Khai Thị Quyển V

Khai Thị
Quyển V
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Trường Ðại Học Pháp Giới
Vạn Phật Thánh Thành Talmage, California

Thông Suốt Mọi Pháp-Niệm Quán Âm

Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta cứ sanh ra rồi chết đi, chết đi rồi lại sanh ra. Trải qua quãng thời gian dài có tới trăm ngàn vạn kiếp, chúng ta vẫn chưa từng gặp được Pháp-hội Quán-Âm. Chính vì thế nên các thói hư tật xấu của chúng ta chẳng giảm bớt một mảy may, trong khi vô minh, phiền não thì lại mỗi ngày một gia tăng! Nay được gặp Pháp-hội Quán Thế Âm Bồ-tát, có thể nói rằng nhờ những thiện căn chúng ta gieo trồng trong vô lượng kiếp về trước đã chín muồi cho nên chúng ta mới được tham gia một Pháp-hội vi diệu và bất khả tư nghị như thế này. Nếu không có thiện căn, không có đức hạnh, thì chẳng thể có được cơ hội tham gia Quán-Âm Thất. Do đó, quý vị phải biết quý bảy ngày quý báu này mà đừng khởi vọng tưởng, đừng phí thời giờ. Nếu quý vị cứ khởi vọng tưởng, thì có tham gia Pháp-hội cũng như không, bởi vì quý vị sẽ không đạt được một sự lợi ích nào cả!

Mặc dù Pháp-hội này chỉ mới bắt đầu được hai hôm nay, tôi biết rằng có người đã thấy Bồ-tát, hào quang, hoặc những cảnh giới bất khả tư nghị hiện ra; và cũng có người sắp được mở Ngũ nhãn nữa. Do đó, những người chưa đạt được sự lợi ích phải biết hổ thẹn, và chớ cho rằng bản thân mình không đạt được sự lợi ích thì người khác cũng giống như thế-không phải vậy đâu!

Có thể nói rằng Chùa Kim Sơn là nơi “đãi cát tìm vàng”-những ai muốn tu hành thật sự thì không thể rời khỏi Chùa Kim Sơn bởi vì tìm được một nơi để chân chánh tu hành thì không phải dễ. Những người ở Chùa Kim Sơn đều là những hành-giả có Ðạo-tâm, dù lâm vào hoàn cảnh hết sức gian khổ, khó khăn, họ vẫn tinh tấn dụng công tu hành.

Pháp-môn tu Ðạo thì có tới tám vạn bốn ngàn thứ và thứ nào quý vị cũng nên hiểu biết đôi chút, chứ đừng chỉ biết độc nhất có mỗi một thứ mà thôi. Nếu về pháp-môn nào quý vị cũng có được chút ít khái niệm thì dần dần quý vị sẽ hiểu được mọi các pháp-môn. Nếu chỉ hiểu một pháp-môn thì khó mà thể hội được cảnh giới “thâm sâu như biển cả” của Phật Pháp; và như thế, quý vị cũng chẳng khác gì “kẻ khờ nhìn trời qua ống tre,” cứ đinh ninh rằng bầu trời chỉ lớn bằng miệng ống tre mà thôi! Nếu không dùng ống tre để nhìn thì quý vị sẽ thấy bầu trời rộng lớn vô cùng. Do đó, quý vị học Phật Pháp thì chớ nên chỉ biết về một pháp-môn duy nhất, mà cần phải thông suốt mọi pháp, hiểu rõ mọi pháp.

Hiện tại chúng ta niệm danh hiệu Quán-Âm Bồ-tát, đó chính là một phần của Phật Pháp vậy. Nếu quý vị chưa từng tu tập pháp-môn này thì nhất định phải đến tham gia thử một phen; đừng nên chưa thử mà đã không chịu tu! Nếu có thể tham gia trọn vẹn bảy ngày niệm danh hiệu Quán-Âm Bồ-tát này, thì chắc chắn quý vị sẽ thâu hoạch được nhiều điều lợi ích cho cả thân lẫn tâm. Do đó, quý vị chớ nên để lỡ dịp may, đừng bỏ qua cơ hội hiếm có trước mắt!

Bậc Bồ-tát thì tu Lục độ Vạn hạnh. Lục độ chính là:

1) Bố thí. Bố thí tức là tự chúng ta bố thí cho người khác, chứ không phải là muốn người ta bố thí cho mình.

2) Nhẫn nhục. Qua khóa Quán-Âm Thất này quý vị có thể biết được mình có khả năng nhẫn chịu hay không. Người có khả năng nhẫn chịu tất sẽ hoàn tất khóa Quán-Âm Thất này một cách mỹ mãn. Người không có khả năng nhẫn chịu thì suốt ngày chỉ toàn là khởi vọng tưởng, như: “Lát nữa mình phải đến nhà hàng nọ ăn một bữa cho thật no nê mới được,” hoặc là: “Mình cứ ở đây niệm danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát thì có lợi gì đâu? Thật là vô ích! Thôi, mau mau đi về cho rồi!”

Không có khả năng nhẫn nhịn, chịu đựng, thì không thể tu Ðạo! Quý vị muốn tu phép ngồi Thiền, phép niệm danh hiệu Phật hoặc niệm danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát đều được cả-bởi các pháp môn ấy là như nhau, hoàn toàn không có gì khác biệt. Bất luận tu theo pháp môn nào, chỉ cần có lòng nhẫn nại thì quý vị sẽ có được sự thành tựu. Nếu không có lòng nhẫn nại thì pháp môn nào quý vị cũng chẳng thể tu tập được! Người thiếu lòng nhẫn nại thì luôn luôn cảm thấy thế này là không đúng, thế kia là không phải, việc gì cũng không vừa ý; như vậy thì còn tu gì được nữa chứ?

Ðạo vốn không có ngã-kiến, không có sự chấp trước về cái “ngã”; do đó, người nào có chấp trước thì vĩnh viễn chẳng thể nào tu Ðạo được! Có người nói: “Tôi muốn tham Thiền!” Quý vị muốn tham Thiền ư? Thế thì quý vị càng cần phải có lòng nhẫn nhục hơn nữa!

3) Trì giới. Trì giới tức là: “Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành.” (Không làm điều ác, Chỉ làm việc lành.)

4) Tinh tấn. Tinh tấn có nghĩa là siêng năng, không lười biếng, giải đãi.

5) Thiền-định. Hiện tại chúng ta niệm danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát là cầu nguyện Ðức Quán-Thế-Âm Bồ-tát giúp chúng ta có được Thiền-định.

6) Trí huệ. Một khi đã có Thiền-định, thì trí huệ sẽ nảy sanh. Do đó, sáu công hạnh này đều có quan hệ liên đới với nhau.

Có người nói: “Tôi thích chuyên về tu Thiền-định.” Vậy bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị biết về cách tu Thiền-định. Một khi đã đặt chân vào Thiền-đường thì bất luận thế nào, quý vị cũng không được rời khỏi Thiền-đường nửa bước! Có người thắc mắc: “Nếu bị bệnh thì phải làm sao?” Bị bệnh thì cứ việc bệnh thôi! Có bệnh cũng vẫn phải tham Thiền như thường!

“Thế rủi chết thì làm sao?” Chết rồi thì xác cũng không được mang ra khỏi Thiền-đường! Nếu có Thiền-sinh bị chết, thi hài của y sẽ được nhét vào dưới một bục ngồi còn trống, và dù có sình thối cũng vẫn phải để ở đó chứ không được đem ra ngoài. Người chết cũng không được rời Thiền-đường!

Có người nói: “Như thế thì có khác gì bị cầm tù đâu?” Quý vị tưởng rằng hiện tại quý vị không phải ở tù sao? Mọi người đều đang bị giam hãm trong nhà tù của chính họ, chẳng qua là họ không tự ý thức được điều đó mà thôi! Tự-tánh của quý vị muốn thoát ra mà ra không được, muốn trở về cũng không về được. Hễ đi ra rồi thì không về lại được, mà hễ về rồi thì lại không thể thoát ra được nữa-như thế mà gọi là “tự do” sao? Thân thể của mỗi người chính là một cái nhà tù; song, quý vị chưa hiểu được điều ấy!

Trong khóa Thiền-thất, một khi đã vào Thiền-đường rồi thì không được bước chân ra khỏi cửa Thiền-đựờng nữa. Người nào đi ra thì sẽ bị ăn đòn-cây hương-bản sẽ vun vút trên đầu, trên lưng. Ðó là trong khóa Thiền-thất. Trong khóa Quán-Âm Thất cũng thế-không ai được phép rời Phật-điện! Người nào bất tuân thì sẽ bị ăn đòn, bởi vì, ai bảo quý vị đến đây làm gì!?

Có người nói: “Tôi đọc được thông báo nên mới đến tham gia.” Thế nhưng trong bản thông báo không nói rằng hễ đến đây rồi là có thể tự ý bỏ đi kia mà! Muốn đi thì cũng được, tuy nhiên quý vị phải thanh toán chi phí ăn uống của mọi người rồi mới được đi; bằng không, quý vị không thể đi được. Tại sao vậy? Bởi vì nếu quý vị bỏ đi, những người khác thấy thế cũng bắt chước quý vị mà bỏ đi. Quý vị bỏ đi, người nọ bỏ đi, người kia cũng bỏ đi, rồi mọi người đều bỏ đi hết-như thế là quý vị “phá hoại đạo-tràng.” Do đó, để khỏi mang tội “phá hoại đạo-tràng,” quý vị phải trả tiền ăn của mọi người. Nếu quý vị trả không nổi thì tốt nhất là đừng bỏ đi!

Quý vị đều có thiện duyên với nhau nên mới cùng đến Chùa Kim-Sơn. Nếu không có thiện duyên thì không cách gì đặt chân tới ngưỡng cửa Chùa Kim-Sơn được. Ðã có thiện duyên thì mọi người chớ ngần ngại mà không kết bạn với nhau trong Pháp-hội Quán-Âm này. Quý vị hãy nâng đỡ lẫn nhau và cùng nhau tiến tới phía trước. Tới đâu? Tới nơi mà thâm tâm mọi người muốn tới. Mỗi chúng ta đều nên giúp đỡ người khác. Vì sao tôi nói như thế? Vì tôi e rằng quý vị sẽ bị lầm đường lạc lối!

(Quán-Âm Thất, ngày 15 tháng 3 năm 1976)

Quán Thế Âm Bồ-tát Là Huynh Ðệ Của Chúng Ta

Chúng ta ngày ngày niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, song “Quán Thế Âm” nghĩa là gì? “Quán” là quán xét âm thanh ở thế gian. “Quán” cũng là nhìn, nhưng không phải nhìn bên ngoài, mà là nhìn tâm của chúng sanh, xem chúng sanh nào tâm không còn vọng tưởng lăng xăng. Không còn vọng tưởng, tâm rỗng không, tức là khai ngộ. Do đó nói rằng:

“Thập phương cùng tụ hội,
Ðồng học Pháp Vô-vi.”

Niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát cũng là một pháp vô vi. “Vô vi” là không làm nhưng chẳng gì là không làm-tức là dạy chúng ta chớ khởi vọng tưởng vậy.

Khi quý vị niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ-tát” thì Quán Thế Âm Bồ-tát cũng niệm quý vị-hai bên cùng niệm nhau giống như quý vị nhớ tưởng người thân, thì người thân của quý vị cũng nhớ tới quý vị vậy. Chúng ta và Quán Thế Âm Bồ-tát, từ vô lượng kiếp đến nay, chính là bà con trong Ðạo-pháp, thân thích trong Phật-pháp. Bà con kể từ lúc nào? Tính từ thời Ðức Phật A Di Ðà đấy! Ðức Phật A Di Ðà là Giáo-chủ cõi Cực Lạc ở Tây Phương và cũng là sư-phụ của Quán Thế Âm Bồ-tát. Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát giúp Ðức Di Ðà hoằng dương pháp môn Tịnh-Ðộ. Chúng ta chính là quý vị đồng môn với Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát. Ðức Quán Âm Bồ-tát là vị anh cả đối với tất cả chúng sanh nào chưa vãng sinh cõi Cực Lạc, và do đó, chúng sanh là em của Ngài. Nói như vậy thì rõ ràng Ngài và chúng ta là bà con rất gần. Do đó, hễ mình nhớ tới anh mình, thì anh mình cũng nhớ tới mình. Mình là em của Ðức Quán Âm, và Ðức Quán Âm là anh của mình.

Có người nói: “Tại sao Ðức Quán Âm có thể là anh của mình đặng? Nói như vậy chẳng phải là quá đáng chăng?” Chẳng những Ðức Quán Âm xem chúng ta như em, Ngài còn xem tất cả chúng sanh là em út cả. Nếu không thế, thì sao Ngài lại tầm thanh cứu khổ? Vì sao hễ chúng sanh gặp khó khăn, Ngài liền cứu giúp? Ðó là vì Ngài xem chúng sanh như tay chân ruột thịt của Ngài vậy, cho nên Ngài mới không sợ gian khổ, đi cứu độ tất cả chúng sanh đang đau khổ ở cõi Ta Bà này. Vì thế quý vị chớ quên người anh trong Ðạo-pháp của mình-hễ chúng ta niệm một tiếng Quán Thế Âm Bồ-tát, Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát cũng liền nhớ niệm tới chúng ta.

Khi niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, chính là chúng ta kêu gọi người anh của mình. Khi Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát gọi tên chúng ta, chính là Ngài gọi các đứa em, tức là các Bồ-tát tương lai, các vị Phật tương lai vậy.

Nếu nhìn Quán Thế Âm Bồ-tát như vậy, chúng ta càng phải thành tâm, càng phải khẩn thiết niệm tên người anh ruột trong Ðạo-pháp này, chớ để lỡ cơ hội. Khi niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát, quý vị chớ cúi đầu xuống mà phải ngước đầu lên, biểu thị một tinh thần dũng mãnh, tinh tấn. Chớ làm ra vẻ rũ rượi, lờ đờ. Khi Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát thấy quý vị có tinh thần tinh tấn, Ngài sẽ nói với quý vị rằng: “Hãy mau nắm lấy tay ta!” Thế rồi, Ngài sẽ đưa quý vị tới thế giới Cực Lạc.

Có người nghĩ vẩn vơ rằng: “Tại sao Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát từ sáng đến tối cứ nhìn, nhìn, nhìn hoài, còn tôi thì chẳng được phép nhìn gì cả?” Quý vị “nhìn” và Quán Thế Âm Bồ-tát “nhìn,” hai cách nhìn khác nhau lắm! Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát nhìn bên trong, còn quý vị thì nhìn ra ngoài. Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát nhìn tự tánh. Tâm tánh của Ngài giống như màn ra-đa, hiện ra tất cả mọi chúng sanh. Chúng sanh nào có vọng tưởng gì, Ngài đều biết hết. Ngài nhìn vào màn ra-đa bên trong, khác với cái nhìn của quý vị. Bởi vì chúng sanh ở cách xa Ngài quá, tuy rằng Ngài có ngàn tay ngàn mắt, song nếu dùng để nhìn vô lượng chúng sanh thì cũng không đủ dùng, không đủ nhìn. Do đó Ngài mới hồi quang phản chiếu (xoay ngược ánh sáng trí huệ, chiếu rọi tự tâm), phản văn văn tự tánh (xoay ngược cái nghe, lắng nghe tự tánh). Ngài quan sát tự tánh của chúng sanh xem ai là kẻ đang chịu khổ; rồi Ngài đi cứu độ chúng sanh ấy. Nhưng quý vị thì lại nhìn ra ngoài, quên bẵng trí huệ căn bản của mình. Do đó, cái nhìn của quý vị với cái nhìn của Ngài hoàn toàn khác nhau.

