A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN KINH
Tác giả: Tôn giả Pháp Thắng, Tôn giả Ưu-Ba-Phiến-Đa giải thích
Hán dịch: Tam Tạng Na Liên Đề Da Xá.Đời Cao Tề
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 4

Phẩm 6: TRÍ

Nay muốn phân biệt về trí phần của Niết-bàn. Vì sao? Vì trí có công năng cắt đứt các phiền não. Vì muốn giải thích rộng về trí nên trước nói kệ này:

Nếu tánh trí biết rõ

Quán sát tất cả hữu

Có không có Niết bàn,

Tướng đó ta sẽ nói.

Có không có là gọi Niết-bàn. Thế nên, người trí quán có, không. Có, nghĩa là hết thảy pháp hữu lậu, là nghĩa khổ, tập. Có, không có đó là diệt đế. Vì tất cả hữu, không có, cho nên gọi là có, không có. Trong đó là nghĩa không có.

Đấy là nói có đối trị, gọi là diệt, nên diệt chẳng phải là không. Không phải không có vật mà có đối trị. Ví như diệt tận, chánh thọ, tâm, tâm sở pháp không hành. Vì đối trị nên nói diệt là có vật, như là Niết bàn đối trị tất cả hữu. Do đó có sự việc như trừ khỏi bệnh được không có bệnh. Tướng ấy gọi là tịch diệt, tương tịch diệt v.v…

Chúng phan duyên với trí, người trí quán sát Niết-bàn, chẳng phải không có cảnh giới mà có trí chuyển. Thế nên, nếu trí quán sát cảnh giới đó, tức là đạo.

Hỏi: Trí đó như thế nào?

Đáp:

Ba trí, Phật đã nói

Giác bậc nhất hơn hết

Pháp trí, tùy thuận trí

Cho đến Thế tục trí.

Ba trí này gồm thâu tất cả trí. Pháp trí là trí đối với cảnh giới cõi

Dục, hoặc đối trị Diệt của cõi Dục. Hoặc cảnh giới vô lậu. Trí ấy đầu tiên chọn lấy pháp, quyết định thực hành, nên gọi là pháp trí. Tùy thuận trí, nghĩa là nếu trí đối cảnh giới cõi Sắc, Vô Sắc đối trị diệt cõi Sắc, hoặc cảnh giới vô lậu. Vì kế sau Pháp trí, thứ lớp thuận theo, nên gọi là tùy thuận.

Thế tục trí, nghĩa là nếu trí hữu lậu thọ nhận nhiều số thế tục, nghĩa là nam, nữ ,v.v… nên nói là trí thế tục. Hết thảy như vậy v.v…

gọi là Thế tục trí.

Khổ, tập và diệt, đạo

Hai trí thuận theo sinh

Bốn thứ trí như vậy

Mâu-ni tùy tên nói.

Pháp trí, Tùy thuận trí, nghĩa là tùy thuận theo Thánh đế mà chuyển, Đức Thế Tôn tùy theo tên gọi mà nói là cảnh giới khổ đế, nên nói là Khổ trí. Như vậy, vì cảnh giới Tập, Diệt, đạo đế, nên gọi là Tập, Diệt, Đạo trí. Ở đây, hành của hai trí Khổ, Tập khác nhau: Hành khổ chuyển thì gọi là Khổ trí, hành tập chuyển, gọi là Tập trí. Còn duyên sự thì không khác nhau vì đồng duyên với năm ấm. Hai trí diệt, đạo hành duyên thì khác nhau.

Nếu trí quán tha tâm

Ấy từ ba trí nói

Hai trí: Tận, vô sinh

Phải biết ở bốn môn.

Nếu trí quán tha tâm, là nói từ ba trí: Nghĩa là trí tha tâm hữu lậu trong ba trí là thế trí. Nếu là cảnh giới đối trị của cõi Dục, thì cảnh giới đó là Pháp trí. Nếu là cảnh giới đối trị của cõi Sắc, Vô Sắc, thì đó là Tùy thuận trí. Nếu cảnh giới của tâm, tâm sở pháp phương tiện tâm, tâm sở đó được thành tựu, thì gọi là trí tha tâm.

Hai trí tận, vô sinh: Nghĩa là Tận trí và Vô sinh trí. Hai trí: Pháp trí, Tùy thuận trí đã làm và đã thọ nhận rốt ráo cuối cùng thì gọi là Tận trí;Không còn làm và nhận nữa là Vô sinh trí.

Hỏi: Tận, Vô sinh trí là cảnh giới của đế nào?

Đáp: Phải biết là ở bốn môn. Đấy là nghĩa duyên với bốn đế, Trừ Tận trí ở đầu, còn các trí kia đều duyên với hai đế. Đã phân biệt mười trí, nay sẽ phân biệt về hành

Hai trí, mười sáu hành

Pháp trí, Tùy thuận trí

Trên đã nói và khác

Là nói Thế tục trí.

Mười sáu hành của Thế trí chuyển, trước và sau đều có mười sáu hành đó, gồm nhiếp Noãn, Đảnh, Nhẫn, ngoài ra, gồm nhiếp văn, tư, tu tuệ và pháp Thế đệ nhất. Mười hai hành, bên cạnh bốn hành vô gián, v.v… Ngoài kia lại có hành, đó là thí, giới, từ, v.v…

Bốn trí có bốn hành

Do hành quyết định nói

Nếu biết tha tâm trí

Hành đó hoặc không phải.

Bốn trí có bốn hành, do hành quyết định nói: Nghĩa là khổ trí có bốn hành. Tập, diệt, đạo trí cũng như vậy.

Nếu biết tha tâm trí với hạnh như vậy, hoặc không phải: Nghĩa là nếu tha tâm trí vô lậu thì trí đó có bốn hành. Như đạo trí là phần ít của đạo trí, nếu hạnh hữu lậu thì khác, vì chỉ gồm nhiếp tâm, tâm sở pháp hữu lậu.

Tận trí, Vô sinh trí

Lìa hành Không – Vô ngã

Nói có mười bốn hành

Tướng thọ là trên hết.

Tận trí, Vô sinh trí, lìa bỏ hành Không, Vô ngã, nói có mười bốn hành: nghĩa là Tận trí, Vô sinh trí từ Đệ nhất nghĩa chuyển; cũng là thân cận với Thế trí, tác ý: Ta và chúng sinh đã tận. Như thế, cùng giữ lấy hành tướng tợ của ta và chúng sinh; còn hành không, hành vô ngã, nhất định là nghĩa đệ nhất chuyển, không duyên với thế tục. Cho nên, Tận trí, Vô sinh trí thì hành không, hành vô ngã không chuyển biến. Do đó có mười bốn hành.

Hỏi: Tất cả trí vô lậu có gồm nhiếp tất cả mười sáu hành chăng?

Đáp: Không. Thọ tướng là trên hết. Mười sáu hành kia là hành chung. Nếu lại chấp lấy tự tướng trí vô lậu thì như thân – niệm – xứ, v.v… trí đó không thuộc về mười sáu hành.

Đã nói sự khác nhau của các hành, nay sẽ nói về sở đắc của hành:

Tâm vô lậu đầu tiên

Hoặc có thành tựu một

Hai hoặc thành tựu ba

Ở bốn trên, thêm một.

