ẨN-TU NGẨU VỊNH
Hòa Thượng Thích thượng Thiền hạ Tâm
Như-Ý Giảng giải

 

TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GIÓ LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.

HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư  Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.

CHÁNH-VĂN 

76.-Ẩn tu đã có luỹ non mây
Cao thấp đồi xa ủng hộ bày
Trước mắt rõ ràng chân cảnh lộ
Màu thu lai láng nét thu gầy.

77.-Ẩn tu mưa phới khắp ngàn tiêu
Bát ngát lâm tuyền cảnh tịch liêu !
Tiếng gió canh thâu hoà tiếng Phật
Bên thềm hoa rụng ít hay nhiều.

78.-Ẩn tu ca nhạc có chim rừng !
Bay hót vần quanh tợ đón mừng
Đủ sắc phi-cầm, tranh vẽ đẹp
Điểm-tô cảnh Phật, một màu Xuân.

79.-Ẩn tu hoa cỏ dáng thờ ơ
Thời mạt nhơn tâm đã khác xưa
Lòng thú hình người, đầy lớp lớp
Cảnh đời gió gió, lại mưa mưa !

80.-Ẩn tu kham nhẫn cõi Ta Bà
Nỗi khổ muôn ngàn, khó kể ra
Cực Lạc niềm vui vui bất diệt
Khổ vui đều bởi tự nhân mà !
Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ
ẨN BÓNG trong gương ngẫm chuyện đời

GIẢNG-GIẢI 

76. Ẩn tu đã có lũy non mây
Cao thấp đồi xa ủng hộ bày
Trước mắt rõ ràng chân cảnh lộ
Màu thu lai láng nét thu gầy.

NHƯ Ý:

Trúc biếc tức PHÁP-THÂN, Hoa Vàng là BÁT-NHÃ.

Như Cổ đức đã nói thì Lũy Mây Quay Quanh đồi non cao thấp, sắc Thu lai láng đâu chẳng là Cảnh-Chân-Thường.

KINH LĂNG NGHIÊM nói : “Thập-phương Như-lai thương-tưởng chúng-sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn-tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách-xa nhau. Nếu tâm chúng-sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất-định thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương-tiện, tâm tự được khai-ngộ như người ướp-hương thì thân-thể có  mùi thơm, ấy gọi là hương-quang-trang-nghiêm.”

PHÁP-THÂN chính là cõi Thường-tịch-quang. Đây là thể Nhất-Chơn Pháp-Giới bao hàm Tánh-Tướng rộng rãi vô biên; vì Phật lấy pháp TÁNH pháp TƯỚNG làm THÂNnên gọi là PHÁP-THÂN.

Quán Kinh nói: “Pháp-thân chư Phật Như Lai vào tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Cho nên khi tâm các người tưởng Phật, tâm ấy chính là Ba Mươi Hai Tướng, tám mươi vẻ đẹp tùy hình, tâm ấy tưởng Phật, TÂM ẤY LÀ PHẬT.”

“BÁT-NHÃN TÂM-KINH” nói rằng :

Quán-tự-tại Bồ-tát “QUÁN THẤY”…Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức;

(không có Ngũ-uẩn)

vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp;

( không có 12 nhập)

vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới;

(không có 18 giới)

vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận;

(không có 12 nhân duyên)

vô khổ, tập, diệt, đạo;

(không có 4 đế)

vô trí diệc vô đắc.

(không có TRÍ của Bồ-tát do tu Lục-độ, cũng không có ĐẮC qủa Phật)

Lại nói, Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

(Ba đời  “Chư Phật” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”)

Còn nói, Bát-nhã là Đại-thần, là đại minh, là vô-thượng, là vô đẳng đẳng chú… như lại phải nhờ thần-chú  “Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.” để tiêu trừ Vô-minh vi tế của “A-LẠI-DA THỨC” (sở tri chướng),  mà thành tựu  “ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” hay “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”, TỨC THÀNH PHẬT.

ĐẠI  là “THỂ” của  BÁT-NHÃN, không đối đãi phân biệt, biến khắp tận cùng hư không pháp giới, nên gọi là MA-HA.

THẦN  là thần diệu linh thông, khó mà suy lường được.

CHÚ là khi qúy vị TỤNG , thì có công năng PHÁ TÀ LẬP CHÁNH, tiêu trừ nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.

Tóm lại,  “QUÁN-TỰ-TẠI BỒ-TÁT” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA

Ma-ha Bát-nhã Ba la-mật-đa.

 Năm Thứ Mười Ba niên hiệu Đại Nghiệp, Đức Tứ Tổ Đạo Tín dẫn đồ chúng đến Cát Châu thì gặp bọn cướp vây thành bảy tuần (bảy mươi ngày) chẳng lui tan, mọi người đều sợ hãi.

Tổ thương xót, dạy bày niệm “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.” Khi ấy, bọn cướp nhìn lên trên thành như có thần binh, bèn bảo nhau: “Trong thành ắt có dị nhân, không thể đánh được”. Bèn lần lần bỏ đi.

 (KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG)

MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH

Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thụ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thụ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chân thật bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát ba ha.

Ma-ha Bát-nhã Ba la-mật-đa.

(3 lần)

Đây là ý chỉ: sắc tướng âm thanh vốn thật đại đạo, ta nên đem tâm vô phân biệt mà thể nhận, đừng chấp lấy cũng đừng bác bỏ rồi tìm đạo nơi chỗ không không.

Như Bát Nhã Tâm Kinh nói: “… Không trí cũng không đắc, vì không sở đắc, nên Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không quái ngại.

Chư Phật ba đời y Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.”

Trước y theo CHÂN-ĐẾ nói “không đắc“, tiếp đó y theo TỤC-ĐẾ lại nói “đắc”.

Thấy “đắc” là chấp có, thấy “không đắc” lạc vào chấp không, nên người học Phật phải khéo hiểu ý kinh để đi vào trung đạo.

Nếu nói sanh Tây còn thuộc vọng
Trụ nơi cõi trược há thành chân?
Đông Tây chẳng chấp càng phi lý
Tịnh uế đều quên cũng pháp trần
Sanh vốn không sanh, sanh bốn cõi
Thấy như lìa thấy, thấy ba thân
Biết chăng chân vọng nguyên đồng thể?
Mê ngộ đều do tại bản nhơn. 

Chớ chấp Đàn Kinh bài bác Tịnh
Tổ cơ, lời Phật thảy viên dung
Mượn lời chỉ lý tuyên thiền đạo
Được ý quên lời hiểu diệu tông
Thập thiện đều tu đâu phải tội?
Chư hiền đồng niệm há thành không?
Đông tây một thể vô lai khứ
Pháp giới linh minh cõi đại đồng!

 ( Tỉnh-Am đại sư)

BÀI KỆ THỨ 15

Một câu A Di Ðà
Gương Ðại Viên Trí Cảnh
Thân độ bóng hàm nhau
Lớp lớp mầu lấp lánh.

(Nhứt cú Di Ðà
Ðại viên trí cảnh
Thân độ ảnh hàm
Trùng trùng yêm ánh.)

LƯỢC GIẢI

Ðây là nói tiếp về công hạnh niệm Phật của hành giả khi chứng cùng cực chân cảnh tự tánh Di Ðà. Chân cảnh này như thể gương tròn sáng không ngằn mé, bao gồm muôn tượng sum la, gọi là Ðại Viên Cảnh Trí.

Trong thể Ðại Viên ấy, “Thân” thuộc về phần Chân Như Tịch Chiếu Môn. “Ðộ” thuộc về phần Thế Giới Sanh Diệt Môn, đều hàm chứa hình bóng lẫn nhau. Sự hàm ảnh đó như mỗi hạt châu nơi mắt lưới của trời Ðế Thích, đều ngậm chứa hình bóng của vô số hạt châu khác.

 Cảnh hàm ảnh giữa Không với Không, Sắc cùng Sắc, Sắc và Không xen lẫn ngậm bóng nhau ấy, thật là lớp lớp tầng tầng, lấp lánh vô ngại nhiệm mầu khó bề diễn tả.

VIÊN LIỆT TINH

Viên Liệt Tinh, người ở Côn Sơn, thường ngụ nơi vùng Tây Khê tại Hàng Châu, nhân tự hiệu là Tây Khê cư sĩ. Thuở thành đồng, ông học tập về nghiệp khoa cử, một hôm nghe bà ngoại tụng kinh Kim Cang đến đoạn “Vô Tứ Tướng”, liền có chỗ khế nhập.

Sau cư sĩ gặp Duyệt Sơn thiền sư, mỗi ngày tham cứu về đường lối hướng thượng. Vừa đâu Bạch Tung lão nhơn từ Tuyết Phong đến Côn Sơn, Liệt Tinh đôi ba phen tham khấu, ngộ suốt tánh bản lai, liền được truyền tâm ấn. Từ đó đạo phong của cư sĩ mỗi ngày một thạnh, tùy cơ tiếp dẫn, huệ biện không ngại, vừa đề xướng Nhứt thừa, lại kiêm hoàng Tịnh độ. Bấy giờ ông thấy các đồng bọn, thích mến khô thiền, ưa tu tiên thuật, phần nhiều không tin Tịnh độ, nên viết lời hiểu dụ rằng:

“Pháp môn Tịnh độ tròn thông rộng lớn, từ trước đến nay tôi đã thầm tu mật chứng, nhưng không dám vội đem nói với người. Đó là vì thời tiết chưa đến, nói ra e vô ích, chớ không phải cố ý dấu kín chỗ tu.

Bởi môn Niệm Phật là pháp tạng rất sâu của chư Phật, hàng Thanh văn, Bích Chi Phật thuộc Nhị thừa còn có những kẻ không tin. Đó là do các vị ấy đã trụ cảnh Niết Bàn thanh tịnh, đã chứng thần thông diệu dụng, nhưng chỉ thấy biết trong phạm vi một cõi đại thiên, nên không rõ biển đại trang nghiêm của Tịnh độ hiện thành ở khắp mười phương. Cho nên chư Phật đã quở các vị cố chấp theo cảnh giới Nhị thừa là tà, là đọa vào hầm hố vô vi, là say men rượu tam muội! Rất đáng than thở cho người tu thiền đời nay, còn chưa đến được cảnh giới Niết Bàn thanh tịnh của Nhị thừa, mà vội bụng trổng lòng cao, chưa đắc cho rằng đắc, chưa chứng cho là chứng. Trong lúc họ ngồi yên tĩnh đến chỗ sáu căn chưa động, lộ bày một chút quang cảnh, liền vội cho rằng mình đã tỏ ngộ. Rồi từ đó nghênh nghênh ngang ngang, chê bai Tịnh độ, thật đáng thương xót!

Giả sử các vị ấy quả thật đại triệt đại ngộ, đã rờ được chót mũi của bà mẹ bản lai, thử hỏi có đứng ngoài được bốn cảnh Tịnh độ từ cõi Phàm thánh đồng cư đến cõi Thường tịch quang tịnh độ chăng? Nếu họ lập luận: “Dù biết được bốn cõi ấy, cũng gác bỏ qua một bên!” Nói như thế, chư vị ấy há không nhớ lời của bậc tôn túc là Mật Vân thiền sư đã bảo: “ Các ông muốn gác bỏ qua một bên, quả thật là điều: đối trước người si lại càng không thể tỏ ra việc mộng!’’ cổ đức nói: “Kẻ tham thiền đời nay lấy sự thấu suốt PHÁP THÂN làm điều tất yếu, mà không biết thấu suốt rồi lại phải làm thế nào? Giả sử sau khi thấu suốt, còn thấy có một bóng dáng chi, cũng là cái bịnh!” Đại khái người tham thiền đời nay đều không thoát khỏi cảnh ma chướng sở tri nhỏ nhiệm, trở lại bác các hành giả Tịnh độ là ngu dốt, chẳng cũng lầm lạc lắm ư!

