CHÚ GIẢI KINH DUY MA CẬT

Đời Hậu Tần, Ngài Tăng Triệu.

PHẨM 3: ĐỆ TỬ

Chánh văn: Lúc bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật tự nghĩ rằng:

“Ta bệnh nằm trên giường”.

Ngài Đạo Sinh nói:

-Tự nghĩ bệnh nằm trên giường là nghĩ đến bệnh mà tự cảm thương. Phàm có thân ắt phải có bệnh, đây là lẽ thường ở thế gian, người liễu đạt tự thể hội được điều này, sao phải cảm thương? Nhưng các Trưởng giả ở thành Tỳ-da-ly đều đến thăm Phật nghe pháp, ông Duy-ma theo sự lẽ ra phải đồng đến, nhưng ngại bệnh chẳng tham dự, vì lý này mà dẫn đến thương cảm, cho nên nhờ vào việc diễn pháp để cầu Phật đến thăm.

Chánh văn: Đức Thế Tôn đại Từ, đại Bi, há chẳng đoái lòng thương xót ư?

Ngài Tăng Triệu ghi: Bậc Thượng thiện như nước, đọng hay chảy đều thuận với tâm thiện và lòng nhân từ, nên thường tùy thuận để thành tựu mà không tham tiếc. Thiện khởi thì đúng thời, vì thế hợp cơ mà chẳng sai, tự tại sống trên điều xấu của mọi người. Cho nên có thể hiện đồng bệnh như họ. Đức Thế Tôn có lòng đại Từ ắt đến thăm bệnh, nhân đó mà hoằng đạo khiến cho chỗ cứu giúp rất nhiều. Đây là bản ý của việc hiện bệnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

-Vì có bệnh nên chẳng đến tham dự nghe diệu pháp, vì thế đáng xót thương. Việc đáng xót thương này theo lý phải thân cận, còn theo sự thì đối với việc đáng xót thương cần phải sai người đến an ủi thăm hỏi, mà nay Đức Phật cò lòng đại Từ nghĩ đến tất cả, lại chẳng sai đến thăm, há ngài chẳng xót thương ư? Đây là theo thường tình để mong người đến thăm, há còn ở nơi tâm ta ư? Đó là vì chung cho tất cả chúng sinh ở mai sau. Nếu Phật sai người đến, thì những điều tệ hại của bệnh trước kia bỗng chốc hóa thành việc tốt lành hết sao? Điều trái với thường tình như thế thì chẳng đúng.

Chánh văn: Đức Phật biết ý nghĩ này liền bảo Xá-lợi-phất rằng:

“Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật”.

Ngài La-thập nói:

-Trong pháp Thanh văn, thì A-la-hán có trí tuệ vô lậu thù thắng, còn Bồ-tát thì có trí tuệ thù thắng. Trong Đại thừa thì hai tuệ của Bồ-tát đều thù thắng. Nay căn cứ theo pháp Thanh văn để nói về Đại tiểu, nên trước bảo các đệ tử. Ngài Xá-lợi-phất là bậc có trí tuệ bậc nhất trong hàng đệ tử Phật, vì thế được sai bảo đầu tiên. Biết Xá-lợi Phất chẳng kham nhận mà còn sai bảo, là muốn hiển thị biện tài của ông Duy-ma thù thắng hầu phát khởi toàn chúng hội; lại sai bảo những vị khác, là vì muốn khiến cho mỗi mỗi khen ngợi đức hạnh cao đẹp của ông Duy-ma, đồng thời nói rõ về trí tuệ biện tài vô cùng của ông ấy. Ở đây nói: “Yên tọa”, còn bản Phạm ghi là: “Nhiếp thân tâm”.

Ngài Tăng Triệu nói:

-“Bậc Chí nhân tâm rỗng rang thông đạt, theo lý trước phải nhờ vào hình tượng và ngôn ngữ hợp cơ để ngầm ứng, cho nên khiến đến thăm bệnh. Ngài Xá-lợi-phất là bậc Trí tuệ bậc nhất trong năm trăm đệ tử, nên được sai bảo trước. Như Lai biết đại chúng chẳng kham nhận mà còn sai bảo là vì muốn hiển đức của ông Tịnh Danh thật vô cùng, để chúng hội sinh tâm kính ngưỡng. Xá-lợi là tên của người mẹ; Phất, Hán dịch là Tử; Ở Thiên Trúc phần nhiều lấy tên người mẹ đặt cho tên con.

Ngài Đạo Sinh nói:

-Nói “biết ý nghĩ” tức là đạt được chỉ thú. Ngày hôm nay sai bảo, lẽ ra quy về ngài Văn-thù, nhưng sai bảo các vị khác là nhờ vào phép tắc sai sứ thông thường để hiển đức độ của ông Duy-ma-cật. Đức do đây mà hiển, tức đã tạo thành từ xưa ngày nay ắt phải suy tôn, suy nếu có lý thì lý ấy đáng quý vậy. Ví như mình đã phục đức độ mà nương gá, nghe lý đáng quý trọng, thì đến khi luận về bệnh há chẳng ngộ ư? Phàm phép tắc sai sứ thì phải từ gần đến xa, vì thế trước bảo đệ tử, sau sai Bồ-tát. Ngài Xá-lợi-phất là bậc Đệ nhất, thừa thọ giáo pháp của Như Lai, nên được sai bảo đầu tiên.

Chánh văn: Xá-lợi-phất bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Con không thể kham nhận đến thăm bệnh ông ấy!”.

Ngài Tăng Triệu nói:

-Vâng lãnh sứ mệnh của Phật phải là người quan trọng, Đại sĩ Tịnh Danh là bậc có trí tuệ vô lượng, hàng đệ tử chẳng có khả năng kham nhận. Vả lại, xưa đã từng bị quở trách mà im lặng chẳng thể đáp trả, nay há dám xem thường sứ mạng để dẫn đến bị chê là kém cỏi ư?

Đạo Sinh nói: Phàm dùng diệu mà cưỡi thô, không đến thì chẳng tận biết, nay lại hợp các bảo cái là ứng hợp quần sinh, đối với ngài Xálợi-phất há có lúc chẳng kham nhận ư? Ý nghĩa chẳng kham ở tại nơi đây. Nay há lại muốn hiện, nếu thật thì cần phải có chỗ nương gá. Ông Duy-ma-cật ứng tích biện luận nhanh nhẹn, cả nước đều kính sợ, người đến ắt nêu lý để luận bàn, nhưng ngài Xá-lợi-phất từng bị khuất phục nơi ông ấy, cho nên chẳng kham nhận, ai cho rằng có hư dối?

Chánh văn: Vì sao? Nhớ khi xưa, con đang yên tọa nơi cội cây trong rừng, thì ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: “Thưa ngài Xá-lợi- phất! Chẳng cần ngồi như thế mới là yên tọa.” Ngài Tăng Triệu nói:

-Pháp không hiện bày dấu tích, đã học từ trước, khi yên tọa nơi cội cây trong rừng, ông Tịnh Danh đến cho rằng phép ngồi chẳng đúng.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Có những lời này chẳng phải là để từ chối sứ mệnh của Như Lai, mà nhờ vào lời chẳng trái mệnh này suy tôn đức cao đẹp của ông Duyma. Nói “chẳng cần thế”, tức chẳng nói không phải như thế mà chỉ nói chẳng cần như thế vậy. Chẳng nói không phải thế, tức thật có thể cho đó là phương tiện cầu định. Nói ‘chẳng cần như thế”, là có thể dẫn đến bệnh, bệnh nơi chẳng bệnh, chẳng đáng quở trách ư? Ngài Xá-lợi-phất thật không có chỗ trả lời. Nhờ vào hành nghi để làm phép tắc cho chúng sinh, việc làm chính là việc hiện bệnh của ông ấy. Ông Duy-ma-cật trụ ở giai vị Bất túc, chắc có thể nhờ vào đó để quở trách, thế thì khi xưa ngài Xá-lợi-phất đã bị khuất phục. Yên tọa giống như cư trụ nơi vắng vẻ.

Chánh văn: Yên tọa, tức chẳng hiện thân ý nơi ba cõi là yên tọa.

Ngài La-thập nói:

– Chương này luận về Chí định để chỉ dạy người chưa đạt được, chứ chẳng phải chỉ nói về Không. Bồ-tát an tâm nơi chân cảnh, thức chẳng dong ruổi theo ngoại cảnh, thì tâm này chẳng hiện. Pháp Hóa thân vượt ngoài ba cõi, thân tâm này đều ẩn nơi cảnh giới cùng tột của thiền định. Hàng Thanh văn tuy có thể ẩn thân nơi Phật pháp, nhưng chưa thể chẳng hiện thân kia, thân hiện nơi ba cõi thì bị trói buộc nơi vật, nên ẩn mà còn hiện, chưa khéo thâu nhiếp. Cũng có thể nói rằng ngài Thân Tử khi nhập thiền định thì khiến cho tâm ẩn, thân còn hiện, nên bị chê trách.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phàm pháp thân yên tọa thì hình và tâm đều bặt, đạo lìa thường cảnh, thấy nghe chẳng được, vậy há có hiện thân nơi ba cõi ư? Tu tâm ý mà cho là định ư? Ngài Xá-lợi-phất còn có thân sinh báo thế gian, còn ý căn báo, nên cho rằng nhân gian là chốn ưu phiền mà cầu phải yên tọa nơi rừng vắng, chưa thể đạt đến đỉnh cảnh giới hình tâm đều dứt bặt, không dấu tích, nên dẫn đến bị chê trách, phàm ý chỉ phát khởi sự là để lợi ích cho nhiều người, đâu chỉ nơi người và ta mà lấy thị phi làm tâm ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

-Phàm yên tọa nơi rừng vắng là để ẩn thân mình, nếu chẳng ẩn hình ắt bị sự (cảnh) làm xao động, vì thế ẩn thân để tránh sự, cho rằng đó là phương pháp cầu định. Nhưng ẩn có hoạn họa là hình chẳng ẩn. Vả lại, nếu chấp cho là chẳng ẩn cũng là hoạn, mà ẩn còn bị chẳng ẩn hoặc loạn, chẳng thể cho là ẩn. Ẩn hình vốn là muốn dấu ý, ý chẳng dấu thì bị sáu trần kéo dắt, vì thế dấu ý để chẳng thấy điều ham muốn, nhân đó mà dứt các dục. Nhưng giấu mà có hoạn là ý chẳng giấu. Vả lại, chấp cho là chẳng giấu cũng là hoạn, mà giấu còn bị chẳng giấu làm hoặc loạn, vì thế chưa thể gọi là giấu. Nếu ở nơi ba cõi chẳng thấy có nơi chẳng ẩn chẳng giấu thì chẳng bị nó làm hoặc loạn, đó mới chính là ý nghĩa ẩn giấu. Có chẳng ẩn chẳng giấu thì có hiện, hiện ắt chẳng ra khỏi ba cõi, cho nên nói chẳng hiện thân ý nơi ba cõi.

Chánh văn: Chẳng khởi diệt định mà hiện các oai nghi là yên tọa.

Ngài La-thập nói:

-Nghĩa là tuy đã nhập diệt định mà có thể hiện vô lượng các thứ biến hóa để ứng hợp chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu ghi: Hàng Tiểu thừa nhập diệt định thì hình như cây khô, không có công năng vận dụng. Bậc Đại sĩ vào thật tướng định thì tâm trí vĩnh viễn diệt, mà hình biến khắp tám cực, tùy thuận cơ duyên mà làm, ứng hợp vô cùng; cử động, đến đi, dừng trụ chẳng bỏ oai nghi, đó chính là yên tọa, cũng là chỗ cùng cực vậy. Trên nói chẳng hiện thân ý nơi ba cõi, ở đây nói hiện các oai nghi, nghĩa là vì không hiện, nên có thể hiện cùng khắp, hiện cùng khắp tức là thể của không hiện, ngõ hầu để cho bậc Quân tử tham cứu huyền chỉ hội được vì sao đồng, mà đồng vì sao lại khác biệt.]

Chánh văn: Chẳng bỏ đạo pháp mà hiện phàm phu là yên tọa.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Tiểu thừa bị sinh tử làm ngăn ngại nên chẳng thể hòa quang đồng trần tục. Bậc Đại sĩ thì đẹp xấu bình đẳng, đạo tục như nhau, cho nên suốt ngày là phàm phu mà suốt ngày là đạo pháp. Ngài Tịnh Danh có đời sống gia đình, chính là việc này.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đã ẩn nơi rừng vắng, thì phải cầu định, phép cầu định, trước nên chánh thân ngay ngắn, chẳng dao động, vì chẳng động, nên chẳng trái với định; vì chánh thân nên chẳng trái với đạo. Đây có thể nói là thuật khéo léo để cầu định. Nếu chấp trước dùng bất chánh trái đạo mà chánh thân, dùng động trái định mà trụ thì sẽ bất chánh và động hoặc loạn, chẳng thể cho đó là yếu chỉ chánh thân bất động được. Nếu chẳng khởi diệt định mà liền hiện các oai nghi thì chẳng thấy oai nghi khác với định, không khác thì không trái nhau. Oai nghi là động, diệt định tức diệt pháp tâm tâm sở tức là định. Định này là chỗ cùng tột trái với hình động, cho nên chỉ được nêu lên mà thôi. Nếu chẳng bỏ đạo pháp mà hiện việc phàm phu, thì chẳng thấy việc phàm phu khác với đạo, việc phàm phu là thân bất chánh. Oai nghi và việc phàm phu nói tại câu sau là vì bệnh, ý tại nơi đây, cho nên dùng câu trên để dẫn phát.

Chánh văn: Tâm chẳng ở trong chẳng ở ngoài là yên tọa.

Ngài La-thập nói:

-Bậc Thánh Hiền nhiếp tâm gọi là ở trong, phàm phu tâm tưởng dong ruỗi gọi là bên ngoài. Nói chẳng ở trong chẳng ở ngoài là tâm trong ngoài bình đẳng.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Thân là nhà huyễn, há có trụ trong đó? Vạn vật thì hư dối há có theo bên ngoài? Tiểu thừa phòng hộ niệm khởi, nên buộc tâm ở bên trong; phàm phu tham cầu nhiều, nên dong ruổi ở bên ngoài. Bậc Đại sĩ quán xét thấy bình đẳng nên trong ngoài chẳng nương gá.

Ngài Đạo Sinh nói:

-Đã chánh thân chẳng động, kế đó nên nhiếp niệm; pháp nhiếp niệm, nếu niệm chạy theo cảnh duyên thì khiến thâu nhiếp trở về; niệm chạy theo duyên sự gọi là dong ruổi bên ngoài, thâu nhiếp trở về mình gọi là bên trong. Nếu cho rằng chạy theo bên ngoài là loạn, trụ bên trong là định thì liền bị trong ngoài lôi kéo, chẳng thể cho đó là ý chỉ của nhiếp niệm. Tâm chẳng trụ bên trong thì không có bên trong để trụ, cũng không tại bên ngoài tức không có cảnh bên ngoài để duyên, sau đó mới chẳng bị bên trong ngoài lôi kéo.

Chánh văn: Chẳng động nơi các kiến.

Ngài La-thập nói:

-Nếu cho các kiến là động tức kiến chấp.

Chánh văn: Mà tu ba mươi bảy phẩm là yên tọa.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Các kiến tức sáu mươi hai vọng kiến. Phàm nếu cho kiến là kiến thì cần phải động, xả bỏ các kiến để tu đạo phẩm, bậc Đại sĩ quán chân tánh các kiến là đạo phẩm, cho nên chẳng cần gần thì xả bỏ các kiến, xa thì tu đạo phẩm.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nghĩa nhiếp niệm cần phải đạt đạo ấy, vậy đạo ấy ở đâu? Tại chánh quán, Chánh quán tức ba mươi bảy phẩm, ba mươi bảy phẩm quán là gốc để thấy lý, vì từ lý mà thấy, nên ý có thể trụ, nếu chấp quán được lý, tức bị quán mê hoặc, lại mất lý, chẳng thể cho là quán. Nếu đối với các kiến chẳng động mà hành ba mươi bảy phẩm, thì chẳng thấy ba mươi bảy phẩm khác với các kiến vậy chẳng bị mê hoặc. Chẳng động tức chẳng theo nó. Các kiến tức tà kiến.

Chánh văn: Chẳng đoạn phiền não mà vào Niết-bàn mới là yên tọa.

Ngài La-thập nói:

– Phiền não tức Niết-bàn, nên chẳng thể đợi đoạn này rồi sau mới vào.

Ngài Tăng Triệu nói:

-Bảy sử, chín kết não loạn chúng sinh, nên gọi là phiền não. Chân tánh của phiền não tức là Niết-bàn. Người có sức tuệ mạnh thì quán phiền não tức nhập Niết-bàn, chẳng đợi đoạn rồi mới nhập.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đã quán lý được tánh, thì các trói buộc liền hết, nhập Niết-bàn. Nếu lại cho Niết-bàn là quý trọng mà muốn chấp giữ, thì liền bị Niếtbàn trói buộc. Nếu chẳng đoạn phiền não mà vào Niết-bàn, chẳng thấy có Niết-bàn khác với phiền não, nên không bị trói buộc. Hai câu trên này cũng nêu chỗ bệnh ở dưới, nên dùng câu trên mà dẫn phát.

Chánh văn: Nếu ngồi được như thế thì chư Phật mới ấn khả.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Đây là pháp tọa bình đẳng được chư Phật ấn khả, há như pháp tọa có đối đãi của nhân giả sao?

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ, con nghe những lời ấy xong thì im lặng, không thể trả lời được.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Lý vượt ra ngoài tâm ý, chẳng biết chỗ đối đáp.

Chánh văn: Cho nên con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Đức Phật lại bảo ngài Đại Mục-kiền-liên rằng:

Ngài La-thập nói:

– Mục-kiền-liên, Mục-liên là một họ của dòng Bà-la-môn, tên là Câu-luật-đà; Câu-luật-đà là tên của một vị thần cây. Vì cầu vị thần này mà sinh ra ngài, nên đặt tên như thế. Lúc mới sinh đã có đại trí tuệ nên gọi là Đại Mục-kiền-liên. Là bậc Thần túc đệ nhất.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Mục-kiền-liên là bậc có Thần túc bậc nhất trong các đệ tử Phật, thuộc dòng Bà-la-môn, họ là Mục-kiền-liên, tên là Câu-luật-đà.

Chánh văn: “Ông đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật”.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Phàm tài lực của người thì có trường đoản, khả năng khác nhau. Ngài Xá-lợi-phất tự cho chẳng thể làm được, còn những người khác đâu cần cũng như thế, cho nên Đức Phật chẳng thể bỏ qua mà chẳng bảo. Vả lại, nhân đó để hiển bày đức cao của ông Duy-ma.

Chánh văn: Mục-kiền-liên bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Nhớ khi xưa, con vào thành lớn Tỳ-da-ly, ở nơi môt ngôi làng kia thuyết pháp cho các Cư sĩ nghe.