Tâm vô lậu đầu tiên, hoặc có thành tựu một, nghĩa là tâm tương ưng với Khổ pháp nhẫn đầu tiên, chưa lìa Dục, thành tựu một trí, đó là Thế trí. Lìa Dục rồi, thành tựu Tha tâm trí, không hiện ở trước. Chẳng phải kiến đạo, Tha tâm trí thứ lớp hiện ra trước.Vì sao? Vì trái với sự lưu chuyển.

Hai hoặc thành tựu ba: Nghĩa là tâm tương ưng với Khổ pháp trí vô lậu thứ hai, chưa lìa Dục thì thành tựu ba: pháp trí, khổ trí và thế trí. Nếu lìa bỏ dục thì thành tựu Tha tâm trí.

Ở bốn trên thêm một, nghĩa là với bốn địa trên trong sát na tâm phải biết mỗi địa đều thêm khổ tỷ trí, là được tỷ trí; tập pháp trí, được tập trí; diệt pháp trí, được diệt trí, đạo pháp trí, được đạo trí, tập, diệt, đạo, tỷ trí. Và nhẫn thì không được, vì chưa từng được trí.

Hỏi: Các trí này y cứ vào các địa nào?

Đáp:

Chín trí, bậc Thánh nói

Trí này dựa hai địa

Nên biết thiền có mười

Tám trong địa Vô Sắc.

Chín trí bậc Thánh nói, đều căn cứ hai địa: Nghĩa là chín trí này căn cứ vào thiền vị lai, thiền trung gian, trừ tha tâm trí.

Phải biết thiền có mười: Bốn thiền căn bản mỗi thiền có mười trí.

Hỏi: Vì sao trong thiền trung gian, thiền vị lai không có tha tâm trí?

Đáp: Vì cảnh giới này rất nhỏ nhặt. Thiền vị lai thì ít đạo đối với tâm, tâm sở pháp trong thân của người khác. Không phải ít đạo, mà có khả năng nhận lấy nghĩa nhỏ nhặt của cảnh giới kia. Đạo của thiền căn bản, với song hành chỉ, quán, là đạo có sức khá mạnh mẽ, nên tâm kia có khả năng nhận lấy.

Trong địa Vô Sắc có tám: Trừ Pháp trí và Tha tâm trí. Pháp trí là cảnh giới cõi Dục, cõi Vô Sắc dựa vào pháp đối trị, hành duyên xa ở cõi Dục. Vì vậy, nên ở cõi Vô Sắc không có Pháp trí. Tha tâm trí duyên với sắc, có khả năng phát sinh. Do vậy, chuyển biến ở cõi Sắc không phải là trong Vô Sắc. Ngoài ra, ở Hữu đảnh vị lai có một thế trí. Vì sao? Vì là hữu lậu.

Đã nói sự khác nhau của các địa, nay sẽ nói sự khác nhau về tu.

Tu có sáu thứ: Đắc tu, Tập tu, Đối trị tu, Xuất ly tu, Giới tu và Quán sát tu.

Đắc tu là đối với pháp thiện không được mà được ở hiện tại vị lai.

Tập tu là với công đức trước đây đã được, hiện tiền tu.

Đối trị tu là tu đạo đối trị đối với các pháp hữu lậu.

Xuất ly tu là lúc tu đạo, lìa bỏ pháp cấu uế.

Giới tu là đạo có khả năng điều phục các căn.

Quán sát tu là quán sát thân, v.v… Trong đây, chỉ chọn hai thứ tu, đó là Đắc tu và Tập tu.

Các trí của Đắc tu

Là ở Thánh kiến đạo

Tập tu là vị lai

Các Nhẫn cũng như vậy.

Nếu là các trí của Đắc tu thì ở Thánh kiến đạo tu thế nào, vị lai cũng tu thế ấy. Nếu là các trí ở kiến đạo hiện tiền tu thì tức là Tập tu ở vị lai. Nghĩa là Khổ pháp trí tu hiện tại, cũng là trí tu ở vị lai. Không phải Nhẫn, không phải trí khác.

Như vậy, cho đến Đạo pháp nhẫn. Các nhẫn cũng như thế, nghĩa là trong nhẫn cũng như vậy. Khổ pháp nhẫn tu hiện tại, nhẫn đó cũng tu ở vị lai, không phải trí, không phải nhẫn khác, tất cả nhẫn đều cũng như thế.

Hỏi: Vì sao Kiến đạo chỉ tu đạo của phần mình, còn Tu đạo thì tu phần mình và không phải phần mình?

Đáp: Vì trí ấy chưa tu. Trí ấy chưa tập, chưa luyện trong Kiến đạo.

Cả hai đều thực hiện trong Tu đạo.

Ở trong ba tâm kia

Đắc tu ở Thế trí

Hoặc tu bảy hoặc sáu

Nên biết tâm sau cùng.

Ở trong ba tâm kia, Đắc tu là đối với Thế trí, nghĩa là Thế trí của Đắc tu trong ba tâm thuộc Kiến đạo tức là Khổ, Tập, Diệt Tỷ trí, thuận theo kiến đạo của địa đó, tức địa ấy có Thế trí và tu Thế trí cõi Dục. Hoặc dựa vào địa của vị lai được quyết định sự tu ở vị lai và Thế trí của cõi Dục.

Như vậy, y cứ vào thiền thứ tư được quyết định, người đó tu Thế tục trí của bảy địa.

Hỏi: Vì sao không tu Đạo Tỷ trí?

Đáp: Vì trí đó vô biên, vì nên đế không có gián đoạn; các biên hạn thành tựu nên gọi là vô gián đẳng biên. Không có khả năng tu tất cả đạo, đối với đạo của người khác không có khả năng tu, đối với tự thân tu, cho đến hành vị lai của phần mình cũng không hiện trước mặt. Đối với ba đế kia thì mình, người đều có khả năng nhận biết, khả năng dứt trừ và khả năng chứng đắc, cho nên thuận theo mà được biên, và có khả năng tu. Do đó trí đó có khả năng tu, không phải trí khác; thậm chí pháp trí cũng không tu. Vì sao? Vì đế vô gián v.v… chưa rốt ráo. Vì đối với đế này, Thế tục trí vốn đã từng làm chứng, cho nên tu trí này chỉ có tên tốt, nhưng về phương tiện vẫn chưa được.

Hoặc tu bảy, hoặc sáu, phải biết là tâm sau cùng, nghĩa là nếu lìa bỏ dục của cõi Dục, thì hành giả kia với Đạo Tỷ trí là tu bảy trí thuộc về quả A-na-hàm, trừ Thế tục trí, Tận trí, Vô sinh trí. Nếu chưa lìa bỏ dục thì tu sáu trí, trừ Tha tâm trí. Do đối trị Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, người đó được quả Sa-môn, đó là do không tu Thế trí.

Ở trên đó tu đạo

Mười bảy tâm vô lậu

Phải biết tu bảy thứ

Căn tăng ích tu sáu.

Ở trên đó tu đạo, với mười bảy tâm vô lậu, phải biết tu bảy thứ, nghĩa là nếu chưa lìa sáu thứ ham muốn, từ mười bảy sát-na trong tu đạo trên quả Tu-đà-hoàn, phải biết tu bảy trí. Đây nói thuộc về thiền vị lai, không có Tha tâm trí, cũng không có Tận trí, Vô sinh trí, vì là vô học. Thế nên, trong Tu đạo tu bảy trí còn lại này. Nếu hành giả đó do đạo thế tục tiến triển trí thế tục kia hiện trước mặt thì bảy thứ trí ở vị lai. Nếu bốn thứ pháp trí, của đạo xuất thế gian, mỗi trí hiện trước mặt, thì bảy trí còn lại ở vị lai.

