưới nước CAM-LỒ vào miệng, từ đó được biện tài vô ngại.
Do túc nguyện muốn chuyên chủ về Thiền hoặc Tịnh mà chưa quyết định, ngài đến thiền viện của Trí Giả đại sư, làm hai lá thăm: một lá đề Nhất tâm Thiền định, còn lá kia là: Trang nghiêm Tịnh độ. Kế lại chí tâm đảnh lễ Tam Bảo sám hối, cầu xin gia bị. Đến khi rút thăm, luôn bảy lần đều nhằm lá Trang Nghiêm Tịnh Độ. Từ đây ngài nhất ý tu về Tịnh nghiệp.
Năm Kiến Long thứ hai đời Tống. Trung Ý Vương thỉnh ngài trụ trì chùa Vĩnh Minh, tôn hiệu là Trí Giác thiền sư. Ngài ở đây trước sau mười lăm năm, độ được một ngàn bảy trăm vị Tăng. Đại sư lập công khóa, mỗi ngày đêm hành trì một trăm lẻ tám điều và hai điều đặc biệt trong đó, là tụng một bộ kinh Pháp Hoa, niệm mười muôn câu Phật hiệu. Ban đêm khi ngài qua gộp núi khác niệm Phật, những người ở gần nghe tiếng loa pháp cùng thiên nhạc trầm bổng du dượng. Về kinh Pháp Hoa, trọn đời ngài tụng được một muôn ba ngàn bộ. Đại sư thường truyền giới Bồ Tát, mua chim cá phóng sanh, thí thức cho qủi thần, tất cả công đức đều hồi hướng về Tịnh độ. Ngài có trứ tác một trăm quyển Tông Cảnh Lục, hội chỉ thú dị đồng của ba tông: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Duy Thức.
Đại sư lại soạn ra tập Vạn Thiện Đồng Quy. Trong đây lời lẽ chỉ dạy về Tịnh độ rất thiết yếu, đại lược như sau:
Hỏi: –Cảnh duy tâm Tịnh độ đầy khắp mười phương, sao không hướng nhập, mà lại khởi lòng thủ xả, cầu về Cực Lạc gởi chất ở đài sen. Như thế đâu hợp với lý vô sanh, và đã có tâm chán uế ưa tịnh thì đâu thành bình đẳng?
Đáp:– Sanh duy tâm Tịnh độ là phần của các bậc đã liễu ngộ tự tâm, chứng được pháp thân vô tướng. Tuy nhiên, theo kinh Như Lai Bất Từ Nghị Cảnh Giới, thì những bậc chứng Sơ địa vào Duy tâm độ, cũng nguyện xả thân để mau sanh về Cực Lạc. Thế thì biết ngoài tâm không pháp, cảnh Cực Lạc đâu ngoài Duy Tâm? Còn về Phần “Lý vô sanh mà môn bình đẳng” tuy lý thuyết là như thế, nhưng kẻ lực lượng chưa đủ, trí cạn tâm thô, tập nhiễm nặng, lại gặp cảnh trần lôi cuốn mạnh mẽ, dễ gì mà chứng nhập được. Những kẻ ấy cần phải cầu sanh Cực Lạc, nhờ cảnh duyên thắng diệu ở đó, mới mau chứng vào Tịnh độ duy tâm và thực hành Bồ Tát.
Thập Nghi Luận cũng nói: “Bậc trí tuy liễu vô sanh, song vẫn hăng hái cầu về Tịnh độ, vì thấu suốt sanh thể như huyễn không thể tìm được. Đó mới thật là chân vô sanh. Còn kẻ ngu không hiểu lý ấy, bị nghĩa sanh ràng buộc nghe nói sanh thì nghĩ rằng thật có tướng sanh, nghe nói vô sanh lại tưởng lầm là không sanh về đâu cả. Do đó, họ mới khởi niệm thị phi chê bai lẫn nhau gây thành nghiệp tà kiến báng pháp. Đáng thương thay!
Hỏi:- Kinh luận nói: “Ngoài tâm không pháp, Phật không khứ lai”. Nhưng sao người tu Tịnh độ lại thấy Thánh tướng và việc Phật đến rước là như thế nào?
