A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN KINH
Tác giả: Tôn giả Pháp Thắng, Tôn giả Ưu-Ba-Phiến-Đa giải thích
Hán dịch: Tam Tạng Na Liên Đề Da Xá.Đời Cao Tề
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 5

Phẩm 7: ĐỊNH (Phần cuối)

Đã nói tự tánh của công đức, cũng đã nói hữu lậu, vô lậu. Nay sẽ nói việc thành tựu công đức.

Phải biết chưa lìa dục

Thành tựu vị tương ưng

Lìa dưới, chưa đến (địa) trên

Thành tựu các định tịnh.

Phải biết chưa lìa dục, thành tựu vị tương ưng, nghĩa là hoặc người, hoặc địa này chưa lìa dục thì thành tựu vị tương ưng của địa ấy. Lìa địa dưới, chưa đến địa trên, chỉ là thành tựu định tịnh, là lìa dục cõi Dục, chưa sinh lên cõi trời Phạm thế trong Nhị thiền v.v… Lìa dục hay không lìa dục, chỉ là thành tựu Sơ thiền thanh tịnh và công đức thiện khác của địa ấy.

Trụ địa trên, phải biết

Thành tựu vô lậu dưới

Phương tiện sinh công đức

Phải biết không lìa dục.

Trụ địa trên, phải biết là thành tựu vô lậu của địa dưới: Nghĩa là bậc Thánh sinh lên cõi trời Phạm Thế, thành tựu Sơ thiền vô lậu và vô lậu khác. Thần thông tam muội và các công đức như trí, v.v… công đức hữu lậu của địa đó, ràng buộc chỗ sinh. Vô lậu cắt đứt sự buộc ràng, nên lìa chỗ sinh, Xả hữu lậu, không phải vô lậu. Như vậy, tất cả địa đều tùy thuộc nghĩa mà nói.

Phương tiện sinh ra công đức, phải biết không lìa dục, nghĩa là đã nói lìa dục của địa dưới, thành tựu các công đức thì phải biết nói được thành tựu là không hiện ra ở trước. Phương tiện hiện ra ở trước nghĩa là địa đó không lìa dục. Phương tiện được: Là như thiên nhãn, thiên nhĩ, vì chúng là vô ký, không thuộc về tương ưng vị tịnh vô lậu. Thế nên, lúc được ba thứ thiền kia, không được định Diệt tận. Định Diệt tận là phương tiện. Định đó được hai mươi ba thứ chánh thọ hiện ở trước. Tám vị tương ưng với tám tịnh, bảy vô lậu.

Hỏi: Trong mỗi loại kia có bao nhiêu nhân?

Đáp:

Chổ gọi định vô lậu

Mỗi định có bảy nhân

Thiền tịnh, vị tương ưng

Nên biết có một nhân.

Cái gọi là định vô lậu, mỗi định đều có bảy nhân: Mỗi vô lậu đều có bảy thứ. Trong vô lậu, tự phân ra tự địa của nhân trong nhân, nghĩa là cũng là nhân tương ưng, cộng sinh. Thiền tịnh vị tương ưng, phải biết có một nhân, nghĩa là vị tương ưng với Sơ thiền, là nhân của Sơ thiền vị tương ưng chứ không phải nhân khác. Vì nhân của Sơ thiền, không tương tợ chứ không phải là nhân cấu uế của địa khác, hành trái nghịch. Không phải hành cấu uế trái nghịch, cũng không phải là phần của mình. Như vậy, tịnh Sơ thiền là nhân của tịnh Sơ thiền, không phải cấu uế, không phải vô lậu. Vì sao? Vì không có tương tợ, không phải nhân tịnh của địa khác. Vì quả báo của địa mình và vì sự ràng buộc của địa mình nên tất cả như vậy.

Hỏi: Theo trình tự mỗi thiền vô lậu sinh ra bao nhiêu thứ?

Đáp:

Thiền vô lậu Vô Sắc

Ngược, xuôi vượt thứ lớp

Thứ lớp sinh sáu thứ

Phải biết cho đến mười.

Sơ thiền vô lậu, theo trình tự sinh ra sáu thứ. Địa mình tịnh và vô lậu. Nhị thiền, Tam thiền như vậy, siêu việt chánh thọ như vậy. Vô sở hữu xứ vô lậu, theo trình tự sinh ra bảy thứ: địa mình hai, địa dưới bốn, địa trên một. Nhị thiền vô lậu, theo trình tự sinh ra tám thứ: địa mình hai, địa Sơ thiền hai, địa trên bốn. Vô biên thức xứ Vô lậu, theo trình tự phát sinh chín thứ: Địa mình hai, địa dưới bốn, địa trên ba. Vô lậu khác, theo trình tự sinh mười thứ: Địa mình hai, địa dưới bốn, địa trên bốn.

Hoặc sáu đến mười một

Là tịnh thứ lớp sinh

Từ hai cho đến mười

Phải biết nói có vị.

Hoặc sáu đến mười một, là tịnh thứ lớp sinh: Nghĩa là Phi tưởng

Phi phi tưởng xứ tịnh theo lớp phát sinh sáu thứ: Địa mình vị tương ưng và tịnh, bốn địa dưới là tịnh và vô lậu chứ không phải Vị tương ưng vì đã lìa dục.

Sơ thiền tịnh theo trình tự sinh bảy: Địa mình ba, địa trên bốn là tịnh và vô lậu.

Bất dụng xứ, tịnh theo trình tự sinh tám: Địa mình ba, địa trên một, địa dưới bốn.

Nhị thiền tịnh theo trình tự sinh chín. Vô biên thức xứ theo trình tự sinh mười, thiền khác sinh mười một. Tất cả là như vậy.

Phải biết, lúc chánh thọ mới nói như vậy, chứ không phải lúc chết. Thế nên, trong thiền kia, vị tương ưng với địa trên, địa dưới không gồm nhiếp, không sinh mà được tịnh theo trình tự vị tương ưng với địa trên, địa dưới sinh ra.

Từ hai cho đến mười, phải biết nói có vị, nghĩa là Sơ thiền vị tương ưng, theo trình tự sinh hai: Vị tương ưng và tịnh của địa mình vì chúng không trái nhau. Vị tương ưng với Hữu đảnh, vị tương ưng theo trình tự sinh ra mười, lúc chánh thọ ba, địa mình hai và địa dưới tịnh, vì phiền não của địa mình đã gây phiền não, dựa vào địa tịnh của Bất dụng xứ để tự cứu hộ.

Tất cả địa như vậy, địa dưới tịnh có ba và lúc chết địa trên lui xuống, địa dưới, tất cả vị là vị tương ưng.

Hỏi: Trước đã nói chánh thọ, về phiền não nay sẽ nói chăng?

Đáp: Theo trình tự của tịnh, chánh thọ. phiền não là nói vị tương ưng và thọ phát sinh phiền não. Vì sao? Vì sức phiền não sinh, không phải là sức của định. Cho nên trong đây nói tất cả phiền não thanh tịnh, chắc chắn là do sức của định, nên nói chung chánh thọ phiền não.

Hỏi: Trong mỗi một địa duyên với bao nhiêu thứ?

Đáp:

Thiền tịnh và vô lậu

Chuyển trong tất cả địa

Pháp hữu lậu địa mình

Vị tương ưng sở duyên.

Thiền tịnh và vô lậu, chuyển trong tất cả địa: Nghĩa là thiền tịnh và vô lậu duyên với hết thảy địa, tất cả việc.