Căn tăng ích, tu sáu: Căn tăng ích, nghĩa là hoặc tín giải thoát, luyện tập, đối trị các căn, tiến tới đắc Kiến đạo. Căn tăng tiến kia được tu sáu trí, trong tất cả đạo vô ngại, đạo giải thoát. Vì chưa lìa dục nên không có Tha tâm trí. Hơn nữa, tu đạo tinh tiến, không phải dứt phiền não một cách tinh tiến. Người này chưa được công đức của tu tiến, cho nên không tu Thế trí.

Lúc được quả Bất hoàn

Vượt khỏi bảy địa trên

Huân tu các thần thông

Giải thoát tu tập tám.

Lúc được quả Bất hoàn, nghĩa là nếu lúc được quả A-na-hàm thì nhất định phải được căn bản thiền, cho nên tu Tha tâm trí và bảy thứ đã nói ở trước. Vượt qua bảy địa trên, nghĩa là bốn thiền, ba Vô Sắc, lúc lìa ham muốn của bảy địa, cũng tu tám trí trong chín đạo giải thoát.

Nếu dùng đạo thế tục để tu tiến trí thế tục của đạo kia hiện trước mặt thì vị lai có tám. Nếu khi tu tinh tiến đạo xuất thế gian thì vào lúc đó, bốn tỷ trí và diệt, đạo, pháp trí, mỗi trí hiện ở trước vị lai có tám, huân tu các thần thông giải thoát. Tu tập tám trí. Nghĩa là huân tu khởi hiện một đạo giải thoát, trong đó có tám pháp trí, tỷ trí, mỗi trí hiện ngay trước mặt, vị lai có tám. Sanh ra cảnh giới thần thông, trí túc mạng trong đạo giải thoát. Trí thế tục được hiện ở trước mặt, vị lai có tám trí, trí tha tâm, pháp trí, tỷ trí của đạo giải thoát. Nếu là Tha tâm trí trong thế trí, mỗi trí đều hiện ở trước, vị lai có tám, thì không có sanh tử, thông, đạo giải thoát vì vô ký mà không tu.

Trong đạo vô ngại này

Ra khỏi hữu thứ nhất

Tám đạo giải thoát kia

Phải biết tu bảy trí.

Bảy địa lìa dục tất cả trong đạo vô ngại thì tu bảy trí nghĩa là tu đối trị trí trong đạo vô ngại. Vì vậy, nên không tu Tha tâm trí, vì trí đó không phải đối trị. Huân tu khởi hiện, hai tâm ởđạo vô ngại tương tợ. Tâm thứ nhất là vô lậu. Tâm thứ hai là Thế tục. Trong tâm vô lậu tám:pháp trí, Tỷ trí mỗi trí hiện ở trước, vị lai có bảy trí, trừ Tha tâm trí, tất cả đạo vô ngại, không tu Tha tâm trí. Đạo thế tục, thế tục trí hiện ở trước mặt, ở vị lai cũng có bảy trí. Khởi hiện bốn thần thông trong đạo vô ngại, trí thế tục hiện ở trước, vị lai nhất định bảy trí. Tha tâm trí hữu lậu cũng vậy. Tha tâm trí vô lậu, đạo pháp, tỷ trí, mỗi trí đều hiện ở trước, vị lai nhất định bảy trí. Hữu đảnh lìa ham muốn, tám đạo giải thoát, bốn tỷ trí, hai pháp trí, mỗi trí đều hiện ở trước, vị lai cũng có bảy trí. Trí thế tục thối lui trong đạo vô ngại kia, vì không phải đối trị. Trí thế tục chưa từng đến Hữu đảnh, đôi khi còn làm phương tiện không quyết định.

Qua khỏi đệ nhất hữu

Đạo vô ngại tu sáu

Thượng thừa phải nên biết

Tu tập ở địa dưới.

Qua khỏi đệ nhất hữu, đạo vô ngại tu sáu trí, nghĩa là hữu thứ nhất lìa bỏ ham muốn, chín đạo vô ngại, tu sáu trí, trừ trí tha tâm, trí thế tục, các trí khác đều hiện ở trước. Về đạo giải thoát ở trước đã nói: Sáu trí gồm bốn tỷ trí và hai pháp trí.

Thượng thừa cần nên biết, tu tập ở địa dưới, nghĩa là phải biết tu trí địa mình và trí địa cõi dưới trong tất cả địa. Nếu Sơ thiền tiến đến trí đó, tu công đức của địa mình, cũng tu công đức thuộc về thiền vị lai. Như vậy, cho đến trình tự của Bất dụng xứ cũng như thế.

Nếu người nào cho đến Bất dụng xứ lìa ham muốn, dựa vào Sơ thiền, cho đến Hữu đảnh lìa dục, thì người đó tu tiến trí vô lậu của chín địa, như vậy, tất cả cần phải biết.

Sơ tâm vô học tu

Các địa sinh công đức

Tất cả lậu, vô lậu

Đấy là thuận theo trí.

Sơ tâm vô học tu, các địa sinh công đức, tất cả: Lậu, vô lậu, nghĩa là được quả A-la-hán, công đức hữu lậu, vô lậu của tất cả địa, tất cả tu tinh tiến.

Hỏi: Vì sao địa này tu tất cả công đức?

Đáp: Vì việc đoạn tất cả sự ràng buộc đã xong được nghỉ ngơi. Pháp cởi mở sự ràng buộc của Đức Như Lai là hàng phục phiền não, chúng lực sĩ đều vui sướng, tâm được tự tại, đứng đầu là giải thoát sự trói buộc. Như vua mới lên ngôi, muôn họ ở bốn phương đều đem ngọc ngà, châu báu dâng cống, đoạn sạch kẻ thù phiền não khó trị, giết mọi oan gia, mọi người trong nước đều quy phục. Hành giả kia, trước đây, tuy đã được công đức của địa dưới, nhưng còn có phiền não nối tiếp, nên không sáng sạch. Nay vì dứt sạch phiền não, nên công đức sáng sạch và thành tựu tâm nhập định, xuất định, nên mới huân tu. Nếu trụ cõi Dục, được quả A-la-hán, hoặc là pháp như vậy. Nếu trụ cõi Sắc, được A-lahán, nghĩa là tu tiến tu đầy đủ công đức của hai cõi kia, cho nên sinh ở một cõi, các địa như vậy cần phải biết.

Hỏi: Sơ tâm của Vô học tương ưng với trí nào?

Đáp: Đấy là Tùy thuận trí. Tương ưng với Tùy thuận trí này, người kia nghĩ rằng sanh tử của ta đã dứt hết, ấm của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ nhận lấy sự sanh trong đấy, người kia duyên với sự sanh đó. Vì sao? Vì đấy là dứt sau cùng. Cho nên là khổ tỷ trí, hoặc tập tỷ trí.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói: Như thấy và trí, tuệ thì đây là một hay khác?

Đáp: Thấy là tánh của tuệ, Đức Thế Tôn quán nhân duyên nên nói như vậy.

Các nhẫn, không phải trí

Tận, vô sinh: phi kiến

Ngoài ra các Thánh tuệ

Phải biết ba chủng tánh.

Các nhẫn không phải trí, nghĩa là nhẫn của tám vô gián, v.v… chẳng phải trí. Vì sao? Vì nhẫn không quyết định. Nghĩa quyết định là nghĩa của trí, còn nhẫn thì không quyết định. Khi đối trị với phẩm của mình, thì nghi sinh theo. Người có nhẫn thì mong dục chuyển, người trí thì mong dứt dục. Vì vậy, nên nhẫn không phải trí.