Có người lại nghĩ rằng: “Thầy ơi! Tôi không tin điều Thầy khai thị đâu! Vì sao tôi không tin? Vì Thầy nói chúng tôi là anh em với Quán Thế Âm Bồ-tát, song Ngài là bậc thánh còn chúng tôi là phàm phu; phàm phu làm sao có thể là anh em với bậc thánh đặng? Ðiều này không hợp lý nên tôi không tin.” Tốt lắm! Quý vị không tin cũng được, điều quý vị nói cũng có lý. Song, lý lẽ này thuộc tri kiến của kẻ phàm; bởi vì quý vị chưa thâm nhập Kinh Tạng, nên chưa có trí huệ rộng sâu như biển.

Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Ta với chúng sanh, từ vô thủy kiếp tới nay đã từng là anh em, cha mẹ, chị em, vợ chồng với nhau.” Quý vị nói quý vị không tin, chẳng qua là vì quý vị không hiểu rõ đạo lý Kinh Hoa Nghiêm đó thôi.

Hơn nữa, chẳng những Bồ-tát nhìn chúng sanh như vậy mà ngay cả Phật, Ngài cũng xem chúng sanh “tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.” Nếu Phật xem chúng sanh như cha mẹ thì tôi nói Quán Thế Âm Bồ-tát xem chúng sanh như anh em, có gì là không hợp lý? Quý vị nói quý vị không tin, đó là do quý vị không đủ trí huệ, thiếu kiến thức đó thôi. Hoặc giả cái nhìn của quý vị quá hạn hẹp, nên quý vị mới trở nên si mê, không tin những gì tôi nói.

Vì sao Phật muốn độ chúng sanh? Vì Ngài quan niệm “tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.” Vì cha mẹ Ngài đang thọ khổ trong lục đạo luân hồi nên bất luận thế nào, Ngài cũng phải cứu họ, khiến họ được ly khổ đắc lạc.

Mỗi ngày chúng ta đều niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, đều lạy Quán Thế Âm Bồ-tát; song khi Ngài hiện thân trước mặt chúng ta thì chúng ta lại chẳng hay biết. Do đó chúng sanh chúng ta thật rất đáng thương! Vì sao Quán Thế Âm Bồ-tát hiện ra trước mặt mà chúng ta không hay biết? Ðây là thử thách đối với chúng ta. Khi quý vị niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, quý vị phải học làm sao để được như Ngài vậy. Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát thì có lòng đại từ, đại bi, đại nguyện, đại lực; do đó, khi niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, chúng ta phải học sao cho có lòng đại từ, đại bi, đại nguyện, đại lực – ai đối xử xấu với mình, mình chớ động tâm; ai mắng chửi mình, mình phải nhẫn lặng; ai đánh đập mình, mình hãy nhẫn chịu; thậm chí có ai giết hại mình, mình cũng phải chịu, coi như là trả nợ vậy! Thế nào là “trả nợ?” Ví như xưa kia mình không chửi rủa ai, thì sẽ không ai tới chửi rủa mình; xưa mình không đánh đập ai, thì cũng chẳng ai lại đánh đập mình. Vì sao có kẻ tới chửi rủa, đánh đập hay giết hại mình? Bởi vì xưa kia, khi mình còn si mê, mình đã từng chửi rủa, đánh đập, giết hại người khác; do đó, kiếp này mình cần phải thanh toán cho sạch nợ nần xưa kia. Khi xưa, vì si mê nên mình có nợ mà không trả. Ngày nay hiểu Ðạo, mình phải chân thành trả sạch nợ kia. Hễ mình trả hết nợ thì sẽ thấy đặng Quán Thế Âm Bồ-tát và làm bà con trong Ðạo với Ngài.

Thế nên, đã niệm Quán Thế Âm Bồ-tát thì khi gặp ai chúng ta cũng chớ tìm lỗi lầm của họ. Hễ cứ xoi mói lỗi lầm của người thì mình chưa hết khổ, chưa chặt đứt gốc rễ đau khổ. Do đó quý vị hãy nhận định rõ ràng mọi cảnh giới, thấu suốt căn nguyên mọi sự. Học Phật-pháp, quý vị phải biết vận dụng Phật-pháp. Nếu không biết vận dụng Phật-pháp, thì bất luận quý vị tu bao lâu, Phật-pháp vẫn là Phật-pháp, mà quý vị vẫn là quý vị. Khi biết vận dụng thì quý vị nhập làm một với Phật-pháp, không còn ngăn cách gì nữa.

Nhẫn nại là pháp tối trọng yếu. Quý vị phải nhẫn được những việc khó nhẫn. Ví dụ, quý vị không thích bị chửi rủa, song hễ có ai mắng quý vị, quý vị hãy vui vẻ nhẫn nhịn. Tuy quý vị không thích bị đánh đập, song hễ ai đánh quý vị, quý vị hãy vui vẻ chịu đựng. Quý vị không muốn chết, vì mạng người quý báu lắm; song hễ có ai muốn giết quý vị, quý vị hãy xem như họ giải thoát một đời nghiệp chướng cho quý vị-họ chính thật là Thiện-tri-thức đấy. Quý vị ơi! Khi học Phật-pháp, chúng ta phải đổi ngược thái độ lại mà học, tu Ðạo cũng phải đổi ngược thái độ lại mà tu! Thế nào là đổi ngược thái độ? Tức là hãy thích làm những việc mà xưa kia mình không ưa thích; việc mình chẳng ưa thì chớ bao giờ bắt kẻ khác làm.

Nếu quý vị cũng hệt như những kẻ tầm thường khác: chẳng thể nhìn suốt, chẳng thể buông bỏ, chẳng thể dứt trừ sự chấp trước vào cái “tôi” và vào cái “pháp,” cứ giữ chặt bốn quan điểm phân biệt mình, người, chúng sinh và thọ-giả thì quý vị sẽ có rất nhiều rắc rối phiền hà. Nếu quý vị biết lùi một bước thì chuyện gì cũng tự nhiên yên bình như biển lặng trời trong. Khi học Phật-pháp, chớ học đòi thứ cao thâm diệu vợi, vì rằng:

“Bình thường tâm thị Ðạo,
Trực tâm thị đạo tràng.”

(Tâm bình thường-tâm không dục vọng-là Ðạo,
Lòng thẳng thắn là đạo tràng, nơi tu hành.)

Bởi thế chúng ta cần phải có tấm lòng chính trực, thẳng thắn khi tu hành.

Khi niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, quý vị chớ có lòng tham lam. Ðừng nghĩ: “Tôi niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, tôi sẽ phát tài!” Ðó là việc không thể có! Khi quý vị không tham, giàu sang có thể tới; một khi nảy lòng tham, quý vị sẽ chẳng được gì đâu. Khi niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát, quý vị đừng khoe khoang: “Tôi tới chỗ nọ chỗ kia tham gia Thất Quán Âm. Quý vị chưa hề tham gia thì đâu có bằng tôi!” Quý vị chớ khởi vọng tưởng như thế, cũng đừng ham danh, tham lợi hay thích hưởng thụ sung sướng.

Lúc niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, hãy niệm một cách bình thường, chớ cầu cạnh bất kỳ việc gì. Ðừng nên bắt chước những kẻ vừa niệm Quán Thế Âm Bồ-tát vừa nghĩ: “Tôi hiếm muộn không con, cầu xin Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát cho tôi đứa con trai.” Có người thì xin con gái; cũng có nhiều cậu niệm Quán Thế Âm Bồ-tát để cầu xin có đặng cô bồ xinh đẹp, và nhiều cô niệm Quán Thế Âm Bồ-tát để cầu gặp bạn trai-những việc như thế đều chẳng thể được! Khi niệm danh hiệu Ðức Quán Âm, hãy quét sạch những ý tưởng dơ bẩn ấy đi. Ðừng nên có lòng tham lam, giận dữ hay si mê. Ví như ngày ngày mặc áo, chớ để ý áo đẹp hay không, chỉ cần ấm thân là tốt. Ngày ngày ăn cơm, chớ nảy lòng tham thức ngon vật lạ. Nếu có những ý tưởng ấy, quý vị chẳng còn dùng chân tâm để niệm Quán Thế Âm Bồ-tát nữa. Nếu quý vị quả thật thành tâm niệm đức Quán Thế Âm Bồ-tát, thì sao lại còn nghĩ tới chuyện ăn ngon, mặc đẹp? Quý vị đã quên những thứ ấy đi từ lâu rồi mới phải chứ! Chỉ có một cách là quên đi mọi chuyện thì chúng ta mới hợp nhất với Quán Thế Âm Bồ-tát đặng.

Trong lòng chúng sanh, ai ai cũng sẵn có một vị Quán Thế Âm Bồ-tát. Bây giờ chúng ta niệm Quán Thế Âm Bồ-tát chính là niệm Ðức Quán Âm ở lòng mình. Có người nói: “Tôi tìm trong tâm, sao chẳng thấy tâm tôi đâu hết?” Nếu quý vị không có tâm, quý vị chẳng cần niệm Quán Thế Âm Bồ-tát làm gì. Bởi vì chính đó (tức là quý vị không có tâm) là Quán Thế Âm Bồ-tát. Quán Thế Âm Bồ-tát chính là sự không có tâm, bởi vì Ngài hoàn toàn không khởi vọng tưởng, cũng chẳng có tham, sân, si. Ngài không bao giờ tính toán hôm nay mặc áo gì cho đẹp, ăn món gì cho thật ngon, hoặc muốn hưởng thụ đồ cúng dường gì. Ngài không chấp trước gì cả, không mong cầu gì hết. Việc Ngài làm là cứu độ chúng sanh, nguyện cho tất cả chúng sanh ly khổ đắc lạc, liễu sanh thoát tử, thành tựu Phật Ðạo. Ngài không mong cầu gì ở chúng sanh cả. Ngài mong cho chúng sanh có thể chân chánh hiểu rõ Phật-pháp, hết sạch tham, sân, si.

Khi niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, chớ nghĩ lăng xăng suốt ngày: “Sáng ra chẳng ăn gì cả, tối lại cũng chẳng có trà uống, thật khổ quá mức! Chịu không nổi nữa rồi, mau mau cuốn gói chạy thôi!” Tu hành như vậy thật chẳng có giá trị gì cả!

(Giảng ngày 16 tháng 3 năm 1976)

Khai Thị Thất A Di Ðà

Ở cõi Ta Bà, ai cũng thích sướng, ghét khổ. Chúng sanh ở địa ngục thì thích khổ, ghét sướng. Ngạ quỷ thì thích sân giận, ghét từ bi. Loài súc sanh thì vì thích ngu si, ghét trí huệ, nên mới đọa làm súc sanh.

Tuy con người thích vui sướng, ghét khổ não, song lại không biết làm sao để chẳng có khổ não. Ở cõi trời, ai cũng thích sướng ghét khổ. Trong lúc đó, đối với chư Phật và Bồ-tát thì cảnh giới của các Ngài không có khổ não hay vui sướng. Các Ngài quên bẵng cả hai trạng thái khổ, vui. Ða số chúng sanh đều điên đảo-nhận đúng là sai, lấy sai làm đúng, đem đen làm trắng, thấy trắng cho là đen. Rốt ráo thì chúng sanh có biết chăng mình đang điên đảo? Biết chứ! Tuy biết nhưng vẫn cứ làm chuyện sai trái; hiểu rõ là việc phi lý, thế mà cứ chuyên môn làm bậy; biết đâu là việc đúng đắn, nhưng lại không chịu làm.

Ví dụ như có kẻ lúc niệm Phật thì lại đi uống trà. Uống trà cũng có quy định thời gian, chẳng phải tùy tiện uống lúc nào nơi nào cũng được. Dùng thời giờ niệm Phật để uống trà là biếng nhác. Niệm Phật mệt quá rồi, đi uống một ly trà, nghỉ xả hơi một chốc, đó là làm biếng. Nếu thật lòng niệm Phật, sao còn nghĩ tới chuyện uống trà? Quý vị hẳn đã sớm quên phứt việc uống trà rồi; càng không cần đề cập tới chuyện uống sữa, bởi vì chuyện gì cũng phải quên bẵng hết rồi! Kẻ chân chánh niệm Phật thì ngay cả việc ăn cơm còn không biết, hà huống là chuyện uống trà?

Có người nói: “Niệm Phật thế thì nguy hiểm quá, bởi vì làm mình quên cả chuyện đã ăn cơm rồi hay chưa nữa!” Song chính đây mới là công phu của những người chân chính dụng công-ăn hay chưa ăn họ không biết đến; áo mặc hay chưa mặc họ cũng chẳng nhớ; nghỉ hay chẳng nghỉ họ nào hay. Quên bẵng mọi sự! Ban ngày ư? Không biết! Ban đêm ư? Không biết. Trên không thấy có trời, dưới chẳng thấy có đất, ở giữa chẳng biết có người-mọi thứ đều không. Khi vạn sự đều không thì làm sao còn nhớ nghĩ tới việc uống trà, uống sữa?

Chùa Kim Sơn có một thầy chẳng dám uống sữa. Bởi vì sau khi uống sữa thì lòng dâm dục nổi lên, không sao kềm chế được; do đó thầy chẳng uống sữa. Chúng ta ăn uống là để duy trì sinh mạng, lấy vật thực làm thuốc men. Không ăn thì chết đói, nên ăn để duy trì sự sống chứ chẳng phải chúng ta cần ăn các thức bổ dưỡng để nuôi thân. Khi thức ăn quá bổ béo thì rắc rối lắm đấy.

Người tu pháp môn Niệm Phật phải nhớ lúc nào cũng chỉ niệm một câu “Nam Mô A Di Ðà Phật,” không được ngừng nghỉ. Lúc thức niệm, ngủ cũng niệm. Phải niệm sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Ðà Phật” sao cho chẳng thứ gì có thể làm gián đoạn, dù dùng kiếm cũng chẳng chặt đứt được. Sức mạnh của niệm Phật phải kiên cố vượt hẳn sự cứng rắn của kim cương. Khi quý vị không thể dùng cách gì để phá hoại được tiếng niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật” thì lúc ấy mới gọi là “Niệm Phật Tam-muội.”

Chẳng những niệm Phật như vậy, mà tụng Kinh và trì Chú cũng vậy. Khi ở trạng thái này, dù muốn khởi vọng tưởng quý vị cũng chẳng thể khởi đặng. Tu hành là việc không dễ đâu. Quý vị hãy xem Thầy Hằng Thực: Vì sao Thầy không uống sữa? Bởi vì Thầy biết sự lợi hại của sữa! Hễ Thầy uống sữa bò, thì “tánh bò” lập tức nổi dậy. Khi “tánh bò” (lòng dâm dục) nổi dậy thì còn dữ dằn hơn cả cọp nữa!