Ngài La-thập nói:

– Hàng Cư sĩ, trí tuệ lanh lợi lẽ ra phải nghe thẳng về thật tướng, nhưng ngài Mục-liên chưa thấy rõ căn cơ của người, y theo lúc bình thường mà nói pháp, trước dùng bảy việc như Bố thí, Trì giới… để khai phát Cư sĩ, các Cư sĩ nghe nói Thí, Giới… được phước sinh về cõi Trời, thì khởi tưởng chúng sinh, khởi tưởng về chúng sinh thì đối với các pháp vọng sinh các tướng. Cho nên lập chương trước nói không chúng sinh, sau phá các tướng, thế mới có thể phản mê mà hợp với bản thức.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Kinh chẳng ghi những điều ngài Mục-liên nói, nhưng căn cứ theo ý chê trách sau thì biết ngài Mục-liên thuyết các pháp thiện hữu vi như Thí, Giới…

Chánh văn: Lúc ấy ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: “Thưa ngài Đại Mục-liên! Nói pháp cho các Cư sĩ, chẳng phải như pháp mà ngài đang nói đó!”.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ngài Tịnh Danh quán căn cơ của các Cư sĩ, lẽ ra phải được nghe pháp “không”, nhưng ngài Mục-kiền-liên, chẳng khéo quán xét căn cơ, nên dùng pháp “hữu” để chỉ dạy, vì thế bị chê trách.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Thuyết pháp vốn muốn khiến cho người tôn quý pháp, trừ bỏ phi pháp; nếu họ quý pháp thì chấp trước mà thích Tiểu; thích pháp Tiểu thừa thì chỉ muốn lìa bệnh, nhưng lại trái với gốc Đại thừa; chấp trước thì nghịch với lý pháp; trái nghịch thì thật xuất phát từ tâm của họ mà việc thuyết pháp có thể dẫn đến làm mờ lấp căn cơ của họ. Lại có dấu hiệu thuyết chẳng như pháp, hàng cư sĩ chẳng phải là những người chấp giữ đạo, mong rằng chẳng nghe thuyết lý lìa tục, để không tổn thương bản tâm của họ. Vả lại, cư sĩ lấy sự tham trước làm bản hoài, chẳng thể làm cho họ thấy pháp mà quý trọng để xa lìa tâm tham trước kia. Cho nên nói: “Thuyết pháp cho các cư sĩ, chẳng phải như pháp mà ngài đã nói”.

Chánh văn: Phàm thuyết pháp thì nên thuyết như pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Pháp tức là pháp nhất tướng chân thật. Nghĩa của pháp sẽ thuật đầy đủ ở văn sau.

Chánh văn: Pháp không chúng sinh, vì lìa chúng sinh cấu.

Ngài La-thập nói:

– Chúng sinh cấu tức hai mươi thân kiến. Vọng kiến chấp giữ các tướng, nhưng pháp rốt ráo vô tướng, theo lý trái với các kiến nên nói là lìa. Từ đầu đến cuối của chương này đều dùng hai nghĩa để nói về rốt ráo không. Hai nghĩa là:

  1. Lìa tướng.
  2. Lìa kiến.

Vì người mê hoặc nói có tướng, cho nên dùng lìa tướng để nói vô tướng. Còn hàng tà đạo tuy có khởi vọng kiến, mà nói pháp vô kiến, cho nên dùng lìa kiến để nói không có tướng kiến do vọng tưởng của họ khởi lên. Từ đây trở xuống phàm có nói: không danh, không thuyết, lìa thức, lìa quán thì cũng giống như lìa kiến vậy.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Từ đây trở xuống là luận về nghĩa chân pháp. Phàm còn chúng sinh thì cấu nhiễm chân pháp, nếu ngộ được pháp không chúng sinh thì cấu ấy tự lìa. Chúng sinh do chấp ngã quá nặng, cho nên trước tiên nói không chúng sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Từ đây trở xuống, phần lớn bàn về pháp lý. Pháp có hai là chúng sinh không và pháp không, thật ra thì chẳng khác, nhưng đối với người mê hoặc thì việc chứng ngộ có khó và dễ khác nhau, nên phân biệt như thế. Chúng sinh do sự tổng hợp mà thành Thể, ý chẳng thật trụ trong đó, rõ ràng có thể lãnh hội được, cho nên nói là dễ. Pháp thì độc lập, ý thú gần thật, rất nhiều, nên nói là khó. Nay trước luận về chúng sinh không; nói pháp không chúng sinh, tức lấy không chúng sinh làm pháp. Vì lìa chúng sinh cấu là lời giải thích; tức nói chúng sinh tự ra khỏi tình thức chấp trước, chứ chẳng phải lý như thế. Tình thức chẳng theo lý, gọi là cấu, nếu thấy được cấu thì tình và cấu ắt bị diệt hết. Dùng lìa cấu mà nghiệm xét thì biết không có chúng sinh. Chúng sinh tức do mọi sự hợp lại mà sinh, cũng gọi là chủ tể.

Chánh văn: Pháp không có ngã, vì lìa ngã cấu.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Ngã tức tự tại, nói là chủ vậy.

Chánh văn: Pháp không có thọ mạng, vì lìa sinh tử.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Sinh và tử tức khởi đầu và kết cuộc của mạng. Đầu cuối đã lìa thì thọ mạng chẳng có. Nói lìa tức là tên khác của “giai không” (đều không).

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tồn tại ở thế gian gọi là mệnh, được một trăm năm gọi là thọ, cũng có thể gọi là có thọ mạng vậy. Thọ mạng là quả báo của các hành vi đời trước, là pháp sinh tử. Phàm có cấu uế thọ mạng thì có khổ lụy sinh tử; từ nơi đã lìa khổ lụy mà nghiệm biết không có người thọ mạng thì càng rõ ràng thêm. Chẳng nói thọ mạng mà nói sinh tử là vì thọ mạng là điều mà con người yêu mến, nếu nghe nói xa lìa, ắt hẳn là chẳng vui thích; còn sinh tử là pháp mà con người đều ghét chán, nếu nghe nói xa lìa, thì hết thảy đều vui mừng.

Chánh văn: Pháp không có nhân (người) vì mé trước mé sau đều đoạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Trời sinh vạn vật, có loài người là quý trọng nhất. Trước sau chẳng biến đổi gọi là người, vì thế ngoại đạo gọi người là thần, nghĩa là trước sau chẳng biến. Nếu mé trước mé sau của pháp đều đoạn đứt, thì các pháp mới sinh khác nhau, pháp mới sinh khác nhau, thì không thể không biến đổi, không thể không biến thì không có người.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Người là một vật có tánh linh so với đất gỗ; là vật có đến đi sống chết, đến đi chắc chắn là vô cùng, nếu đoạn thì càng đáng vui thích.

Chánh văn: Pháp thường vắng lặng, vì các tướng đều diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phàm có tướng thì những điều sai khác hình thành, những sai biệt hình thành thì thị phi khởi, thị phi đã khởi, thì đâu được vắng lặng. Nếu các tướng đã diệt thì không đâu chẳng vắng lặng.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Bốn câu trên là nói về chúng sinh không, từ đây trở xuống là hai mươi sáu câu nói về pháp không. Vắng lặng tức là lặng lẽ vô sự. Tướng tức là hình dáng của sự, chúng sinh dễ biết, chấp trước thì tướng mê hoặc nặng, vì nó làm cấu nhiễm sự sáng tỏ ở bên trong, pháp thì khó ngộ, nếu chấp trước, thì hoặc nhẹ, vì nó làm mê mờ sự hiển hiện ở bên ngoài.

Chánh văn: Pháp lìa tướng, vì không có cảnh duyên.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Duyên tức tâm duyên, tướng tức là hình ảnh và âm thanh của tâm.

Phàm có duyên nên có tướng, không có duyên thì không có tướng.

Chánh văn: Pháp không danh tự vì nẻo ngôn ngữ đoạn dứt.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Danh tự sinh từ lời, lời đã đoạn thì cái gì là danh?

Chánh văn: Pháp không thuyết, vì lìa giác quán.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Giác quán thuộc về tâm thô, là gốc của ngôn ngữ. Chân pháp vô tướng nên giác quán tự lìa, đã lìa giác quán thì không có ngôn thuyết. Nhị thiền trở lên không còn giác quán, cho nên nói Thánh Hiền im lặng.

Chánh văn: Pháp không hình tướng, vì như hư không.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Vạn pháp có vạn hình, vạn hình thì sinh vạn tướng.

Chánh văn: Pháp không hý luận, vì rốt ráo không.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chân cảnh thì không lời, nếu có luận bàn thì đều rỗng suông, diệu tuyệt ngôn cảnh mới là rốt ráo không.

Chánh văn: Pháp không ngã sở, vì lìa ngã sở.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Trên đã nói là vô ngã, đây nói vô ngã sở. Tất cả các pháp ngoài tự ngã đều gọi là ngã sở.

Chánh văn: Pháp không phân biệt vì lìa các thức.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phân biệt sinh từ thức.

Chánh văn: Pháp không có so sánh, vì không đối đãi.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Các pháp đối đã nhau mà sinh, giống như dài ngắn đối đãi nhau mà hình thành.

Chánh văn: Pháp chẳng thuộc nhân, vì chẳng tại nơi duyên.

Ngài La-thập nói:

– Lực mạnh là nhân, lực yếu là duyên.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Trước sau nương nhau mà sinh tức là nhân, sức trợ giúp để thành hiện tướng gọi là duyên. Các pháp cần phải có nhân duyên nương giúp nhau, sau đó mới thành lập được. Nếu quán các pháp chẳng tại nơi duyên thì pháp cũng chẳng thuộc nhân.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nhân, nghĩa là trước chưa có việc ấy mà nay từ kia sinh; duyên, tức vốn đã có phần việc ấy mà nay theo kia phát khởi: Nhân vốn lấy sinh làm nghĩa, nên nay chẳng thể sinh, há lại nói sinh ư? Thế thì nhân chẳng thành nhân vậy. Nhân gần cho nên khó hiểu, duyên xa nên dễ hiểu. Nay y cứ theo chỗ dễ để giải thích chỗ khó, thì đều dễ, vậy nhân gần nên nói là thuộc, duyên xa nên nói là tại.

Chánh văn: Pháp đồng pháp tánh, vì vào các pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Như, pháp tánh, chân tế, ba không này đồng nhất thật, nhưng dụng quán có sâu cạn, nên lập ba tên. Mới thấy thật pháp, như từ xa thấy cây biết nhất định là cây, đó gọi là Như. Thấy pháp càng sâu, như ở gần thấy cây biết là cây gì, đó gọi là Pháp tánh. Thấy rốt ráo cùng tận các pháp, như biết rõ ràng cành lá gốc rễ của cây, đó là Thật tế. Cả ba chưa từng chẳng phải là cây, nhưng do thấy khác nhau mà thôi, chân pháp được thuyết cũng đồng với ba không này. Vào các pháp, nghĩa là các pháp có tướng trạng khác nhau, ai có thể vào khắp, cái vào được khắp các pháp chỉ có pháp tánh mà thôi!

Ngài Đạo Sinh nói:

– Pháp tánh tức phần gốc của pháp, phàm do duyên mà có tức giả có, giả có thì chẳng phải là tánh “có” “có” đã chẳng phải tánh, đó chính là bản phần của pháp. Thế thì pháp và pháp tánh, lý chỉ là một mà tên lại khác, cho nên nói là đồng. Tánh cần phải đồng nên nói là đồng. Các pháp đều khác nhau, mà pháp nhập vào đó, thì một thống nhiếp nhiều vậy. Thống nhiếp nhiều thành một, vì thế đồng pháp tánh.

Chánh văn: Pháp tùy như, vì không chỗ tùy.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Pháp tự chẳng phải pháp, cái gì lại là tùy như? Vì không chỗ tùy, nên nói là tùy như.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Như tức không gì chẳng như, nếu có chỗ để tùy thì thành dị, chẳng thể tùy được, nếu đều không có chỗ tùy thì mới được tùy, bởi vì danh khác thật, nhân đó nên có lời tùy. “Như cần” phải nói là tùy, nên dùng “tùy” để nói về như.

Chánh văn: Pháp trụ thật tế.

Bản khác ghi: “Pháp đồng như, pháp tánh và thật tế”.

Ngài La-thập nói:

– Ba pháp này đồng một thể, nhân khi quán có sâu cạn, mà đặt ba tên. Mới thấy Thật, gọi là Như; thấy đã sâu thì gọi là Tánh; thấy tận cùng mé thật gọi là thật tế. Vì hạng người mới học bị sáu tình trói buộc, tâm tùy theo cảnh mà biến đổi, khi quán thấy đồng, khi xuất quán thì thấy khác, nên nói các pháp đồng với ba pháp này.

Chánh văn: Vì các bên chẳng động.

Ngài La-thập nói:

– Có, không, sai, đúng tất cả đối với thật là các bên. Nói có mà chẳng phải có, nói không mà chẳng phải không, tuy các bên trần khởi mà chẳng thể chuyển làm cho nó biến khác. Cho nên nói các bên chẳng động.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Có bên nên có động, không có các bên đâu có động? Bên mà không bên là thật tế. Đây là chỗ trụ của chân pháp.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Các bên hữu vô, chẳng thể biến cải các pháp, khiến pháp thay đổi, thế thì không có bờ mé, bờ mé không bờ mé chính là mé thật (thật tế). Pháp bất động trụ ở nơi đây.

Chánh văn: Pháp chẳng lay động, vì chẳng nương sáu trần.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Sáu tình y cứ vào sáu trần nên có sự dao động, pháp vốn không nương gá nên không dao động.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Sáu trần mỗi mỗi đều có chủ, về mặt sự thì chúng khuynh đoạt lẫn nhau nên có nghĩa dao động. Đã có dao động thì liền thành sai biệt, mà chẳng phải là thật.

Chánh văn: Pháp không khứ lai, vì thường chẳng trụ.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nếu pháp thường trụ, thì sẽ từ vị lai đến hiện tại, từ hiện tại về quá khứ, pháp trải qua ba thời thì có khứ lai, vì pháp không thường trụ nên không khứ lai (đến đi).

Chánh văn: Pháp thuận không.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nếu chấp trước thì trái với lý quá xa. Cho nên đối với “không” cần phải thuận.

Chánh văn: Vì tùy vô tướng.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Không tựa như có tướng không, nhưng không nếu có không thì thành có, chẳng thể cho là không, nên nói vô tướng. Đã thuận thì phải tùy vô tướng.

Chánh văn: Ứng với vô tác.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Đồng với ba không.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Ngăn trừ để thành vô tướng, tựa như có ý tạo tác, nếu có ý tạo tác thì chẳng hợp lý, nên nói vô tác. Đã thuận không, tùy vô tướng thì sẽ ngầm hợp với vô tác.

Chánh văn: Pháp lìa tốt xấu, pháp không tăng giảm, pháp không sinh diệt, pháp không chỗ về, pháp vượt ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm.

Ngài Tăng Triệu ghi: Vượt ngoài cảnh thường, chẳng phải là nơi mà sáu tình có thể vịn đến.

Chánh văn: Pháp không cao thấp, pháp thường trụ bất động.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chân pháp thường trụ, Hiền Thánh cũng chẳng thể dời đổi nó được.

Chánh văn: Pháp lìa tất cả quán hạnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Pháp vốn vô tướng, chẳng phải là chỗ thấy của quán hạnh, cái có thể thấy được pháp chỉ là vô quán mà thôi.

Chánh văn: Thưa ngài Mục-kiền-liên! Pháp tướng như thế, há có thể nói được ư?

Ngài Tăng Triệu nói:

– Tâm quán còn chẳng thể biết, hà huống là ngôn thuyết?

Chánh văn: Phàm người thuyết pháp thì không thuyết không chỉ, người nghe pháp thì không nghe không đắc.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Không thuyết chứ nào nói không lời, nghĩa là thường không nơi pháp được thuyết, không nghe chứ nào nói chẳng có nghe, nghĩa là thường không nơi pháp được nghe kia. Không nơi pháp được thuyết thì suốt ngày thuyết mà chưa từng thuyết. Không nơi pháp được nghe thì suốt ngày nghe mà chưa từng nghe. Chỉ tức là thuyết pháp chỉ dạy cho người; đắc tức nghe pháp mà chứng đắc.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Pháp đã nói như ở trước, thì có gì để thuyết. Vả lại, đây đã không thuyết thì kia há có nghe ư?

Chánh văn: Ví như nhà huyễn thuật thuyết pháp cho người huyễn nghe, thì nên lập ý thế nào mà thuyết pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nên như người huyễn, dùng vô tâm mà thuyết.

Chánh văn: Nên biết căn cơ chúng sinh có lợi độn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Hàng Cư sĩ nên nghe nghĩa không, mà ngài Mục-liên nói pháp có, là do ngài Mục-liên chưa biết được căn cơ chúng sinh.

Chánh văn: Khéo léo nơi tri kiến không ngăn ngại.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Thuyết có mà chẳng luận đến không, đó là do tri kiến vô ngại đối với các pháp của ngài chưa hoàn toàn khéo léo. Tri kiến vô ngại tức là trí thật tướng.

Chánh văn: Dùng tâm đại Bi khen ngợi Đại thừa.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Tự xả bỏ nghĩa không mà có chỗ để thuyết thì đều chẳng phải là tán thán Đại thừa, chẳng phải hoằng dương tán thán đạo Đại thừa chẳng có tâm đại Bi.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nếu rõ biết được căn cơ thì sẽ không nói pháp Tiểu thừa. Phàm nói đến Đại thừa, ắt phải có lời tán thán Đại thừa, tán thán Đại thừa thì hợp với bản (gốc), đã hợp với bản, thì người ấy có thể cứu bạt gốc khổ,thường cứu bạt, thì sau đó mới có lòng đại Bi. Đây là chê trách ngài Mục-liên không biết căn cơ để trừ bỏ tâm thích Tiểu thừa của họ.

Chánh văn: Nghĩ đến báo ân Phật chẳng đoạn Tam bảo.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phàm lập được đại Bi, tán thán được Đại thừa, báo được ân Phật, hưng long được Tam bảo, đều là do biết rõ được căn cơ chúng sinh, khéo ngộ được thật tướng, mà ngài Mục-kiền-liên lại thiếu sót các điều kiện này, nên cần phải chỉ dạy.

Chánh văn: Sau đó mới thuyết pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nếu đầy đủ các điều kiện đã nêu thì có thể thuyết pháp.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Thành tựu Đại thừa chính là kế tục dòng giống Phật; khiến cho Tam bảo chẳng đoạn là báo ân Phật, sau đó mới được thuyết pháp.

Chánh văn: Khi ông Duy-ma-cật thuyết pháp này xong, có tám trăm cư sĩ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, con không có được biện tài như thế, nên không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo Đại Ca-diếp rằng:

Ngài La-thập nói:

– Ngài Ca-diếp xuất gia trước Phật, là một đệ tử có hạnh Đầu-đà đệ nhất. Khi xưa, một hôm ngài Ca-diếp từ trong núi rừng mới ra, thân hình dơ dáy, y phục rách nát đến trụ xứ của Phật, các vị Tỳ-kheo thấy thế liền sinh tâm khinh thường. Đức Phật muốn trừ tâm khinh mạn của các Tỳ-kheo, nên khen rằng: “Ca-diếp! Vui mừng ông đã đến!” Rồi phân tòa đồng ngồi. Ngài Ca-diếp từ chối nói rằng: “Phật là Đấng Đại Sư, còn con là Đệ tử, sao dám cùng ngồi!”. Đức Phật liền nói: “Ta có đủ Thiền định, Giải thoát, Trí tuệ, Tam-muội, Đại Từ, đại Bi giáo hóa chúng sinh, ông cũng được như thế, có gì khác nhau?” Các Tỳ-kheo nghe như thế liền sinh tâm hy hữu, khởi lòng cung kính. Ngài Ca-diếp nghe Đức Phật nói rồi, thường tu học hạnh Phật, Từ bi cứu độ những chúng sinh đau khổ. Đã có tâm Từ bi mà bỏ giàu theo nghèo là ý gì? Vì Ca-diếp cho rằng người nghèo là do xưa không gieo trồng phước nghiệp, nên nay gặp phải báo này, nếu nay chẳng độ họ thì đời sau càng nghèo khổ thêm. Cũng cho rằng đến nhà giàu thì sẽ bị nghi là vì danh lợi. Vả lại, giàu thì chẳng thấy đời sau mà chỉ biết hiện hưởng thọ sự vui thú. Cũng cho rằng người giàu thường có tâm khinh mạn phóng túng giáo hóa, người nghèo thì biết khổ, có tâm nhàm chán, nên dễ độ. Sinh khởi việc theo và bỏ đều do dị kiến mà thôi. Vì thế ông Duy-ma chê trách là không có tâm Từ bi rộng khắp và dạy cho lòng bình đẳng.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ngài Ca-diếp là vị đệ tử Đệ nhất khổ hạnh, thuộc dòng Ba-lamôn, họ là Ca-diếp.

