Đ a n g t i d l i u . . .

Bài ca tụng nêu tỏ những ý nghĩa ẩn kín của việc Tiền Vũ Túc Vương Giương Nỏ Bắn Sóng Biển

Bài ca tụng nêu tỏ những ý nghĩa ẩn kín của việc Tiền Vũ Túc Vương Giương Nỏ Bắn Sóng Biển

Bài ca tụng nêu tỏ những ý nghĩa ẩn kín của việc Tiền Vũ Túc Vương Giương Nỏ Bắn Sóng Biển

Kính lễ Vũ Túc Vương [1], từ trời thẳm giáng thần, nhóm dân lập quân nghĩa dũng, diệt [Hoàng] Sào, giết [Đổng] Xương[2], công lao đại nghiệp lớn lao, cổ kim ít sánh bằng. Được phong tại Ngô Việt, giúp nước chẳng tai ương. Tính đắp đê ngăn biển, phát triển nghề nông tang. Sóng to, nền khó vững, tế thần cầu giáng phước, lại sai các tinh binh giương nỏ bắn vệt sóng. Sóng rút, nền đê vững; [ruộng nương] chẳng bị [sóng biển làm] hại, nên lợi nhiều. Hễ lòng thành ắt có cảm ứng. Bắn sóng chỉ nhằm hư trương thanh thế, vì sợ tâm quần hùng vẫn muốn đến xâm lăng. Bắn sóng, sóng rút đi, nhờ đấy, bọn cọp sói khiếp sợ. Đời loạn mấy chục năm, [riêng cõi] Ngô Việt ca tụng thái bình, yên ổn. Lo tính cho mọi người, ý niệm thật sâu dài. Vào thời Ngũ Đại[3] cuối đời Đường, không xứ nào yên ổn. Nho và Phật giáo ở Ngô Việt được xiển dương từ đời Thịnh Đường. Lúc ấy, nếu không có xứ Ngô Việt, cương thường đều diệt mất. Bậc trung nghĩa xưa nay, không một ai chẳng tỏ lộ, ban đức sâu xa đầy tràn cho dân, dân cả nước ngưỡng vọng. Gã Vĩnh Thục[4] tánh quái quỷ, báng Phật, giữ môn tường [đạo Nho], dốc chí tu chỉnh hai bộ sử, tính làm kế ngăn ngừa muôn đời. Gạt bỏ hết những lời đệ tử Phật, vu báng, miệt thị vua Ngô Việt, đến nỗi kẻ trung nghĩa ai nấy đều ôm lòng cảm thương. Xem bài biểu Lang Cương[5] của ông ta, đức của cha mẹ thật huy hoàng. Mặc tình riêng tư sửa sử, thật chẳng hổ thẹn quá sức. Cương lãnh của sách Đại Học là “minh Minh Đức, cách vật trí tri”, trong lòng ôm tư dục, khó được kết quả tốt. Kính khuyên các văn sĩ, khiêm tốn, kiềm chế, tự suy lường, chớ kiêu căng, lập dị, phải thuận theo lẽ trời. Khắc niệm cuồng thành thánh, mất niệm thánh thành cuồng. Thông minh khắc chế được ý niệm, lưu tiếng thơm muôn đời.

***

[1] Tiền Vũ Túc Vương tức Ngô Việt Thái Tổ, tên thật là Tiền Liêu (852-932), tự Cụ Mỹ (có sách ghi là Cự Mỹ), người huyện Lâm An, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, người sáng lập ra nước Ngô Việt vào thời Ngũ Đại. Vào cuối đời Đường, do theo tướng quân Đổng Xương dẹp yên loạn Hoàng Sào, Tiền Liêu lãnh chức Trấn Hải Tiết Độ Sứ. Sau đó, Tiền Liêu đánh bại Đổng Xương, chiếm cứ mười ba châu huyện thuộc vùng Lưỡng Chiết (nay là toàn bộ tỉnh Chiết Giang, phần Đông Nam của tỉnh Giang Tô và phần Đông Bắc tỉnh Phước Kiến. Những vùng đất này thuộc lãnh thổ nước Ngô và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, nên khu vực này được gọi chung là Ngô Việt), được phong làm Ngô Việt Vương. Tiền Liêu chú trọng phát triển nông nghiệp vùng Ngô Việt, cho đắp đê trên sông Tiền Đường từ năm 907 đến 932 để ngừa nạn lụt cũng như thiết kế mạng lưới thủy lợi nhằm điều hòa mực sông. Chuyện bắn sóng để buộc thủy triều rút ra xa được tiến hành trong khoảng thời gian này. Nước Ngô Việt tồn tại từ năm 907 đến 978.