Thông thường, hễ thân thể chẳng thiếu dinh dưỡng thì không cần ăn đồ bổ dưỡng. Ăn đồ bổ rồi thì sinh đủ thứ rắc rối. Do đó, “quá dư thì cũng như thiếu hụt,” thái quá và bất cập đều không tốt cả.

Chúng sanh ở cõi Ta Bà này, mỗi cử động mỗi hành vi đều là tham, là sân, là si. Tu Pháp Thế-gian, chúng sanh dùng tham sân si để tu. Khi tu Pháp Xuất-thế-gian, họ cũng dùng lòng tham sân si để tu. Thành thử, khi tu họ cứ tham trước khai ngộ-ngồi Thiền mới hai ngày rưỡi mà đã muốn khai ngộ, tu hành chưa tới ba ngày đã đòi có thần thông, niệm Phật chưa được mấy bữa cũng đòi đắc Niệm Phật Tam Muội. Quý vị xem, lòng tham của họ to lớn đến thế! Ðó toàn là biểu hiện của loài quỷ tham lam.

Chúng ta phải xem việc tu hành như là bổn phận của mình, không cần phải tham lam – lâu dần, công đức sẽ viên mãn, quả Bồ-đề cũng tự nhiên thành tựu. Ðáng lẽ việc tu hành đã thành công rồi, nhưng chỉ vì quý vị tham nhiều nên rốt cuộc chẳng “tiêu hóa” nổi. Như ăn cơm, phải nhai từng miếng một; nếu một lúc mà dồn cả bát cơm vào miệng, đầy cả mồm thì làm sao ăn? Muốn nhai cũng nhai không đặng, nuốt cũng nuốt không trôi. Việc ăn uống là một thí dụ hết sức đơn giản. Nên có câu: “Tham nhiều thì nhai không được.”

Khi tu hành, phải tu mà như chẳng có tu gì cả. Ðừng sinh lòng tham lam, cũng đừng tính toán mình sẽ thế nào, sẽ có gì. Quý vị muốn khai ngộ, muốn đắc thần thông; song làm sao quý vị đạt kết quả mau chóng như vậy được? Khi gieo hạt giống xuống đất, phải chờ thời gian để nó từ từ mọc cao lên; rồi khi đã đủ giờ đủ ngày thì nó sẽ chín muồi. Cổ nhân dạy:

“Mài thỏi sắt thành kim,
Công đủ, tự nhiên thành.”

Quý vị chớ sợ phí công, khi đủ thời gian rồi thì tự nhiên cục sắt cũng bị mài thành kim-có công mài sắt có ngày nên kim.

Việc tu hành, cốt yếu ở chỗ trừ sạch thói hư tật xấu. Thế nào là thói hư tật xấu? Thích uống trà là một tật xấu, thích uống sữa là một tật xấu, thích khởi vọng tưởng lăng xăng cũng là tật xấu. Nếu quý vị tham tiện nghi, thì dụng công không được cảm ứng. Khi dụng công, quý vị chớ sợ khổ, sợ khó khăn, sợ mệt nhọc, thì tu mới thành. Ở đây tôi phải xin lỗi quý vị, bởi vì tôi thích nói đùa, do đó quý vị nào mập mạp sau khi nghe tôi giảng xin đừng kiêng ăn cho tiêu mỡ, bớt mập. Nếu không, e quý vị sẽ “đầu thượng an đầu,” nghĩa là làm những việc vô ích rồi tạo cho mình đủ thứ phiền não.

Hiện nay, toàn thế giới đâu đâu cũng tràn ngập thiên tai nhân họa. Nơi nơi đều trở nên hắc ám, không có ánh sáng, chứng tỏ rằng sinh mạng của nhân loại đang bị đe dọa trầm trọng. Cái không khí giết người ấy thật quả xưa nay chưa từng có. Quý vị đã biết về bom nguyên tử, bom khinh khí, vũ khí hạt nhân, và giờ đây còn có thêm tia laser nữa. Những thứ vũ khí ấy một khi được sử dụng thì toàn nhân loại chắc sẽ diệt vong. Vì thế, hiện nay toàn cầu đều bị bao phủ bởi ám khí, và ác nghiệp đen tối cũng bao phủ khắp nơi. Cách duy nhất để diệt trừ tai họa ấy là chúng ta phải nương theo Phật-pháp mà tu hành. Ở đâu có người chân chính tu hành, ở đó tai nạn sẽ giảm bớt. Nếu nhiều người cùng nhau kết hợp tu hành, thì sức mạnh tập thể sẽ tiêu trừ được tai nạn, hóa giải được độc khí tàn khốc ấy thành không khí hòa bình kiết tường. Muốn được vậy, mọi người cần phải thật sự tu trì, chân chính hành Ðạo đúng theo Phật-pháp.

Quý vị hãy thành tâm niệm Phật. Khi niệm Phật một tiếng, trong hư không sẽ có một ánh hào quang xuất hiện. Nếu quý vị chí thành khẩn thiết niệm Phật thì ánh hào quang ấy sẽ chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, và có thể hóa giải mọi thứ ô nhiễm, bạo hành, tai họa, khiến cho bầu không khí trong cõi tam thiên đại thiên thế giới trở nên tốt lành.

Vạn Phật Thánh Thành là một nơi quang minh trên thế giới, phóng quang biến chiếu khắp hoàn vũ. Nếu như quý vị ở Vạn Phật Thánh Thành mà khởi vọng tưởng thì quý vị vẫn có công đức, mà lại còn lớn hơn công đức to tát nhất mà quý vị có thể có được ở thế giới bên ngoài. Tại sao tôi nói như vậy? Bởi vì những kẻ ở Vạn Phật Thánh Thành, ai ai cũng đều hướng thiện, nên dù họ có vọng tưởng thì đa số cũng là vọng tưởng tốt, rất ít khi họ nghĩ đến điều ác độc. Do đó, quý vị có thể nói rằng Vạn Phật Thánh Thành là mặt trời và mặt trăng của thế giới, chiếu soi khắp nơi khiến toàn thể chúng sanh được thanh tịnh, mát mẻ.

Những người cư trú ở Vạn Phật Thánh Thành đều trồng nhiều căn lành từ thuở xa xưa. Họ đã từng phát nguyện cải thiện thế giới, khiến mọi tai nạn đều tiêu trừ. Do đó quý vị trú ở Vạn Phật Thánh Thành phải hướng vào đường chánh mà tu, ngay trong mỗi hành động mỗi lời nói. Quý vị chớ nên a dua với kẻ xấu, kẻ tầm thường. Người cư ngụ ở Vạn Phật Thánh Thành đều là người tốt, đàng hoàng. Những người tánh tình hung dữ, ác tâm, chẳng sớm thì muộn đều không thể ở được và sẽ tự ý rời chùa.

Vạn Phật Thánh Thành, từ dưới đất trồi lên ở Tây Phương, là nơi mà tương lai tín đồ Phật-giáo toàn cầu sẽ quy tụ cùng nhau tu hành và nghiên cứu Phật-pháp làm cho Ðạo Phật càng phát triển rực rỡ. Hễ ai có thể xuất gia tu Ðạo ở Vạn Phật Thánh Thành thì tương lai nhất định sẽ thành Phật. Vì sao? Vì rằng:

Cận thủy lâu đài tiên đắc nguyệt.

(Ai ở lâu đài cạnh hồ nước thì sẽ thấy bóng mặt trăng trước.)

Nếu quý vị tới Vạn Phật Thánh Thành sớm thì sớm thành Phật. Kẻ tới sau, thì chậm thành Phật hơn.

Có nhiều người tới Vạn Phật Thánh Thành nhưng cảm thấy không thể ở được, bởi vì họ thấy ở đây chẳng có hoạt động gì mấy, luật lệ quá cứng rắn, lại chẳng có gì vui thú. Song quý vị phải biết rằng, chỉ hướng ngoại tìm thú vui thì quý vị sẽ đánh mất niềm vui chân chính. Ở đời, hễ tìm cầu thứ giả dối thì sẽ đánh mất cái chân thật. Muốn tìm thứ chân thật, trước tiên phải buông bỏ cái giả dối, hư ngụy đi. Chẳng thể nào vừa muốn tu Ðạo Xuất-thế lại vừa ôm chặt pháp thế gian thường tình, cũng như bước lên hai chiếc thuyền cùng một lúc, vừa muốn lên Giang Bắc lại vừa muốn xuống Giang Nam. Ðó là chuyện không thực hiện được!

Trong thất Niệm Phật này, quý vị cần phải “nhất môn thâm nhập”-chuyên tâm vào một pháp môn-chỉ dựa vào lòng chân thật, lòng thành khẩn, cung kính mà tu pháp niệm Phật, chớ để uổng phí thời gian dù chỉ một phút thôi. Quý vị nên biết, một chút thời gian là một chút sinh mạng. Nếu không dụng công, mình sẽ tăng gia tội nghiệp. Chân thật dụng công thì tăng trưởng thiện căn. Bởi vậy quý vị hãy thành tâm, thiết tha niệm Phật thì mới không phí thời giờ, mà đời quý vị mới thật có giá trị.

(Giảng vào Mùa đông, 1979, tại Vạn Phật Thánh Thành)

Qui Củ Thiền Thất

Năm 1959, Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới (Dharma Realm Buddhist Association) được thành lập. Tiền thân của Hội là Tổng Hội Phật Giáo Trung Mỹ. Từ ngày thành lập đến nay, mỗi năm Hội đều tổ chức nhiều khóa Phật-thất và Thiền-thất; song, những Thất ấy đều được tiến hành trong im lặng nên rất ít người biết là tại Chùa Kim Sơn có đả Phật-thất hay Thiền-thất. Ðó cũng vì chúng ta không quảng cáo tuyên truyền, cũng không phan duyên, mà chỉ chân thật tu hành thôi. Nếu ai biết có đả Thiền-thất, muốn tới tham gia, thì vẫn được hoan nghênh. Song chúng ta tuyệt đối không cầu cạnh hay kêu gọi người khác giúp đỡ, nói rằng: “Chùa Kim Sơn đang đả Thất, có mấy vị ?vô-tâm đạo nhân? tu ở đó đấy. Quý vị hãy tới đó cúng dường thì công đức sẽ nhiều vô lượng.” Từ xưa tới nay chúng ta không hề rêu rao, tự quảng cáo như thế!

Ở Trung Quốc, mỗi khi có Thiền-thất, tiền cúng dường của thí chủ có thể đủ để trang trải chi phí cho cả năm; đôi lúc còn dư là đằng khác. Lúc đả Thất, rất nhiều vị cư-sĩ phát tâm cúng dường để kết thiện duyên và cung cấp cho chùa nhiều phẩm vật như gạo, mì, dầu, tương, thực phẩm khô, v.v…

Tại Mỹ, Phật-giáo đang còn phôi thai nên phải chuyển hóa những sai lầm của quá khứ để hướng tới chỗ hoàn mỹ. Có câu: “Bắt đầu tốt đẹp, tức là đã thành công được một nửa.” Chúng ta không dùng thủ đoạn để được cúng dường. Nếu chúng ta dùng những thủ đoạn và phương pháp như ở Trung Quốc, có lẽ chúng ta đã thành công hơn!

Vì sao chúng ta không cầu xin cúng dường? Bởi vì chúng ta trước hết cần phải thành thật tu hành và thuận theo sự sắp đặt của chư Phật, Bồ-tát. Chư Phật, Bồ-tát, Thiên-long Bát-bộ, Hộ Pháp Thiện-thần thấy chúng ta dụng công tu Ðạo, tự nhiên sẽ khiến cho có cảm ứng. Nếu chúng ta không chân thật tu hành, thì dù có người đến cúng dường, chúng ta cũng phải vô cùng hổ thẹn; vì:

Tam tâm bất liễu thủy nan tiêu,
Ngũ Quán nhược minh kim diệu hóa.

(Ba tâm chưa dứt, nước khó tiêu.
Năm Quán nếu rõ, vàng cũng hóa.)

Nếu chúng ta chưa đoạn ba tâm (tâm quá khứ, tâm hiện tại và tâm vị lai), thì dù thí chủ cúng dường một ly nước chúng ta uống cũng không tiêu hóa được. Nhưng nếu chúng ta hiểu rõ đạo lý của năm điều quán tưởng thì dù ăn vàng ăn sắt cũng tiêu hóa dễ dàng. Thế nào là Năm Quán?

  1. Hãy xét công lao nhiều ít đã tạo ra bát cơm này.
  2. Hãy suy nghĩ xem đức hạnh của mình hoàn hảo hay khiếm khuyết mà nhận đồ cúng dường.
  3. Hãy ngăn ngừa tâm mình, khiến xa lìa lỗi lầm, mà tham sân si là gốc.
  4. Hãy coi thức ăn là vị thuốc, dùng nó để trị thân khô gầy.
  5. Vì để tu thành Ðạo-nghiệp, do đó mình mới thọ thực.

Ðêm nay là bắt đầu Thiền-thất. Thiền-thất ở Chùa Kim Sơn chúng ta và Thiền-thất ở các tùng lâm bên Trung Quốc khác nhau lắm. Họ đả Thiền-thất thì cũng chính là đả “thực thất,” bởi vì đêm nào họ cũng ăn bánh bao! Ngay cả Chùa Kim Sơn ở Trấn-giang và Chùa Cao Mân ở Dương-châu cũng không ra ngoài lệ ấy. Rất nhiều Thiền-sinh chuyên môn tới những chùa có ăn bánh bao tối để dự Thiền-thất. Chỗ nào có bánh bao ngon là họ tới tham gia. Họ không chọn lựa phẩm chất của khóa Thiền mà chỉ chọn bánh bao to hay nhỏ, ngon hay dở. Do đó, một số chùa nổi tiếng là do có bánh bao to, ngon, thơm tho. Tôi nói vậy chẳng có ý hủy báng kẻ xuất gia không chịu buông bỏ chuyện ăn uống, mà chính vì thực tế có chuyện như vậy.

Chùa Kim Sơn ở đây không có tục lệ ăn bánh bao, dù là một miếng nhỏ ăn lót dạ cũng không có.

Ở Trung Quốc, trong khóa Thiền có rất nhiều cư sĩ đến cúng dường Thiền-sinh. Sau một giờ ngồi Thiền là có cư sĩ tới cúng dường bốn trái long nhãn. Sau giờ Thiền kế tiếp lại có kẻ khác tới cúng dường hai cái kẹo đậu phụng, hoặc miếng bánh. Nói tóm lại, cứ sau mỗi giờ Thiền đều có người tới cúng dường, khiến những vị “vô tâm Ðạo-nhân” nẩy lòng tham lam, ăn no phình bụng, chẳng thể tịnh tọa được nữa. Ở Chùa này những việc ấy sẽ không có; vì đó là sự khác biệt.