Chánh văn: “Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật!” Ngài Cadiếp bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Nhớ khi xưa, con đến một xóm nghèo kia khất thực.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Ngài Ca-diếp thực hành thiểu dục, là bậc nhất trong hạnh Đầuđà, đã đạt được Tam-muội diệt hết rất thù thắng. Phàm người đã được diệt hết định thì có thể làm phước điền ở hiện đời cho mọi người. Ngài tự mong rằng có thể làm cho người được phước ở đời này, mà người nghèo thì có khổ não bức bách, nên muốn dùng đại Bi mà cứu vớt. Khất thực là một hạnh của Đầu-đà. Vả lại, đến xóm nghèo thì có hành tích hợp với hạnh thiểu dục hơn.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma đến nói với con rằng: “Thưa ngài Đại Ca-diếp! Ngài có tâm Từ bi mà không được rộng khắp, bỏ nhà giàu đến nhà nghèo khất thực.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ngài Ca-diếp cho rằng người nghèo là do trước kia không gieo trồng phước đức, nên nay sinh vào xóm nghèo; nếu nay không tích tập các thiện thì sau này nghèo khổ càng nhiều. Vì xót thương cảnh khổ dài lâu cho nên thường đến nhà nghèo khất thực. Ông Tịnh Danh cho rằng ngài Ca-diếp bỏ giàu theo nghèo cho nên chê trách là tâm từ bi chẳng rộng khắp.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đến nhà nghèo khất thực, vốn lấy tâm Từ bi làm chủ, nên trước chê trách tâm Bi có thiên vị. Phàm nghèo thì khổ bức thiết giao kết nhau, cần phải cứu giúp trước, thế thì đâu có gì là thiên lệch? Nhưng đối với người chẳng đạt lý thì đó là thiên; mà dùng có thiên lệch là do sai lầm vậy.

Chánh văn: Ngài Ca-diếp! Trụ nơi pháp bình đẳng, nên theo thứ tự hành khất thực.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Sinh tử luân chuyển, giàu nghèo vô thường, hoặc đời này giàu đời sau nghèo, hoặc nay giàu sau nghèo. Nhìn chung thì giàu nghèo chẳng khác. Vì thế phàm trụ nơi pháp bình đẳng, nên theo thứ tự mà khất thực, chẳng nên bỏ giàu đến nghèo.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đã dùng tâm Bi khất thực mà khất thực lại có thiên lệch, cho nên kế đó chê trách khất thực thiên lệch. Khất thực có bốn việc, theo thứ tự hành khất thực là một, thứ tự hành tức là vì pháp không vượt thứ tự, không vượt thứ tự tức là theo bình đẳng mà đến. Nay chỉ đến xóm nghèo, tuy chẳng trái việc ấy, nhưng lại tổn thương đến ý. Trụ nơi pháp bình đẳng, tức người xuất gia vốn cầu Niết-bàn, Niết-bàn thì bình đẳng trụ nơi ấy. Vả lại, trụ nơi pháp bình đẳng thì lý chẳng trái tình, cho nên nói phải theo thứ tự mà hành khất thực.

Chánh văn: Vì chẳng thọ thực nên hành khất thực.

Ngài La-thập nói:

– Tức là thật tướng của thực, nên dụng tâm này mà khất thực.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chẳng thọ thực tức là pháp Niết-bàn. Niết-bàn không có các họa hoạn, sinh tử, đói khát, lạnh nóng, đạo ấy bình đẳng, há có phân biệt ư? Nên dùng tâm bình đẳng này mà hành khất thực, khiến cho nhân quả chẳng khác nhau.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Khất thực có hai: Tại gia vì sự sinh sống nên cần phải khất thực, nên có nghiệp sinh nhai, nghiệp này đã phồn thịnh thì điều ác tăng nhiều, nghiệp thịnh ác nhiều thì sinh tử càng tăng. Đó là dùng khất thực để tăng trưởng khất thực, nếu muốn dứt tuyệt khất thực thì không thể không xuất gia, xả bỏ nghiệp sinh nhai. Đã xả bỏ nghiệp sinh nhai thì không có vật dụng để nuôi sống, thế thì không thể không khất thực để giữ gìn sắc thân mà tu đạo. Cho nên nói: “Vì chẳng thọ thực nên hành khất thực”. Chẳng thọ thực là pháp bình đẳng, nhưng nay có thiên lệch là trái ngược vậy.

Chánh văn: Vì phá hoại tướng hòa hợp, cho nên cần phải nhận đoàn thực (thức ăn nắm vắt thành viên).

Ngài La-thập nói:

– Tướng hòa hợp là đoàn thực. Thức ăn có bốn loại:

  1. Đoàn thực.
  2. Nguyện thực, như thấy bao cát mà sinh mạng chẳng tuyệt, là nguyện thực.
  3. Nghiệp thực, như chúng sinh ở địa ngục chẳng ăn mà vẫn sống, đó là do tội nghiệp nên người ấy cần phải sống để chịu thống khổ dài lâu.
  4. Thức thực, chúng sinh ở cõi Vô sắc thức tưởng tương tục.

Hoại tướng hòa hợp tức là thật tướng, khiến họ dùng tâm này mà hành khất thực.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Năm ấm và đoàn thực đều có tướng hòa hợp. Hoại tướng hòa hợp của năm ấm tức là Niết-bàn, nên dùng tâm này mà nhận vắt cơm (đoàn thực), nếu thế thì suốt ngày nhận đoàn thực, suốt ngày Niết-bàn.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nhận lấy đoàn thực gồm ba nghĩa, phàm thức ăn ở cõi dục là đoàn thực; đoàn thực tức là thức ăn nắm vắt thành viên sủy (nắm, vắt lại thành viên) là vật hòa hợp. Vì tùy nghĩa mà gọi như thế. Hoại hòa hợp, tức là phá hoại sự hòa hợp của năm ấm. Niết-bàn tức là năm ấm hủy hoại.

Chánh văn: Vì chẳng thọ nhận, cho nên nhận thức ăn của người.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chẳng thọ nhận cũng là pháp Niết-bàn. Phàm vì Niết-bàn mà hành khất thực, nên dùng tâm chẳng thọ nhận mà nhận thức ăn của người, thế thì suốt ngày nhận mà chưa từng có nhận.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Vì thọ có bốn. Nói chẳng thọ nhận tức chẳng thọ nhận sinh tử.

Chánh văn: Vì tưởng “không tụ” mà vào các thôn xóm.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Không tụ (làng vắng) cũng là tướng Niết-bàn. Phàm vào làng xóm, nên giữ tưởng này, nếu thế thì suốt ngày là làng xóm mà suốt ngày là làng vắng.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Kế đó chê trách ngài Ca-diếp hành hạnh thiểu dục. Nếu thấy có người kia giàu người này nghèo rồi bỏ giàu, đến nghèo mà cho là thiểu dục, thì đó là thấy ác nhiều, thấy ác nhiều thì tránh khỏi nhiều, thế thì chẳng thể gọi là thiểu được. Vì thế dùng tưởng không tụ mà vào làng xóm, chớ nên thấy có người giàu nghèo.

Chánh văn: Thấy sắc như mù.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nhị thừa chán ghét sinh tử, sợ hãi sáu trần, cho nên dạy họ dùng bình đẳng quán. Nói mù, tức chẳng thấy đẹp xấu khác nhau, chứ chẳng phải nói nhắm mắt không thấy.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tham dục của sáu trần rất nhiều, nếu có thể “không” ở nơi đó, thì sau mới tránh khỏi được.

Chánh văn: Nghe âm thanh như vang.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chưa có việc vì tiếng vang của núi mà dẫn đến vui, giận.

Chánh văn: Ngửi mùi cũng như gió.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Thơm hôi nhân nơi gió, mà gió thì chẳng có thơm hôi, nắm bắt thì chẳng giữ được.

Chánh văn: Nếm vị thì không phân biệt.

Ngài La-thập nói:

– Pháp không có định tánh, do phân biệt chấp tướng gọi đó là vị, nếu chẳng phân biệt thì chẳng có vị, tuy có nếm mà nên như bản tướng.

Chánh văn: Xúc chạm như trí chứng.

Ngài La-thập nói:

– Nghĩa chẳng đồng như xúc, khi xúc chạm nên như dùng trí mà xúc chạm thật tướng.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Được Lậu tận trí, Vô sinh trí, tự chứng thành Phật đạo, toàn thân nhẹ nhàng khoan khoái mà chẳng sinh chấp trước, thân nhận sự xúc chạm cũng nên như thế.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tiếng Phạm thì từ trí chứng và xúc có âm gần giống nhau, cho nên lấy đó làm dụ. Niết-bàn là cảnh giới chứng ngộ của trí.

Chánh văn: Biết các pháp như tướng huyễn, không có tự tánh, không có tha tánh.

Ngài La-thập nói:

– Nắm ngón tay thành quyền, cho nên không có tự tánh, các ngón tay cũng như thế, nên không phải tha tánh.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Các pháp như huyễn, từ nhân duyên sinh, há có tự tha để được ư? Phàm có tự nên có tha, có tha nên có tự, không có tự thì không có tha, không tha thì cũng không tự.

Chánh văn: Xưa vốn chẳng sinh thì nay chẳng diệt.

Ngài La-thập nói:

– Ngài Ca-diếp cho rằng diệt sinh tử thì có thể làm phước điền; cho nên dùng chẳng sinh để nói về không diệt, hầu dứt trừ kiến giải kia.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Như lửa có cháy thì có tắt, pháp tánh thường không, vốn tự chẳng khởi, thì nay nào có diệt, giống như giải thích pháp sở đối của ý.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Từ tha sinh nên không có tự tánh, đã không có tự tánh, há có tha tánh ư? Thế thì vốn tự chẳng sinh thì nào có diệt, vì thế nói như huyễn.

Chánh văn: Này Ca-diếp! Nếu chẳng thể xả tám tà vào tám giải thoát.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Tám tà và tám giải thoát, bản tánh là thường nhất, khéo quán tám tà tức là vào tám giải thoát, há bỏ tà mà cầu tám giải thoát được ư?

Nếu có thể như thế, gọi là vào giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Sau cùng là chê trách ngài Ca-diếp dùng diệt hết định để làm phước điền cho người là chẳng thể được. Nếu dùng định mà muốn làm phước điền cho người, thì Diệt hết định khác với tám tà, vậy đã có dị tâm thì chẳng thể làm phước điền. Nếu có thể chẳng bỏ tám tà mà vào tám Giải thoát, thì chẳng khác (dị tâm).

Chánh văn: Dùng tướng tà mà vào chánh pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nếu bản tánh thường nhất thì tà chánh nhập vào nhau, chẳng trái các tướng.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Trước nói tám việc, còn nay thì nói nghĩa tà chánh.

Chánh văn: Dùng một bữa ăn mà ban cho tất cả, cúng dường chư Phật và các Hiền Thánh, sau đó mới thọ thực.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Dùng Pháp thí vô ngại để chỉ dạy. Nếu tà chánh bình đẳng, lại có thể dùng một bữa ăn, với tâm bình đẳng ban phát cho tất cả chúng sinh, cúng dường chư Phật và Hiền Thánh, đó mới đáng dùng món ăn của người. Bố thí vô ngại nghĩa là phàm được thức ăn, đầu tiên cần phải khởi tâm ban cho tất cả chúng sinh, sau đó mới được thọ thực. Nếu được Pháp thân thì luôn chân thật làm cho đầy đủ tất cả, như một bát cơm nói ở sau. Nếu chưa được Pháp thân thì chỉ khởi tâm bình đẳng ban phát tất cả, đó là pháp bố thí vô ngại.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Khất thực được nhiều mà ở nơi chúng, thì trước nên phân cho các thượng hạ tọa, đó là cúng dường. Nếu bình đẳng giải thoát thì không đâu không cúng dường. Sức mình đã được như thế thì sau mới có thể làm phước điền cho người.

Chánh văn: Thọ thực như thế, chẳng có phiền não chẳng lìa phiền não.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Có phiền não mà thọ thực là hàng phàm phu, lìa phiền não mà thọ thực là Nhị thừa. Nếu có thể bình đẳng thọ thực như đã nói thì đó là thọ thực của Pháp thân, tức chẳng có phiền não mà thọ thực, chẳng lìa phiền não mà thọ thực.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đã nhận thức ăn mà thọ thực rồi lẽ ra phải đắm trước các vị sinh phiền não, nhưng vì tâm giải thoát mà thọ thực, thì không sinh phiền não, nên nói chẳng có phiền não, đã không có phiền não. Vả lại, chẳng thấy cơ lìa.

Chánh văn: Chẳng nhập định ý, chẳng khởi định ý.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Hàng Tiểu thừa nhập định thì chẳng thọ thực, thọ thực thì chẳng nhập định, còn pháp thân Đại sĩ thì suốt ngày thọ thực mà suốt ngày nhập định, nên không có danh từ xuất nhập.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Theo pháp thọ thực của Tỳ-kheo, thì khi thọ thực phải thực hành pháp quán bất tịnh mà quán thức ăn. Tuy nhập định này nhưng chẳng thấy có nhập, chẳng thấy có nhập thì chẳng nhập định chẳng xuất định.

Chánh văn: Chẳng trụ thế gian, chẳng trụ Niết-bàn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Muốn nói trụ thế gian, thì pháp thân bặt thế tục, muốn nói trụ Niết-bàn thì hiện thọ thực đồng với thế tục.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Thức ăn đầy đủ cho thân thì mệnh tồn tại trụ ở thế gian, mệnh đã tồn tại ở thế gian, thì hành đạo để đạt đến Niết-bàn, cho nên chẳng trụ ở cả hai.

Chánh văn: Người bố thí.

Ngài La-thập nói:

– Cho đến chẳng nương vào Thanh văn, đó là điều mà thí chủ đạt được.

Chánh văn: Không được phước lớn, không có phước nhỏ, chẳng được lợi ích, chẳng bị tổn hại.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nếu có thể dùng tâm bình đẳng thọ thực, thì có giáo pháp bình đẳng, có giáo pháp bình đẳng thì thí chủ đồng đạt được sự bình đảng, không tính đến sự lớn nhỏ của phước, sự ích lợi hay tổn hại tự kỷ.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Người tu bình đẳng thì được quả báo bình đẳng, nên thí chủ cũng chẳng thấy có phước lớn nhỏ.

Chánh văn: Đó chính là vào Phật đạo, chẳng nương theo hạnh Thanh văn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Bình đẳng khất thực thì được tự lợi và lợi tha, nên chân chánh vào Phật đạo mà chẳng nương vào đạo Thanh văn.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Được quả báo bình đẳng thì chẳng thiên lệch về Tiểu thừa.

Chánh văn: Thưa ngài Ca-diếp! Nếu thọ thực như thế thì chẳng luống uổng thức ăn của người.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Tức thọ thực ắt phải có ích lợi.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nói ắt có thể làm phước điền cho người, thế thì chẳng phải chỉ cứu giúp kẻ bần khổ mà rốt cuộc còn được quả Đại thừa.

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ, con nghe những lời ấy thì đạt được điều chưa từng có, liền khởi tâm cung kính tất cả các Bồ-tát, và tự nghĩ rằng: “Người này là một Cư sĩ đầy đủ trí tuệ biện tài mới có thể được như thế, ai nghe mà chẳng phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Bấy giờ, cho rằng một Đại sĩ tại gia mà trí tuệ biện tài còn như thế, thì ai mà chẳng phát tâm vô thượng.

Chánh văn: Từ nay về sau con chẳng dạy cho người hạnh Thanh văn và Bích-chi-Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Vừa biết được pháp Nhị thừa kém, liền chẳng dùng để dạy cho người.

Chánh văn: Vì thế con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Chánh văn: Đức Phật bảo Tu-bồ-đề.

Ngài La-thập nói:

– Tu-bồ-đề, Hán dịch là Thiện Nghiệp là đệ tử đệ nhất về giải không. Vì sao ngài Thiện Nghiệp đến nhà Cư sĩ để dẫn đến bị lỗi lầm? Là vì có nguyên do mà đến, cũng có nguyên do mà bị lỗi lầm. Nay xin dùng dụ để giải thích. Ví như một người thiện xạ, bắn không bao giờ sai tuy nhẹ nhàng nhanh nhẹn, nhưng chẳng thể đến được nhà kia, giống như ông Duy-ma-cật trí tuệ biện tài rất sâu xa, lời nói chẳng bao giờ phạm lỗi, cho nên được năm trăm Thanh văn chẳng dám đến nhà ông, ngài Thiện Nghiệp tự cho rằng, trí tuệ đã đạt sâu xa, biện tài đầy đủ, ứng thời, cho nên thẳng đến mà chẳng nghi ngại gì, đây là ý nghĩa của việc đến nhà. Nhưng ngài Thiện Nghiệp, lúc nhập quán thì tâm thuận với pháp tướng, khi xuất định thì tình theo sự mà chuyển, dẫn đến phạm lỗi, đây là lý do bị khuất phục. Ông Duy-ma biết rằng Thiện Nghiệp tự cho đã thâm nhập, nhưng lại trái với bình đẳng, cho nên chương này, lời văn thì gần gũi, chỉ thú sâu xa vậy. Các vị Thanh văn thể hội chưa đầy đủ, nên mỗi vị có một khả năng riêng biệt, do mỗi vị có khả năng riêng biệt nên gọi là Đệ nhất, năm trăm vị đều được gọi là Đệ nhất. Trên bốn vị Thanh văn đều là những vị có đức đặc biệt có thể ban cho người cúng dường phước báo ở hiện đời, nên đặc biệt gọi là bốn đại Thanh văn, còn các vị Thanh văn khác không có đức này, chỉ gọi là đệ nhất mà chẳng gọi là đại.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Tu-bồ-đề, Hán dịch là Thiện Cát là bậc giải không đệ nhất trong hàng đệ tử Phật.

Chánh văn:Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật”. Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con chẳng kham nhận đến thăm bệnh  ông ấy. Vì sao? Nhớ khi xưa con đến nhà ông ấy khất thực.” Ngài Đạo Sinh nói:

– Ngài Tu-bồ-đề được Vô tránh Tam-muội, là bậc nhất trong chúng đệ tử. Vô tránh Tam-muội đã giải không thì không còn nơi để tranh luận gọi là Vô tránh. Ông Duy-ma-cật cơ phong bén nhạy, luận biện tài giỏi khó đối địch, ít có người dám đến nhà ông, nhưng ngài Tubồ-đề đã có định này, lại một mình dám đến nhà ông Duy-ma-cật, đó là cậy vào định để vào, liền có nguyên nhân cậy vào định mà dẫn đến cật vấn, há chẳng có như thế ư?

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật nhận lấy bát của con mà cho đầy cơm vào đó.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Ông Duy-ma-cật hiện thân là Cư sĩ có sự hiềm nghi là bỏn sẻn, nếu chưa cho thức ăn mà cật vấn, thì mọi người sẽ cho ông là như thế, nên trước nhận bát bới đầy cơm; nhưng chưa trao lại cho ngài Tu-bồ-đề, vì sợ được cơm rồi liền đi, mà không thể nghe hết được sự luận bàn.

Chánh văn: Và nói với con rằng: “Thưa ngài Tu-bồ-đề! Đối với thức ăn bình đẳng thì pháp cũng bình đẳng.” Ngài Đạo Sinh nói:

– Ví như cậy vào định mà đến thì chẳng bình đẳng đối với định, đây là dùng thức ăn để cật vấn mà nêu ra đối với thức ăn cũng không bình đẳng. Nếu không bình đẳng nơi thức ăn thì há có bình đẳng nơi định ư? Vậy đều không có gì bình đẳng, đã không có bình đẳng, thì làm sao có định bình đẳng để nương cậy?

Chánh văn: Nếu các pháp bình đẳng thì đối với thức ăn cũng bình đẳng.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Lại trình bày lời văn trước. Về thức ăn thì sự tuy thô cạn nhưng lý của nó thật vi diệu, cần phải đạt được bình đẳng đối với các pháp, sau đó mới có thể bình đẳng với thức ăn.