Pháp hữu lậu của địa mình, vị tương ưng sở duyên: Nghĩa là thiền có vị tương ưng, duyên với vị tương ưng của địa mình và tịnh, không phải vô lậu. Vì sao? Vì chẳng phải duyên của vô lậu. Có ái cũng không phải ái địa khác.

Vô Sắc thì không hành

Đối với hữu lậu dưới

Hoặc thiện căn bản kia

Cấu uế như thiền vị.

Cõi Vô sắc thì không hiện hành đối với sự hữu lậu ở địa dưới mình. Nghĩa là chánh thọ của cõi Vô sắc không duyên với pháp hữu lậu của địa dưới. Vì sao? Vì địa dưới không vắng lặng, cũng duyên với vô lậu của địa dưới, như phần của tỷ trí.

Hỏi: Tất cả hữu lậu đều không duyên với địa dưới chăng?

Đáp: Không đúng, vì nếu căn bản của hữu lậu đó là thiện, nếu căn bản Vô Sắc là tịnh, không có vô lậu thì pháp đó duyên với địa mình và địa trên, không duyên với thiền vị lai của địa dưới. Nếu duyên với địa dưới thì địa dưới đó phải có tưởng thô sơ, nhàm chán, lìa bỏ cấu uế. Như thiền vị, có nghĩa như nói vị tương ưng với thiền. Sự cấu uế của Vô Sắc cũng như vậy.

Nếu cõi Sắc có dư

Công đức như Vô lượng v.v…

Cảnh giới cõi Dục kia

Là lời Thế Tôn nói.

Nếu công đức cõi Sắc: Nghĩa là bốn Vô lượng, Nhất thiết xứ v.v…

pháp đó duyên với cõi Dục. Vì sao? Trừ Thần thông, gọi là Vô lượng v.v…? Vì năm thần thông kia duyên với cõi Dục, cõi Sắc.

Hỏi: Như trước nói, trong huân Thiền tu trí, thế nào gọi là huân?

Đáp:

Nếu năng huân các thiền

Thì căn cứ Tứ thiền

Ái ba địa đã hết

Tịnh cư chỉ Quảng Quả.

Nếu năng huân các thiền, thì căn cứ vào Tứ thiền, nghĩa là được Tứ thiền là được năng huân các Thiền chứkhông phải thiền khác. Người đó, thường nhập Tứ thiền vô lậu, khởi hiện vô lậu, thường nhập thiền hữu lậu, rồi trở lại nhập vô lậu, nhập hữu lậu, dần lược cho đến trụ trong hai sát-na. Với phương tiện như vậy, hoặc một tâm vô lậu, hoặc một tâm hữu lậu, thời gian một niệm hữu lậu, một niệm vô lậu này, hai niệm một hữu lậu, một vô lậu là nói thành tựu.

Hỏi: Xứ nào được quả này?

Hỏi: Trên cõi trời Tịnh cư. Vì sao? Vì ái của ba địa đã hết, Tịnh cư chỉ có Quảng Quả. Được Tứ thiền, lìa ái của ba địa, cho nên người đó được Tứ thiền. Phàm phu trong Quảng Quả, Tịnh Cư cùng huân tu thiền, không tu chung với phàm phu, sẽ có năm thứ: Hạ, trung, thượng, thượng trung, thượng thượng. Như vậy năm thứ kia, đó là trời Bất Quảng, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện và trời Sắc Cứu Cánh, thế nên, được quả trong các xứ đó.

Hỏi: Như trước nói bảy thứ nguyện trí, trí này thế nào?

Đáp:

Vô trước, Bất động pháp

Được tất cả chánh thọ

Sức trí tam muội kia

Hay khởi đảnh Tứ thiền.

Phiền não của người kia, không thể ép ngặt, vì tâm nối tiếp nhau, với sức của tất cả chánh thọ. Vì tâm nối tiếp nhau sinh khởi, nên được ba công đức, đó là nguyện trí, vô tránh và vô ngại.

Nguyện trí: Là nếu muốn biết quá khứ, vị lai, hiện tại và vô vi, thì hành giạ lúc đó trụ chánh thọ của Tứ thiền, có khả năng biết. Vô tránh là không muốn dấy lên phiền não tranh cãi tiếp tục đối với người khác, người ấy ở trong sự tiếp nối của người khác không khởi lên phiền não tranh chấp. Vô ngại, như đã nói ở trước.

Hỏi: Nguyện trí thuộc về địa nào?

Đáp:

Ba địa có Nguyện trí

Vô tránh trong năm địa

Pháp Từ biện hai địa

Hai biện nương chín địa.

Ba địa có Nguyện trí: Trong Sơ thiền, Tứ thiền và cõi Dục, quyết định được Nguyện trí trong Tứ thiền. Cõi Dục chỉ có trong loài người, mới có khả năng khởi lên tâm lời nói tương ưng với Phạm thế, cõi Dục. Vì xứ đó có dấy khởi tâm và lời nói cho nên nói là ba địa. Trong năm địa vô tránh: Bốn thiền căn bản và cõi Dục. Vô tránh này nhất định được trong bốn thiền và trong loài người cõi Dục có khả năng phát sinh Vô tránh này, chứ không phải xứ khác.

Pháp Từ biện hai địa: Pháp biện ở Phạm thế, cõi Dục: Năm địa này, bốn thiền căn bản và cõi Dục, đây chỉ là danh duyên với ngôn từ, theo danh mà chuyển. Cho nên khởi việc nói năng. Nơi có giác quán, nói là Từ biện tài ở cõi Dục và Phạm thế. Vì sao? Vì duyên với nói năng.

Hai biện tài nương chín địa, là Nghĩa biện tài và Nhạo thuyết biện

tài, trong cõi Dục bốn thiền và bốn định của Vô sắc. Thiền vị lai, trung gian, căn bản thuộc về Sơ thiền.

Hỏi: Được chánh thọ này là thế nào?

Đáp:

Lìa dục và thọ sinh

Mà được thiền thanh tịnh

Cấu uế lui và sinh

Vô lậu chỉ lìa dục.

Lìa dục và thọ sinh mà được thiền tịnh, nghĩa là Sơ thiền thanh tịnh có hai lúc được: Được lúc lìa dục và lúc từ địa trên mất, sinh lên Phạm thế, xả bỏ địa đã qua. Tất cả như vậy cấu uế thoái lui và sinh ra, nghĩa là thiền vị tương ưng, thối lui địa trên, được địa dưới, hoặc trong Nhị thiền, hoặc triền ràng buộc của cõi Dục, hoặc triền ràng buộc của trời Phạm thế làm cho thối lui, lúc ấy sẽ được Sơ thiền vị tương ưng.

Vị sinh đắc là Như địa trên mất, sinh cõi Dục và Phạm thế, bấy giờ sẽ được vị tương ưng với Sơ thiền tất cả như vậy. Vô lậu chỉ có lìa dục, nghĩa là thiền vô lậu do lìa dục mà được, bậc Thánh lìa dục cõi Dục, bậc Thánh đó đã được Sơ thiền vô lậu, xưa chưa được, nên nay được, tất cả đều như vậy.

Hỏi: Công đức này là gì? Có khả năng dứt trừ phiền não hay không?

Đáp:

Vô lậu trừ phiền não

Chánh thọ, trung gian ấy

Trung gian, tất cả định

Tương ưng với xả căn.

Vô lậu trừ phiền não: Nghĩa là thiền vô lậu Vô Sắc dứt trừ phiền não, chứ không phải thế tục.