Mỗi sáng, từ hai giờ rưỡi là bắt đầu tịnh tọa, rồi kinh hành-liên tục tới mười hai giờ khuya mới nghỉ ngơi. Phải tu khổ hạnh, khổ luyện. Phải làm chuyện chẳng ai làm đặng. Song, nếu chẳng đem hai chữ “sinh tử” treo trên lông mày, mà ngược lại, cứ cho rằng ngủ không đủ, rồi ngồi đó mà nhập “Tam-muội ngủ khì”- nếu quả như vậy thì vĩnh viễn sẽ chẳng thành tựu được.

Phải “chẳng màng cái chết, quên đi mạng sống” mà đả thất. Phải chân thật dụng công đả thất. Phải gặt hái được kết quả mình phải đạt tới thì mới có thọ dụng. Chớ nên “tùy sóng đưa đẩy,” ai làm gì thì làm theo. Thấy ai ngồi, ngồi theo; thấy ai ngủ, ngủ theo-như vậy là không được, chỉ lãng phí thời giờ, chẳng có ích gì cho chính mình cả.

Xưa kia tôi từng tham gia đả Thiền-thất ở nhiều nơi. Ở đâu tôi cũng không bị vị Giám-hương (người đi tuần coi ai ngủ gục lúc ngồi Thiền thì dùng gậy đánh cho thức tỉnh) đánh cả. Vì sao? Bởi vì tôi không ngủ gật. Ban ngày ngồi ở Thiền-đường, ban đêm cũng ngồi ở Thiền-đường-cả ngày hai mươi bốn giờ đồng hồ tôi đều ngồi ở Thiền-đường, chẳng biết nghỉ ngơi là gì, ngủ ngáy là chi cả. Dù là một giây, tôi cũng chẳng lãng phí-lúc nào cũng dụng công phu mình phải dụng, lúc nào cũng đề khởi công phu của mình.

Quý vị ở đây đều là những người có thiện căn sâu dày, thông minh, có trí huệ. Quý vị phải coi việc tu hành này thật quan trọng, chớ nên làm cho có lệ. Trong kỳ Thiền-thất này, nhất định phải có kẻ khai ngộ. Nếu không có ai khai ngộ thì sau khi Thiền-thất kết thúc, quý vị mỗi người phải chịu đòn một trăm gậy! Quý vị cảm thấy có thể chịu nổi một trăm gậy thì chẳng cần khai ngộ; nếu không chịu nổi thì phải ráng khai ngộ! Nếu ai sợ bị ăn đòn, thì bây giờ, lúc chưa bắt đầu Thiền-thất, có thể thối lui! Một khi đã tham gia thì phải tham gia từ đầu tới cuối, không được thối lui nửa đường. Theo quy ước của Thiền-đường, quý vị đã cáo biệt việc sống chết rồi-nếu có ai chết thì chỉ có cách vất xác xuống dưới Thiền-sàng, không được phép khiêng ra ngoài. Huống hồ là không có ai chết, thì mình không được nửa đường rút lui.

Ngay đây quý vị phải vạch ra ranh giới giữa sống và chết. Nếu không sống tức là chết, nếu không chết tức là sống:

Xả bất liễu tử, hoán bất liễu sinh.
Xả bất liễu giả, thành bất liễu chân.

(Vất không đặng cái chết, đổi không đặng cái sống.
Bỏ không đặng cái giả, thành không đặng cái thật).

Ðó là cửa ngưỡng cửa của Chùa Kim Sơn. Do đó Thiền-thất năm nay, quý vị cần phải vô cùng nỗ lực. Bất kể ra sao đi nữa, quý vị phải nhận rõ “bản lai diện mục” của mình. Nếu không nhận thức được “bản lai diện mục,” thì không ai được tính chuyện trốn khỏi cửa lớn của Chùa Kim Sơn! Nếu quý vị trốn đi, quý vị sẽ bị “ở tù”! Ðại khái đó là quy luật của Thiền-thất năm nay, hy vọng quý vị sẽ tuân theo!

(Giảng ngày 6 tháng giêng, năm 1974 tại Chùa Kim Sơn, San Francisco)

Tham Thoại Ðầu-Dùng Vọng Tưởng Ðể Chế Phục Vọng Tưởng

Bây giờ sắp bắt đầu Thiền-thất.

Ở Thiền-đường thì chúng ta không niệm Phật; trong lúc đả Phật-thất thì chúng ta không tham Thiền. Bây giờ, chúng ta phải “đi cũng Thiền, ngồi cũng Thiền, đứng cũng Thiền, nằm cũng Thiền”-nói chung là đi, đứng, nằm, ngồi đều tham Thiền.

Trước kia, kẻ tham Thiền thì chẳng hề khởi niệm; đó gọi là “vô niệm”:

Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện.
Lục căn hốt động bị vân giá.

(Một niệm chẳng sinh toàn thể (chân tâm) hiện.
Sáu căn bỗng động, (Phật tánh) bị mây che.)

Tham Thiền tức là tham cứu “một niệm chẳng sinh.” Tới đời Minh thì người ta mới áp dụng phương pháp “tham thoại đầu.” Nay thì Thiền-đường nào cũng tham thoại đầu. Thoại đầu có nhiều loại, như “Ai niệm Phật?” hoặc “Khi cha mẹ chưa sinh ra ta thì mặt mày ta ra sao?” hoặc “Thế nào là ‘chẳng có’?” v.v…

Tham Thiền là không khởi vọng tưởng gì cả. Thí dụ khi tham cứu câu “Ai Niệm Phật?” thì quý vị cứ suy nghĩ, tìm xem ai là kẻ niệm Phật. Song, kỳ thật đây cũng chỉ là một vọng tưởng; chẳng qua là chúng ta dùng một vọng tưởng để khống chế mọi vọng tưởng khác mà thôi. Biện pháp này gọi là “dĩ vọng chế vọng, dĩ độc công độc. Thậm chí niệm “A Di Ðà Phật” cũng là “dùng vọng chế vọng”; nghĩa là cái ý nghĩ niệm Phật là vọng, không thật. Và ngay cả cái niệm tham cứu câu “Niệm Phật là ai” cũng là vọng; song đó là vì một vọng tưởng này có khả năng khống chế được tất cả các vọng tưởng khác. Ðó là đạo lý tham Thiền.

Người tham Thiền thì “Phật tới chém Phật, ma tới chém ma,” không chấp trước cảnh giới nào cả. Khi tham Thiền tới chỗ “trên không biết có trời, dưới không biết có đất, giữa chẳng biết có người; ngoài chẳng biết có vật, trong chẳng biết có tâm,” thì bấy giờ quý vị sẽ hợp làm một với Pháp-giới, có thể hoát nhiên khai ngộ. Quý vị hãy nhớ: Ðừng bị lay chuyển bởi thanh-trần (ngoại cảnh), đừng nhìn đông ngó tây, và cũng đừng để cho tâm loay hoay, không chuyên nhất!

Khi tham Thiền đạt tới chỗ “không mình, không người, không chúng sinh, không thọ giả,” thì quý vị sẽ chặt đứt được gốc rễ sinh tử và sẽ được gặp mặt Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni – bấy giờ quý vị mới biết được cái hay của việc tham Thiền.

Từ vô lượng kiếp tới ngày nay, chúng ta thật may mắn gặp được pháp môn “đả Thiền-thất.” Do đó, chúng ta phải đặc biệt chuyên nhất, chí thành khẩn thiết, ra sức dụng công, đừng phung phí thời giờ quý báu, đừng nghĩ ngợi vẩn vơ về những chuyện ăn, mặc, hay chỗ ở; bởi “một chút thời gian là một chút mạng sống”-thời gian và sinh mạng đều quý báu như nhau:

Nhất thốn quang âm nhất thốn kim,
Thốn kim nan mãi thốn quang âm,
Thất lạc thốn kim dung dị đắc,
Quang âm quá khứ nan tái tầm.

Nghĩa là:

Một tấc thời gian, một tấc vàng,
Tấc vàng khó mua tấc thời gian,
Tấc vàng rơi mất còn dễ kiếm,
Thời gian trôi bẵng mới khó tìm.

Bài thơ trên nói lên giá trị quý báu của thời gian lúc bình thường, huống hồ là lúc đả thất-thời gian ấy còn đáng quý hơn nữa. Không ai biết được vào phút nào, giây nào mình sẽ khai ngộ; do đó, quý vị nên tranh thủ từng giây từng phút, đừng lãng phí. Hy vọng quý vị tham gia Thiền-thất đều dũng mãnh tinh tấn, không phóng dật, buông lung. Phải nhẫn chịu mọi thứ khổ thì mới đạt được an lạc. Chịu đựng được điều mà người khác khó thể chịu đựng, nhẫn nhịn được điều mà người khác khó thể nhẫn nhịn, đó mới là tinh thần tu Ðạo!

(Giảng vào tháng 9 năm 1975 tại Chùa Kim Sơn)

Chân Thật Tu Hành, Chớ Buông Lung

Kim Sơn Thánh Tự, trước kia được gọi là Phật Giáo Giảng Ðường và tọa lạc tại tầng lầu thứ tư trong một chung cư thuộc khu phố Chinatown ở San Francisco, vốn do Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới kiến lập. Khóa tu học mùa hè đầu tiên được tổ chức tại đây năm 1968. Bấy giờ có rất nhiều người từ Seattle đến tham gia khóa tu học 96 ngày ấy. Chương trình học tập rất bận rộn, hằng ngày không có giờ nghỉ; chỉ có ngày Thứ Bảy là được nghỉ buổi chiều để giặt giũ, hoặc giải quyết những công việc riêng tư.

Trong khóa tu học ấy, tôi giảng Kinh Lăng Nghiêm và dự trù có thể giảng xong trước ngày mãn khóa. Ban đầu thì mỗi ngày thuyết giảng một lần, nhưng được một thời gian thì tôi nhận thấy là sẽ không kịp thời hạn nên tăng lên thành mỗi ngày giảng hai lần. Dần dần lại ngại rằng không thể giảng xong nên tôi phải tăng thành ba lần mỗi ngày; và cuối cùng thì thành ra mỗi ngày giảng bốn lần. Cứ như thế mà trong khóa hè ấy cũng giảng xong bộ Kinh Lăng Nghiêm, đem công đức viên mãn hồi hướng cho tất cả chúng sinh.

Sau khi giảng xong Kinh Lăng Nghiêm, có năm thanh niên nam nữ người Mỹ xin xuất gia. Ðó là những người Mỹ đầu tiên xuất gia và thọ Cụ-túc Giới-ba vị Tỳ-kheo và hai vị Tỳ-kheo-ni.

Về sau, mỗi năm đều có khóa tu học mùa hè. Rất nhiều người tới học hỏi Phật-pháp và cũng có nhiều người xuất gia thành Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Tuy nhân số không nhiều, song đối với Chùa Kim Sơn vốn chú trọng phẩm chất chứ không chú trọng số lượng, chỉ cần chân thật tu hành và nghiên cứu Phật-pháp, thì một người cũng không phải là ít, hà huống là nào phải chỉ có một hoặc hai người thôi đâu?

Hằng tháng, Chùa Kim Sơn phát hành một tập nguyệt san song ngữ Anh-Hoa-Vajra Bodhi Sea (Kim Cang Bồ Ðề Hải). Tập nguyệt san này chuyên đăng yếu nghĩa Phật-pháp để cho người Tây phương có thể am tường nguồn gốc của đạo Phật đồng thời có được sự nhận thức đúng đắn về Phật-pháp, để họ không còn cho rằng Phật-giáo là mê tín, sùng bái ngẫu-tượng, tiêu cực, bi quan, hoặc là “ký sinh trùng” của xã hội nữa. Tập nguyệt san này cho người ta biết Phật-giáo là tự do, bình đẳng, mà mục tiêu là đề xướng thế giới hòa bình và hết thảy mọi người đều là đệ tử của Phật, tuyệt đối không có sự giới hạn về chủng tộc, quốc tịch hay địa giới. Phật-giáo từ khi có lịch sử đến nay chưa hề gây ra chiến tranh, bởi vì giới-điều đầu tiên trong Giới-luật nhà Phật là Không Sát Sinh-chẳng những không giết người mà ngay cả động vật cũng không sát hại, trái lại còn phóng sinh và bảo vệ mọi loài động vật-nhờ vậy mà không hề gây ra chiến tranh!

Chùa Kim Sơn cũng như là nơi “đãi cát tìm vàng”-nếu quý vị là “vàng” thì khi tới Chùa Kim Sơn quý vị sẽ cảm thấy nơi đây như là nhà của quý vị vậy. Ở đây, mọi người không nói chuyện nên rất thuận tiện để đọc sách, ngày ngày nghiên cứu Phật-pháp, chẳng bị ai quấy rầy-thật là một môi trường lý tưởng! Người Mỹ tuy nhiều, song có được bao nhiêu người chân chính phát tâm tới đây để nghiên cứu Phật-pháp, nghe Kinh học Pháp? Do đó, việc thành Phật là tùy thuộc ở cá nhân chứ không phải ở tập thể. Trên thế giới, cái gì ít thì đều quý cả-số người nghiên cứu Phật-pháp ở Chùa Kim Sơn tuy không nhiều, song đối với thế giới này thì như thế là vô cùng quý báu! Trong tương lai, khi quý vị đã thông suốt Phật-pháp rồi, quý vị có thể đi khắp nơi hoằng dương Phật-pháp, lợi ích chúng sinh, khiến mọi chúng sinh sớm thành Phật đạo-đó là điều tôi kỳ vọng ở quý vị!

Trong khóa tu học mùa hè kỳ này, mọi người cần phải biết quý trọng thời giờ, đừng để lãng phí. Có câu rằng:

“Một tấc thời một tấc vàng,
Tấc vàng khó chuộc tấc thời gian.”

Cho nên, thời giờ là quý giá nhất, quan trọng nhất. Quý vị đến tham gia khóa tu học mùa hè năm nay hãy nỗ lực học hỏi Phật-pháp, chớ nên để thời giờ trôi qua một cách vô ích-quý vị nhất định phải học cho được đôi chút đạo lý chân chính.

Có một việc mà tôi muốn nói với quý vị. Thật sự thì tôi không muốn nói ra, song bây giờ thì tôi không thể không nói. Việc gì ư? Là người xuất gia thì nhất định phải biết tự trọng, không nên coi mình quá thấp hèn, nhưng cũng không được cống cao ngã mạn; lúc nào cũng phản tỉnh và tự kiểm thảo-hễ có làm lỗi lầm gì thì sửa đổi ngay, nếu không có lỗi gì thì phải tiến tu; tuyệt đối không được cẩu thả hoặc phóng dật, buông lung.