Chánh văn: Thực hành khất thực như thế mới được nhận lấy thức ăn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ngài Tu-bồ-đề cho rằng hàng Trưởng giả giàu có, phóng túng, tâm tham lam bỏn sẻn, chẳng nghĩ đến vô thường, nay tuy sung sướng sau ắt phải nghèo khổ; thương xót sự mê muội ấy, nên thường hay đến đây để khất thực. Kế đó thì vào nhà ông Tịnh Danh, ông Tịnh Danh liền nhận lấy bát đầy cơm, trong thời gian chưa trao lại bát đã chê trách ngài Tu-bồ-đề không bình đẳng. Nói rằng vạn pháp đều đồng nhau y cứ một pháp thì có thể biết tất cả, nếu đối với thức ăn bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng. Nếu đối với các pháp mà bình đẳng thì thức ăn cũng

bình đẳng, y cứ theo đây mà hành khất thực thì mới có thể nhận thức ăn.

Há vì bỏ nghèo đến giàu mà sinh khởi ý tưởng có khác biệt ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nói dụng tâm như thế mới có thể nương cậy mà thọ nhận thức ăn của tôi, nghĩa là nếu chẳng như thế thì không nên nhận.

Chánh văn: Thưa ngài Tu-bồ-đề! Nếu chẳng đoạn dâm, nộ, si, và chẳng cùng chung với nó.

Ngài La-thập nói:

– Đạt được chân tánh của nó thì có mà không, có mà không thì không có gì để đoạn, cũng không có gì, cho nên không đoạn mà cũng không cùng chung.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Đoạn dâm, nộ, si là hàng Thanh văn, cùng chung với dâm, nộ, si là phàm phu. Bậc Đại sĩ quán dâm, nộ, si tức Niết-bàn nên chẳng đoạn mà chẳng cùng chung. Nếu người được như thế mới có thể nhận thức ăn.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Ngài Tu-bồ-đề là người đã đoạn dâm, nộ, si. Nguyên vì ngài cậy vào định thì ắt đã đoạn mà chẳng cùng chung, nên căn cứ theo đó để vấn cật. Theo ý cật vấn thì có thể đã chuyển thành ý khuyên bảo tận tình thiết tha. Nếu cho rằng đoạn là chẳng cùng chung thì không chỉ có định bình đẳng mà còn chẳng thể đoạn dâm, nộ, si.

Chánh văn: Chẳng hoại thân thể mà tùy nhất tướng Ngài La-thập nói:

– Thân tức nhất tướng, chẳng đợi thân hoại mà tùy.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Vạn vật đồng một chỉ thú, thị phi đồng quán nhất tướng, thế thì thân tức nhất tướng, há đợi hoại thân diệt thể, sau đó mới cho là một tướng ư? Thân tức thân năm ấm.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Người đoạn dâm, nộ, si thì thân hoại mạng chung vào Niết-bàn. Niết-bàn thì không có vô lượng thân tướng mà là nhất tướng. Chẳng hoại thân, thì tựa như trái ngược, cho nên nói là tùy.

Chánh văn: Chẳng diệt si ái mà khởi minh thoát.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Hàng Thanh văn vì si che mờ trí nên diệt si thì minh (sáng), vì ái buộc tâm nên dứt ái thì giải thoát. Bậc Đại sĩ quán chân tướng của si ái tức là minh và giải thoát, cho nên chẳng diệt si ái mà khởi trí minh và giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Thân vốn từ si ái mà có, cho nên kế đó phải đề cập. Chẳng bị si che lấp là minh, chẳng bị ái trói buộc là thoát.

Chánh văn: Dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, cũng chẳng mở chẳng trói buộc.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chân tướng của ngũ nghịch là giải thoát, há có trói buộc, giải thoát khác nhau ư? Tội năm nghịch là nặng nhất, đạo giải thoát là thù thắng nhất, nếu có thể ngay nơi tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, thì mới có thể nhận thức ăn của người.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đã nói nơi trói buộc được giải thoát, mà năm nghịch là cùng tột của sự trói buộc, cho nên nói như thế. Đó tức là giải thoát mà chẳng giải thoát, trói buộc mà chẳng trói buộc.

Chánh văn: Chẳng thấy bốn Đế, chẳng phải chẳng thấy các Đế.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chân thật thấy bốn Đế, chẳng phải như cái thấy của hữu tâm, cũng chẳng phải như cái không thấy của vô tâm.

Chánh văn: Không đắc quả, cũng chẳng phải không đắc quả.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nơi trói buôc được giải thoát là công năng của kiến đế, nên phải luận đến. Chẳng phải chẳng thấy đế là đắc quả, cho nên phải giải thích.

Chánh văn: Chẳng phải phàm phu, chẳng lìa pháp phàm phu.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Quả tức các đạo quả. Vì chẳng thấy bốn đế nên chẳng đắc quả; chẳng phải chẳng thấy các đế, nên chẳng phải phàm phu. Tuy chẳng phải phàm phu mà chẳng lìa pháp phàm phu, đó chính là đạo bình đẳng.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Thấy đế là do nơi người, cho nên nay lại luận đến người.

Chánh văn: Chẳng phải Thánh nhân, chẳng phải chẳng Thánh nhân.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chẳng lìa pháp phàm phu thì chẳng phải là Thánh nhân; đạo vượt ngoài ba cõi thì chẳng phải chẳng Thánh nhân.

Chánh văn: Tuy thành tựu tất cả pháp mà lìa tướng của các pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chẳng bỏ pháp ác mà theo pháp thiện, thì tất cả các pháp, nơi đâu mà chẳng thành. Các pháp tuy thành mà lìa tướng của nó. Vì lìa tướng thì đẹp xấu do đây thành tựu.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Người ắt phải thành tựu nơi pháp, cho nên phải đạt đến cùng cực thế lực của nó.

Chánh văn: Mới có thể thọ nhận thức ăn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nếu có thể đạt được đầy đủ các điều đã nói ở trên thì mới đáng thọ nhận thức ăn.

Chánh văn: Thưa ngài Tu-bồ-đề! Nếu chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Còn dùng nghĩa bình đẳng để chỉ dạy. Nếu đạt được thị phi đồng, xấu tốt là một, thì tuy trên đồng Như Lai nhưng chẳng lấy làm tôn quý, dưới bằng sáu sư ngoại đạo cũng chẳng lấy làm thấp hèn. Thế thì trời đất đồng nhất chỉ quy, vạn vật đồng nhất quán. Tà chánh tuy khác mà tánh của nó chẳng hai, vậy đâu chỉ Như Lai tôn quý mà sáu sư ngoại đạo lại hèn kém ư? Nếu có thể đồng với sáu sư ngoại đạo kia, chẳng thấy Phật chẳng nghe pháp, theo họ xuất gia, tùy thuận chổ họ đọa lạc mà chẳng lấy làm sai khác, mới có thể nhận lấy thức ăn. Đây là lời luận biện đến chỗ lý tánh cùng tận, rốt ráo vô phương. Nơi đó thiện ác thì nghịch luận mà chẳng trái với đạo thường, tà chánh thì đồng nêu mà chẳng mất chân thật. Đây có thể nói là đạo bình đẳng chánh hóa chẳng hai.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đây là một bậc, dẫu lời có trái mà lý thì thuận. Ví như thể hội được không bên trong sáng tỏ, thì chẳng cho lời trái mà hoặc loạn ý nghĩa. Ngài Tu-bồ-đề có thấy Phật nghe pháp mà nói không thấy Phật không nghe pháp là lời nói trái ngược. Nếu cho rằng không có Phật để thấy là không thấy Phật, không có pháp để nghe là không nghe pháp tức là thuận lý.

Chánh văn: Sáu sư ngoại đạo kia là Phú-lan-na Ca-diếp.

Ngài La-thập nói:

– Ca-diếp là họ của người mẹ, Phú-lan-na là tên. Nguời này khởi tà kiến cho rằng tất cả pháp là không có gì cả, như hư không chẳng sinh, chẳng diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

Chánh văn: Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử.

Ngài La-thập nói:

– Mạt-già-lê là tự, Câu-xa-lê là tên của người mẹ. Người này khởi tà kiến cho rằng tội cấu của chúng sinh chẳng có nhân chẳng có duyên.

Ngài Tăng Triệu ghi: Mạt-già-lê là tên chữ, Câu-xa-lê là tên của người mẹ. Người này khởi tà kiến cho rằng khổ vui của chúng sinh chẳng do nơi nhân hạnh mà được, chỉ tự nhiên mà có.

Chánh văn: San-xà-dạ Tỳ-la-chi Tử.

Ngài La-thập nói:

– San-xà-dạ là tên, Tỳ-la-chi là tên người mẹ. Người này khởi tà kiến cho rằng cần phải trải qua vô số kiếp sinh tử, sau đó tự nhiên hết khổ.

Ngài Tăng Triệu nói:

– San-xà-dạ là tên, Tỳ-la-chi là tên người mẹ. Người này cho rằng đạo chẳng cần phải tìm cầu, trải qua vô số kiếp sinh tử diệt hết thì tự nhiên được, như thả trục chỉ từ núi cao, chỉ hết thì tự dừng, đâu nhờ vào tìm cầu.

Chánh văn: A-kỳ-đa-xí-xá Khâm-bà-la.

Ngài La-thập nói:

– A-kỳ-đa là tên, Xí-xá-khâm-bà-la là y phục thô xấu. Người này khởi tà kiến chẳng phải nhân chấp là nhân; mặc áo gai thô xấu, tự nhổ tóc, đốt lửa, xông khói vào mũi… cho các việc khổ hạnh ấy là đạo.

Ngài Tăng Triệu nói:

– A-kỳ-đa-xí-xá là tên, Khâm-bà-la là một loại y phục thô xấu. Người này mặc y phục thô xấu, tự nhổ tóc dùng năm loại lửa đốt quanh thân mình, cho các khổ hạnh này là đạo. Cho rằng thân ngày nay nên chịu các khổ thân, mai sau sẽ được an lạc mãi mãi.

Chánh văn: Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên.

Ngài La-thập nói:

– Đây là tên của một ngoại đạo. Người này tùy theo người khác mà khởi chấp, nếu người hỏi: “Có chăng?” thì đáp là có, nếu người hỏi:

“Không chăng?” thì đáp là không.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Họ là Ca-chiên-diên, tên là Ca-la-cưu-đà. Người này cho rằng các pháp cũng có tướng, cũng không có tướng.

Chánh văn: Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử.

Ngài La-thập nói:

– Ni-kiền là tên, Nhã-đề là tên người mẹ. Người này khởi kiến chấp cho rằng tội phước khổ vui đều do đời trước, đã làm ắt phải đền, đời này tuy có hành đạo, nhưng chẳng thể nửa chừng hết tội. Sáu vị này đều khởi tà kiến, ngoại đạo khổ hạnh, lõa hình, tự xưng đã được Nhất thiết trí, hai loại này chỗ đồng thì nhiều, chỗ sai biệt thì ít. Gồm có ba loại, tức sáu sư ngoại đạo hợp lại thành mười tám bộ:

  1. Tự xưng là Nhất thiết trí.
  2. Được năm Thông.
  3. Tụng bốn bộ Vệ-đà.

Sáu sư ở trên thuộc loại thứ nhất.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ni-kiền-đà là từ gọi chung những người xuất gia, như xuất gia nơi Phật pháp gọi là Sa-môn. Nhã-đề là tên mẹ. Người này cho rằng tội phước, khổ vui đã có nguyên nhân nhất định, đã làm ắt phải chịu, chẳng thể tu hành mà đoạn trừ được. Khi Đức Phật chưa xuất thế thì sáu sư ngoại đạo này đều thống trị các đạo ở Thiên Trúc.

Chánh văn: Là thầy của ông, ông theo họ xuất gia Ngài Đạo Sinh nói:

– Chẳng thấy Phật nghe pháp thì thọ học đạo nơi các sư tà kiến, nhân đó mà được tà xuất gia, tức thuận ở chỗ lý của sáu sư ngoại đạo là nguyên do của ngộ, là thầy. Vả lại, từ đó mà thành tựu đạo xuất gia.

Chánh văn: Thầy ông đọa, ông cũng đọa theo, thế mới có thể thọ nhận thức ăn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Sống thì theo tà kiến, chết thì đọa vào ác đạo.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đã thờ họ làm thầy, họ đọa vào ba ác đạo, thì ông chẳng thể chẳng đọa theo. Tức là thuận ở chỗ, nếu tôn phụng lý của sáu sư mà xuất gia, thì tuy lìa ba ác đạo mà chẳng trái nghịch với nghĩa đọa.

Bản khác ghi: “Chẳng thấy Phật cho đến đọa theo các sư”.

Ngài La-thập nói:

– Nhân kia thấy khác nhau nên chỉ dạy quán bình đẳng. Nếu chẳng thấy Phật thù thắng hơn sáu sư, thì theo họ xuất gia, cùng với họ là một không hoạt tướng khác thì mới được thọ nhận thức ăn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nếu có thể đồng với sáu sư kia mà chẳng phá hoại tướng dị, thì mới có thể thọ nhận thức ăn.

Chánh văn: Nếu ngài Tu-bồ-đề! Vào nơi tà kiến mà chẳng đến bờ kia.

Ngài La-thập nói:

– Từ đây trở xuống là nói nếu chưa hợp bình đẳng thì chưa ra khỏi các khổ lụy. Cho nên nói vào tà kiến; trụ tám nạn, đồng với phiền não, có đầy đủ các pháp ác này, trái với các thiện kia. Các câu sau đều là nói về điều chẳng được.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Bờ kia tức là bờ thật tướng. Kẻ mê hoặc cho tà kiến là tà, bỉ ngạn là chánh, cho nên bỏ tà kiến này mà đến bờ kia. Tà kiến và bờ kia, bản tánh vốn chẳng khác, vậy há có bỏ tà mà cầu bờ kia ư? Vì thế nói vào các tà kiến mà chẳng đến bờ kia mới có thể thọ nhận thức ăn. Từ câu sáu sư cho đến câu không được diệt độ là tự so sánh với chúng sinh nghịch luận để thành nghĩa thuận rộng lớn, ngõ hầu thông thấu các tâm, vì có người chỉ nêu huyền chỉ mà ngăn dứt các điều đúng.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tôn thờ thầy tà kiến thì rơi vào các tà kiến. Còn đến bờ kia là do chánh kiến, nếu vào tà kiến thì chẳng đến bờ kia. Thuận ở chỗ là nếu hiểu được lý tà kiến tức là vào, đã vào được lý ấy tức là bờ kia mà không còn bờ kia nào nữa để đến cả.

Chánh văn: Trụ nơi tám nạn, chẳng được không nạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phàm thấy nạn là nạn, ắt phải lìa nạn mà cầu không nạn, nếu có thể chẳng cho nạn là nạn, thì chắc chắn có thể trụ nơi nạn; vì chẳng cho không nạn là không nạn, cho nên chẳng được không nạn.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đã vào tà kiến thì liền sinh tám nạn, chẳng thể được nơi không có nạn. Thuận ở chỗ nếu đã hiểu được lý tà kiến thì liền được trụ trong lý tám nạn, mà chẳng có chỗ không nạn nào nữa để được.

Chánh văn: Đồng với phiền não, lìa pháp thanh tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phàm ngộ được phiền não chẳng phải phiền não, thì tuy phiền não mà thường thanh tịnh. Nếu cho tịnh là tịnh, thì tuy tịnh mà phiền não. Vì thế nói đồng phiền não mà xa lìa thanh tịnh, đó mới là thường thanh tịnh.

– Vào tà kiến, sinh nơi tám nạn thì không kết sử nào chẳng khởi, bị phiền não trói buộc, chẳng được tự tại, càng xa pháp thanh tịnh. Nhưng thuận ở chỗ, nếu đã trụ trong lý tám nạn, tâm thầm hợp với lý phiền não, thì đó tức là tịnh mà không còn tịnh nào để xa lìa.

Chánh văn: Ông được Vô tránh Tam-muội.

Ngài La-thập nói:

– Vô tránh có hai:

  1. Dùng sức Tam-muội hộ trì chúng sinh, khiến họ chẳng khởi tâm tranh luận.
  2. Tùy thuận pháp tánh, chẳng chống trái, chẳng tranh luận.

Thiện nghiệp tự cho rằng đạt sâu xa được pháp không, không còn trái nghịch luận tranh, nay chẳng thuận bình đẳng mà nói vô tránh thì không khác với chúng sinh.

Chánh văn: Thì tất cả chúng sinh cũng được định này.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Thiện Cát và chúng sinh, tánh tự thường nhất, đâu chỉ Thiện Cát được mà chúng sinh chẳng được ư? Đây là nói tánh vốn chẳng thiên lệch. Ngài Thiện Cát là bậc Giải không đệ nhất trong năm trăm đệ tử, thường khéo thuận pháp tánh, chẳng trái, chẳng tranh. Trong đã chẳng tranh, ngoài lại khéo thuận tâm người, khiến không tranh luận, ngài đã được định này, gọi là Vô tránh Tam-muội.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Trên là cật vấn về việc cậy vào định mà chẳng bình đẳng, nên mới nói ông chẳng được định; ý tuy tại nơi đó nhưng chưa phản bác, vì thế cuối cùng căn cứ vào việc này để chỉ trích rằng nếu Tu-bồ-đề được định này thì chúng sinh không thể không được. Thuận ở chỗ kia chẳng được cũng là đây được, không có gì khác nhau.

Chánh văn: Người cúng cho ngài chẳng gọi là phước điền.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ta nhận vật thí của người khiến cho người đạt được phước lớn, nên gọi là phước điền. Còn nếu nhìn chung thì ta người chẳng khác thì ai là người gieo các phước, ai là mảnh ruộng (điền)?

Chánh văn: Người cúng dường cho ngài sẽ đọa vào ba đường ác.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Sự tổn hại của năm tội nghịch, sự lợi ích của cúng dường, nếu nhìn tổng quát thì đồng nhau, vì chưa giác cho nên thấy khác. Nếu năm nghịch mà có thể làm đọa lạc thì cúng dường cũng đọa lạc.

– Báo và ứng, ảnh và hưởng rất phù hợp, ví như cúng dường cho người tà kiến thì sẽ dẫn đến quả báo tà kiến mà đọa vào ba đường ác. Báo tà kiến tức là không phải phước điền. Đã không phước điền, thì có gì để nói. Nhưng thuận ở chỗ nếu cuối cùng đạt được chánh kiến thì không có phước điền để gọi. Vĩnh viễn xa lìa khỏi ba ác đạo mà chẳng khác với đọa.

Chánh văn: Chung một tay với chúng ma mà tạo ra các bạn bè trần lao.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chúng ma tức bốn ma, cùng làm bạn bè với các trần lao.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Bố thí hay tạo ra quả nên gọi là nghiệp. Nếu sinh tà nghiệp thì chiêu cảm quả báo trong ba cõi, làm chúng sinh chịu lao khổ. Ở đây nói tà kiến và nghiệp là bạn, sau đó mới chiêu cảm quả báo trong ba cõi nhưng nghiệp này tạo thành sự lao nhọc đồng với sự tạo tác của các ma nên nói là đồng một tay. Nhưng thuận ở chỗ đã được chánh kiến thì chẳng khác với các ma, mà làm bạn trần lao.

Chánh văn: Ngài cùng với chúng ma và các trần lao không sai biệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Đã là bạn bè, thì đâu được khác nhau? Phàm chẳng khác, nên có thể trở thành khác.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nếu thọ nhận vật thí mà làm cho người thí bị quả báo tà kiến, thì tổn hại tuệ mạng của họ, là nội ngoại ma. Nhưng thuận ở chỗ nếu khiến họ đạt được bình đẳng, thì sinh được tuệ tâm, ắt chẳng thấy khác với sự tổn hại.

Chánh văn: Có tâm oán hận đối với tất cả chúng sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Làm hại tuệ mạng của họ là ma, thì người oán rất nhiều vậy. Thuận ở chỗ nếu phát khởi tuệ tâm của họ là nghĩa thân hữu, thì chẳng thấy khác với oán.

Chánh văn: Bài báng Phật, khinh hủy pháp Ngài Tăng Triệu nói:

– Tâm oán thân, ý khen chê, pháp thiện ác đều là một, ai nói khác? Ví như nói chẳng khác, cũng là nói vì sao chẳng đồng.

Chánh văn: Chẳng vào chúng số, rốt cuộc chẳng được diệt độ.