[2] Đổng Xương (?-896) là người huyện Lâm An, tỉnh Chiết Giang. Năm Càn Phù thứ hai (875) đời Đường Hy Tông, Vương Trình dấy loạn tại Giang Tây, Đổng Xương tự chiêu mộ nghĩa quân chống lại. Sau khi đánh bại Vương Trình, Đổng Xương được phong là Cảnh Trấn tướng quân. Năm Càn Phù thứ sáu (879), Đổng Xương được sự phù tá của Tiền Liêu, đánh bại loạn quân Hoàng Sào, giữ yên được Hàng Châu, được thăng làm Thứ Sử. Năm 883, Đổng Xương thừa cơ đoạt binh quyền của Tiết Độ Sứ Châu Bảo, trở thành một tay quân phiệt đáng gờm ở vùng Chiết Giang. Năm 886, Đổng Xương đem quân vượt sông Tiền Đường, đánh bại Quan Sát Sứ vùng Chiết Đông là Lưu Hán Hoằng, chiếm trọn Việt Châu. Do đút lót với triều đình, họ Đổng được phong làm Thái Úy, Đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự, tước Lũng Tây Quận Vương. Năm Càn Ninh thứ hai (895) đời Đường Chiêu Tông, do triều đình không phong cho họ Đổng làm vua vùng Ngô Việt, y bèn làm phản, tự xưng là hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Việt La Bình Quốc, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Đổng Xương phong Tiền Liêu làm Chỉ Huy Sứ, không ngờ Tiền Liêu khuyên họ Đổng nên bỏ đế hiệu. Đổng Xương không nghe liền bị Tiền Liêu trở giáo làm phản đánh bại, rồi trúng kế giả chiêu hàng của Tiền Liêu, bị giết chết tại đô thành Việt Châu.

[3] Cuối đời Đường, chính quyền trung ương suy vong, các tướng lãnh quân phiệt nổi lên cát cứ, tự lập quốc xưng vương. Năm vương triều kế tục nhà Đường trong thời gian trước khi Triệu Khuông Dẫn thống nhất Trung Hoa lập ra nhà Tống, được gọi chung là Ngũ Đại, gồm: Hậu Lương (907-923), Hậu Đường (923-936) Hậu Tấn (936-947), Hậu Hán (947-951) và Hậu Châu (951-960). Thịnh Đường là thời gian Đường thi được sáng tác phong phú, tuyệt diệu nhất trong đời Đường, tức khoảng từ niên hiệu Khai Nguyên cho đến hết niên hiệu Đại Lịch (713-779), chứ không phải là thời gian nhà Đường hưng thịnh nhất. Trong thời Thịnh Đường, tuy văn chương thi phú rất hưng thịnh, chính sự lại rất rối ren, điển hình là loạn An Lộc Sơn xảy ra vào cuối niên hiệu Khai Nguyên của Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng).

[4] Vĩnh Thục là tên tự của Âu Dương Tu. Ông này rất nổi tiếng về những bài văn đả kích, xuyên tạc Phật giáo. Hai bộ Tân Đường Thư và Tân Ngũ Đại Sử của ông ta có rất nhiều câu miệt thị những vua chúa tôn sùng Phật giáo là mê tín, hủ bại, giả nhân giả nghĩa, cũng như thẳng tay gạt bỏ những nhân vật và sự kiện thuộc giới Phật giáo đã chép trong hai bộ Cựu Đường Thư và Tân Ngũ Đại Sử.

[5] Bài Lang Cương Biểu do Âu Dương Tu viết vào năm sáu mươi bốn tuổi để truy điệu cha, lời lẽ rất cảm động, hết lời đề cao cha mẹ như những con người nhân đức, ưa làm lành.