Một khi các vị đã là đệ tử xuất gia của tôi, hễ tôi thấy lỗi lầm gì của các vị thì tôi nhất định sẽ nói ra để các vị biết mà sửa đổi. Nếu tôi không nói ra, thì tôi thật có lỗi với các vị. Sau khi tôi đã nói ra những điều mình thấy rồi, thì các vị nghe hay không, sửa đổi hay chăng, đó là chuyện của các vị. Tôi chỉ làm tròn nhiệm vụ người Thầy, không hổ thẹn với lương tâm là đủ. Các vị chớ nên để đến khi đọa địa ngục rồi oán trách Sư-phụ: “Ôi! Tại sao lúc đầu Sư-phụ không dạy tôi nghiêm hơn một chút? Nếu quả Thầy dạy tôi kỹ hơn, nghiêm khắc hơn, thì làm sao tôi bị đọa địa ngục được chứ?”

Nay tôi đã nói ra điều mà tôi muốn nói rồi, các vị đã xuất gia phải ghi nhớ: Các vị không được quấy rầy hoặc can thiệp vào sự tự do của kẻ khác, và cũng đừng làm ảnh hưởng đến hành động của họ. Bản thân mình không muốn tu hành thì thôi, đừng làm trở ngại sự tu hành của người khác-mình không trì Giới, nhưng đừng cản trở người khác trì Giới; mình không tu bồi đức hạnh, nhưng chớ chướng ngại sự trau giồi đức hạnh của người khác! Người nào có tư tưởng và hành vi như trên thì nhất định phải sửa chữa, “đổi ác thành thiện” ngay. Người xuất gia thì từng giây từng phút, lúc nào cũng phải tự kiểm soát chính mình-mỗi lời nói, mỗi việc làm đều phải luôn luôn đúng theo Giới-luật. Các vị phải nghiêm chỉnh, không được phóng túng, vô kỷ luật; không được muốn gì thì làm nấy. Có câu:

Vô qui củ, bất năng thành phương viên.

(Không có khuôn phép thì chẳng thể thành vuông tròn.)

Do đó khi Ðức Phật sắp nhập Niết-bàn, Ngài dạy Tôn-giả A-Nan: “Hãy lấy Giới-luật làm Thầy!” Ðó chính là điều mà người xuất gia phải ghi lòng tạc dạ.

Khi ăn cơm, chúng ta phải nhớ Tam Niệm, Ngũ Quán; bởi:

Thí chủ nhất lạp mễ,
Trọng như Tu Di sơn,
Thực liễu bất tu hành,
Bì mao đái giác hoàn.

(Một hạt gạo thí chủ,
Nặng bằng núi Tu Di,
Ăn rồi chẳng tu trì,
Mang lông đội sừng trả.)

Thật đáng sợ và nguy hiểm như vậy đấy các vị ạ! Ðó gọi là “dưới tấm áo cà sa vuột mất thân người” vậy! Cho nên, người xuất gia dù ở bất cứ nơi đâu cũng đều phải nghiêm trì, giữ vững Giới-luật-khi chưa dứt được sinh tử, chưa đoạn được tâm dâm dục, thì không lúc nào được biếng nhác, buông lung, phóng túng. Ðức Phổ Hiền Bồ-tát dạy rằng:

“Một ngày đã qua, mạng cũng giảm dần,
Như cá cạn nước, thử hỏi vui gì?

Ðại chúng!

Hãy siêng tinh tấn, như đầu bị đốt,
Chỉ nhớ vô thường, chớ mặc buông lung!”

Người xuất gia chúng ta phải biết quý trọng từng giây từng phút; hãy nhớ rằng:

“Một tấc thời gian: một tấc vàng,
Tấc vàng khó chuộc tấc thời gian.”

Thời giờ quý báu như thế nên chúng ta không được lãng phí. Mỗi người đều phải dụng công tu hành, phải tinh tấn hơn nữa, thì mới mong có được sự thành tựu. Phàm là người dụng công tu hành thì không có thời giờ để nói chuyện thị phi, không có thời giờ để làm những việc lăng xăng, làm gián đoạn sự tu hành. Về điểm này, tôi hy vọng mọi người hãy chú ý.

Khi tôi thấy những người không chịu tu hành thì tôi cảm thấy vô cùng đau xót; bởi như thế chẳng phải là họ đã không thực hành các thệ nguyện mà họ đã lập lúc ban đầu, khi họ mới xuất gia tu hành hay sao? Những kẻ xuất gia mà “tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo” thì có xứng đáng là Tăng Bảo hay không? Mong rằng các vị đều biết tự trọng.

Dùng Phương Pháp Ðiện Liệu Ðể Thanh Lọc Không Khí

Pháp môn Thiền là pháp chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật; cũng là môn Ðốn-giáo. Ðốn-giáo là do Tiệm-giáo siêng năng tu hành mà thành. Nên có câu rằng:

“Lý tuy đốn ngộ, sự tu tiệm tu.”

(Nghĩa lý tuy hiểu lập tức, nhưng việc tu cần phải từ từ.)

Hiện nay đi, đứng, nằm, ngồi đều là pháp Tiệm-tu. Chờ tới một ngày nào đó, chân chính hiểu rõ, thì sẽ đột nhiên khai ngộ. Ðó tức là “đốn.” Thật ra, “đốn” không tách rời “tiệm”; “tiệm” chính là trợ giúp “đốn.”

Thông thường người tu, ai tu pháp gì thì cho pháp ấy là hay nhất, là số một. Nếu không là số một thì y chẳng vui sướng đâu, và y cũng chẳng chịu tu hành nữa. Nếu quý vị chân chính hiểu rõ thì mọi pháp đều là Phật-pháp và đều không thể nắm bắt (bất khả đắc); do vậy, không có gì đáng chấp trước cả.

Thiền là cách điều hoà thân và tâm. “Ðiều thân” tức là làm cho thân không loạn động. “Ðiều tâm” là làm cho tâm không khởi vọng tưởng, thường thường thanh tịnh. Hễ tâm thanh tịnh thì tận hư không và khắp cả Pháp-giới, mọi thứ đều nằm trong tự-tánh. Tự-tánh bao hàm mọi thứ, dung nạp mọi thứ, và cũng chính là Phật-tánh xưa nay của chúng ta.

Từ vô lượng kiếp đến nay, đời này tiếp đời kia, chúng ta bị những thứ kiến giải sai lầm làm mê nhiễm quá sâu dầy nên không dễ dàng minh tâm kiến tánh. Bởi vì lý do ấy, chúng ta mới “đả Thiền-thất.” “Ðả thất” gọi là “khắc kỳ thủ chứng” tức là đặt ra một thời gian nhất định, một quá trình nhất định để dụng công, cầu đạt được sự thấu triệt sáng suốt.

Nếu quý vị muốn chân chính thấu triệt, thông suốt thì trước hết quý vị phải học làm như là không biết gì cả. Trong Thiền-đường, lúc dụng công, quý vị dùng phương pháp gì? Phương pháp “không biết”-trên không biết có trời, dưới không biết có đất, ở giữa không biết có người. Từ sáng tới tối, quý vị làm gì? Không biết! Ăn thức gì? Không biết! Mặc áo gì? Không biết! Cũng như đang hôn trầm, cái gì cũng không biết. Có câu:

Dưỡng thành đại chuyết phương vi xảo,
Học đáo như ngu thủy kiến kỳ.

Nghĩa là nếu quý vị làm sao thành như kẻ ngu đần nhất thế giới thì lúc ấy mới sinh ra sự xảo diệu. Bấy giờ thì:

Nhất thông, nhất thiết thông,
Nhất liễu, nhất thiết liễu,
Nhất ngộ, nhất thiết ngộ.

(Thông suốt một, thông suốt hết thảy.
Tỏ rõ một, tỏ rõ hết thảy.
Giác ngộ một, giác ngộ hết thảy.)

Lúc ấy quý vị sẽ thông suốt mọi sự và triệt để khai ngộ. Quý vị đã học được gì? Cũng không biết, hệt như người khờ vậy. Song, ngay lúc ấy, việc kỳ diệu mới hiện ra.

Khi đả Thiền-thất, quý vị phải để qua một bên tánh khôn vặt, tánh ranh mãnh. Ðừng nên cho rằng cái gì mình cũng biết, cũng thông suốt. Nếu cho rằng cái gì mình cũng biết là chẳng phải chân chánh hiểu biết Phật-pháp. Có câu:

“Ðại trí nhược ngu.”

(Kẻ có đại trí huệ thì ra vẻ như ngu si.)

Nhìn bên ngoài, họ giống như chẳng hiểu biết gì cả nhưng thật ra họ biết hết mọi chuyện. Ðó gọi là “chuyện nhỏ thì mù mờ mà chuyện lớn thì thông suốt.” Kẻ nào như vậy mới là bậc đại thành tựu.

Lúc chúng ta ở Thiền-đường, đại chúng chạy thì mình chạy, đại chúng ngồi thì mình ngồi, đông tây nam bắc mình chẳng cần biết. Lúc ấy, mình sẽ chân chính hiểu rõ, chân chính liễu giải. Hiểu gì? Hiểu rõ “bản địa phong quang.” Liễu giải gì? Liễu giải “bản lai diện mục” của chính mình.

Tại Thiền-đường, quý vị cần dụng công tu hành, bớt nói lời vô ích, chớ lãng phí thời gian.

“Một tấc thời gian: một tấc vàng,
Tấc vàng khó đổi tấc thời gian.”

Việc tọa Thiền quả thật rất là quý báu. Không biết phút giây nào quý vị sẽ khai ngộ, do đó phải tranh thủ từng phút từng giây, không để trôi qua giây phút nào. Nếu đi vệ sinh thì xong rồi phải lập tức quay về Thiền-đường, tiếp tục ngồi. Tới nhà ăn, ăn uống xong cũng tức khắc quay về Thiền-đường; hoặc uống xong trà cũng lập tức quay về Thiền-đường. Nói tóm lại, quý vị chớ bỏ qua cơ hội khai ngộ vì không biết lúc nào sẽ là lúc khai ngộ. Nói cách khác, đi nhiễu, chạy hay ngồi Thiền đều là cơ hội tốt để khai ngộ, chớ để vuột mất.

Vào đời nhà Thanh, có lần Hoàng-đế Ung Chính mời vị Phương-trượng Chùa Cao Mân là Thiên Huệ Thiền-sư tới Bắc-kinh để đàm luận Thiền-lý. Hoàng đế hỏi Ngài có biết tông chỉ của Ngọc Lâm Quốc-sư chăng, thì Ngài không trả lời được. Hoàng đế bèn ra lệnh cho Ngài phải ở lại Thiền-đường và trong vòng bảy ngày phải tìm cho ra đáp án, nếu không sẽ bị chém đầu. Suốt sáu ngày, Ngài tìm không ra đáp án. Ðến ngày cuối cùng vì gấp rút khẩn trương quá nên Ngài chạy vòng vòng trong Thiền-đường. Chạy tới chạy lui làm cho Ngài choáng váng mặt mày đâm đầu vào cột trụ, đầu u lên một cục! Ngay lúc ấy tâm trí đột nhiên sáng suốt, Ngài tìm ra được đáp án. Ngài bèn đến gặp Hoàng đế. Vua Ung Chính biết là Ngài đã lãnh hội được tông chỉ của Ngọc Lâm Quốc-sư rồi. Từ ấy về sau mới có lệ chạy vòng (tức bão hương) trong Thiền-đường.

Thiền-đường có hành-hương, bão-hương, tọa-hương và tham thoại đầu. Hành-hương tức là bước mau. Bão-hương là chạy chầm chậm. Tọa-hương là ngồi Thiền. Tham thoại đầu là nghiền ngẫm về một vấn đề. Như tham câu “Ai Niệm Phật?” Nhất tâm nhất ý tham cứu câu đó, tham cứu đến chỗ nhất tâm bất loạn, nhất trần bất nhiễm (chẳng một mảy bụi nào làm mình vẩn đục) thì đó là lúc khai ngộ vậy. Ðó là những phương pháp dùng để ngăn ngừa, đình chỉ vọng tưởng. Không có vọng tưởng thì mới có giác ngộ. Mục đích tọa Thiền là để khai ngộ. Sau khi khai ngộ thì mới có trí huệ siêu phàm.

Bởi vậy, chư Tổ nghiên cứu phương pháp “dĩ độc công độc,” dùng việc tham thoại đầu để khống chế vọng tưởng, tức là dùng một vấn đề để khống chế tất cả các vấn đề khác. Tham thoại đầu gì? Tham câu “Niệm Phật Là Ai?” Khi nào quý vị tìm ra “ai,” hiểu biết rốt ráo “Ai Niệm Phật?” thì lúc ấy mới chân chính thấu suốt. Thấu suốt gì? Thấu rõ phải xa rời mọi thứ điên đảo, thị phi.

Tâm Kinh dạy rằng:

“Xa rời điên đảo mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn.”

Quá trình này đòi hỏi phải trải qua một phen khổ công mới thành tựu nổi. Nếu tôi nói quá nhiều sẽ làm gián đoạn công phu của quý vị. Tốt hơn hết là quý vị hãy theo qui củ luật lệ, chân thật dụng công tu hành.

Có một điều quý vị cần hiểu rõ là trong “Tam Tự Kinh” có câu:

“Quý dĩ chuyên.”

(Quý ở sự chuyên cần.)

Bất luận làm việc gì, nếu có thể chuyên tâm nhất ý, thì kết cuộc sẽ thành công. Cũng vậy, khi tham thoại đầu, chỉ nghĩ tới một câu – sáng nghĩ, chiều nghĩ, ăn nghĩ, ngủ cũng nghĩ, đi cũng nghĩ, ngồi cũng nghĩ về câu đó; nếu chưa nghiền ngẫm tới chỗ “biển cạn, đá nứt” thì chẳng bỏ cuộc. Nói cách khác, “chưa khai ngộ, thì chưa ngừng nghỉ.” Chỉ nghĩ đến một vấn đề mới là chân lý, còn suy nghĩ nhiều vấn đề quá thì là vọng tưởng.

Có hai câu thơ thật đầy ý nghĩa:
Nhược nhân tĩnh tọa nhất tu du,
Thắng tạo hằng sa thất bảo tháp.
(Nếu ai tĩnh tọa chỉ một sát-na,
Còn hơn xây hằng sa tháp bảy báu.)

Ðó là hình dung công đức ngồi Thiền: nếu người ngồi Thiền có thể tịnh tâm chỉ trong một khoảnh thời gian ngắn ngủi thôi thì công đức ấy so với công đức xây hằng hà sa số tháp bảy báu còn nhiều hơn gấp bội. Bởi vì tạo ra vô số tháp bất quá cũng để cúng dường xá-lợi của Phật; song nếu tĩnh tọa chỉ trong giây lát, có thể tạo ra chân-thân của Phật. Do vậy, tĩnh tọa chỉ một sát-na mà hơn xây nhiều tháp bảy báu.

Nếu tĩnh tọa trong khoảnh khắc mà công đức lớn như vậy, thì hàng ngày tĩnh tọa, công đức càng khó kể xiết. Nếu trong một thời gian ngắn ngủi quý vị chẳng khởi vọng tưởng, tâm được thanh tịnh, thì dần dà quý vị sẽ trở nên “trạm nhiên thường tịch.”