– Nguyên do bị tổn hại là do hủy báng Phật, khinh khi pháp, người này chẳng được dự vào hàng bốn chúng. Nhưng thuận ở chỗ nếu dùng nghĩa thân hữu để khen Phật, tôn quý pháp làm thể, thì chẳng khác với hủy báng, cho nên nói là hủy báng.

Chánh văn: Nếu ngài được như thế, mới có thể lãnh thọ thức ăn.

Ngài La-thập nói:

– Nếu ngài tự biết có lỗi sâu nặng như thế thì mới thọ nhận thức ăn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Người phạm trọng tội, chẳng được dự vào hàng Hiền Thánh, rốt cuộc chẳng được diệt độ, nhưng nếu có thể đầy đủ các pháp ác kể trên mới được thọ nhận thức ăn. Vì sao? Phàm bỏ ác theo thiện là lẽ thường của con người. Thế thì thị phi còn nơi tâm, chưa tránh khỏi khổ lụy. Vì thế người thực hành bình đẳng quán, cho rằng còn thiện là hoạn, mới bỏ thiện mà cầu chỗ rốt ráo. Vì xả bỏ ác là khổ lụy, cho nên ngay nơi ác mà trở về gốc, thế thì ngay nơi ác đã có công dứt bặt khổ lụy, còn xả bỏ thiện thì có công vô nhiễm. Cho nên biết đồng với thiện chưa hẳn là được, đồng với ác chưa hẳn là mất. Ý nghĩa trong lời nói của ngài Tịnh Danh tựa hồ như thế.

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ, con nghe những lời ấy xong thì mờ mịt chẳng biết ông ấy nói gì?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nếu theo lời mà luận thì ta chẳng được như thế, nếu theo ý mà suy thì mình cũng chẳng bằng, cho nên rốt cuộc chẳng biết là nói gì?

Chánh văn: Chẳng biết trả lời như thế nào, liền muốn để bát lại mà ra khỏi nhà ông ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Lời của ngài Tịnh Danh thì nghịch mà lý thì thuận, ngài Thiện Cát chưa suy nghĩ được lời này, nên chẳng biết là nói gì, liền bỏ bát muốn đi.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tiến thoái chẳng có nơi y cứ nên chẳng biết trả lời sao, thế thì bị khuất phục. Trước nói nếu như thế mới được thọ nhận thức ăn, nếu chẳng như thế thì chẳng được nhận. Đã chịu khuất phục nên phải bỏ bát, để lại, muốn đi khỏi.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói rằng: “Thưa ngài Tu-bồ-đề! Hãy nhận bát, chớ kinh sợ.

– Kinh sợ chẳng đáp, lại không lấy bát, là chấp trước tướng ngôn ngữ. Vì muốn giải trừ chỗ ngăn trệ này để được thọ lãnh bát cơm, nên mới nói: “Hãy nhận bát, chớ kinh sợ”.

Chánh văn: Ý ông thế nào? Nếu người huyễn do Như Lai biến hóa tạo ra, đem việc ấy hỏi ngài, thì ngài có sợ chăng?

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ngài Tịnh Danh muốn Thiện Cát hoằng dương đạo bình đẳng, dùng vô tâm để nghe, tùy thuận tốt xấu, nhưng ngài Thiện Cát chưa tư duy đến lời này, mê mờ lời nói, cho nên cần phải lập dụ để chỉ bày.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Lời nói cho dù như huyễn hóa tức cũng chẳng thể có tâm nơi lời vấn cật.

Chánh văn: Con nói: “Không sợ”. Ông Duy-ma-cật lại nói: “Các pháp như huyễn hóa, ngài nay chẳng nên kinh sợ!” Ngài Tăng Triệu nói:

– Là bậc Giải không đệ nhất trong các đệ tử, đã biết huyễn hóa là vô tâm, cũng đã biết các pháp như huyễn hóa, dùng tâm này mà nghe thì há có kinh sợ ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Huyễn hóa thì chẳng sợ, các pháp như huyễn hóa thì chẳng được sinh sợ hãi.

Chánh văn: Vì sao? Vì tất cả ngôn thuyết chẳng lìa tướng ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Tướng ấy tức là tướng huyễn. Ngôn thuyết như huyễn hóa, nghe cũng như huyễn hóa, dùng huyễn mà nghe huyễn, há có sợ hãi ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Sở dĩ nói pháp như huyễn hóa cần phải không kinh sợ, là vì các pháp hóa như huyễn, ngôn thuyết cũng như thế. Ngôn thuyết đã nói như huyễn, vì sao phải sợ hãi nơi lời?

Chánh văn: Đến như người trí chẳng chấp trước văn tự, cho nên chẳng sợ. Vì sao? Vì tánh văn tự vốn xa lìa.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phàm văn tự sinh nơi mê hoặc chấp thủ, pháp không chấp thủ thì tướng của văn tự lìa, là pháp hư vọng giả danh, người trí không chấp giữ.

Chánh văn: Không có văn tự là giải thoát.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Giải thoát nghĩa là vô vi chân giải thoát. Phàm danh sinh khởi nơi chẳng đủ, đủ thì không có danh, nên không có văn tự, đó là chân giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Chẳng bị trói buộc nơi văn tự nên nói giải thoát.

Chánh văn: Tướng giải thoát tức là các pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Danh tự sinh nơi pháp, pháp sinh từ danh tự, danh tự đã giải thoát thì các pháp cũng đồng giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Trước dùng các pháp như huyễn để luận không văn tự, nay văn tự giải thoát thì lại nhờ đó để nói các pháp giải thoát.

Chánh văn: Khi ông Duy-ma-cật nói pháp này xong, có hai trăm Thiên tử được Pháp nhãn tịnh. Vì thế con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo ngài Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử.

Ngài La-thập nói:

– Phú-lâu-na, Hán dịch là Mãn; Di-đa-la-ni, Hán dịch là Thiện tri thức; Thiện Tri Thức là tên của người mẹ. Ngài là bậc Luận thuyết Atỳ-đàm đệ nhất trong các Pháp sư.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phú-lâu-na là tên, Hán dịch là Mãn; Di-đa-la-ni là tên người mẹ, Hán dịch là Thiện tri thức, lấy tên mẹ làm tên mình. Ngài là bậc đệ nhất về luận nghị.

Chánh văn: “Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật”. Phú-lâuna đáp: “Bạch Thế Tôn! Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Nhớ khi xưa, con ngồi dưới một cội cây trong rừng thuyết pháp cho các Tỳ-kheo mới nghe.

Ngài La-thập nói:

– Gần thành Tỳ-da-ly có một khu rừng, trong đó có một dòng suối tên là Di-hầu, và các Tăng phòng, là một trong ba tinh xá ở thành Tỳda-ly. Ngài Phú-lâu-na trụ nơi đây thuyết pháp cho các Tỳ-kheo mới học nghe.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: “Thưa ngài Phú-lâu-na! Trước tiên nên nhập định quán xét tâm người rồi sau mới nên thuyết pháp”.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Đối với Đại thừa từ bậc Pháp thân trở lên đã được chân tâm vô ngại, tâm trí vắng lặng, chưa từng không có định. Vì tâm thường định nên luôn chiếu soi khắp vạn sự, chẳng cần suy cầu mới biết. Còn hàng Tiểu thừa tâm còn có hạn, chẳng thể thường định, phàm quán xét, thì khi nhập định mới thấy, xuất định chẳng thấy. Vả lại, trong hàng Thanh văn vị nào có định sâu thì thấy được căn cơ của chúng sinh trong cùng tận tám vạn kiếp; vị có định lực kém thì chỉ thấy được vài đời mà thôi. Còn chỗ thấy của bậc Đại sĩ thì vô cùng. Các Tỳ-kheo mới học này căn cơ thuộc Đại thừa, cần phải được nghe đạo Đại thừa, mà Phú-lâu-na lại nói pháp Tiểu thừa, cho nên khuyên nhập định.

Chánh văn: Chẳng nên đặt thức ăn dở vào bát báu.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Thức ăn dở chỉ nên làm no người đói pháp Tiểu thừa, còn vật báu vô thượng thì đựng đầy vào bát Đại thừa.

Chánh văn: Nên biết tâm niệm của các vị Tỳ-kheo này, chẳng nên cho lưu ly đồng với thủy tinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nên biết được chỗ căn bản trong tâm niệm của họ, chẳng nên khiến cho không thể phân biệt được chân ngụy.

Chánh văn: Ngài đã không biết được căn nguyên của chúng sinh, thì không được dùng pháp Tiểu thừa để phát khởi họ, họ vốn không tổn thương, chớ nên làm họ tổn thương.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Thể Đại thừa của các vị này vốn không tỳ vết, không nên dùng mũi nhọn Tiểu thừa mà làm tổn thương họ.

Chánh văn: Họ muốn đi đường lớn, chớ nên chỉ lối nhỏ, không nên đem cả biển lớn đặt vào dấu chân trâu.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Vật lớn nên đặt vào nơi lớn, há có thể dắt long tượng vào lối thỏ, đặt biển lớn vào dấu chân trâu ư?

Chánh văn: Không nên cho ánh sáng mặt trời đồng với lửa đom đóm.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Sáng tối khác nhau, việc ấy cũng như thế, mà muốn đồng nhau sao được?

Chánh văn: Thưa ngài Phú-lâu-na! Các Tỳ-kheo này, phát tâm Đại thừa đã lâu xa, nửa chừng quên mất.

Ngài Tăng Triệu ghi: Chưa đạt vô sinh, thì hẳn sẽ thoái tâm mà quên mất.

Chánh văn: Mà nay vì sao lại dùng pháp Tiểu thừa dẫn dắt họ. Tôi

xem trí tuệ của Tiểu thừa cạn mỏng, giống như người mù, chẳng thể phân biệt căn tánh lợi độn của chúng sinh. Bấy giờ, ông Duy-ma-cật liền nhập Tam-muội, khiến các Tỳ-kheo tự biết được kiếp trước lâu xa của mình là đã từng ở nơi năm trăm Đức Phật trồng các cội công đức và hồi hướng về đạo Vô thượng Bồ-đề.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ngài Tịnh Danh muốn chỉ lại tâm xưa kia để thành tựu bản ý cho họ, nên mới dùng sức định, khiến các Tỳ-kheo này biết được túc mệnh, tự rõ được mình đã từng trồng cội công đức nơi năm trăm Đức Phật và đã hồi hướng các công đức này về đạo Vô thượng, đó là bản ý của họ.

Chánh văn: Tức thời rỗng rang đạt được bản tâm. Liền đó các Tỳkheo cúi đầu đảnh lễ nơi chân ông Duy-ma-cật. Nhân đó ông thuyết pháp khiến cho các vị Tỳ-kheo không còn lui sụt nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Con nghĩ rằng hàng Thanh văn chẳng biết quán xét căn cơ chúng sinh thì chẳng nên thuyết pháp. Vì thế con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo ngài Ma-ha Ca-chiên-diên:

Ngài La-thập nói:

– Ngài thuộc dòng Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc, là người thông suốt Khế kinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ca-chiên-diên là một họ của giòng Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc, ở đây lấy họ gốc làm tên. Ngài là người giải nghĩa đệ nhất trong các đệ tử Phật.

Chánh văn: Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật. Ca-chiêndiên bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Vì nhớ lại khi xưa, Đức Phật lược nói pháp yếu cho các Tỳ-kheo nghe.

Ngài La-thập nói:

– Pháp yếu nghĩa là tất cả pháp lược nói thành hai loại là hữu vi và vô vi. Ngài Ca-chiên-diên sau đó diễn thuyết lại, nói hữu vi thì có bốn vô thường, vô vi thì vắng lặng.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Như Lai thường lược thuyết pháp hữu vi là vô thường, khổ, không, vô ngã; pháp vô vi thì vắng lặng chẳng động. Hai pháp này gồm thâu tất cả pháp, nên gọi là lược.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Là ngộ được chỗ rốt ráo, nếu muốn ra thì phải từ cửa ngõ phương tiện.

Chánh văn: Sau đó con diễn nói lại các nghĩa ấy. Đó là các nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt.

Ngài Tăng Triệu ghi: Như Lai diễn thuyết chưa từng có tâm, nên pháp được Ngài nói ra chưa từng có tướng. Ngài Ca-chiên-diên chẳng đạt được huyền chỉ, nên sau khi nhập thất đều dùng tướng mà nói; đâu biết Như Lai vì muốn dứt trừ chấp thường nên nói vô thường, chẳng cho là vô thường; dứt trừ chấp lạc nên nói khổ, chẳng phải cho là khổ; dứt trừ chấp thật nên nói không, chẳng phải cho là không; dứt trừ chấp ngã nên nói vô ngã, chẳng phải cho là vô ngã, trừ chấp tướng nên nói tịch diệt, chẳng cho là tịch diệt. Năm pháp này có thể cho rằng là giáo vô ngôn, là luận vô tướng. Nhưng ngài Ca-chiên-diên diễn lại thì khác, vì nghe thì tùy thuận mà tâm có sai biệt, nên nghe vô thường thì chấp thật có lưu động, cho đến nghe tịch diệt thì chấp tướng diệt. Đây là lời nói thì đồng mà chỉ thú lại khác, vì thế dẫn đến sự mê lầm của Ca-chiêndiên.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Ngài Ca-chiên-diên là một bậc Đệ nhất trong hàng phân biệt Phật ngữ. Phật đã lược thuyết trước, thì sau đó Ca-chiên-diên diễn thuật lại. Vì chỉ cần giữ yếu chỉ mà chẳng cần đúng lời, cho nên nói là diễn bày nghĩa ấy.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: “Thưa ngài Ca-chiên-diên! Chẳng nên với tâm hành sinh diệt mà thuyết pháp thật tướng”.

Ngài La-thập nói:

– Nếu không sinh diệt thì không có chỗ tâm hành, không có chỗ tâm hành chính là đến thật tướng. Vì ngài Ca-chiên-diên cho sinh diệt là thật tướng, nên chê trách, bảo là không nên dùng tâm sinh diệt mà nói pháp thật tướng; giải thích gồm thông cả năm câu sau.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Tâm là gì? Mê hoặc nơi tướng mà sinh. Hành là gì? Là tên của tác dụng. Phàm có hình ắt có bóng, có tướng ắt có tâm, không hình thì không bóng, không tướng ắt không tâm. Thế thì tâm tùy theo cảnh mà chuyển; hành nhân dụng mà khởi. Vì thấy pháp sinh diệt, nên tâm có sinh diệt, ngộ pháp chẳng sinh diệt thì tâm chẳng sinh diệt. Ngài Cachiên-diên giảng nghĩa vô thường cho rằng pháp có tướng sanh diệt, có tướng sinh diệt, nên ảnh hưởng đến tâm kia đồng sinh diệt. Phàm thật tướng thâm u, vi diệu, dứt bặt cảnh thường, chẳng phải là pháp mà tâm hữu có thể biết, chẳng phải là điều mà có thể dùng lời để biện biệt; thế thì sao có thể dùng tâm hành sinh diệt để thuyết mà được?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đức Phật đã khen ngài Ca-chiên-diên khéo phân biệt nghĩa, há có lầm lẫn ư? Vì chấp trước lời nói mà luận biện nên phạm khuyết điểm. Phàm điều mà Phật và ngài Ca-chiên-diên nói đều đồng nhau, đến như không đạt được mà chấp giữ thì cũng chẳng thể cho là khác. Nhưng nghĩa của Phật nói không bị phản bác, còn việc của Ca-chiêndiên lại bị sự cật vấn. Vì sao như thế? Vì Phật lấy lý cùng tuyệt làm chủ, lời nói thảy đều thông suốt, còn ngài Ca-chiên-diên thì chưa đạt đến chỗ cùng tột nên nói trái chỉ thú, nên có thể y cứ vào chỗ này mà chê là còn khuyết phạm. Vô thường tức biến đổi đến diệt, khổ tức mất sự yêu thương, không tức tự kỷ chẳng có, vô ngã tức không có chủ, tịch diệt tức không có bốn điều vừa kể. Thế thì bốn việc đó là pháp đáng ghét, không có chúng tức là lý đáng ưa thích. Phàm năm việc trên vốn là lời để biểu thị sự thật của lý, mà lại cho rằng tất cả cảnh sinh diệt là sở hành của tâm. Các Tỳ-kheo hành các sở hành của tâm nên chẳng được giải thoát, nếu ngộ rốt ráo được yếu chỉ này thì mới thật đúng.

Chánh văn: Thưa ngài Ca-chiên-diên! Các pháp rốt ráo chẳng sinh diệt là nghĩa vô thường.

Ngài La-thập nói:

– Phàm muốn nói không thì trước nói vô thường, vô thường là môn đầu tiên của không. Môn đầu tiên thì gọi đó là vô thường, rốt ráo thì gọi đó là không, chỉ thú thì đồng mà lấy sự tinh thô làm sâu cạn. Vì sao nói như thế? Vì nói vô thường tức nói niệm niệm chẳng dừng trụ, chẳng trụ thì dùng hữu để buộc khiến trụ. Tuy đã dẹp trụ lâu mà chưa nói về vô trụ, đó là thô vô thường, chưa đến chỗ cùng tột. Nay một niệm này nếu buộc cho dừng trụ mà sau đó cũng lại trụ, nếu nay trụ, mai sau trụ thì trước sau chẳng biến đổi. Trước sau chẳng biến, thì chẳng hợp, vì khi trụ mà chẳng trụ thì đó là diệt, trụ tức chẳng trụ mới là chân vô thường. Vốn cho trụ là hữu, nay vô trụ thì chẳng có hữu, không có hữu thì rốt ráo không, đây chính là diệu nghĩa của vô thường. Cho nên nói: “Rốt ráo không là nghĩa vô thường”. Ngài Ca-chiên-diên chưa đạt đến chỗ cùng tận, mà cho đó là lý rốt ráo, nên tự rước lấy lời chê trách là vọng chấp.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Đây là luận về nghĩa lược thuyết của Như Lai. Tiểu thừa quán các pháp cho sinh diệt là nghĩa vô thường, Đại thừa cho chẳng sinh diệt là nghĩa vô thường. Tên vô thường tuy đồng, nhưng chỉ thú lại sâu xa siêu tuyệt, đạo ấy thật rỗng xang, hẳn chẳng phải là chỗ suy lường của thường tình. Người đạt được diệu chỉ ấy chính là ngài Tịnh Danh.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Phàm nói vô thường là y cứ vào sự diệt mà nghiệm xét. Ví như cuối cùng có diệt mà đầu tiên chẳng có sinh ư? Nếu đầu tiên thật có sinh, thì sinh chẳng nhất định sinh, sinh chẳng nhất định là sinh, thì diệt làm sao nhất định được? Sinh diệt đã chẳng định, thì chân thể nào có nơi tồn tại, suy xét về lý không tồn tại đó, chính là chỗ chân thật của các pháp. Thật, thì lấy chẳng sinh chẳng diệt làm nghĩa. Há chẳng phải chỗ tồn tại của vô thường ư? Thế thì vô thường tuy là nói về vô của thường, nhưng cũng để biểu hiện nghĩa vô của vô thường. Rốt ráo tức chẳng thể chẳng sinh.

Chánh văn: Năm thọ ấm rỗng không, chẳng có chỗ khởi là nghĩa khổ.