Vả chăng khắp cõi hư không có mười pháp giới, mà Tịnh độ của chư Phật là pháp giới bậc nhứt, nên chín giới kia đều nương về. Tu Tịnh độ ở cõi người rất dễ, còn các cõi Địa ngục, Ngạ quỉ do nỗi khồ bức bách, hoặc không biết danh hiệu Phật, nên khó thật hành. Chư Phật thương xót hằng dùng sức oai thần phóng ánh sáng thanh tịnh đến cứu độ, nhưng các chúng sanh ấy bị sức nghiệp che lấp, nên không nhìn thấy. Phải chờ đến khi nghiệp hết tâm khai, nghe biết và niệm được một câu Phật, thì cảnh Địa ngục, Ngạ quỉ mới biến thành cảnh thanh lương được. Còn loài Bàng sanh thì si mê tăm tối, hàng Tu la lại sân hận lẫy lừng, cũng khó trông thấy từ quang. Riêng hàng chư thiên do thọ hưởng sự dục lạc rất thắng diệu, nên cũng khó tu môn Niệm Phật.

Nhưng xét kỹ lại, chẳng chịu tu môn Tịnh độ, không chi hơn hàng thiên tiên. Các vị ấy chẳng phải không biết Tịnh độ là đẹp mầu, nhưng họ đã được thần thông diệu dụng, biến hóa bay đi, cùng tự tại ẩn hiện ra vào cảnh có hoặc không. Họ có thể phóng ra các thứ ánh sáng, huyễn hiện các hiện tượng chư Phật, Bồ Tát cùng các cảnh vật trang nghiêm. Do đó hàng thiên tiên cho rằng sự vui ở Tịnh độ chẳng qua cũng chỉ như thế nên không chịu hướng về. Họ đâu biết rằng mình bị đọa vào huyễn thức các cảnh giới giả hiện đều do tinh khí thần hòa hợp biên thành?

Đức Phật đã bảo: hàng thiên tiên không tu theo chánh giác, chưa phải là vô vi, khi quả báo hết phải tùy nghiệp đọa vào các nẻo? Cảnh thiên châu vốn tự hiện thành, chẳng phải luyện mà được. Nếu tu luyện mà thành tức là có sanh, tất sẽ không tránh khỏi sự biến diệt. Nguyên tinh, nguyên khí chẳng ngoài nguyên thần, mà nguyên thần chính là tên riêng của nghiệp thức.

Bậc đại trượng phu phải trở về tánh bản lai, dứt trừ thân thức, chém dứt mạng căn, tại sao lại tu luyện thành một thứ nguyên thần không ngoài vòng nghiệp thức? Có kẻ tuy luyện thành, đến nửa chừng năng lực suy kém, có khi chưa tới kiếp hỏa mà đã hoại trước. Dù có thể củng cố nguyên thần được bền lâu, nhưng lúc đại tai của kiếp lửa đến cũng bị tiêu tán. Bởi kiếp hỏa chẳng những phá thể hữu hình, mà cũng đốt cháy luôn thể vô hình. Đừng tự an ủi rằng: đạo ta như hư không, chẳng thể tiêu hoại!

Phải biết hư không cũng là nghiệp thức huyễn hiện, bậc chứng được đạo nhãn vô thượng mới soi thấu. Chư thiên tiên dù có thể hóa hiện các thứ thắng cảnh, nhưng kết cuộc chẳng được mười phần sáng suốt, và mười phần chánh đại. Đâu bằng chư Phật, Bồ Tát và tất cả chánh báo y báo ở Tịnh độ đồng ở trong cảnh quang minh rực rỡ thấu suốt còn hơn trăm ngàn mặt trời? Những bậc tu theo Phật giáo khi đắc quả, thấy thời gian không gian đều như huyễn, nên có thể hiện cõi bảo vương nơi một đầu lông, ngồi chuyển pháp luân ở trong điểm bụi. Cảnh giới ấy chẳng phải hàng thiên tiên có thể sánh được trong muôn một. Cho nên người tin sâu môn Tịnh độ mà chuyên tu, tức đã vượt hơn hàng thiên tiên trăm ngàn ức lần. Nếu chưa thể dứt trừ quan niệm học tiên, chính là chưa phân biệt rõ sự chân giả lớn nhỏ giữa Phật và Tiên vậy.

Pháp môn Tịnh độ là chỗ quy hướng của tất cả thánh hiền. Khi được sanh về Cực Lạc, tu phước huệ đầy đủ, rồi trở lại Ta Bà, gặp tiên độ tiên, gặp người độ người, gặp ma quỉ độ ma quỉ, cho đến gặp duyên ân oán đều có thể tế độ.

Đó mới thật là năng sự của bậc đại trượng phu! Nếu các vị tin chắc môn Tịnh độ mà quyết chí thật hành, thì hoa sen nơi ao báu ở Cực Lạc sẽ tươi nở ghi tên. Ngay trong hiện tại khi niệm Phật được thanh tịnh, thì tất cả cảnh đẹp, tiếng pháp, hương mầu, vị diệu, ánh sáng, lý chân, đêu trận ngập cả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của các vị. Chừng ấy ngay chính bản thân của chư vị đã thành một đấng cổ Phật rồi đấy?”      ’

Vào tháng hai, niên hiệu Khang Hy thứ 59 đời Thanh, cư sĩ niệm Phật rồi an lành vãng sanh ở am Bảo Thọ, hưởng được sáu mươi hai tuổi. Hàng môn nhơn kết hợp những di ngôn làm thành quyển Tây Khê Cư Sĩ Tập.

***

77. Ẩn tu mưa phới khắp ngàn tiêu
Bát ngát lâm tuyền cảnh tịch liêu !
Tiếng gió canh thâu hòa tiếng Phật
Bên thềm hoa rụng ít hay nhiều.

NHƯ Ý:

Gió thổi nghiên cây TÙNG, Xuân ngời Ánh Nguyệt đã có mùi THIỀN trong đó, thì CẢNH trên đây đối với người NIỆM PHẬT há Không có  ý vị NHIỆM MẦU?

Lặng ngồi chốn tĩnh lâu
Trăng sáng, gió canh thâu!
Bát Nhã hương lòng nhẹ.
Lăng Già niệm ý sâu
Phật, Tâm chung một vẻ
Thiền, Tịnh chẳng hai mầu
Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi
Hoa đêm điểm điểm đầu…

Tiết 27.- Niệm Phật Với Tứ Đoạt

Môn Niệm Phật vãng sanh là giáo pháp viên đốn Đại Thừa, bởi người tu lấy sự giác ngộ nơi quả địa làm điểm phát tâm ở nhân địa.

Từ một phàm phu trong tứ sanh lục đạo, nhờ Phật tiếp dẫn mà lên ngôi Bất Thối, đồng hàng với bậc thượng vị Bồ Tát; nếu chẳng phải chính miệng Phật nói ra, ai có thể tin được? Bởi muốn vào vị Sơ Trụ lên ngôi Tín Bất Thối người tu các giáo môn khác phải trải qua một muôn kiếp, mà mỗi đời đều phải liên tục tinh tấn tu hành. Nếu nói đến Vị Bất Thối, Hạnh Bất Thối, Niệm Bất Thối lại còn xa nữa! Về môn Tịnh Độ, hành giả đã tin tha lực lại dùng hết tự lực, tất muôn tu muôn người vãng sanh, siêu thoát luân hồi không còn thối chuyển.

Nếu dùng hạnh Niệm Phật để phát minh TÂM ĐỊA, ngộ tánh bản lai, thì tông Tịnh Độ KHÔNG KHÁC với các tông kia.

Còn dùng Niệm Phật để vãng sanh cõi Phật, thì tông này lại có phần đặc biệt.

Cổ đức bảo:

1. Sanh tất quyết định sanh, về thật KHÔNG có về: là đoạt CẢNH chẳng đoạt người.

2. Về tất quyết định về, sanh KHÔNG thật có sanh: là đoạt NGƯỜI chẳng đoạt cảnh.

3. Về thật chẳng có về, sanh cũng thật không sanh: là cảnh và người đều đoạt.

4. Về tất quyết định về, sanh cũng quyết định sanh: là cảnh và người đều không đoạt.

Trên đây là bốn câu giản trạch và Tứ Đoạt của môn Tịnh Độ. Chữ “ĐOẠT” có nghĩa là: thông suốt lý thể. Bởi toàn thể pháp giới là nhứt tâm, người và cảnh đều như huyễn, nếu thấy có người vãng sanh, có cảnh để sanh về, là còn chấp nhơn chấp pháp, phân biệt kia đây, nên gọi là “không đoạt”, tức không thông suốt lý thể. Và trái lại, tức là đoạt. Tiên đức nói: “Có niệm đồng không niệm. Không sanh tức là sanh. Chẳng phiền dời nửa bước. Thân đến Giác vương thành”, tức là ý này.

 Người và cảnh đều đoạt, là mức cao tuyệt của hành giả niệm Phật. Nhưng y theo ba Kinh Tịnh Độ và Thiên Thân Luận (Kinh Phật Thuyết A Di Đà, Vô Lượng Thọ, và Quán Vô Lượng Thọ – Thiên Thân Luận tức Vãng Sanh Luận hay Vô Lượng Thọ Kinh Luận) thì nên lấy “NGƯỜI và CẢNH đều KHÔNG ĐOẠT” làm TÔNG, mới hợp với ý nghĩa hai chữ “VÃNG SANH”.

Bởi đức Như Lai biết hàng phàm phu ở cõi ngũ trược, nhứt là thời mạt pháp này, nghiệp chướng sâu nặng, lập cảnh tướng để cho y theo đó trụ tâm tu hành, còn khó có kết quả nói chi đến việc lìa tướng ư? Phàm phu đời mạt pháp trụ tướng mà tu tất hạnh nguyện dễ khẩn thiết, kết quả vãng sanh cũng dễ đoạt thành. Khi về Tây Phương, chừng ấy lo gì không được chứng vào thể vô sanh vô tướng?

Nếu chưa phải là bậc thượng căn lợi trí, vội muốn cầu cao, thích lìa tướng tu hành tất tâm không nương vào đâu để sanh niệm khẩn thiết, nguyện đã không thiết làm sao được vãng sanh. Không vãng sanh chi khỏi cảnh luân hồi khổ lụy? Ấy là muốn mau trở thành chậm, muốn cao trái lại thấp, muốn khéo hóa ra vụng đó!

Nhiều kẻ ưa nói huyền lý, thường bác rằng: “Niệm Phật cầu sanh là chấp tướng ngoài tâm tìm pháp, chẳng rõ các pháp đều duy tâm.” Những người này ý muốn diệu huyền, nhưng kỳ thật lại thành thiển cận! Bởi họ không rõ Ta Bà đã duy tâm thì Cực Lạc cũng duy tâm, tất cả đâu ngoài chân tâm mà có?