Khi tĩnh tọa ở Thiền-đường, không những công đức của quý vị vô lượng, mà đối với toàn thế giới nhân loại, công đức ấy cũng vô lượng. Có người hỏi: “Công đức của tôi làm sao san sẻ cho nhân loại, cho toàn thế giới được chứ?” Hiện nay nhân loại trên thế giới, do vì tranh danh đoạt lợi, nên tạo ra sát khí đằng đằng, ích kỷ tự lợi, nào là ta tranh, người giành, khiến thế giới biến thành đen tối u ám, đầy dẫy độc khí. Nhân loại đấu tranh ác liệt, càng ngày càng dữ dội càng ngày càng nguy hiểm, mỗi lúc mỗi thêm nghiêm trọng. Nếu chúng ta không tìm cách cứu vãn nguy cơ đang bao trùm thế giới, chắc hẳn một ngày nào đó địa cầu sẽ bùng nổ! Vì sao bùng nổ? Bởi vì giờ đây khoa học quá tiến bộ, các nước lớn đang nghiên cứu vũ khí giết người sao cho mau chóng; họ thi đua chế tạo những vũ khí hạt nhân, tia laser, v.v… Một khi chiến tranh phát sinh, những vũ khí ấy sẽ biến trái đất thành tro bụi. Lúc đó quả là ngày tàn của nhân loại.

Lúc dụng công tu hành trong Thiền-đường, vô hình trung chúng ta có thể tiêu diệt những thứ sát khí ấy, khiến thế giới tránh được nguy cơ. Làm sao tiêu diệt chúng? Bầu không khí đã bị ô nhiễm vì những chất độc, và hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp những khí độc ấy ảnh hưởng tới sức khỏe của chúng sinh, đe dọa sinh mạng của muôn loài. Quý vị hãy xem, hiện nay các thứ tật bịnh quái dị càng ngày càng nhiều, khiến các bác sĩ phải bó tay. Ðó là do không khí bị ô nhiễm, chẳng được trong lành sạch sẽ, đâu đâu cũng toàn là độc khí. Người tu Ðạo chúng ta phải dùng một loại điện liệu để làm tiêu tan chất độc trong không khí. Thế nào là “điện liệu”? Tức là tĩnh tọa, và từ đó mà ánh sáng trí huệ được phóng đi. Ánh sáng trí huệ này chính là một luồng điện lực. Luồng điện ấy di chuyển trong không gian và sẽ có tác dụng giải độc, khiến cho không khí hỗn trược biến thành thanh khiết. Ðó gọi là cách chữa trị các căn bệnh của thế giới bằng phương pháp điện liệu.

Bây giờ có người hoài nghi về tánh khả thi của nguyên tắc ấy: “Tĩnh tọa làm sao có thể làm tiêu tan chất độc trong không khí đặng?” Tôi xin kể một câu chuyện như sau: Vào đời nhà Tống có một vị đại văn hào tên là Tô Ðông Pha. Ðương thời cũng có vị Thiền-sư pháp danh là Phật Ấn. Hai người là bạn Ðạo, thường hay lui tới với nhau, nên có câu đối như sau để chứng minh tình quý vị gắn bó của họ:

Xuất nhập hữu tăng, giai Phật Ấn.
Vãng lai vô khách bất Ðông Pha.

(Ra vào: có Sư Phật Ấn thường gần gũi.
Tới lui: chẳng bạn Ðông Pha thì còn ai.)
Có lần Tô Ðông Pha làm một bài kệ:

Khể thủ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đai thiên
Bát phong xuy bất động
Ðoan tọa tử kim liên.

(Ðảnh lễ Thiên trung Thiên (tức là Phật)
Hào quang chiếu vũ trụ.
Tám gió thổi chẳng động.
Ngồi vững tòa sen vàng.)

Tô Ðông Pha gởi cho Thiền-sư Phật Ấn bình luận, rồi vì đó mà hai người nẩy ra tranh biện. Bây giờ chúng ta hãy lấy câu “Hào quang chiếu vũ trụ” để thuyết minh một nguyên lý. Hào quang này chính là điện liệu, rọi chiếu toàn đại thiên thế giới và làm cho tiêu độc. Hào quang này có thể làm tiêu trừ không khí hỗn trược trong vũ trụ, tẩy sạch hoàn toàn cho đến một chút xíu độc tố cũng không còn.

Nếu quý vị có thể phóng hào quang chiếu khắp vũ trụ, thì phần độc khí của quý vị sẽ được tiêu tan. Nếu kẻ khác có thể phóng hào quang chiếu khắp vũ trụ thì phần độc khí của kẻ ấy sẽ được diệt trừ. Nếu mọi người có thể phóng hào quang chiếu khắp vũ trụ thì độc khí của mọi người sẽ được tiêu trừ.

Nếu ai ai cũng đồng tâm hiệp lực dùng phương pháp điện liệu để chữa trị các căn bịnh của thế giới thì không khí ô nhiễm sẽ càng ngày càng giảm bớt, không khí trong lành sẽ càng ngày càng gia tăng. Dần dần bầu không khí sẽ trở nên hoàn toàn trong sạch. Quý vị phải biết rằng không khí ô trược là độc tố, còn không khí trong lành là trí huệ.

Hiện tại vì sao không khí ô nhiễm? Vì đa số người ta không biết tu hành, không biết dùng pháp điện liệu, do đó không khí càng lúc càng ô trược. Người tu Ðạo chúng ta phải nhận trách nhiệm làm cho không khí trở nên thanh khiết. Không những bản thân mình phải dũng mãnh tinh tấn tu Thiền, mà còn phải khuyến khích quý vị bè thân thích ngồi Thiền. Công đức tọa Thiền vô lượng vô biên, đối với thân tâm có ích lợi không thể nghĩ bàn. Nếu họ không tin, quý vị hãy bảo họ thử thí nghiệm xem, sớm muộn họ sẽ đạt được ích lợi khó nghĩ bàn. Quý vị hãy gắng công tọa Thiền. Khi hào quang của quý vị chiếu khắp đại thiên thế giới, độc tố trong không khí sẽ tự nhiên tiêu diệt hết.

Quý vị hãy chú ý! Chỉ cần quý vị ngừng bặt vọng tưởng thì có thể phóng ra trí huệ quang minh. Hào quang này có thể chiếu khắp đại thiên thế giới và trừ độc trong không khí. Quý vị sẽ gặt hái vô lượng công đức có lợi ích cho nhân loại toàn thế giới. Lợi ích gì? Tức là có thể tiêu diệt độc tố làm ô nhiễm không khí, khiến nhân loại không còn bị tai họa vì các chứng bịnh hiểm nghèo. Ðây chính là lợi ích gián tiếp cho tất cả mọi người vậy.

Ma Tới Ðể Giúp Quý Vị Tu Ðạo

Trước đây tôi có nói: “Nếu ai tĩnh tọa được một chốc lát thì còn hơn là xây hằng sa tháp bảy báu.” Có vị ngồi trong Thiền-đường, nghĩ vẩn vơ rằng: “Tĩnh tọa một giây phút mà công đức còn hơn xây tháp bảy báu”; rồi nghĩ lui nghĩ tới, nên dù là một tích tắc cũng chẳng tĩnh tọa đặng, do đó một tí công đức cũng chẳng có được! Vì sao? Thì cũng giống như nhận ngón tay làm mặt trăng, chỉ thấy ngón tay chỉ mặt trăng mà không nhìn thấy mặt trăng, rồi cho rằng có công đức vô lượng! Vô lượng ư? Quý vị chỉ ngồi đó với vô lượng vọng tưởng thôi!

Lại nói: “Tôi có thể phóng hào quang chiếu khắp vũ trụ! Tôi có thể phóng hào quang chiếu khắp vũ trụ!” Cảnh giới này chẳng cần quý vị nghĩ tới, chẳng cần quý vị nói ra, mà cần quý vị thực hành. Nếu quý vị có khả năng chân chính thanh tịnh nhập Ðịnh thì mới phóng đặng hào quang chiếu khắp vũ trụ. Không thể nhập Ðịnh, nghĩ ngợi vớ vẩn chẳng ích lợi gì. Nghĩ lui nghĩ tới thì cũng đều là vọng tưởng, cách xa thực tại đến tám vạn bốn ngàn dặm.

Lại có vị nghĩ rằng: “Làm sao để tôi nhập Ðịnh? Làm sao để tôi khai ngộ?” Nếu quý vị có vọng tưởng đó, thì làm cách gì quý vị cũng chẳng thể nhập Ðịnh, chẳng thể khai ngộ. Vì sao? Vì quý vị chỉ dụng công hời hợt ngoài da mà thôi, chứ chẳng phải dụng công nơi Trí Bát-nhã. Quý vị toàn là hướng ra ngoài tìm kiếm. Chẳng hướng nội mà tìm, thì mãi mãi chẳng tìm ra.

Quý vị hãy làm bác-sĩ điện liệu (electrotherapist) để giúp thế gian này. Hãy cứu giúp chúng sanh đang sống trong bầu không khí ô nhiễm này để họ có thể thành Phật trong một bầu không khí trong lành. Bây giờ quý vị phải ngồi tĩnh lặng, đừng có quá nhiều vọng tưởng, và tôi hy vọng quý vị biết rõ điều đó. Tôi đã giảng cho quý vị nghe về phương pháp điện liệu làm cho không khí trong sạch rồi. Quý vị hãy thử xem, coi hiệu quả ra sao?

Hôm nay là ngày thứ hai của Thiền-thất, quý vị đã “lên đường” chưa? “Lên đường” có nghĩa là lên con đường Chánh-giác, con đường Bồ-đề. Quý vị đã đề khởi được câu “Niệm Phật là ai” chưa? Quý vị đã buông bỏ vọng tưởng chưa? Nếu chưa đề khởi được câu “Niệm Phật là ai?” thì hãy mau mau làm đi. Phải tập như “mèo rình chuột” vậy, kiên nhẫn chăm chú chờ chuột. Lại cũng giống như “gà mẹ ấp trứng,” một lòng một dạ nhớ nghĩ đến đám gà con sắp nở. Lại cũng giống như “rồng giữ hạt châu,” cẩn thận chuyên nhất giữ chặt hạt bảo châu. Lúc nào cũng dụng công thì mới hy vọng thành tựu.

Chúng ta tu hạnh “ngày ăn một bữa, đêm chẳng nằm mà ngủ” là cách tu khổ hạnh mà tôi dám nói rằng hay nhất thế giới. Ðặc biệt là lúc đả Thiền-thất, mỗi ngày ngồi mười hai giờ, đi nhiễu sáu giờ. Sự thực hành khắc khổ này đòi hỏi Thiền-sinh phải ăn uống cho đầy đủ. Do đó tại Trung Quốc, khi nào có đả Thiền-thất, mỗi đêm mọi người đều được cho ăn hai cái bánh bao lớn nên ai cũng thích thú lắm. Song ở đây không có cái lệ này. Do đó bữa trưa, quý vị nên ăn thêm một chút, ăn cho no để đủ sức đi nhiễu hoặc chạy.

Giới luật nhà Phật quy định “nhật trung nhất thực,” tức là mỗi ngày chỉ ăn một bữa vào giờ ngọ (mười hai giờ trưa) mà thôi. Về sau, lệ này đổi thành “quá ngọ bất thực,” tức là sau mười hai giờ trưa thì không được dùng bữa, nhưng buổi sáng có thể ăn cháo điểm tâm. Vì không phải ăn sau giờ ngọ nên việc này không phải là phạm giới.

Trong khóa Thiền, nếu ăn không đủ no thì sẽ không có đủ sức ngồi Thiền, đi nhiễu hay chạy, do đó có thể sinh ra thối chuyển. Vì sao? Nếu quý vị tham Thiền đến tối, bao tử quý vị sẽ cồn cào và trách quý vị là đã quá ích kỷ, chỉ biết tu hành, chỉ chú tâm muốn khai ngộ, chẳng quan tâm đến nó, khiến nó phải đau khổ. Nó hỏi quý vị tu Ðạo gì mà một chút từ bi cũng không có. Thế là nó chẳng hợp tác với quý vị nữa, khiến quý vị dễ thối tâm, không còn muốn tu hành, uổng phí công phu khi trước. Bởi vậy trong khóa Thiền, quý vị cần phải ăn cho đủ no mới có năng lực để mưu cầu trí huệ giải thoát.

Hôm nay tôi kể cho quý vị nghe câu chuyện “Ăn bánh bao lúc đả thất.” Ðây là chuyện có thật, không phải bịa đặt. Ở chùa Thiên Ðồng tại tỉnh Ninh-Ba bên Trung Quốc, có vị phương trượng tên Mật Vân. Ngài là một vị Minh nhãn Thiện-tri-thức. Thầy Duy-na cũng là một vị Minh nhãn Thiện-tri-thức. Song lòng từ bi của Thầy Duy-na thì quá rộng lớn còn lòng từ bi của Phương-trượng thì lại hạn hẹp. Ngài Mật Vân thì có tác phong “Ma-ha-tát chẳng để ý đến ai cả,” còn ngài Duy-na thì chủ trương “Bồ-đề Tát-đỏa thích lo chuyện người.” Vì hai vị có tư tưởng khác biệt nên lối cư xử cũng xung khắc.

Trong lúc đả Thất, ai cũng dũng mãnh tinh tấn ngồi Thiền, cầu trí huệ giải thoát. Một đêm nọ vị Duy-na từ bi này thấy đại chúng vì quá đói bụng nên chẳng còn tinh thần nào ngồi Thiền được. Có vị bị hôn trầm, có vị thì tâm tán loạn, hoặc nếu không ngủ gật thì cũng “ngồi sụm.” Bình thường, khi ngồi Thiền người ta cao khoảng ba thước tây, nhưng vì bụng đói quá, không ngồi thẳng lưng được, phải khòm xuống nên chỉ còn cao hơn một thước, do đó gọi là “ngồi sụm.” Khi hiện tượng này xảy ra thì chẳng ai còn tiếp tục ngồi Thiền được nữa. Thầy Duy-na thấy vậy mới nẩy lòng thương và muốn giữ sức khỏe cho đại chúng, Thầy bèn nhập Ðịnh, dùng thần thông vào nhà bếp lấy cắp một ít cơm cháy đem phân phát cho mỗi người một ít. Khi ngồi Thiền xong, mọi người mở mắt ra thì thấy trên đùi họ có một miếng cơm cháy, liền rón rén ăn hết. Bởi vì “người là sắt, cơm là thép,” nên ai ăn vào cũng khôi phục lại tinh thần. Lúc đi nhiễu, cũng không cảm thấy mệt mỏi. Chẳng còn như trước, vì bụng đói không thể đi nhiễu được nên phải ngồi qua một bên để nghỉ mệt.

Sau khi Thầy Duy-na có lòng từ bi này lấy cắp cơm cháy liên tiếp hai ngày để cho đại chúng ăn điểm tâm, thì đến ngày thứ ba bị vị Phương-trượng phát giác ra chuyện ăn cắp nên bị đuổi ra khỏi chùa.