Ngài La-thập nói:

– Vô thường phá hoại các pháp, cho nên khổ. Nếu vô thường thô thì sự phá hoại pháp cũng thô, hoại cũng thô, thì khổ chẳng cùng cực. Nay nói diệu vô thường, thì không pháp nào chẳng bị phá hoại, không pháp nào chẳng bị hoại thì pháp chẳng thể hoại, khổ rất sâu nặng, là chỗ cùng tột của pháp bất khả đắc không. Từ không mà quán thì chẳng hoại chẳng khổ, từ hữu mà nhìn thì tan hoại là nguyên do nghĩa khổ sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Năm ấm hữu lậu, thọ nhận ái nhiễm sinh tử nên gọi là năm thọ ấm. Tiểu thừa cho thọ ấm khởi thì các khổ sinh, đó là nghĩa khổ. Đại thừa thông đạt trong ngoài thọ ấm thường không, vốn tự chẳng khởi, thì có gì mà sinh khổ, đây là nghĩa khổ chân thật.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Phàm khổ là do các sự hội hợp mà thành, cái mà do hội hợp thành, há thật có ư? Vì thế nói năm thọ ấm không là nghĩa khổ. Năm thọ ấm là gốc của khổ. Từ vô thường suy đến sinh và diệt chẳng tại một việc. Vả lại, nói chung cho hữu lậu và vô lậu, nên nói là các pháp. Khổ là nghĩa của không, sinh khởi bên trong. Hơn nữa người đạt được vô lậu thì chẳng lấy việc mất các thọ mà làm khổ, nên chỉ nói thọ ấm mà thôi. Rỗng không, nghĩa là vô thường căn cứ vào chung cuôc mà nghiệm biết, cho nên nói là rốt ráo, khổ lấy không làm thể nên nói là rỗng không. Không có chỗ khởi, nghĩa là vô thường tức nói về sự biến chuyển không gốc, lý hiển tại nơi sinh; khổ là nói về pháp giả hợp, vì thế phối hợp mà nói khởi.

Chánh văn: Các pháp rốt ráo chẳng có là nghĩa không.

Ngài La-thập nói:

– Nói không là muốn trừ có, chẳng phải bỏ có mà giữ không. Nếu bỏ có giữ không, thì không chẳng thật là không. Hai pháp đều dứt bặt mới là nghĩa không.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Tiểu thừa quán các pháp duyên khởi, trong đó không có chủ tể chân thật là nghĩa không. Tuy thường quán nói không mà chưa từng bặt không, nên chẳng rốt ráo. Còn Đại thừa ở nơi có mà chẳng chấp có, nơi không mà chẳng chấp không, lý không há chẳng cùng cực, nên gọi là nghĩa không rốt ráo.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Người mê hoặc đều cho là các pháp là sở hữu của ngã, theo lý đã là khổ, thì sự chẳng theo mình, sự đã chẳng theo ý mình thì chẳng phải là vật nắm giữ của ngã, chẳng phải ngã giữ gìn, thì vật đó ắt chẳng có; có là có mà nói chẳng có; không là không, há nói có ư? Đây là không hữu, không vô, rốt ráo đều dứt bặt, đó chính là nghĩa không.

Chánh văn: Ngã, vô ngã, chẳng hai là nghĩa vô ngã Ngài La-thập nói:

– Nếu trừ ngã để được vô ngã, thì chưa tránh được còn ngã. Vì sao? Phàm nói ngã tức là chủ. Kinh nói rằng: “Có hai mươi hai căn, hai mươi hai căn tức hai mươi hai chủ”, tuy nói không có chủ tể chân thật mà có chủ của tác dụng, đó còn là phế bỏ chủ mà lập chủ. Nên nói nếu ngã, vô ngã chẳng hai mới là vô ngã.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Tiểu thừa vì chấp ngã mà bị phiền lụy, cho nên lập vô ngã. Vô ngã đã lập thì đối với ngã mà thành hai. Đại thừa thì thị phi đồng một chỉ thú, hai pháp chẳng khác, đó là nghĩa vô ngã.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Lý đã chẳng theo ngã là không, há có ngã có thể tạo tác ư? Thế thì vô ngã. Vô ngã vốn là ngã trong vô sinh tử, chẳng phải không có ngã Phật tánh .

Chánh văn: Pháp vốn chẳng sinh, nay cũng chẳng diệt là nghĩa tịch diệt.

Ngài La-thập nói:

– Đây là nói về nghĩa Niết-bàn. Do sinh tử hết nên có diệt, sinh tử đã chẳng sinh thì không có Niết-bàn diệt, không có Niết-bàn diệt là chân tịch diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Tiểu thừa cho ba cõi là loạn động nên mới diệt mà cầu vô vi; phàm loạn động đã hình thành, cho nên diệt tức để sinh. Đại thừa thì quán các pháp vốn chẳng sinh, nay nào có diệt, chẳng sinh chẳng diệt tức là chân tịch diệt.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Pháp đã là vô thường, khổ, không vô ngã, nếu ngộ được thì rốt ráo Niết-bàn, Niết-bàn tức chẳng sinh, chẳng sinh tức sự bặt. Phàm cuối cùng được tịch diệt, là vì pháp vốn chẳng thật sinh, chẳng thật sinh, thì chỉ diệt là thật ư?

Chánh văn: Khi thuyết pháp này xong, các Tỳ-kheo kia tâm được giải thoát. Vì thế con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo ngài A-na-luật rằng.

Ngài La-thập nói:

– Là bậc Đệ nhất về Thiên nhãn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– A-na-luật, Hán dịch là Như ý, thuộc dòng Sát-đế-lợi, là người Đệ nhất về Thiên nhãn trong hàng đệ tử của Phật.

Chánh văn: “Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật”. A-na-luật bạch Phật rằng: “Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Nhớ lại khi xưa, con đang kinh hành ở một nơi kia, bỗng có Phạm vương tên là Nghiêm Tịnh cùng với vạn Phạm vương khác phóng ánh sáng nghiêm tịnh, đến nơi con đang kinh hành, cúi đầu thi lễ rồi hỏi con rằng:

“Thưa ngài A-na-luật! Thiên nhãn của ngài thấy được bao xa?” Ngài Tăng Triệu nói:

– Các Phạm vương nghe nói A-na-luật là bậc Thiên nhãn đệ nhất, cho nên hỏi thấy được xa gần.

Chánh văn: Con liền đáp rằng: “Nhân giả! Tôi thấy tam thiên đại thiên thế giới của cõi Phật Thích-ca Mâu-ni, như thấy trái Am-ma-lặc trong lòng bàn tay.”

Ngài Tăng Triệu nói:

– Quả Am-ma-lặc tựa như quả cau, ăn vào sẽ trừ được khí lạnh. Vì lúc bấy giờ, tay cầm quả này, cho nên lấy làm dụ.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: “Thưa ngài A-na-luật! Chỗ thấy của Thiên nhãn đó là thuộc về tướng tạo tác, hay là tướng không tạo tác?

Ngài La-thập nói:

– Sắc không có tướng nhất định, nếu thấy sắc có tinh thô, xa gần rồi cho là sắc, thì đó là con mắt bệnh hoạn điên đảo, cho nên đồng với ngoại đạo. Nếu chẳng là tướng do sắc tạo, thì sắc vô vi, vô vi thì chẳng thể thấy được xa gần, mà nói là thấy đến tam thiên đại thiên? Tiến thoái đều chẳng được, nên chẳng hợp với Phạm thiên, bị khuất phục nơi hai câu vấn nạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Sáu căn của Báo thân trong ba cõi đều từ kết nghiệp mà sinh, đó gọi là tướng có tạo tác, pháp thân vượt ngoài ba cõi, sáu căn chẳng phải do kết nghiệp sinh, đó gọi là tướng không do tạo tác. Vì có tạo tác, nên có chỗ không tạo tác. Pháp thân này không tạo tác nên không có gì không tạo ra.

Chánh văn: Giả sử là tướng tạo ra thì đồng với ngoại đạo năm thông.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ngoại đạo tu pháp thiền thế tục đạt được năm thần thông, nhưng chẳng thể vượt ra ngoài cảnh thấy nghe của cõi phàm phu. Đây là tướng có tạo tác, muốn đồng được ư?

Chánh văn: Nếu là tướng không tạo tác tức là vô vi, thì chẳng thể thấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nếu là tướng không do tạo tác, thì đó là tướng của pháp thân vô vi, há có thể nói là thấy xa gần ư?

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ, con chỉ biết im lặng.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Muốn nói có tạo tác thì đồng với ngoại đạo, muốn nói không tạo tác thì trái với ý thấy ở trước, nên chẳng biết trả lời như thế nào?

Chánh văn: Các Phạm thiên nghe lời này, đạt được điều chưa từng có, liền đảnh lễ mà hỏi rằng: “Thưa ngài! Trên đời này ai là người được chân thiên nhãn?”

Ngài La-thập nói:

– Vì thiên nhãn của A-na-luật là tướng do sắc tạo, nên chẳng phải là chân thiên nhãn, nếu chẳng phải là tướng tạo tác thì mới là chân Thiên nhãn. Chưa biết ai có, cho nên mới hỏi.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Các Phạm vương cho rằng thiên nhãn chính là dùng sự thấy rõ nhìn xa làm lý, mà ông Tịnh Danh vặn hỏi lại trái với bản ý của họ, nên nghi có chân thiên nhãn khác, vì thế có lời hỏi này.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói: “Có Đức Phật Thế Tôn đã đạt được chân thiên nhãn, thường trụ nơi tam-muội, thấy suốt các cõi Phật chẳng có hai tướng.

Ngài La-thập nói:

– Tức nói chẳng phải hai tướng tinh thô do sắc tạo ra.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chân thiên nhãn tức là con mắt vô tướng của Pháp thân Như Lai, chiếu soi thấu triệt các hình, lớn nhỏ đều thấy, vạn sắc đều hiển bày, nếu có vật gì trước mắt ấy thì chưa từng chẳng thấy mà chưa từng thấy. Cho nên không có hai tướng là sắc và mắt. Hàng nhị thừa nơi định thì thấy, xuất định thì chẳng thấy, Như Lai thì chưa từng chẳng định, chưa từng chẳng thấy, nên thường trụ nơi tam-muội.

Chánh văn: Bấy giờ, Phạm vương Nghiêm Tịnh cùng năm trăm Phạm vương quyến thuộc đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đảnh lễ nơi chân ông Duy-ma-cật, rồi bỗng nhiên biến mất.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chỗ phát minh của các Phạm vương được thành lập như thế.

Chánh văn: Cho nên con không thể kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo Ưu-ba-ly rằng:

Ngài La-thập nói:

– Người này luôn luôn thệ nguyện rằng đời đời kiếp kiếp phụng trì giới luật, cho nên nay là bậc Đệ nhất về trì luật.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ưu-ba-ly, Hán dịch là Thượng thủ, là Đệ nhất trì luật trong các đệ tử của Đức Phật.

Chánh văn: “Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật”. Ưu-ba-ly bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy! Vì sao? Nhớ lại khi xưa, có hai vị Tỳ-kheo phạm luật hạnh, lấy làm hổ thẹn.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Người phạm tội ắt sinh hoặc tâm sợ tội. Nguyên vì làm sai không chỉ sợ khổ hoạn mà còn xấu hổ bởi việc làm của mình.

Chánh văn: Chẳng dám đến hỏi Đức Phật.

Ngài La-thập nói:

– Vì Phật tôn quý, nên sự hổ thẹn càng sâu nặng, hơn nữa rất sợ hãi khi đến trước chúng. Lại muốn nhờ đức Như Lai để thấy rõ pháp tướng. Quyết định tội của chúng tôi ắt phải rơi vào vô tàn, thì vĩnh viễn rời khỏi chúng Tăng, dứt bặt con đường chân chánh.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đã trái giới cấm của Phật, lại thêm việc làm ngu si, cho nên chẳng dám trình bày để hỏi Phật.

Chánh văn: Bèn đến hỏi con rằng: “Thưa ngài Ưu-ba-ly! Chúng tôi phạm giới luật, hổ thẹn chẳng dám đến hỏi Phật, xin Ngài giải trừ nghi hối để tránh khỏi tội ấy”.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Hổ thẹn vì việc phạm tội của mình chẳng dám đến hỏi Phật, mà đến hỏi ngài Ưu-ba-ly, vì Ưu-ba-ly là người Đệ nhất trì luật. Hai vị này nghi rằng tội mình phạm chưa biết nặng hay nhẹ. Hối hận vì đã phế bỏ đạo hạnh, nên xin ngài Ưu-ba-ly giải trừ lỗi này.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Trái giới cấm là tội nặng nhưng có hối cải là quý, vì thế cho là có pháp để hối cải. Ngài Ưu-ba-ly là người rất giỏi về luật, cho nên đến hỏi. Nghi tức là sợ tội đến với mình mà còn có một cái gì khác chưa đến.

Hối nghĩa là đã sợ tội ấy ắt phải tự hối tiếc vì việc làm của mình.

Chánh văn: Con liền căn cứ theo như pháp để giải nói.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Như pháp tức y theo giới luật để quyết định tội ấy nặng hay nhẹ, để chỉ bày pháp sám hối tội lỗi.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: “Thưa ngài Ưu-ba-ly! Chớ nên tăng tội thêm cho hai vị Tỳ-kheo này!” Ngài Đạo Sinh nói:

– Chưa biết tướng tội, còn chấp trước nên dẫn đến sợ sệt, đã rõ được thuộc về đâu, thì cải hối. Pháp luật nặng thì tâm chấp sợ sệt càng sâu, mê hoặc sâu thì tội càng nặng.

Chánh văn: Nên dứt trừ ngay, chớ nên não loạn tâm của họ!

Ngài La-thập nói:

– Người phạm luật thì tâm thường sợ sệt, nếu định tướng tội, lại càng thêm bức thiết, thế thì có thể cho rằng tâm ưu não mà tội tăng. Nếu nghe thật tướng thì tâm rỗng rang không nương gá, tội lỗi tự tiêu.

Cho nên nói: “Nên diệt trừ ngay”.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Hai vị Tỳ-kheo này đã phạm luật hạnh, thì tâm nghi hối rất sâu, nếu lại kết thêm tội thì phiền lụy càng dày. Phiền lụy càng dày thì tội càng tăng. Nên nói ngay về pháp không, để họ ngộ được tội chẳng thật. Ngộ được tội chẳng thật thì tâm phiền lụy dứt trừ, tâm phiền lụy dứt trừ thì tội cấu diệt, đâu vì chẳng xét biết căn cơ của họ mà định tội, não loạn tâm trí, tăng thêm tội khổ cho họ ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Trừ tội thì dùng thuật, đối với lý đã là xa vời. Vả lại, tùy bệnh mà cho đúng phương thang, nếu sai thì tăng thêm bệnh.

Chánh văn: Vì sao? Vì tánh tội chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Giải thích lại để trừ diệt ngay tội cho họ. Phàm tội sinh là do nhân duyên mà thành, tìm cầu thật tánh của nó, chẳng ở ba nơi. Như giết là nhân có bỉ ngã, bỉ ngã tức là trong ngoài. Riêng tự nơi ngã thì chẳng có giết, riêng tự nơi bỉ cũng chẳng có giết, bỉ ngã đã chẳng có, há ở khoảng giữa ư? Đó là do các duyên hợp thành, tìm cầu nó đều chẳng thật.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Hoặc chấp vốn khởi từ người, thì tội kia há thật có ư? Nếu thể hội được nó thì chẳng tự buộc nơi tội. Đã chẳng tự buộc nơi tội thì liền ra khỏi cảnh ấy, người đã ra khỏi cảnh ấy, thì tội há có được ư? Chẳng tại bên trong tức chẳng tại tâm ta, nếu tại tâm ta thì chẳng cần đợi thêm bên ngoài. Chẳng tại bên ngoài tức chẳng phải nơi việc của người, nếu tại việc của người thì chẳng phải tội của ta. Chẳng tại khoảng giữa, tức là hợp với ta và sự. Tội là một, há tại hai nơi sao?

Chánh văn: Như Phật đã nói: “Do tâm cấu nên chúng sinh cấu, tâm tịnh thì chúng sinh tịnh.” Ngài La-thập nói:

– Cho tội là tội, thì tâm tự sinh cấu uế, tâm tự sinh cấu uế thì cấu uế thường làm khổ lụy tâm, cấu uế thường làm khổ lụy tâm thì tội làm cấu uế chúng sinh. Nếu chẳng cho tội là tội thì tâm liền thanh tịnh, tâm tịnh thì chúng sinh tịnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Dẫn lời Phật để chứng minh. Tâm cấu tức là tâm chấp trước mê hoặc. Chúng sinh cấu, tức tâm đã cấu thì tội ắt sẽ đến. Nếu không chấp trước mê hoặc thì liền tịnh, tâm đã tịnh thì tội kia liền trừ.

Chánh văn: Tâm cũng chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tội tuy do nơi tâm cấu uế mà có, nhưng nếu ngộ được tánh tội, ắt tội sẽ tự trừ. Trước đã nói tội chẳng ở trong, ngoài và khoảng giữa, cho nên nay nói tâm cũng chẳng ở ba nơi như trên.

Chánh văn: Nếu tâm như thế thì tội cấu cũng thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ngược tìm để biết gốc, phàm nắm gốc để biết ngọn, giữ mẹ để thấy con. Phật nói chúng sinh cấu hay tịnh đều do tâm khởi, tìm gốc tâm, biết chẳng tại ba nơi, tâm đã chẳng tại, thì tội cấu cũng có thể tự biết.

Chánh văn: Các pháp cũng như thế, chẳng ra ngoài Như.

Ngài Tăng Triệu ghi: Vạn pháp rối ren đều do tâm khởi, há chỉ có cấu tịnh như thế thôi ư? Cho nên nói các pháp cũng như thế, chẳng lìa nơi Như, Như tức là Như bản tướng.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tâm đã chẳng tại ba nơi, thì tội cấu cũng như thế, tất cả đều chẳng khác, thì các pháp há có khác ư? Thế thì không đâu chẳng như.

Chánh văn: Như ngài Ưu-ba-ly, khi tâm tướng được giải thoát thì có cấu uế chăng?

Ngài La-thập nói:

– Tâm tướng, tức bậc A-la-hán cũng quán tâm thật tướng chúng sinh mà được giải thoát. Nay hỏi khi thành đạo, tức là khi quán thật tướng trong giải thoát đạo thứ chín, thì có thấy tội cấu trong đó chăng?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Dùng Ưu-ba-ly mà suy nghiệm. Tâm tướng thì không ở trong ngoài và khoảng giữa. Được giải thoát tức tâm chẳng bị trói buộc. Vì tâm tướng đã được giải thoát thì không thấy có tội cấu.

Chánh văn: Con đáp là “không”.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Khi được giải thoát, tức lúc mới thành La-hán, được giải thoát đạo thứ chín, bấy giờ, tâm ngầm hợp nhất nghĩa, không còn tâm tướng. Vì muốn dùng tâm này so sánh để nói về tâm tướng của chúng sinh. Cho nên trước nêu ra lời này.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói rằng: “Tâm tướng của tất cả chúng sinh không cấu nhiễm cũng giống như thế!” Ngài Tăng Triệu nói:

– Tâm tướng của quần sinh cũng như tâm tướng giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tâm tướng chúng sinh không cấu uế, theo lý cũng chẳng khác, chỉ có thấy và chẳng thấy khác nhau mà thôi.

Chánh văn: Thưa ngài Ưu-ba-ly! Vọng tưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh.

Ngài La-thập nói:

– Tôi vốn không có tướng, mà cưỡng cho là tướng sinh, nên thuộc vọng tưởng, vọng tưởng tự sinh cấu nhiễm, chẳng phải là lỗi của lý.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ngài Ưu-ba-ly phân biệt tội tướng để trừ cấu nhiễm, nhưng tội vốn không có tướng mà lại vọng sinh tướng của tội, thì trần cấu càng tăng. Lời này tuy chung nhưng ý thì tại nơi đây.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Cấu, thật chẳng có, chỉ ở trong vọng tưởng là cấu. Nếu không vọng tưởng, thì cấu tức tịnh. Vọng tưởng tức ý tưởng vọng tưởng phân biệt.

Chánh văn: Điên đảo là cấu.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Cái thấy đã chuyển, cái thấy chuyển bên trong thì vọng phân biệt các việc bên ngoài.

Chánh văn: [Không điên đảo là tịnh.] Ngài Tăng Triệu nói:

– Không có tội cấu mà thấy có tội cấu là điên đảo.

Chánh văn: Chấp ngã là cấu.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nếu chấp tướng ngã thì chẳng thể xả bỏ tự kỷ để trở về với lý.

Đã chấp tướng ngã thì cái thấy liền chuyển.

Chánh văn: Chẳng chấp ngã là tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Thấy tội tức còn ngã.

Chánh văn: Thưa ngài Ưu-ba-ly! Tất cả pháp sinh diệt đều chẳng dừng.