Tận trí, vô sinh trí không phải kiến: Nghĩa là hai trí: Tận và vô sinh đều có khả năng thấy, và chỉ cho ta biết, là tuệ quyết định.

Vì sao trí không phải là thấy? Vì không mong cầu, vì trung bình.

Ngoài ra các Thánh tuệ, phải biết có ba chủng tánh, nghĩa là việc của tuệ vô lậu khác là có ba tánh: thấy, trí và tuệ.

Nếu trí hữu lậu thiện

Ở ý thì là kiến

Thấy phiền não là trí

Trí này gọi là tuệ.

Nếu trí hữu lậu thiện ở ý thì là kiến, nghĩa là địa của ý trí hữu lậu thiện có khả năng mong cầu, nên cũng nói là thấy.

Thấy phiền não là trí, là nếu thấy tự tánh của phiền não. Nghĩa là thân kiến, v.v…, thì thân kiến đó chuyển từ sự đo lường, suy nghĩ, hiểu biết, cố mong cầu, nên gọi là kiến. Còn mang tính quyết định thì gọi là trí.

Trí này và cái khác gọi là tuệ, nghĩa là nếu đã nói, ấy là sự của Thấy, sự của Tuệ, còn cái khác chưa nói, như năm kiến của ý địa vô ký. Giới của ý cấu uế bên ngoài và hết thảy trí tương ưng với năm thức thân, tất cả là tuệ. Phải biết trong ấy chưa nói là nói trong năm kiến kia, nếu là vô ký thì không thể suy lường, không thể giác sát, không thể tìm kiếm, nên không phải kiến, bị cấu uế là do phiền não cấu uế, pháp tương ưng với năm thức thân không thể phân biệt cảnh giới hiện thật, hễ đi qua là rơi ngay, các kiến thì không như vậy.

Hỏi: Mỗi trí duyên bao nhiêu trí?

Đáp:

Pháp trí, Tùy thuận trí

Quán sát nơi chín trí

Trí nhân và trí quả

Cảnh hai trí, phải biết.

Pháp trí, Tùy thuận trí, quán sát chín trí, nghĩa là Pháp trí duyên với chín trí, trừ Tỷ trí. Tỷ trí cũng duyên với chín trí, trừ Pháp trí. Đạo pháp trí duyên với tất cả. Pháp trí và phần của nó cũng như các trí khác như Khổ, Tập pháp trí duyên với Thế trí cõi Dục.

Như vậy, Đạo tỷ trí duyên với tỷ trí của phần mình. Khổ, tập, tỷ trí duyên với Thế trí của cõi Sắc, cõi Vô Sắc và Tha tâm Thế tục trí.

Hỏi: Vì sao Pháp trí và Tỷ trí không duyên lẫn nhau?

Đáp: Vì có sự khác nhau giữa sự duyên trên dưới. Như hai người cùng thấy đất và hư không. Cảnh của hai trí là trí nhân và trí quả, phải biết là Tập trí duyên với hữu lậu tha tâm trí và thế tục trí. Vì sao? Vì số phận của tập đế là không duyên với trí khác, vô lậu khác. Khổ trí cũng vậy.

Đạo trí duyên chín trí

Diệt trí không cảnh giới

Tất cả cảnh giới khác

Do trí quyết định nói.

Đạo trí duyên với chín trí: Nghĩa là Đạo trí duyên với chín trí, trừ Thế tục trí. Vì sao? Vì hữu lậu. Duyên với chín trí còn lại. Vì sao? Vì là số phần của đạo đế. Diệt trí không có cảnh giới, là Diệt trí không duyên với trí. Vì sao? Vì nó duyên với vô vi. Ngoài ra, đã nói trí quyết định tất cả cảnh giới khác, nghĩa là bốn trí còn lại duyên với mười trí.

Thế trí duyên với mười trí. Vì sao? Vì cảnh giới của tất cả pháp. Như vậy, Tha tâm trí là cảnh giới của tất cả tâm, tâm sở khác, vì trí tha tâm hữu lậu đó, duyên với trí hữu lậu. Như vậy, vô lậu duyên với vô lậu, trong đó, Pháp trí thì thuộc phần của Pháp trí, tùy thuận thì thuộc phần Tùy thuận trí; căn địa, người, sự hóa độ đều không phải duyên. Tận trí, vô sinh trí cũng như vậy, vì tất cả là cảnh giới hữu vi.

Hỏi: Như Đức Phật đã nói: Nếu Tùy thuận trí lìa dục Hữu đảnh, sẽ được quả A-la-hán, không phải đều là Tùy thuận trí chăng?

Đáp: Pháp trí đoạn đối trị của phần kia, cũng có là phần đối trị của Pháp trí.

Hỏi: Việc này là sao?

Đáp:

Sở chuyển của Pháp trí

Nếu ở trong Diệt đạo

Thì đối trị ba cõi Chẳng

Dục tùy thuận trí.

Nếu là sở chuyển của Pháp trí trong Diệt, Đạo, thì là đối trị của ba cõi, nghĩa là pháp trí của diệt, đạo trong tu đạo, cũng là pháp đối trị của cõi Sắc, Vô Sắc. Người đó sinh cõi Dục, lìa bỏ kiết của cõi Sắc, Vô Sắc. Tự địa đó bị ấm ép ngặt, trong ấy đã thấy lỗi lầm, muốn lìa bỏ lỗi lầm đó, nên họ mong cầu pháp đối trị. Lìa bỏ ham muốn ba cõi, trừ khử lìa dục của Hữu đảnh, chỉ có đạo vô ngại của Pháp trí đạo giải thoát của Tùy thuận trí.

Hỏi: Vì sao không là khổ, tập, pháp trí trừ bỏ?

Đáp: Vì khổ, tập không đồng đều: Khổ, tập của cõi Dục thì thấp

kém, còn cõi Sắc, Vô Sắc thì tốt đẹp, không nên quán sát sự thấp kém mà nhàm chán lìa bỏ cõi trên nào có lỗi gì? Tuy phiền não ở khác chổ, nhàm chán, lìa bỏ khác chổ nhưng Diệt Đạo thì tương tợ. Cho nên, quán sự nhàm chán, lìa bỏ dục của ba cõi kia, theo đạo lý này mà nói.

Hỏi: Từng có Tùy thuận trí cũng là đối trị của cõi Dục chăng?

Đáp: Không phải Tùy thuận trí của cõi Dục. Không có Tùy thuận trí để đối trị cõi Dục, không có một người nào nhận thấy lỗi tăng thượng bằng Tùy thuận trí. Không có việc này. Như lìa dục cõi Sắc, Vô Sắc, sau đó mới lìa bỏ ham muốn cõi Dục thì không có việc đó! Hoặc lúc đầu, khó dứt địa mình, vì không thể lìa. Ví như quốc vương, không có khả năng hàng phục ở nước mình, lại muốn hàng phục nước khác. Là vua thì phải hàng phục nước mình, rồi mới hàng phục nước khác, Pháp trí cũng vậy.

Hỏi: Thần thông là tánh của trí nào?

Đáp:

Thần túc, thiên nhãn, nhĩ

Phải biết một Thế trí

Sáu trí nhớ túc mạng

Năm nói Tha tâm trí.