Vậy thì niệm Phật A Di Đà là niệm đức Phật trong tâm tánh mình, về Cực Lạc tức về nơi cảnh giới của tự tâm, chớ đâu phải ở ngoài? Ta Bà và Cực Lạc đều không ngoài tâm, thì ở Ta Bà để chịu sự điên đảo luân hồi, bị ngọn lửa ngũ trược đốt thiêu, sao bằng về Cực Lạc an vui, hưởng cảnh thanh lương tự tại?

Nên biết đúng tư cảnh để tôn sùng, duy tâm Tịnh Độ, phải là bậc đã chứng pháp tánh thân, mới có thể tự tại trong mọi hoàn cảnh. Chừng đó dù trụ Ta Bà hay Cực Lạc cũng đều là Tịnh Độ, là duy tâm, là giải thoát cả. Bằng chẳng thế thì dù có nói huyền nói diệu vẫn không khỏi sự hôn mê khi cách ấm, rồi tùy nghiệp luân hồi chịu khổ mà thôi!

 Niệm Phật Phải Hành Trì Cho Thiết Thật

BÀI KỆ THỨ 10

Một câu A Di Ðà
Xe gác ách trâu trắng
Chạy lẹ như gió bay
Bước đi thật bằng vững
.

(Nhứt cú Di Ðà
Bạch ngưu giá cảnh
Kỳ tật như phong
Hành bộ bình chánh)

LƯỢC GIẢI

Câu niệm Phật, đối với bậc cao, thì có niệm đồng với không niệm. Và mặc dù không nghĩ rằng mình là người hay niệm, đức Phật là vị được niệm, tâm niệm hằng rỗng không, nhưng cũng chẳng ngại gì câu niệm Phật thường hiển lộ rành rẽ, rõ ràng.

Như chư Bồ Tát, Tổ Sư vẫn đi dứng, nằm ngồi, vẫn ăn cơm mặc áo, vẫn thuyết pháp tụng kinh, mà không thấy có các tướng ấy. Các ngài làm pháp hữu vi mà tâm vô vi, tâm tuy vô vi vi song vẫn làm tất cả pháp hữu vi. Như thế mới chẳng đọa vào lỗi “KHÔNG và CÓ”, tiến lên cảnh giới Ðại Thừa. Cho nên đức Lục Tổ đã bảo:

Không niệm, niệm mới chánh
Có niệm, niệm thành tà
Có, không đều chẳng tưởng
Ngồi được bạch ngưu xa.

Cần nhận rõ: Không và Có trên đây, chẳng phải là không niệm Phật, tụng kinh. Ðây chính là niệm Phật đi vào cảnh giới chân không, chẳng tưởng nghĩ rằng mình có niệm hay không niệm. Với bậc kém hơn, tuy chưa thể ứng dụng được như thế, nhưng biết niệm Phật tức là đã tiến lên đường tu bằng phẳng, bước đi an ổn vững vàng, lần siêu vào cảnh giới Ðại Thừa.

Như đã ngồi trên xe bạch ngưu, bước đi của nó thật bằng vững, không còn lo ngại chi nữa !

BÀNH THIỆU THĂNG

Cư sĩ Bành Thiệu Thăng, pháp danh Thế Thanh, tự Doãn Sơ, người đời Thanh, ở huyện Trường Châu, tại Tô Châu. Từ thuở bé ông đã thông tuệ, lên mười sáu tuổi được bổ làm chư sanh, năm sau đỗ Hương thi. Năm kế đó lại đỗ Tiến sĩ, trọn đời an dưỡng không ra làm quan.

Ban sơ cư sĩ không tin Phật, chỉ ưa văn tự thế gian, có chí muốn giúp đời. Một hôm ông tự cảnh giác nói: “Tâm địa ta chưa sáng tỏ, biết làm sao?” Có kẻ bảo cho phép tu luyện đạo Tiên, ông tập theo ba năm không kiến hiệu. Sau đọc đến sách Phật, chợt tỉnh ngộ bảo: “Chỗ về của đạo là đây!” Từ đó ông mới tín hướng Phật thừa. Cư sĩ mến phong cách của Cao Trung Hiếu ở Lương Khê và Lưu Di Dân ở Lô Sơn, nên lại tự hiệu là Nhị Lâm, vì chỗ tu học của hai ngài trên đều gọi là Đông Lâm. Tế Thanh tánh thuần hiếu, khi cư tang mẹ, ngủ bên nhà tẩn ba năm. Lúc cha mất, ông lập đạo tràng niệm Phật nguyện đem công đức tụng mười bộ kinh Hoa Nghiêm, một ngàn quyển kinh Di Đà, một ngàn quyển kinh Kim Cang và mười triệu câu Phật hiệu của mình đã tu, hồi hướng cầu cho thân phụ sanh về Cực Lạc.

Kế đó không bao lâu, cư sĩ bỏ hết tập quán theo đời, chuyên tâm tu học Phật pháp. Ông rất thích những tác phẩm của hai ngài Phương Sơn, Vĩnh Minh, suy tôn ngài Liên Trì và Hám Sơn làm bậc tiền đạo của tông Tịnh độ. Năm hai mươi chín tuổi, cư sĩ ăn chay trường. Qua năm năm lại thọ giới Bồ Tát nơi ngài Văn Học Định. Từ đó ông không còn gần đàn bà, tự xưng là Tri Quy Tử, từng nói: “Tế Thanh nầy chí ở Tây phương, hạnh ở kinh Phạm Võng”. Cư sĩ có lời văn quì phát thệ trước bàn Phật rằng: “Nếu Tế Thanh con, đã thọ giới rồi mà còn phá giới, tăng trưởng pháp ác, hủy hoại căn lành, xin hộ pháp chư thiên chu diệt ngay để làm gương cho thế tục. Như con nghiêm sửa thân tâm, giữ gìn giới phẩm, thì hết kiếp nầy nguyện được sanh về An Dưỡng.

Xin mười phương Tam Bảo chứng minh, khiến con mau đắc Niệm Phật tam muội. Nguyện con khi lâm chung xa lìa trần cấu, thấy đức Di Đà, nhẹ thoát về Tây, không còn chướng ngại. Khi đó nguyện cho kẻ thấy người nghe đều phát tâm như con, cầu về Cực Lạc, chứng Vô sanh nhẫn, rồi cùng trở lại Ta Bà độ khắp loài hữu tình đồng thành Chánh giác!” Sau cư sĩ bế quan ở Văn Tinh Các tu môn Nhất hạnh tam muội, đề chỗ ở là Nhất Hạnh Cư. Ông có làm mười thi bế quan như sau:

I

Lần bẩn phong trần tự bấy lâu
Mà chân hạnh phúc những là đâu?
Ngày nay hồi hướng về An Dưỡng
Kiếp mộng vô minh đã dãi dầu!

II

Thần Phật bao la khắp thái hư
Điểm trần lặng lẽ chẳng còn dư!
Chớ đem tri kiến nhiều phân biệt
Một niệm hồi quang thấy Đại Từ.

 III

Chuỗi lần trăm tám chẳng đuôi đầu
Mỗi niệm tinh minh mỗi hạt châu.
Sáu chữ mở toang Vô tận tạng
Như như buông thả lại hồi thâu.

IV

Cảnh vườn tịch mịch tợ thâm san
Ngày vắng kìa ai gõ bế quan?
Nhắn bạn đồng tu nên tự tỉnh
Đừng theo ngoài cửa mãi mơ màng!

 V

Dưới đỉnh Nghiêu phong ngập ráng mây
Ngon mùi lê hoát dạ vui đầy!
Gió đông khéo mách niềm tâm sự
Tiếng Phật thâm trầm quá gác tây.

VI

Rừng lạnh ngàn mai nở trắng phau
Cành xuân chim hót giọng thanh thao
Hương nguyền vì niệm Quan Âm hiệu
Thinh sắc đường kia chớ lạc vào!

 VII

Ngước lên rồi lại cúi đầu trông
Liên quốc đâu từng cách điểm lông?
Tiếng hát Ca lăng đà nói rõ
Đây miền chân tịnh chớ mê lòng!

 VIII

Giữa đêm trừ tịch chốn môn đình
Phá cảnh u trầm xướng kệ kinh.
Mãn khóa Pháp Hoa nhàn rỗi việc
Chén trà Long Tỉnh uổng vơi bình.

 IX

Lại đối Ni Sơn hỏi cựu manh?
Cung đàn réo rắt điệu vô sanh.
Trong bầu xuân sắc đi thong thả
Dưới gót hoa luân nở một vành.

 X

Hương sơn lão tử rất thanh chân
Lối rẽ nhiều phen phải hỏi thăm!
Chớ xót nguồn hoa tin tức vắng
Cảnh xưa bên suối vẫn đầy xuân!

 Cư sĩ lại thuê họa công vẽ bức đồ Cực Lạc Thế Giới, căn cứ theo chánh báo y báo trang nghiêm của ba kinh Tịnh độ. Bức đồ nầy sửa đi đổi lại tất cả bốn lượt, trải nửa năm mới hoàn thành. Tế Thanh tự đề lời kệ rằng:

Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật trong ba đời.
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.

Tôi đọc kệ Hoa Nghiêm
Tin vào môn Tịnh độ
Do tịnh nguyện chư Phật
Thành cảnh diệu trang nghiêm
Tịnh nguyện như hư không
Chẳng ngăn các hình tướng
Nước công đức vô biên
Nổi hiện hoa sen báu.
Mỗi hoa một chúng sanh
Có đủ Như Lai Tạng.
Bảo trì và bảo thọ
Câu lơn báu vây quanh.
Lớp lớp lầu các màu
Đầy khắp hư không giới.
Hoặc tắm dòng hương thủy
Hoặc hưởng vị diệu trân
Hoặc ngồi thiền kinh hành
Hoặc tụng kinh nghe pháp.
Hoặc giỏ đựng hoa đẹp
Cúng dường Phật mười phương
Hoặc bạn lành hội họp
Đồng vào Bồ đề tràng.
Các chim cùng nhạc trời
Phát xướng tiếng hòa nhã
Từ Văn vào Tư, Tu
Một niệm đều siêu việt
Huống đức Vô Lượng Thọ
Ngồi yên đài bảo hoa
Mây từ che trời người
Mưa pháp nhuần nhã khắp.
Nghe rồi được giải thoát
Thẳng đến ngôi nhất sanh
Việc lợi ích như thế
Vô cùng, chẳng nghĩ bàn!
Cũng như họa sư kia
Một tâm biến các cảnh
Chẳng lìa đầu lông nhỏ
Hiện chỗ ở Bảo Vương.
Không phân biệt kia đây
Một tức khắp tất cả.
Bức họa cùng người họa
Kết cuộc chẳng có chi!
Nguyện những người nghe thấy
Như tôi cùng phát tâm
Nương niệm công đức nầy
Lên ngôi Bất thối chuyển.
Đường vạn ức đâu xa
Ngày đây đã đầy đủ!

 Cư sĩ thương chúng sanh đời mạt pháp không đủ chánh nhãn, chống báng lẫn nhau, viết ra quyển Nhứt Thừa Quyết Nghi Luận, dung thông quan điểm hai đạo Nho, Thích. Lại trước tác quyển Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội Luận, hóa giải sự tranh chấp giữa Tịnh cùng Thiền. Và soạn thuật quyển Tịnh Độ Tam Kinh Tân Luận, phát huy những ý chỉ từ trước nói chưa hết của Liên Tông.