Ngài La-thập nói:

– Từ đây trở xuống giải thích vì sao tội chẳng thật.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Các pháp đều từ vọng tưởng sinh, tất cả đều như thế.

Chánh văn: Như huyễn, như ánh chớp, các pháp chẳng đợi nhau, cho dù một niệm cũng chẳng trụ.

Ngài La-thập nói:

– Tâm trước chẳng đợi tâm sau sinh rồi mới diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Thành tựu nghĩa vô tướng thường tịnh nêu ở trước. Các pháp như ánh chớp sinh sau chẳng dừng, một niệm khởi, một niệm diệt chẳng chờ đợi nhau. Trong khoảng khảy móng tay có sáu mươi niệm trôi qua, các pháp không có một niệm dừng trụ, huống là muốn dừng lâu. Không trụ thì như huyễn, như huyễn thì chẳng thật, chẳng thật thì không, không thì thường thanh tịnh; thế thì các vật đều tịnh, đâu có tội nào buộc ngã?

Chánh văn: Các pháp đều là vọng kiến.

Ngài La-thập nói:

– Đều do vọng kiến, nên cho rằng pháp có.

Chánh văn: Như chiêm bao, như sóng nắng, như bóng trăng trong nước, như ảnh trong gương, do vọng tưởng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Trên là nói về pháp bên ngoài chẳng trụ, đây là nói về vọng kiến nơi nội tâm, đều là luận về nghĩa không. Trong ngoài khác nhau, phàm là vọng kiến thì cảnh thấy chẳng thật, cảnh thấy chẳng thật, thì thật nằm ngoài cảnh, cảnh thật nằm ngoài cảnh được thấy thì thấy chỗ chẳng thể thấy, thấy chỗ chẳng thể thấy, cho nên không tướng, thường thanh tịnh. Hai dụ trên là nói về chóng diệt, bốn dụ này là nói về vọng tưởng.

Chánh văn: Người biết được như thế, gọi là phụng luật.

Ngài La-thập nói:

– Phụng luật, bản Phạm gọi là Tỳ-ni. Tỳ-ni, Hán dịch là Thiện trị, nghĩa là tự đối trị dâm, nộ, si, hoặc đối trị ác chúng sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Hiểu biết như thế, thì chẳng sợ phạm luật.

Chánh văn: Người nào rõ được nghĩa này tức là khéo biết.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nếu có thể biết pháp như thế gọi là khéo biết phụng trì luật. Chẳng biết pháp này mà gọi là người Trì luật đệ nhất là sao? Khiến biết được Ưu-ba-ly đã hiểu lầm ý Thánh giáo.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Khéo biết luật tức là lý.

Chánh văn: Bấy giờ, hai vị Tỳ-kheo này nói rằng: “Thật là bậc Thượng trí! Ngài Ưu-ba-ly chẳng thể bằng được! Là bậc Thượng thủ về trì luật mà chẳng nói được!” Ngài Tăng Triệu nói:

– Hai vị Tỳ-kheo ngộ được tội tánh thường tịnh, không còn nghi hối, cho nên khen ngợi.

Chánh văn: Con đáp rằng: “Ngoài đức Như Lai ra, chưa có một Thanh văn hay vị Bồ-tát nào chế phục được biện tài nhạo thuyết của ông ấy!

Ngài Tăng Triệu nói:

– Bên trong có trí nhạo thuyết sinh khởi thì thuyết pháp vô cùng tận gọi là nhạo thuyết biện. Biện này vừa khởi thì hàng Bồ-tát Bổ xứ còn khen ngợi, huống gì là hàng Thanh văn.

Chánh văn: Trí tuệ của ông ấy sáng tỏ thông đạt như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Sáng tỏ thông đạt như thế, tôi đây há bằng được ư?

Chánh văn: Bấy giờ, hai vị Tỳ-kheo liền dứt trừ nghi hối.

Ngài La-thập nói:

– Có tội thì tự sinh tâm lo sợ buồn khổ, tội đã không thì nghi hối tự diệt.

Chánh văn: Phát tâm Vô thượng Bồ-đề và nguyện rằng: “Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được biện tài như thế”. Cho nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo ngài La-hầu-la rằng:

Ngài La-thập nói:

– La-hầu-la là tên gọi. Khi A-tu-la nuốt mặt trăng. La-hầu-la, Hán dịch là Phú chướng, nghĩa là che lấp ánh sáng của mặt trăng. Ngài Lahầu-la sáu năm ở trong thai mẹ, bị ngăn che, nên có tên như thế. Là bậc Đệ nhất về mật hạnh trong hàng Thanh văn. Ngày đức Bồ-tát xuất gia các thầy tướng số nói rằng: “Nếu đêm nay không xuất gia, thì sáng hôm sau bảy báu tự đến, làm Chuyển luân Thánh vương thống trị bốn thiên hạ. Nghe thế, vua Tịnh Phạn liền trong đêm ấy tăng thêm kỷ nhạc để làm Thái tử vui thú. Bấy giờ, tâm dục phát khởi, ngài La-hầu-la tức thời nhập thai. Ngay trong đêm ấy Da-da-đà-la có thai, các trời Tịnh cư cùng nhau buồn bả mà nói rằng: “Bồ-tát bị ái dục trói buộc, mê lụy nữ sắc; chúng sinh thật đáng thương xót, ai sẽ cứu độ họ đây?”. Tức thời biến các kỹ nữ giống như người chết, rất ghê sợ, khiến tâm Bồ-tát nhàm chán, liền khuyên xuất gia. Xa-nặc dắt ngựa, Tứ Thiên vương đỡ chân vượt thành mà đi, đến nơi cội Bồ-đề tư duy, sáu năm khổ hạnh, đêm cuối cùng thành Phật. Lúc bấy giờ, La-hầu-la mới được sinh ra. Sau khi sinh, nhũ mẫu của Đức Phật nói rằng: “Tất-đạt-đa xuất gia đã sáu năm, vậy ngươi có thai từ đâu? Nếu mang thai sáu năm thì thật là điều chưa từng nghe ở thế gian này”. Các Thích tử nghe thế bèn cùng nhau luận bàn cho rằng đây là điều chẳng lành, hủy nhục giòng họ Thích, ắt là có tư thông, muốn y theo phép mà giết đi. Da-du nói: “Xin gặp được Đại vương rồi sẽ chết”. Bây giờ, vua đang đứng cách một bức màn nói rằng: “Hãy trình bày đầy đủ nguyên do cho ta biết!”. Da-du bèn thuật đầy đủ sự thật đã xảy ra: “Chẳng phải là con tư thông, mà chính là huyết thống của Thái tử. Từ khi Thái tử xuất gia, con luôn sầu khổ, nằm trên đất lạnh, cho nên đứa trẻ không sinh ra đúng thời gian”. Lại nói với vua rằng: “Đại vương hãy tự nhìn đứa bé này, sắc tướng dung mạo có đúng là cháu của mình chăng?”. Vua liền bồng đứa bé lên xem thì thấy rất giống với Thái tử, vua liền khóc và nói rằng: “Đúng là cháu của ta”. Đức Phật muốn chứng minh việc này, nên hóa làm một Phạm chí, vào vương cung gặp đứa bé hỏi rằng: “Con tên gì? Đứa bé đáp: “Con tên La-hầu-la”. Phạm chí khen rằng: “Đúng thay! Vì nhân duyên nghiệp mà con ở trong thai sáu năm, bị ngăn che, cho nên đặt tên như thế”. Đức Vua bèn hỏi: “Đó là nhân duyên nghiệp gì?”. Đức Phật đáp: “Ta biết nghiệp duyên, chẳng biết nghiệp gì?”. Sau Đức Phật trở về nước, La-hầu-la thấy Phật có thân tướng trang nghiêm, tâm sinh cung kính, phát nguyện muốn xuất gia. Người mẹ nói rằng: “Người này xuất gia đạt thành Thánh đạo! Về đạo thì con chẳng có phần, đâu cần phải xuất gia”. La-hầu-la nói: “Nếu làm một người đắc đạo, thì con sẽ đắc. Liền bảo người cạo tóc, tóc cạo gần hết chỉ còn một chỏm nhỏ trên đỉnh, người ấy lại nói: “Nếu cạo sạch thì đâu khác với người chết, sau này nhất định người không hối tiếc chứ? Đáp rằng: “Ngôi vua, trân bảo, vô số điều vui thú kỳ diệu mà ta còn bỏ được huống gì một chỏm tóc bé xíu này! Tâm đạo kiên cố, bỏ ngôi vua xuất gia, ngài Xá-lợi-phất là Hòa thượng truyền giới. Nhân duyên và việc xuất gia tu pháp Thanh văn của ngài La-hầu-la đã lược thuyết như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

– La-hầu-la, Hán dịch là Phú chướng. Vì sáu năm ở trong thai mẹ, bị ngăn che với thế gian, cho nên đặt tên như thế. Là vị có Mật hạnh bậc nhất trong hàng đệ tử Phật.

Chánh văn: Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật! La-hầu-la thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy! Vì sao? Nhớ khi xưa, các Trưởng giả ở thành Tỳ-da-ly đến chỗ con, cuối đầu đảnh lễ rồi hỏi rằng: “Thưa ngài La-hầu-la, ngài là con Phật…” Ngài Đạo Sinh nói:

– Tức là nói ngài kế thừa nền móng của bậc Thánh.

Chánh văn: Bỏ ngôi vị Chuyển luân vương.

Ngài La-thập nói:

– Chuyển luân vương cũng có vị chẳng nhập thai, như Đảnh Sinh Vương. Xưa có một vị Chuyển luân vương, trên đảnh vị này có sinh một bướu, vương lo sợ cho đó là ung nhọt, vị Bà-la-môn muốn dùng dao mổ phá, vương giận dữ nói rằng: “Vì sao dám dùng dao đặt trên đảnh đầu Đại vương?”. Lại có một vị Bà-la-môn khác dùng thuốc thoa vào bướu ấy, bảy ngày sau bướu trên đầu vỡ ra, trong đó có một đứa bé, tướng mạo đoan chánh oai nghiêm, bèn giữ lấy nuôi dưỡng, sau kế vương vị. Vì sinh tử đảnh đầu, nên gọi là Đảnh Sinh Vương. Hoặc có vị sinh từ vai, cánh tay, chân… tất cả đều sinh từ người nam, Phật, nếu chẳng xuất gia thì sẽ làm vị đại Chuyển luân vương thống trị bốn thiên hạ. Ngài Lahầu-la, nếu chẳng xuất gia thì làm vua ở cõi Diêm-phù-đề. Những quỷ thần cư ngụ trong vòng mười do-tuần ở mặt đất và trong vòng mười dotuần ở trên hư không đều là cấp sứ của ngài La-hầu-la. Ngài La-hầu-la phạm khuyết điểm là có bốn nguyên do:

  1. Không thấy được căn cơ của người, cho thuốc chẳng đúng.
  2. Công đức xuất gia vô lượng mà nói có hạn lượng.
  3. Tức thật tướng, mà dùng tướng để thuyết.
  4. Pháp xuất gia vốn là thật tướng và Niết-bàn, xuất gia chính là phương tiện của hai pháp này, nay tuy chưa đạt được nhưng đã có tướng ấy.

Ngài La-hầu-la tuy có nói sự cao quý của xuất gia, nhưng chưa nói đến tướng rốt ráo, cho nên trái với lý, mất chân nghĩa, mà bị khuất phục là điều đúng. Hai vị tuy đều nói về công đức xuất gia, nhưng ngài La-hầu-la bị bốn điều sai, trái tông chỉ; đúng sai trái nghịch sai biệt như thế.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Ngài La-vân có tướng làm Chuyển luân vương, cai trị cõi Diêm-phù-đề.

Chánh văn: Xuất gia tu đạo.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Ý nói rằng chẳng nên xả bỏ mà xuất gia.

Chánh văn: Việc xuất gia ấy có lợi ích gì?

Ngài La-thập nói:

– Các Trưởng giả thấy La-hầu-la cạo bỏ râu tóc, đắp y thô xấu, ôm bát khất thực để nuôi sống sinh mạng, là chỉ mới thấy được những điều mà La-hầu-la đạt được. Từ bên ngoài mà nhìn thì thật đáng thương. Vì tiếc cho khi xưa, buồn thương cho hôm nay mà mong cầu La-hầu-la được lợi lạc, cho nên hỏi về lợi ích.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Đức Phật, nếu chẳng xuất gia thì làm Chuyển luân vương, thống trị bốn thiên hạ; La-hầu-la chẳng xuất gia thì sẽ làm Thiết luân vương, thống trị một thiên hạ. Điều ngài xả bỏ chẳng phải là nhỏ, thì điều cần cầu ắt phải lớn, nên mới hỏi về chỗ lợi ích.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đã bỏ mà xuất gia, về sau ắt sẽ có việc tốt đẹp. Vậy rốt cuộc đạt được lợi ích gì nơi đây?

Chánh văn: Còn liền như pháp mà nói về lợi ích của công đức xuất gia.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chẳng biết rõ căn cơ, mà như pháp nói về lợi ích của công đức xuất gia.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Sự vinh hoa phú quý thế gian tuy có vui thích nhưng khó giữ lâu bền, lý xuất gia thì mãi mãi an lạc mà vô vi, há có thể cho là đồng thời mà luận hơn kém ư?

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: “Thưa ngài La-hầu-la! Chẳng nên nói về lợi ích của công đức xuất gia”.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Các Trưởng giả lấy tham muốn dục lạc giữ gìn vinh hoa phú quý làm bản hoài, nếu nghe được thì chuyển sinh tham trước, thế thì trái với lợi ích của xuất gia, đối với họ chẳng đúng, cho nên ông Duy-ma nói như thế.

Chánh văn: Vì sao? Vì không lợi ích, không có công đức mới là xuất gia.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phàm ý xuất gia tức là khéo đạt vô vi, đạo vô vi há có công đức và lợi ích ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Chính là dùng không lợi ích, không công đức để làm lý xuất gia.

Chánh văn: Pháp hữu vi thì có thể cho là có lợi ích, có công đức.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tham muốn dục lạc là pháp vô cùng là pháp hữu vi.

Chánh văn: Phàm xuất gia là pháp vô vi, trong pháp vô vi không có lợi ích, không có công đức.

Ngài La-thập nói:

– Đối với đạo phẩm vô lậu thì tất cả pháp và luật nghi đều gọi là pháp xuất gia, pháp xuất gia thì không có lợi ích. Nếu nơi pháp thế tục

thì chịu sinh tử mãi mãi, quả báo lợi ích càng tích tụ nhiều. Còn như pháp xuất gia, hôm nay tuy có, cuối cùng thì không. Vì sao? Vì muốn mượn sự mà trừ sự, nhân hữu mà lập không, để ra khỏi cõi công đức vào cảnh không lợi, cảnh không lợi tức Niết-bàn. Nay căn cứ vào có lợi mà nói không lợi, là từ nhân mà nói quả.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phàm có quả vô vi ắt có nhân vô vi, nhân quả đồng tướng là đạo tự nhiên. Xuất gia là vô vi, là nhân vô vi, vô vi thì không lợi, không công đức, thì biết xuất gia cũng như thế.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Vô vi là pháp biểu lý, nên thật không có công đức và lợi ích.

Chánh văn: Thưa ngài La-hầu-la! Xuất gia, tức không phải kia, không phải đây, cũng không phải chính giữa.

Ngài La-thập nói:

– Đây tức trong nhân mà nói về tướng Niết-bàn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ngụy xuất gia thì ghét sinh tử mà quý trọng Niết-bàn kia, vì thế mà có khoảng giữa, ba nơi khác nhau. Chân xuất gia, thì dứt vạn khổ, bặt đây kia, thì há có thị phi, ba nơi khác nhau ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Kia là xuất gia, đây là ngã, khoảng giữa là hai pháp này. Lợi ích của công đức xuất phát từ ba nơi này, ba nơi này đã không thì nào có lợi ích công đức?

Chánh văn: Lìa sáu mươi hai kiến.

Ngài La-thập nói:

– Vì không lợi ích, nên lìa các kiến.

Chánh văn: Trụ nơi Niết-bàn.

Ngài La-thập nói:

– Pháp xuất gia là trụ ở, tức là nói hướng đến Niết-bàn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Đã không đây kia thì xa lìa các tà kiến, đồng Niết-bàn. Trên là nói về nghĩa xuất gia, từ đây trở xuống là nói về sự xuất gia. Tuy nói sự, nhưng vô sự nơi sự. Thế thì xuất gia lấy việc dẹp bỏ phiền não làm chí, lấy vô vi làm tâm, vì tâm vô vi, nên các đức tạo ra cũng đều vô vi.

Chánh văn: Là pháp mà người trí thọ nhận.

Ngài La-thập nói:

– Tất cả Hiền Thánh và các bậc Đại nhân đều khen ngợi, thọ trì pháp xuất gia.

Chánh văn: Là pháp mà bậc Thánh hành trì Ngài La-thập nói:

– Các bậc Thánh hành pháp này mà thông đạt.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Bậc Hiền trí nghe pháp này mà vâng theo, các Thánh hành pháp này mà thông đạt. Có thể cho đó là đạo xuất gia chân thật.

Chánh văn: Hàng phục các ma.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Các ma tức bốn ma. Chánh đạo đã thông thì tà đạo tự bít, kinh ghi: “Một người xuất gia, thì ma cung đều chấn động”.

Chánh văn: Độ năm đường.

Ngài La-thập nói:

– Phàm phu có thể ra khỏi bốn đường, nhưng chẳng ra khỏi cõi Trời. Người xuất gia cầu tịch diệt, thì vượt cả năm đường, ta người đều độ.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Năm đường chẳng phải là con đường vô vi.

Chánh văn: Thanh tịnh năm loại mắt.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Thanh tịnh năm loại mắt, như kinh Phóng Quang đã nói.

Chánh văn: Được năm Lực, lập năm Căn, chẳng não loạn người khác.

Ngài La-thập nói:

– Tại gia tuy có làm các điều thiện, nhưng còn bị phiền lụy bởi tình cha mẹ vợ con quyến thuộc. Nếu có người đến xâm hại thì liền báo trả, cho nên tại gia là nhân duyên não loạn người khác. Xuất gia thì không có các phiền lụy này, thì nhân não loạn người tự dứt, cho nên nói chẳng làm não loạn người khác.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Đạo vượt ra ngoài sự, chẳng nghịch với chúng sinh, thế thì đâu có gì gọi là não loạn?

Chánh văn: Lìa các tạp ác.

Ngài La-thập nói:

– Phàm phu dùng tâm xen tạp mà làm các điều thiện, đó gọi là tạp ác. Người xuất gia tu thiện thì diệt trừ vọng tưởng. Vả lại, vì Niết-bàn, nên xa lìa các tạp ác.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Thiện của thế tục, tuy gọi là thiện nhưng còn xen lẫn bất thiện.

Đạo pháp thì chân tịnh, nên thuần là thiện chẳng xen tạp.

Chánh văn: Phá dẹp các ngoại đạo.

Ngài La-thập nói:

– Xuất gia chẳng phá dẹp chúng sinh mà các ác tự diệt, giống như mặt trời lên thì bóng tối tự tan.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Mặt trời, mặt trăng chẳng cầu mong trừ khử bóng tối, mà bóng tối tự tan. Xuất gia chẳng mong phá ngoại đạo mà ngoại đạo tự diệt.

Chánh văn: Vượt ngoài giả danh.

Ngài La-thập nói:

– Do duyên hội họp nên chẳng thật, chỉ là giả danh. Nếu đạt được thật tướng thì chẳng mê nơi giả danh, vì thế nói là vượt khỏi.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Vạn sự vạn danh đều từ hư giả mà sinh. Đạo là ngộ được chân, nên vượt qua giả danh.

Chánh văn: Ra khỏi bùn lầy.

Ngài La-thập nói:

– Tại gia thì chìm trong bùn lầy ái dục; xuất gia thì chìm trong bùn lầy kiến chấp. Nay nói chân xuất gia, nên nói chung là ra khỏi tất cả.

Chánh văn: Không bị trói buộc.