Thần túc, thiên nhãn, nhĩ, phải biết một Thế trí: Nghĩa là thần túc, thiên nhãn, thiên nhĩ là một Thế trí, trí vô lậu chẳng chuyển như vậy. Trí của thần túc thông kia có khả năng hiện rõ các việc, các việc được hiện rõ là công năng của trí tuệ.

Thiên nhĩ thông là tuệ tương ưng với thiên nhĩ thức.

Sinh tử trí thông là tuệ tương ưng với thiên nhĩ thức.

Sáu trí nhớ lại đời trước, là nhớ lại sáu trí thần thông của quá khứ, đó là: Pháp trí thì nhớ lại phần của pháp trí, Tùy thuận trí thì nhớ lại phần của tùy thuận trí, thế trí nhớ lại phần của thế trí, khổ trí thì nhớ lại các thứ khổ trong quá khứ. Tập trí cũng như vậy. Đạo trí thì nhớ lại hành xuất thế gian. Luận sư nước Kế-tân nói: Chỉ là một thế trí. Năm nói tha tâm trí: Nghĩa là tha tâm trí thông thì có năm trí, đó là: Pháp trí, Tùy thuận trí, Thế trí , Đạo trí vàTha tâm trí.

Chín trí lậu tận thông

Do trí quyết định nói

Tám trí chuyển trong thân

Pháp mười, chín trí hai.

Chín trí lậu tận thông, do trí quyết định nói, nghĩa là lậu tận thông thuộc về chín trí vô lậu Lậu tận trí.

Hỏi: Như Tha tâm trí, Tận trí, Vô sinh trí không sao lại nói là thuộc về?

Đáp: Vì thuộc về chánh kiến của vô học. Tất cả ba thứ trí vô học đó, đều gọi là lậu tận thông.

Hỏi: Niệm xứ là tánh của trí nào?

Đáp: Tám trí chuyển trong thân, nếu có sắc thân thì gọi là tám trí chuyển trong sắc thân đó trừ Tha tâm trí và Diệt trí.

Pháp mười là trừ sắc, thọ, tâm, còn pháp, gọi là pháp niệm xứ, mười trí chuyển trong đó, như trước đã nói.

Chín trí hai là trong thọ, tâm, trừ Diệt trí, có chín trí chuyển.

Hỏi: Mười lực, bốn pháp vô úy của Như Lai là tánh của trí, trí đó khác nhau thế nào?

Đáp:

Lực thị xứ , phi xứ

Cho đến vô úy đầu

Phải biết mười trí Phật

Còn lại khác trong đây.

Lực Thị xứ, phi xứ cho đến Vô úy đầu, phải biết là mười trí của Phật: Nếu là mười trí của lực xứ, phi xứ, như vậy, pháp Vô úy đầu tiên như ta là bậc chánh biến tri v.v… Như vậy, nói rộng thì vô úy đó cũng có mười trí. Vì sao? Vì chính đang nhận lấy. Ngoài ra, sự khác nhau trong mười trí này là sự khác nhau của lực xứ, phi xứ. Lực khác là sự khác nhau của pháp không sợ ban đầu và pháp không sợ khác.

Hỏi: Vì sao Đức Phật tạo lập ra nhiều loại khác nhau?

Đáp: Đức Phật tùy theo xứ sở, mà giáo hóa chúng sinh, nên lập ra nhiều loại khác nhau. Có người tin ưa thì nói rộng, không ưa thì nói chung. Có người thích nói lược. Nghĩa của lực, là thuận theo sự ưa muốn của mình, nghĩa là có khả năng thành tựu, đó là nghĩa lực. Nghĩa không chướng ngại là nghĩa lực, nghĩa năng chế ngự là nghĩa lực, nghĩa không thể xâm lấn là nghĩa lực, nghĩa có khả năng xâm đoạt người khác là nghĩa lực.

Lực của xứ, phi xứ kia là quyết định không ngại trong nhân quả, đó gọi là lực của xứ, phi xứ.

Tự nghiệp trí lực là báo nhân của việc thiện, bất thiện nghiệp xứ, hoặc nhiều, hoặc ít, hoặc nhất định, hoặc không nhất định. Trí vô ngại trong các nghĩa như thế… gọi là Tự nghiệp trí lực.

Thiền giải thoát Tam muội, chánh thọ trí lực: Tên gọi, tự tánh của thiền v.v… này đã được phương tiện thuộc về có phần vị, tịnh, vô lậu, thoái, trụ thắng đạt. Nếu trí vô ngại trong các nghĩa như thế v.v… thì gọi là định lực.

Căn sai biệt trí lực: Nghĩa là đối với căn cơ, trung, thượng của chúng sinh, đều có khả năng biết được. Nếu trí vô ngại thì gọi là Căn sai biệt trí lực.

Chủng chủng giải trí lực: Nghĩa là trí lực tự hiểu biết mọi dục lạc, thiện ác hạ trung thượng của chúng sinh, một cách không ngăn ngại. Đó gọi là chúng sinh giải trí lực.

Chủng chủng tánh trí lực: Nghĩa là biết tánh của chúng sinh, biết tánh sai biệt của pháp. Nếu trí không chướng ngại, đó gọi là chủng chủng tánh trí lực,

Nhất thiết chí xứ đạo lực: Nghĩa là tất cả nghiệp chuyển biến sanh tử, có khả năng dứt hết thảy pháp sinh, biết rõ trí không chướng ngại, đó gọi là Chí xứ đạo trí lực.

Ức túc mệnh trí lực: Nghĩa là trí lần lượt nhớ biết về sự sống, chết của mình, của người trong quá khứ một cách không chướng ngại. Đó gọi là Ức túc mệnh trí lực.

Sinh tử trí lực: tức trí nhận thấy sự nối tiếp nhau của chúng sinh ở vị lai một cách không chướng ngại. Gọi đó là Sinh tử trí lực.

Lậu tận trí lực: Nghĩa là nếu lậu dứt hết, phương tiện của lậu cũng dứt hết, mà trí không bị chướng ngại, đó gọi là Lậu tận trí lực.

Đây là mười lực của Như lai, Vô úy thì như trong kinh có nói rộng. Nghĩa không yếu hèn là nghĩa Vô úy, nghĩa không e sợ là nghĩa Vô úy, nghĩa không trốn tránh là nghĩa Vô úy, nghĩa không thấp hèn là nghĩa Vô úy. Như sư tử với sức mạnh mẽ đầy đủ của mình, không nhờ ở bạn. Như sư tử không sợ, là nghĩa Vô úy.

Hỏi: Kiến của vô ngại biện, cũng là tánh của trí. Sự sai biệt của mỗi loại thế nào?

Đáp:

Pháp biện – Từ biện một

Nhạo – Nghĩa biện đều mười

Bảy trí là nguyện trí

Do người trí nói ra.

Pháp biện, Từ biện một: Pháp Vô ngại biện tài là đối với câu, vị đều biểu hiện ở trước. Nếu trí đối với câu, vị ấy không ngăn ngại thì gọi là Pháp vô ngại, là Thế trí.

Từ vô ngại biện tài: Nghĩa là phương tiện ngôn ngữ, chánh hay không chánh tùy theo phong tục địa phương, nếu trí không bị chướng ngại, đó gọi là Từ vô ngại; cũng là Thế trí.