Hỏi: Vì sao thế tục không dứt phiền não?

Đáp: Vì đồng một ràng buộc. Thế tục có chung một sự ràng buộc của phiền não, nên không thể tự cắt đứt phiền não của địa mình. Như người bị trói chặt, thì không thể tự cởi trói được, hoặc đối trị nó và dứt phiền não trong đó sinh.

Hỏi: Tất cả thế tục đều không thể dứt trừ phiền não chăng? Đáp: Có thế tục có thể dứt trừ phiền não.

Hỏi: Là gì?

Đáp: là chánh thọ, trung gian. Nghĩa là thiền vị lai vẫn chưa được thiền căn bản, nếu vận dụng phương tiện, được lìa dục của địa dưới thì Sơ thiền vị lai là hữu lậu, vô lậu. Còn ngoài ra Thiền vị lai chỉ hoàn toàn hữu lậu. Vì thiền căn bản và chánh thọ của Vô sắc, nên nói thế tục không dứt phiền não.

Hỏi: Chỗ nào là cận phần thiền?

Đáp: Trung gian của tất cả định tương ưng với xả căn, trong tất cả chánh thọ tương ưng với xả căn, vì chưa được điều mình mong cầu, nên không sinh hỷ.

Hỏi: Mặc dù nói thần thông trí chứng của cảnh giới thần túc, nhưng chưa nói là có bao nhiêu tâm biến hóa, nay sẽ nói chăng?

Đáp: Mười bốn quả Sơ thiền của cõi Dục. Địa Sơ thiền, quả Sơ thiền. Quả của Nhị thiền cõi Dục. Quả của Sơ Thiền địa Nhị thiền, quả của Nhị thiền địa Nhị thiền, cho đến thiền thứ tư cũng như vậy.

Hỏi: Thiền kia thành tựu cái gì?

Đáp:

Tâm biến hóa địa dưới

Thành tựu giống quả đó

Tùy tương ưng thức kia,

Thành tựu địa trên kia.

Tâm biến hóa địa dưới, thành tựu hạt giống của quả đó: Nghĩa là Nếu người nào thành tựu thiền thì người đó sẽ thành tựu quả của thiền ấy, với tâm biến hóa của địa dưới. Như được Sơ thiền, là địa của Sơ thiền, quả của Sơ thiền trong cõi Dục. Thành tựu tất cả như vậy, cần phải biết.

Hỏi: Trước kia ông đã nói Nhị thiền v.v… không có năm thức thân. Nếu sinh lên cõi trên, nếu muốn thấy, nghe, thì người đó làm sao thấy, nghe?

Đáp: Thức của Phạm Thế khởi hiện ra trước.

Hỏi: Vì sao ở địa trên không có thức này?

Đáp: Vì không có giác, quán.

Hỏi: Đến bao giờ thì thức kia mới thành tựu?

Đáp: Tùy thuộc vào pháp tương ưng với thức đó, địa trên của thức đó được thành tựu, cho đến pháp tương ưng với thức kia bấy giờ mới thành tựu, hoặc nhãn thức, hoặc nhĩ thức, hoặc thân thức, đều tùy thuộc vào sự khởi hiện trước mặt và lúc ấy mới thành tựu. Đến lúc thức này tắt mất, gọi là xả. Vì sao? Vì lệ thuộc ở căn.

 

Phẩm 8: TU ĐA LA (Phần 1)

Lời của bậc Nhất thiết trí nói ra nghĩa thật sâu xa, mầu nhiệm. Còn lại bao nhiêu nghĩa đó, nay ta sẽ nói. Lời Nhất thiết trí nói

Y nghĩa rất sâu xa

Nay tôi nói ít phần

Tu-đa-la, hãy nghe.

Hỏi: Như Phật nói ba cõi, ba cõi đó là gì?

Đáp:

Cõi Dục, mười chỗ trú

Cõi Sắc nói mười bảy

Cõi Vô Sắc có bốn

Quyết định chỉ hữu ấy.

Cõi Dục mười chỗ trú đó là: Địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, người và sáu tầng trời cõi Dục. Chủng loại của mười chỗ cư trú này, phải biết gọi là cõi Dục. Chúng sinh này, có tương dục chuyển biến, hoặc chỗ này có đầy đủ tất cả ái dục tương ưng nên gọi là cõi Dục.

Cõi Sắc nói mười bảy: Phạm Thân, Phạm Phú Lâu, Thiểu Quang, Vô Lượng Quang, Quang Diệu, Thiểu tịnh, Vô Lượng tịnh, Biến tịnh, Vô Ấm, Phước Sinh, Đại Quả, Chúng Sinh Vô Tưởng, Bất Quảng, Bất Nhiệt, Thiện Kiến, Thiện Hiện và Sắc Cứu Cánh. Mười bảy chỗ cư trú này, được gọi là cõi Sắc. Tưởng dục của chúng sinh cư trú ở đây, đều không chuyển. Cõi Sắc rộng lớn đó, không có tướng nam, nữ, nên nói là cõi Sắc.

Cõi Vô Sắc có bốn, nghĩa là cõi Vô Sắc có bốn nơi cư trú: Vô biên hư không xứ, Vô biên thức xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Trong chỗ cư trú này, sắc không sinh. Vì sao? Vì lìa sắc dục. Lại vì theo trình tự diệt, nếu trong Vô Sắc sinh ra sắc thì sẽ không có sự diệt mất theo trình tự. Nhưng vẫn có trình tự tắt mất, nếu không sẽ có lỗi sinh dục trong cõi Sắc. Vì vậy, trong Vô Sắc, không sinh ra sắc, nên nói là Vô Sắc.

Hỏi: Như Phật nói ba hữu: Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu. Hữu này là thế nào?

Đáp: Quyết định chỉ hữu ấy. Trước đã nói về cõi, ở đây chính là hữu.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói bảy thức trụ, thức đó ra sao?

Đáp:

Nẻo thiện là cõi Dục

Và ba địa cõi Sắc

Vô Sắc cũng ba địa

Phải biết là thức trụ.

Trong số nẻo thiện của cõi Dục, đó là Trời, người và ba địa trước của cõi Sắc, ba địa trước của cõi Vô Sắc; bảy địa này được gọi là chỗ thức trụ.

Hỏi: Vì sao ba đường ác và Hữu đảnh của thiền thứ tư không gọi là Thức trụ?

Đáp: Nếu địa, là do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn, nếu không đoạn mà sinh thức thì địa đó gọi là thức trụ. Trong ba đường ác thì không gì không là sự đoạn. Chúng sinh vô tưởng trong thiền thứ tư và trời Tịnh Cư thì không có việc do thấy mà đoạn. Cho nên không thuộc thiền thứ tư. Hữu đảnh hoàn toàn là hữu lậu, nếu thức ưa trụ, thì mới gọi là thức trụ. Thức không ưa trụ trong ba đường ác. Vì sao? Vì bị khổ bức bách. Vì trời Tịnh cư hướng về Niết-bàn, nên thức không ưa trụ. Chúng sinh Vô Tưởng cũng hoàn toàn không có tâm, nên không thuộc về thiền thứ tư. Hành của Hữu đảnh không lanh lợi, nhạy bén, nên cũng không thuộc Hữu đảnh. Ba thứ chúng sinh hoặc ưa thú vui cảnh giới, ưa thích tư tưởng vui sướng. Trong số đó, chúng sinh của cảnh giới vui kia và các vị trời cõi Dục. Ưa thích tư tưởng yên vui của địa Tam thiền, ba Vô Sắc.

Vì vậy, nên các trời đó được gọi là thức trụ.

Hỏi: Nơi cư ngụ của chín loại chúng sinh là thế nào?

Đáp:

Hữu đảnh và Vô tưởng

Là nói chúng sinh ở

Bốn thứ ấm hữu lậu

Nên biết chổ thức trụ.

Hữu đảnh và Vô tưởng là nói nơi cư trú của chúng sinh, nghĩa là trước đây đã nói bảy thức trụ và Hữu đảnh trời Vô tưởng, ở đây là nói chỗ cư trú của chín loài chúng sinh.

Hỏi: Vì sao ngoài chúng sinh ở đường ác và cõi trời Vô tưởng, thì Tứ thiền không gọi là nơi chúng sinh cư trú?

Đáp: Vì tùy theo nơi nào vui, thì ở mãi không muốn đi, chỗ đó gọi là nơi chúng sinh cư trú. Trong đường ác, không có hai chỗ cư trú này.

Ở cõi trời Quảng Quả, tuy ưa muốn trụ, nhưng cũng muốn bỏ đi.

Hỏi: Như Phật nói bốn thức trụ, thức trụ đó là thế nào?

Đáp: Bốn thứ ấm hữu lậu, phải biết đó là chỗ ở của thức hữu lậu.

Sắc, thọ, tưởng, hành, hữu lậu, gọi là ấm, được gọi là thức trụ. Vì chấp nhận cùng có thức sanh, trụ vào chấp trước, nuôi lớn, nên gọi là thức trụ. Chính vì vậy, nên vô lậu không phải thức trụ. Vì vô lậu làm hư hoại hữu, nên nó cũng không giữ lấy trụ xứ của thức hòa hợp.

Hỏi: Vì sao thức không phải là nơi cư trú của thức?

Đáp: Vì là nhân. Do đó không thành. Như nói đạo của vua, thì vua không phải là đạo. Không có câu sinh thức của phần trụ, gọi là trụ xứ.

Ba hòa hợp gọi là trụ xứ, thức này không phải như vậy.

Hỏi: Không có thức của người khác, hiện tiền duyên chăng?

Đáp: Vì tự hòa hợp không sinh, nên thức khác cũng không thành tựu; thức kia, cũng là số chúng sinh, không phải số chúng sinh.

Hỏi: Thế nào là việc làm ở trụ xứ của thức bên ngoài?

Đáp: Hòa hợp câu sinh, phần nhiều nương duyên mà trụ nên không có lỗi. Thức kia cũng duyên trụ, địa, giới thuộc phần của thức ấy, không phải địa, giới thuộc phần người khác.

Hỏi: Như đức Thế Tôn nói mười hai duyên khởi, duyên khởi đó có tướng gì?

Đáp:

Các phiền não và nghiệp

Có việc thứ lớp sinh

Nên biết là hữu chi

Chúng sinh tất cả sinh.

Vô minh, ái, thủ là phiền não, hành và hữu là nghiệp, chi khác là việc. Như vậy, sự, nghiệp, phiền não này, trong đây sanh theo trình tự khởi, nên gọi là chi duyên khởi. Phiền não trong chi đó, dựa vào sự việc, phiền não tác động nghiệp, nghiệp tác động đến sự việc. Như vậy, không có vô thỉ mà có luân chuyển.

Các phần kia kiến lập

Là chúng sinh thọ sinh

Quá khứ và vị lai

Trung gian nên biết tám.

Các phần kia kiến lập, là chúng sinh thọ sinh: Nghĩa là sự khác nhau của phần này, gọi là mười hai chi.

Hỏi: Mười hai chi này là thế nào?

Đáp: Quá khứ, vị lai, trung gian, phải biết là có tám. Trong đó, vô minh là phiền não quá khứ, hành là nghiệp quá khứ, thức là tâm nối nhau và bà con, danh sắc là đã thọ sinh nối tiếp nhau, chuyển biến liên tục không dứt. Bốn chủng loại sắc căn chưa sinh, sáu nhập chưa đủ, đó gọi là danh sắc.

Sáu nhập là đã sinh bốn thứ sắc căn, nhưng chưa có thể, vì sự tiếp xúc mà làm nơi nương dựa, lúc này gọi là sáu nhập.

Xúc: Các căn này đã có khả năng, vì sự tiếp xúc mà làm nơi nương dựa, chưa có thể phân biệt khổ, vui, không thể phân biệt lợi, suy, lúc này gọi là xúc.

Thọ là năng phân biệt nhân khổ, vui, lợi suy, biết phân biệt khác nhau về cái ăn, sự tiếp nhận, không dấy lên sự dâm dục, lúc này gọi là thọ.

Ái là đối với mọi ham muốn, ái tìm cầu sự ham muốn, không thể mong cầu sự phân biệt, lúc này gọi là ái.

Thủ là chủ thể chấp có phân biệt.

Hữu là đây đối với cảnh giới kia, tìm đi tới một cách nhanh chóng, sinh nhiều các hữu, thú sinh đương lai, lúc này gọi là hữu.

Sinh là thứ lớp kia chết là sự ràng buộc nối nhau, lúc này gọi là sinh.

Già chết: Nghĩa là tiếp theo là danh sắc, thọ, v.v…, đó gọi là sự già, chết.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói sáu giới, sáu giới này là thế nào?

Đáp:

Cái gọi bốn đại chủng

Và các thức hữu lậu

Cũng sắc trung gian thấy

Giới này là gốc sinh.

Cái gọi là bốn đại chủng và các thức hữu lậu, cũng là sắc trung gian thấy nghĩa là bốn đại và năm thức thân, ý thức hữu lậu. Nếu sắc là số hư không mà mắt đã nhận lấy, đấy gọi là sáu giới.

Hỏi: Vì sao trong mười tám giới chỉ nói sáu giới?

Đáp: Vì giới này được gọi là gốc sinh. Pháp kia là gốc của sự sinh, tưởng trượng phu trong đây do đất thành lập, nước hòa hợp theo tánh chất thấm nhuần, ngâm tẩm, lửa nấu chín, tẩy trừ mùi thối rữa, gió lùa vào lỗ hổng trong hư không, ăn uống vào ra tương ưng với sức của thức, kiến lập được gọi là tưởng của trượng phu. Thế nên, đây gọi là tưởng của giới. Vì sao? Vì có tánh của sự sinh. Như Thế Tôn nói: Do nhân duyên sáu giới mà nhập thai mẹ, câu trong kinh nói như vậy. Các đại chủng cũng sinh, nên gọi là Đại sinh giống như Đại; như chúng sinh giống như Đại sinh.

Trong đây đất là tướng cứng chắc, nước là tướng ẩm ướt, lửa là tướng nóng, gió là tướng chao động nhẹ nhàng. Biên hạn của sắc, tiếp nhận tướng sắc, gọi là giới hư không. Sắc là việc khác với suy nghĩ.

Thức là tướng hiểu rõ.

Hỏi: Thánh đế có tướng gì?

Đáp:

Quả tương tợ các hành

Hữu lậu gọi là khổ

Nhân tương tự là tập

Diệt đế các khổ dứt.

Quả tương tợ các hành, hữu lậu gọi là khổ, nghĩa là tất cả hành hữu lậu đều từ nhân sinh ra tướng bức bách, khổ não, nên gọi là khổ. Nhân tương tợ tập này: Nghĩa là tất cả hành hữu lậu đều tương tự với nhân của cái khác, nên do đó gọi là khổ, tập. Như một hạt lúa, đối chiếu trước sau mà nói là nhân cũng là quả.