Đáp:- Kinh Bát Chu nói: “Như người nằm mơ thấy bảy thứ báu, hàng thân thuộc đều cùng vui mừng. Đến lúc thức tỉnh nghĩ lại, chẳng biết cảnh sang giàu ấy ở đâu? Sự việc niệm Phật cũng như vậy”. Thế thì biết các cảnh đều như huyễn, do duy tâm hiện, tức có mà không, tuy hiện tướng khứ lai song thật không có đến đi. Cho nên, thánh cảnh tuy như huyễn, song chẳng phải không có huyễn tướng, việc đến đi tuy không thật, song chẳng ngại gì có tướng khứ lai. Đó là lý trung đạo. Huyễn sắc tức chân không chính huyễn sắc, có và không đều vô ngại. Tất cả sự và cảnh chúng sanh đang sống ở thế gian này, cũng đều như thế.
Thật ra, chân cảnh của duy tâm, không có đông tây cùng phương hướng, không có đến đi qua lại, cũng không có một pháp nào ngoài tâm. Nhưng với bậc đã dứt trừ nghiệp hoặc, chứng vô sanh nhẫn, vào thật tướng của pháp thân, mới dám đương sánh huyền lý trên đây. Còn hàng sơ tâm mới tu, chớ nên lầm tự nhận.
Hỏi:- Theo Quán kinh thì phải nhiếp tâm vào định, quán y báo chánh báo cõi Cực lạc rõ ràng, mới có thể về Tịnh độ. Tại sao kẻ chưa vào định, tu môn Trì danh cũng được vãng sanh?
Đáp:- Chín phẩm sen ở Cực lạc gồm nhiếp tất cả công hạnh thấp cao, song không ngoài hai điểm: Định tâm và Chuyên Tâm.
1. Định tâm hay định thiện, là những vị tu tập quán pháp thành công, hoặc trì danh hiệu được vào tam muội. Các vị này sẽ sanh về thượng phẩm.
2. Chuyên tâm hay tán thiện, là những người chỉ niệm danh hiệu chưa được vào tam muội, hoặc tu các công đức lành khác trợ giúp, rồi phát nguyện hồi hướng. Hạng người này cũng được dự vào các phẩm thấp hơn. Nhưng cần phải trọn đời quy mạng Tây phương và chuyên cần tu tập. Lúc ngồi nằm thường xây mặt về Tây phương. Khi niệm Phật, lúc phát nguyện, phải chí thành không xao lãng. Tâm niệm khẩn thiết ấy ví như kẻ bị gông xiềng tù ngục cầu mau thoát ly; người lâm cảnh lửa cháy, nước trôi, hoặc giặc cướp rượt đuổi mong được thoát khỏi nạn. Lại phải vì sự sống chết, phát lòng Bồ đề, cầu sanh Tây Phương, mau thành Thánh đạo để đền đáp bốn ân, nối thạnh Tam Bảo, độ khắp muôn loài. Chí thành như thế, quyết chắc sẽ được kết qủa.
Trái lại, nếu lời và hạnh không hợp nhau, sức tín nguyện yếu kém, tâm không chuyên nhất, sự tu hành không tương tục thì khó hy vọng thành công. Bởi kẻ biếng trễ như thế e khi lâm chung bị nghiệp chướng trở ngăn, chẳng gặp bạn lành, lại thêm thân thể đau nhức, tâm thức hôn mê, không thành chánh niệm. Vì sao? Bởi hiện tại là nhân, khi lâm chung là qủa. Cần phải nhân cho chắc thật, qủa mới không hư luống, như tiếng hòa nhã thì vang dịu dàng, hình ngay tất bóng thẳng vậy. Nếu muốn khi sắp chết mười niệm thành công, thì ngay lúc hiện tại phải một lòng chí thiết tinh tấn tu hành, tất không còn điều chi lo ngại.
Đại khái, chúng sanh bởi tâm chia thiện ác, nên báo có khổ vui. Do nơi ba nghiệp tạo thành, mới khiến sáu đường luân chuyển. Nếu tâm sân hận, tà dâm, đó là nghiệp Địa ngục. Tâm tham lam, bỏn xẻn là nghiệp Ngạ qủy. Tâm ngu si, tà kiến là nghiệp Súc sanh. Tâm ngã mạn, tự cao là nghiệp Tu la. Giữ bền Ngũ giới, là nghiệp người. Tiến tu Thập Thiện là nghiệp Trời. Chứng ngộ nhân không, là nghiệp Duyên giác. Tu trọn Lục độ, là nghiệp Bồ Tát. Chân từ bình đẳng là nghiệp Phật.
Nếu tâm thanh tịnh niệm Phật, thì hóa sanh về Tịnh độ, ở nơi bảo các hương đài. Như ý mê tối đục nhơ, tất bởi chất cõi uế bang, nương cảnh nổng gò hầm hố. Cho nên lìa được tự tâm không còn biệt thể, muốn được qủa tịnh, phải chủng nhân mầu. Như tánh nước chảy xuống, tánh lửa bốc lên, lý thế tất nhiên, có chi mà ngờ vực!