Nhạo nghĩa biện tài đều có mười: Nghĩa là ưa nói, không bị ngăn ngại, tức là nghĩa của pháp và lời tương ưng nhau, tùy ý phát ra lời nói hùng hồn, không yếu ớt, nói lên các thuyết, nếu trí không bị ngăn ngại, đó gọi là ưa nói không ngăn ngại (Nhạo thuyết vô ngại), Biện tài này có mười trí.

Nghĩa vô ngại biện tài: Nghĩa là đối với tự tướng và cộng tướng của pháp, nếu trí không bị ngăn ngại, gọi là Nghĩa vô ngại biện tài; cũng đủ mười trí, vì có khả năng thọ nhận tướng chân thật.

Hỏi: Nguyện trí có bao nhiêu trí?

Đáp: Nguyện trí có bảy trí, do người trí nói ra, lời nguyện ước, được vận chuyển đầu tiên, vì nghĩa ưa muốn vận chuyển, nên gọi là nguyện trí. Về bảy trí đó, theo Luận sư nước Kế-tân nói, là trừ Tha tâm trí, Tận trí và Vô sinh trí.

 

Phẩm 7: ĐỊNH (Phần đầu)

Như vậy đã biết về các trí, nay sẽ nói về nghĩa nương dựa của trí,

Trí nương vào tam-muội

Vận chuyển không ngăn ngại

Thế nên tư duy định

Để tìm tướng chân thật.

Trí nương vào tam-muội, vận chuyển không trở ngại, nghĩa là như ngọn đèn nương vào tim và dầu sạch, tránh chỗ có gió, dao động, thì ánh lửa đèn sẽ yên và rất trong sáng. Tam-muội nương vào trí cũng vậy, phải tránh các thứ gió thì chuyển không chướng ngại, tâm người đó bất động, là nghĩa như vậy. Chuyển hành đến với duyên, không có sự ngờ vực, mê lầm.

Thế nên, tư duy định là để tìm tướng chân thật, nghĩa là nếu không có định, thì không thể phát sinh trí chân thật. Không có việc lìa trí chân thật mà có thể hướng đến Niết-bàn. Cho nên, người mong tìm tướng chân thật thì phải biết tam-muội. Tam-muội là gì? Đó là khéo nhất tâm, là nghĩa căn tối thắng. Như vậy, một căn chuyển thì tâm thiện của mình nối tiếp, gọi là nhất tâm. Tối thắng: Hoặc là gọi tên cảnh giới. Như vậy, một duyên chuyển thì tâm thiện nối tiếp, gọi là nhất tâm.

Hỏi: Tam-muội là gì? Làm sao biết được?

Đáp:

Quyết định nói bốn thiền

Và với định Vô Sắc

Trong đó nói từng thứ

Có vị, tịnh, vô lậu.

Quyết định nói bốn thiền và định Vô Sắc: Nghĩa là nói lược có tám thứ tam-muội gồm nhiếp tất cả tam-muội.

Trong đó nói từng thứ, có vị, tịnh, vô lậu: Nghĩa là trong đó, mỗi tam muội đều có ba thứ: vị tương ưng, tịnh, vô lậu.

Hữu lậu thiện gọi tịnh

Không nóng là vô lậu

Có vị tương ưng ái

Hữu đảnh chẳng vô lậu.

Hữu lậu thiện gọi là tịnh: Nghĩa là trong điều thiện đó, nếu là thiện hữu lậu, phải biết gọi là tịnh.

Không nóng bức, gọi là vô lậu, tức là: Nếu người đã lìa bỏ phiền não, phải biết là vô lậu.

Hỏi: Nếu vô lậu là thiện thanh tịnh bậc nhất, thì vì sao phiền não thế gian tiếp nối nhau nói là tịnh, không gọi vô lậu là tịnh?

Đáp: Vô lậu, không đợi phải nói, tự biết là tịnh. Pháp thanh tịnh của thế gian nếu không phô bày thì mọi người không biết. Vì muốn thành tựu pháp ấy nên nói lìa phiền não, chớ không trái với thế gian, vì có khả năng dẫn dắt đến vô lậu. Do vậy, nên nói là Tịnh.

Có vị: Tương ưng ái: Nghĩa là nếu tam muội tương ưng với ái, thì đó là tương ưng với vị. Cũng có tương ưng với phiền não khác như kiến chấp, nghi ngờ, tăng thượng mạn trong thiền v.v… Người tu định với lực trói vào duyên, là tương ưng với ái của Thiền chứ không phải phiền não khác cùng tương ưng, không phải phiền não khác có khả năng duyên ràng buộc tâm như vậy, giống như ái bị tam-muội duyên vào ràng buộc.

Hữu đảnh không có vô lậu: Là Hữu đảnh có tương ưng vị tịnh, không phải vô lậu, vì không nhanh nhẹn, nhạy bén. Thánh đạo mới lanh lợi, nhạy bén.

Hỏi: Thiền này có những tánh gì?

Đáp:

Năm chi có giác, quán

Cũng lại có ba thọ

Các thứ bốn tâm kia

Đây gọi là Sơ thiền.

Năm chi: Vì dứt trừ năm chi, nên gọi là năm chi.

Hỏi: Dứt trừ chi còn có thiền chăng?

Đáp: Không đúng. Vì mỗi chi kia là thiền, mỗi thiền đều làm chi lẫn nhau, nghĩa phải phân biệt: Nghĩa chia ra là nghĩa chi, như chi xe, như chi vua.

Hỏi: Chi là gì?

Đáp: Giác, quán, hỷ, lạc và nhất tâm. Giác là nghĩa chánh thọ, bắt đầu phân biệt, tâm thô lanh lợi hẳn lên. Quán là tâm thô thuận theo pháp tiếp nối nhau, nói là tâm tế; là nghĩa tâm nhỏ nhiệm vi tế. Hỷ là tâm vui vẻ trong định. Lạc là niềm vui của thân, tâm, do lìa bỏ sự thô nặng, dựa vào hơi thở là phương tiện điều hòa của tâm. Nhất tâm là buộc tâm vào một duyên, có giác có quán.

Hỏi: Trước đây nói năm chi, vì sao nay lại nói có giác, có quán?

Đáp: Trước nói chi là thiện. Đây nói có giác, có quán, là cấu uế.

Ba thọ: Trong Sơ thiền có ba thọ, đó là Lạc căn của ba thức thân, Hỷ căn của Ý địa, và Xả căn của bốn thức thân.

Các thứ kia, nghĩa là các thứ thân của Phạm thế, là thân trên, dưới của Phạm thế. Do năng lực của giác quán, nên sinh. Bốn tâm, nghĩa là Sơ thiền có bốn tâm: Mắt, tai, thân và ý thức. Đó gọi là Sơ thiền, nghĩa là các pháp này là nói về Sơ thiền, đều sinh chánh thọ, thuộc về thiền này.

Thứ hai có bốn chi

Các thứ và hai thọ

Thứ ba có năm chi

Thiền này nói hai thọ.

Thứ hai có bốn chi: Nói tịnh nghĩa là tin tưởng. Lìa bỏ ham muốn của Sơ thiền, vì quyết định lỗi lầm của cõi, địa nên chánh tín. Hỷ, lạc và nhất tâm, chúng không chung với các thứ thân. Vì sao? Vì không có giác quán, nên thành tựu các thứ tâm. Có lúc Hỷ căn hiện ở trước, đôi khi Xả căn hiện ở trước. Hỷ căn là căn bản còn Xả căn ở vị lai.

Hai thọ là Hỷ căn, Xả căn nhất định thuộc về lĩnh vực của ý.

Những việc như vậy là nói Nhị thiền.