Như vậy, quán các hành hữu lậu đã sinh, sẽ sinh thì cũng gọi là khổ, gọi là tập.

Diệt đế, các khổ đều dứt, nghĩa là tất cả hành hữu lậu, đều hoàn toàn dứt hết, nên nói là diệt đế.

Nếu các hành vô lậu

Đây gọi là đạo đế

Vì hai thứ danh kia

Từ thô thứ lớp thấy.

Nếu các hành vô lậu, ấy gọi là đạo đế, nghĩa là tất cả hành vô lậu đều gọi là đạo đế, vì tất cả khổ đã hết, nên gọi là Đạo.

Hỏi: Vì sao gọi là đế?

Đáp: Vì hai thứ danh kia, vì hai việc nên gọi là đế, đó là tự tướng không giả dối và nhận thấy sự sinh kia là không điên đảo, là chánh giác.

Hỏi: Vì sao Hư không, phi số diệt, không thuộc về đế?

Đáp: Vì không phải nhân, quả. Vì quán sát dứt hết khổ nên quán sát Thánh đế. Hư không phi số diệt không phải khổ, nhân khổ, không phải phương tiện lìa khổ, nhưng vì muốn dứt hết khổ cho nên quán sát. Ví như bệnh, nguyên nhân gây bệnh, thuốc chữa bệnh thì bệnh lành, không giống như phải quán sát bệnh.

Hỏi: Thánh đế có nghĩa gì?

Đáp: Thánh nghĩa là đã giác ngộ như thật, rồi chỉ bày cho kẻ khác, nên gọi là Thánh đế. Tướng bức bách trong đây là khổ, tướng sinh là tập, tướng vắng lặng là diệt, tướng ra khỏi là đạo.

Hỏi: Như thấy nhân có quả, vì sao Đức Phật trước nói quả, sau nói nhân?

Đáp: Theo trình tự thấy từ thô. Như vậy, chỉ vì thấy không gián đoạn, v.v… nên Đức Thế Tôn trước nói hành của quả là trước bị khổ không gián đoạn v.v… sau mới nói nhân khổ, trước diệt, sau đạo. Vì sao? Vì trước biết quả rồi, sau mới tu đoạn nhân. Và trí phát sinh hành giả kia biết rõ tự tánh khổ không gián đoạn, về sau, vì dứt nhân khổ, nên trí quyết định phát sinh hiểu biết, đó là nhân của tai hại, lỗi lầm. Như vậy, hành giả kia, trước nhận thấy tướng diệt. Lúc đó, vì muốn chứng diệt, nên tu phương tiện phát sinh trí quyết định, nên trước nói quả. Như thế, trước thấy thô, sau thấy vi tế, khổ thì thô, tập thì vi tế, vì đặt ra sự tìm tòi, mong cầu, vì tin tưởng nên diệt thô còn đạo tinh tế. Thế nên, trước nói diệt, sau nói đạo. Như Tu-đa-la nói: Tỳ-kheo! Nên vì nói diệt là chổ hướng đến. Vì diệt nên nói đạo, như thế, v.v… Cho nên, trước phải tìm diệt, sau mới tu đạo. Như đi đến một ngôi thành, thì trước phải tìm cho ra con đường, sau đó mới bước vào. Tất cả đều tin tưởng ở diệt. mà không tin tưởng ở đạo, là vì muốn được hiểu biết dễ dàng, nên theo trình tự từ thô mà nói.

Hỏi: Thế Tôn nói bốn quả Sa-môn, vậy quả Sa-môn có bao nhiêu việc?

Đáp:

Việc Thánh quả có sáu

Tối thắng ở chín địa

Thứ ba ở sáu địa

Hai thứ dựa vị lai.

Việc của quả Thánh có sáu, nghĩa là có sáu việc nói về quả của Sa-môn, đó là năm ấm vô lậu và số duyên diệt.

Hỏi: Quả Sa-môn nghĩa là gì?

Đáp: Thánh đạo nói Sa-môn, vì Sa-môn kia tinh tiến thành tựu, nên gọi là quả Sa-môn.

Hỏi: Đạo thế tục cũng do trượng phu tinh tiến mà được. Vậy trượng phu đó, có được quả Sa-môn hay chăng?

Đáp: Chỉ thấy được sự khác nhau của quả Thánh đạo.

Hỏi: Quả này là quả gì? Thuộc về địa nào?

Đáp: Tối thắng là ở chín địa, quả A-la-hán thuộc về chín địa: Thiền vị lai, thiền trung gian, bốn thiền và ba Vô sắc. Thứ ba ở sáu địa, là quả A-na-hàm thuộc về sáu địa ngoại trừ Vô sắc. Hai loại nương vào vị lai. là quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm thuộc về vị lai. Vì sao? Vì chưa lìa dục.

Hỏi: Dấu vết có tướng gì?

Đáp:

Các pháp tùy tín hành

Căn độn, không phiền não

Các pháp tùy pháp hành

Tướng nhanh không phiền não.

Các pháp tùy tín hành, với căn cơ chậm lụt, không có phiền não, nghĩa là tự thân của người tùy tín hành là pháp vô lậu, thuộc về phần yếu kém. Nên biết chậm lụt thuộc tín hành kể cả tín giải thoát, thời giải thoát cũng thuộc về căn cơ yếu kém. Các pháp tùy pháp hành với tướng nhanh nhẹn không có phiền não. Vì tự thân của tùy pháp hành, là thuộc về pháp căn cơ nhạy bén, phải biết tướng nhanh nhẹn, thuộc về căn đó, kể cả kiến đáo và pháp bất thời giải thoát cũng thuộc về. Vì sao? Vì căn cơ nhạy bén.

Trong thiền căn bản kia

Phải biết là đạo vui

Vì ít và khó được

Biết địa khác nói khổ.

Phải biết là đạo vui, trong thiền căn bản kia, nghĩa là bốn thiền căn bản, nếu là căn cơ yếu kém và pháp căn cơ nhạy bén, phải biết đó là dấu vết của niềm vui. Vì là đạo đạt được chỉ, quán, v.v… nên vui hiện hành.

Vì ít và khó được, phải biết địa khác gọi là khổ, nghĩa là địa khác ấy là địa vô lậu, gồm nhiếp đạo, gọi là khổ, vì ít. Thiền vị lai, trung gian kia, ít đạo chỉ, quán ít vô lậu trong cõi Vô Sắc. Thiền vị lai khó được. Vì sao? Vì từ trước đến nay, thế gian chưa được, được thiền thì rất dễ tu. Tâm, tâm sở trung gian của thiền nhất địa, thiền trung gian, thì đoạn trừ sự hiện tiền, nghĩa là giác đoạn quán hiện ở trước thành tựu, như dùng thanh gỗ để chặt đứt thanh gỗ. Sự nhỏ nhặt của cõi Vô Sắc, rất khó thành tựu việc chuyển dứt năm ấm, bốn ấm chuyển hiện ở trước. Nỗi khó khăn của cõi Vô Sắc kia đúng là khó được, nên nói là khó, chứ không phải tự tánh Thánh đạo là khổ, không phải tương ưng với khổ thọ, vì trong đấy đã kiến lập đạo thù thắng. Vì nghĩa vào thành Niếtbàn, nên gọi là nghĩa dấu vết.

Hỏi: Tịnh không hư hoại là thế nào?

Đáp:

Phật và pháp Thanh văn

Giải thoát, cũng nhân khác

Với tịnh tín vô cấu Giới

Thánh nói quyết định.