Sự việc này xảy ra như sau: Buổi sáng ngày thứ ba, Thầy quản lý nhà bếp phát hiện ra rằng cơm cháy ngày hôm qua đã biến mất và Thầy nghi rằng đã bị chuột ăn hết. Vì là nhiệm vụ của Thầy, nên Thầy mới báo cáo chuyện này lên ngài Phương-trượng để xin ý kiến. Ngài Phương-trượng dạy rằng: “Ðược rồi, phải bắt con chuột đó!” Ðến tối, ngài Phương-trượng nhập Ðịnh quán sát mới phát giác là Thầy Duy-na đã trộm cơm cháy của nhà bếp trong lúc nhập Ðịnh. Nhân đó Ngài mới đem nhục thân của Thầy Duy-na giấu dưới ghế ngồi. Lúc Thầy Duy-na xuất Ðịnh thì không thấy “nhà” (nhục thân) của Thầy đâu nữa. Thầy tìm kỹ khắp nơi thì cuối cùng mới thấy nhục thân mình nằm ở dưới ghế nên kéo nó ra. Bấy giờ, Ngài Phương-trượng mới bảo: “Thầy làm gì vậy? Thầy quả là một con chuột lớn. Thầy dám ăn cắp cơm cháy ở nhà bếp hả? Thầy có biết là Thầy đã phạm giới không? Ai phạm giới phải bị đuổi ra khỏi chùa! Ngày mai Thầy phải đi. Chúng tôi không thể lưu giữ Thầy ở đây nữa!”

Thầy Duy-na thưa: “Bạch Ngài, Ngài đuổi tôi thì được rồi, song tôi muốn xin Ngài một việc, mong Ngài thuận cho.”

Vị Phương-trượng hỏi: “Thầy sắp ra đi, còn muốn yêu cầu gì nữa?”

Thầy Duy-na thưa: “Các Thiền-sinh nhất định phải được ăn đủ no thì mới có thể dụng công tu hành. Nếu ăn không no, chắc chắn chẳng thể tu hành được. Do đó tôi mới vào nhà bếp lấy trộm cơm cháy để cho đại chúng dùng, chẳng phải để tôi ăn. Tôi hy vọng Ngài Phương-trượng từ bi, mỗi tối cho mỗi người ăn hai cái bánh bao. Ðược vậy thì tôi xin cúi đầu đảnh lễ Ngài. Tôi ra đi rồi, chẳng còn gì thắc mắc nữa!”

Vị Phương-trượng suy nghĩ và thấy có lý: “Ðược rồi! Tôi sẽ thỏa mãn lời yêu cầu của Thầy.” Từ đó về sau, khi nào đả Thiền-thất, mỗi người được ăn hai cái bánh bao vào buổi tối.

Thầy Duy-na lại hỏi Phương-trượng: “Thưa Ngài, tôi nên đi về đâu?”

Phương-trượng đáp: “Thầy hãy đến tỉnh Tứ-xuyên xây dựng đạo tràng. Các vị hộ pháp ở đó có thiện duyên với Thầy.”

Bấy giờ Thầy Duy-na mới dùng phép Thần-túc-thông để đến tỉnh Tứ-xuyên. Thầy thấy hai cây quế cao to, cành lá sum sê, nên ngồi Thiền giữa hai cây quế ấy. Nhiều vị hộ pháp và cư sĩ thấy Thầy ngồi Thiền dưới gốc cây, nhận ra Thầy là bậc chân tu, một vị cao tăng đức hạnh, do đó họ xây một ngôi chùa dưới hai cây quế ấy lấy tên là “Song Quế Ðường.” Tại đây, Thầy truyền Pháp và thâu nhận đệ tử. Về sau, rất nhiều người tham Thiền được khai ngộ và Thầy trở thành vị Tổ đầu tiên.

Tham Thiền cũng như uống nước, nóng hay lạnh chỉ tự mình biết lấy. Dụng công tới chỗ vững vàng thì mình tự biết; dụng công mà chưa thành thục thì cũng chỉ có mình tự hay. Ai dụng công đã vững, đã thành thục thì cần phải liên tục nỗ lực. Kẻ chưa dụng công tới đâu cả thì chớ biếng nhác. Trong lúc tham gia Thiền-thất, quý vị phải buông xả hết mọi thứ. Có câu:

“Ðề khởi được, buông xả được.”

“Ðề khởi được” cái gì? Ðề khởi được câu “Niệm Phật là ai?”

“Buông xả được” thứ gì? Buông xả được mọi vọng tưởng. Phải buông xả được vọng tưởng và sự nghĩ ngợi lăng xăng thì trí huệ mới nảy sinh. Không buông xả được vọng tưởng thì dụng công sẽ không có kết quả.

Trong bảy ngày này, quý vị phải dũng mãnh tinh tấn, đừng sinh một mảy may tâm trạng biếng nhác hay một chút hoài nghi. Hãy cùng nhau dụng công. Khi dụng công tới chỗ “không thấy có mình, không thấy có người” thì sẽ khai ngộ. Nếu dụng công tới chỗ “phi sắc, phi không” thì sẽ hợp nhất với Ðức Như Lai. Nếu quý vị chưa hiểu được cảnh giới “phi sắc, phi không” thì thật đáng hổ thẹn.

Vì sao dụng công mà không được tương ưng? Vì thói quen, tập khí từ vô lượng kiếp đến nay quá sức sâu dày; do đó, tâm muốn hướng tới con đường Bồ-đề mà thân thì chẳng chịu tiến tới, cứ muốn thối lui. Quý vị phải biết rằng hễ tập khí, thói quen quá nặng nề, nghiệp chướng dày sâu, thì càng cần phải buông xả vọng tưởng. Buông xả vọng tưởng không khó, quý vị chỉ cần quên mình đi là vọng tưởng hết ngay. Chỉ vì còn có cái “tôi” nên quý vị mới không thể quên bẵng được mình.

Khi tu hành ở Thiền-đường, quý vị phải tu làm sao cho “trên không biết có trời, giữa không biết có người, dưới không biết có đất.” Trời, đất, người không còn, đông tay nam bắc cũng tiêu tan, thì lúc ấy một niệm cũng không khởi và toàn thể chân-tâm sẽ hiện bày. Quý vị sẽ đắc được “toàn thể đại dụng.”

Nếu suốt ngày khởi vọng tưởng thì công phu sẽ không tương ưng. Do đó, phải dụng công tới chỗ không sinh khởi một niệm nào cả. Khi đi, không biết là mình đang đi; khi đứng, không biết là mình đang đứng; khi nằm, không biết là mình đang nằm; khi ngồi, không biết là mình đang ngồi. Ði, đứng, nằm, ngồi đều chẳng hay biết:

Cả ngày ăn cơm, nhưng chưa nuốt một hạt gạo.
Cả ngày mặc áo, nhưng chưa mặc một sơi tơ.

Lúc ấy, quý vị với hư không hợp làm một. Nếu hợp làm một với hư không thì mới hốt nhiên dung thông; đột nhiên quý vị sẽ hiểu rõ mọi sự. Ðó là cảnh giới đốn ngộ.

Ðốn ngộ là do bình thường dụng công, dụng đến chỗ tương ưng thì mới hốt nhiên khai ngộ. Nếu bình thường không dụng công thì không thể đốn ngộ được. Cũng như trẻ con sau khi sinh ra, nhờ ngày ngày được nghe tiếng nói nên tới một lúc nào đó chúng tự nhiên biết nói. Khi chúng thốt ra lời đầu tiên thì cũng tương tự như lúc chúng ta khai ngộ. Khi chúng bắt đầu biết đi, thì bước đầu tiên cũng có thể ví như lúc chúng ta khai ngộ vậy. Làm sao chúng đi được bước đầu tiên? Do bởi ngày nào chúng cũng nhìn thấy người lớn đi đi lại lại, cảnh tượng ấy huân tập vào đầu óc chúng, khiến chúng tự nhiên tập tễnh bước đi. Chúng ta dụng công cũng phải như vậy-hôm nay dụng công, ngày mai cũng dụng công. Tiếp tục như vậy, khi công phu chín muồi, không còn khởi ý tưởng gì, hết bặt vọng niệm, thì quý vị sẽ khai ngộ.

Sự khai ngộ do ngày ngày dụng công tu hành hoặc do từng giờ từng phút dụng công tu hành rồi đến khi công phu đã chín muồi thì chợt khai ngộ, là sự khai ngộ do dụng công tu hành trong đời này.

Có người hỏi: “Tôi thấy vị kia chẳng chịu dụng công tu hành gì cả, song tới Thiền-đường chưa được bao lâu thì bỗng nhiên khai ngộ. Ðó là vì sao?” Trường hợp này khá đặc biệt đấy. Ðó là vì kiếp này tuy y không dụng công tu hành, song kiếp trước y đã tu rồi. Không phải chỉ tu bình thường, mà từng giờ từng phút y đều tu, và chỉ thiếu một chút nữa là khai ngộ. Do đó, trong kiếp này gặp được hoàn cảnh y liền khai ngộ.

Ðốn-ngộ tuy là tức khắc khai ngộ, song cần phải vun bồi thiện căn từ kiếp trước. Giống như làm ruộng vậy-mùa xuân gieo giống, mùa hạ cày cấy, thì mùa thu mới thâu hoạch. Nếu mùa xuân không gieo hạt thì mùa thu làm sao có thâu hoạch? Có câu:

“Một phần canh tác thì một phần thâu hoạch.”

Người tu Ðạo chúng ta cũng phải như thế-bất luận là khai ngộ hay chẳng khai ngộ đều phải dũng mãnh tinh tấn, nỗ lực tiến tới. Hy vọng trong một phút giây tối hậu chúng ta sẽ đạt kết quả, nhận ra “bản lai diện mục” của mình.

Vì sao chúng ta không nhận ra được “bản lai diện mục” của mình? Bởi vì tướng Ngã (cái “tôi”) chưa trừ, lòng ích kỷ chưa dứt. Nếu không còn tướng Ngã và lòng ích kỷ thì có thể nhận ra “bản lai diện mục” ngay.

Nếu quý vị không muốn nhận ra “bản lai diện mục” thì không thành vấn đề-tu cũng được, không tu cũng xong, bởi vì quý vị chẳng có hy vọng gì cả. Song, người tu Ðạo nhất định cần phải có hy vọng. Ðó là hy vọng hiểu rõ mình từ đâu tới, rồi đi về đâu, muốn biết được mình từ đâu sinh ra và chết rồi thì đi về đâu. Nếu muốn biết “bản lai diện mục” của mình ra sao, thì quý vị phải không sợ khổ, sợ khó, sợ gian nan-như thế thì mới có thể phản bổn hoàn nguyên, đắc được “thân kim-cang bất hoại.”

Chúng ta làm gì trong Thiền-đường? Chính là rèn luyện “thân kim-cang bất hoại.” Một khi đã là “thân kim-cang bất hoại,” thân ta ắt hẳn chẳng còn biết khổ sở, chẳng còn biết đau đớn. Do đó nếu chúng ta cứ sợ khổ sợ đau thì không làm sao thành tựu được “thân kim-cang bất hoại.” Thân bất hoại này là do rèn luyện mà thành. Và công việc chúng ta đang làm đây chính là rèn luyện “thân kim-cang bất hoại”-rèn luyện thân này cho được kiên cố, vĩnh viễn không hư hoại.

Nghe vậy, có vị nghĩ rằng: “Tôi tu hành không phải vì cái ‘túi da thối’ này. Rèn luyện nó thành bất hoại để làm gì chứ?” Không sai! Lý luận của quý vị đúng lắm; song, “thân kim-cang bất hoại” mà tôi nói đây không phải là “túi da thối” này. Vậy thì là gì? Là “thân kim cang bất hoại” của tự-tánh, cũng là Pháp-thân và huệ-mạng, mà cũng chính là “thân kim cang bất hoại” của tự-tánh nguyên thủy thanh tịnh.

Quý vị nên nhớ: Tu Ðạo không phải là chuyện dễ. Hễ quý vị muốn tu Ðạo thì có ma tới phá. Ma này không phải chỉ từ một nơi, mà từ bốn phương tám hướng kéo tới. Có thứ là ma bịnh, có thứ là ma phiền não; lại có thiên ma, nhân ma, quỷ ma và cả yêu ma nữa. Chúng ma kéo tới từ chỗ quý vị chẳng ngờ chẳng biết, làm cho Ðạo-tâm của quý vị lung lay, khiến quý vị thối lui trên đường tu tập. Chúng dùng đủ cách để dụ dỗ, uy hiếp, đe dọa, khiến quý vị phải thối chuyển, mất Ðịnh-lực, rồi bỏ tu luôn.

Quý vị ngồi Thiền tới một trình độ kha khá thì sẽ có ma tới thử thách xem Ðạo-lực của quý vị ra sao. Có khi chúng hóa hiện làm kẻ nam hay người nữ với dáng mạo đẹp đẽ để dụ dỗ-nếu không động tâm thì quý vị vượt qua được thử thách, nếu động tâm thì quý vị sẽ đọa lạc. Ðây là điều vô cùng quan trọng, quý vị hãy nhớ cho kỹ! Hễ sẩy chân lỡ bước là ôm hận ngàn đời!

Khi cảnh giới hiện ra để thử thách kẻ tu hành, thì chúng ta cần phải xét xem cảnh giới ấy là giả hay thật. Dùng phương cách gì? Rất đơn giản: niệm “A Di Ðà Phật,” chuyên nhất không loạn, chẳng khởi vọng tưởng. Nếu cảnh giới ấy là giả thì nó sẽ từ từ biến mất. Nếu là cảnh giới thật thì càng niệm, cảnh ấy càng hiện ra rõ ràng. Ai ngồi Thiền không hiểu phương pháp này sẽ bị “tẩu hỏa nhập ma” và Ðạo-nghiệp sẽ tiêu tan. Lại có kẻ tự cho rằng mình đã nhập ma-cảnh, do đó sẽ bỏ lỡ cơ hội khai ngộ.

Lúc còn trẻ tôi có nghe nói rằng: “Tu Ðạo thì có ma.” Tôi không tin, lại còn kiêu ngạo nói: “Ma gì tôi cũng không sợ! Tôi chẳng sợ bất kỳ thứ yêu ma quỷ quái nào!” Tôi cho rằng nói như thế cũng không sao, chẳng có gì đáng e ngại. Nào ngờ chẳng bao lâu quả có ma lại phá tôi. Ma gì? Ma bịnh! Lần ấy tôi bịnh nặng, hôn mê suốt bảy, tám ngày, chẳng hay biết gì cả. Bấy giờ mới biết là công phu tu hành chưa đủ nên không vượt qua được thử thách. Yêu ma quỷ quái, thiên ma ngoại đạo, tôi đều không sợ; chỉ sợ ma bịnh-không hàng phục được nó, mà cũng không chịu đựng nổi nó. Do đó, người tu Ðạo chớ có khoe khoang, tự đắc, nói rằng mình chẳng sợ gì cả. Nếu quý vị tự mãn tự đắc thì rắc rối sẽ kéo tới ngay!

Người tu Ðạo cần phải thế nào? Cần phải khiêm nhường, cẩn thận giống như đang đi trên bờ vực sâu, hay bước trên mặt băng mỏng vậy. Lúc nào cũng phải hết sức thận trọng, đề cao cảnh giác, thì mới tu Ðạo được. Nói tóm lại, hãy “nói ít, ngồi thiền nhiều”; đó là căn bản của việc tu hành.