Thứ ba có năm chi, thiền này nói có hai thọ, nghĩa là Tam thiền có năm chi: Xả, niệm, an, tuệ, lạc, nhất tâm. Vì mê đắm vui (lạc) nên không mong cầu gì nữa; gọi đó là Xả hộ. Lấy hoan hỉ làm thức ăn, nên gọi là Niệm. Sợ hoan hỷ của Nhị thiền lôi kéo địa mình phạm lỗi. Tuệ là tất cả pháp đối trị với lạc dục thù thắng ở thế gian và chánh trí. Lạc là lạc căn của ý địa. Nhất tâm gọi là định. Hai thọ là Lạc căn, Xả căn. Trong đó Lạc căn, Xả căn của hai thọ, những pháp đó là nói thiền thứ ba.

Lìa hơi thở ra vào

Thứ tư có bốn chi

Chi được gọi là thiện

Tùy việc như trước nói.

Lìa hơi thở ra vào, thứ tư có bốn chi, nghĩa là Tứ thiền không có hơi thở ra vào, chỉ do năng lực của tam-muội, vì thân của họ không có lỗ chân lông. Bốn chi là thọ không khổ, không vui, Xả niệm, Thanh tịnh, Nhất tâm.

Hỏi: Ba thứ như vị tương ưng v.v… Thiền đều thành tựu chăng?

Đáp: Chi, có nghĩa là thiện, Thiền thiện tương ưng với chi, nên biết không phải cấu uế.

Hỏi: Trong sự cấu uế không có chi. Vì sao?

Đáp: Trong Sơ thiền không có ly sinh hỷ, lạc.

Hỏi: Trong cấu uế cũng có hỷ, vì sao nói không có chi tương ưng?

Đáp: Vì dựa vào lạc, Sơ thiền kia đã lìa bỏ sinh, tương ưng với hỷ, nên nói là ly sinh hỷ lạc. Đây một hướng thiện, cho nên không có cấu uế. Ngoài ra thì có hỷ; đối với sự có hỷ này, không phải chi mà là cấu uế.

Nhị thiền không có nội tịnh thì phiền não vẩn đục, loạn động, dựa vào lạc là trước tiên phải xả phiền não. Cho nên trong Tam thiền, không có suy niệm, an tuệ. Và vì lạc tối thắng làm mê hoặc tâm nên không có suy niệm. Dù có suy niệm, thì cũng thất niệm, cho nên không phải chi, không yên ổn. Vì không yên ổn nên không phải chi. Xả cũng không có. Vì hoàn toàn thiện nên trong Tứ thiền là trừ bỏ. Vì sao? Vì có hai thứ bình đẳng. Thiền thứ tư không có xả, niệm thanh tịnh thì không phải thiện; không có xả, phiền não nhiễm ô thì niệm không thanh tịnh. Vì thế không phải chi. Hoặc là thất niệm nên cũng không phải là chi. Tùy việc như trước đã nói: Nếu việc là thiện, thì như đã nói trong Thiền. Nếu cấu uế trong Thiền không loại trư ra, thì cũng phải nói cấu uế trong Thiền. Như Giác, quán, nhất tâm trong Sơ thiền kia, vì người khác muốn lập Hỷ, cho nên là cấu uế. Vì vậy Sơ thiền có bốn chi.

Với hỷ, nhất tâm của Nhị thiền, vì người khác muốn lập tín, cho nên Nhị thiền có ba chi. Với hỷ nhất tâm của Tam thiền, vì người khác muốn lập niệm tuệ, nên Tam thiền có bốn chi. Sự không khổ, không vui, nhất tâm của Tứ thiền, cũng có người muốn thành lập sự suy niệm, nên Tứ thiền có ba chi. Vì gồm nhiếp tất cả, nên nói chi là thiện.

Hỏi: Đã nói Sơ thiền có giác, có quán, thiền vị lai, thiền trung gian thuộc về Sơ thiền, trong chúng có giác, quán là như thế nào?

Đáp:

Tương ưng có giác, quán

Trí nói Vị lai thiền

Quán tương ưng: Trung gian

Do Bậc Minh trí nói.

Tương ưng với có giác, có quán, Bậc Trí nói là Vị lai thiền, nghĩa là thiền vị lai nương vào có giác, quán. Quán tương ưng Trung gian thiền, do Bậc Minh trí đã nói, nghĩa là Trung gian thiền có quán, không có giác. Vì sao? Vì địa dừng nghỉ. Theo thứ lớp phương tiện, sự nối tiếp của con người được dừng nghỉ (nghỉ ngơi).

Hỏi: Tự tánh của vị lai, trung gian thiền là gì?

Đáp:

Vị lai: hai tự tánh

Hoặc lìa vị tương ưng

Trung gian thiền: ba tánh

Hai đều có một thọ.

Vị lai thiền: hai tánh, hoặc lìa vị tương ưng: là hai tánh: vô lậu, tịnh thuộc vị lai thiền, không có tánh vị tương ưng. Có yêu thích (ái) chánh thọ (định) mới có tánh tương ưng với vị (vị thiền). Vì không sai mê trong cái đạo chán lìa dục, thế nên không có tánh tương ưng với vị Thiền; vẫn còn yêu thích thọ sinh, không trừ bỏ.Vì sao? Vì sự trói buộc liên tiếp của cõi, nên vị lai thiền cũng theo đó mà bị trói buộc.

Trung gian thiền: ba tánh là Tịnh, Vô lậu và Vị tương ưng.

Hai đều có một thọ, tức vị lai Trung gian thiền đều có một thọ là Xả căn.

Hỏi: Vì sao Vị lai thiền không có hỷ?

Đáp: Vì có lo sợ, vì gần cõi Dục, vì hành giả kia còn lo sợ nên trong Vị lai thiền không phát sinh hỷ. Vì việc làm chưa rốt ráo nên sự phát động lìa bỏ cõi Dục chưa được xong. Vì thế, việc làm chưa rốt ráo người này không thể sinh hỷ. Vả lại, vì có sự dừng nghỉ trong chốc lát, Trung gian thiền cũng đình chỉ trong giây lát, nên trong thiền đó cũng không có hỷ.

Đã nói các địa, nay sẽ nói về công đức trong các địa đó.

Tam muội thông – Vô lượng

Tất cả nhập xứ, tu

Trừ nhập và các trí

Giải thoát, khởi trong đó.

Tam-muội: Là ba tam-muội: Không, Vô nguyện, Vô tướng. “Không” có hai thứ: hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu: Nghĩa là tư duy pháp hữu lậu, vô lậu là không, vô ngã. Vô lậu là tư duy pháp hữu lậu là không, vô ngã.

Tam muội Vô nguyện cũng có hai thứ, Hữu lậu và vô lậu tam muội. Hữu lậu là tư duy về các hành của đạo, nhân vô thường, khổ, của pháp hữu vi. Tam muội vô lậu là tư duy về các hành của đạo, nhân vô thường, khổ của pháp hữu lậu.

Tam muội vô tướng là sự tư duy về các hành như diệt, v.v… Nếu tam muội hữu lậu, vô lậu, thì trong đấy, hoàn toàn chọn lấy vô lậu, cần nên biết.

Thông là sáu thông, như phẩm Trí đã nói.

Vô lượng là bốn vô lượng: Từ, bi, hỷ, xả. Là duyên với vô lượng chúng sinh này, nên gọi là vô lượng.