Phật và pháp Thanh văn, giải thoát cũng nhân khác, niềm tin thanh tịnh không nhơ, nghĩa là Nhất thiết chủng, Chánh giác trí, Bồ-đề là Phật. A-la-hán kia, gồm nhiếp công đức là pháp Phật. Phải biết, nếu kính tin vô lậu, Đối với Nhất thiết chủng v.v… thì gọi là đối với Phật có niềm tin thanh tịnh chẳng thể hủy hoại. Được người khác dạy dỗ, truyền trao mà quyết định gọi là Thanh văn. Nên biết, Học và Vô học đạt được pháp của Thanh văn. Đối với Thanh văn có niềm tin vô lậu, gọi là niềm tin thanh tịnh chẳng thể hủy hoại đối với Tăng. Hoặc đối với Niết bàn, nếu có niềm tin vô lậu, chuyển trong các pháp hữu vi khác, như tin Khổ đế, Tập đế, Vô lậu như thế, đối với công đức của Bồ tát, pháp của Học Vô học, Bích chi, Phật đều chẳng hủy hoại niềm tin vào đó. Trong Khổ Tập thì chánh tín thanh tịnh, trong Diệt Đạo thì tin tưởng mong cầu. Đó gọi là niềm tin thanh tịnh không thể hủy hoại đối với Pháp. Cùng với giới Vô lậu, Thánh đạo mà sinh niềm tin thanh tịnh không thể hủy hoại thứ tư.

Sao gọi là không hư hoại? Biết đã quyết định niềm tin thanh tịnh, gọi là không hư hoại.

Hỏi: Làm sao biết được niềm tin không hư hoại?

Đáp: Trong bốn Thánh đế.

Hỏi: Vì sao vô lậu không làm hư hoại niềm tin?

Đáp: Vì quyết định nên thật trí kia cùng phát sinh với niềm tin vô lậu và giới quyết định. Lòng tin hữu lậu thì có thể gây trở ngại, quở trách, không tin giữ giới, phá giới, quở trách gây chướng ngại, còn vô lậu thì không sinh, chướng ngại, quở trách. Vì vậy, nhất định vô lậu không làm hư hoại niềm tin, ấy là khác nhau.

Hỏi: Tu định có tướng gì?

Đáp:

Sơ thiền nếu có thiện

Phải biết vui hiện pháp

Là được trí sinh tử

Đó gọi là tri kiến.

Nếu Sơ thiền có thiện, phải biết là vui hiện pháp, nghĩa là trụ vào tịnh và vô lậu, vui hiện pháp của Sơ thiền, đấy gọi là tu định được vui hiện pháp.

Nghĩa là được trí sinh tử, gọi là tri kiến. Tức sinh tử trí thông, gọi

là tu định được tri kiến.

Tuệ phân biệt nên biết

Phương tiện sinh công đức

Kim Cương dụ, bốn thiền

Đó gọi là lậu tận.

Tuệ phân biệt, nên biết phương tiện sinh ra công đức: Nghĩa là tất cả phương tiện sinh ra công đức, cho đến cõi Dục, có công đức giáo giới, văn, tư, tu, trong ba cõi tùy sở hữu. Nếu hữu vi, vô lậu, thì tất cả pháp đó đều được gọi là tu định được phân biệt tuệ.

Tứ thiền, Kim Cương dụ gọi là lậu tận, nghĩa là định Kim Cương dụ là tâm học sau cùng, Tâm đó cùng tương ưng chung với quyến thuộc. Vì lậu của Tứ thiền đã dứt hết, nên nói là tu định. Đấy là Đức Thế Tôn tự nói lên công đức của mình. Khi còn là Bồ tát ngồi dưới bóng cây ở cõi Diêm-phù-đề chứng chánh thọ Sơ thiền an trú trong niềm vui thấy pháp. Mười một khởi phiền não, thiên nhãn, trí kiến thanh tịnh. Như kinh Điệt-kỳ-la nói: Biết thọ phát sinh như vậy, v.v…, tuệ sai biệt, nương thiền thứ tư của đạo Chánh chân Vô thượng, chứng lậu tận.

Hỏi: Như ý túc có tự tánh gì?

Đáp:

Các pháp thiện, hữu vi

Phương tiện sanh khởi lên

Phật nói như ý túc

Đó cũng nói chánh thiêu.

Các pháp thiện, hữu vi, từ phương tiện khởi lên, Phật nói như ý túc: Nghĩa là nếu pháp khởi lên từ phương tiện. Đã nói tất cả pháp đó đều là đồ đựng như ý, vì thế nên gọi là như ý túc. Tâm mình tự tại, khởi các thứ công đức, thành tựu đầy đủ như ý, nên gọi là như ý túc. Đủ chi, đủ nhân là một nghĩa. Sao gọi là Tam-muội? Đó là sự khác nhau của bốn thứ tăng thượng. Như dục tăng thượng phát sinh tam muội gọi là dục Tam-muội. Như vậy, tinh tiến tâm tăng thượng phát sinh gọi là tam muội lựa chọn. Vì đầu tiên khởi lên ham muốn nên là dục tăng thượng. Ham muốn đã sinh, thì ham muốn đạt cho được điều mình mong cầu, càng tinh tiến quyết định tăng thượng. Khởi tinh tiến rồi, không xả tinh tiến, tâm tùy thuận hướng đến gọi là tâm định. Đạo lý của Dục, Tinh tiến, Tâm này hiện ra, như ý túc đã rốt ráo có đủ trong thân, nên gọi là Tuệ tam muội. Nếu không lựa chọn, ngoài một tâm này thì tất cả đều thành tựu. Sự sinh khởi trong tất cả tâm, là sự khác nhau của phương tiện. Vì sự sinh đó được lớn mạnh thêm, nên nói là công đức khác. Công đức đó cũng được gọi là chính thức đốt cháy (Chánh thiêu).

Công đức đã nói như vậy cũng gọi là chính thức đốt cháy, nghĩa là căn cứ vào đạo lý có khả năng đốt cháy cỏ phiền não, nên gọi là chính thức đốt cháy ngay. Hoặc do khả năng dứt trừ phiền não, nên gọi là chánh đoạn. Vì nhập Chánh quyết định, nên gọi là chánh thắng. Vì đã xả bỏ lỗi lầm xấu ác, công đức phát sinh, giữ gìn tăng trưởng, cố gắng siêng năng gọi là tinh tiến chánh thắng. Vì sự khác nhau của bốn thứ nghiệp đó, nên trong một tâm kiến lập, tinh tiến có thể làm thành bốn nghiệp: Phiền não trong hiện tại được dứt, vị lai không còn phát sinh, chấp nhận sự thọ sinh đối với pháp thiện, sinh rồi thì tiếp nối, không mất sức phương tiện. Đó cũng là sự khác nhau của bốn chủng loại.

Chánh thắng là Niệm xứ

Cũng là bốn Thánh chủng

Tùy thế lực phát sinh

Do tên kia, nói kia.

Chánh thắng cũng gọi là niệm xứ, cũng gọi là bốn Thánh chủng: Trước đã nói công đức của chánh thắng, còn Niệm xứ, như Tu-đa-la nói: Trong ngoài của thân, thọ, tâm, pháp đều có cộng tướng và tự tướng nên gọi là niệm xứ. Bốn thứ duyên kia khác nhau, hết thảy những duyên đó đều có giới hạn khác nhau. Thân niệm xứ duyên với thân, không phải pháp khác. Cũng vậy, thọ niệm xứ gọi là thọ niệm xứ, không phải tâm niệm xứ khác. Nói tâm niệm xứ không phải pháp niệm xứ khác. Hai thứ duyên với pháp khác, là tưởng ấm, hành ấm duyên với hữu vi và duyên với hoại, do thân thọ nên thân tâm thọ.

Như vậy, v.v… cho đến duyên với tất cả pháp.

Hỏi: Thế nào là Thánh chủng?

Đáp: Thánh chủng cũng như vậy. Công đức đã nói kia cũng gọi là bậc Thánh chủng. Vì bậc Thánh lấy công đức này làm chủng (hạt giống) nên gọi là Thánh chủng. Vì tự tánh của pháp này là hạt giống Thánh, nên nói là Thánh chủng. Vì sinh trong chủng loại của Thánh này, nên gọi là Thánh chủng. Vì đối trị với bốn thứ thọ sinh, nên gọi là bốn sự khác nhau. Vì nhân y phục nên thọ sinh. Nói rộng, có bốn thứ như Tu-đa-la đã nói.

Hỏi: Tại sao cho công đức này là như ý túc, cho đến bốn chánh đoạn, v.v…?

Đáp: Tùy thuộc vào thế lực của chúng phát sinh, mà đặt tên nói theo nghĩa của chúng. Pháp này, do sức của định phát sinh, nên gọi là như ý túc, do sức tinh tiến sinh khởi, nên gọi là chánh đoạn, do sự nhớ nghĩ mà tăng thượng sinh, nên gọi là niệm xứ. Vì biết tăng thượng sinh, nên gọi là Thánh chủng.

Đã nói trợ Bồ-đề phần, nay sẽ nói cộng tướng và tự tướng của nó.

Tịnh tín, tinh tiến, niệm

Trí tuệ và ý, hỷ

Phần giác cùng với xả

Tư giới Tam-ma-đề.

Như ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề phần do Phật nói, nghĩa là tên của pháp phần Bồ-đề có ba mươi bảy, việc thì có mười, trong số đó, tín, v.v… như trong bài kệ đã kiết tập, thì tín căn, tín lực gọi là tín. Chánh đoạn, tinh tiến căn, tinh tiến lực, tinh tiến giác chi, chánh tinh tiến, đó là tinh tiến. Niệm căn, niệm lực, niệm giác chi, chánh niệm, gọi là bốn niệm xứ. Tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp giác chi, chánh kiến, các pháp này đều gọi là Tuệ. Nỗi mừng, ỷ (khinh an), xả giác chi, chánh tư duy giới là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, như ý túc, định căn, định lực, định giác chi, chánh định, tám chi là định chi.

Hỏi: Vì sao phải nói nhiều thứ như vậy? Đáp:

Xứ, phương tiện, nhất tâm

Độn và lợi cũng vậy

Kiến đạo cũng tu đạo

Nên nói ba mươi bảy.

Xứ là chỗ duyên chân chánh, nên gọi là niệm xứ. Phương tiện là chánh phương tiện, gọi là chánh đoạn. Nhất tâm là trụ xứ trong một tâm, nên gọi là như ý túc. Căn cơ yếu kém thấy nối tiếp nhau gọi là căn. Sự việc nhạy bén cũng là căn. Căn cơ nhạy bén thấy nối tiếp nhau nên gọi là lực. Nghĩa tăng thượng trong lực đó là nghĩa căn. Các thứ khác không thể xâm lấn gọi là lực. Kiến đạo được thấy, nên gọi là Đạo phần. Tu đạo thấy nên gọi là giác chi. Nói ba mươi bảy, vì mười pháp này có sự khác nhau của mỗi nghiệp như vậy, nên Phật nói ba mươi bảy, trong đó chi giác hoàn toàn là vô lậu, số còn lại là hữu lậu, vô lậu.

Hỏi: Sao phẩm đạo là hữu lậu, Bồ đề là vô lậu?

Đáp: Vì là đồ đựng Bồ-đề, quyến thuộc của Bồ-đề, nên gọi là Bồđề phần. Như vậy, vì Bồ-đề phần này cách xa tức là hữu lậu, vì thuận theo Bồ-đề, gọi là Bồ-đề phần, nên không có lỗi.

Nhị thiền ba mươi sáu

Vị lai thiền cũng vậy

Tam, Tứ, Trung gian thiền

Thảy đều ba mươi lăm.

Nhị thiền ba mươi sáu nghĩa là trừ sự suy nghĩ. Vì sao? Vì địa này không có giác quán. Thiền vị lai cũng vậy, nghĩa là cũng ba mươi sáu, trừ hỷ giác chi. Vì sao? Vì chưa thành tựu, nên không có giới hỷ như đã nói ở trước.

Ba, bốn và trung gian, tất cả ba mươi lăm, nghĩa là Tứ thiền, Tam thiền, thiền trung gian là ba mươi lăm: trừ hỷ, trừ chánh tư duy.

Sơ thiền nói tất cả

Ba không, ba mươi hai

Hữu đảnh hai mươi hai

Cõi Dục cũng như vậy.

Sơ thiền nói tất cả, nghĩa là tất cả trong Sơ thiền, có ba mươi bảy. Ba không, có ba mươi hai là trừ hỷ, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

Hữu đảnh có hai mươi hai, nghĩa là tất cả không có giác chi, đạo chi, nên có hai mươi hai. Tùy theo giác chi của xứ nào mà kế nói đạo phần, trong đó phải biết hữu lậu, vô lậu.

Cõi Dục cũng như vậy: Cõi Dục cũng có hai mươi hai, hoàn toàn là hữu lậu. Hai xứ này hoàn toàn là hữu lậu.

Hỏi: Bốn cách ăn ở địa nào? Tính nào?

Đáp:

Đoàn thực trong các ăn

Cõi Dục nói ba nhập

Ăn bằng thức, tư, xúc

Ăn này gọi hữu lậu.

Cách ăn vốc trong các cách ăn, cõi Dục nói có ba nhập, nghĩa là cách ăn vốc là ba nhập: Hương, vị, xúc của cõi Dục.

Sự có mười ba, mười một việc là xúc. Bốn đại, bảy chủng tạo sắc, đó là nhám, trơn, nặng, nhẹ, lạnh, đói khát và hương vị.

Hỏi: Vì sao sắc, thanh không phải thức ăn?

Đáp: Vì sự thấy, nghe không tăng trưởng. Căn đầy đủ, là nghĩa giúp, ích lớn, là nghĩa ăn. Hoặc thấy, hoặc nghe, với sức phân biệt giả dối cho nên phát sinh, cảm nhận niềm vui, tiếp xúc sinh nỗi mừng. Nỗi mừng đó không thể thấm nhuần, giúp ích cho căn đại. Thế nên, xúc là thức ăn có khả năng làm lợi ích, không phải sắc, thanh. Hương vị, lìa sự phân biệt cũng có khả năng giúp ích cho thân. Thức ăn bằng thức và tư duy xúc là thức ăn. Nói hữu lậu nghĩa là sự nhận thức, sự suy nghĩ, sự tiếp xúc là hữu lậu. Hữu lậu đó giữ lấy sự sinh, ràng buộc nối tiếp nhau, có khả năng lôi kéo hữu nên gọi là ăn. Xúc vô lậu, v.v… dù có tạo lợi ích cho các căn đại, nhưng vì nó không thể lôi cuốn hữu, nên dứt trừ hữu, không phải ăn. Vì có ba việc, nên gọi là ăn. Khả năng dẫn dắt đến hữu sau, dẫn dắt rồi, lại dẫn dắt nữa, nhiếp giữ thân mình nên gọi là ăn. Ý, sự suy nghĩ, thức, dẫn dắt đến hữu ở vị lai. Ăn vốc, ăn bằng sự tiếp xúc khi đã sinh rồi, thì các hữu nhiếp giữ. Lại nữa, tất cả các cách ăn đều có công năng lôi kéo hữu và đều nhiếp giữ các căn.

Hỏi: Các tam-muội trước đây đã nói. Tam-muội là gì? Có mấy thứ chuyển?

Đáp:

Vô nguyện có mười hành

Không: hai hành, nên biết

Bốn hành nói Vô tướng

Đó gọi là hạnh Thánh.

Vô nguyện có mười hành, nghĩa là Tam muội Vô nguyện nói chung có mười hành. Vì duyên với ba đế, nên mười hành chuyển. Hai hành là vô thường và khổ trong khổ. Bốn hành trong tập như trước đã nói, bốn hành trong đạo, cũng như trước đã nói.

Hỏi: Vì sao không duyên với diệt?

Đáp: Vì không nguyện cầu, nên gọi là vô nguyện, nghĩa là không ưa sự mong cầu.

Không mong muốn những gì? Là khổ, nhân của khổ dứt hết thì là không, thế nên nhân của khổ kia cũng xả. Nhân khổ kia do tu đạo dứt hết, nên duyên với đạo, vì thế, đạo này nhất định duyên với đạo nhân khổ, chứ không duyên với diệt.

Hoặc lại nói, vì không nguyện đối với hữu vi nên duyên với ba đế. Tu đạo trong đây như uống thuốc đắng. Như vậy, biết Không có hai hành, nên biết là đối trị gần với thân kiến. Tam-muội Không gồm có hai hành, đó là: không và vô ngã. Thân kiến chấp lấy hành kiến của ngã và ngã sở. Vì đối trị với ngã, nên nói hành vô ngã, để đối trị với ngã sở, nên nói hành không, ví như pháp kia không có ngã nên nói là vô ngã.

Bốn hành gọi là vô tướng: Nghĩa là tam-muội Vô tướng, diệt mất sự chuyển biến của bốn hành, trừ hành của hữu vi. Nhưng duyên với pháp hành nói vô tướng là, trong đây nhằm chỉ bày môn giải thoát, nên chỉ hoàn toàn là tam-muội vô lậu.

Hỏi: Làm sao dứt trừ điên đảo? Tự tánh của điên đảo là gì?

Đáp:

Nói bốn điên đảo kia

Nên biết, thấy khổ dứt

Đối với kiến tăng thượng

Người thấy thật phế lập.

Nói bốn thứ điên đảo kia, phải biết là do thấy khổ dứt, nghĩa là tất cả bốn thứ điên đảo đều nương vào khổ mà chuyển. Vì vậy, do thấy khổ mà dứt. Đã nói trong ba cái thấy đối với điên đảo là tăng thượng thấy nghĩa là bốn thứ điên đảo này trong ba cái thấy thì một phần ít là thấy tự tánh. Trải qua trong đó vì tâm tưởng vẩn đục, nên gọi là tâm tưởng điên đảo. Thấy thật ra là phế bỏ hoặc kiến lập, sao nói là trong cái thấy tăng thượng? Vì nếu được sức tăng thượng như vậy, sẽ kiến lập sự điên đảo. Như ngã kiến điên đảo, không phải ngã sơ kiến. Như vậy, điên đảo Thường kiến của Biên kiến, không phải Đoạn kiến; kiến thủ là sự điên đảo của Tịnh, Lạc kiến.

Hỏi: Tăng thượng cái gì?

Đáp: Kiến lập một hướng điên đảo, nên điên đảo. Vì tưởng như vậy, nên không phải tất cả kiến đều là điên đảo. Tà kiến, đoạn kiến tuy hoàn toàn điên đảo, nhưng việc hư hoại lại được chuyển để kiến lập giới thủ. Theo kiến lập không phải một hướng điên đảo, chỉ nhận lấy một ít tịnh, một ít sự tốt đẹp, chứ chẳng phải thắng kiến, thắng thủ! Sức của ngã kiến kiến lập ngã sở, do vậy, chấp ngã sở thì không lập điên đảo.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói có nhiều kiến chấp, như sáu mươi hai kiến, chúng thuộc về kiến nào?

Đáp: Thuộc về năm kiến.

Hỏi: Nghĩa thế nào?

Đáp:

Phỉ báng sự chân thật

Kiến này là tà kiến

Không phải thật, mà lập

Hai kiến và trí này.

Phỉ báng sự chân thật, kiến này là tà kiến, nghĩa là nếu chấp hoặc chê bai sự chân thật có nghĩa, nói là không có gì, như nói không có sự bố thí v.v… đó là tà kiến.

Không phải sự thật mà kiến lập, hai kiến và trí này, nghĩa là đối với ấm chẳng thật là ngã sở mà kiến lập thân kiến, chẳng phải lạc, tịnh chân thật mà kiến lập kiến thủ. Hoặc những kiến lập chẳng phải thật khác, như thoáng thấy gốc cây khô mà nghĩ là người đứng, đó là tà trí, chẳng phải tà kiến.

Lại giới oai nghi thủ

Chẳng phải nhân, chấp nhân

Nếu nhận lấy biên kiến

Nương Thường kiến, Đoạn kiến

Lại giới oai nghi thủ, không phải nhân mà chấp là nhân: Nghĩa là có người chấp giới bò, v.v… cho đó là nhân để được sanh lên cõi trời Tự Tại, sanh thiên; Trôi lăn trong thế gian là giải thoát.

Nếu nhận lấy biên kiến, là dựa vào chấp thường, chấp đoạn, nghĩa là nếu chấp các hành là thường, đấy gọi là thường kiến, vì như nói thường, người đó không biết được sự liên tục của nhân, quả. Thế nên, kiến lập tưởng đoạn trong sự việc, đấy gọi là đoạn kiến. Hai kiến chấp này, gọi là thọ biên kiến. Ngoài hai kiến chấp ấy, không còn kiến chấp nào khác. Vì vậy, nên tất cả kiến chấp đều xếp vào kiến này, nên biết.

Hỏi: Kiến ấy, kiến nào dứt và kiến nào không dứt?

Đáp:

Phỉ báng mà kiến lập

Nhân kiến dựa hai biên

Tùy theo việc này chuyển

Nếu thấy khổ thì dứt.

Phỉ báng là tà kiến như đã nói. Nếu tà kiến kia phỉ báng khổ, thì tà kiến đó gọi là thấy khổ dứt, như vậy, tập, v.v… kiến lập sự không thật để nói về hai kiến chấp: Thân kiến kia là từ khổ kiến lập, do thấy khổ mà dứt, còn kiến thủ do thấy khổ dứt vui, v.v… mà kiến lập, cho nên cũng thấy khổ dứt, nên biết.

Như vậy, giới thủ, thấy tập mà dứt, v.v…, nếu dựa vào sự chuyển biến của hữu lậu, thì giới thủ đó do thấy khổ mà dứt. Nếu căn cứ theo vô lậu chuyển thì giới thủ ấy sẽ do thấy đạo mà dứt, nên biết! Đoạn kiến, thường kiến dựa vào khổ mà chuyển, nên thấy khổ mà dứt.

Pages: 1 2 3 4 5 6