Ngoài ra còn biên soạn các quyển: Cư Sĩ Truyện, Thiện Nữ Nhơn Truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, tùy cơ tiếp dẫn. Những tác phẩm nầy được nhiều người truyền tụng và lưu hành rộng trong đời. Ông lại xuất ra muôn lượng vàng, phương tiện cho gây quỹ lấy lợi tức để tu tạo chùa, ấn tống kinh, cúng trai tăng, mở Cận Thủ Đường nuôi kẻ cô quả, đặt Nhuận Tộc Điền giúp hạng đói nghèo, dựng Truất Ly Hội trợ cấp người sương cư, lập Phóng Sanh Hội để châu toàn vật mạng. Những công đức ấy đều có văn phát nguyện hồi hướng cầu cho mình và các loài hữu tình đều sanh về Cực Lạc.

Cư sĩ nương các tăng xá thuộc vùng Tô, Hàng tịnh cư hơn mười năm, mỗi ngày đều có khóa trình tu niệm. Ông dự chế các điều khoản khi mình mạng chung, và không cho lập hậu. Mùa thu năm Càn Long thứ sáu mươi, cư sĩ bị nhiễm bịnh ở Văn Tinh Các. Sang tiết đông, tinh thần lần suy kém. Ông gọi cháu là Chúc Hoa giao cho quản lý các hội từ thiện, di chúc bảo duy trì đừng để suy mất.

Một vị Tăng là Chơn Thanh hỏi ông có thấy điềm lành chăng?

Cư sĩ đáp: “Đâu có điềm chi lạ, việc lớn của tôi ở vào ngày Khai ấn sang năm!” Qua xuân nhằm đầu niên hiệu Gia Khánh, ngày hai mươi tháng giêng, cư sĩ viết kệ từ thế rằng:

 Thân số trầm luân tợ điểm trần
Duyên sao chìm nổi chốn mê tân?
Ngày nay thăng hướng Liên hoa quốc
Chớp mắt thu về vạn kiếp xuân!

 

Viết xong, ngồi kiết già niệm Phật mà thoát. Lúc ấy quả nhiên nhằm ngày Khai ấn trong nhà. Ông hưởng dương năm mươi bảy tuổi.

***

78. Ẩn tu ca nhạc có chim rừng !
Bay hót vần quanh tợ đón mừng
Đủ sắc phi-cầm, tranh vẽ đẹp
Điểm-tô cảnh Phật, một màu Xuân.

NHƯ Ý: 

CHIM Ngậm Hoa Bay xuống đậu trước tảnh đá biếc , VƯỢN  bồng con triền lên về nơi vách núi xanh, đã nói lên Thiền-Cảnh của ngài  Giáp-Sơn, thế thì nơi đây tiếng Chim như Nhạc-trổi, sắc Chim tợ Hoa-bay cũng nói lên Tịnh-cảnh của người niệm Phật.

Sang hèn niệm Phật chẳng hoài công
Đều được thần thông tướng tốt đồng.
Rải diệu sắc hoa làm Phật sự
Khắp vì trần cõi nổi hương phong.
Quang minh soi đến thân điềm lạc
Âm nhạc nghe rồi ngộ khổ không.
Tựa ngọc lan can xem bảo thọ
Không ngằn cõi Phật hiện bên trong.

Kinh hành nhẹ gót đất kỳ trân
Cỏ lạ hoa tươi mỗi bước xuân.
Thanh Tịnh đã không ba ác đạo
Trang nghiêm thường có các thiên nhân.
Trống treo quán nhật khi chiều xuống
Cảnh Phật tùy tâm thấy hiện lần.
Vô thỉ kiếp mê chừ mới tỉnh
Quê xưa nào cách điểm tiêm trần!

Ao báu lầu đài khắp chốn thanh
Mây lành ánh thoại diệt rồi sanh.
Đã không tửu sắc lìa phiền não
Dù có thiên ma chẳng đẩu tranh.
Khát uống cam tuyền loan phụng múa
Nhàn nghe nhạc thọ đức tâm thành.
Những mong gởi chất hoa sen ngọc
Dạo đất lưu ly lắng tiếng oanh.

Bọt bóng bền chi chút huyễn thân!
Sao còn buông thả niệm tham sân?
Đường tu thẳng tắt mau tìm đến
Lối mộng mờ mê gắng thoát lần.
Giữ giới dường như băng tuyết sạch
Gìn tâm cho được thánh hiền gần.
Nẻo về Tây cảnh không xa lắm!
Một niệm quay đầu thấy tánh chân.

TÂY TRAI TỊNH ĐỘ THI

Tiết 13.- Cần Giải Thoát Ngay Trong Hiện Kiếp

Trong thời mạt pháp, nếu chỉ tu môn khác không kiêm cầu Tịnh Độ, tất khó giải thoát ngay trong một đời. Nếu đời này không được giải thoát bị mê trong nẻo luân hồi, thì tất cả tâm nguyện sẽ thành hư tưởng. Đây là sự kiện thiết yếu thứ hai, mà hành giả cần lưu ý.

Các hành giả tu theo những pháp môn khác, duy trọng về tự lực, lập tâm trường cửu, quan niệm mỗi đời cứ tiến tu, dù đời này không được giải thoát, trong những kiếp sau cũng sẽ thành đạo. Nhưng có một điều cần để ý, là liệu đời sau sẽ được bảo đảm chắc chắn cho ta tiếp tục tu nữa chăng? Bởi khi chưa là bậc đắc đạo, lúc chuyển sanh tất phải hôn mê, dễ quên tâm nguyện tu hành kiếp trước. Nơi cảnh trần duyên tiến đạo thì ít, duyên thối đạo lại nhiều. Biết bao vị xuất gia lúc chuyển sanh không thể tiến tu, như các sự tích đã lược trần trong chương thứ nhứt.

Kinh nói:

“Bồ Tát còn mê khi cách ấm,
Thanh Văn còn muội lúc ra thai.”

“Cách ấm” là trải cách từ ấm thân này sang ấm thân khác. Như thân hiện tại là tiền ấm, chuyển sanh thân kiếp sau gọi là hậu ấm; trải qua sự xen cách từ thân trước đến thân sau như thế, bậc Bồ Tát chưa đắc đạo phải bị hôn mê.

Trong kinh, có nơi khác lại nói: “Hạng phàm thường khi nhập thai, trụ thai và xuất thai đều hôn mê. Bậc Chuyển Luân Thánh Vương do phước báo, lúc nhập thai thì biết, khi trụ thai, xuất thai phải bị hôn mê. Hàng Thanh Văn lúc nhập thai, trụ thai đều có thể tỉnh biết, song khi xuất thai lại hôn mê. Duy có bậc Bồ Tát chứng Vô Sanh Nhẫn, lúc nhập thai, trụ thai và xuất thai đều tỉnh giác.”

Đôi khi hạng phàm phu do nghiệp duyên đặc biệt cũng nhớ được kiếp trước, nhưng đây chỉ là trường hợp ít có trong muôn một. Hoặc đó là Bồ Tát thị hiện để cho chúng sanh biết có luân hồi, ngoài ra tất cả khi chuyển sanh đều bị mê muội. Khi đã hôn mê, thì bao nhiêu sự hiểu biết về đạo lý và những tâm nguyện nơi kiếp trước, đều vì vô minh che lấp khiến cho lãng quên.

Duyệt qua chỗ kiến văn, bút giả từng nghe có vị thuật lại, lúc trẻ tuổi mỗi khi nằm mơ thấy mình bay tự do cao vút đi khắp mọi nơi; tuổi càng lớn lại thấy bay thấp lần lần, sau không còn bay được nữa. Trong quyển Phật Học Chỉ Nam, có kể chuyện ông Viên Thủ Đồng, người ở đất Trường Sơn bên Trung Hoa, lúc bốn, năm tuổi, trong đêm tối thấy rõ rệt các vật như ban ngày. Mấy năm kế, sự thấy mờ giảm lần. Từ mười tuổi trở lên, ông không còn thấy nữa, chỉ đôi khi nửa đêm thức dậy ngẫu nhiên thấy rõ được trong giây lát. Khoảng mười bảy tuổi về sau, hai ba năm mới thấy một lần, nhưng chỉ lóe sáng lên rồi liền tắt mất. Những vị này kiếp trước đều có tu nhưng khi chuyển thế bị mê đi, kế đó trần nhiễm càng sâu, thần minh càng tiêu giảm.

Có những vị như vị Thiên Đại Hạc Tử ở Nhựt Bản, Ngụy Tịch Phủ ở Trung Hoa, ngồi một nơi thấy rõ những vật xung quanh cách xa đến mấy mươi dặm. Có nhiều người thấy được vật dưới đất, sự việc cách tường vách, hoặc đồ để trong túi của quần chúng, mà thế gian gọi là “thiên nhãn”, nhưng họ không chịu tu. Bởi thế lần lần sự thấy suy giảm, kết cuộc cũng như thường nhơn.

Lại có những vị xem sách một lần rồi gấp lại đọc thuộc lòng không sai một chữ, hoặc văn tài mau lẹ xuống bút thành phú, mở miệng thành thi, nhưng không chịu tu hành, đôi khi trở lại bài bác đạo Phật. Cổ đức bình luận những người sau này, kiếp trước tu Thiền định đến trình độ khá cao, đã có chỗ sở đắc. Nhưng bởi những vị hành trì theo Tông môn chỉ nhận ngay tự tâm, phá trừ Phật kiến, Pháp kiến, nghĩa là để tâm rỗng không chẳng thấy có Phật và Pháp; nên khi chưa chứng đạo phải chuyển sanh trở lại, duy bằng cứ vào sự thông minh của mình, không ưa thích đạo Phật. Các bậc xưa còn như thế, người tu hiện tại sở đắc phỏng có là bao?

Như lời Phật huyền ký: “Đời mạt pháp người tu thì nhiều nhưng khó có ai đắc đạo.” Mà khi chưa chứng đạo, nếu còn nghiệp lực nhỏ như sợi tơ cũng bị luân hồi. Dù có một vài vị ngộ đạo, nhưng ngộ chưa phải là chứng, chỉ do sức Ðịnh chế phục nghiệp thức khiến cho lắng đọng lại, nên tạm được khai tâm, lúc chuyển sanh vẫn còn bị hôn mê không được tự tại. Đến kiếp sau, duyên tiến đạo thì ít cảnh thối đạo lại nhiều, nguyện giải thoát đã thấy khó bảo toàn chắc chắn. Về sự ngộ đạo còn bị thối thất, cổ đức đã có ba điều thí dụ:

Điều thứ nhất: như dùng tảng đá đè lên cỏ dại, cỏ tuy không mọc được nhưng củ nó chưa hư thúi, nếu gặp duyên khác tảng đá bị lật lên, cỏ vẫn mọc lại như cũ.

Điều thứ hai: như lóng nước trong chum, bùn tuy lắng xuống nằm yên tận đáy, nhưng khi chưa gạn lọc ra được, gặp duyên khuấy động, bùn lại nổi lên.

Điều thứ ba: như đồ gốm tuy nắn thành hình, nhưng chưa trải qua một phen nung lại cho chắc, gặp mưa xuống tất phải bị tan rã. Trạng huống ngộ đạo khi chuyển sanh dễ bị thối thất, cũng lại như thế.

Đời mạt pháp, người tu có mấy ai ngộ đạo? Ngộ đạo không phải là dễ. Như thuở xưa, Hương Lâm thiền sư dụng tử công phu trong bốn mươi năm mới dung luyện thành một khối. Ngài Trường Khánh Nhàn ngồi rách mười mấy chiếc bồ đoàn mới được thấy tánh bản lai. Người đời nay, trừ một vài vị Thánh Nhơn ứng thân thị hiện để làm mô phạm cho quần chúng, ngoài ra các vị khác tu Thiền, chỉ tạm được thân tâm an tĩnh hoặc thấy thiện cảnh giới là cùng! Dù đã ngộ đạo, khi chuyển sanh vẫn còn có thể bị chướng nạn như những điều đã kể trên. Đường sanh tử có nhiều nguy hiểm đáng e ngại với kẻ chưa đắc đạo là thế. Cho nên nếu bảo không sợ sanh tử, đó là chỉ lối suy tư của người thiển cận mà thôi.

Hơn nữa, hiện tại chánh pháp đã lần lần ẩn diệt, trên thế giới, nơi nào ảnh hưởng DUY VẬT tràn đến là đạo Phật không còn. Đã có nhiều nơi chùa chiền bị hủy phá, kinh sách bị thiêu đốt, tăng ni phải hoàn tục, hàng thiện tín không được tu. Dù cho ngày kia có được phục hồi, cũng phải bị biến thể và tiêu hao một phần lớn. Mong chuyển sanh để tiếp tục tu hành với một nền đạo suy tàn, thiếu bậc cao tăng dìu dắt, lấy đâu làm duyên tốt tiến đạo để giải thoát trong tương lai? Cho nên muốn bảo đảm tâm Bồ Đề không bị thối thất, phải tu Tịnh Độ. Dù tu các môn khác cũng nên kiêm niệm Phật phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc.

Đây là lời khuyến tấn chung của các bậc tiên đức, như các ngài: Liên Trì, Ngẫu Ích, Kiên Mật, Ấn Quang.

BÀI KỆ THỨ 12

Một câu A Di Ðà
Lộ tánh diệu Chân Như
Sắc xuân nơi hoa sáng
Muôn tượng ẩn gương xưa.

(Nhứt cú Di Ðà
Diệu Chân Như tánh
Xuân tại hoa chi
Tượng hàm cổ cảnh.)

LƯỢC GIẢI

Thuở xưa, một vị Tăng tụng kinh Pháp Hoa đến câu: “Chư pháp tùng bản lai. Thường tịch diệt tướng” (Các pháp từ xưa nay. Tự tướng thường tịch diệt), bỗng sanh nghi không hiểu. Sau mấy năm tham thiền, ông chợt tỏ ngộ, liền viết tiếp thêm hai câu:

 “Xuân đáo bách hoa khai.
Hoàng oanh đề liễu thượng”

(Xuân đến trăm hoa nở,
Oanh vàng kêu liễu biếc!).

 Câu niệm Phật đã thuần, hành giả sẽ thấy tánh chân như mầu nhiệm lồ lộ hiện bày, không thể dùng lời nói luận bàn, dùng tâm tư nghĩ suy phân biệt được. Cảnh trạng ấy như sắc xuân hiện nơi trăm hoa đua nở sáng tươi, như oanh vàng kêu hót líu lo trên cành liễuu xanh biếc, chỉ dùng tâm thiên nhiên mới thể hợp được cảnh thiên nhiên.

Nếu nghĩ suy phân biệt, tức là phiền não vọng động rồi, đâu còn chi là sáng suốt, trong đó in cảnh non nước trời mây, gương cùng cảnh tượng dung nhập nhau không nghĩ là đây là kia, là một là khác. Người niệm Phật khi ngộ vào tánh diệu Chân Như cũng như thế.

Thời cận đại ở Trung Hoa, một đêm Hư Vân thượng nhân đang ngồi tịnh ngoài trời dưới ánh trăng sáng, vị Thiền sư đồng tham bước đến ướm hỏi thử:

Mắt cá vẫn nhiều, châu khó nhận
Móng mây dễ lẫn ráng tươi hồng!

Thượng nhân liền đáp:

Gương hàm muôn tượng không kim cổ
Chẳng thuộc âm dương sáng đại đồng.

Thiền sư nghe xong, gật đầu mỉm cười rồi bỏ đi.

TÀO THỊ

Tào thị nguyên là mẹ của Bá Thiên Hựu ở Thường Châu. Thiên Hựu bình sanh ưa làm điều lành, thờ phượng Lữ Đồng Tân chơn nhơn rất nghiêm cẩn. Ông thường phò cơ hỏi về cách thức tu tiên, khi thỉnh vấn xong lui ra lên bồ đoàn lặng lòng nhắm mắt ngồi tịnh.

Sau Thiên Hựu đến Tô Châu, có người trao cho quyển Tây Phương Xác Chỉ, trong ấy bài bác đạo Tiên, chỉ dạy Tịnh độ, ông mới hồi hướng về Phật thừa. Tuy nhiên trong lòng còn chút nghi ngờ, ông đem điều ấy thưa hỏi Lữ Tổ. Chơn nhơn đáp: “Ngươi chớ nên nghi ngờ, khi tam tai đại kiếp đến nơi, bọn thiên tiên chúng ta cũng không đường tránh khỏi. Cõi Tịnh độ là nơi vui nhàn an ổn, dễ bề tiến đạo, ngươi nên cố gắng niệm Phật cầu vãng sanh!” Nhân lại bảo nên tụng thêm kinh Kim Cang Bát Nhã. Thiên Hựu nghe nói mới tin nguyện vững chắc, dứt hết lòng nghi.

Lúc ấy Tào Thị đã sáu mươi bốn tuổi, cảm bịnh nhiệt rất nặng. Thiên Hựu nghe tin, từ Tô Châu trở về, thấy mẹ đã tắt thở, chỉ còn hơi ấm nơi ngực, người nhà lo sẵn quan tài và đồ tẩn liệm. Ông cảm xúc khóc rống, tụng Bạch Y Thần Chú một muôn hai ngàn biến cầu với Quán Âm Đại sĩ, xin giảm thọ số của mình một kỷ để cho mẹ được sống thêm. Hôm sau Tào thị bỗng tỉnh lại đòi uống nước, trải vài gày mới hồi phục. Bà cho biết khi mình mới vừa chết, liền bị hai sứ giả dẫn đi, trải qua các ty Thổ địa, Thành hoàng, kế đến phủ Đông Nhạc. Phủ quan bảo: “Con của ngươi đã ’ vì mẹ chí thành cầu đạo, nguyện nương nơi sức Bạch Y Đại sĩ xin giảm kỷ để tăng thọ cho mẫu thân. Bởi nguyên do ấy, nên ta cho ngươi được hoàn sanh”.

Rồi dạy minh quan đưa trở về. Thiên Hựu liền mượn nhân duyên đó khuyên mẹ tu tịnh nghiệp. Tào Thị bèn trường trai, mỗi ngày đêm chia ra ba thời, lần chuỗi niệm Phật hồi hướng về Tịnh độ. Mười hai năm sau, khi đến bảy mươi sáu tuổi, vào ngày rằm tháng chín, bà thức dậy sớm bảo Thiên Hựu rằng: “Mẹ sắp đi, con hãy mời hàng thân thuộc đến để giã biệt”. Ba hôm sau Tào thị tắm gội thay y phục, rồi nằm nghiêng bên hữu mà qua đời.

Thiên Hựu có người cô là Hứa thị cũng trường trai niệm Phật mà chưa thể chuyên nhứt. Ông rước về nhà, khuyên cô buông bỏ muôn duyên, một lòng niệm Phật. Hứa thị y theo lời. Bấy giờ bà đã sáu mươi lăm tuổi, từ tháng ba đến tháng sáu niệm Phật không xen hở. Một hôm bà đến trước Thiên Hựu cúi xuống lạy. Ông kinh hãi hỏi lý do, bà nói: “Cô hơn sáu mươi năm điên đảo trong vòng mộng tưởng, chưa từng được một ngày an vui.

Từ khi được cháu dạy cho niệm Phật đến giờ, sáng niệm thoáng chốc đã đến tối, tối niệm giây phút đã thấy sáng, sự an vui trong đời còn chi hơn đây? Nếu chẳng nhờ cháu hướng dẫn thì đâu được như thế, cho nên cô mới đảnh lễ tạ ơn!” Thiên Hựu nhân đó khen ngợi cõi Cực Lạc trang nghiêm và bảo: “Chỉ được nhứt tâm, cảnh Phật tự hiện. Khi thánh cảnh hiện ra, cũng chớ sanh tham trước!” Lại trải qua ba tháng, một đêm Hứa thị đang ngồi niệm Phật, bỗng thấy kim liên hiện ra trước mặt, giây phút hóa thành trăm ngàn muôn ức hoa sen, ánh sáng chiếu rực rỡ không cùng tận. Sáng ra bà cũng lạy Thiên Hựu mà thuật rõ việc ấy.

Từ đó dung sắc bà sáng nhuận, tươi trẻ lại như người ba mươi tuổi. Trọn ngày Hứa thị không nói chi, ban đêm nằm nghỉ chừng một canh rồi thức dậy ngồi niệm Phật đến sáng. Chưa biết được ngày lâm chung của bà về sau như thế nào?

LỜI BÌNH:

Xem lời nói của Lữ Đồng Tân chơn nhơn, thì biết tu Tịnh độ là việc cấp thiết. Trong đời có kẻ chuộng Tiên thuật mà chê Phật pháp, kết cuộc chỉ tự khi dối mình mà thôi.

***

79. Ẩn tu hoa cỏ dáng thờ ơ
Thời mạt nhơn tâm đã khác xưa
Lòng thú hình người, đầy lớp lớp
Cảnh đời gió gió, lại mưa mưa!

NHƯ Ý:

Xin mượn mấy câu sau đây để góp ý, Có Lời nhắn Khách tu Chân, Đừng Ngơ-ngát giữa đường Trần mà NGUY,  cuộc THẾ suy lòng NGƯỜI suy, hỏi đâu Thuyền-Pháp TRÍ-BI độ đời, nổi riêng riêng những Bồi-hồi.

VỀ TÂY-PHƯƠNG

Cơn Pháp-nhược ma cường Tan-tác,
Làng tu chân Ngơ-ngác đòi nơi.
Tây-Nguyên cũng một góc Trời,
Lọ là đua bước vào nơi thị thành.
Đêm Tịnh-Viện chuông thanh Ngân-ngợi,
Sông Phương-Liên trăng rọi tỉnh mê.
Nẻo trần Phiền-lụy Ủ-ê,
Lưới trần thoát tục mọi bề nơi tiên.
Đạo huyền, huyền lại Hư-huyền.
Cơ Thiền, Thiền lại sanh Thiền biết đâu?
Gắng công bền chí lâu lâu,
Khơi trong gạn đục, thấy mầu Chân-nguyên.

Phải Căn-duyên Bồ-Đề giống trước,
Vẹn Tu-trì tỏ được Tiền Thân,
Máy Thiền rộng thẳm Khôn-phân,
Lắng tâm lãng ngộ, thì gần chẳng xa,
Lướt Phong-ba mấy người chí cả,
Khỏi Ái-hà cũng họa Tiền-duyên!
Bướm Loan vượt bể Vô-biên,
Gió day mặc gió, vững thuyền thì xong.
Dốc một lòng lên non đào giếng,
Mặc lời Phàm đem tiếng thị phi,
Cam-lồ rửa sạch tánh mê,
Nước trong tỏ hiện, trăng kia Sáng-ngời.
 
Quyết một đời nương theo dấu Phật.
Lạc ở mình ấy thật bởi đâu?
Màu Thiền đắc ý cũng mầu,
Còn hơn Chen-chúc Vương-hầu Công-khanh.
Chớ Đua-trang trong vòng Ngũ-dục.
Tắt lửa long gắng học MA-HA,
Cảnh nào cảnh chẳng có Hoa,
Non nào non chẳng có tòa Thiên-Thai.

Khách Trần ai Khôn-ngoan chèo lấy.
Tới Bảo-trì tất thấy Hoa-Sen,
Bỏ công Kinh-kệ hương đèn,
Tây phương về đến, một phen an nhàn!

AI VỀ CỰC-LẠC ?

“Ai về Cực-lạc mau về,
Đừng mê trần cảnh mà Thê-thảm sầu”

Cực-Lạc Câu-lơn giáp bảy vòng,
Lâu-đài Ẩn-hiện sáng Mênh-mông!
Mưa Hoa Lác-đác trời Quang-thoại.
Nhạc Ngọc Thâm-trầm khoảng bích không.

Cực-Lạc mành châu lưới bảy từng,
Đẹp màu Liên-Hải vẻ Trường-xuân.
Hoa Sen ánh sáng hòa trăm sắc.
Rộng tỏa hương thanh chiếu Rạng-hừng!

Cực-Lạc cây Quỳnh bảy lớp quanh,
Trân-cầm đua hót giọng kêu thanh.
Đường vàng Rộng-rãi, theo giây-báo!
Lá bích reo vang, tiếng pháp lành.

Cực-Lạc Như-Lai đức Vẹn-tuyền.
Quán-Âm, Thế-Chí, sắc Vô-biên!
Hằng-sa Bồ-tát mây Lành-hội.
Nghe học mầu sâu, đạo Pháp-huyền!

Cực-Lạc Thiên Nhơn đức hạnh thanh,
Khi ngồi Nhập-định lúc Kinh-hành.
Ba mươi hai tướng Kim-thân đẹp,
Sống mãi Vô-ưu bạn đạo lành.

Cực-Lạc ban mai chúng Thiện Nhơn.
Mang hoa, Kỷ-nhạc, dạo mười phương.
Cúng-dường chư Phật, rồi nghe pháp,
Thiền-duyệt thanh trai, lúc phản hườn.

Cực-Lạc trời vui sáng một miền,
Đẹp mầu vượt hẳn, cảnh thần Tiên.
Di-Đà sẵn trãi lòng Bi-nguyện?
Chưa biết ai là kẻ hữu duyên?

Đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát nói : “Trong  lúc cuối thời Mạt-pháp nầy, nếu người nào mỗi ngày đều niệm đủ một MUÔN Câu Phật Hiệu cầu nguyện Vãng-sanh. Đó là kẻ Hữu-duyên, Quyết-định khi Mạng-chung sẽ được sanh về Cực-Lạc.”

NAM-MÔ TÂY-PHƯƠNG VÔ-LƯỢNG CÔNG-ĐỨC-TẠNG THẾ-GIỚI, THÁNH-VÔ-LƯỢNG-THỌ, QUYẾT-ĐỊNH QUANG-MINH-VƯƠNG PHẬT.

NAM-MÔ TÂY-PHƯƠNG AN-LẠC THẾ-GIỚI, VẠN-ỨC-TỬ KIM-THÂN, TẦM-THINH CỨU-KHỔ, QUẢNG-ĐẠI LINH-CẢM, QUÁN-THẾ-ÂM TỰ-TẠI, BỒ-TÁT MA-HA-TÁT.

NAM-MÔ TÂY-PHƯƠNG AN-LẠC THẾ-GIỚI, VÔ-BIÊN QUANG-XÍ-THÂN, ĐẠI-LỰC ĐẠI-THẾ-CHÍ BỒ-TÁT MA-HA-TÁT.

NAM-MÔ TÂY-PHƯƠNG AN-LẠC THẾ-GIỚI, PHƯỚC-TRÍ NHỊ-NGHIÊN-THÂN, THANH-TỊNH-ĐẠI-HẢI-CHÚNG, BỒ-TÁT MA-HA-TÁT.

NAM-MÔ PHƯƠNG-LIÊN-TỊNH-XỨ MẬT-TỊNH ĐẠO-TRÀNG TRÚC LIÊN BỔN THẤT CỐ HÒA-THƯỢNG TÔN-SƯ, LIÊN-ĐÀI TỌA-HẠ NHỨT VỊ GIÁC-LINH, THÌ-TỪ CHỨNG-GIÁM

LỜI DẠY SAU CÙNG

Tuyền-nhiễu sơn-hoa thảo mộ nhàn,
Huyễn thân hà sự hựu đa-đoan?
Ưng tri vô-tận trầm-luân hải,
Vị xuất luân-hồi khổ diệu mang!

Tạm dịch:

Suối quanh núi bọc cỏ hoa-nhàn!
Thân giả mọn này, lắm việc toan?
Vì biển trầm-luân vô-lượng khổ!
Nên đành nhẫn-nhục xuất nê-hoàn!
Luân-hồi ra khỏi không vương nạn.
Bi-nguyện triển-khai nhập Niết-bàn.
Thị tịch Ta-bà về Phật quốc.
Độ toàn sanh-chúng ngự sen vàng.

Tôi (Hòa thượng Thích Thiền-Tâm) xin chia làm tam sách như sau:

1.- Thượng-sách là đem xác-thân để tựa cách rừng-hoang bố-thí cho loài chim, thú, hoặc treo đá dìm xuống vực-sâu bố-thí cho loài thủy-tộc, để đền trả nghiệp đời trước.

2.- Trung-sách là bó chiếu chôn sâu, khỏa bằng để chỗ trồng thơm, chuối cũng có lợi cho người.

3.- Hạ-sách, nếu hàng đệ-tử không nỡ làm như vậy, nên đóng sơ mấy tấm gỗ thông, bên trong độn lá chuối, trên để tấm pháp-y, xây ngôi mồ cỏ đơn sơ. Trước mộ dựng tấm bia ghi câu lưu niệm:

“Bất huệ nạp-tăng, Thích Thiền-Tâm hiệu Vô-Nhất mai cốt xứ”.

Từ xưa đến nay, trong nhà chùa vào trong những ngày vía Tổ chư Tăng Ni thường có lời phục nguyện:

“Tông phong vĩnh chấn,
Tổ ấn trùng quang”.

Nói riêng theo pháp môn “NIỆM PHẬT” tức là nguyện cho tông “TỊNH ĐỘ” do chư Tổ tuyên dương, được chấn chỉnh và hưng thạnh phải như thế nào? Tôi xin nêu ra mấy chi tiết. Như trong “Bồ Tát Giới Kinh” đã dạy: “Già chết gần kề. Phật, pháp sắp diệt. Các Phật tử vì muốn đắc đạo phải nên nhứt tâm cần cầu tinh tiến”. Câu kinh này đưa ra ba điều kiện:

1) Phải nghĩ đến sự già chết gần kề.

2) Phải thương lo cho Phật pháp suy vong sắp diệt.

3) Phải siêng năng tinh tiến tu hành.

Giữ được ba điều kiện ấy, tức có thể làm cho: “Tông phong vĩnh chấn – Tổ ấn trùng quang”.

Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.

BÀI KỆ THỨ 100

Một câu A Di Ðà
Lý mầu chưa dễ hiểu
Thoáng chốc trăm kệ xong
Tam tôn thầm gia bị.

(Nhứt cú Di Ðà
Lý phi dị hội
Bách kệ nga thành
Tam tôn gia bị.)

LƯỢC GIẢI

Từ lúc sơ khởi đến đây, Triệt-Ngộ đại sư đã viết ra một trăm bài kệ để tuyên dương Tịnh Ðộ. Song Ðại Sư vẫn tự thấy còn chưa nói ra hết điểm huyền diệu của pháp môn này vì như chư cổ đức đã nói:

“Lý Tịnh Ðộ là bí mật tạng.
Sự Tịnh Ðộ là đại nhân duyên”, thì người học Phật dễ gì thấu đáo?


Tuy nhiên, Ðại Sư cũng nguyện cầu Tam Bảo gia bị cho lời mình trên hợp ý Phật, dưới lợi quần sanh, khiến người đọc được thấu hiểu phần nào để tiến tu trên đường giải thoát. Và ngài cũng cảm ân 
Tam Bảo thầm gia bị khiến cho tâm địa linh thông nên trong thoáng chốc đã viết xong một trăm bài kệ này.

TẾ TỈNH ĐẠI SƯ
(Liên Tông Thập Nhị Tổ)

Tế-Tỉnh Đại Sư, tự Triệt-Ngộ, hiệu Nạp Đường, người đời Thanh, con nhà họ Mã ở huyện Phong Nhuận.

Thuở bé ngài đã thông thuộc kinh sử. Sau khi xuất gia, lại đi tham học các nơi, rộng suốt cả hai tông: Tánh và Tướng. Chỗ tâm đắc nhất của ngài là chỉ thú Thập Thừa Tam Quán của Kinh Pháp Hoa. Kế đó, ngài lại tham phỏng với Tụy Như Thuần thiền sư ở Quảng Thông, tỏ ngộ thấu suốt, được truyền tâm ấn. Sau Thuần công về an dưỡng ở chùa Vạn Thọ, Đại sư kế nhiệm tại Quảng Thông, sách tiến hàng hậu lai, tông phong rất thạnh.

Bình nhật, Đại sư thường bảo: “Ngài Vĩnh Minh nguyên là bậc tông trượng trong thiền môn, mà còn quy tâm về Tịnh Độ. Huống nay là thời mạt pháp, chúng ta cũng phải tuân theo”. Do đó, ngài chuyên tu tịnh nghiệp, chủ trương Liên tông. Mỗi ngày hạn thời giờ dạy chúng hoặc tiếp khách nội một cây hương. Ngoài ra chỉ chuyên lễ sám niệm Phật mà thôi.

Không bao lâu, Đại sư sang trụ trì chùa Giác Sanh. Kế đó lại lui về ngụ chùa Tư Phước ở Hồng Loa Sơn. Tăng chúng các nơi mến đức nương về ngày càng đông, khiến chỗ ấy trở thành đại tòng lâm. Đại sư vì pháp lợi sanh lòng không chán mỏi, tất cả đều dùng Tịnh độ làm chỗ quy thú. Mỗi khi giảng đến ân cứu khổ ban vui của Như Lai, thường lệ rơi theo tiếng. Thính chúng ngồi nghe đều cảm động sa nước mắt. Trong hai quyển Ngữ Lục của ngài, lời khuyến hóa lại càng chí thiết. Đại lược như sau:

-“Đầu mối quan hệ trong vòng sống chết của chúng ta, duy có hai thức: Tâm lực và Nghiệp lực.

Tâm lực là tâm niệm có nhiều mối, khi lâm chung đi theo mối nặng nhất.

Nghiệp lực ví như người mang nợ, chủ nợ mạnh lôi kéo trước tiên. Nghiệp lực tuy lớn, nhưng tâm lực lại càng lớn hơn. Bởi nghiệp không tự tánh, hoàn toàn nương nơi tâm, nên khi tâm chú trọng thì làm cho nghiệp thêm mạnh. Nếu ta dùng trọng tâm mà tu Tịnh độ, tất tịnh nghiệp mạnh, khi lâm chung quyết định sanh về Tây phương. Ví như cây to tường cao, nghiêng hướng về Tây, ngày kia khi đã đổ tất cũng hướng về Tây vậy.

Thế nào trọng tâm?

Chúng ta tu Tịnh độ, lòng tin qúi ở nơi sâu, chí nguyện qúi ở nơi thiết. Do tín nguyện sâu thiết, nên tất cả tà thuyết không thể lay động, tất cả cảnh duyên không thể lay động, tất cả cảnh duyên không thể kéo lôi. Giả sử đang khi ta niệm Phật, bỗng tổ Đạt Ma hiện ra, bảo phải bỏ Tịnh tu Thiền có thể liền giác ngộ, thì cũng từ tạ không dám tuân lời. Hay dù đức Thích Ca hiện thân, bảo có pháp môn khác hơn Tịnh độ, dạy ta phải bỏ niệm Phật để tu môn kia, ta cũng đảnh lễ mà từ khước. Giữ vững như vậy, mới gọi là lòng tin sâu sắc.

Về phần nguyện, ví như có vòng sắt nóng đỏ xoay vần trên đầu, ta cũng không vì sự khổ ấy mà thối thất chí vãng sanh. Lại như có cảnh dục lạc mầu nhiệm nhất của Chuyển luân vương hiện đến, ta cũng không vì sự vui sướng đó mà quên tạm niệm cầu về Cực Lạc. Gặp những cảnh duyên nghịch thuận cùng cực như thế, mà vẫn không đổi lòng, mới gọi là chí nguyện tha thiết.

Lòng tin sâu, chí nguyện thiết ấy, gọi là trọng tâm.

Dùng tâm này mà niệm Phật thì tịnh nghiệp mạnh và lần lần thành thục. Khi nghiệp thanh tịnh Cực Lạc thành thục, tất duyên nhiễm Ta bà phải dứt. Như thế, lúc lâm chung dù có muốn cảnh luân hồi hiện ra, cảnh Tịnh độ cùng đức Di Đà chẳng hiện tiền, cũng không thể được. Nhưng tín nguyện sâu thiết ấy lúc bình thời phải rèn luyện cho thành, khi lâm chung mới khỏi lạc vào nẻo khác.

Như cổ đức lúc sắp mạng chung, chư Thiên ở sáu cõi trời trổi nhạc cầm tràng phan, kế tiếp đến rước, mà vẫn cố từ, một lòng chờ Phật, đợi khi Phật hiện đến mới chịu đi. Lâm chung là cảnh tứ đại sắp phân tán, chư Thiên đến rước là cảnh tốt đẹp tuyệt vời! Nếu bình thời tâm tín nguyện chưa được mười phần vững chắc, thì khi lâm chung gặp phải cảnh ấy, làm sao tự chủ được!”

Có nhà tu thiền hỏi: “Tất cả các pháp, đều như mộng huyễn. Cõi Ta bà cố nhiên vẫn huyễn, song cảnh Cực Lạc cũng lại là mộng. Như thế, niệm Phật cầu về Cực Lạc nào có ích chi được?

Đại sư đáp: – Không phải thế đâu! Các bậc Bồ Tát từ đệ Thất địa trở về trước, đều tu hành trong huyễn mộng. Đến như bậc Đẳng Giác vẫn còn ở trong mộng lớn vô minh. Duy có Phật mới là bậc Đại Giác, hoàn toàn thức tỉnh.

Đang lúc còn trong mộng, thì cảnh vui cùng khổ vẫn uyển nhiên! Như thế, cam chịu cảnh mộng khổ ở Ta bà, sao bằng về hưởng cảnh mộng vui nơi Cực Lạc? Phương chi, mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng. Mộng ở Cực Lạc là từ mộng ra khỏi mê, lần lướt đến ngôi Đại Giác. Cho nên mộng cảnh tuy vẫn đồng, mà kết qủa ở đôi nơi rất khác xa, vì thế phải niệm Phật cầu về Cực Lạc!

Niên hiệu Gia Khánh thứ mười lăm, vào tháng hai, Đại sư dự biết ngày lâm chung, chẳng còn bao xa, đi từ giã những người ngoại hộ, dặn rằng:

“Duyên hư huyễn chẳng bền lâu, giờ sống thừa nên qúi tiếc. Các vị hãy cố gắng niệm Phật, ngày kia sẽ cùng gặp nhau nơi cõi Liên bang!”.

Đến ngày mùng hai tháng chạp, Đại sư cảm bịnh nhẹ, đang chí tâm niệm Phật, bỗng thấy có vô số tràng phan từ phương Tây bay đến, liền nhìn môn đồ nói:

“Cảnh Tịnh độ đã hiện, ta sắp về Tây phương!

Rồi bảo đại chúng, luân phiên trợ niệm. Sang ngày 17, vào giờ Thân, ngài nói với chúng rằng:

“Hôm qua tôi thấy ba vị đại sĩ: Văn Thù, Quán Âm, và Thế Chí. Hiện giờ lại được đức Phật tự thân đến tiếp dẫn. Tôi đi đây!”.

Đại chúng nghe nói, niệm Phật càng chí thiết, Đại sư ngồi thẳng, chắp tây hướng về Tây, bảo:

“Xưng một cầu hồng danh, thấy một phần tướng hảo”!

Dứt lời, liền kiết ấn mà tịch.

Lúc ấy, tất cả chúng đều nghe mùi hương lạ ngào ngạt. Để lộ khám bảy ngày, dung sắc Đại sư tươi như sống, tóc bạc biến thành đen. Lúc trà tỳ, được hơn một trăm hạt xá lợi lóng lánh. Đại sư thọ được bảy mươi, tăng lạp bốn mươi chín.

***

80. Ẩn tu kham nhẫn cõi Ta Bà
Nỗi khổ muôn ngàn, khó kể ra
Cực Lạc niềm vui vui bất diệt
Khổ vui đều bởi tự nhân mà!

NHƯ Ý:

Cổ Đức Than TA-BÀ khổ Ta bà khổ, Ta bà chi khổ Thùy năng số, TÂY-PHƯƠNG lạc Tây phương lạc, Tây phương chi lạc Thùy năng Giác, cái KHỔ Ta bà không thể đếm được, sự VUI Cực lạc mấy ai đã biết, đừng hiểu lầm theo Lý Tương-đối “Lạc Cực Sinh Bi”, vì sự  vui đây là vui tuyệt đối của CHÂN thể bất sanh diệt, muốn thoát Khổ được Vui hãy sớm gieo nhân niệm Phật.

MƯỜI PHÁP GIỚI DUY CÓ HAI NẺO

PHÀM VÀ THÁNH

Trong mười Pháp-giới, nếu nói tóm tắt, duy có hai nẻo: Phàm và Thánh.

Phàm phu tâm còn nhiễm ô phiền não, chư Thánh tâm hằng sáng sạch lặng trong. Bởi thế cho nên hàng Phật-tử muốn vượt Phàm lên Thánh, thoát nỗi khổ luân-hồi, phải bỏ Nhiễm về Tịnh. Mà muốn được tịnh Tâm, phải ngăn ngừa đừng cho sáu Căn nhiễm sáu Trần. Người nào ăn Chay mà cảm thấy khó khăn, đó bởi do còn thích món ăn ngon, nghĩa là Thiệt căn còn nhiễm Vị trần. Vì thế, muốn dễ được Tịnh tâm, người Phật-tử nên tập lần từ ăn chay Kỳ đến chay Trường.

Có kẻ hỏi: – Tại sao bên Phật-giáo Nam-tông vẫn còn ăn mặn? Và nếu không Thanh tịnh, tại sao những vị bên phái ấy lại chứng Thánh-quả?

Xin đáp: – Ðức Phật vì tùy hoàn cảnh căn cơ, trong khi nói giáo pháp Nhị-thừa, phương tiện tạm mở cho ăn NGŨ-TỊNH-NHỤC (không Thấy giết, không Nghe giết, không Nghi giết, thịt con thú Tự chết, thịt loài thú khác ăn Còn dư).

Nhưng đến khi thuyết qua giáo nghĩa Ðại-thừa, Ngài lại triệt để cấm dùng đồ huyết nhục, vì lẽ mất lòng Từ bi Bình đẳng, và gây nhân Vay trả Luân-hồi. Như trong kinh Lăng-Nghiêm, Ðức Thế-Tôn còn khuyên không nên dùng đồ bằng da, bởi còn thọ dụng một thân phần của chúng-sanh tức là còn mắc nợ nó, huống chi là thường ăn thịt?

Trong kinh Ương-Quật-Ma, ngài Văn-Thù Bồ-Tát thưa: “Bạch Thế-Tôn! Phải chăng nhân vì Như-Lai-tạng, nên chư Phật không ăn thịt?

Ðức Phật bảo: “Nầy Văn-Thù! Tất cả chúng-sanh từ vô thỉ đến nay sống chết luân-hồi từng cùng làm lục thân quyến thuộc, thay đổi vô thường cũng như trò hát. Thân mình và thân loài khác đồng là chất huyết nhục, vì thế nên chư Phật không ăn thịt. Lại nữa, chúng-sanh giới tức là ngã giới, thịt loài khác chính là thịt của mình, nên chư Như-Lai không ăn thịt.

Nầy Văn-Thù! Như con bò tự chết, người chủ dùng da nó làm giày dép đem bố thí kẻ giữ giới. Như bậc giữ giới không thọ tức là pháp Tỷ-khưu; nếu thọ trì tuy không phải phá giới, song thiếu tâm từ bi. Cho nên, không thọ dụng thân phần của hữu-tình, tức là lần lượt lìa nhân duyên sát sanh vậy”.

Ðời Ðường bên Trung-Hoa, Ðạo-Tuyên luật-sư giữ giới tinh nghiêm, nên chư thiên thường hiện thân ủng hộ. Cứ theo bộ Tuyên-Luật-Sư-Cảm-Ứng-Ký, Tứ-Thiên-Vương thưa với Tuyên-sư rằng:

“Thuở Ðức Như-Lai còn ở đời, một hôm Ngài phóng ánh sáng lớn bảo các thiên, long, quỷ, thần:

– Sau thời chánh-pháp diệt tận, có nhiều vị Tỷ-khưu chấp theo giáo tích Tiểu-thừa của ta, không hiểu ý nghĩa Tỳ-ni, bảo rằng ta cho các Sa-môn ăn thịt. Vì thế, trong Tăng-già-lam hiện ra cảnh tượng sát sanh cũng như lò thịt. Lại có các vị Tỷ-khưu mặc đồ tơ lụa, gần gũi nơi quán rượu dâm xá, không học ba tạng, chẳng giữ cấm giới, làm cho đạo pháp ta suy vi, thật đáng thương xót!

Nên biết từ vô lượng kiếp đến nay, ta tu Bồ-Tát-hạnh đã xả bỏ đầu, mất, tủy, não, vì tâm từ bi không tiếc thân mạng để bố thí cho loài hữu-tình, có lẽ nào lại bảo đệ-tử mình ăn thịt chúng-sanh? Ta niết-bàn rồi, các Tỷ-khưu thay thế ta làm thầy trời người dẫn dạy hữu-tình khiến cho đắc đạo quả; có lẽ nào bậc thiên nhơn sư mà lại ăn thịt chúng-sanhư?