Từ, nghĩa là muốn cho tất cả chúng sinh đều được vui, tâm tưởng như vậy, nên là đối trị với sân khuể. Chính là tánh của thiện căn vô sân nên gọi là Từ.

Chúng sinh khổ, làm thế nào để cứu thoát? Tưởng như vậy, sẽ đối trị với hại, chính là tánh của thiện căn Vô sân nên gọi là Bi.

Làm sao tùy hỷ với chúng sinh? Tưởng như vậy, chuyển là đối trị tánh ganh ghét. Vì là hỷ căn nên gọi là Hỷ.

Xả, là tưởng xả chúng sinh. Tâm như vậy chuyển chính là đối trị với ái dục, sân khuể là tánh của thiện “Căn Vô si”, gọi là xả. Tất cả đều là bạn chung, phương tiện chung.

Tánh của bốn ấm trong cõi Dục, tánh của năm ấm trong cõi Sắc, tu tất cả nhập, nghĩa là mười nhất thiết nhập, như trong Tu-đa-la nói Tánh của tám căn thiện không tham trong đó, đối trị với tham. Và tánh năm ấm của bạn và phương tiện, đối với tánh bốn ấm trên, tiếp nối nhau, không đứt quãng, không có thiếu kém. Để cho ý hiểu biết được rộng, nên nói tất cả nhập xứ. Trừ nhập là tám trừ nhập, như trong kinh nói: Vì tất cả không tham kia, đối trị với tham và bạn, phương tiện. Cõi Dục là bốn ấm, cõi Sắc là năm ấm, vì năng đoạt duyên, nên gọi là trừ nhập, rất tăng thượng, rất sáng suốt, rất hơn hết, duyên với căn thiện này, nên mau được trừ nhập. Như kẻ tôi tớ, dù có trang điểm đi nữa, vẫn bị chủ khi dễ. Hoặc nói, không phải tất cả bậc Thánh đều xem thường duyên. Năm ấm kia duyên theo phiền não, không thể sinh khởi, nên gọi là trừ nhập.

Trí là mười trí, như phẩm Trí đã nói.

Giải thoát là tám giải thoát, như kinh nói: Ba giải thoát đầu là thiện căn không tham, vì đối trị tham, nên bạn chung, phương tiện chung là tánh của nămấm. Bốn giải thoát vô sắc, tánh thuộc bốn ấm. Diệt tận định thuộc tánh ấm bất tương ưng hành.

Hỏi: Giải thoát có nghĩa gì?

Đáp: Đoạn dứt tâm sau cùng, không còn hiện tiền, gọi là giải thoát. Ba giải thoát đầu là bỏ tham sắc để lại sau lưng (tham bối xả), là Tịnh – Bất tịnh bối xả. Đối với bốn loại ở cõi trên (Vô sắc) tất cả hành chuyển bỏ lại sau lưng; tưởng, thọ diệt, tất cả duyên chuyển thành bỏ lại sau lưng và đoạn dứt cuối cùng (Diệt tận định). Ở trong đó phát khởi, là công đức giải thoát thuộc về Tam muội được sinh khởi ở trong Thiền.

Đã nói công đức thuộc phần giải thoát, nay sẽ nói tùy theo mỗi địa mà có công đức nào.

Năm thông trong bốn thiền

Và thấy Tha tâm trí

Trong sáu, có Pháp trí

Trong năm ba vô lượng.

Năm thông trong bốn thiền, là năm thông gồm nhiếp chi, thọ, Tam-ma-đề.

Và thấy Tha tâm trí, là Tha tâm trí cũng như vậy. Trong sáu có pháp trí, là sáu địa của pháp trí: bốn thiền căn bản, trung gian và vị lai.

Trong năm có ba vô lượng: Nghĩa là trừ hỷ vô lượng trong năm địa: Bốn thiền và cõi Dục.

Trong trừ nhập, nói bốn

Cùng với hỷ vô lượng

Cũng hai thứ giải thoát

Sơ thiền và Nhị thiền.

Bốn trừ nhập đầu và hỷ vô lượng, giải thoát Sơ thiền và Nhị thiền. Vì đối trị sắc tham của cõi Dục thuộc Sơ thiền, Nhị thiền. Trong Sơ thiền, lập hai giải thoát, bốn trừ nhập, vì đối trị sắc tham của địa Sơ thiền.

Nhị thiền lập hai giải thoát, bốn trừ nhập. thiền không có sắc tham Nhị. Vì sao? Vì nhãn thức thân không có.

Tam thiền không lập giải thoát, cho nên trong thiền này cũng không lập trừ nhập và tất cả xứ. Muốn nhập vào giải thoát thì nhập trừ nhập, muốn nhập trừ nhập thì nhập tất cả xứ. Thiền thứ ba bị lạc (vui thích) mê hoặc, nên họ không thể phát sinh căn thiện như vậy. Hỷ căn cũng như thế. Cho nên, công đức này chỉ ở trong Sơ thiền, Nhị thiền chứ không phải ở thiền khác.

Còn có bốn trừ nhập

Cùng với một giải thoát

Cũng nhập tất cả nhập

Phật nói thiền sau cùng.

Tịnh giải thoát, bốn trừ nhập sau và tám nhất thiết xứ, là ở Tứ thiền, không phải thiền khác.

Thoát khác, tự gọi thuyết,

Hai nhất thiết cũng vậy

Diệt tận, ở sau cùng

Còn chín địa vô cấu.

Sự giải thoát khác, tự gọi thuyết: Nghĩa là giải thoát vô biên hư không xứ, cho đến giải thoát Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Hai, nhất thiết cũng vậy: Hai nhất thiết còn lại là theo tên gọi mà nói, Vô biên hư không xứ, Vô biên thức xứ.

Diệt tận ở sau cùng, quyết định thuộc Hữu đảnh. Thuận theo đoạn ở phía sau cùng. Tức, thứ lớp từ địa dưới, đoạn tâm, tâm số pháp, cho đến địa Phi tưởng phi phi tưởng, rồi bắt đầu dứt thượng thượng, kế là dứt thượng trung, sau dứt hạ hạ. Tất cả dứt rồi, là định Diệt tận. Chín địa vô cấu khác, hoặc công đức Vô lậu khác, đó là ba tam-muội, bảy trí và lậu tận thông. Trong chín địa là trong Tứ thiền ba Vô sắc, vị lai, trung gian.

Thế trí, ở Hữu đảnh cũng có. Cho nên nói là khắp tất cả địa.

Ba giải thoát, phải biết

Hữu lậu và vô lậu Định,

Trí thông đã nói

Ngoài ra đều hữu lậu.

Ba giải thoát, phải biết là hữu lậu và vô lậu: Nghĩa là Vô biên hư không xứ, Vô biên thức xứ, Bất dụng xứ giải thoát, phải biết là hữu lậu, vô lậu, Định Trí Thông đã nói, nghĩa là phẩm Định Tu-đa-la sẽ nói rộng về Định, vô lậu, Thần thông, Trí thì đã nói trong phẩm Trí.

Ngoài ra, đều là hữu lậu, nghĩa là vì oai nghi của ba Thông như vậy, vì thọnhận sắc thanh tự tướng, vì duyên với vô lượng chúng sinh, tất cả trừ nhập, ba giải thoát đầu, vì tất cả tín giải, niệm xứ kia, vì Phi tưởng Phi phi tưởng không phải là hành lanh lợi, nhạy bén. Vì tưởng, thọ diệt không có tuệ, nên đều là hữu lậu.

Trang 1 2 3 4 5 6