Người tu hành thành tựu được Ðạo-nghiệp là nhờ ai trợ giúp? Chính là ma đấy! Cũng như muốn cho lưỡi dao được bén thì phải mài, người tu hành phát huy được ánh sáng trí huệ cũng là nhờ ma lại giúp. Do đó, quý vị hãy xem ma như là hộ pháp vậy. Cho nên có câu:

Kiến sự tỉnh sự xuất thế gian
Kiến sự mê sự đọa trầm luân.

(Thấy việc, hiểu rõ: xuất thế gian,
Thấy việc, si mê: chịu đọa lạc.)

Nếu quý vị có khả năng giác ngộ, gặp cảnh liền hiểu thấu suốt, thì quý vị sẽ siêu xuất thế giới. Nếu quý vị không thể giác ngộ, gặp chuyện gì thì mê mờ chuyện ấy, ắt sẽ đọa địa ngục. Cho nên, người tu Ðạo không sợ gặp ma, chỉ sợ chẳng có Ðịnh-lực. Ma tới là giúp quý vị, thử thách quý vị, xem quý vị có công phu, có Ðịnh-lực hay không. Nếu quý vị có công phu, có Ðịnh-lực, thì bất luận là thứ ma gì đi nữa, chúng cũng không làm quý vị dao động tinh thần được.

Người tu hành lúc nào cũng phải treo mấy chữ “vấn đề sống chết” ngang mày, lúc nào cũng nghĩ cách để liễu sinh thoát tử. Quý vị nên biết rằng không có việc gì trọng yếu hơn “sinh tử sự đại?uot; cả. Nếu chuyện sinh tử chưa giải quyết, quý vị sẽ không biết vì sao mình sinh ra và chết rồi thì đi về đâu. Do đó, chưa chân chính thông suốt “vấn đề sống chết” thì cần phải nỗ lực dụng công; bằng không thì sẽ vĩnh viễn bị vòng sinh tử luân hồi ràng buộc, không sao giải thoát được.

Trên đường Ðạo, quý vị hãy nghĩ tới “vấn đề sống chết” này, xem chúng ma như là kẻ hộ pháp giúp mình tu hành. Ai chửi quý vị, đánh quý vị, chính là giúp đỡ quý vị tu hành. Ai nói thị phi về quý vị, gây khó khăn cho quý vị, cũng chính là để giúp quý vị tu hành. Nói tóm lại, khi nghịch cảnh kéo tới, quý vị cứ thuận theo nó mà nhẫn chịu. Hãy coi chúng như là những bạn bè tới để trợ giúp cho quý vị thì phiền não sẽ hết. Hễ hết phiền não thì trí huệ phát sinh. Có trí huệ chân chính thì tất cả ma quái không còn cách gì làm cho tâm quý vị dao động nữa.

Vì sao chúng ta bị cảnh giới của yêu ma làm cho dao động? Bởi vì trí huệ của chúng ta chưa viên mãn. Vì trí huệ không viên mãn nên gặp việc gì cũng sinh mê muội, không nhận thức được rõ ràng-ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đều nẩy sinh, và phiền não cũng theo đó mà trỗi dậy. Nếu quả có trí huệ, thì không có những vấn đề ấy đâu!

Tổ Sư Bồ Ðề Ðạt Ma Tới Trung Quốc 

Vào tháng chín, năm Phổ Thông thứ nhất (năm 520 sau Công-nguyên) thời Lương Võ Ðế, Ðức Tổ-sư Bồ Ðề Ðạt Ma từ Ấn Ðộ đáp thuyền sang Trung Quốc. Thuyền cập bến ở Quảng-châu, Ngài lên bờ tới Kim-lăng (Nam Kinh) cùng vua Lương Võ Ðế đàm luận. Bởi vì vua không khế-cơ, nên Ngài rời Kim-Lăng, đi lên phía Bắc về hướng Lạc-dương. Khi Ngài đi qua chỗ Pháp-sư Thần Quang giảng kinh thì thuận đường mới vào nghe. Khi Ngài phát hiện Pháp-sư Thần Quang có biện tài vô ngại, đến nỗi “trời mưa hoa xuống, đất trồi bông sen lên,” thì Ngài biết Thần Quang là một bậc Pháp-khí. Bấy giờ, Ngài Thần Quang thấy một vị sư Ấn Ðộ đến nghe kinh thì chẳng kềm được lòng ngã mạn, nên giảng kinh xong, Ngài nháy Ðức Bồ Ðề Ðạt Ma một cái.

Tổ-sư hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy đang làm gì ở đây?”

Ngài Thần Quang đáp: “Tôi giảng kinh.”

Tổ-sư hỏi: “Thầy giảng kinh gì?”

Ngài Thần Quang khó chịu, vặn lại: “Thầy từ đâu lại?”

Tổ-sư trả lời: “Tôi từ Ấn Ðộ tới.”

Ngài Thần Quang liền hỏi: “Thế ở Ấn Ðộ chẳng có giảng kinh sao?”

Tổ-sư trả lời: “Ðương nhiên là có giảng kinh, nhưng giảng toàn là ‘Vô tự chân kinh.’ ” (kinh không có chữ).

Ngài Thần Quang lại hỏi: “Thế nào là vô tự chân kinh?”

Tổ-sư đáp: “Vô tự chân kinh là kinh chỉ có giấy trắng. Kinh mà Thầy giảng thì chữ đen, giấy trắng. Vậy Thầy giảng để làm gì?”

Ngài Thần Quang nghe vậy thì có ý bực bội, bèn nói: “Ta giảng kinh để dạy người ta liễu thoát sinh tử.”

Tổ-sư hỏi: “Thầy dựa vào đâu mà dạy kẻ khác liễu thoát sinh tử? Bản thân Thầy còn chưa liễu thoát được sinh tử kia mà!”

Ngài Thần Quang nghĩ thầm: “Tên Hòa-thượng mặt đen này chắc là hóa thân của Ma vương tới đây để hủy báng Tam-bảo, mình phải thử coi pháp lực của y ra sao mới được!”

Bấy giờ, Ngài Thần Quang lấy xâu tràng hạt (chuỗi hạt làm bằng sắt, là vũ khí hàng ma) đánh mạnh vào mặt Tổ-sư. Ðức Tổ-sư không kịp phòng bị, chẳng may bị đánh trúng, gãy hai cái răng cửa. Ðức Tổ-sư (đã đắc quả thánh) nghĩ thầm: “Răng của bậc thánh mà rớt xuống đất ở nơi nào thì nơi ấy sẽ bị hạn hán ba năm.” Vì lòng từ bi thương xót chúng sinh nên Ngài liền nuốt chửng hai cái răng ấy vào bụng; thế nên mới có câu:

“Ðả lạc môn nha hoà huyết thôn.”

(Nuốt chửng răng gãy lẫn máu me).

Tổ-sư chẳng nói một lời, quay lưng đi ra khỏi chùa, rồi bước lên một cành lan để vượt qua sông Trường-giang, đến Chùa Thiếu Lâm ở núi Tung-Sơn, tỉnh Hà-nam. Tại đó, Ngài ngồi quay mặt vào vách tường suốt chín năm, quán sát Thiền-cơ.

Về phần Ngài Thần Quang, thì Ngài rất đắc ý, cho rằng mình đã thắng cuộc, không hề biết rằng Ðức Tổ-sư làm thế là vì tu hạnh Nhẫn-nhục Ba-la-mật. Sau khi Tổ-sư Ðạt Ma đi khỏi chùa, không lâu thì Quỷ Vô-thường tới và hỏi Ngài Thần Quang: “Thầy là Thần Quang phải không?”

Ngài Thần Quang đáp: “Ta là Thần Quang, có chuyện gì không?”

Quỷ Vô-thường nói: “Tôi vâng lệnh vua Diêm-la mời Thầy đến uống trà đồng thời hỏi xem Ngài đã giảng được bao nhiêu bộ kinh, tụng được bao nhiêu bộ, còn bao nhiêu bộ chưa tụng và bao nhiêu bộ chưa giảng.”

Ngài Thần Quang nghe xong thì giật mình, hồn bay lên chín tầng mây. Ngài biết là mình sắp chết nên khẩn khoản hỏi rằng: “Có ai dứt được sanh tử, tránh khỏi sự phán xét của Diêm-vương chăng?”

Quỷ Vô-thường đáp: “Thì chính là vị Hòa-thượng da đen râu rậm bị Thầy đánh gãy hai cái răng cửa đó!”

Ngài Thần Quang nghe vậy thì rất hối hận vì đã không dằn được sự nóng giận và đã xua đuổi một Thánh-nhân. Do đó Ngài xin với Quỷ Vô-thường: “Tôi có thể đi tìm vị Hòa-thượng đó để học pháp “liễu sinh thoát tử” chăng?”

Quỷ Vô-thường đồng ý: “Ðược! Nhưng Thầy phải đi nhanh rồi trở về ngay, bằng không tôi không chịu trách nhiệm đâu!”

Ngài Thần Quang liền lên đường, ngày đêm không ngừng nghỉ để đuổi theo Ðức Tổ-sư Ðạt Ma. Khi tới núi Tung-sơn, Ngài thấy Tổ-sư đang day mặt vào vách ngồi Thiền thì mừng quá, liền đến trước mặt Tổ-sư, cung kính đảnh lễ và sám hối: “Xin Thầy từ bi, tha thứ cho đệ tử thô lỗ này không biết Thầy là bậc thánh-nhân nên đã phạm thượng. Xin Thầy dạy cho con pháp tu liễu thoát sinh tử.”

Ðức Ðạt Ma ngoái đầu nhìn lại, rồi chẳng nói năng gì, cứ tiếp tục ngồi Thiền. Ngài Thần Quang liền quỳ xuống; và quỳ trong chín năm liên tiếp.

Chúng ta ngồi Thiền, ngồi chưa đến hai tiếng đồng hồ là đã đau lưng, đau gối, chịu không nổi, hoặc cứ vẩn vơ nghĩ chuyện ăn cơm, uống nước ngọt… Nói tóm lại là không sao khống chế nổi cái “tâm khỉ, ý ngựa” lúc nào cũng muốn chạy rông. Ngài Thần Quang với tinh thần “cầu Pháp quên mình” đã quỳ liên tục trong chín năm. Trong chúng ta đây, có ai có thể quỳ được chín giờ không? E rằng chẳng có một ai!

Một hôm, tuyết rơi tầm tả, ngập hơn hai thước, song Ngài Thần Quang vẫn quỳ bên cạnh Tổ-sư. Bấy giờ Tổ-sư mới ngẩng đầu lên, cảm động vì thành tâm cầu Pháp của Ngài Thần Quang nên cất tiếng hỏi: “Thầy quỳ ở đây để làm gì?”

Ngài Thần Quang đáp: “Xin Thầy từ bi truyền Pháp cho con để thoát khỏi tay Diêm Vương!”

Ðức Tổ-sư nói: “Cầu Pháp nào phải là chuyện dễ dàng như vậy! Hãy chờ đến khi trời rơi tuyết đỏ thì ta sẽ truyền Pháp cho ngươi!”

Ngài Thần Quang thầm nghĩ: “Xưa kia lúc Ðức Thích Ca tu Bồ-tát hạnh, chỉ vì cầu nửa câu kệ mà dám xả cả thân mạng…” Nghĩ đến đó thì tâm cơ của Ngài xoay chuyển. Trông thấy một cây giới đao treo trên tường, Ngài liền lấy xuống rồi chặt đứt cánh tay trái của mình. Máu phun ra như suối, làm cho tuyết trắng hóa thành đỏ. Ngài hốt một bụm tuyết đỏ ấy dâng lên trước mặt Tổ-sư Ðạt Ma để thỉnh cầu truyền Pháp.

Tổ-sư nói: “Ngươi vì Pháp mà chặt tay, thật là chân thành cầu Pháp”; rồi truyền cho Ngài Thần Quang pháp “bất lập văn tự, giáo nghĩa biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.” Ðức Tổ-sư lại đặt tên cho Ngài Thần Quang là Huệ Khả.

Ngài Huệ Khải thưa: “Tâm con không an, xin Thầy an tâm cho con.”

Ðức Tổ-sư bảo: “Ðem tâm lại đây, ta sẽ an cho.”

Ngài Huệ Khả suy nghĩ một hồi lâu rồi thưa: “Con đã tìm tâm con, song chẳng thấy được nó ở đâu cả.”

Tổ-sư liền nói: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó!”

Ngài Huệ Khả hoát nhiên đại ngộ và trở thành vị Tổ thứ hai của Thiền-tông Trung Hoa. Sau đó Ngài truyền y bát và tâm pháp lại cho Ngài Tăng Xán làm Tổ thứ ba. Ngài Tăng Xán truyền cho Ngài Ðạo Tín là Tổ thứ tư. Ngài Ðạo Tín truyền cho Ngài Hoằng Nhẫn là Tổ thứ năm. Ngài Hoằng Nhẫn truyền cho Ngài Huệ Năng là Tổ thứ sáu. Ðến đây, Thiền-tông phân làm hai phái. Ngài Thần Tú đại diện cho Bắc-phái, chủ trương “Quét sạch bụi trần, quan sát thanh tịnh,” và trở thành phái Tiệm-ngộ. Ngài có kệ rằng:

Thân thị Bồ-đề thọ,
Tâm như minh kính đài,
Thời thời thường phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.

Nghĩa là:

Thân là cây Bồ-đề,
Tâm như đài gương sáng,
Lúc nào cũng quét sạch,
Chớ để dính bụi trần.

Ngài Huệ Năng đại diện cho Nam-phái, chủ trương “Lập tức khai ngộ,” và trở thành phái Ðốn-ngộ. Ngài có kệ rằng:

Bồ-đề bổn vô thọ,
Minh kính diệc phi đài,
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?

Nghĩa là:

Bồ-đề không phải cây,
Gương sáng cũng không đài.
Xưa nay chẳng có vật,
Bụi trần bám vào đâu?

Về sau, Nam-phái lại phân làm năm tông là Quy Ngưỡng, Lâm Tế, Tào Ðộng, Vân Môn và Pháp Nhãn. Căn cứ vào bài kệ của Tổ Ðạt Ma:

Ngã bổn lai tư độ,
Truyền Pháp cứu mê tình;
Nhất hoa khai ngũ diệp,
Kết quả tự nhiên thành.

Nghĩa là:

Ta vốn đến đất này,
Truyền Pháp cứu người mê;
Một hoa nở năm cánh,
Kết quả tự nhiên thành.

thì quả nhiên đến đời Lục-tổ, Thiền-tông phân ra làm năm tông. Pháp do đó được truyền thừa từ đời này qua đời khác ở Trung Hoa. Bây giờ Pháp lại được truyền tới nước Mỹ, song không ai cần phải quỳ để cầu Pháp. Chỉ cần quý vị thành tâm tu hành, thì có thể đắc được Pháp.

(Thiền thất tháng 12 năm 1980)

Trang: 1 2 3