Đại sư lại vì người đương thời còn phân vân giữa Thiền và Tịnh, chưa biết tu môn nào được kết qủa chắc chắn, nên làm kệ Tứ Liệu Giản để so sánh sự lợi hại như sau:
– Có Thiền không Tịnh độ
Mười người, chín lạc lộ.
Ấm cảnh khi hiện ra
Chớp mắt đi theo nó.
– Không Thiền có Tịnh độ
Muôn tu muôn thoát khổ.
Vãng sanh thấy Di Đà
Lo gì chẳng khai ngộ?
– Có Thiền có Tịnh độ
Như thêm sừng mãnh hổ.
Hiện đời làm thầy người
Về sau thành Phật, Tổ.
– Không Thiền không Tịnh độ
Giường sắt, cột đồng lửa!
Muôn kiếp lại ngàn đời
Chẳng có nơi nương tựa.
Niện hiệu Khai Bảo thứ tám, ngày 26 tháng 2 vào buổi sáng sớm. Đại sư lên chánh điện đốt hướng lễ Phật. Lễ xong, ngài họp đại chúng lại dặn dò khuyên bảo, rồi ngồi kiết già trên pháp tòa mà thị tịch, thọ được bảy mươi hai tuổi.
Về sau, có vị Tăng từ Lâm Xuyên đến, trọn năm kinh hành lễ tháp của Đại sư. Có người hỏi duyên cớ, vị Tăng đáp: Năm trước tôi bị bịnh nặng, thần thức vào cõi u minh, thấy bên tả đại điện có thờ tượng một vị Hòa thượng. Minh Vương đang cung kính lễ bái tượng ấy. Tôi thưa hỏi nguyên do, mới biết đó là tượng Diên Thọ thiền sư ở chùa Vĩnh Minh tại Hàng Châu. Ngài đã vãng sanh về phẩm Thượng thượng nơi cõi cực Lạc. Minh Vương trọng đức nên kính thờ”.
Theo truyện ký, vào thời Ngô Việt Vương, tại Hàng Châu có Hòa thượng Hành Tu, trụ trì chùa Pháp Tướng. Ngài vốn con nhà họ Trần ở Tuyền Nam, sanh ra có tướng lạ, hai tai dài chấm tới vai, đến bảy tuổi vẫn không nói. Một hôm có người đùa hỏi, ngài bỗng ứng tiếng đáp: “Nếu không gặp bậc tác gia, nói cho lắm chỉ xô phá lầu khói mà thôi!”.
Sau ngài xuất gia ở chùa Ngõa Quan tại Kim Lăng, tham phỏng với Tuyết Phong thiền sư, ngộ được tâm ấn. Từ đó mãnh thú gặp ngài đều thuần thục, từng nổi tiếng là ông Tăng có nhiều sự phi thường, linh dị. Có một Đại đức hỏi: “Thế nào ý nghĩa của đôi tai dài?” Ngài không đáp, chỉ kéo dài hai tai mà biểu thị. Lại hỏi: “Chót núi phương Nam có khó đến chăng”?”. Ngài đáp: “Chỉ tại chưa từng đi đến”. Hỏi: “Sau khi đến rồi như thế nào?. Đáp: “Một mình nằm nghỉ đỉnh non cao”.
Ngô Việt Vương nhân khi đến chùa lễ Phật, có hỏi ngài Vĩnh Minh: “Bạch tôn đức! Thời nay có bậc chân Tăng nào khác chăng?” Đại sư đáp: “Có Hòa thượng Hành Tu, đôi tai dài, chính là Phật Định Quang ứng thân đấy!”. Vương tìm đến ngài Hành Tu cung kính đảnh lễ, tôn xưng là Định Quang Như lai ra đời. Ngài bảo: “Vĩnh Minh Đại sư thật khéo nhiều lời. Ông ta cũng chính là Phật A Di Đà ứng thân đó”. Nói xong, ngồi yên mà hóa. Ngô Việt Vương vội vã trở về chùa Vĩnh Minh định gạn hỏi hết, thì Đại sư cũng đã thị tịch.
Do đó, người đương thời truyền nhau:
Vĩnh Minh đại sư là Phật A Di Đà ứng hóa. Và hàng Tăng tục mới lấy ngày sanh nhật của Đại sư ngày 17 tháng 11 là lễ vía kỷ niệm Phật A Di Đà.