Khi ta mới thành đạo, tuy trong luật có mở ra cho ăn năm thứ tịnh nhục, nhưng đó không phải thật là thịt của bốn loài, mà là thịt do sức thiền định bất tư nghì của ta biến hóa ra. Trong các kinh Niết-Bàn, Lăng-Già, ta không cho người trì giới ăn thịt. Nếu có Tỷ-khưu nào bảo rằng trong Tỳ-ni-giáo, Phật cho ăn cá thịt, cho mặc áo tơ lụa, đó là lời ma thuyết, là phỉ báng ta!”

Lời Phật đã dạy như thế, nếu ăn thịt cá mà không trước nhiễm cũng có thể chứng quả thánh như các vị bên Nam-tông đã tu chứng. Nhưng nếu so hai phương diện ăn chay và mặn, thì ăn chay dễ đoạn nhiễm tâm hơn; đến như về nghĩa từ bi bình đẳng, bên ăn chay lại hoàn toàn hợp lý. Thế nên biết giáo nghĩa Nhị-thừa chỉ là phương tiện tạm thời, giáo nghĩa Ðại-thừa mới là chân thật cứu cánh.

Vậy người tu nên hướng theo lẽ phải và xét lại năng lực của mình, đừng quá cầu cao tự cho là bậc viên dung tự tại, vội nói câu “Tửu nhục xuyên trường quá. Bất ngại bồ-đề đạo” (Chất rượu thịt ăn vào cũng ra ngoài, không ngại chi đến sự giải thoát cả) mà lầm.

Vĩnh-Gia đại-sư đã bảo: “Quả báo vui khổ đều do tâm tạo ra.

Tâm nóng giận, tà dâm, độc ác là nghiệp Ðịa-ngục.

Tâm tham lam, bỏn sẻn là nghiệp Ngạ-quỷ.

Tâm ngu si, hôn ám là nghiệp Bàng-sanh.

Tâm ngã mạn, cống cao là nghiệp Tu-la.

Giữ tròn năm giới là nghiệp Người.

Tinh tu mười điều lành là nghiệp Trời.

Chứng ngộ nhơn không là nghiệp Thanh-Văn.

Rõ pháp nhân duyên là nghiệp Duyên-Giác.

Tu hành sáu độ là nghiệp Bồ-Tát.

Lòng chân từ bình đẳng là nghiệp Phật.

Nếu tâm trong sạch thì hóa sanh về Tịnh-độ, ở nơi bảo các, hương đài. Tâm dơ nhiễm thì gởi chất nơi uế bang, ở cõi núi gò hầm hố. Muôn cảnh đều do tâm tạo, lìa nguồn tâm ra không có hình thể chi.

Vậy muốn hưởng quả lành, phải tu nhân tịnh!”

Những lời của Vĩnh-Gia đại-sư trên đây, tuy vắn tắt, nhưng đã thuyết minh lý luân-hồi trong sáu nẻo, và đề cập rõ ràng nhân-quả của mười pháp-giới.

Phật Học Tinh Yếu

Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm

 Nam-mô Diệm-Nhiên Vương Bồ-tát (3 lần)

Mãnh-hỏa diệm diệm chiếu thiết-thành,
Thiết-thành lý diện nhiệt cô-hồn,
Cô-hồn nhược yếu sanh tịnh-độ,
Thính tụng Hoa-Nghiêm bán kệ kinh:

Nhược nhơn dục liểu tri,
Tam thế nhứt thiết Phật,
Ưng quán pháp-giới tánh,
Nhứt thiết duy tâm tạo.

(Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật trong ba đời.
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.)

(NGHI THỨC MÔNG SƠN THÍ THỰC)

Thuở xưa, tại đất Kinh Triệu, có ông Vương-Minh-Cán là người vẫn tạo ác nghiệp, một hôm, nhân bịnh ngặt chết giấc tự thấy có hai người dẫn đường, thấy có một vị Tăng-sĩ bảo rằng : “Đức Địa-Tạng Bồ-tát dạy người đọc lấy bài kệ “Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhứt thế Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhứt thế duy tâm tạo”. ( Người tụng bài kệ ấy, có thể vẹt được cái khổ nơi địa ngục).

Đó, rồi y vào yết kiến Diêm Vương, Vương hỏi : Ngươi có làm được công đức chi không ? Y đáp : chỉ mới thụ trì được một bài kệ, kế tụng lại bài kệ trên. Tiếng vang cả địa-ngụctội nhân đều được thoát ra … ba ngày y sống tỉnh lại được y đi hỏi thăm các vị Tăng-sĩ và Cư-sĩ, mới biết bài kệ kinh Hoa Nghiêm…

Ôi ! Chỉ tụng có một bài kệ, còn đắc ứng nghiệm như thế huống là tụng toàn bộ kinh ư !

(NHỊ KHÓA HIỆP GIẢI)

Xá Lợi Phất ! Cõi đó vì sao tên là cõi Cực Lạc?

Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.

 Xá- Lợi- Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.

PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ

Cõi thanh đạo quả dễ tròn nên
Tập quán hèn thô tự đổi liền.
Cá lội bể khơi lìa lưới rập
Nhạn bay trời rộng thoát cung tên.
Luân hồi đã dứt đường sanh tử
Phiền não còn đâu niệm đảo điên?
Một điểm không tâm là Cực Lạc
Nhiễm mê khó dự bảo trì liên.

Vô biên cảnh đẹp vịnh khôn cùng
Tầm mắt du quan chẳng chán trông!
Hạt thóc chứa bao trời đất rộng
Mười phương thu lại chót đầu lông.
Trong đền châu ngọc giăng cùng khắp.
Ngoài các lan can bọc giáp vòng.
Chậm bước còn đang nghe nhạc lạ
Từ đâu loan phụng liệng hư không?

Lâu đài bảo thọ ngắm mênh mang
Niệm Phật thiền tư giữa cảnh nhàn!
Cây báu sắc xen đâu chỉ một
Chim linh điệu xướng cỏ muôn ngàn.
Tô đà thơm diệu đầy ngân trản
Cam lộ ngọt thanh khắp ngọc bàn.
Chẳng giống Tuyết sơn nhiều tuyết lạ
Kẻ vô phước biến vị tân toan

Ba cõi đã hay chẳng ổn lành
Quyêt tìm Cực Lạc chứng Vô sanh.
Ví không niệm Phật công phu chắc
Đâu được đài sen nguyện lực thành?
Ngút tỏa lầu cao lồng diệu sắc
Gió đùa cây biếc nổi cầm thanh!
Từ nay chân giả không lầm lạc
Mắt cá, trân châu nhận rõ lành.

TÂY TRAI TỊNH ĐỘ THI

BÀI KỆ THỨ 47

Một câu A Di Ðà
Vượt ngang thoát Ta Bà.
Người tin không thấu đáo
Ta biết làm sao mà?

(Nhứt cú Di Ðà
Hoành xuất Ta Bà.
Nhữ tín bất cập
Ngô mạc như hà?)

LƯỢC GIẢI

Có hai lối tu để thoát vòng luân hồi trong Tam Giới.

Ðó là lối Thụ Xuất, vượt ra theo chiều dọc. Và Hoành Xuất: vượt ra theo chiều ngang.

Kẻ tu đường lối Thánh đạo, dùng sức Giới, Ðịnh, Huệ lần lượt dứt trừ Kiến hoặc cùng Tư hoặc của Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới, thoát ra ba cõi, gọi là Thụ Xuất. Ví như con ong muốn ra khỏi cây tre, dùng sức khó nhọc đục từng mắt tre theo chiều đứng, mà tìm lối thoát.

Còn người tu theo đường lối vãng sanh, tuy chưa dứt trừ hoặc nghiệp, nhưng biết dùng sức tín, nguyện, hạnh của mình và nương theo sức bản thệ nhiếp thọ của Phật, cũng được vượt thoát ba cõi Ta Bà, sanh ngang về Lạc quốc. Ðã về cõi ấy rồi, tất không còn bị luân hồi, lần lượt chứng lên các thánh phẩm, cho đến khi thành Phật. Ðây gọi là lối tu Hoành Xuất. Ví như con ong biết dùng phương tiện đục ngang cây tre mà thoát ra, đã dễ dàng lại ít nhọc công phí sức.

Pháp môn Tịnh Ðộ là lối tu Hoành Xuất Tam Giới, là phương tiện nhiệm mầu để mau thoát luân hồi, chứng lên quả Phật. Trong nhiều kinh luận, chư Phật và chư Tổ đã tuyên dương khen ngợi rộng về môn này. Song tiếc thay những kẻ kém duyên sức tin chưa thấu đáo thì lòng từ bi của các ngài dù trải ra vô lượng vô biên, nhưng kết cuộc cũng không biết làm sao mà cứu vớt được!

HOÀI NGỌC

Hoài Ngọc Pháp sư, họ Cao, người đời Đường, quê ở Đơn Khâu. Ngài giữ giới luật rất tinh nghiêm, mặc áo vải thô, ngài chỉ dùng một bữa ngọ, thường ngồi không nằm. Tuy suốt thông giáo lý, tiết hạnh thanh cao, song Pháp sư vẫn thường sám hối, mỗi ngày niệm Phật năm muôn câu, bình sanh tụng kinh A Di Đà được ba mươi vạn quyển.

Vào ngày mùng chín tháng sáu niên hiệu Thiên Bảo năm đầu, ngài nghe thấy tiếng thanh nhạc thanh thao, giữa hư không vô số tràng phan bảo cái trang nghiêm rực rỡ. Thánh chúng cõi Tây phương hiện thân nhiều như hằng sa. Trong ấy một vị bưng đài bạc đến trước đón rước. Pháp sư nói: “Hoài Ngọc một đời niệm Phật thề chiếm đài vàng, nay sao lại chẳng được như thế?” Thánh chúng cùng âm thanh sắc tượng liền ẩn mất. Từ đó ngài càng gia công tinh tấn.

Một hôm, Pháp sư nghe giữa hư không có tiếng gọi bảo: “Trên đầu đã hiện viên quang, xin khi trì niệm ngồi ngay kiết ấn để chờ Phật đến tiếp dẫn!” Trải ba ngày sau, quang minh lạ hiện ra càng lúc càng tăng, sáng rực cả thất Ngài bảo chúng: “Nếu nghe mùi hương thanh diệu tất báo duyên ta sắp mãn”. Liền nói kệ rằng:

Sạch trong sáng đẹp không trần cấu
Đài sen phẩm thượng là sanh mẫu
Luân chuyển tu hành trải mười kiếp
Sống ở Diêm Phù. nhàm các khổ
Một đời tinh tấn vượt mười kiếp
Ta Bà nhẹ thoát về liên độ.

Pháp sư nói kệ vừa xong, chư tăng nghe mùi hương lạ bát ngát. Tất cả nhìn lên, thấy thánh chúng hiện thân đầy khắp hư không. Đức A Di Đà, Quán Âm, Thế Chí thân sắc từ kim, ngồi tòa kim cương đến tiếp dẫn. Vô số tràng phan bảo cái lại hiện tiếng tiêu cầm mầu nhiệm trổi lên. Một vị thánh bưng đài vàng bay xuống đón rước. Pháp sư mỉm cười, từ giã đại chúng, chắp tay niệm Phật mà qua đời.

Nghe việc nầy, quan Thái thú bản quận là Đoàn Hoài Nhiên, làm bài kệ khen ngợi rằng:

 Thầy ta một niệm lên Sơ Địa
Nhạc đón hai phen, phướn vạn tằng!
Trước thất hòe xưa sà nhánh biếc

Đài vàng máng nặng khiến nên chăng?