Ngài La-thập nói:

– Nếu có chỉ bị trói buộc, thì chưa gọi là xuất gia, tất cả chẳng bị trói buộc mới gọi là chân xuất gia.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ra khỏi bùn lầy sinh tử ái kiến; không xuất gia, thì bị đường ái kiến trói buộc.

Chánh văn: Không có ngã sở.

Ngài La-thập nói:

– Trong pháp ngã sở, tất cả đều xa lìa, nên nói là không.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Đạo xuất gia vốn là vô vi.

Chánh văn: Không có thọ.

Ngài La-thập nói:

– Thọ tức thủ, chấp giữ. Thủ có bốn loại, người tại gia thì có ái thủ; người xuất gia thì có giới thủ, kiến thủ và ái thủ. Người chân xuất gia không có bốn thọ này. Cũng tức là không chấp thủ tất cả pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Không có bốn thọ là Dục thọ, Ngã thọ, Giới thọ và Kiến thọ.

Chánh văn: Không rối loạn.

Ngài La-thập nói:

– Phàm tâm có chỗ để trụ thì phương tiện chẳng dứt trừ, gọi là rối loạn xuất gia thì vô sự, tất cả vĩnh viễn xa lìa.

Chánh văn: Trong lòng luôn hoan hỷ.

Ngài La-thập nói:

– Hỷ có hai loại:

  1. Hiện đời có công đức, tự nhiên sinh vui thích.
  2. Sau đạt được Niết-bàn, tâm thường an lạc, vui thích.

Đã đầy đủ hai hỷ này, lại không có ý tưởng chấp trước, mới thật là chân hỷ.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phàm tâm rối loạn là do mong cầu nhiều, buồn khổ là do chẳng biết đủ. Người xuất gia tham dục đã dứt, tâm rối loạn chẳng còn, bên trong đạo pháp đầy đủ, nên có thừa hoan hỷ nơi tâm.

Chánh văn: Trợ giúp ý người.

Ngài La-thập nói:

-Nghĩa là thường thuận chúng sinh, không trái nghịch tâm ý của họ.

Chánh văn: Tùy thiền định.

Ngài La-Thập nói:

–  Xuất gia có ba, pháp là trì giới, thiền định và trí tuệ; trì giới để chiết phục phiền não, làm thế lực của nó yếu kém, thiền định ngăn chặn nó như núi đá chặn dòng, trí tuệ thì diệt trừ tất cả phiền não, rốt ráo không còn gì. Nay trì giới thanh tịnh thì kết sử mỏng dần, tâm thanh tịnh thì thuận thiền định, cho nên nói là tùy.

Chánh văn: Xa lìa các lỗi Ngài Tăng Triệu nói:

– Các Trưởng giả nên nghe đạo xuất gia vô vi, mà lại dạy cho lợi ích của công đức hữu vi. Đó là do chẳng tùy thiền định để quán các căn, chẳng xét kỷ pháp để hợp ý họ, lỗi sinh là do nơi đây. Vì thế nhân đây mà nói về xuất gia để khuyên bảo.

Chánh văn: Nếu được như thế là chân xuất gia.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Nếu có thể không trái với những điều đã nêu, thì mới đúng là đạo xuất gia, đạo xuất gia chẳng tồn tại năng lực làm lợi ích.

Chánh văn: Lúc ấy ông Duy-ma-cật bảo các Trưởng giả rằng: “Các ông nên cùng nhau xuất gia trong chánh pháp.”

Ngài Đạo Sinh nói:

– Lợi mà không lợi mới là chân thật lợi ích, nên khuyên bảo họ.

Chánh văn: Vì sao? Vì rất khó gặp Phật xuất thế.

Ngài La-thập nói:

– Phật thường trụ ở thế gian, người có tội rất khó gặp.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Ngài Tịnh Danh biết các Trưởng giả này không thể xuất gia mà còn khuyên, là vì muốn phát khởi tâm Bồ-đề cho họ.

Chánh văn: Các Trưởng giả thưa rằng: “Thưa Cư sĩ: “Chúng tôi nghe Đức Phật dạy rằng cha mẹ chưa cho phép thì không được xuất gia.”

Ngài La-thập nói:

– Các Trưởng giả không được xuất gia, mà tôn trọng sự cao đẹp của xuất gia, vì thế rất buồn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chẳng phải không muốn xuất gia, chỉ vì không dám trái ý cha mẹ.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói: “Vâng! Nếu các ông phát tâm Vô thượng Bồ-đề tức đã xuất gia.

Ngài La-thập nói:

– Nếu phát tâm Vô thượng đạo, tâm vượt ngoài ba cõi, thì hình tuy còn sự trói buộc, nhưng đã là chân xuất gia.

Chánh văn: Có đầy đủ giới pháp.

Ngài La-thập nói:

– Tuy là Cư sĩ mà phát tâm vô thượng thì đã là xuất gia, đầy đủ giới hạnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Xuất gia là muốn xa lìa pháp ác, hành đạo. Nếu tại gia mà thường phát tâm tức là cụ túc, cũng đầy đủ đạo hạnh vậy.

Chánh văn: Lúc bấy giờ, ba mươi hai vị Trưởng giả phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Các Trưởng giả đã có sự ngăn ngại pháp xuất gia mà nghe được tại gia ấy có lý xuất gia, nên vui thích vâng theo.

Chánh văn: Cho nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Đức Phật lại bảo ông A-nan rằng:

Ngài La-thập nói:

– A-nan, Hán dịch là Khánh hỷ.

Hỏi:

– Ngài A-nan giữ gìn pháp tạng của Phật, thì điều mà A-nan nghe đủ biết không bệnh, vì sao nay nói chẳng đạt?

Đáp:

– Chân thật và phương tiện đều là lời Phật, nên hai thuyết đều tin.

Vả lại, nói A-nan cũng là phương tiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

– A-nan, Hán dịch là Hoan hỷ là bậc Đệ nhất tổng trì trong các đệ tử Phật.

Chánh văn: Ông nên đến thăm bệnh ông ấy! A-nan bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy! Vì sao? Nhớ lại khi xưa, lúc Thế Tôn thân hơi có bệnh, cần dùng sữa bò.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Phật mà có bệnh, tức thị hiện cách chúng sinh chẳng xa, khiến chúng sinh có tâm trông mong kính ngưỡng; mà cần dùng sữa bò, tức là có ý muốn ứng theo đây để hóa độ.

Chánh văn: Con liền ôm bát đến đứng trước cửa nhà của một vị đại Bà-la-môn.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Chưa vội xin sữa mà đợi như thế ư?

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: “Thưa ngài A-nan! Vì sao ôm bát đứng nơi đây sớm thế?” Ngài Đạo Sinh nói:

– Sáng sớm chưa phải là thời gian khất thực, vậy ắt có nguyên do.

Chánh văn: Con nói rằng: “Này Cư sĩ! Thế Tôn hơi có bệnh, cần dùng sữa cho nên tôi đến đây!” Ngài Đạo Sinh nói:

– Theo sự việc mà trả lời.

Chánh văn: Ông Duy-ma nói: “Thôi! Thôi! Ngài A-nan, chớ nên nói lời ấy!”’

Ngài Tăng Triệu nói:

– Bậc Chí nhân, phàm mỗi mỗi động tác, há chỉ lấy suông thôi ư? Việc Đức Như Lai hiện bệnh để độ người, ngài Tịnh Danh chê trách để làm lợi ích, tất cả đều chép tại kinh khác.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đối với người chẳng đạt, thì chẳng nên nói.

Chánh văn: Thân Như Lai là Thể Kim cang.

Ngài La-thập nói:

– Tiểu thừa nói xương cốt là Kim cang, thịt chẳng phải là Kim cang. Đối với Đại thừa thì trong ngoài đều là Kim cang, tất cả đều chân thật trọn vẹn, có thế lực mạnh, không có bệnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Thân Như Lai không thể bị tổn hoại, bền chắc như Kim cang.

Chánh văn: Các ác đã dứt, các thiện tụ hội, vậy có bệnh gì, còn não gì?

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phàm bệnh hoạn là do hành nghiệp sinh, Đức Như Lai tích tập đủ các thiện, diệt trừ tất cả ác, thân như Kim cang, thì não bệnh hoạn gì?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đây là lược nêu lên lý không bệnh, tức là nói không có gốc sinh ra bệnh, chỉ có nhân vui thích tụ hội, thế thì có bệnh gì? Chánh văn: Hãy im lặng mà đi, hỡi A-nan Ngài Đạo Sinh nói:

– Hãy im lặng mà rời khỏi nơi đây.

Chánh văn: Chớ phỉ báng Như Lai.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Như Lai không có bệnh, mà nói có bệnh là phỉ báng.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Như nói có thật bệnh là phỉ báng Phật, theo đó thì không có lý gì để xin sữa, cho nên bảo trở về.

Chánh văn: Chớ để cho người khác nghe được lời nói thô xấu này?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Bệnh là một việc rất tầm thường thô xấu, nếu người không thông đạt nghe được ắt sẽ nghi ngờ.

Chánh văn: Chẳng để cho các vị trời Đại oai đức.

Ngài La-thập nói: Trên cõi Trời Ngũ tịnh cư có riêng các vị trời thanh tịnh gọi là Thế gian đảnh, đều là các Bồ-tát Thập trụ sinh về. Nếu các vị này nghe được những lời ấy, ắt biết ngài A-nan chưa thông đạt phương tiện mà sinh khởi ý tưởng thấp kém. Cho nên răn bảo chớ nên để các vị ấy nghe được; e rằng lời này tựa như là lời thích hợp cho lúc bấy giờ, mà chẳng phải là lời chân thật.

Chánh văn: Và các Bồ-tát từ Tịnh độ khác đến đây nghe được lời này.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Kia suy biết đã không bệnh ắt là đạt thành Phật, mà đây nói là thật bệnh, thì chẳng phải là chê lời ấy chẳng đúng ư?

Chánh văn: Thưa ngài A-nan! Chuyển luân Thánh vương chỉ có ít phước mà còn không bệnh.

Ngài La-thập nói:

– Có một vị La-hán tên là Bạc-câu-la, khi xưa là một người bán thuốc, nói với chúng Tăng trong hạ an cư rằng: “Nếu ai cần thuốc men, thì đến tôi mà lấy dùng”, rốt cuộc chẳng ai cần, chỉ có một vị Tỳ-kheo hơi có bệnh, nhận một quả Ha lê lặc. Nhân đây mà người thầy thuốc kia trong chín mươi kiếp sinh về cõi Trời, hưởng vô lượng điều vui thú. Chỉ nghe tên thuốc mà thân không có một chút bệnh, ở đời này thọ chín mươi tuổi cũng chưa từng có bệnh, huống hồ Đức Phật tích tụ vô lượng căn lành, thì bệnh từ đâu mà sinh được?

Hỏi:

– Thiện ác đối nghịch, báo ứng hợp nhau tạo tội ngũ nghịch thì một kiếp chịu khổ, vì sao nói thiện từ một quả Ha-lê-lặc mà hưởng phước vô lượng?

Đáp:

– Việc tội nặng mà lực yếu, việc thiện nhẹ mà thế lại mạnh, thí như con rắn độc muốn ăn thịt người, trước phun nọc độc trên đất, người đạp phải liền hôn mê, chẳng thể đi được, sau đó dùng khí mà hút lấy. Tạo công đức nơi Tam bảo cũng thế. Lúc mới tạo công đức, việc ấy tuy nhỏ, nhưng lợi ích âm thầm đã sâu xa, sau đó dùng phương tiện dẫn vào Phật đạo, rốt ráo Niết-bàn thì phước ấy mới hết.

Chánh văn: Huống gì Như Lai là Bậc có vô lượng phước tích tụ, hơn cả mọi người ở đó ư?

Ngài Tăng Triệu nói:

– Chuyển luân Thánh vương tùy thọ mạng dài ngắn mà thân chẳng bao giờ có bệnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Dùng sự mà suy diễn khiến cho người ngộ được. Chuyển luân Thánh vương chẳng bằng chư Thiên cõi Dục, chỉ có ít phước của loài người mà còn không bệnh, hà huống Như Lai, phước hơn cả ba cõi, mà lại có bệnh ư?

Chánh văn: “Hãy đi! Chớ làm cho chúng tôi bị sự nhục này!” Ngài Đạo Sinh nói:

– Suy sự việc đã như thế, thì ắt phải trở về. Nếu cố chấp chẳng đi, thì không chỉ Phật chịu sự phỉ báng này, mà chúng tôi cũng bị sự sĩ nhục ấy.

Chánh văn: Còn các ngoại đạo, Phạm chí nếu nghe lời này, sẽ nghĩ rằng: “Vì sao đã là thầy lại chẳng chữa được bệnh của mình mà mong cứu được bệnh người ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Thầy mà chẳng thể chỉ dạy cho người, thì chịu sự sĩ nhục này.

Chánh văn: Hãy lặng lẽ đi nhanh, chớ để người khác nghe được!

Ngài Tăng Triệu nói:

– Bậc Chánh sĩ nghe thì cho rằng ông chẳng đạt, kẻ tà đạo nghe được thì cho Phật thật có bệnh, thì sao được gọi là Bậc lương y của pháp, thân bệnh còn chẳng thể chữa được, mà muốn chữa tâm bệnh cho người ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Nên gấp trở về.

Chánh văn: [Ngài A-nan! Nên biết thân Như Lai là Pháp thân.] Ngài La-thập nói:

– Pháp thân có ba loại:

  1. Pháp hóa sanh thân, tức thân Kim cang.
  2. Ngũ phần Pháp thân.
  3. Thật tướng các pháp hòa hợp thành Phật, cho nên thật tướng cũng gọi là Pháp thân.

Chánh văn: Chẳng phải thân tư dục.

Ngài La-thập nói:

– Chẳng phải nhục thân tức là thân pháp hóa; chẳng phải là thân của ba cõi, nên vượt ngoài ba cõi. Tuy có sinh diệt mà không có mười việc khổ hoạn của lão bệnh, nên gọi là vô lậu. Vô lậu thì thân bặt các hành vi, nên gọi là vô vi. Hình vượt năm đường, chẳng thuộc vào số chúng sinh, nên gọi là vô số.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Thân có đối đãi trong ba cõi gọi là thân Tư dục; nghĩa của Pháp thân đã cho đó là thân quyền xảo.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Những lời nói từ trước đến đây, nên biết đều như những lời luận bàn ở sau. Tư dục là tình vọng tưởng, là gốc dẫn đến bệnh. Thân Như Lai là từ thật lý sinh, khởi chẳng do vọng tưởng, thì nào có bệnh gì?

Chánh văn: Phật là Thế Tôn vượt trên ba cõi.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Đã lấy Tư dục làm nguồn gốc thì chẳng thể ra khỏi ba cõi. Ba cõi là cảnh bệnh khổ, Phật là thân do ngộ lý mà được, siêu việt cõi kia, thì có bệnh gì? Nói Phật là Thế Tôn, là để nói rõ Phật vượt trên thế gian.

Chánh văn: Thân Phật vô lậu, các lậu đã dứt sạch.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Phàm pháp thân rỗng rang vi diệu, vượt khỏi cảnh thường, tình lụy chẳng thể nhiễm, tâm tưởng chẳng thể bàn đến, cho nên nói các lậu đã dứt, vượt khỏi ba cõi, trong ba cõi thì đều là hữu lậu.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tuy vượt khỏi ba cõi, mà báo thân sau cùng thì còn là pháp hữu lậu, pháp hữu lậu há không bệnh ư? Phật đã vượt trên tất cả, không còn pháp lậu này, thì có bệnh gì?

Chánh văn: Thân Phật vô vi chẳng rơi vào số lượng.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Pháp thân vô vi mà vô bất vi; vô bất vi nên hiện thân có bệnh.

Vô vi nên chẳng rơi vào số lượng.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tuy nói là vô lậu hoặc còn là hữu vi, mà hữu vi là pháp khởi diệt, tuy chẳng phải là bốn đại nhưng vẫn còn là hoạn. Phật đã lấy vô lậu làm thể, lại chẳng phải là hữu vi, thì nào có bệnh gì? Hữu vi thì rơi vào các số.

Chánh văn: Thân như thế, sẽ có bệnh gì?

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tổng kết bốn câu trên.

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Lúc đó con thật sinh lòng hổ thẹn nghĩ rằng: “Không lẽ được gần Phật mà lại nghe lầm ư?” Ngài Tăng Triệu nói:

– Nhận mệnh lệnh mà như thế, bị ông Duy-ma chê trách, tiến lui đều ôm lòng hổ thẹn, mà cho rằng hoặc là nghe lầm.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Ở gần Phật mà nghe lầm, thế nên hổ thẹn. Lầm ắt dẫn đến phạm tội, như thế chẳng thể không lo sợ. Nói “chẳng lẽ được” thật là lời chẳng quyết định, nhưng ý đã nghĩ là ắt nghe lầm.

Chánh văn: Bỗng nghe trên hư không có tiếng nói rằng: “Này A-nan! Đúng như lời Cư sĩ nói! Chỉ vì Đức Phật xuất hiện ở đời năm ác trược.

Ngài La-thập nói:

– Kiếp trược, chúng sinh trược, phiền não trược, kiến trược và mạng trược. Vì nhiều năm gọi là du-hoằng, nhiều du-hoằng gọi là kiếp.

Đại kiếp cũng như hiền kiếp. Trong Đại kiếp có kiếp nhiều việc ác, nên gọi chung là kiếp trược. Người thiện không còn, chúng sinh toàn là ác nên gọi là chúng sinh trược. Người đã trừ bỏ tà kiến rồi, chỉ còn các phiền não như ba độc… tăng mạnh, không biết đạo lý, luôn chướng ngại Thánh đạo, ắt là rơi vào ác thú, kết sử như thế tức là phiền não trược. Con người đã trừ bốn kiến, chỉ còn tà kiến, bài bác nhân quả, tội phước và Thánh đạo, Niết-bàn, gọi là Kiến trược. Vào thời kỳ đầu của Đại kiếp con người có thọ mạng vô lượng. Bấy giờ, Phật chưa xuất thế. Sau đó thọ mạng con người giảm dần còn sáu vạn tuổi, thì Phật Câu-lưu-tôn xuất thế, giảm còn một trăm hai mươi tuổi thì Đức Phật Thích-ca Mâuni xuất thế. Từ đó tuổi thọ giảm dần còn ba mươi tuổi. Thọ mạng từ một trăm hai mươi tuổi trở xuống đều gọi là mạng trược. Vào tiểu kiếp, Đức Di-lặc sinh, thì tuổi thọ con người bắt đầu tăng.

Chánh văn: Thực hành pháp này.

Ngài La-thập nói:

– Bản Phạm ghi là pháp tham; hiện thân có bệnh, hành khất thực…

là pháp tham.

Chánh văn: Để độ thoát chúng sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Tức giải trừ tâm nghi sợ cho A-nan, khiến cho nhận được sữa. Tức như lời Duy-ma-cật nói, chỉ vì Đức Phật ứng hợp theo đời ác năm trược mà tự hiện thực hành như thế.

Chánh văn: A-nan! Hãy lấy sửa đi! Chớ nên hổ thẹn.

Ngài Tăng Triệu nói:

– Vì A-nan hổ thẹn nên trên hư không phát tiếng nói bảo thôi dứt, tức như lời Cư sĩ nói nào có thân vô lậu mà mắc bệnh thế gian đâu? Chỉ vì độ chúng sinh ở đời ác năm trược, nên thị hiện bệnh này, nên lấy sữa đi, chớ hổ thẹn nữa! Năm trược tức Kiếp trược, Chúng sinh trược, Phiền não trược, Kiến trược và Mạng trược.

Ngài Đạo Sinh nói:

– Dấu vết của tâm hổ thẹn vẫn còn thì ắt phải đi, cho nên bảo hãy lấy sữa, chớ hổ thẹn!

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Ông Duy-ma-cật có trí tuệ biện tài như thế, nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Như thế, năm trăm vị đại đệ tử, mỗi mỗi đều trình bày với Phật về bản duyên của mình, vị nào cũng khen ngợi, thuật lại điều ông Duy-ma-cật đã nói và đều thưa rằng: “Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy!